You are on page 1of 115

ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP HỒ CHÍ MINH

ThS. LÊ THỊ THANH BÌNH


ThS. NGUYỄN THỊ DUYÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN


LỊCH SỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

NHÀ XUẤT BẢN XÂY DỰNG


MỤC LỤC
Trang

Một số khái niệm, thuật ngữ lịch sử thường dùng 5


Danh mục những từ viết tắt 7
Phần mở đầu: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp nghiên cứu,
học tập lịch sử ĐCSVN 9
I. Đối tượng nghiên cứu 9
II. Chức năng, nhiệm vụ 9
1. Chức năng của khoa học lịch sử Đảng 9
2. Nhiệm vụ 10
III. Phương pháp nghiên cứu, học tập 10
1. Quán triệt phương pháp luận sử học 10
2. Các phương pháp cụ thể 10
IV. Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa 10
1. Mục đích 10
2. Yêu cầu 10
3. Ý nghĩa 10

Chương I: Đảng cộng sản việt nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh
giành chính quyền (1930 - 1945) 11

I. Đảng cộng sản việt nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 11
1. Bối cảnh lịch sử 11
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng 12
3. Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 13
4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập đảng cộng sản Việt Nam 15
II. Đảng lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945) 15
1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 và khôi phục phong trào 1932 - 1935 15
2. Phong trào dân chủ 1936 - 1939 18
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 21
4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám năm 1945 27
Câu hỏi ôn tập và củng cố kiến thức 28
Tài liệu học tập 29

3
Chương 2: Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945 - 1975)
I. Lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến
chống thực dân pháp xâm lược (1945 - 1954) 30
1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946) 30
2. Lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn quốc (1946 - 1950) 34
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951 - 1954) 36
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống pháp
và can thiệp mỹ 41
II. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và kháng chiến chống Đế quốc Mỹ
xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 - 1975) 42
1. Sự lãnh đạo của đảng đối với cách mạng hai miền Nam - Bắc (1954 - 1965) 42
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965 - 1975) 50
3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của đảng thời kỳ 1954 - 1975 58
Câu hỏi ôn tập và củng cố kiến thức 58
Tài liệu học tập 59
Chương 3: Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và tiến hành công cuộc đổi mới (1975 - 2020)
I. Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975 - 1986) 60
1. Xây dựng và bảo vệ tổ quốc (1975 - 1981) 60
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá
tiếp tục đổi mới kinh tế (1982 - 1986) 64
II. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế (1986 - 2021) 67
1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1986 - 1996) 67
2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế (1996 - 2021)
3. Bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới 76
Câu hỏi ôn tập và củng cố kiến thức 112
Tài liệu học tập 112
Kết luận 114
Tài liệu tham khảo 115

4
MỘT SỐ KHÁI NIỆM, THUẬT NGỮ LỊCH SỬ THƯỜNG DÙNG

- Chiến lược: là chương trình, kế hoạch hành động được xây dựng để đạt được mục tiêu, là tổ hợp
các mục tiêu dài hạn và các biện pháp, cách thức, con đường đạt đến mục tiêu đó.
- Chiến lược quân sự: là bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự bao gồm lý luận và thực tiễn
chuẩn bị mọi mặt và lực lượng vũ trang cho chiến tranh, lập kế hoạch và tiến hành đấu tranh vũ trang
và các hoạt động tác chiến chiến lược.
- Chiến lược diễn biến hoà bình: là chiến lược tổng hợp của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu tác động vào kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước XHCN.
- Chiến thuật quân sự: là các biện pháp tổ chức và sử dụng lực lượng chiến đấu nhằm đánh bại
quân đội đối thủ trên chiến trường. Chiến thuật quân sự được sáng tạo và áp dụng trong chiến
tranh bởi nhu cầu thực tiễn của hoạt động chiến đấu, và đáp ứng sự thay đổi liên tục của thực tiễn đó.
- Công nghiệp hoá: là quá trình biến toàn bộ nền sản xuất xã hội chủ yếu dựa trên phương thức
sản xuất nông nghiệp theo lối truyền thống, sang phương thức sản xuất công nghiệp hiện đại, trên cơ
sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: nhấn mạnh yêu cầu về mức độ hiện đại của công nghệ - kỹ thuật
sản xuất theo lối công nghiệp của những nước tiến hành công nghiệp hoá sau, thường được sử dụng
như cặp đôi với khái niệm “công nghiệp hoá”.
- Cục diện thế giới: là tình hình mọi mặt của thế giới, là bức tranh toàn cảnh, phản ánh tương quan
lực lượng và quan hệ giữa các chủ thể chính của quan hệ quốc tế, trước hết là các cường quốc, các
trung tâm quyền lực lớn trong một phạm vi không gian và ở một khung thời gian nhất định.
- Trật tự thế giới: gắn với tư duy quyền lực, thể hiện vị trí của nước có ảnh hưởng lớn nhất trong
quá trình xây dựng và thực hành “luật chơi”- nguyên tắc xử sự giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế.
- Cương lĩnh: là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và
phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định
- Sách lược: là đường lối, biện pháp, cách thức cụ thể của việc tổ chức, đấu tranh được tiến hành
trong khoảng thời gian nhất định và giai đoạn cụ thể để đạt được mục tiêu ngắn hạn
- Nghị quyết: là hình thức văn bản quyết định về những vấn đề cơ bản sau khi được hội nghị bàn
bạc, thông qua bằng biểu quyết theo đa số trong các hội nghị Ban chấp hành Trung ương.
- Hệ thống chính trị: là tổng thể các tổ chức thực hiện quyền lãnh đạo, quản lý, thực hiện quyền
lực chính trị được xã hội và pháp luật thừa nhận. Ở Việt Nam, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (và các đoàn thể chính trị -
xã hội trực thuộc).
- Thể chế: là những nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội; định hình cách thức ứng xử của các
thành viên trong xã hội và điều chỉnh sự vận hành xã hội. Một cách cụ thể thì nội hàm thể chế bao
gồm 3 yếu tố chính: Hệ thống pháp luật, các quy tắc xã hội điều chỉnh các mối quan hệ và các hành vi
được pháp luật thừa nhận của một quốc gia; Các chủ thể thực hiện và quản lý sự vận hành xã hội (bao
gồm nhà nước, cộng đồng cư dân, các tổ chức xã hội dân sự); Các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực
hiện hoạt động xã hội, quản lý và điều hành sự vận hành xã hội.

5
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.1
- Kinh tế tri thức: là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra công nghệ, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra nhiều của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống (OECD).
- Toàn cầu hoá: là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hoá, là giai đoạn chuyển biến về chất
của quốc tế hoá. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng gia tăng cả về bề rộng và chiều sâu do sự tác động
của ba nhân tố: (1) sự tác động trực tiếp của cách mạng khoa học - công nghệ; (2) sự chi phối mạnh
mẽ của các công ty xuyên quốc gia; (3) các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế đóng vai trò
thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá (IMF, WB, WTO…)

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
tr.102.

6
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

Ban Chấp hành Trung ương: BCHTW


Chủ nghĩa tư bản: CNTB
Chủ nghĩa xã hội: CNXH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: CNH, HĐH
Tư bản chủ nghĩa: TBCN
Xã hội chủ nghĩa: XHCN

7
8
PHẦN MỞ ĐẦU

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ,


NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU,
HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

- Sự ra đời, phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử, cụ thể:
+ Hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng.
+ Hệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ lịch sử.
+ Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng.
+ Kết quả lãnh đạo, bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ

1. Chức năng của khoa học lịch sử Đảng


- Chức năng nhận thức:
+ Nhận thức đầy đủ, có hệ thống những tri thức lịch sử về sự ra đời, lãnh đạo, đấu tranh và cầm
quyền của Đảng, nhận thức rõ về Đảng với tư cách một đảng chính trị - tổ chức lãnh đạo giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
+ Nâng cao nhận thức về thời đại mới của dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh, góp phần bồi đắp nhận
thức lý luận từ thực tiễn Việt Nam; về giác ngộ chính trị, góp phần làm rõ những vấn đề của khoa học
chính trị và khoa học lãnh đạo, quản lý.
+ Nhận thức rõ những vấn đề lớn của đất nước, dân tộc trong mối quan hệ với những vấn đề của
thời đại và thế giới; về quy luật phát triển của lịch sử.
- Chức năng giáo dục:
+ Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc.
+ Giáo dục lý tưởng cách mạng với mục tiêu chiến lược là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội (CNXH).
+ Giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần chiến đấu bất khuất, đức hi sinh, tính tiên
phong gương mẫu của các tổ chức đảng… trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển
đất nước.
+ Giáo dục truyền thống của Đảng và dân tộc, góp phần giáo dục đạo đức cách mạng, nhân cách,
lối sống.
- Chức năng dự báo và phê phán:
+ Nhận thức quá trình lịch sử để hiểu rõ hiện tại và dự báo tương lai của sự phát triển.
+ Phê phán những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.

9
2. Nhiệm vụ
- Làm rõ quá trình hình thành, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trình bày có hệ thống Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
- Tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng.
- Tổng kết lịch sử Đảng.
- Làm rõ vai trò, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức đảng.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP

1. Quán triệt phương pháp luận sử học


- Dựa trên phương pháp luận khoa học Mác xít, đặc biệt là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Dựa trên những luận điểm, tư tưởng khoa học và cách mạng của Hồ Chí Minh.
2. Các phương pháp cụ thể
- Phương pháp lịch sử.
- Phương pháp logic.
- Các phương pháp khác.
IV. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, Ý NGHĨA

1. Mục đích
Nắm vững hệ thống những vấn đề cơ bản của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Bối cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sự lãnh đạo cách mạng của Đảng giai đoạn 1930 - 1945 và ý nghĩa thắng lợi của cuộc cách mạng
tháng Tám; hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ giai đoạn 1945 - 1975 và ý nghĩa lịch sử
của nó; sự phát triển đường lối lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH từ
năm 1975 đến nay, ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng
của Đảng.
2. Yêu cầu
Nắm vững nguyên tắc: tính khoa học và tính đảng là thống nhất và đều hướng tới phục vụ nhiệm
vụ chính trị của Đảng, của cách mạng, vì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
3. Ý nghĩa
- Vận dụng, phát triển những quan điểm, chủ trương của Đảng vào thực tiễn thời kỳ đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế.
- Giáo dục lý tưởng, truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc; củng cố, bồi đắp
niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, tham gia xây dựng Đảng, tiếp tục thực hiện sứ mạng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

10
Chương I

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI


VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG

1. Bối cảnh lịch sử


1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam
- Chủ nghĩa tư bản (CNTB) phương Tây chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tiến hành xâm
lược thuộc địa, mở rộng thị trường dẫn đến sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt
là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
- Cách mạng Tháng Mười Nga (7 - 11 - 1917) thành công đã tác động sâu sắc đến tình hình chính
trị, sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Tháng 3 - 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành bộ tham mưu cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
1.2. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
1.2.1. Tình hình Việt Nam
1.2.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng. Sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân
Pháp thiết lập bộ máy thống trị, tiến hành chính sách khai thác thuộc địa nhằm mục đích cướp đoạt tài
nguyên, bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá cho chính quốc.
- Về chính trị: Pháp xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, thiết lập bộ máy cai trị trực tiếp,
duy trì chính quyền phong kiến Nhà Nguyễn làm bù nhìn tay sai, thực hiện chính sách chia để trị.
- Về kinh tế: Pháp tiến hành 2 cuộc khai thác thuộc địa (1897 - 1914 và 1919 - 1929), trọng tâm là
khai thác mỏ và đồn điền cùng nhiều chính sách cai trị khác như độc quyền kinh tế, cho vay nặng lãi,
sưu cao thuế nặng… một mặt duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, mặt khác, thiết lập
một cách hạn chế phương thức sản xuất TBCN, để dễ bề bóc lột, thu lợi nhuận siêu ngạch.
- Về văn hoá - xã hội: thi hành chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học,
du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội cũ và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, ra sức
tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”…
1.2.1.2. Hậu quả chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với xã hội Việt Nam
- Tính chất xã hội thay đổi: từ xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa
phong kiến.
- Mâu thuẫn xã hội thay đổi: bên cạnh mâu thuẫn cũ (giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong
kiến) đã hình thành những mâu thuẫn mới (mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, giữa
giai cấp công nhân với giai cấp tư sản). Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
- Kết cấu giai cấp xã hội thay đổi: các giai cấp cũ phân hoá (địa chủ phong kiến và giai cấp nông
dân), xuất hiện những giai cấp, tầng lớp mới, với thái độ chính trị khác nhau:

11
+ Giai cấp địa chủ, phong kiến: phân hoá thành ba bộ phận (tiểu, trung và đại địa chủ). Một bộ
phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc về
quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
+ Giai cấp nông dân: là giai cấp đông đảo nhất, chiếm khoảng 90%, dân số. Họ bị bóc lột nặng nề,
ruộng đất bị tư bản thực dân chiếm đoạt và bị bần cùng hoá nên mang mối thù sâu nặng với đế quốc
và phong kiến; là lực lượng hùng hậu và kiên cường của cách mạng.
+ Giai cấp công nhân: là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Ngoài đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới (lực lượng xã hội
tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, sống tập
trung, có tinh thần cách mạng triệt để, mang bản chất quốc tế), họ còn có đặc điểm riêng: ra đời trước
giai cấp tư sản dân tộc; chịu ba tầng áp bức (đế quốc, phong kiến, tư sản bản xứ); có liên minh mật
thiết với giai cấp nông dân; có chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
+ Giai cấp tư sản: xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân, số lượng không nhiều, thế lực kinh tế
nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối, bị phân hoá thành hai bộ phận: tư sản dân tộc (bị chèn ép bởi đế
quốc thực dân và phong kiến nên có tinh thần yêu nước, chống đế quốc và phong kiến) và tư sản mại
bản (có quyền lợi kinh tế, chính trị gắn chặt với thực dân, là đối tượng của cách mạng).
+ Tầng lớp tiểu tư sản: bao gồm trí thức, học sinh, sinh viên, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công,
viên chức, những người buôn bán nhỏ. Là tầng lớp bị đế quốc chèn ép, khinh miệt, họ có sự nhạy bén
về chính trị, dễ tiếp thu với cái mới, cái tiến bộ, tinh thần dân tộc cao, khát khao độc lập, tự do và
hăng hái tham gia cách mạng nên là lực lượng quan trọng của cách mạng.
1.2.2. Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) do
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng, phong trào nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của
Hoàng Hoa Thám.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản: Phong trào Đông Du và tổ chức Việt Nam
Quang Phục hội của Phan Bội Châu, phong trào Duy tân của Phan Châu Trinh, phong trào quốc gia cải
lương, phong trào yêu nước dân chủ công khai, phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng…
- Các phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng
tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú song đều bị thất bại do thiếu đường lối chính trị
đúng đắn, chưa có tổ chức vững mạnh lãnh đạo và chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích
hợp. Tuy nhiên, phong trào đã góp phần thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ lòng yêu nước của nhân dân ta,
thúc đẩy những người yêu nước tiến tới lựa chọn một con đường cứu nước giải phóng dân tộc mới
phù hợp với nhu cầu và xu thế mới của thời đại.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng
2.1. Quá trình chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin (7 - 1920) và xác định được con đường cách
mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, chuẩn bị
những điều kiện thành lập Đảng:
- Về tư tưởng: tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria),
kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, tích cực
viết bài đăng các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Thư tin
quốc tế… viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và truyền bá về trong nước.

