You are on page 1of 27

2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7 MẠNG MANET
7.1 Lịch sử phát triển và các ứng dụng
7.1.1 3.1.2. Các đặc điểm chính của mạng MANET
7.2 Vấn đề định tuyến trong mạng MANET
7.2.1 Các thuật toán định tuyến truyền thống
7.3 3.3. Các giao thức định tuyến chính trong mạng
MANET
7.3.1 Giao thức DSDV
7.3.2 3.3.2 OLSR [8]
7.3.3 AODV [12]
7.3.4 DSR [7]
7.3.5 TORA

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 1/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7 MẠNG MANET


7.1 Lịch sử phát triển và các ứng dụng
Mạng di động đặc biệt (Mobile Adhoc Netwowk) là mạng tự
cấu hình của các nút di động kết nối với nhau thông qua các liên
kết không dây tạo nên mạng độc lập không phụ thuộc vào cơ sở
hạ tầng mạng. Các thiết bị trong mạng có thể di chuyển một cách
tự do theo mọi hướng, do đó liên kết của nó với các thiết bị khác
cũng thay đổi một cách thường xuyên.
Nguyên lý làm việc của mạng Adhoc bắt nguồn từ năm 1968
khi các mạng ALOHA được thực hiện. Tuy các trạm làm việc là
cố định nhưng giao thức ALOHA đã thực hiện việc quản lý truy
cập kênh truyền dưới dạng phân tán, đây là cơ sở lý thuyết để phát
triển kỹ thuật truy cập kênh phân tán vào mạng Adhoc.
Năm 1973 tổ chức DARPA đã bắt đầu làm việc trên mạng vô
tuyến gói tin PRnet. Đây là mạng vô tuyến gói tin đa chặng đầu
tiên. Trong đó các nút hợp tác với nhau để gửi dữ liệu tới một nút
nằm ở xa khu vực kết nối thông qua một nút khác. Nó cung cấp cơ
chế cho việc quản lý hoạt động trên cơ sở tập trung và phân tán.
Một lợi điểm của làm việc đa chặng so với đơn chặng là triển
khai đa chặng tạo thuận lợi cho việc dùng lại tài nguyên kênh
truyền về cả không gian, thời gian và giảm năng lượng phát cần
thiết.
Sau đó có nhiều mạng vô tuyên gói tin phát triển nhưng các
hệ thống không dây này vẫn chưa bao giờ tới tay người dùng cho
đến khi chuẩn 802.11 ra đời. IEEE đã đổi tên mạng vô tuyến gói
tin thành mạng Adhoc.

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 2/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Ứng dụng:
Quân sự: Hoạt động phi tập trung của mạng Adhoc và không
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng mạng là một yếu tố thiết yếu đối với
lĩnh vực quân sự, nhất là trong các trường hợp chiến đấu khốc liệt,
các cơ sở hạ tầng mạng bị phá hủy. Lúc này mạng Adhoc là lựa
chọn số một để các thiết bị truyền thông liên lạc với nhau một
cách nhanh chóng.
Trường học: Chúng ta cũng có thể thiết lập các mạng Adhoc
trong trường học, lớp học, thư viện, sân trường,… để kết nối các
thiết bị di động (laptop, smartphone) lại với nhau, giúp sinh viên,
thầy cô giáo có thể trao đổi bài một cách nhanh chóng thông qua
mạng adhoc vừa tạo.
Gia đình: Tại nhà bạn có thể tạo nhanh mạng Adhoc để kết
nối các thiết bị di động của bạn với nhau, nhờ đó ta có thể di
chuyển tự do mà vẫn đảm bảo kết nối truyền tải dữ liệu.
Kết nối các thiết bị điện tử với nhau: Trong những năm tới
khi mà các thiết bị điện tử đều được gắn các giao tiếp không dây,
giúp chúng có thể trao đổi giao tiếp với nhau thì mạng Adhoc sẽ
rất phù hợp để tạo nên một hệ thống thông mình có khả năng liên
kết với nhau.
7.1.1 Các đặc điểm chính của mạng MANET
Mỗi nút di động khác nhau trong mạng MANET đều có
những đặc điểm về nguồn năng lượng, bộ phận thu phát sóng khác
nhau. Chúng có thể di chuyển về mọi hướng theo các tốc độ khác
nhau, do đó ta có thể nhận thấy rõ một số đặc điểm chính của
mạng MANET như sau:
Cấu hình mạng động: Cấu hình mạng luôn biến đổi theo các
mức độ di chuyển của nút mạng.
Khoảng cách sóng ngắn: Khoảng cách sóng của các thiết bị
di động là rất hạn chế.
Năng lượng hạn chế: Tất cả các thiết bị di động đều sử dụng
pin nên khi tham gia vào mạng MANET chúng bị hạn chế về năng
lượng, khả năng xử lý của CPU, kích thước bộ nhớ.

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 3/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Băng thông hạn chế: Các liên kết không dây có băng thông
thấp hơn so với đường truyền cáp và chúng còn chịu ảnh hưởng
của sự nhiễu, suy giảm tín hiệu, các điều kiện giao thoa vì thế mà
thường nhỏ hơn tốc độ truyền lớn nhất của sóng vô tuyến.
Bảo mật yếu: Đặc điểm của mạng MANET là truyền sóng
qua môi trường không khí, điều này khiến cho cơ chế bảo mật
kém hơn so vơi môi trường truyền cáp vì nó tiềm ẩn nhiều nguy
cơ bị tấn công, nghe lén đường truyền, giả mạo, DoS,…
7.2 Vấn đề định tuyến trong mạng MANET
7.2.1 Các thuật toán định tuyến truyền thống
Các giao thức định tuyến truyền thống thường sử dụng hai
giải thuật:
Distance Vector: RIP, IGRP,...
Nguyên tắc hoạt động: mỗi router sẻ gửi bảng định tuyến của
mình cho tất cả các router được nối trực tiếp với nó. Các router đó
so sánh với bảng bảng định tuyến mà mình hiện có và kiểm tra lại
các tuyến đường của mình với các tuyến đường mới nhận được,
tuyến đường nào tối ưu hơn sẽ được đưa vào bảng định tuyến. Các
gói tin cập nhật sẽ được gửi theo định kỳ (30 giây với RIP,90 giây
đối với IGRP) [9].
Ưu điểm:
Dễ cấu hình, router không phải xử lý nhiều nên không tốn
nhiều dung lượng bộ nhớ và CPU có tốc độ xử lý nhanh hơn.
Nhược điểm:
Hệ thống metric quá đơn giản (như Rip chỉ là hop-count) dẫn
đến việc các tuyến đường được chọn vào bảng định tuyến chưa
phải tuyến đường tốt nhất.
Vì các gói tin cập nhật được gửi theo định kỳ nên một lượng
băng thông đáng kể sẽ bị chiếm.
Do Router hội tụ chậm, dẫn đến việc sai lệch trong bảng địn
tuyến gây nên hiện tượng vòng lặp (loop).
Link state: OSPF, IS-IS

