You are on page 1of 2

Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy

triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển
một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên
cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người. Triết học Mác Lê-nin đem lại thế
giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân của thế giới quan cộng sản. Vai trò của triết học
Mác Lênin trong đời sống xã hội được thể hiện qua các chức năng của nó như: chức năng
về nhận thức, chức năng về đánh giá, chức năng về giáo dục… Nhưng quan trọng nhất
vẫn là chức năng thế giới quan và chức năng của phương pháp luận:

– Chức năng của thế giới quan:

Mác – Lênin đã từng nói: “Thế giới quan chính là toàn bộ những quan niệm của chính
con người về thế giới, về bản thân của mỗi con người, về cuộc sống và về vị trí của con
người ở trong thế giới đó”. Thế giới quan đóng một vai trò rất quan trọng ở trong đời
sống của con người và trong xã hội loài người. Vai trò của thế giới quan ở trong đời sống
xã hội sẽ được thể hiện trên các mặt sau:
+ Một là thế giới quan chính là công cụ giúp cho con người có thể định hướng
được cuộc sống của chính bản thân bằng việc xác lập được những mục tiêu, những
phương hướng hoạt động của riêng mình.
+ Hai là, dựa vào những tri thức chung về thế giới và về bản thân con người, cùng
với lại niềm tin và tình cảm được củng cố, được cải thiện trong thế giới quan, nó sẽ có thể
chi phối hoạt động nhận thức và chi phối thực tiễn của con người ở các mức độ khá sâu
sắc.
Triết học đã ra đời với tư cách chính là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho thế
giới quan phát triển như là một quá trình tự giác dựa trên về sự tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn và về tri thức do các khoa học đã đưa lại. Đó chính là chức năng của thế giới quan
của triết học.
-Chức năng phương pháp luận:
Trong hoạt động của con người có rất nhiều phương pháp đã được áp dụng, chính vì thế
quá trình để lựa chọn sử dụng phương pháp có thể là đúng hoặc sai. Nếu đúng, thì nó sẽ
giúp ta thành công, còn nếu như sai nó sẽ dẫn đến thất bại. Đối diện với những vấn đề đó,
thì nhu cầu phải nhận thức về khoa học, nhận thức đúng đắn về các phương pháp đã được
hình thành và đã xuất hiện hay cũng chính là sự ra đời của các phương pháp luận.
Phương pháp luận có một vai trò định hướng, vai trò gợi mở cho hoạt động về nhận thức
và về thực tiễn, còn phương pháp chính là cách thức, thao tác các hoạt động cụ thể mà
chủ thể sẽ phải tuân thủ và thực hiện nhằm để đạt được mục đích. Phương pháp luận có
ba cấp độ, cụ thể như sau:
+ Phương pháp luận ngành: chính là phương pháp luận cho những ngành khoa học cụ thể.

+ Phương pháp luận chung: là các quan điểm, các nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành,
được dùng để xác định các phương pháp hay các phương pháp luận của nhóm ngành có
đối tượng để nghiên cứu chung.

+ Phương pháp luận chung nhất (hay được gọi là phương pháp luận triết học): khái quát
những quan điểm, những nguyên tắc chung nhất. Để lấy cơ sở xác định những phương
pháp luận ngành, chung và những phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và của
thực tiễn.

Đối với nhận thức và đối với thực tiễn của con người, thì phương pháp luận rất quan
trọng khi làm cơ sở, làm nền móng, và đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng, việc
tìm tòi và vận dụng các phương pháp nhằm để tác động lên đối tượng để đạt được các
mục đích. Tầm quan trọng của phương pháp là rất lớn ở trên hành trình đi tới thành công
và các phương pháp đó là phải thật đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin lại đặc biệt coi
trọng về vai trò của phương pháp, nhất là ở trong hoạt động cách mạng vì nếu coi trọng,
đề cao về phương pháp luận thì sẽ tránh được các tình trạng sai lầm do sự chủ quan duy ý
chí và các phương pháp tư duy siêu hình đã gây ra. Để đạt được các mục đích thì phương
pháp luận đã đóng vai trò rất quan trọng ở trong việc định hướng, việc xây dựng và vận
dụng những phương pháp cho những con người trong cả nhận thức và cả thực tiễn.

Ngày nay, trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc
biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu
hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không
được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên
ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy
biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và
đi đến kết luận sai lầm về triết học. Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn
năng chứa sẵn mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh
tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức
kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó,
việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại hiệu quả, mà trong
nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.

You might also like