12
- Về chính trị: đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc và con đường
cách mạng Việt Nam, thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh.
- Về tổ chức: thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và tổ chức huấn luyện chính trị cho
hội viên, sau đó cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
2.2. Sự phát triển của phong trào công nhân trước năm 1930
Từ đầu thế kỷ XX, phong trào công nhân chống lại chế độ bóc lột của thực dân Pháp đã lần lượt
diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là lãn công, bãi công. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất, giai cấp công nhân tăng lên đông đảo và tập trung hơn, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân phát triển ngày càng rầm rộ và sôi nổi. Bãi công của công nhân đã liên tiếp nổ ra ở Sài Gòn, Chợ
Lớn, Nam Định…, giai cấp công nhân đã nêu lên được yêu sách của mình, đấu tranh có tổ chức hơn,
có sự liên hệ với công nhân cùng ngành nghề.
Năm 1925, phong trào công nhân đã có sự phát triển nhảy vọt với việc xuất hiện nhiều cuộc bãi
công có quy mô lớn, có tổ chức và lãnh đạo ở một mức độ nhất định. Trong đó, điển hình nhất là cuộc
bãi công của 1.000 công nhân hãng đóng tàu Ba Son (8 - 1925) do Tôn Đức Thắng tổ chức với mục
đích nhằm giữ lại chiếc tàu Jules Michelet được đưa đến sửa chữa ở xưởng Ba Son, không cho Pháp
chở binh lính sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Kết quả, các nhà chức trách Pháp đã phải chấp
nhận tăng lương 10% cho công nhân, thoả mãn các yêu sách khác, đồng thời trả lương cho những
ngày bãi công. Cuộc bãi công Ba Son đã cắm một cột mốc rất quan trọng trong phong trào công nhân
- giai đoạn công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng.
Từ năm 1925 đến năm 1929, với sự ra đời và tăng cường hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, phong trào công nhân ngày càng phát triển và chuyển biến nhanh chóng về chất. Các
cuộc bãi công nổ ra rầm rộ, sôi nổi và quyết liệt hơn. Những cuộc đấu tranh tự phát giảm đi, những
cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ chức, quy mô ngày càng lớn. Công nhân đấu tranh không chỉ nhằm
đòi các quyền lợi về kinh tế (như tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt) mà còn
nhằm cả mục đích chính trị (chống lại các chính sách áp bức bóc lột của bọn chủ tư bản và chính
quyền thực dân phong kiến). Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh của công nhân mỏ than Mạo Khê
(Quảng Ninh), nhà máy xi măng Hải Phòng… (năm 1928), dệt Nam Định, nhà máy xe lửa Trường
Thi (Vinh), đồn điền cao su Phú Riềng, đặc biệt là cuộc bãi công của công nhân xưởng sửa chữa ô tô
Avia - Hà Nội… (năm 1929).
Giai cấp công nhân còn có nhiều hoạt động biểu lộ tinh thần cách mạng, ý thức quốc tế của mình.
Trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1 - 5 - 1929) và Cách mạng tháng Mười Nga (7 - 11 - 1929),
công nhân nhiều nơi đã tổ chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng. Tháng 7 -
1929, Tổng hội công hội đỏ ở Bắc Kỳ được thành lập. Sự phát triển của phong trào công nhân ngày
càng có sức thu hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân, đi vào
cuộc đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
Dưới ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng vô sản và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, phong trào công nhân đã phát triển mạnh mẽ và chuyển dần từ tự phát sang tự giác.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
3.1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Những hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có tác
dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức
giác ngộ và lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn
thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng.

13
- Tháng 3 - 1929, một số phần tử tiên tiến của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc
Kỳ họp ở số nhà 5Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 đảng
viên, do Trần Văn Cung làm bí thư. Ngày 17 - 6 - 1929, 20 đại biểu của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã họp tại 312
phố Khâm Thiên tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên
ngôn, Điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng.
- Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở Nam Kỳ theo
xu hướng cộng sản đã tổ chức những chi bộ cộng sản. Tháng 11 - 1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản
ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Sài Gòn, công bố Điều lệ, xuất bản báo Đỏ
(tạp chí Bônsơvích) làm cơ quan ngôn luận.
- Tân Việt cách mạng Đảng là một tổ chức yêu nước có nhiều ảnh hưởng từ Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên. Tháng 9 - 1929, các đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã tách ra, công bố Tuyên đạt
thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Ngày 29 và 30 - 12 - 1930, Đại hội thành lập Đông
Dương Cộng sản liên đoàn được tiến hành.
Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản nửa cuối năm 1929 đã khẳng định bước phát triển về chất của
phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu của lịch sử
Việt Nam. Song sự tồn tại ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập có nguy cơ dẫn đến một sự chia rẽ
lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải thành lập một chính đảng cách mạng có đủ
khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc.
3.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Thời gian: từ ngày 6 - 1 đến ngày 7 - 2 - 1930.
- Địa điểm: Cửu Long - Hương Cảng - Trung Quốc.
- Thành phần: đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu An Nam Cộng sản Đảng) và Nguyễn Ái Quốc (đại
diện Quốc tế Cộng sản).
- Nội dung:
+ Hội nghị nhất trí với đề nghị của Nguyễn Ái Quốc về việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
+ Xác định tôn chỉ mục đích của Đảng và điều kiện vào Đảng.
+ Hội nghị chủ trương về việc tổ chức Trung ương lâm thời, xây dựng các tổ chức quần chúng,
xuất bản tạp chí và báo tuyên truyền của Đảng.
- Ngày 24 - 2 - 1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã được chấp thuận gia nhập Đảng Cộng
sản Việt Nam, chính thức hoàn thành việc thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất.
3.3. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Xác định tính chất và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam: xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc ngày càng gay gắt.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.2

14
- Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
+ Về chính trị: đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
+ Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc để giao cho chính phủ công nông
binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc làm của công và chia cho dân nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ.
+ Về văn hoá - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo
hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên bao gồm hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong
kiến, trong đó nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu.
- Lực lượng cách mạng: đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, các nhà yêu nước để
tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông
dân - đây là lực lượng cơ bản của cách mạng, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
- Phương pháp tiến hành cách mạng: bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng.
- Quan hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, phải “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với
quần chúng vô sản Pháp”3.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”4.
*Ý nghĩa của Cương lĩnh: phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt
Nam; thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng
thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp
ứng được những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình
phát triển của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, đồng thời dẫn đến những thắng lợi và bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của cách mạng
thế giới, hòa nhập vào phong trào cách mạng thế giới.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)

1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 và khôi phục phong trào 1932 - 1935
1.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
+ Liên Xô đạt được những thành quả quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước.

3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.5.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.6.

15
+ Các nước TBCN diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, mẫu thuẫn xã hội ngày càng
phát triển gay gắt.
+ Phong trào cách mạng thế giới dâng cao.
- Tình hình Đông Dương:
+ Thực dân Pháp tăng cường chính sách vơ vét, bóc lột để bù đắp cuộc khủng hoảng và tiến hành
đàn áp, khủng bố trắng đối với phong trào cách mạng. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
Pháp và tay sai ngày càng trở nên gay gắt.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sẵn sàng lãnh đạo phong trào cách mạng.
1.2. Phong trào cách mạng 1930 - 1931
- Từ tháng 1 đến tháng 4 - 1930: nhiều cuộc bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi
măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt Nam
Định… Phong trào đấu tranh của nông dân diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ
An, Hà Tĩnh...
- Từ tháng 5 - 1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1 - 5 - 1930, nhân dân Việt Nam kỷ
niệm ngày Quốc tế Lao động với nhiều hình thức đấu tranh phong phú. Sau đó, hàng loạt phong trào
diễn ra khắp nơi trên cả nước, đặc biệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
- Tháng 9 - 1930, phong trào lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia, trở nên quyết liệt
nhất, đã làm tan rã nhiều chính quyền ở nhiều địa phương của địch và thành lập chính quyềntự quản
của nhân dân dưới hình thức Xô viết.
- Từ cuối năm 1930, thực dân Pháp và tay sai thực hiện khủng bố trắng và đàn áp khốc liệt
đối với phong trào, khiến lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng nề. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng
vạn người yêu nước bị bắt, giết hoặc tù đày, phần lớn các tổ chức cơ sở của Đảng và tổ chức của
quần chúng cũng như Xô viết bị tan vỡ. Phong trào tạm lắng xuống.
* Ý nghĩa:
+ Khẳng định đường lối cách mạng do Đảng đề ra là đúng đắn.
+ Khẳng định quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với cách mạng thông
qua Đảng tiền phong của mình.
+ Phong trào đã rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước.
+ Để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và
phản phong, kết hợp giữa phong trào cách mạng ở nông thôn và thành thị, kết hợp phong trào đấu
tranh của công nhân với phong trào của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo
của Đảng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang...
1.3. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 10 - 1930
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) lần thứ nhất của Đảng họp tại Hương Cảng
(Trung Quốc) từ ngày 14 đến ngày 31 - 10 - 1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thảo luận
và thông qua các nội dung sau:
+ Quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương.
+ Thông qua điều lệ mới và bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức, do đồng chí Trần Phú
được bầu làm Tổng Bí thư.
- Luận cương chính trị 10 - 1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương:
+ Đặc điểm của xã hội Việt Nam: mâu thuẫn diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày
và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa.

16
+ Về phương hướng chiến lược của cách mạng: tiến hành cách mạng tư sản dân quyền “có tính
chất thổ địa và phản đế”, sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên
con đường xã hội chủ nghĩa”. 5
+ Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong kiến, thực hiện
cách mạng ruộng đất một cách triệt để và đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc
lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít, mật thiết với nhau, trong đó “vấn đề thổ địa là
cái cốt cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
+ Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính, trong đó giai cấp vô
sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng
+ Về lãnh đạo cách mạng: sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của
cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần
chúng và trải qua tranh đấu mà trưởng thành; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc, phấn đấu vì mục
tiêu chủ nghĩa cộng sản.
+ Về phương pháp cách mạng: chuẩn bị cho quần chúng về con đường võ trang bạo động để giành
chính quyền. Khi chưa có tình thế cách mạng, phải đưa ra khẩu hiệu bênh vực quyền lợi giai cấp, giáo
dục ý thức cách mạng cho quần chúng, coi trọng vận động tập hợp lực lượng. Khi có tình thế cách
mạng, phải lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động đánh đổ chính quyền địch, giành chính quyền cho
công nông.
+ Về quan hệ quốc tế: cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, phải
đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản trên thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp và phải mật thiết
liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
* Nhận xét Luận cương:
+ Luận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà
Chánh cương vắt tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu như: vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; mục tiêu
chiến lược của cách mạng; mối quan hệ quốc tế... Ngoài ra, còn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của
cách mạng Việt Nam như: đề cập đến phương pháp cách mạng, cụ thể bước tiến của cách mạng bằng
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tiến thẳng lên CNXH, chỉ rõ nội dung xây dựng Đảng.
+ Tuy nhiên, Luận cương chưa phân tích và làm rõ được tính chất và đặc điểm của cách mạng ở
một xã hội Việt Nam thuộc địa, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
đế quốc Pháp xâm lược, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh
giai cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ
nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân
hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, cho nên không đề
ra liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, tay sai.
+ Nguyên nhân của những hạn chế: do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách mạng thuộc địa và
chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong Quốc tế cộng
sản và một số Đảng Cộng sản lúc đó.
1.4. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ
nhất (3 - 1935)
- Tháng 5 - 1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ trương về
thanh Đảng của Xứ uỷ Trung kỳ và vạch ra phương hướng xây dựng Đảng.
- Trước sự đàn áp, bắt bớ của thực dân Pháp, đảng viên bị bắt tiếp tục thành lập chi bộ trong nhà
tù. Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, đường lối chính trị của

5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, t2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.98

17
Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng, tổ chức học văn hoá, ngoại ngữ cho đảng viên. Một số chi
bộ còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và đấu tranh tư tưởng (nhà tù Hoả Lò - Đuốc đưa đường,
Con đường chính, nhà tù Côn Đảo - Người tù đỏ, Ý kiến chung…).
- Tháng 5 - 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số cán bộ
chủ chốt tổ chức lại Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
- Tháng 6 - 1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra bản Chương trình hành động của Đảng
Cộng sản Đông Dương, được Quốc tế Cộng sản ghi nhận. Chương trình đã cụ thể hoá cương lĩnh của
Đảng, đề ra những yêu cầu chính trị trước mắt, những biện pháp tổ chức và đấu tranh, góp phần
nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng.
- Trong thời gian 1932 - 1933, các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ
nhiều lần, đã lần lượt được lập lại.
- Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản
Đông Dương được thành lập để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nước như BCHTW.
- Đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục.
- Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3 - 1935): Đại hội họp từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1935 tại Ma
Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, đại diện cho 600 đảng viên. Đồng chí Hà Huy
Tập chủ trì đại hội.
+ Sau khi đánh giá tình hình từ đầu năm 1932 đến đầu năm 1935, Đại hội đã nêu lên 3 nhiệm vụ
chủ yếu: củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng; mở rộng tuyên
truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
+ Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng và bầu BCHTW mới do đồng chí Lê
Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản.
Đại hội là mốc son khẳng định Đảng ta đã vượt qua được những năm tháng khắc nghiệt của khủng
bố trắng, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ của hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. Tuy
nhiên, Đại hội vẫn chưa đề ra chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, chưa
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn dân tộc.
2. Phong trào dân chủ 1936 - 1939
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng
2.1.1. Hoàn cảnh Điều kiện lịch sử
- Tình hình quốc tế:
+ Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới.
+ Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản (7 - 1935) được tiến hành tại Mátxcơva đã quyết định
những vấn đề quan trọng của cách mạng thế giới:
Xác định kẻ thù nguy hiểm, trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát-xít.
Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này là đấu tranh
chống chủ nghĩa phát-xít, chống chiến tranh bảo vệ hoà bình, dân chủ.
Xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi chống phát-xít và chiến tranh phát-xít. Vấn đề này đặc biệt
quan trọng đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
+ Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp chống phát-xít do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt giành
thắng lợi trong bầu cử đưa đến sự ra đời một chính phủ tiến bộ, Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp,
do Leon Bloom - lãnh tụ của Đảng Xã hội làm Thủ tướng. Chính phủ Pháp đã ban hành một số
quyết định quan trọng đối với các nước thuộc địa như thả chính trị phạm, thành lập Uỷ ban điều tra
tình hình thuộc địa ở Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho người lao động.

18
- Tình hình Đông Dương:
+ Hậu quả của cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 tiếp tục tác động sâu sắc đến đời sống của tất cả các
giai tầng trong xã hội.
+ Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố, làm cho bầu
không khí chính trị và kinh tế hết sức ngột ngạt. Mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải
cách dân chủ.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi và sẵn sàng lãnh đạo nhân dân bước vào một thời kỳ
đấu tranh mới.
2.1.2. Chủ trương của Đảng
- Hội nghị lần thứ 2 của BCHTW Đảng: Tháng 7 - 1936 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Hội nghị lần thứ 2 tại Thượng Hải (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong và Hà
Huy Tập. Hội nghị xác định:
+ Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất: phản động thuộc địa và tay sai
+ Nhiệm vụ trước mắt: chống phát-xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và
tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình; thành lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi.
+ Hình thức tổ chức và đấu tranh: chuyển từ hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang hình
thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp; giữ vững nguyên tắc
củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng.
+ Nêu các khẩu hiệu: "ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp".
- Văn kiện “Chung quanh vấn đề Chiến sách mới” (10 - 1936):
+ Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa
+ Phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Chọn địch nhân chính, nguy hiểm
nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng.
- Hội nghị lần thứ 3 (3 - 1937) và lần thứ 4 (9 - 1937): bàn sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng,
chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông đảo quần chúng trong
mặt trận chống phản động thuộc địa.
- Hội nghị lần thứ 5 (3 - 1938): Lập mặt trận thống nhất dân chủ là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị
bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc (3 - 1939):
+ Nêu rõ bọn phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp nghiêng về phái hữu, ráo riết chuẩn bị
chiến tranh.
+ Kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự
do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình
- Phong trào Đông Dương đại hội:
Nhân việc Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương phát
động một phong trào rộng lớn trong quần chúng nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp nêu lên
nguyện vọng về tự do, dân chủ và cải thiện đời sống, tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội.
Trong một thời gian ngắn, ở khắp nơi đã lập ra các “Uỷ ban hành động” để tập hợp quần chúng, tổ
chức các cuộc mít tinh để đề ra các bản “dân nguyện” gửi cho các phái bộ điều tra của Chính phủ Pháp.
Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp Godard đi kinh lý Đông Dương và Brévier
sang nhận chức Toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động quần chúng với danh nghĩa “đón rước” để
mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân nguyện” đòi quyền dân sinh, dân chủ.