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 4/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Nguyên tắc hoạt động: Các router không gửi bảng định tuyến
của mình, mà chỉ gửi tình trạng của các đường liên kết trong cơ sở
dữ liệu trạng thái liên kết (linkstate-database) của mình đi cho
các router khác, các router sẽ áp dụng giải thuật SPF (shortest
path first), để tự xây dựng bảng định tuyến riêng cho mình. Khi
mạng đã hội tụ, các giao thức Link state sẽ không gửi cập nhật
định kỳ mà chỉ gửi khi nào có sự thay đổi trong mạng (1 đường bị
down, cần sử dụng đường dự phòng).
Ưu điểm:
Có thể thích nghi được với đa số hệ thống, cho phép người
thiết kế có thể thiết kế mạng linh hoạt, phản ứng nhanh với tình
huống xảy ra. Do không gởi cập nhật định kỳ như Distance
Vector, nên Link State bảo đảm được băng thông cho các đường
mạng.
Nhược điểm: Do router phải xử lý nhiều, nên chiếm nhiều bộ
nhớ, tốc độ CPU chậm hơn nên tăng độ trễ.
Việc sử dụng các giao thức định tuyến truyền thống trong
mạng MANET sẽ dẫn đến rất nhiều vấn đề trở ngại cần giải quyết
như:
Tiêu tốn năng lượng nguồn nuôi cho các cập nhập định kỳ
như trong giao thức định tuyến Distance Vector.
Tiêu tốn băng thông mạng cho các cập nhập định kỳ.
Làm quá tải bộ vi xử lý của thiết bị: khi các thông tin cập
nhật, số nút mạng tăng lên.
Tạo ra nhiều đường đi dư thừa
Các yêu cầu chính đối với việc định tuyến trong mạng
MANET
Các giao thức định tuyến trong mạng MANET cần đảm
bảo:
Thích ứng nhanh khi tô-pô mạng thay đổi: khi các nút mạng
di chuyển nhanh, yêu cầu kết nối tăng lên thì các giao thức hoạt
động theo cơ chế tiếp cận tập trung sẽ giảm hiệu quả rõ rệt do
phải tốn nhiều thời gian để thu thập thông tin về trạng thái hiện tại

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 5/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

và phát tán lại nó. Trong khi đó cấu hình mạng có thể đã thay đổi
khác đi rồi.
Đảm bảo hiệu quả trong môi trường truyền khi các nút đứng
yên. Lúc này tô-pô mạng là cố định không thay đổi nên các giao
thức định tuyến chỉ cần gửi các cập nhật khi có yêu cầu hoặc
mạng thay đổi như việc một nút nào đó tắt kết nối.
Không có lặp định tuyến: Cần ngăn chặn hiện tượng này, bởi
vì khi đó các gói tin bị định tuyến sai, dẫn đến việc bị truyền quay
vòng liên tục trong một số kết nối mạng, khiến cho băng thông
mạng và các tài nguyên khác như năng lượng nguồn nuôi bị tiêu
tốn vô ích.
Bảo mật: Việc định tuyến trong mạng MANET có nguy cơ bị
tấn công dễ dàng bằng các phương pháp như xâm nhập đường
truyền, phát lại, thay đổi các gói tin tiêu đề, điều hướng các thông
điệp định tuyến. Do đó khi thiết kế các giao thức định tuyến cần
phải có phương pháp để phát hiện được và ngăn chặn các loại tấn
công.
Phân loại các kỹ thuật định tuyến
Link state và Distance Vector
Thuật toán định tuyến vector khoảng cách (distance-vector
routing protocols)
Thuật toán này dùng thuật toán Bellman-Ford, trong đó chỉ
định một con số, gọi là chi phí (hay trọng số), cho mỗi một liên
kết giữa các nút trong mạng. Các nút sẽ gửi thông tin về đường đi
từ điểm A đến điểm B qua các đường truyền (kết nối) mang lại
tổng chi phí thấp nhất (là tổng các chi phí của các kết nối giữa các
nút được dùng).
Thuật toán hoạt động với những hành động rất đơn giản. Khi
một nút khởi động lần đầu, nó chỉ biết các nút kề trực tiếp với nó,
và chi phí trực tiếp để đi đến đó (thông tin này, danh sách của các
đích, tổng chi phí đến từng đích và bước kế tiếp để gửi dữ liệu đến
đó tạo nên bảng định tuyến, hay bảng khoảng cách). Mỗi nút,
trong một tiến trình, gửi đến từng “hàng xóm” tổng chi phí của nó
để đi đến các đích mà nó biết. Các nút “hàng xóm” phân tích

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 6/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

thông tin này, và so sánh với những thông tin mà chúng đang
“biết”; bất kỳ điều gì cải thiện được những thông tin chúng đang
có sẽ được đưa vào các bảng định tuyến của những “hàng xóm”
này. Đến khi kết thúc, tất cả nút trên mạng sẽ tìm ra bước truyền
kế tiếp tối ưu đến tất cả mọi đích, và tổng chi phí tốt nhất.
Khi một trong các nút gặp vấn đề, những nút khác có sử dụng
nút hỏng này trong lộ trình của mình sẽ loại bỏ những lộ trình đó,
và tạo nên thông tin mới của bảng định tuyến. Sau đó chúng
chuyển thông tin này đến tất cả nút gần kề và lặp lại quá trình
trên. Cuối cùng, tất cả nút trên mạng nhận được thông tin cập
nhật, và sau đó sẽ tìm đường đi mới đến tất cả các đích mà chúng
còn tới được.
Thuật toán định tuyến trạng thái kết nối (Link-state routing
protocols)
Khi áp dụng các thuật toán trạng thái kết nối, mỗi nút sử
dụng dữ liệu cơ sở của nó như là một bản đồ của mạng với dạng
một đồ thị. Để làm điều này, mỗi nút phát đi tới toàn mạng những
thông tin về các nút khác mà nó có thể kết nối được, và từng nút
góp thông tin một cách độc lập vào bản đồ. Sử dụng bản đồ này,
mỗi nút sau đó sẽ xác định được tuyến đường tốt nhất từ nó đến
mọi nút khác.
Thuật toán đã làm theo cách này là Dijkstra, bằng cách xây
dựng cấu trúc dữ liệu khác, dạng cây, trong đó nút hiện tại là gốc,
và chứa mọi nút khác trong mạng. Bắt đầu với một cây ban đầu
chỉ chứa chính nó. Sau đó lần lượt từ tập các nút chưa được thêm
vào cây, nó sẽ thêm nút có chi phí thấp nhất để đến một nút đã có
trên cây. Tiếp tục quá trình đến khi mọi nút đều được thêm vào
cây.
Cây này sau đó phục vụ để xây dựng bảng định tuyến, đưa ra
bước truyền kế tiếp tốt ưu, … để từ một nút đến bất kỳ nút khác
trên mạng.
So sánh các thuật toán định tuyến
Các giao thức định tuyến theo thuật toán vector khoảng cách
đơn giản và hiệu quả hơn trong các mạng nhỏ, đòi hỏi ít (nếu có)

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 7/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

sự giám sát. Tuy nhiên nhược điểm của nó là khả năng hội tụ
chậm khi mạng lớn và thay đổi, điều này dẫn đến sự phát triển của
các thuật toán trạng thái kết nối tuy phức tạp hơn nhưng tốt hơn
để dùng trong các mạng lớn.
Ưu điểm chính của định tuyến bằng trạng thái kết nối là
phản ứng nhanh nhạy hơn, và trong một khoảng thời gian có hạn,
đối với sự thay đổi kết nối. Ngoài ra, những gói được gửi qua
mạng trong định tuyến bằng trạng thái kết nối thì nhỏ hơn những
gói dùng trong định tuyến bằng vector. Định tuyến bằng vector
đòi hỏi bảng định tuyến đầy đủ phải được truyền đi, trong khi
định tuyến bằng trạng thái kết nối thì chỉ có thông tin về “hàng
xóm” của nút được truyền đi. Vì vậy, các gói này dùng tài nguyên
mạng ở mức không đáng kể. Khuyết điểm chính của định tuyến
bằng trạng thái kết nối là nó đòi hỏi nhiều sự lưu trữ và tính toán
để chạy hơn định tuyến bằng vector.
Định tuyến chủ ứng và phản ứng
Các giao thức định tuyến trong mạng MANET được người ta
phân chia thành các loại: định tuyến chủ ứng (proactive), định
tuyến phản ứng (reactive) và định tuyến lai ghép giữa hai loại
trên. Các giao thức định tuyến chủ ứng sử dụng phương pháp phát
tràn (Floading) để quảng bá thông tin tới các thiết bị. Phương
pháp này cho phép thời gian thiết lập đường nhanh dựa trên các
tham số gửi tới thiết bị sẵn sàng cho kết nối. Tuy nhiên, phương
pháp này cũng làm lưu lượng các gói tin tìm đường tăng lên rất
lớn, đây chính là nhược điểm của phương pháp này. Giao thức
định tuyến trạng thái liên kết tối ưu OLSR (Optimized Link State
Routing) và giao thức định tuyến vector khoảng cách tuần tự đích
DSDV (Dynamic Destination-Sequenced Distance-Vector
Routing) là hai ví dụ của giao thức định tuyến chủ ứng.
Các giao thức định tuyến phản ứng thiết lập tuyến dựa theo
từng yêu cầu kết nối. Phương pháp này hạn chế được chi phí tìm
đường, nhưng nhược điểm cơ bản là gây trễ lớn cho các khung
truyền dẫn đầu tiên cũng như thời gian chọn đường dẫn chậm. Hai
giao thức phản ứng điển hình là giao thức định tuyến vector
khoảng cách theo yêu cầu AODV (On-demand Distance Vector