19
Kết quả: Nhà cầm quyền Đông Dương phải ra Nghị định ngày 11 - 10 - 1936, ban hành một số
quyền lợi cho công nhân như thời gian làm việc không quá 10 giờ/ngày kể từ 1 - 11 - 1936, không
được quá 9 giờ/ngày kể từ 1 - 1 - 1937, không được quá 8 giờ/ngày kể từ 1 - 1 - 1938, được nghỉ chủ
nhật và phép năm được hưởng lương… Ngày 30 - 12 - 1936, quy định thêm một số chế độ lao động
như tiền lương tối thiểu, chế độ học nghề, nghỉ sinh… Ngoài ra, nhà cầm quyền còn phải “ân xá” tù
chính trị. Đến tháng 10 - 1937, có 1.532 tù chính trị, phần lớn là những chiến sĩ cộng sản được ra khỏi
nhà tù đế quốc.
- Phong trào đấu tranh của nhân dân:
Các tầng lớp nhân dân đã tổ chức những cuộc đấu tranh đòi quyền lợi trên khắp cả nước: công
nhân bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt, đánh đập và đòi tự do nghiệp đoàn;
nông dân đấu tranh đòi giảm sưu thuế, cải cách hương thôn; tiểu thương, tiểu chủ bãi thị, đòi giảm
thuế chợ, thuế hàng; công chức đòi tăng lương…
Sáu tháng cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh, trong đó có 236 cuộc đấu tranh của công nhân.
Năm 1937 có khoảng 400 cuộc bãi công của công nhân, 150 cuộc đấu tranh của nông dân… Năm
1938 có 137 cuộc bãi công của thợ thuyền, đặc biệt trong ngày Quốc tế Lao động 1 - 5 - 1938, các
cuộc mít tinh công khai được tổ chức ở Hà Nội, Sài Gòn.
- Phong trào đấu tranh trên báo chí công khai:
Đảng khôn khéo lợi dụng mọi khả năng để xuất bản và lưu hành báo chí công khai. Nhiều báo chí
của Đảng và các tài liệu chịu ảnh hưởng của Đảng được phổ biến rộng rãi trong quần chúng như: Tin
tức, Đời nay, Tranh đấu, Nhành lúa, Bạn dân, Kinh tế, Dân mới, Phổ thông, Lao động…
Đảng còn xuất bản sách phổ thông giới thiệu về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản như cuốn: Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp),
cuốn Chủ nghĩa Mácxít phổ thông của Hải Triều (xuất bản năm 1938).
Tổng Bí thư Hà Huy Tập xuất bản cuốn Tờrốtxky và phản cách mạng (năm 1937), phê phán những
luận điệu “tả khuynh” ở Việt Nam, góp phần xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn Tự chỉ trích thẳng thắn chỉ rõ những sai lầm, khuyết
điểm, nêu rõ những bài học cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.
Mạng lưới phát hành sách báo được tổ chức rộng rãi. Toà soạn và cơ quan phát hành là đầu mối
liên lạc của Đảng với quần chúng, giữa bộ phận công khai và bí mật... Các sách, báo trên đây đã góp
phần tuyên truyền, giác ngộ, tập dượt quần chúng.
- Phong trào đấu tranh nghị trường:
Lợi dụng khả năng hợp pháp, Mặt trận Dân chủ của Đảng tổ chức các cuộc vận động tranh cử vào
các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông
Dương... nhằm mở rộng công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, lợi dụng diễn đàn công khai để
vạch trần chính sách thuộc địa phản động của thực dân Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng.
- Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ:
Đảng phát động truyền bá chữ quốc ngữ, tạo điều kiện để quần chúng hiểu biết về chủ trương,
chính sách. Làm cho nhân dân hiểu rằng, Đảng không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn đấu
tranh cho những quyền lợi thiết thực của nhân dân.
Hội truyền bá chữ quốc ngữ được tổ chức và từ cuối năm 1937, phong trào lan nhanh, lôi cuốn
đông đảo quần chúng tham gia. Các hình thức tổ chức cũng phát triển phong phú: hội tương tế, hội ái
hữu, hội thể thao, hội đọc sách báo...

20
* Ý nghĩa:
+ Đội quân chính trị quần chúng được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện.
+ Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Đội
ngũ cán bộ của Đảng đông đảo hơn, dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và
tổ chức.
+ Đảng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm mới về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ giữa
mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt, về xây dựng mặt trận thống nhất, về hình thức và phương
pháp đấu tranh…
+ Thắng lợi của phong trào tạo ra lực lượng và trận địa mới cho cao trào cứu nước, giải phóng dân
tộc trong những năm 1939 - 1945.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế:
+ Ngày 1 - 9 - 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 6 - 1940, Đức tiến công Pháp,
Pháp kí hiệp ước đầu hàng Đức. Ngày 22 - 6 - 1941, Đức tiến công Liên Xô. Tháng 12 - 1941, Nhật
dùng không quân từ các tàu sân bay bất ngờ tấn công vào Trân Châu Cảng ở quần đảo Hawai, căn cứ
hạm đội của Mỹ trên Thái Bình Dương, chiến tranh lan sang châu Á - Thái Bình Dương.
+ Cách mạng Pháp bị đàn áp, Mặt trận Nhân dân Pháp bị vỡ, Đảng Cộng sản Pháp tổn thất
nặng nề.
- Tình hình Đông Dương:
+ Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát-xít hoá bộ máy cai trị, thực hiện chính sách tổng động
viên bắt lính, tăng cường vơ vét, bóc lột để phục vụ chiến tranh, thẳng tay khủng bố, đàn áp phong
trào cách mạng. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp trở nên sâu sắc.
+ Ngày 22 - 9 - 1940, Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và câu
kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương.
3.1.2. Chủ trương chiến lược mới của Đảng:
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng đã kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển
trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng phong trào thành thị và đề ra đường lối
chuyển hướng chiến lược cho thời kỳ mới.
- Hội nghị BCHTW 6 (11 - 1939): họp tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) dưới sự chủ trì của Tổng
Bí thư Nguyễn Văn Cừ.
+ Nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách
nhất của cách mạng Đông Dương.
+ Nhiệm vụ cụ thể: tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn
toàn cho các dân tộc Đông Dương, chuẩn bị những điều kiện tiến tới làm cuộc bạo động cách mạng
để giải phóng dân tộc.
+ Khẩu hiệu: tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản động chia cho dân cày nghèo, chống tô cao, chống cho vay lãi nặng. Thay khẩu
hiệu lập chính quyền Xô-viết công nông bằng khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hoà dân
chủ Đông Dương.

21
+ Chủ trương: thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân
chủ Đông Dương, nhằm tập hợp tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước nhằm
đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
- Hội nghị BCHTW 7 (11 - 1940): họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường
Chinh và Phan Đăng Lưu chủ trì.
+ Xác định kẻ thù chính lúc này của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp - Nhật.
+ Nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc “võ trang bạo động giành lấy quyền tự
do, độc lập”.
+ Quyết định duy trì và củng cố đội du kích Bắc Sơn, thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ
Nhai làm trung tâm.
+ Quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ để bảo toàn lực lượng vì điều kiện khởi nghĩa
chưa chín muồi.
+ Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc - dân chủ: vẫn còn trăn trở, chưa thật sự dứt khoát với
chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của hội nghị tháng 11 - 1939.
- Hội nghị BCHTW 8 (5 - 1941): họp tại Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
+ Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, hội nghị nhận định mâu thuẫn chủ yếu đòi
hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn dân tộc Việt Nam với đế quốc phát-xít Pháp - Nhật.
+ Chủ trương "thay đổi chiến lược”: nhiệm vụ cần kíp trước mắt là tập trung cho vấn đề giải phóng
dân tộc, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho
toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Quyết định tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng các khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho
công bằng, giảm tô, giảm tức.
+ Giải quyết vấn đề dân tộc Đông Dương: chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước, phải tôn trọng và thi hành đúng đắn chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi giành độc lập,
các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương muốn lập ra chính phủ liên bang hay đứng riêng thành
một quốc gia dân tộc tuỳ ý. Còn ở Việt Nam, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng (Việt Nam độc lập đồng minh,
Ai Lao độc lập đồng minh, Cao Miên độc lập đồng minh), thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời
đoàn kết ba dân tộc cùng chống kẻ thù chung.
+ Quyết định xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân. Phải tích cực phát triển lực lượng và tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
* Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược cách mạng được vạch ra từ Hội nghị tháng 11 -
1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10 - 1930. Đường lối giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng đưa
cách mạng đến thắng lợi.
3.2. Phong trào chống Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
3.2.1. Phong trào chống Pháp - Nhật trước tháng 3-1945
- Khởi nghĩa Bắc Sơn (9 - 1940): Khi quân Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp rút chạy qua đường
Bắc Sơn về Thái Nguyên. Đêm 27 - 9 - 1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài. Đây là

22
tín hiệu mở đầu cao trào giải phóng dân tộc từ hình thức đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang. Sau cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
- Khởi nghĩa Nam Kỳ (11 - 1940): Phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi.
Ngày 23 - 11 - 1940, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa. Hội nghị tháng 11 - 1940 đình chỉ chủ
trương khởi nghĩa nhưng chưa kịp triển khai thì cuộc khởi nghĩa đã diễn ra và bị thực dân Pháp đàn
áp dã man, lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ gặp nhiều
khó khăn.
- Binh biến Đô Lương (1 - 1941): Ngày 13 - 1 - 1941, Nguyễn Văn Cung (Đội Cung) chỉ huy binh
lính yêu nước nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng (Thanh Chương), kéo về Đô Lương, rồi tiến về
Vinh. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị đế quốc dập tắt.
*Ý nghĩa: Các cuộc khởi nghĩa nổ ra đã thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân và để lại nhiều
bài học kinh nghiệm về khởi nghĩa.
3.2.2. Xây dựng lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
- Xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng:
Ngày 25 - 10 - 1941, Việt Nam độc lập đồng minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ,
tuyên bố với cả nước: Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời. Chương trình cứu nước (44
điểm) của Việt Minh được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở
rộng các tổ chức quần chúng, tổ chức các đoàn thể cứu quốc và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của
công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị.
Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam
(6 - 1944). Đảng Dân chủ gia nhập Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng khối
đại đoàn kết dân tộc.
- Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng:
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang ở Pác Bó - Cao Bằng để
chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và thúc đẩy việc phát triển cơ sở chính trị.
Đội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Cứu quốc quân (6 - 1941) đã bám sát quần chúng, kiên trì
cuộc đấu tranh chống khủng bố, giữ gìn lực lượng, cổ vũ phong trào quần chúng trong cả nước.
Ngày 22 - 12 - 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (do đồng chí Võ Nguyên Giáp
lãnh đạo) được thành lập, hoạt động theo phương châm chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền
trọng hơn tác chiến. Đây là tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ căn cứ Cao Bằng, khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Thái Nguyên. Đây là những bước đi đầu tiên để chuẩn bị cho sự ra đời của khu giải
phóng Việt Bắc sau này.
- Mặt trận văn hoá - tư tưởng:
Nhiều sách báo của Đảng và Mặt trận Việt Minh được xuất bản như: Giải phóng, Tiền phong, Cờ
giải phóng, Cứu quốc, Quân giải phóng, Độc lập... để tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ
vũ quần chúng.
Năm 1943, Đảng đưa ra Đề cương văn hoá Việt Nam, khẳng định văn hoá là một trong ba mặt trận
cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hoá yêu nước và cách mạng là phải chống
lại văn hoá nô dịch, ngu dân của bọn phát xít và phong kiến; tiến tới xây dựng trong tương lai nền văn
hoá mới theo nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Cuối năm 1944, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút tri thức và các nhà hoạt động văn
hoá vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.

23
- Xây dựng, củng cố tổ chức Đảng:
Tháng 12 - 1941, Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác tổ chức, tăng cường, kiện toàn tổ chức
Đảng và phát triển tổ chức quần chúng bằng nhiều hình thức thích hợp, “kịp thời triệu tập quần chúng
xung quanh Đảng, đánh đuổi quân cướp nước Nhật, Pháp”. Thực hiện chỉ thị của Trung ương, các tổ
chức Đảng đã coi trọng cuộc đấu tranh giữ vững sự thống nhất trong hàng ngũ của mình, củng cố hạt
nhân lãnh đạo, tăng cường đội ngũ cán bộ. Đảng mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày, đào tạo cán bộ
về chính trị, quân sự, binh vận, đồng thời tổ chức cho một số cán bộ đảng viên của Đảng vượt ngục,
trở về địa phương hoạt động. Đảng quyết định kết nạp đảng viên lớp Hoàng Văn Thụ (1944). Nhiều
người ưu tú trong phong trào của Việt Minh đã được kết nạp vào Đảng.
3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước
3.3.1. Bối cảnh
- Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô
đang truy kích phát-xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến về
Berlin. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp, tiến quân về phía Tây nước
Đức. Nước Pháp được giải phóng.
- Phát-xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn, chuyển sang phòng ngự và bị thất bại liên tiếp.
- 8 giờ tối 9 - 3 - 1945, Nhật nổ súng, đảo chính lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Sự câu kết
Nhật - Pháp chấm dứt. Sau đảo chính, Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để
làm tay sai cho chúng.
3.3.2. Chủ trương của Đảng
- Ngay đêm 9 - 3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Từ
Sơn, Bắc Ninh) do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì để phân tích tình hình và đề ra chủ trương mới.
- Ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” với nội dung như sau:
+ Vạch rõ bản chất hành động của phát xít Nhật là đảo chính chứ không phải là cuộc cách mạng.
+ Nhận định: cuộc đảo chính Nhật lật đổ Pháp dẫn đến khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông
Dương, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy vậy đang có những cơ hội tốt để đi
đến chín muồi nhanh chóng.
+ Xác định kẻ thù: kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của cách mạng Đông Dương lúc này
là phát-xít Nhật.
+ Về khẩu hiệu đấu tranh: thay đổi khẩu hiệu đấu tranh cho phù hợp, thay khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát-xít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật”. Đồng thời, nêu ra khẩu hiệu “Thành
lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
+ Nhiệm vụ trước mắt:
Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước để làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa.
Thay đổi hình thức đấu tranh, tuyên truyền cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa (như đẩy
mạnh tuyên truyền vũ trang, biểu tình,tuần hành, bãi công chính trị, phá kho thóc của Nhật để cứu đói,
thành lập căn cứ cách mạng...) nhằm động viên quần chúng lên trận tuyến đấu tranh, sẵn sàng chuyển
sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
Đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách
mạng, phát động du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện.
Phương châm đấu tranh: tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

24
+ Dự đoán thời cơ khởi nghĩa: quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật chống đỡ,
phía sau sơ hở; Hoặc cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật ra đời;
Hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940, quân đội viễn chinh Nhật hoang mang, mất tinh thần.
Tuy nhiên, Chỉ thị xác định không được trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, mà phải chủ động nắm bắt
thời cơ và phải dựa vào sức mình là chính.
*Ý nghĩa: Chỉ thị thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam
cho toàn Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cách mạng
tháng Tám.
3.3.3. Diễn biến
- Từ giữa tháng 3 - 1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và phong
phú về nội dung và hình thức.
Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần diễn ra sôi nổi ở vùng thượng du, trung du
Bắc Kỳ, vùng núi Ba Tơ (Quảng Ngãi). Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
phối hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị của quần chúng, giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
- Ngày 16 - 4 - 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp,
chuẩn bị thành lập Uỷ ban giải phóng Việt Nam.
- Ngày 15 - 5 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ tại Hiệp
Hoà (Bắc Giang), quyết định sát nhập Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân và
các lực lượng vũ trang khác thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang
và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị.
- Ngày 4 - 6 - 1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập hội nghị để quyết
định thành lập khu giải phóng Việt Bắc, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa của
cả nước.
- Giữa lúc phong trào đấu tranh của quần chúng cả nước lên cao, thì nạn đói diễn ra nghiêm trọng
trong các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (hơn 2 triệu đồng bào chết đói). Xuất phát từ lợi ích sống còn
trước mắt của đồng bào, Đảng đề ra chủ trương “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Trong một thời
gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng vào trận tuyến cách mạng.
Các tổ chức cứu quốc được thành lập ở khắp nơi, quần chúng nô nức tự vũ trang, sửa soạn tiến
nhanh tới tổng khởi nghĩa trong cả nước.
*Ý nghĩa: Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách
mạng; thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, kết hợp với phong trào đấu tranh chính
trị của quần chúng, chuẩn bị tiến lên tổng khởi nghĩa là điểm độc đáo, sáng tạo của Đảng trong tiến
trình lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở một nước thuộc địa. Cao trào kháng Nhật cứu nước đã
động viên và lôi kéo được đông đảo các tầng lớp, giai cấp khác nhau theo cách mạng hoặc ủng hộ
cách mạng (công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức, tư sản dân tộc, địa chủ
nhỏ, binh lính...).
3.4. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
3.4.1. Bối cảnh
- Đầu tháng 5 - 1945, phát-xít Đức ký văn bản đầu hàng Đồng minh.
- Tháng 8 - 1945, quân đội Liên Xô đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông của Nhật. Chính phủ
Nhật đầu hàng các nước Đồng minh vô điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

25
- Ở Việt Nam, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đang hoang mang cực độ, phát-xít Nhật đã mất
hết tinh thần và gục ngã. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
- Theo quyết định của Hội nghị Potsdam (7 - 1945) về giải giáp vũ khí của quân đội phát-xít, quân
đội của Trung Hoa dân quốc và Liên hiệp Anh vào nước ta để giải giáp vũ khí của phát-xít Nhật.
3.4.2. Chủ trương Tổng khởi nghĩa
- Ngày 12 - 8 - 1945, Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu.
- Từ ngày 13 đến 15 - 8 - 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào do Nguyễn Ái Quốc
và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, quyết định:
+ Thành lập: Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc. Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số
1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa.
+ Phát động: toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi
quân Đồng minh vào Đông Dương.
+ Khẩu hiệu đấu tranh: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!
+ Nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa: tập trung, thống nhất, kịp thời; Đánh chiếm những nơi chắc
thắng, không kể là thành phố hay nông thôn; Quân sự và chính trị phải phối hợp, làm tan rã tinh thần
quân địch và gọi hàng trước khi đánh; thành lập chính quyền nhân dân trước khi quân Đồng minh vào
Đông Dương.
+ Những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành được chính quyền:
Đối nội: lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản.
Đối ngoại: triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng về vấn
đề Đông Dương, tránh trường hợp một mình phải đối phó cùng lúc với nhiều kẻ thù, đồng thời cũng
cần chuẩn bị ứng phó với việc Anh - Mỹ - Tưởng nhân nhượng Pháp, cho Pháp trở lại Đông Dương.
- Ngày 16 - 8 - 1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của
Đảng và thông qua 10 chính sách của Việt Minh; quyết định lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam
tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên giành
chính quyền: “Giờ quyết định của vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà giải phóng cho ta”.
3.4.3. Diễn biến chính
- Từ ngày 14 - 8, các đơn vị giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn,Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái…
- Ngày 17 - 8, Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các tổ chức cứu quốc biến
cuộc mít tinh ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim của Tổng hội viên chức thành cuộc mít tinh ủng hộ
Việt Minh.
- Ngày 19 - 8, tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám
chống cự, chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 23 - 8, tổng khởi nghĩa diễn ra ở Thừa Thiên Huế. Quần chúng khắp nơi nổi dậy lần lượt
chiếm các công sở và không vấp phải sự kháng cự nào.
- Ngày 25 - 8, tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn. Quân Nhật hoàn toàn bị tê liệt, khởi nghĩa thành công
nhanh chóng.
- Ngày 27 - 8, Uỷ ban dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

26
- Ngày 30 - 8, tại cuộc mít tinh trước cửa Ngọ Môn, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị, giao nộp ấn kiếm
cho đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
3.4.3. Nguyên nhân thắng lợi
- Khách quan: Nhật đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở Đông Dương mất tinh thần chiến đấu.
- Chủ quan: có sự chuẩn bị công phu của cách mạng suốt 15 năm; có Đảng Cộng sản lãnh đạo và
tổ chức cuộc đấu tranh giành chính quyền; có sự hi sinh chiến đấu của quân và dân cả nước.
4. Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945
4.1. Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân
chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
+ Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc
xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự
do của quần chúng nhân dân.
+ Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh với
những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc
lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn
dân tộc.
+ Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình
thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc.
- Cách mạng Tháng Tám còn có tính chất dân chủ, thể hiện:
+ Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít, đánh
bại phát xít Nhật, giành chính quyền.
+ Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc.
Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
+ Cách mạng đã xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ quân
chủ phong kiến.
- Cách mạng Tháng Tám còn mang đậm tính nhân văn: hoàn thành một bước cơ bản sự nghiệp
giải phóng con người Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự
nô dịch về mặt tinh thần.
4.2. Ý nghĩa
- Đối với Việt Nam:
+ Đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập, tự do, đứng lên làm chủ
vận mệnh của mình.
+ Việt Nam từ nước thuộc địa trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền, Đảng Cộng sản Đông
Dương trở thành đảng hợp pháp nắm chính quyền, lãnh đạo đất nước phấn đấu vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

27
- Đối với quốc tế:
+ Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở một
nước thuộc địa, đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra
thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, cổ vũ nhân dân các dân tộc thuộc
địa đấu tranh tự giải phóng mình, giành độc lập tự do.
+ Góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải
phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ
rằng, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự
lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin với đường lối đúng đắn, có thể giành thắng lợi.
4.3. Bài học kinh nghiệm
- Về chỉ đạo chiến lược: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất trong cách mạng thuộc địa.
- Về xây dựng lực lượng: trên cơ sở khối liên minh công - nông, cần khơi dậy tinh thần dân tộc
trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi.
- Về phương pháp cách mạng: nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng, ra sức
xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, tiến
lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Về nghệ thuật khởi nghĩa, chớp thời cơ: nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, dự đoán đúng thời cơ;
chớp lấy thời cơ, hành động mau lẹ, kịp thời, kiên quyết và khôn khéo khi thời cơ xuất hiện.
- Về xây dựng Đảng: xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn dân tộc vững mạnh, tuyệt đối trung thành với lợi ích dân tộc và giai cấp; vận dụng và
phát triển lý luận Mác - Lênin, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng Đảng vững mạnh về tư
tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ CỦNG CỐ KIẾN THỨC

1. Chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là tất yếu lịch sử?
2. Nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 2 - 1930, Luận cương chính trị
tháng 10 - 1930?
3. Tại sao nói Cương lĩnh chính trị tháng 2 - 1930 do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương lĩnh
đúng đắn và sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn tính dân tộc và giai cấp?
4. Hoàn cảnh lịch sử, quá trình phát triển đường lối cách mạng của Đảng đối với cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc qua các giai đoạn 1930 - 1935, 1936 - 1939, 1939 - 1945, ý nghĩa và các bài học
kinh nghiệm được rút ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng?
5. Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm? Sinh viên vận dụng vào việc nắm bắt thời cơ của đất nước giai đoạn hiện nay như thế nào?
6. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc đóng góp vào xây dựng tổ chức Đảng và
các đoàn thể chính trị (Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên…) nhằm xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn
hiện nay?

28
TÀI LIỆU HỌC TẬP

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1-7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/van-kien-dang-toan-tap
4. Trần Văn Giàu (2005), Cách mạng tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
5. Lê Mậu Hãn (2009), Các Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/cac-cuong-
linh-cach-mang-cua-dang-cong-san-viet-nam-252
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên Đảng Cộng
sản Việt Nam, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-dang/lich-su-bien-
nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-1-18
7. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2008), Lịch sử biên
niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-dang/lich-su-bien-
nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-2-175
8. PGS,TS. Phạm Xanh (2009), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt
Nam (1921-1930), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/nguyen-ai-
quoc-voi-viec-truyen-ba-chu-nghia-mac-lenin-o-viet-nam-1921-1930-231
9. Tạp chí Lý luận chính trị
http://lyluanchinhtri.vn/

29
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1945 - 1975)

I. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)


1.1. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám
1.1.1. Thuận lợi
- Quốc tế:
+ Liên Xô trở thành thành trì của CNXH, nhiều nước ở Đông và Trung Âu được sự ủng hộ, giúp
đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo CNXH.
+ Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh phát triển, phong trào
dân chủ và hoà bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ.
- Trong nước:
+ Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
+ Đảng Cộng sản đã trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước.
+ Chính quyền được xây dựng và hoàn thiện từ Trung ương đến cơ sở.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập dân tộc, tự
do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Khó khăn
- Lực lượng đế quốc và các thế lực phản cách mạng đang tìm mọi cách để phục hồi và phát triển
vai trò của mình, phản kích mạnh mẽ các lực lượng hoà bình, dân tộc, dân chủ và CNXH. Mâu thuẫn
giữa hai lực lượng diễn biến khá phức tạp và ngày càng gay gắt.
- Chính quyền Nhà nước Việt Nam vừa ra đời còn non trẻ, chưa được củng cố vững chắc; hậu quả
chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, lực lượng vũ trang cách mạng đang trong thời kỳ hình thành, các
công cụ bạo lực khác chưa được xây dựng.
- Kinh tế - tài chính: nạn đói năm 1945 chưa khắc phục được; nền kinh tế tiêu điều, công nghiệp
đình đốn, ruộng đất bị bỏ hoang. Tài chính kiệt quệ, kho bạc chỉ còn 1,2 triệu đồng Đông Dương (một
nửa rách nát), ngân hàng Đông Dương vẫn đang nằm trong tay tư bản Pháp. Bọn Tưởng Giới Thạch
mang tiền quan kim và quốc tệ gây rối loạn thị trường.
- Văn hoá: 95% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn nặng nề.
- Thù trong - giặc ngoài:
+ Cuối tháng 8 - 1945, 20 vạn quân Tưởng kéo theo lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách dưới
sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ đã vào miền Bắc với danh nghĩa quân đội Đồng minh giải giáp phát-xít
Nhật nhưng thực chất là thực hiện âm mưu diệt Đảng, phá tan Việt Minh.
+ Đầu tháng 9 - 1945, quân đội Anh vào phía Nam với danh nghĩa quân đội Đồng minh nhưng
thực chất là kiếm chác quyền lợi bằng việc trao đổi, tiếp tay cho Pháp quay trở lại Đông Dương. Một

30
số đơn vị quân đội Pháp dưới sự giúp đỡ của Anh đã nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn từ ngày
23 - 9 - 1945.
+ Khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ được tước vũ khí nhưng một trong số đó đã thực hiện lệnh
của quân Anh, quân Tưởng để chống phá cách mạng.
1.2. Xây dựng chế độ mới và bảo vệ chính quyền cách mạng
1.2.1. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng
- Ngày 25 - 11 - 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạch rõ
những nhiệm vụ chiến lược và cần kíp của cách mạng Việt Nam:
+ Về tính chất của cuộc cách mạng: vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng
ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập.
+ Kẻ thù chính của cách mạng: Thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng.
+ Khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
+ Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của toàn dân tộc ta: củng cố chính quyền cách mạng, chống thực
dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng
cố chính quyền cách mạng.
+ Biện pháp cụ thể:
Về nội chính: xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, xử lý bọn
phản động đối lập, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên và lãnh đạo lực lượng toàn dân tiến hành kháng chiến trường kỳ.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, “thêm bạn, bớt thù”. Đối với quân đội
Tưởng, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện”. Đối với Pháp, chủ trương “độc lập về chính trị,
nhân nhượng về kinh tế”.
Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã giải quyết kịp thời
những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ vừa mới
giành được chính quyền, tạo cơ sở đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
1.2.2. Quá trình lãnh đạo xây dựng chính quyền, cải thiện đời sống nhân dân
- Củng cố chính quyền, xây dựng nền móng chế độ mới:
+ Ngày 6 - 1 - 1946, tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà với 333 đại biểu.
+ Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội khoá I họp kỳ đầu tiên, lập Chính phủ chính thức và kiện toàn bộ
máy do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, bầu Ban Thường vụ Quốc hội.
Ở các địa phương, nhân dân bầu ra hội đồng nhân dân các cấp. Các hội đồng nhân dân cử ra Uỷ
ban hành chính các cấp.
+ Ngày 9 - 11 - 1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta. Hiến
pháp ghi nhận quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ của mọi công dân.
+ Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập trung kháng
chiến chống Pháp ở Nam bộ:
Thành lập Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), nhằm đoàn kết tất cả các lực
lượng và cá nhân trước đây chưa có điều kiện tham gia Mặt trận Việt Minh.
Các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt ra đời: Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam (5 - 1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7 - 1946), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10 - 1946).

31
- Về kinh tế - tài chính:
+ Phát động các phong trào, cuộc vận động lớn như thi đua sản xuất và tiết kiệm giúp nhau chống
giặc đói: Tăng gia sản xuất - phát động phong trào thi đua sản xuất “tấc đất, tấc vàng”, “không bỏ phí
một tấc đất hoang”; tổ chức “hũ gạo cứu đói”, “ngày đồng tâm” - thực hiện khẩu hiệu “lá lành đùm lá
rách”, “nhường cơm sẻ áo”; tổ chức “Tuần lễ vàng”, gây quỹ “Độc lập”, “Đảm phụ quốc phòng”,
“Nam bộ kháng chiến”…
+ Ra sắc lệnh bãi bỏ những thứ thuế vô lý, giảm tô 25%; tổ chức khuyến khích khai hoang, phục
hoá, sửa chữa đê điều; tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho nông dân nghèo.
+ Xây dựng một nền tài chính độc lập bằng việc lập Ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc Việt
Nam trong cả nước thay thế giấy bạc Đông Dương (23 - 11 - 1946), lập ngân quỹ toàn quốc, ngân quỹ
các xứ và các tỉnh.
Trong một thời gian ngắn, nền kinh tế - tài chính của đất nước đã đạt được những kết quả lớn: vụ
mùa năm 1946 ở Bắc Bộ đã sản xuất trên diện tích 890.000 ha với sản lượng 1.155.000 tấn lúa. Nạn
đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân dần được ổn định. Các ngành kinh tế công thương nghiệp, giao
thông vận tải… cũng đã dần dần khôi phục sản xuất, kinh doanh. Nhân dân ta đã tự nguyện đóng góp
được 370kg vàng, 20 triệu đồng cho quỹ độc lập và 40 triệu đồng cho quỹ đảm phụ quốc phòng. Việc
đổi tiền đã làm cho ta giành được chủ quyền về tiền tệ, chúng ta giải quyết được một phần chi tiêu của
Chính phủ, phục vụ sản xuất, đời sống, bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam.
- Về văn hoá - xã hội:
+ Phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xoá nạn mù
chữ; xây dựng một nền giáo dục mới từ tiểu học đến đại học với nội dung và phương pháp đổi mới
theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
+ Vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hoá mới, bài trừ tệ nạn xã hội, xây
dựng đạo đức mới với nội dung “cần - kiệm - liêm - chính”.
Chỉ trong vòng một năm đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Nền văn hoá và đời sống mới
bước đầu được định hình, tệ nạn xã hội giảm đáng kể.
- Về quốc phòng - an ninh:
+ Củng cố và tổ chức lại lực lượng vũ trang: xây dựng công an nhân dân, tích cực mua sắm vũ khí,
tích trữ lương thực, thuốc men, củng cố các cơ sở và căn cứ địa cách mạng trên cả nước.
+ Phát động phong trào luyện tập quân sự, vũ trang quần chúng cách mạng. Quân sự hoá toàn dân
được thực hiện rộng khắp; lực lượng quân tự vệ là “bức tường sắt của Tổ quốc”.
+ Giải tán hai đảng phản động, tay sai (Đảng Đại Việt quốc gia xã hội và Đại Việt quốc dân Đảng),
lập toà án quân sự.
* Ý nghĩa: Thắng lợi bước đầu của quá trình xây dựng nền móng của chế độ mới, cải thiện đời
sống nhân dân có ý nghĩa chính trị vô cùng to lớn. Nhân dân ta được hưởng những quyền dân sinh,
dân chủ, thể hiện rõ sự ưu việt của chế độ mới càng thêm gắn bó và quyết tâm bảo vệ chế độ mới,
càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sức mạnh giúp ta đấu tranh một cách có hiệu quả
trong việc bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
1.2.3. Tổ chức kháng chiến chống thực dân xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền
cách mạng non trẻ
- Tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ:
Ngày 23 - 9 - 1945, Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ
được thành lập. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ bắt đầu.