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 8/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Routing) và giao thức định tuyến định tuyến nguồn động DSR
(Dynamic Source Routing).
Một khi xảy ra lỗi tại nút, các giao thức định tuyến thường
khôi phục đường dẫn bằng phương pháp thiết lập tuyến mới. Hầu
hết các tiếp cận hiện nay đều sử dụng thông tin phản hồi tới thiết
bị nguồn nhằm khởi tạo tuyến mới, vì vậy lưu lượng bản tin trao
đổi là rất lớn và tăng lên rất nhanh khi kích thước mạng lớn, nhất
là đối với các giao thức định tuyến chủ ứng. Khi kích thước mạng
tăng cũng đồng nghĩa với sự suy giảm hiệu năng mạng do hiện
tượng trễ của thủ tục định tuyến và truyền khung đầu tiên tăng lên
rất lớn nếu sử dụng giao thức định tuyến phản ứng.
Định tuyến nguồn và định tuyến theo chặng
Với định tuyến nguồn, toàn bộ thông tin về đường đi tới
đích được đặt trong trường tiêu đề của gói tin dữ liệu, các nút
trung gian chỉ việc chuyển tiếp gói tin theo đường trong tiêu đề.
Lợi điểm của giao thức này là loại bỏ được nhu cầu quảng bá
đường định kỳ và các gói tin khám phá (discovery) hàng xóm.
Trong định tuyến theo chặng, khi một nút nhận được gói
tin cần chuyển tới đích, nút đó chuyển tiếp gói tin theo chặng tiếp
theo hướng tới đích mà nó biết. Nút tiếp theo lại chuyển tiếp gói
tin đến đích theo những chặng mà nó biết dựa vào bảng định
tuyến của nó. Quá trình trên sẽ dừng lại khi gói tin được chuyển
tới đích. Nhược điểm của phương pháp này là tất cả các nút cần
duy trì thông tin định tuyến nên phải xử lý nhiều hơn và có khả
năng tạo thành các vòng lặp định tuyến.
7.3 Các giao thức định tuyến chính trong mạng MANET

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 9/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Hình 7: Phân loại các giao thức định tuyến trong


mạng MANET
7.3.1 Giao thức DSDV
DSDV (Destination-Sequenced Distance-Vector Routing) là
giao thức chủ ứng dựa trên dựa trên thuật toán Distance vector
được xây dựng bởi C.Perkins và P.Bhagwat năm 1994 [13]. Giao
thức này được xây dựng dựa trên tiêu chí giữ nguyên sự đơn giản
của giải thuật Bellman-Ford và loại bỏ vấn đề vòng lặp.
Truyền thông tin định tuyến: Thông tin định tuyến được gửi
quảng bá (broadcast) tới tất cả các nút hàng xóm liền kề nó.
Thông tin cập nhật được phát định kỳ hoặc ngay khi có các thay
đổi xảy ra trong mạng. Để tránh lặp định tuyến DSDV gắn số thứ
tự chẵn cho mỗi đường. Số thứ tự được gắn bởi nút đích, được gửi
đi trong gói tin cập nhập. Số thứ tự này cho thấy độ mới của mỗi
đường, đường nào có số thứ tự cao hơn được xem là tốt hơn. [10]

Hình 8: Tô-pô mạng thay đổi


Số thứ tự này sẽ tăng lên một đơn vị khi một nút phát hiện
đường đi tới đích có liên kết bị hỏng khi nó không nhận được cập
nhật định kỳ. Khi ấy trong gói tin cập nhật kế tiếp nó gửi đi sẽ
quảng bá đường tới đích này có số chặng bằng vô hạn (metric ~
∞) và tăng thứ tự đường.
Khi một nút nhận được thông tin mới về một tuyến đường,
tuyến này sẽ được chọn nếu nó có số thứ tự lớn hơn các số thứ tự
khác của cùng tuyến đó trong bảng định tuyến. Nếu nó có cùng số
thứ tự thì nó sẽ được chọn nếu có số metric tốt hơn.
Để làm giảm kích thước gói tin cập nhập, DSDV sử dụng hai
loại thông điệp cập nhật là:

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 10/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Full dump: Cập nhật đầy đủ. Thông điệp này bao gồm toàn
bộ thông tin định tuyến mà nút đó biết đến thời điểm đó.
Incremental dump: cập nhật bổ sung. Gói thông điệp này chỉ
bao gồm các thông tin về những thay đổi từ lần cập nhật đầy đủ
gần nhất.
Hai loại thông điệp cật nhật này được lưu vào hai bảng khác
nhau, một bảng để chuyển tiếp các gói tin đầy đủ, một để phát các
gói tin cập nhật. Gói tin cập nhật đầy đủ chỉ được phát thường
xuyên khi các nút thường xuyên di chuyển, khi mạng ít thay đổi,
chủ yếu chỉ có gói tin cập nhật bổ sung được gửi đi.
7.3.2 OLSR [8]
OLSR (Optimized Link State Routing Protocol) là giao thức
chủ ứng dựa trên thuật toán trạng thái kết nối (Link state). Các nút
gửi định kỳ ra toàn mạng thông điệp “Hello” để trao đổi thông tin
về hàng xóm. Thông tin này bao gồm IP của nút, số thứ tự và
danh sách các thông tin khoảng cách của các nút hàng xóm. Sau
khi cập nhật những thông tin này nút sẽ xây dựng lên bảng định
tuyến của nó và có cái nhìn tổng thể về toàn mạng. Dựa vào bảng
định tuyến này nó có thể tự tính được đường đi tới các nút khác
dựa vào thuật toán tìm đường đi ngắn nhất. Khi một nút nhận
được một gói tin trùng lặp với cùng số thứ tự nó sẽ loại bỏ gói tin
này. Trong bảng định tuyến nút lưu trữ thông tin định tuyến tới tất
cả các nút khác trong mạng. Những thông tin này chỉ được cập
nhật khi:
Khi nút nhận thấy sự thay đổi trong quan hệ hàng xóm (vd:
mất liên kết đến nút hàng xóm,…)
Tuyến đường tới các nút đích khác hết hạn (quá lâu không
được cập nhập)
Phát hiện ra đường đi mới ngắn hơn để tới đích.
Điểm khác biệt giữa OLSR và LSR (Link State Protocol) là
việc giao thức OLSR hoạt động dựa trên việc một nhóm nút mạng
cộng tác với nhau tạo nên một kíp phát chuyển tiếp đa điểm
(Multi-Point Relays - MPR). Mỗi nút N trong mạng sẽ lựa chọn ra
một tập các nút hàng xóm của nó vào kíp đa điểm MPR(N), các

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 11/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

nút thuộc kíp đa điểm này sẽ chuyển tiếp các gói tin điều khiển
được gửi từ N. Nút không thuộc kíp đa điểm của N vẫn xử lý gói
tin này nhưng sẽ không chuyển tiếp đến các nút khác.