32
Ngày 25 - 10 - 1945, Xứ uỷ Nam Bộ6 triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ ở Thiên Hộ (Mỹ
Tho) đã chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp, để tiêu hao sinh lực và chặn bước tiến
giặc; xây dựng, củng cố cơ sở cách mạng trong thành phố và các vùng địch đánh chiếm; xây dựng lực
lượng vũ trang vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống tổ chức, chỉ huy thống nhất.
Nhân dân Nam Bộ nhất loạt đứng lên đấu tranh chống trả hành động xâm lược của thực dân Pháp,
kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do và chính quyền cách mạng.
Đảng và Chính phủ phát động phong trào “Nam tiến” để chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng
bào Nam Bộ. Cuối tháng 10 - 1945, những đơn vị chi viện từ miền Bắc, miền Trung đã vào đồng
bằng Nam Bộ. Hàng vạn thanh niên nô nức lên đường Nam tiến. Nhân dân miền Nam "thành đồng Tổ
quốc" chiến đấu với sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của cả dân tộc đã làm thất bại âm
mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
- Hoà hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc (9 - 1945 đến 3 - 1946):
+ Lý do hoà với Tưởng: xác định Tưởng là kẻ thù thứ yếu và có nhiều yếu điểm, chủ trương hoà
với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam.
+ Biện pháp hoà hoãn:
Ngày 11 - 11 - 1945, Đảng tuyên bố tự giải tán, nhưng thực ra là rút vào hoạt động bí mật dưới
danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Ta chấp nhận cung cấp lương thực, thực phẩm, chỗ ăn ở cho 20 vạn quân Tưởng; tiêu tiền mất giá
“quan kim”, “quốc tệ”.
Mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 18 thành viên
trong đó có Việt quốc và Việt cách, chấp nhận 70 ghế Quốc hội của Việt quốc và Việt cách không qua
bầu cử, đưa tổng đại biểu quốc hội lên 403 đại biểu.
+ Nguyên tắc: nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững
mục tiêu độc lập thống nhất, dựa vào khối đại đoàn kết dân tộc, vạch trần những hành động nhằm lật
đổ chính quyền của các lực lượng tay sai.
+ Kết quả: Làm thất bại âm mưu của quân Tưởng, đảm bảo cho nhân dân ta tập trung kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam. Chính quyền được giữ vững và củng cố về mọi mặt.
Tranh thủ được thời gian để thực hiện chủ trương kháng chiến, kiến quốc.
- Đàm phán ngoại giao với Pháp, thực hiện chủ trương “Hoà để tiến”(3 - 1946 đến 12 - 1946):
+ Lý do hoà với Pháp: Ngày 28 - 2 - 1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, theo đó, Pháp nhân
nhượng một số quyền lợi kinh tế cho Chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để Pháp được đưa quân
ra miền Bắc Việt Nam, còn Tưởng rút quân về nước đối phó với Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc. Đảng chọn giải pháp “hoà để tiến” để tránh được tình thế phải đối đầu với nhiều kẻ thù cùng
một lúc, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hoà hoãn để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập.
+ Biện pháp hoà hoãn:
Chính phủ ta đã đàm phán và ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6 - 3 - 1946, quy
định: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân đội và
tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý cho

6
Xứ uỷ Nam Bộ (1945 - 1951) được thành lập trên cơ sở Xứ uỷ Nam Kỳ (1930 - 1945). Đây là cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng bộ Nam bộ, trực tiếp lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Nam bộ. Đến tháng 3 - 1951, do yêu cầu cấp
thiết của cuộc kháng chiến cùng với sự thay đổi của tình hình cả nước và khu vực Đông Dương, Đảng tiến hành phát
triển tổ chức thành Trung ương Cục miền Nam.

33
15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho quân Tưởng, sau 5 năm phải rút hết về nước; hai bên
đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi đến ký hiệp định chính thức.
Ngày 9 - 3 - 1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến để nói rõ hơn chủ trương
hoà với Pháp.
Ngày 19 - 4 - 1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính
thức tại Pháp, song do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân nên Hội nghị đã bế tắc.
Cuộc đàm phán Việt - Pháp được mở ra ở Fontainebleau từ 6 - 7 - 1946 đến 10 - 9 - 1946 không
thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp.
Ngày 14 - 9 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước, thoả thuận một
số điều về kinh tế, văn hóa, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng
1 - 1947.
+ Kết quả: Tranh thủ thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và phát triển lực
lượng về mọi mặt:
Về chính trị: tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố vững chắc chính quyền
nhân dân.
Về kinh tế: tích cực đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, tích trữ lương thực.
Về quân sự: phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các chiến khu, chuẩn bị hậu phương cho cuộc
kháng chiến lâu dài.
Về xây dựng Đảng: Đảng đã lớn mạnh cả về chất lượng lẫn số lượng. Nội bộ Đảng được củng cố,
thống nhất; đội ngũ cán bộ của Đảng được đào tạo và phát triển.
Mặc dù thực dân Pháp bội ước, nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn và cần thiết của
các hiệp định này. Chúng ta hoà để từng bước củng cố nền độc lập vừa mới giành được. Hiệp định sơ
bộ 6 - 3 và bản Tạm ước 14 - 9 đã phản ánh quan điểm giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng
lợi hoàn toàn. Việc ký các thoả thuận này là đỉnh cao nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của
Hồ Chí Minh.
Từ tháng 9 - 1945 đến 12 - 1946, Đảng đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn thử thách hiểm
nghèo, củng cố và phát huy thành quả của cách mạng tháng Tám, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng
chiến chống Pháp.
*Ý nghĩa: Thời kỳ này để lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc; về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính,
về sự nhân nhượng có nguyên tắc; tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính
quyền nhân dân, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước.
2. Lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn quốc (1946 - 1950)
2.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
2.1.1. Bối cảnh
- Từ cuối tháng 10 - 1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng. Pháp lấn chiếm
nhiều nơi đóng quân ở Bắc Bộ, khiêu khích, xung đột.
- Cuối tháng 11 - 1946, quân Pháp tấn công chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và Đà Nẵng, bắt đầu mở
rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn và quyết liệt đối với miền Bắc.
- Ngày 16 và 17 - 12 - 1946, tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích và tàn sát đồng bào ở Phố Yên
Ninh, Hàng Bún. Sau đó, chúng ngang nhiên chiếm Ngân hàng, trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông
công chính.

34
- Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ và liên tiếp gửi tối hậu thư đòi Chính phủ
Việt Nam phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải giáp lực lượng vũ trang và đòi độc quyền thực thi
nhiệm vụ kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh quân sự nếu
ta không thực hiện các yêu sách đó.
2.1.2. Đường lối kháng chiến của Đảng
Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn bản: Chỉ thị “Toàn dân
kháng chiến” (12 - 12 - 1946) của Ban thường vụ Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” (19 - 12 - 1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”
(năm 1947) của đồng chí Trường Chinh.
- Mục tiêu của cuộc kháng chiến: đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống
nhất hoàn toàn, vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hoà bình thế giới.
- Tính chất của cuộc kháng chiến: tính chất dân tộc giải phóng và tính chất dân chủ mới.
- Phương châm của cuộc kháng chiến: chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào
sức mình là chính:
+ Toàn dân: phải động viên, giáo dục và tổ chức toàn dân tham gia kháng chiến, kháng chiến khắp
nơi, thực hiện vũ trang toàn dân.
+ Toàn diện: đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận, cả chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng,
quân sự, ngoại giao, trong đó mặt trận đấu tranh quân sự giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định.
+ Lâu dài: vừa đánh vừa tiêu hao sinh lực địch, vừa xây dựng và phát triển lực lượng của ta, làm
cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu
của ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy; từng bước làm thay đổi so
sánh lực lượng có lợi cho ta, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
+ Dựa vào sức mình là chính: dựa vào nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất và
tinh thần trong nhân dân làm nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân; trên cơ sở đó tìm
kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự
chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.
- Triển vọng kháng chiến: Kháng chiến nhất định thắng lợi.
*Ý nghĩa: Là ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên; là nhân tố
quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến (1947 - 1950)
- Về chính trị:
+ Trung ương Đảng quyết định chia cả nước thành các khu (sau này thành các chiến khu quân sự)
để phục vụ yêu cầu chỉ đạo cuộc kháng chiến.
+ Các Uỷ ban kháng chiến hành chính được thành lập, các tổ chức chính trị, xã hội được củng cố
nhằm tăng cường đoàn kết, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
+ Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp; ổn định và củng cố bộ máy chính
quyền các cấp.
+ Xây dựng, phát triển Đảng: đến năm 1950, Đảng có trên 70 vạn đảng viên hoạt động trên mọi
lĩnh vực; hàng vạn tổ chức cơ sở của Đảng đã ăn sâu, bám rễ trong nhân dân. Đảng đã được nhân dân
thừa nhận là đội tiên phong của mình.
- Về xây dựng tiềm lực:
+ Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân dân.
+ Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phổ thông, cải cách giáo dục.

35
+ Phát triển lực lượng vũ trang: xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: dân quân du kích, bộ đội
địa phương, bộ đội chủ lực. Cả nước có khoảng gần 1 triệu dân quân du kích (cuối năm 1949), 45.000
bộ đội địa phương (đầu năm 1950), 125.000 bộ đội chủ lực (năm 1947), 12 trung đoàn chủ lực
(năm 1950), 4 đại đoàn chủ lực (1951). Cục pháo binh và Cục thông tin liên lạc cũng được thành lập
(năm 1949).
+ Mở rộng ngoại giao, tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ và nhân
dân thế giới với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
- Về quân sự:
+ Từ 19 - 12 - 1946 đến đầu năm 1947: quân và dân các thành phố và thị xã ở Bắc vĩ tuyến 16 đã
nổ súng tấn công địch ở khắp nơi, chiếm giữ được nhiều vị trí quan trọng nhưng do địch phản công
mạnh nên Đảng đã chủ trương rút lực lượng ra ngoại thành và các vùng nông thôn, rừng núi để bảo
toàn lực lượng và tiến hành kháng chiến lâu dài. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của quân và dân thủ đô
Hà Nội, chiến đấu giam chân địch trong thành phố, tiêu diệt 2.000 tên địch, bảo vệ các cơ quan Đảng
và Chính phủ di chuyển lên Việt Bắc an toàn.
+ Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947:
Ngày 7 - 10 - 1947, thực dân Pháp huy động 12 ngàn quân tinh nhuệ mở cuộc tấn công lên Việt
Bắc. Ngày 15 - 10 - 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Phải phá cuộc tấn công mùa
đông của giặc Pháp”.
Sau hai tháng phản công, ta tiêu diệt hơn 7.000 tên địch, một phần lớn quân Pháp buộc phải rút
khỏi Việt Bắc. Kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại.
+ Từ năm 1948, thực dân Pháp phải chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”, ráo
riết bình định vùng tạm chiếm, đẩy mạnh xây dựng Chính phủ bù nhìn, mở rộng nguỵ quân, mở các
cuộc hành quân nhỏ, nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến.
Đảng ta đã phát động phong trào Tổng phá tề, kết hợp phong trào nổi dậy của quần chúng với các
cuộc tiến công quân sự của dân quân du kích và bộ đội chủ lực. Phong trào du kích chiến phát triển
rộng khắp ở vùng hậu địch từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ đã tiêu
hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn và tăng cường bồi dưỡng lực lượng của ta, tăng cường phối hợp
chiến đấu với quân, dân Lào, Campuchia, Trung Quốc.
+ Thắng lợi của chiến dịch Biên giới 1950:
Tháng 6 - 1950, Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, tiến công
địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn nhằm tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực của địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang mở rộng quan hệ thông
thương với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng
chiến phát triển lên giai đoạn mới.
Ngày 16 - 9 - 1950, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định đánh Đông Khê (Cao Bằng) để mở màn
chiến dịch Biên giới. Qua 29 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt hơn 8.000 địch, thu trên 3.000 tấn vũ
khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng một khu vực biên giới rộng lớn.
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi (1951 - 1954)
3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2 - 1951)
3.1.1. Bối cảnh
- Hệ thống XHCN đã lớn mạnh: Liên Xô lớn mạnh vượt bậc, các nước XHCN ở châu Âu bước
vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời làm
thay đổi so sánh lực lượng trên trường quốc tế có lợi cho hoà bình và cách mạng.

36
- Mỹ từng bước can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
- Cách mạng Đông Dương có nhiều thắng lợi: cuộc kháng chiến của Việt Nam giành nhiều thắng
lợi quan trọng, cách mạng Lào và Campuchia có nhiều chuyển biến tích cực.
Tình hình đó yêu cầu Đảng Cộng sản Đông Dương cần bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
3.1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951)
- Thời gian: từ ngày 11 đến ngày 19 - 2 - 1951.
- Địa điểm: xã Vinh Quang - Chiêm Hoá - Tuyên Quang.
- Thành phần: 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên.
- Nội dung:
+ Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam,
Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
+ Thông qua Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày với những nội dung chính:
Tổng kết phong trào cách mạng thế giới và Việt Nam, dự báo triển vọng phát triển;
Nhiệm vụ trước mắt: tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống
nhất đất nước;
Biện pháp: tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, mở rộng đoàn kết,
đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.
+ Thông qua Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh trình bày, Chính cương và
Điều lệ Đảng.
+ Đại hội đã bầu BCHTW mới gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết; Bộ Chính trị
gồm 7 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng và đồng
chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
3.1.3. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
- Tính chất của xã hội Việt Nam: có 3 tính chất “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa
phong kiến”.
- Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực
phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
- Đối tượng của cách mạng: đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp, và bọn can thiệp
Mỹ; đối tượng phụ là bọn phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng: “Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật
sự cho dân tộc; xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH”.7
Ba nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính là tập trung đấu tranh
chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.
- Động lực của cách mạng: gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư
sản dân tộc, ngoài ra còn có thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó, nòng cốt là công nhân,
nông dân và lao động trí thức; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng.
- Triển vọng phát triển của cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên CNXH.

7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.434

37
- Chính sách: thực hiện 15 chính sách lớn của Đảng nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi, đặt cơ sở cho việc thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, làm tiền đề tiến lên CNXH.
3.2. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến đến thắng lợi
3.2.1. Xây dựng thực lực kháng chiến
- Xây dựng lực lượng chính trị:
+ Từ ngày 3 đến ngày 7 - 3 - 1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh và Liên Việt đã họp và
quyết định thống nhất hai tổ chức, thành lập Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Khối
đại đoàn kết toàn dân được phát triển lên một bước mới.
+ Ngày 11 - 3 - 1951, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã họp,
quyết định thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng tương trợ và tôn trọng chủ quyền lẫn nhau. Thành công của Hội nghị là một thắng
lợi mới của chiến lược đại đoàn kết ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương, đoàn kết các lực
lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ thế giới, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết quốc tế nhằm
đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
+ Tháng 4 - 1952, Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng đề ra những quyết sách lớn về công tác
“chỉnh Đảng, chỉnh quân”, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây
dựng quân đội giai đoạn này. Cuộc vận động chỉnh Đảng 1952 - 1953 giúp cho cán bộ đảng viên quán
triệt thêm đường lối kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, khắc phục những lệch lạc “tả”
khuynh, “hữu” khuynh.
+ Hệ thống chính quyền dựa trên cơ sở chính trị là Mặt trận Liên Việt đã tiếp tục được củng cố và
kiện toàn về tổ chức và lề lối hành chính từ trung ương đến địa phương. Quan hệ giữa Ban Thường trực
Quốc hội và Chính phủ ngày càng mật thiết trong công tác tổ chức điều hành kháng chiến và kiến quốc.
- Xây dựng nền kinh tế kháng chiến:
+ Mở cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục khó khăn, hăng hái lao động
nhằm giảm bớt căng thẳng về lương thực, thực phẩm, bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang,
quân dụng.
+ Chấn chỉnh lại chế độ thuế khoá, tài chính, xây dựng thương nghiệp, ngân hàng, thực hiện từng
bước chính sách ruộng đất, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách địa tô.
+ Thực hiện chính sách cải cách ruộng đất: Đầu năm 1953, Đảng vận động quần chúng thực hiện
triệt để giảm tô, giảm tức để tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị BCHTW lần thứ 5 và Hội nghị toàn
quốc của Đảng lần thứ nhất tháng 11 - 1953 quyết định thông qua Cương lĩnh ruộng đất, chủ trương
cải cách ruộng đất. Tháng 12 - 1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, tiến hành cải cách
ruộng đất ở một số địa phương trong vùng tự do, nhằm đẩy mạnh kháng chiến, đưa kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn. Hàng ngàn hecta ruộng đất, các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất được chia
cho nông dân nghèo, đặc biệt là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức lòng bộ đội nơi tiền tuyến,
tăng thêm quyết tâm đánh giặc, lập công, góp phần tích cực động viên sức người, sức của cho chiến
dịch Điện Biên Phủ… Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong nhận thức, sai lầm của giáo điều chủ
nghĩa, phạm khuyết điểm nghiêm trọng là độc đoán, chuyên quyền, định kiến chủ quan, mệnh lệnh,
nhất là trong phương pháp, cách làm, chỉ đạo xử lý không đúng ở một số trường hợp oan sai nên càng
về sau, cải cách ruộng đất càng mắc phải những sai lầm nghiêm trọng.
Về nông nghiệp: đến năm 1953, trong vùng tự do và vùng căn cứ du kích ở các tỉnh từ Liên khu IV
trở ra đã sản xuất được 2.757.000 tấn lúa và 650.800 tấn hoa màu; chính sách giảm tô đã đạt được kết
quả lớn, có 397.000 ha ruộng đất được giảm 25%; kết quả cải cách ruộng đất đã đem lại 70,7% ruộng
đất nông dân sử dụng (trong các xã đã cải cách ruộng đất).

38
Các ngành công nghiệp quốc phòng tiếp tục giữ vững sản xuất. Giai đoạn 1951 - 1953, từ Liên khu
IV trở ra, chúng ta sản xuất được 1.310 tấn vũ khí đạn dược. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất
các hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân như vải, dầu, muối… cũng tiếp tục được phát triển.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Mậu dịch quốc doanh đã được thành lập.
Nhờ chính sách kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, chính sách thuế mới công
bằng, hợp lý, quản lý tài chính chặt chẽ, thu chi ngày càng hợp lý cho nên sản xuất được phát triển,
thu chi ngân sách dần cân bằng, nạn lạm phát được khắc phục. Ta đã thắng lợi trong xây dựng nền
kinh tế kháng chiến, bước đầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có tính chất dân chủ nhân dân, cơ
sở hạ tầng cho chế độ mới.
- Xây dựng nền văn hoá kháng chiến:
+ Thực hiện khẩu hiệu “Kháng chiến hoá văn hoá và văn hoá hoá kháng chiến”. Văn nghệ sỹ đã
lên đường ra trận, tham gia chiến dịch; các đoàn dân công, thanh niên xung phong ra hoả tuyến, vào
nhà máy và làm việc trên cả ruộng đồng. Công tác bổ túc văn hoá được đẩy mạnh; giáo dục phổ thông
9 năm đã phát triển mạnh mẽ (năm 1954 có 1.132.196 học sinh trong vùng tự do); sau khi biên giới
khai thông, Chính phủ đã cử hàng ngàn cán bộ và học sinh tốt nghiệp phổ thông và đại học đi học dài
hạn ở nước ngoài, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc.
Văn hoá, văn nghệ đã có một bước phát triển mạnh mẽ, góp phần đắc lực vào sự nghiệp giáo dục,
động viên tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nêu cao ý chí chiến đấu vì độc lập
thống nhất.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm
cứu thương được xây dựng khắp nơi. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong vùng tự do và
căn cứ du kích ổn định và cải thiện rõ rệt.
- Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa kháng chiến:
+ Đảng chủ trương vũ trang toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt
(dân quân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực). Đến năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại
đoàn, 2 trung đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công - pháo binh. Cuộc vận động “chỉnh quân” vào mùa hè
năm 1953 đã nâng cao nhận thức chính trị và trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội.
+ Căn cứ địa8 - hậu phương của các chiến trường ngày càng được củng cố và mở rộng. Việt Bắc
được xây dựng và củng cố một cách toàn diện, vững chắc. Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc liên
khu IV, vùng tự do liên khu V được củng cố vững mạnh. Đến năm 1954, vùng tự do và các vùng căn
cứ của ta từ Bắc đến Nam đã chiếm hơn 70% diện tích đất nước và hơn 50% dân số trong cả nước.
3.2.2. Lãnh đạo đấu tranh vũ trang
- Giai đoạn 1951 - 1953:
+ Từ đầu năm 1951, với thế chủ động trên chiến trường, quân ta liên tiếp mở các chiến dịch tiến
công quân sự có quy mô tương đối lớn đánh vào các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung du và
đồng bằng Bắc Bộ: Trần Hưng Đạo (12 - 1950), Hoàng Hoa Thám (3 - 1951), Quang Trung (5 - 1951).
+ Giữa tháng 11 - 1951, quân Pháp mở cuộc hành binh "Hoa sen", huy động lực lượng lớn đánh
chiếm Hòa Bình nhằm mở rộng khu chiếm đóng, tăng cường phòng ngự phía tây nam Đồng bằng
Bắc Bộ, ngăn chặn đường liên lạc vận chuyển của ta giữa Việt Bắc với Liên khu 3, Liên khu 4;
chọn một chiến trường định trước, buộc ta phải tham chiến sớm để tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận

8
Căn cứ địa cách mạng: vùng lãnh thổ và dân cư do lực lượng cách mạng làm chủ, tương đối an toàn (có thể là vùng tự
do hoặc căn cứ du kích đã được xây dựng, củng cố vững chắc); nơi đứng chân và làm chỗ dựa để lực lượng cách mạng
chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa hoặc chiến tranh cách mạng.

39
sinh lực của ta, phá kế hoạch tiến công thu đông của quân ta, qua đó cố giành lấy một thắng lợi về
chính trị, quân sự để làm yên lòng chính phủ Pháp và Mỹ.
Ngày 24 - 11 - 1951, Trung ương Đảng ra chỉ thị mở cuộc tấn công tiêu diệt sinh lực địch ở Hòa
Bình từ ngày 10 - 12 - 1951 đến 25 - 2 - 1951, phá kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình của địch, giải
phóng khu vực Hòa Bình, sông Đà với khoảng 2.000 km2; tiêu diệt hơn 6.000 tên địch, thu 24 khẩu
pháo, gần 800 súng các loại, bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 18 ca nô, tàu, xuồng, phá hủy
246 xe quân sự...
+ Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Tây Bắc từ 14 - 10 đến 10 -
12 - 1952, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, đánh bại ý đồ của thực dân Pháp lập “xứ Thái tự trị” và giải
phóng một phần đất đai ở Tây Bắc. Tham gia chiến dịch gồm có các đại đoàn: 308, 312, 316, 351
và Trung đoàn 148; tiến công địch từ Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Lai Châu, giải phóng một vùng
rộng lớn khu vực Tây Bắc.
+ Tiếp tục đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, đánh địch khắp nơi, tiêu diệt sinh lực địch,
giải phóng đất đai.
+ Tháng 4 - 1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân giải phóng Lào mở chiến dịch
Thượng Lào, giải phóng Xiêng Khoảng và một phần tỉnh Sầm Nưa, Phôngxalỳ, giúp chính phủ kháng
chiến Lào giải phóng thêm đất đai và mở rộng căn cứ địa, phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp
ở Bắc Đông Dương.
Những thắng lợi trên mặt trận đấu tranh quân sự giai đoạn 1951 - 1953 đã đẩy địch vào thế bị động
và thế thua. Cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương đã chuyển biến mạnh mẽ, có lợi cho
quân và dân Việt Nam, Lào và Campuchia.
- Giai đoạn 1953 - 1954:
+ Âm mưu của địch: tiến hành kế hoạch Nava gồm có hai bước: Một là, phòng ngự và tránh giao
chiến với quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ trong Đông Xuân 1953 - 1954, tiến công ở Trung Bộ và Nam
Bộ, mở rộng nguỵ quân để xây dựng các lực lượng cơ động mạnh ở Bắc Bộ. Hai là, Thu Đông 1954
tiến công miền Bắc, tạo ra một cục diện quân sự có lợi cho thực dân Pháp để đưa ra một giải pháp
chính trị có lợi cho chúng.
+ Chủ trương của Đảng: Tháng 9 - 1953, Hội nghị Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta, giữ
vững thế chủ động, buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó.
+ Diễn biến:
Từ tháng 11 - 1953 đến đầu năm 1954, ta mở chiến dịch trên chiến trường Việt Nam - Lào nhằm
phân tán, kìm giữ lực lượng địch ở những nơi khó ứng cứu cho nhau và mở hàng loạt chiến dịch ở
chiến trường Đông Dương: Tiến công địch ở Tây Bắc (10 - 12 - 1953), giải phóng Lai Châu, uy hiếp
Điện Biên Phủ, tiến công địch ở Trung Lào (21 - 12 - 1953). Tiến công địch ở Hạ Lào về phía đông
Campuchia (31 - 1 - 1954), mở rộng xuống tây - bắc Campuchia, tiến công địch ở Tây Nguyên
(26 - 1 - 1954), giải phóng Kontum (5 - 2 - 1954), uy hiếp Pleiku.
Ngày 6 - 12 - 1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, giao Đại tướng Võ
Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực tiếp làm Tư lệnh, kiêm Bí thư
Đảng uỷ chiến dịch.
Ngày 13 - 3 - 1954, các lực lượng vũ trang nổ súng tiến đánh Điện Biên Phủ. Ngày 7 - 5 - 1954,
chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc. Ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắt sống tướng De
Catries và toàn bộ Bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm.

40
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 -
1954 của quân và dân Việt Nam, đánh bại kế hoạch quân sự Nava, làm xoay chuyển cục diện chiến
tranh, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Genève.
3.2.3. Đấu tranh ngoại giao
- Ngày 8 - 5 - 1954, Hội nghị về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương được khai
mạc tại Genève (Thuỵ Sỹ).
- Tham dự Hội nghị có 9 đoàn đại biểu: Mỹ - do Bedell Smith làm trưởng đoàn, Anh - do Anthony
Eden, Bộ trưởng Ngoại giao làm trưởng đoàn, Pháp - do G. Bidault làm trưởng đoàn, Liên Xô - do
Viacheslav Molotov, Bộ trưởng Ngoại giao làm trưởng đoàn, Trung Quốc - do Thủ tướng Chu Ân Lai
làm trưởng đoàn, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn,
ngoài ra còn có đoàn đại biểu của Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia và Quốc gia Việt Nam
(chính quyền Bảo Đại).
- Lập trường của Việt Nam là đình chiến trên bán đảo Đông Dương, đi đôi với một giải pháp về
chính trị cho Việt Nam, Lào, Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
- Sau 75 ngày đàm phán, qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp cấp trưởng đoàn và nhiều cuộc
gặp gỡ riêng, ngày 21 - 7 - 1954, hội nghị đã thông qua bản Tuyên bố cuối cùng về vấn đề lập lại hoà
bình ở Đông Dương có chữ ký của các bên, ngoại trừ Mỹ, nhưng Mỹ cam kết tôn trọng Hiệp định.
- Nội dung của Hiệp định Genève:
+ Pháp và các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam,
Lào và Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước đó.
+ Quy định ngừng bắn đồng thời trên toàn Đông Dương.
+ Đối với Việt Nam: Vĩ tuyến 170 là giới tuyến quân sự tạm thời, Pháp ở phía Nam nước ta. Việc
hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ ngày 20 - 7 - 1955, Pháp rút quân và nước ta tiến hành tổng
tuyển cử vào tháng 7 - 1956.
+ Ở Lào, có một khu tập kết hai tỉnh cho lực lượng kháng chiến. Ở Campuchia, lực lượng kháng
chiến phục viên tại chỗ.
* Ý nghĩa: Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam, Lào, Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
mở ra trang mới trong lịch sử dân tộc.
4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống Pháp và can
thiệp Mỹ
4.1. Ý nghĩa lịch sử
4.1.1. Đối với Việt Nam
- Bảo vệ và phát triển thành quả của cách mạng Tháng Tám, củng cố, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
- Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trên cả nước.
4.1.2. Đối với thế giới
- Cổ vũ mạnh mẽ các phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa chống chủ
nghĩa thực dân - đế quốc, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ, tiến bộ ở các
châu lục Á, Phi và khu vực Mỹ Latinh.

41
- Đóng góp quan trọng vào việc làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa
của Pháp.
4.2. Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
- Đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ
những ngày đầu, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình là chính.
- Kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến
vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
- Ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng chiến phù hợp với
đặc thù của từng giai đoạn và tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.
- Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân
quân du kích) một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính trị - quân sự.
- Coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối
với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.
II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC (1954 - 1975)

1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam - Bắc (1954 - 1965)
1.1. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954 - 1960)
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử sau tháng 7 - 1954
- Thuận lợi:
+ Hệ thống CNXH tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn
mạnh của Liên Xô.
+ Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển; phong trào hoà bình, dân chủ lên cao ở các
nước tư bản.
+ Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa, hậu phương cho cả nước.
+ Thế và lực của cách mạng ngày càng lớn mạnh, có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân
cả nước.
- Khó khăn:
+ Thế giới đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang.
+ Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống XHCN, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc.
+ Nhân dân ta phải chống lại đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các
chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng và thực hiện.
+ Đất nước bị chia cắt thành hai miền:
Miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, chúng không chịu thực hiện hoà bình thống nhất đất
nước. Ngày 7 - 7 - 1954, nội các bù nhìn tay sai được Mỹ thành lập do Ngô Đình Diệm làm Thủ
tướng kiêm Tổng trưởng quốc phòng. Ngô Đình Diệm từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, sau đó tiến
hành trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại và lên làm Tổng thống, thực hành chính sách “tố cộng, diệt
cộng” trên khắp miền Nam. Mỹ - Diệm trở thành kẻ thù trực tiếp của cách mạng, nhân dân miền Nam
tay không chống lại chính sách xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ.

42
Miền Bắc có kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả chiến tranh nặng nề.
Yêu cầu Đảng phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên,
phù hợp với tình hình của đất nước và xu thế phát triển chung của thời đại.
1.1.2. Lãnh đạo khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng đã chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên
CNXH, đường lối cách mạng XHCN từng bước được hình thành.
- Tháng 9 - 1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết
thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông
nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế,
sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường.
- Hội nghị lần thứ bảy tháng 3 - 1955 và lần thứ tám tháng 8 - 1955 của BCHTW Đảng:
+ Nhận định: Mỹ và tay sai đã lập Nhà nước riêng chống phá hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong
trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập và dân chủ, phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu
tranh của nhân dân miền Nam.
+ Để củng cố miền Bắc, BCHTW chỉ rõ, trước hết cần hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng
đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng
bước lên CNXH; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.
- Hội nghị lần thứ 10 BCHTW Đảng (9 - 1956) đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong cải
cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, công khai tự phê bình trước nhân dân, thi hành kỷ luật đối với
một số Uỷ viên Bộ Chính trị và Uỷ viên Trung ương Đảng.
- Tháng 12 - 1957, Hội nghị lần thứ 13 BCHTW Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế
và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới.
- Tháng 11 - 1958, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh
tế - văn hóa và cải tạo XHCN đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958 - 1960). Hội
nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể, khuyến khích chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở
hữu tập thể XHCN dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm phát triển
kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân. Xây dựng, củng cố
miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Tháng 4 - 1959, Hội nghị lần thứ 16 BCHTW Đảng thông qua Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
+ Về hợp tác hóa nông nghiệp: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với
thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Xây dựng hợp
tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
+ Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: chủ trương cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư
sản, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, không tịch thu tư liệu sản xuất của họ,
mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người
tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
*Kết quả: Công cuộc khôi phục kinh tế (1954 - 1957) đã vượt chỉ tiêu đặt ra, quá trình phát triển
kinh tế, văn hoá và cải tạo XHCN (1958 - 1960) đã tạo nên những chuyển biến quan trọng trong nền
kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên CNXH, trở thành hậu
phương ổn định, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng miền Nam.

43
1.1.3. Lãnh đạo đấu tranh chống Mỹ - Diệm ở miền Nam
- Từ tháng 7 - 1954, Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh
chính trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng đòi thi hành Hiệp định Genève, tiếp tục thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong tình hình mới. Hội nghị lần thứ 6 BCHTW
Đảng (7 - 1954) đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở
thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống
đế quốc Mỹ".
- Ngày 5 - 9 - 1954, Bộ Chính trị họp ra Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và chính sách mới của
Đảng bộ miền Nam, đã chỉ rõ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị tập trung vào nhiệm vụ: đấu tranh đòi thi hành Hiệp định đình chiến, củng cố hoà
bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh…, bảo vệ những thành quả của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
- Tháng 10 - 1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập tại căn cứ U Minh, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ
Chính trị làm Bí thư.
- Từ năm 1954 đến 1955: Ở đô thị diễn ra các phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, đòi hiệp
thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bịp, chống dồn dân, đòi công ăn việc làm, chống khủng bố;
công nhân đấu tranh chống sa thải, đòi ngày làm 8 giờ; dân nghèo bãi thị, đòi giảm thuế. Ở nông thôn,
phong trào đấu tranh chống cướp đất, chống tăng tô, chống khủng bố, chống “tố cộng, diệt cộng”,
chống dồn làng, cướp đất, chống bắt lính… diễn ra trên toàn miền.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của quần chúng, chính quyền Mỹ - Diệm đã tiến hành khủng
bố và gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở Chợ Được (Quảng Nam, ngày 4 - 9 - 1954), Ngân Sơn, Chí
Thạnh (Phú Yên, ngày 8 - 9 - 1954), Mỏ Cày, Bình Đại (Bến Tre, ngày 19 - 8 - 1954); đầu năm 1955,
ở Quảng Nam chúng gây ra vụ chôn sống 150 người ở Giếng Lạng (Tam Kỳ) và thảm sát 37 tù nhân ở
đập Vĩnh Trinh (Duy Xuyên); đầu độc 5.000 tù nhân ở nhà tù Phú Lợi (Thủ Dầu Một, ngày 20 - 1 -
1955). Trong vòng 10 tháng, địch đã bắt, giết 108.835 người.
- Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đề
cương cách mạng miền Nam (8 - 1956), xác định: không có tổng tuyển cử như Hiệp định Genève quy
định; nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu
mình. Bản Đề cương là một trong những văn kiện quan trọng, góp phần hình thành đường lối cách
mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Trên cơ sở bản Đề cương cách mạng miền Nam, các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang
được khôi phục và phát triển. Đến cuối năm 1957, các đại đội vũ trang được hình thành ở Nam bộ (37
đại đội) và liên khu V; lực lượng vũ trang đã mở những trận đánh chống địch đi càn và tiến công tiêu
diệt địch hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chính trị: trận tiến công quân địch ở Minh Thạnh (Thủ Dầu
Một, tháng 8 - 1957), Trại Be (9 - 1957), Lò Than (12 - 1957)…
- Tháng 12 - 1957, tại Hội nghị lần thứ 13 BCHTW Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đường
lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng XHCN.
- Tháng 1 - 1959, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 mở rộng, ra Nghị quyết về cách mạng
miền Nam, xác định:
+ Kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân ta là đế quốc Mỹ và tay sai.
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ.