Hình 9: Quy trình chuyển tiếp gói tin khi sử dụng kíp
đa điểm – MPR
Ưu điểm đầu tiên của việc sử dụng kíp đa điểm (MPR) là
việc làm giảm thiểu các thông điệp quảng bá phát tràn trong
mạng, giúp cho băng thông được cải thiện đáng kể. Lợi điểm thứ
hai là việc giảm được kích thước của gói tin “Hello” vì nó chỉ lưu
trữ các thông tin liên quan tới các nút trong kíp đa điểm của nó.

Hình 10: OLSR ngăn chặn vòng lặp bằng việc sử


dụng MPR để chuyển phát gói tin.
7.3.3 AODV [12]
AODV (Ad Hoc On-Demand Distance Vector) là giao thức
dựa trên thuật toán vector khoảng cách. AODV tối thiểu hoá số
bản tin quảng bá cần thiết bằng cách tạo ra các tuyến trên cơ sở
theo yêu cầu, ngược với việc duy trì một danh sách hoàn chỉnh
các tuyến như thuật toán DSDV.

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 12/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Hình 11: quá trình khám phá tuyến trong AODV


Khi một nút nguồn muốn gởi một bản tin đến một nút đích
nào đó và không biết rằng đã có một tuyến đúng đến đích đó, nó
phải khởi đầu một quá trình khám phá đường truyền. Nó phát
quảng bá một gói yêu cầu tuyến (RREQ) đến các nút lân cận. Các
nút lân cận này sau đó sẽ chuyển tiếp gói yêu cầu đến nút lân cận
khác của chúng. Quá trình cứ tiếp tục như vậy cho đến khi có một
nút trung gian nào đó xác định được một tuyến “đủ tươi” để đạt
đến đích. AODV sử dụng số thứ tự đích để đảm bảo rằng tất cả
các tuyến không lặp và chứa hầu hết thông tin tuyến hiện tại. Mỗi
nút duy trì số tuần tự của nó cùng với một ID quảng bá. ID quảng
bá được tăng lên mỗi khi nút khởi đầu một RREQ, và cùng với
địa chỉ IP của nút, xác định duy nhất một RREQ. Cùng với số
tuần tự và ID quảng bá, nút nguồn bao gồm trong RREQ hầu hết
số tuần tự hiện tại của đích mà nó có. Các nút trung gian có thể trả
lời RREQ chỉ khi nào chúng có một tuyến đến đích mà số tuần tự
đích tương ứng lớn hơn hoặc bằng số tuần tự chứa trong RREQ.
Trong suốt quá trình chuyển tiếp RREQ, các nút trung gian
ghi vào Bảng định tuyến của chúng địa chỉ của các nút lân cận từ
khi nhận được bản sao đầu tiên của gói quảng bá, theo đó thiết lập
được một đường dẫn theo thời gian. Nếu các bản sao của cùng
một RREQ được nhận sau đó, các gói này sẽ bị huỷ bỏ. Một khi
RREQ đã đạt đến đích hay một nút trung gian với tuyến “đủ tươi”,
nút đích (hoặc nút trung gian) đáp ứng lại bằng cách phát đơn
phương một gói đáp ứng tuyến (RREP) ngược về nút lân cận mà
từ đó nó thu được RREQ. Khi RREP được định tuyến ngược theo
đường dẫn, các nút trên đường dẫn đó thiết lập các thực thể tuyến
chuyển tiếp trong Bảng định tuyến của chỉ nút mà nó nhận được
RREP. Các thực thể tuyến chuyển tiếp này chỉ thị tuyến chuyển
tiếp tích cực. Cùng với mỗi thực thể tuyến là một bộ định thời

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 13/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

tuyến có nhiệm vụ xoá các thực thể nếu nó không được sử dụng
trong một thời hạn xác định. Do một RREP chuyển tiếp trên
đường dẫn được thiết lập bởi một RREQ nên AODV chỉ hỗ trợ
việc sử dụng đường truyền đối xứng.
Trong AODV, các tuyến đươc duy trì điều kiện như sau: Nếu
một nút nguồn chuyển động, nó phải khởi động lại giao thức
khám phá tuyến để tìm ra một tuyến mới đến đích. Nếu một nút
trên tuyến chuyển động, nút lân cận luồng lên của nó chú ý đến
chuyển động đó và truyền một bản tin “Khai báo sự cố đường
thông” (một RREP không xác định) đến mỗi nút lân cận tích cực
luồng lên để thông báo cho các nút này xoá phần tuyến đó. Các
nút này thực chất truyền một “Thông báo sự cố đường thông” đến
các nút lân cận luồng lên. Quá trình cứ tiếp tục như vậy cho đến
khi đạt đến nút nguồn. Nút nguồn sau đó có thể chọn khởi động
lại một quá trình khám phá tuyến cho đích đó nếu một tuyến vẫn
cần thiết [4].
Ngoài ra, giao thức này sử dụng bản tin HELLO được phát
quảng bá định kỳ bởi một nút để thông báo cho tất cả các nút khác
về những nút lân cận của nó. Các bản tin HELLO có thể được sử
dụng để duy trì khả năng kết nối cục bộ của một nút. Tuy nhiên,
việc sử dụng bản tin HELLO là không cần thiết. Các nút lắng
nghe việc truyền lại gói dữ liệu để đảm bảo rằng vẫn đạt đến
chặng kế tiếp. Nếu không nghe được việc truyền lại như thế, nút
có thể sử dụng một trong số các kỹ thuật, kể cả việc tiếp nhận bản
tin HELLO. Các bản tin HELLO có thể liệt kê các nút khác mà từ
đó nút di động đã nghe tin báo, do đó tạo ra khả năng liên kết lớn
hơn cho mạng.
7.3.4 DSR [7]
Giao thức DSR (Dynamic Source Routing) là một giao thức
định tuyến phản ứng từ nút nguồn. Trong đó, các nút di động cần
duy trì bộ nhớ đệm về tuyến chứa các nút nguồn mà nút di động
nhận biết được. Các thực thể trong bộ nhớ đệm về tuyến được cập
nhật liên tục.

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 14/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Hình 12: Định tuyến nguồn động (DSR)


Giao thức này bao gồm 2 giai đoạn chính: a) Khám phá tuyến
và b) Duy trì tuyến. Khi một nút di động gởi một gói đến một nút
đích nào đó, trước hết nó phải tham vấn bộ nhớ đệm tuyến để xác
định là nó đã có một tuyến để đến đích chưa. Nếu nó có một tuyến
chưa hết hiệu lực để đến đích, nó sẽ sử dụng tuyến này để gởi gói
đi. Trái lại, nếu không có một tuyến như thế, nó phải khởi đầu một
quá trình khám phá tuyến bằng cách phát quảng bá một gói yêu
cầu tuyến. Bản tin yêu cầu này chứa địa chỉ đích, cùng với địa chỉ
nút nguồn và số nhận dạng duy nhất. Mỗi nút nhận được gói này
sẽ tiến hành kiểm tra là nó có biết một tuyến nào để đến đích
không. Nếu không, nó thêm địa chỉ của nó vào Bảng ghi định
tuyến của gói và sau đó chuyển tiếp gói trên các đường truyền ngõ
ra. Để giới hạn số yêu cầu tuyến phát trên các đường truyền ngõ
ra của nút, một nút chỉ chuyển tiếp yêu cầu tuyến nếu nó chưa biết
yêu cầu đó và nếu địa chỉ của nút di động chưa xuất hiện trong
Bảng ghi tuyến. Một đáp ứng tuyến được tạo ra khi hoặc là yêu
cầu tuyến đạt đến đích hoặc là khi nó đạt đến một nút trung gian
chứa trong bộ nhớ đệm tuyến của nó một tuyến đến đích chưa hết
hiệu lực. Đến lúc gói có thể đạt đến đích hay đến một nút trung