44
+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân bằng cách lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị là chính,
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để giành chính quyền.
+ Cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang lâu
dài vì đế quốc Mỹ rất mạnh.
*Ý nghĩa: Nghị quyết Trung ương 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam,
tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền
Bắc đã mở đường 5599 và đường 75910 để chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Từ đầu năm 1959, một số cuộc khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh vũ trang đã bùng nổ ở Tà Lốc, Tà
Léc (Bình Định, ngày 7 - 2 - 1959), Bác Ái (Ninh Thuận, ngày 7 - 2 - 1959), Tà Bóoc (Kon Tum, tháng
4 - 1959), Trà Bồng (Quảng Ngãi, tháng 8 - 1959), Gò Quảng Cung (Đồng Tháp, ngày 26 - 9 - 1959)…
- Ngày 17 - 1 - 1960, hình thức khởi nghĩa đồng loạt (đồng khởi) bùng nổ từ Mỏ Cày, sau đó lan ra
các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú (Bến Tre) rồi nhanh chóng mở
rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi thuộc các tỉnh Trung Bộ.
Đến cuối năm 1960, phong trào “Đồng khởi” đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nhiều
vùng nông thôn, nhân dân lập chính quyền tự quản. Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối
liền từ Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V.
- Ngày 20 - 12 - 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập tại xã
Tân Lập (Tây Ninh) do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Cách mạng miền Nam đã có một tổ
chức chính trị đoàn kết rộng rãi toàn dân đấu tranh chống Mỹ và tay sai.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền
Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng
phần sang chiến tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
1.2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền Nam
(1960 - 1965)
1.2.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
1.2.1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9 - 1960) của Đảng
- Đại hội họp tại Thủ đô Hà Nội với chủ đề “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
hoà bình thống nhất nước nhà”. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn
là Bí thư thứ nhất BCHTW.

9
Đường 559 (đường mòn Hồ Chí Minh - đường Trường Sơn): là tuyến đường vận tải quân sự chiến lược bao gồm
mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền bắc Việt Nam vào tới lãnh thổ miền nam Việt Nam, phía đông
Trường Sơn đi qua miền trung Việt Nam và phía tây Trường Sơn, có đoạn đi qua hạ Lào, Campuchia; được xây dựng
trên cơ sở đường giao liên Thống Nhất hình thành sau năm 1954; do đoàn 559 phụ trách. Đây là tuyến hậu cần chiến
lược trọng yếu cung cấp binh lực và vật lực hậu cần, vũ khí khí tài để chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam trên
chiến trường miền Nam Việt Nam, liên tục trong suốt 16 năm (1959 - 1975).
10
Đường 759 (đường Hồ Chí Minh trên biển): là tên gọi của tuyến hậu cần chiến lược trên Biển Đông, đảm bảo nhiệm
vụ vận tải quân sự đặc biệt, do Hải quân nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện bí mật
trên Biển Đông. Tuyến đường được chính thức thành lập ngày 23 - 10 - 1961 để vận chuyển tăng cường nguồn nhân lực
và vũ khí từ miền Bắc Việt Nam chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Trong suốt quá
trình tồn tại, đường Hồ Chí Minh trên biển có 2.000 lần tàu thuyền vượt biển, vận chuyển hàng chục ngàn cán bộ từ Bắc
vào Nam và chi viện cho chiến trường hàng ngàn cán bộ và gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập 19 bến bãi thuộc địa bàn 9
tỉnh miền Nam, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.

45
- Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng, Nghị quyết về nhiệm vụ
và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng CNXH ở miền Bắc.
+ Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy
mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Về mục tiêu chiến lược chung: cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải
phóng miền Nam, hoà bình, thống nhất đất nước.
+ Về vị trí, vai trò, nhiệm cụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền: cách mạng XHCN
ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối
với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước.
+ Về hoà bình, thống nhất Tổ quốc: kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước
nhà theo tinh thần Hiệp nghị Genève, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống
nhất Việt Nam. Song, phải luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.
+ Về triển vọng của cách mạng: thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam - Bắc
nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên CNXH.
+ Về xây dựng CNXH ở miền Bắc:
Đặc điểm lớn nhất của miền Bắc: từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH
không trải qua giai đoạn TBCN.
Quan điểm chung: cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi
mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả mọi lĩnh vực
nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền
kinh tế XHCN dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn XHCN.
Đường lối chung của thời kỳ quá độ lên CNXH ở miền Bắc: đoàn kết toàn dân, phát huy truyền
thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước XHCN; đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH; xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Phương hướng cơ bản: sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản để thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp
hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật,
biến nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa
học tiên tiến.
Dù còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng XHCN (nhận thức về con đường đi lên CNXH
còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH) song Đại hội
lần thứ III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai

46
đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở
hai miền. Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH vừa phù hợp với miền Bắc vừa
phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam, vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên
đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh
của ba dòng thác cách mạng11 trên thế giới, tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc,
do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, thống
nhất đất nước. Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của Đảng còn là sự thể hiện
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch
sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
1.2.1.2. Lãnh đạo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc
- Nội dung chính: nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, thực hiện một
bước công nghiệp hoá XHCN và hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN, tiếp tục đưa miền Bắc tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH.
- Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể: tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, xây dựng một bước cơ
sở vật chất của CNXH, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, hậu thuẫn cho cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Quá trình thực hiện: nhiều cuộc vận động và phong trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các
ngành và các địa phương như “Đại phong” trong nông nghiệp, “Duyên hải” trong công nghiệp, “Ba
nhất” trong quân đội, “Thành công” trong thủ công nghiệp, “Bắc Lí” trong giáo dục…, đặc biệt,
phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt” theo Lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, việc xây dựng quân đội chính quy hiện đại theo kế
hoạch quân sự lần hai cũng được đẩy mạnh nhằm đảm nhiệm được các nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.
- Kết quả: kế hoạch thực hiện được hơn 4 năm thì phải chuyển hướng do phải đối phó với chiến
tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, mặc dù vậy, những mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch đã cơ bản hoàn thành, chi viện đắc lực cho cách mạng miền Nam.
Miền Bắc đã xây dựng được một bước đáng kể về cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Các ngành
công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng đã hình thành và phát
triển nhanh, nhất là các ngành điện, cơ khí. Năm 1965, ngành điện tăng hơn 10 lần so với năm 1955,
ngành cơ khí đã sản xuất được những máy công cụ chính xác, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt
30%. Một số nhà máy lớn đã được xây dựng và bắt đầu hoạt động như khu gang thép Thái Nguyên,
nhà máy hoá chất Việt Trì, phân đạm Bắc Giang… Nhiều khu công nghiệp được hình thành và mở
rộng như Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên… Giao thông vận tải được củng cố và xây dựng
nhằm phục vụ yêu cầu giao lưu kinh tế và quốc phòng. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng lên
2.365 triệu đồng (1965), nhịp độ tăng bình quân hàng năm là 13,6%. Khối lượng vật liệu phục vụ cho
sản xuất công nghiệp tăng bình quân 25%, chiếm ¼ tổng giá trị sản lượng của công nghiệp nặng.
Nông nghiệp có những chuyển biến tốt. Diện tích, năng suất, tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình
quân là 4,1%, trồng trọt, chăn nuôi phát triển khá. Năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng
suất bình quân cả năm từ 5 tấn thóc/1 ha trở lên. Cơ sở vật chất kỹ thuật ở các hợp tác xã tăng nhanh.

11
Ba dòng thác cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước đế quốc, tư bản - cùng với phong trào hòa bình rộng lớn trên
thế giới.

47
Văn hoá giáo dục ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng
được nâng cao. Đến năm 1965, miền Bắc đã có 65 vạn công nhân, lao động công nghiệp và tiểu công
nghiệp, trong đó có 2.615 người có trình độ đại học và trên đại học, 11.603 người có trình độ trung
cấp; 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên, 6 vạn học sinh trung cấp chuyên nghiệp.
Mạng lưới y tế nhân dân được xây dựng khắp thành thị, nông thôn. Các tệ nạn xã hội ngày càng giảm
hoặc bị loại trừ, trật tự trị an được đảm bảo. Đạo đức, nếp sống XHCN được xây dựng.
Lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Quân số
thường trực ở miền Bắc đã lên tới 173.000 người, lực lượng dân quân tự vệ lên tới ¼ triệu người (1/5
lực lượng này được trang bị vũ khí), ½ triệu người đăng ký quân dự bị. Trình độ tác chiến của quân
đội được nâng lên một bước, 30% ngân sách quốc phòng được dùng vào việc xây dựng các công trình
phòng thủ…
Các tuyến đường chiến lược như 15, 559, 759… được cải tạo và mở rộng để đáp ứng yêu cầu chi
viện cho chiến trường. Từ năm 1961 đến 1963, miền Bắc đã chuyển vào Nam 4 vạn cán bộ chiến sỹ,
trong đó có 2.000 cán bộ trung - cao cấp và cán bộ kỹ thuật; từ năm 1964, các đơn vị cơ động cấp
trung đoàn đã được đưa vào miền Nam chiến đấu. Hàng năm, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam
hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men (năm 1964 là 4.000 tấn).12
1.2.2. Lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
1.2.2.1. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ
- Thất bại trong cuộc “chiến tranh đơn phương”, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” - một bộ phận trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Tổng thống
Mỹ J.F.Kennedy.
- Thủ đoạn: tăng cường lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hoà và khả năng cơ động của chúng với
vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ, do cố vấn quân sự Mỹ trực tiếp chỉ huy; đẩy mạnh
quốc sách bình định, xây dựng “ấp chiến lược” nhằm dồn dân, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân
dân theo hình thức “tát nước, bắt cá” để bình định miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng; xây dựng
“chính quyền mạnh” để tự gánh vác lấy chiến tranh.
1.2.2.2. Đảng lãnh đạo nhân dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
- Trong Hội nghị tháng 1 - 1961 và tháng 2 - 1962, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị “Phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”, chỉ đạo:
+ Tiếp tục giữ vững thế chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với
đấu tranh chính trị.
+ Tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược (đô thị, nông thôn đồng bằng, nông thôn rừng núi),
bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và làm phá
sản quốc sách “Ấp chiến lược”.
+ Phương châm đấu tranh phải linh hoạt, thích hợp với từng nơi, từng lúc, cụ thể: vùng rừng núi:
lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng: kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị; vùng đô thị: đấu tranh chính trị là chủ yếu.
- Tháng 10 - 1961, Trung ương Cục miền Nam13 được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Linh
làm Bí thư. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung
ương Cục đến các chi bộ. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm thêm chức năng của
chính quyền cách mạng.

12
Lê Mậu Hãn chủ biên (2002), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.175
13
Trung ương Cục miền Nam: là bộ phận của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam, được cử ra và uỷ nhiệm tổ chức chỉ
đạo toàn bộ công tác đảng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng miền Nam. Được thành lập ngày 23 - 1 - 1961 trên cơ sở Xứ uỷ Nam bộ.

48
- Ngày 15 - 2 - 1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam.
1.2.2.3. Kết quả phong trào đấu tranh
- Năm 1961, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ, ở cả nông thôn và thành
thị, đặc biệt là phong trào đấu tranh chính trị, tuy nhiên phong trào cách mạng vẫn gặp nhiều khó
khăn, tổn thất và nhiều nơi còn lúng túng.
- Năm 1962, phối hợp với đấu tranh chính trị, ta đẩy mạnh đấu tranh quân sự để đánh trả các cuộc
hành quân của địch. Lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã đánh hàng ngàn trận, giành được
một số thắng lợi lớn ở Bình Dương, Bình Long, Quảng Nam, Quảng Ngãi… loại khỏi vòng chiến đấu
35.000 tên địch. Đấu tranh quân sự đã hỗ trợ tích cực cho quần chúng đấu tranh chính trị, phá vỡ từng
mảng ấp chiến lược của địch ở nông thôn đồng bằng và miền núi khu V. Tuy nhiên, do trang bị vũ khí
còn thô sơ và thiếu thốn nên không có những trận đánh có ý nghĩa làm chuyển biến cục diện chiến
trường; mặt khác, địch tìm mọi cách phản công lại khiến cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề.
- Năm 1963, cách mạng miền Nam có bước phát triển mới:
+ Phong trào đấu tranh quân sự: Chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho) ngày 22 - 1 - 1963 thể hiện sức
mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, chống địch càn
quét và nổi dậy giành quyền làm chủ.
+ Phong trào đấu tranh phá “ấp chiến lược”: Với phương châm “bám đất bám làng”, “một tấc
không đi, một ly không rời”, ta đã phá tan từng mảng ấp chiến lược (gần ½ số ấp).
+ Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân và
các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo năm 1963.
- Năm 1964 - 1965, được sự chi viện tích cực của miền Bắc, quân giải phóng lớn mạnh nhanh
chóng, đã dồn dập mở các chiến dịch quân sự và phong trào đấu tranh chính trị, giành nhiều thắng lợi
quan trọng:
+ Chiến thắng Bình Giã (12 - 1964), Ba Gia (5 - 1965), Đồng Xoài (7 - 1965) đã đánh dấu một
bước mới trình độ tác chiến tập trung đánh tiêu diệt của ta, tạo ra bước ngoặt trong hình thái đấu tranh
vũ trang của cách mạng miền Nam; chứng tỏ hiệu quả của hình thức và phương châm tác chiến 2
chân (quân sự, chính trị), 3 mũi (quân sự, chính trị, binh vận), 3 vùng (đô thị, nông thôn đồng bằng,
nông thôn miền núi).
+ Phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị phát triển mạnh mẽ, sôi động; đặc biệt là cuộc đấu tranh
của 70 vạn quần chúng ở Sài Gòn ủng hộ phong trào Phật giáo đã gây ra một cuộc khủng hoảng đối
với chế độ Diệm. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1 - 11 - 1963) đã gây nên sự lục đục, khủng
hoảng chưa từng có trong nội bộ chính quyền Sài Gòn (từ tháng 11 - 1963 đến tháng 6 - 1965 có 10
cuộc đảo chính quân sự).
- Đến đầu năm 1965:
+ Ba trụ cột của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là nguỵ quân - nguỵ quyền, hệ thống “ấp chiến
lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc. Nửa triệu quân Việt Nam Cộng hoà dưới sự chỉ huy trực tiếp của
2,5 vạn cố vấn quân sự Mỹ đã tỏ ra bất lực, không đủ sức làm công cụ chủ yếu của “chiến tranh đặc
biệt”. Hệ thống “ấp chiến lược” bị tàn phá trên 85%, cơ bản bị tan rã. Cuộc khủng hoảng chính trị trong
bộ máy Việt Nam Cộng hoà kể từ sau cuộc đảo chính đối với Ngô Đình Diệm diễn ra triền miên, những
cuộc đảo chính quân sự liên tiếp xảy ra nhằm lật đổ lẫn nhau trong suốt những năm 1964 - 1965.
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn
bị phá sản. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược lớn đối với quân và dân miền Nam, đã tạo cơ sở vững
chắc để cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.