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 15/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

gian như thế, nó chứa một Bảng ghi tuyến cho biết số tuần tự
chặng đã trải qua.
Nếu nút tạo ra đáp ứng tuyến là đích thì nó đặt Bảng ghi
tuyến chứa trong yêu cầu tuyến vào đáp ứng tuyến. Nếu nút tương
ứng là một nút trung gian, nó gắn thêm tuyến trong bộ nhớ đệm
của nó vào Bảng ghi tuyến và sau đó tạo ra một đáp ứng tuyến. Để
trả về đáp ứng tuyến, nút tương ứng phải có một tuyến để khởi
đầu. Nếu nó có một tuyến để khởi đầu trong bộ nhớ đệm tuyến
của nó, nó có thể sử dụng tuyến đó. Trái lại, nếu các đường truyền
đối xứng được hỗ trợ, nút có thể khởi đầu một quá trình khám phá
tuyến của nó và tiếp tục gởi đi đáp ứng tuyến trên một yêu cầu
tuyến mới.
Việc duy trì tuyến được hoàn thành thông qua sử dụng các
gói lỗi tuyến và các bản tin xác nhận. Các gói lỗi tuyến được tạo
ra ở một nút khi lớp liên kết dữ liệu gặp sự cố đường truyền. Nút
nguồn luôn luôn bị dừng khi một tuyến bị cắt đứt (có một liên kết
trên tuyến bị lỗi). Khi nhận được một gói lỗi tuyến, chặng bị lỗi sẽ
bị loại bỏ khỏi bộ nhớ đệm tuyến của nút và tất cả các tuyến chứa
chặng này đều bị cắt ở điểm đó. Ngoài các bản tin lỗi tuyến, các
bản tin xác nhận được sử dụng để xác minh sự hoạt động chính
xác của các đường thông tuyến. Các bản tin xác nhận như thế bao
gồm cả xác nhận thụ động (khi nút di động có thể nghe việc
chuyển tiếp gói ở chặng kế tiếp trên tuyến).
7.3.5 TORA
TORA (Temporally Ordered Routing Algorithm) là một thuật
toán định tuyến phân bố không có vòng lặp và độ thích nghi cao,
dựa trên khái niệm đảo ngược đường thông. TORA được đề xuất
cho môi trường nối mạng có tính linh động cao. Nó là một giao
thức khởi phát từ nguồn và cung cấp đa tuyến cho mọi cặp nút
nguồn/đích cần thiết. Nguyên lý chủ đạo trong TORA là định vị
các bản tin điều khiển đối với mọi tập hợp các nút gần với nơi xảy
ra sự thay đổi topo mạng. Để thực hiện được điều này, các nút cần
duy trì thông tin định tuyến về các nút kế cận (chỉ một chặng).
Giao thức này thực hiện 3 chức năng cơ bản: Tạo tuyến, Duy trì
tuyến, và Xoá tuyến.

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 16/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

Trong suốt giai đoạn tạo ra và duy trì tuyến, các nút sử dụng
một tham số “độ cao” để thiết lập một DAG (sơ đồ hình xoắn ốc)
có gốc ở nút đích. Sau đó, các đường truyền được chỉ định một
hướng (luồng lên hay luồng xuống) dựa trên tham số độ cao tương
đối của các nút lân cận. Quá trình thiết lập DAG tương tự như quá
trình vấn tin/đáp ứng trong LMR (Light-Weight Moblie Routing -
Định tuyến di động trọng số thấp).
Trong thời gian một nút di chuyển, tuyến DAG bị phá vỡ và
việc duy trì tuyến cần để thiết lập lại một DAG có gốc ở cùng
đích đó. Khi đường thông luồng xuống cuối cùng bị sự cố thì một
nút tạo ra một mức tham chiếu mới dựa vào mức tham chiếu của
các nút lân cận, phối hợp hoạt động có hiệu quả để phản ứng lại
sự cố đó một cách có cấu trúc. Các đường thông được đảo ngược
để phản ánh những thay đổi trong việc thích nghi với mức tham
chiếu mới. Việc này có hiệu quả giống như sự đảo hướng của một
hay nhiều đường thông khi một nút không có các đường thông
luồng xuống. Việc định thời là một yếu tố quan trọng đối với
TORA do tham số “độ cao” độc lập với thời gian sự cố đường
thông; TORA giả sử rằng tất cả các nút đều có đồng hồ đồng bộ
(thực thi qua một nguồn thời gian bên ngoài như hệ thống định vị
toàn cầu - GPS).
Các tham số của TORA gồm: a) Thời gian sự cố đường
thông, b) ID duy nhất của nút xác định mức tham chiếu mới, c)
Bit chỉ thị phản ánh, d) Tham số thứ tự truyền, và e) ID duy nhất
của nút. Tham số thứ 3 thể hiện mức tham chiếu một cách có chọn
lọc. Một mức tham chiếu mới được xác định mỗi khi một nút
không còn đường thông luồng xuống cuối cùng do sự cố đường
thông. Giai đoạn xoá tuyến của TORA bao gồm một bản tin quảng
bá “Xoá tuyến” (CLR) trong toàn mạng để xoá các tuyến không
còn hiệu lực nữa.
Trong TORA có một sự biến động tiềm tàng xảy ra, đặc biệt
khi nhiều tập hợp các nút đang liên kết là phần hiện đang bị xoá,
các tuyến đang xoá, và các tuyến đang xây dựng mới. Do TORA
sử dụng toà độ liên nút nên bài toán bất cân bằng của nó tương tự
như bài toán tính đến vô cùng trong các giao thức định tuyến theo

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 17/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

vector cự ly, ngoại trừ các biến động là tạm thời và sự hội tụ tuyến
cuối cùng vẫn đạt được.

1.1 Tổng quan về mạng cảm biến không dây


1.1.1 Giới thiệu
Mạng cảm biến không dây (Wireless Sensor Network) bao
gồm một tập hợp các thiết bị cảm biến sử dụng các liên kết không
dây (vô tuyến, hồng ngoại hoặc quang học) để phối hợp thực hiện
nhiệm vụ thu thập thông tin dữ liệu phân tán với quy mô lớn trong
bất kỳ điều kiện và ở bất kỳ vùng địa lý nào. Mạng cảm biến
không dây có thể liên kết trực tiếp với nút quản lý giám sát trực
tiếp hay gián tiếp thông qua một điểm thu phát (Sink) và môi
trường mạng công cộng như Internet hay vệ tinh. Các nút cảm
biến không dây có thể được triển khai cho các mục đích chuyên
dụng như điều khiển giám sát và an ninh; kiểm tra môi trường; tạo
ra không gian sống thông minh; khảo sát đánh giá chính xác trong
nông nghiệp; trong lĩnh vực y tế; ... Lợi thế chủ yếu của chúng là
khả năng triển khai hầu như trong bất kì loại hình địa lý nào kể cả
các môi trường nguy hiểm không thể sử dụng mạng cảm biến có
dây truyền thống.
Các thiết bị cảm biến không dây liên kết thành một mạng đã tạo ra
nhiều khả năng mới cho con người. Các đầu đo với bộ vi xử lý và
các thiết bị vô tuyến rất nhỏ gọn tạo nên một thiết bị cảm biến
không dây có kích thước rất nhỏ, tiết kiệm về không gian. Chúng
có thể hoạt động trong môi trường dày đặc với khả năng xử lý tốc
độ cao. Ngày nay, các mạng cảm biến không dây được ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực như nghiên cứu vi sinh vật biển, giám sát
việc chuyên chở các chất gây ô nhiễm, kiểm tra giám sát hệ sinh
thái và môi trường sinh vật phức tạp, điều khiển giám sát trong
công nghiệp và trong lĩnh vực quân sự, an ninh quốc phòng hay
các ứng dụng trong đời sống hàng ngày.
1.1.2 CẤU TRÚC CỦA MẠNG CẢM BIẾN KHÔNG DÂY
Một mạng cảm biến không dây bao gồm số lượng lớn các nút
được triển khai dầy đặc bên trong hoặc ở rất gần đối tượng cần

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 18/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

thăm dò, thu thập thông tin dữ liệu. Vị trí các cảm biến không cần
định trước vì vậy nó cho phép triển khai ngẫu nhiên trong các
vùng không thể tiếp cận hoặc các khu vực nguy hiểm. Khả năng
tự tổ chức mạng và cộng tác làm việc của các cảm biến không dây
là những đặc trưng rất cơ bản của mạng này. Với số lượng lớn các
cảm biến không dây được triển khai gần nhau thì truyền thông đa
liên kết được lựa chọn để công suất tiêu thụ là nhỏ nhất (so với
truyền thông đơn liên kết) và mang lại hiệu quả truyền tín hiệu tốt
hơn so với truyền khoảng cách xa.
Cấu trúc cơ bản của
mạng cảm biến
không dây được thể
hiện trên hình 1. Các
nút cảm biến được
triển khai trong một
trường cảm biến
(sensor field). Mỗi
nút cảm biến được Hình 1: Cấu trúc cơ bản của mạng cảm
phát tán trong mạng biến không dây
có khả năng thu thập
thông số liệu, định tuyến số liệu về bộ thu nhận (Sink) để chuyển
tới người dùng (User) và định tuyến các bản tin mang theo yêu
cầu từ nút Sink đến các nút cảm biến. Số liệu được định tuyến về
phía bộ thu nhận (Sink) theo cấu trúc đa liên kết không có cơ sở
hạ tầng nền tảng (Multihop Infrastructureless Architecture), tức là
không có các trạm thu phát gốc hay các trung tâm điều khiển. Bộ
thu nhận có thể liên lạc trực tiếp với trạm điều hành (Task
Manager Node) của người dùng hoặc gián tiếp thông qua Internet
hay vệ tinh (Satellite).
Mỗi nút cảm biến bao gồm bốn thành phần cơ bản là: bộ cảm
biến, bộ xử lý, bộ thu phát không dây và nguồn điện. Tuỳ theo
ứng dụng cụ thể, nút cảm biến còn có thể có các thành phần bổ
sung như hệ thống tìm vị trí, bộ sinh năng lượng và thiết bị di
động. Các thành phần trong một nút cảm biến được thể hiện trên
hình 2. Bộ cảm biến thường gồm hai đơn vị thành phần là đầu đo
cảm biến (Sensor) và bộ chuyển đổi tương tự/số (ADC). Các tín

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 19/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

hiệu tương tự được thu nhận từ đầu đo, sau đó được chuyển sang
tín hiệu số bằng bộ chuyển đổi ADC, rồi mới được đưa tới bộ xử
lý. Bộ xử lý, thường kết hợp với một bộ nhớ nhỏ, phân tích thông
tin cảm biến và quản lý các thủ tục cộng tác với các nút khác để
phối hợp thực hiện nhiệm vụ. Bộ thu phát đảm bảo thông tin giữa
nút cảm biến và mạng bằng kết nối không dây, có thể là vô tuyến,
hồng ngoại hoặc bằng tín hiệu quang. Một thành phần quan trọng
của nút cảm biến là bộ nguồn. Bộ nguồn, có thể là pin hoặc ắcquy,
cung cấp năng lượng cho nút cảm biến và không thay thế được
nên nguồn năng lượng của nút thường là giới hạn. Bộ nguồn có
thể được hỗ trợ bởi các thiết bị sinh điện, ví dụ như các tấm pin
mặt trời nhỏ.
Hầu hết các công nghệ định tuyến trong mạng cảm biến và các
nhiệm vụ cảm biến yêu cầu phải có sự nhận biết về vị trí với độ
chính xác cao. Do đó, các nút cảm biến thường phải có hệ thống
tìm vị trí. Các thiết bị di động đôi khi cũng cần thiết để di chuyển
các nút cảm biến theo yêu cầu để đảm bảo các nhiệm

vụ được phân công.


1.1.3 ĐẶC ĐIỂM Hình 2: Các thành phần của nút cảm biến
CỦA MẠNG
CẢM BIẾN KHÔNG DÂY
Kích thước vật lý nhỏ gọn
Kích thước và công suất tiêu thụ luôn chi phối khả năng
xử lý, lưu trữ và tương tác của các thiết bị cơ sở. Việc
thiết kế các phần cứng cho mạng cảm biến phải chú
trọng đến giảm kích cỡ và công suất tiêu thụ với yêu cầu
nhất định về khả năng hoạt động. Việc sử dụng phần

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 20/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

mềm phải tạo ra các hiệu quả để bù lại các hạn chế của
phần cứng.

Hoạt động đồng thời với độ tập trung cao

Hoạt động chính của các thiết bị trong mạng cảm biến là đo lường
và vận chuyển các dòng thông tin với khối lượng xử lý thấp, gồm
các hoạt động nhận lệnh, dừng, phân tích và đáp ứng. Vì dung
lượng bộ nhớ trong nhỏ nên cần tính toán rất kỹ về khối lượng
công việc cần xử lý và các sự kiện mức thấp xen vào hoạt động xử
lý mức cao. Một số hoạt động xử lý mức cao sẽ khá lâu và khó
đáp ứng tính năng thời gian thực. Do đó, các nút mạng phải thực
hiện nhiều công việc đồng thời và cần phải có sự tập trung xử lý
cao độ.

Khả năng liên kết vật lý và phân cấp điều khiển hạn chế

Tính năng điều khiển ở các nút cảm biến không dây cũng như sự
tinh vi của liên kết xử lý - lưu trữ - chuyển mạch trong mạng cảm
biến không dây thấp hơn nhiều trong các hệ thống thông thường.
Điển hình, bộ cảm biến hay bộ chấp hành (actuator) cung cấp một
giao diện đơn giản trực tiếp tới một bộ vi điều khiển chip đơn
(đảm bảo tiêu thụ điện thấp nhất). Ngược lại, các hệ thống thông
thường, với các hoạt động xử lý phân tán, đồng thời kết hợp với
một loạt các thiết bị trên nhiều mức điều khiển được liên hệ bởi
một cấu trúc bus phức tạp.

Tính đa dạng trong thiết kế và sử dụng

Các thiết bị cảm biến được nối mạng có khuynh hướng dành riêng
cho ứng dụng cụ thể, tức là mỗi loại phần cứng chỉ hỗ trợ riêng
cho ứng dụng của nó. Vì có một phạm vi ứng dụng cảm biến rất
rộng nên cũng có thể có rất nhiều kiểu thiết bị vật lý khác nhau.
Với mỗi thiết bị riêng, điều quan trọng là phải dễ dàng tập hợp
phần mềm để có được ứng dụng từ phần cứng. Như vậy, các loại

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 21/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

thiết bị này cần một sự điều chỉnh phần mềm ở một mức độ nào
đó để có được hiệu quả sử dụng phần cứng cao. Môi trường phát
triển chung là cần thiết để cho phép các ứng dụng riêng có thể xây
dựng trên một tập các thiết bị mà không cần giao diện phức tạp.
Ngoài ra, cũng có thể chuyển đổi giữa phạm vi phần cứng với
phần mềm trong khả năng công nghệ.

Hoạt động tin cậy

Các thiết bị có số lượng lớn, được triển khai trong phạm vi rộng
với một ứng dụng cụ thể. Việc áp dụng các kỹ thuật mã hóa sửa
lỗi truyền thống nhằm tăng độ tin cậy của các đơn vị riêng lẻ bị
giới hạn bởi kích thước cảm biến và công suất. Việc tăng độ tin
cậy của các thiết bị lẻ là điều cốt yếu. Thêm vào đó, chúng ta có
thể tăng độ tin cậy của ứng dụng bằng khả năng chấp nhận và
khắc phục được sự hỏng hóc của thiết bị đơn lẻ. Như vậy, hệ
thống hoạt động trên từng nút đơn không những mạnh mẽ mà còn
dễ dàng phát triển các ứng dụng phân tán tin cậy.

Kiến trúc và giao thức của mạng cảm biến không dây

Kiến trúc giao thức được sử dụng trong bộ thu nhận (Sink) và tất
cả các nút cảm biến được thể hiện trên hình 3. Kiến trúc giao thức
này phối hợp các tính toán về định tuyến và năng lượng, kết hợp
số liệu với các giao thức mạng, truyền tin với hiệu quả về năng
lượng thông qua môi trường không dây và tăng cường sự hợp tác
giữa các nút cảm biến. Kiến trúc giao thức bao gồm lớp ứng dụng
(Application Layer), lớp giao vận (Transport Layer), lớp mạng
(Network Layer), lớp liên kết số liệu (Datalink Layer), lớp vật lý
(Physical Layer), mặt bằng quản lý năng lượng (Power
Management Plane), mặt bằng quản lý di động (Mobility
Management Plane) và mặt bằng quản lý nhiệm vụ (Task
Management Plane).
Tuỳ theo nhiệm vụ của cảm biến, các kiểu phần mềm ứng dụng có
thể được xây dựng và sử dụng trên lớp ứng dụng. Lớp giao vận

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 22/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

giúp duy trì dòng số liệu khi


các ứng dụng của mạng cảm
biến yêu cầu. Lớp mạng tập
trung vào việc định tuyến số
liệu được cung cấp bởi lớp
giao vận. Do môi trường có
nhiễu và các nút cảm biến có
thể di động được, giao thức
MAC phải được tính toán về
năng lượng và tối thiểu hóa
va chạm trong việc phát
quảng bá với các nút lân
cận. Lớp vật lý sử dụng các Hình 3: Kiến trúc giao thức mạng
kỹ thuật điều chế, truyền và cảm biến không dây
nhận cần thiết đơn giản
nhưng mạnh mẽ. Thêm vào đó, các mặt bằng quản lý năng lượng,
di động và nhiệm vụ điều khiển sự phân phối năng lượng, phối
hợp di chuyển và nhiệm vụ giữa các nút cảm biến. Các mặt bằng
này giúp cho các nút cảm biến có thể phối hợp trong nhiệm vụ
cảm biến và giảm được tổng năng lượng tiêu thụ.
Mặt bằng quản lý năng lượng quản lý việc một nút cảm biến sử
dụng năng lượng của nó như thế nào. Ví dụ, nút cảm biến có thể
tắt bộ phận nhận sau khi nhận một bản tin từ một trong các nút lân
cận. Điều này có thể tránh được việc nhận bản tin tới hai lần.
Ngoài ra, khi mức năng lượng của nút cảm biến thấp, nút cảm
biến sẽ thông báo tới tất cả các nút lân cận rằng mức năng lượng
thấp của nó đã thấp nên nó không thể tham gia vào việc định
tuyến cho các bản tin. Năng lượng còn lại được dự trữ cho việc
cảm biến. Mặt bằng quản lý di động dò tìm và ghi lại chuyển động
của nút cảm biến, vì thế một tuyến đường hướng tới nút user luôn
được duy trì và các nút cảm biến có thể theo dõi được các nút cảm
biến lân cận. Với việc nhận biết được các nút cảm biến lân cận,
nút cảm biến có thể cân bằng giữa nhiệm vụ và năng lượng sử
dụng. Mặt bằng quản lý nhiệm vụ cân bằng và sắp xếp nhiệm vụ
cảm biến cho một vùng cụ thể. Không phải tất cả các cảm biến
trong vùng đó được yêu cầu thực nhiệm vụ cảm nhận tại cùng một
thời điểm. Kết quả là một vài nút cảm biến thực hiện nhiệm vụ

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 23/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

nhiều hơn các nút khác tuỳ theo mức năng lượng của chúng.
Những mặt quản lý này rất cần thiết, như vậy, các nút cảm biến có
thể làm việc cùng với nhau để có hiệu quả về mặt năng lượng, có
thể định tuyến số liệu trong một mạng cảm biến di động và chia sẻ
tài nguyên giữa các nút cảm biến. Nếu không, mỗi nút cảm biến
sẽ chỉ làm việc một cách đơn lẻ. Xuất phát quan điểm xem xét
trong toàn mạng cảm biến, sẽ hiệu quả hơn nếu các nút cảm biến
có thể hoạt động hợp tác với nhau, như thế cũng có thể kéo dài
tuổi thọ của mạng.
1.2 ỨNG DỤNG CỦA MẠNG CẢM BIẾN KHÔNG
DÂY
1.2.1 Giám sát và điều khiển công nghiệp
Đặc thù của giám sát và điều khiển công nghiệp là môi trường
nhiễu lớn, không đòi hỏi lượng lớn dữ liệu thông tin được truyền
tải nhưng yêu cầu rất cao về độ tin cậy và đáp ứng thời gian thực.
Mạng cảm biến không dây được ứng dụng trong linh vực này chủ
yêu phục vụ việc thu thập thông tin, giám sát trạng thái hoạt động
của hệ thống, như trạng thái các van, trạng thái thiết bị, nhiệt độ
và áp suất của nguyên liệu được lưu trữ, … Ngoài ra, trong một số
ứng dụng điều khiển trên diện rộng thì mạng cảm biến không dây
cũng thể hiện nhiều tính năng vượt trội. Đó là hệ thống điều khiển
không dây ánh sáng quảng cáo. Rất nhiều chi phí trong quá trình
cài đặt các bóng đèn trong một toà nhà lớn (các chuyển mạch có
dây, các bóng đèn được bật/tắt cùng nhau, điều khiển bóng đèn,
…). Một hệ thống không dây có tính mềm dẻo có thể tận dụng
một bộ điều khiển từ xa có thể được lập trình để điều khiển một số
lượng các bóng đèn trong một theo nhiều cách khác nhau gần như
vô hạn, trong khi vẫn cung cấp mức độ an ninh được yêu cầu bởi
một bộ phận lắp đặt quảng cáo. Hay việc sử dụng các mạng cảm
biến không dây trong các ứng dụng an toàn công nghiệp. Các
mạng cảm biến không dây có thể tận dụng các cảm biến để phát
hiện sự hiện diện của các chất độc hại hoặc các vật liệu nguy
hiểm, cung cấp quá trình phát hiện và nhận dạng sớm các khe hở
hoặc phát hiện tràn các tác nhân hoá học hoặc sinh học trước khi
thiệt hại nghiêm trọng có xảy ra (và trước khi các chất vượt ra
ngoài vùng kiểm soát). Bởi vì mạng không dây có thể sử dụng các

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 24/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

thuật toán định tuyến phân tán, có nhiều đường định tuyến, và có
thể tự chữa trị và tự duy trì, chúng có thể co giãn trong mặt ngoài
của quá trình bùng nổ hoặc các thiệt hại khác đến máy công
nghiệp, cung cấp các thẩm quyền với thông tin trạng thái máy
quyết định dưới các điều kiện rất khó. Trong một ứng dụng khác,
đó là quá trình giám sát và điều khiển cơ cấu quay hoặc chuyển
động trong không gian là một lĩnh vực khá phù hợp với các mạng
cảm biến không dây (máy bay, vật thể bay …). Với ứng dụng
khác trong lĩnh vực này của các mạng cảm biến không dây là hệ
thống nồi hơi, thông hơi và điều hòa không khí (HVAC) của các
toà nhà. Một hệ thống HVAC được trang bị với các bộ ổn nhiệt và
chống rung không dây sẽ mang lại hiệu quả bảo vệ con người tốt
hơn nếu cũng hệ thống HVAC đấy mà chỉ được trang bị một bộ ổn
nhiệt đơn có dây.
1.2.2 Tự động hoá gia đình và điện dân dụng
Gia đình là không gian ứng dụng rất lớn cho các mạng cảm
biến không dây. SmartHome là thuật ngữ để chỉ một ngôi nhà
thông minh với sự ứng dụng toàn diện của các thiết bị cảm biến
không dây. Một ứng dụng được điều khiển chung từ xa, một PDA
có thể điều khiển TV, máy nghe DVD, dàn âm thanh nổi và các
thiết bị điện tử gia đình khác hay các bóng đèn, các cánh cửa, và
các ổ khoá cũng được trang bị với kết nối mạng cảm biến không
dây. Với điều khiển chung từ xa, một bộ có thể điều khiển ngôi
nhà từ tiện ích trên ghế. Tuy nhiên, khả năng hấp dẫn nhất đến từ
sự kết hợp nhiều dịch vụ, giống như các cánh cửa tự động đóng
khi TV được bật, hoặc có thể tự động ngưng hệ thống giải trí gia
đình khi một cuộc được nhận trên máy điện thoại hoặc chuông
cửa kêu. Mục đích lớn của các mạng cảm biến không dây trong
gia đình được mong chờ là mức tiêu thụ điện thấp là điều kiện
thiết yếu của các mạng cảm biến không dây. Ứng dụng khác trong
gia đình là việc hỗ trợ các dịch vụ gia đình trên ôtô. Với các mạng
cảm biến không dây, ổ khoá không dây, các cảm biến cửa ra vào
và cửa sổ, và các bộ điều khiển bóng đèn không dây, chủ nhà có
một thiết bị tương tự như một key-fob với một nút bấm. Khi bấm
nút, thiết bị khoá tất cả các cửa ra vào và cửa sổ trong nhà, tắt hầu
hết các bóng đèn trong nhà (trừ một vài bóng đèn ngủ), bật các

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 25/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

bóng đèn an toàn ngoài nhà, và thiết lập hệ thống HVAC đến chế
độ ngủ. Người sử dụng nhận một tiếng beep một lần hồi đáp thể
hiện tất cả đã thực hiện thành công, và nghỉ ngơi hoàn toàn, như
vậy ngôi nhà an toàn. Khi một cánh cửa hỏng không thể mở, hoặc
vấn đề tồn tại, một màn hình hiển thị trên thiết bị chỉ thị nơi bị
hỏng.
1.2.3 Triển vọng của mạng cảm biến không dây trong quân sự
Các mạng cảm biến không dây là một phần không thể thiếu
trong các ứng dụng quân sự ngày nay với các hệ thống mệnh lệnh,
điều khiển, thu thập tin tức tình báo truyền thông, tính toán, theo
dõi kẻ tình nghi, trinh sát và tìm mục tiêu. Các đặc tính triển khai
nhanh chóng, tự tổ chức và khả năng chịu đựng lỗi của các mạng
cảm biến cho thấy đây là một công nghệ đầy triển vọng trong lĩnh
vực quân sự. Vì các mạng cảm biến dựa trên cơ sở triển khai dày
đặc với các nút giá rẻ và chỉ dùng một lần, việc bị địch phá huỷ
một số nút không ảnh hưởng tới hoạt động chung như các cảm
biến truyền thống nên chúng tiếp cận chiến trường tốt hơn. Một số
ứng dụng của mạng cảm biến là: kiểm tra lực lượng, trang bị, đạn
dược, giám sát chiến trường, trinh sát vùng và lực lượng địch, tìm
mục tiêu, đánh giá thiệt hại trận đánh, trinh sát và phát hiện các vũ
khí hóa học - sinh học - hạt nhân.
1.2.4 Mạng cảm biến không dây trong y tế và giám sát sức
khoẻ
Một số ứng dụng trong y tế của mạng cảm biến không dây là
cung cấp khả năng giao tiếp cho người khuyết tật; kiểm tra tình
trạng của bệnh nhân; chẩn đoán; quản lý dược phẩm trong bệnh
viện; kiểm tra sự di chuyển và các cơ chế sinh học bên trong của
côn trùng và các loài sinh vật nhỏ khác; kiểm tra từ xa các số liệu
về sinh lý con người; giám sát, kiểm tra các bác sĩ và bệnh nhân
bên trong bệnh viện.
1.2.5 Mạng cảm biến không dây với môi trường và ngành
nông nghiệp
Một số các ứng dụng về môi trường của mạng cảm biến
không dây bao gồm theo dõi sự di chuyển của các loài chim, loài
thú nhỏ, côn trùng; kiểm tra các điều kiện môi trường ảnh hưởng

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 26/27
2/11/23, 8:56 AM Mô hình hóa hình học NURBS

tới mùa màng và vật nuôi; tình trạng nước tưới; các công cụ vĩ mô
cho việc giám sát mặt đất ở phạm vi rộng và thám hiểm các hành
tinh; phát hiện hóa học, sinh học; tính toán trong nông nghiệp;
kiểm tra môi trường không khí, đất trồng, biển; phát hiện cháy
rừng; nghiên cứu khí tượng và địa lý; phát hiện lũ lụt; vẽ bản đồ
sinh học phức tạp của môi trường và nghiên cứu ô nhiễm môi
trường. Các ứng dụng của các mạng cảm biến không dây cũng
được sử dụng trên các trang trại chăn nuôi. Người chăn nuôi có
thể sử dụng các mạng cảm biến trong quá trình quyết định vị trí
của động vật trong trang trại và với các cảm biến được gắn theo
mỗi động vật, xác định yêu cầu cho các phương pháp điều trị để
phòng chống các động vật ký sinh. Người chăn nuôi lợn hoặc gà
có các đàn trong các chuồng nuôi mát, thoáng khí. Mạng cảm
biến không dây có thể được sử dụng cho việc giám sát nhiệt độ
khắp chuồng nuôi, đảm bảo an toàn cho đàn.
1.3 KẾT LUẬN
Các mạng cảm biến không dây với chi phí đầu tư thấp, tiêu
thụ ít điện năng, cho phép triển khai trong nhiều điều kiện địa
hình khí hậu phức tạp, đặc biệt là khả năng tự tổ chức mạng, khả
năng xử lý cộng tác và chịu được các hư hỏng sự cố đã tạo ra một
triển vọng ứng dụng đầy tiềm năng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Mạng cảm biến không dây phục vụ đa dạng các mục tiêu
không chỉ thu thập thông tin dữ liệu mà còn điều khiển và giám
sát hệ thống trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên để triển khai mạng
cảm biến không dây, người thiết kế hệ thống cần phải nắm bắt
được những nhân tố tác động đến mạng, những nhược điểm của
mạng cần phải được khắc phục, cần quan tâm đến các tham số
mạng, … cần có sự mô phỏng đánh giá để từ đó có thể thiết kế hệ
thống theo cách tối ưu nhất.q

itfdut.ddns.net/mod/resource/mmt/MangMayTinh-Chuong07.htm 27/27

You might also like