49
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965 - 1975)
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
- Thuận lợi:
+ Hệ thống XHCN Liên Xô và Đông Âu ngày càng lớn mạnh, phong trào giải phóng dân tộc và
dân chủ phát triển.
+ Quân và dân ta đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” và “Chiến tranh đặc biệt” của
Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
+ Thành quả xây dựng CNXH ở miền Bắc đủ tiềm lực chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở
miền Nam.
- Khó khăn:
+ Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chính quyền của Tổng thống Mỹ
L.Johnson quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các
nước đồng minh vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường miền Nam, quân đội
Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ với mục đích tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, thực hiện bình
định miền Nam Việt Nam, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn; mở cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam, đè bẹp ý chí, quyết tâm chống Mỹ, buộc
Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán theo điều kiện của Mỹ.
+ Mỹ đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt ở Lào, gây sức ép buộc Chính phủ Campuchia từ bỏ chính
sách trung lập.
+ Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô ngày càng căng thẳng. Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn
đó và mở “chiến dịch hoà bình” nhằm cô lập Việt Nam.
2.1.2. Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
- BCHTW Đảng đã họp các Hội nghị lần thứ 11 (3 - 1965) và lần thứ 12 (12 - 1965) để đánh giá
tình hình mới và phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ trên phạm vi toàn quốc.
- Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 11
và Nghị quyết Trung ương 12 của Đảng:
+ Nhận định: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so
sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng
nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; Chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn
về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam.
+ Quyết tâm chiến lược: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Coi nhiệm vụ chống Mỹ, cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
+ Mục tiêu chiến lược: kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất
kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
+ Phương châm chiến lược: đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần
phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn,
tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
+ Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công
và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,

50
triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn này, đấu
tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
+ Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc
vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, động viên sức
người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời, tích
cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ
ra cả nước.
+ Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là
hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền
Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc phòng, nhằm
bảo đảm chi viện đắc lực cho miền Nam, tiếp tục xây dựng CNXH nhằm phát huy vai trò đắc lực của
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả
nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
*Ý nghĩa: Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 đã thể hiện tư tưởng nắm
vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính trong hoàn cảnh mới.
2.2. Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; giữ vững
thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)
2.2.1. Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc
- Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ: Bắt đầu từ ngày 5 - 8 - 1964, Mỹ đã dựng nên
“sự kiện Vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, tập trung
đánh vào các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công
trình thủy lợi, khu đông dân, trường học, bệnh viện... nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH,
ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, đè bẹp ý chí, quyết tâm chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc Việt Nam. Đế quốc Mỹ đã huy động một lực lượng lớn không quân gồm hàng
ngàn máy bay thuộc 50 loại khác nhau với vũ khí hiện đại và hải quân, bắn phá liên tục, mọi nơi,
mọi lúc với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày có 300 lần máy bay đánh phá, 1.600 tấn
bom trút xuống miền Bắc.
- Thực hiện những nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân
miền Bắc đã phát động phong trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất vừa chiến đấu: chủ trương tăng
cường xây dựng kinh tế địa phương, phát động phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm
đang” của phụ nữ, “Tay cày, tay súng” của nông dân, “Tay búa, tay súng” của công nhân, “Nhằm
thẳng quân thù mà bắn” trong chiến đấu, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”
trong chi viện cho tiền tuyến, “Xe chưa qua, nhà không tiếc” trong bảo đảm giao thông vận tải.
- Kết quả:
+ Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế, miền Bắc đã đạt được những thành tích đáng tự
hào trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam:
Sản xuất nông nghiệp: sản xuất lương thực hàng năm vẫn đạt mức năm 1961, số huyện đạt năng
suất 5 tấn/ha/2 vụ tăng từ 7 huyện (1965) lên 30 huyện năm 1967. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông

51
nghiệp được tăng cường hơn so với trước chiến tranh. Phong trào thâm canh tăng vụ được đẩy mạnh ở
nhiều địa phương. Nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội vẫn đảm bảo.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: vẫn được duy trì. Nhiều nhà máy và xí nghiệp lớn
phải sơ tán hoặc phân nhỏ để tiếp tục sản xuất trong điều kiện có chiến tranh. Công nghiệp địa
phương phát triển mạnh (đầu tư cho công nghiệp địa phương trong 2 năm 1965 - 1967 tăng 1,5 lần
so với 5 năm 1961 – 1965; năm 1965, toàn miền Bắc có 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp
địa phương, đến năm 1969 tăng lên tương ứng 227 và 1.075 xí nghiệp).
Đời sống nhân dân căn bản được ổn định. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, đào tạo cán bộ chẳng
những không ngừng trệ mà còn phát triển mạnh mẽ trong thời chiến và đạt nhiều kết quả tốt. Công tác
nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên được đẩy mạnh, vừa phục vụ sự nghiệp xây
dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn bị cho nhiệm vụ lâu dài xây dựng CNXH.
+ Chống chiến tranh phá hoại: Trong hơn 4 năm (từ 5 - 8 - 1964 đến 1 - 11 - 1968), quân và dân
miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái; bắn hạ 143 tàu chiến và tàu
biệt kích Mỹ.
+ Chi viện cho tiền tuyến: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cả sức người và sức của, góp
phần cùng quân dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Miền Bắc đã đưa vào Nam
hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tham gia xây dựng kinh tế, văn hoá
tại các vùng giải phóng; cùng với hàng vạn tấn vật chất gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng,
xăng dầu, lương thực, thuốc men… Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào Nam
trong 4 năm (1964 - 1968) đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước.
2.2.2. Giữ vững thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam
+ Thắng lợi mùa khô 1965 - 1966: Thực hiện kế hoạch “tìm diệt” và “bình định”, Mỹ đã mở 450
cuộc hành quân trên chiến trường miền Nam. Quân và dân miền Nam đã đánh thắng quân viễn chinh
Mỹ ở Núi Thành (5 - 1965), Vạn Tường (8 - 1965), Plâyme (11 - 1965), … bẻ gãy cuộc phản công
chiến lược mùa khô 1965 - 1966, làm thất bại kế hoạch giành quyền chủ động trên chiến trường, phá
vỡ hệ thống ấp chiến lược của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn.
+ Thắng lợi mùa khô 1966 - 1967: Mùa khô 1966 - 1967, Mỹ mở 980 cuộc hành quân, thực hiện
cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhắm vào hướng từ Tây Nguyên đến Sài Gòn nhưng tất cả các
cuộc hành quân quy mô lớn đó đều bị bẻ gãy và tổn thất nặng nề. Quân và dân ta đã kiên trì phương
châm “bốn bám” (cấp trên bám cấp dưới, Đảng bám dân, dân bám đất, bộ đội, du kích bám địch, đánh
địch), đẩy mạnh “ba mũi giáp công”, chặn đánh quyết liệt các cuộc hành quân càn quét và bình định
của Mỹ - quân đội Sài Gòn.
Phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển ở khắp các thành thị miền Nam, nhất là ở Huế và
Đà Nẵng. Ở khắp các vùng nông thôn, quần chúng nông dân được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ
trang đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”, làm thất bại
âm mưu “bình định, giành dân” của chúng.
+ Tháng 1 - 1967, Hội nghị BCHTW lần thứ 13 của Đảng quyết định mở thêm mặt trận đấu tranh
ngoại giao, nhằm phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị đang trên đà thắng lợi.
Đến cuối năm 1967, cuộc “Chiến tranh cục bộ” được đẩy đến đỉnh cao nhưng Mỹ vẫn không thể
thực hiện được các mục tiêu chính trị và quân sự đã đề ra.
+ Hội nghị Bộ Chính trị (12 - 1967) và Hội nghị BCHTW lần thứ 14 quyết định chuyển cuộc chiến
tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định.

52
+ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968: Sau những thắng lợi từ năm 1965 đến năm
1967, cách mạng miền Nam đã lớn mạnh cả về thế và lực. Đảng ta đã quyết định mở cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Từ 30 - 1 đến 25 - 2 - 1968, đồng loạt tấn công hầu hết các
cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến địa phương, căn cứ quân sự của Mỹ trên toàn miền Nam,
đặc biệt ở Sài Gòn - Gia Định và Huế. Quân và dân ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng
chục vạn tên địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh… Đây là một đòn tiến công chiến lược,
đánh thẳng vào ý chí xâm lược và căn cứ địa của kẻ thù; là trận đánh chiến lược có tính chất bước
ngoặt, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo, Đảng đã có biểu hiện chủ quan trong việc đánh giá tình hình,
đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế. Sau đợt tấn công trong Tết Mậu Thân, ta đã không kiểm điểm, rút
kinh nghiệm kịp thời, không đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng cũng như âm mưu đối phó
của địch nên đã phạm “sai lầm về chỉ đạo chiến lược”, chủ trương tiếp tục mở các cuộc tiến công vào
đô thị khi không còn điều kiện và yếu tố bất ngờ. Địch đã phản công quyết liệt, đẩy quân chủ lực ta ra
xa các thành thị, vùng ven, đồng bằng; tiến hành bình định trên quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng
loạt các biện pháp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng. Cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ khó khăn
nghiêm trọng do bị tổn thất lớn về lực lượng và thế trận.
Ngày 31 - 3 - 1968, Johnson ra lệnh ngừng ném bom hạn chế miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, cử
người đàm phán ngoại giao Hai bên với Việt Nam từ ngày 13 - 5 - 1968.
Ngày 1 - 11 - 1968, Mỹ chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không
quân và hải quân, sau đó chấp nhận đàm phán Bốn bên tại Hội nghị Pari với cả Việt Nam Cộng hoà
và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ ngày 25 - 1 - 1969.
2.3. Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền
Nam (1969 - 1973)
2.3.1. Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc
- Khôi phục miền Bắc sau chiến tranh, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam:
+ Từ ngày 1 - 11 - 1968, Mỹ buộc phải ngừng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất vô
điều kiện. Đảng đã ra chủ trương và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện các kế hoạch ngắn hạn nhằm khắc
phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực lượng cho miền Nam.
+ Ngày 2 - 9 - 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Ngày 23 - 9 - 1969, Quốc hội khoá III họp kỳ
họp đặc biệt, bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm
Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
+ Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH. Từ cuối năm 1969, ba cuộc vận động chính trị lớn được phát
động (Lao động sản xuất, Phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã
viên ở nông thôn, Nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh).
Tình hình khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng CNXH có nhiều chuyển biến tốt đẹp trên các
mặt: So với năm 1968, sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn, năm 1971 tăng hơn 30
vạn tấn; cải tiến quản lý hợp tác xã có bước tiến đáng kể. Nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa
phương được khôi phục nhanh chóng; một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí,
vật liệu xây dựng… đều có bước phát triển; giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1970 vượt kế
hoạch 2,5%, xấp xỉ năm 1965. Hệ thống giao thông vận tải được khẩn trương khôi phục, nhất là
những tuyến giao thông chiến lược. Văn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được phục hồi và phát
triển; đời sống nhân dân được ổn định. Khối đại đoàn kết toàn dân, hệ thống chuyên chính vô sản
được củng cố vững mạnh.

53
Những kết quả đạt được đã làm cho tiềm lực mọi mặt của miền Bắc được tăng cường, cải thiện đời
sống nhân dân, đưa cuộc sống từng bước trở về bình thường và đáp ứng ngày càng cao yêu cầu chi
viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần quyết định tạo nên chiến thắng vang dội trên chiến
trường miền Nam, trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải thỏa thuận một
thời gian biểu cho việc ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam do
Chính phủ ta dự thảo.
+ Thực hiện nghĩa vụ hậu phương: Hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập ngũ, 60%
trong số đó lên đường để bổ sung cho các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia; từ cuối năm
1969 đến đầu năm 1971, miền Bắc chi viện cho miền Nam 19,5 vạn bộ binh và đặc công. Khối lượng
vật chất chi viện cho các chiến trường trong 3 năm 1969 - 1971 tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước
đó (1969 - 2 vạn tấn, 1970 - 4 vạn tấn, 1971 - 6 vạn tấn).
- Chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, bảo vệ miền Bắc:
+ Với ý đồ tìm kiếm một thắng lợi về quân sự làm hậu thuẫn cho Hội nghị Paris đồng thời ngăn
chặn cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta ở miền Nam, từ ngày 6 - 4 - 1972, đế quốc Mỹ đã tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Đặc biệt nghiêm trọng là cuộc tập kích
chiến lược bằng pháo đài bay B.52 suốt 12 ngày đêm cuối tháng 12 - 1972 vào Hà Nội, Hải Phòng và
một số địa phương khác.
+ Trung ương Đảng đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, kiên
quyết bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện cho miền Nam, giữ vững lập trường đàm phán tại Hội nghị
Paris. Đỉnh điểm là làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34
máy bay B.52 và 5 máy bay F.111; bắt sống 44 giặc lái; bắn chìm và bắn hỏng 9 tàu chiến.
+ Ngày 30 - 12 - 1972, Chính phủ Mỹ tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra, và đến ngày 15 - 1 - 1973, tuyên bố ngừng hoàn toàn hoạt động phá hoại miền Bắc để
ký kết Hiệp định Paris.
+ Trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay Mỹ, trong đó có
61 máy bay B.52, 10 máy bay F.111, bắn chìm và bắn hỏng 125 tàu chiến, tàu biệt kích.
2.3.2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá” và “Đông Dương hoá” chiến tranh” của Mỹ
- Chiến lược “Việt Nam hoá” và “Đông Dương hoá” chiến tranh của Mỹ:
+ Thủ đoạn: "dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam", “dùng người Đông Dương đánh người
Đông Dương”. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh được thực hiện theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 (1968 - 1970): Kiểm soát vùng đông dân, tăng thêm quân lực Việt Nam Cộng hoà, rút
một phần lính Mỹ về nước.
Giai đoạn 2 (tháng 6 - 1970 đến 1971): Kiểm soát phần lớn vùng đông dân, quân lực Việt Nam
Cộng hoà đảm nhận chủ yếu trên bộ, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.
Giai đoạn 3 (tháng 6 - 1971 đến tháng 6 - 1972): Cơ bản hoàn thành Việt Nam hóa chiến tranh.
+ Biện pháp: Ra sức củng cố chính quyền Việt Nam Cộng hoà, xây dựng quân lực Việt Nam Cộng
hoà đông và hiện đại; ráo riết thực hiện chương trình bình định; tiến hành chiến tranh phá hoại miền
Bắc nhằm cắt nguồn chi viện cho miền Nam; tìm mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với
Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.
+ Ở Lào, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” với lực lượng chủ yếu là
quân phỉ Vàng Pao và quân nguỵ Viêng Chăn; ở Campuchia, Mỹ thực hiện cuộc đảo chính quân sự,
lật đổ chính phủ trung lập Xihanúc, thành lập chính phủ bù nhìn Lon Non với hi vọng sẽ cô lập được
cách mạng Việt Nam, đồng thời cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương với các nước
XHCN và thế giới.

54
- Lãnh đạo nhân dân chống “Việt Nam hoá” chiến tranh ở miền Nam:
+ Năm 1969, ta mở cuộc phản công chiến lược Xuân - Hè, đánh bại 3 cuộc hành quân của Mỹ -
nguỵ; tiêu diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ.
+ Hội nghị lần thứ 18 BCHTW Đảng (1 - 1970) và Hội nghị Bộ Chính trị (6 - 1970) chủ trương
chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung ngăn chặn và đẩy lùi chương trình
"bình định" của địch.
+ Đầu năm 1970, liên quân Lào - Việt Nam đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn,
đánh bại cuộc hành quân của địch tại Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng), bảo vệ căn cứ địa chủ yếu
của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải tây Trường Sơn.
+ Tháng 3 - 1970, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp với quân và dân Campuchia kịp thời
phản công địch, đánh bại cuộc hành quân của Mỹ - Việt Nam Cộng hoà sang cứu nguy cho chính
quyền Lon Non, giải phóng được vùng đông - bắc Campuchia và kiểm soát được nhiều vùng nông
thôn rộng lớn khác, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố rút quân ra khỏi Campuchia (30 - 6 - 1970).
+ Ngày 24 và 25 - 4 - 1970, Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương đã họp, ra bản tuyên bố
chung về tăng cường khối đoàn kết chiến đấu ba dân tộc Đông Dương để cùng nhau chống kẻ
thù chung.
+ Năm 1971, quân và dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại cuộc hành quân quy
mô lớn “Lam Sơn 719” của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh vào Đường 9 - Nam Lào nhằm cắt
đứt đường mòn Hồ Chí Minh, chặn đứng con đường tiếp tế quan trọng của miền Bắc đối với miền
Nam và phong trào kháng chiến Campuchia; phối hợp với quân và dân Campuchia đập tan cuộc hành
quân “Toàn thắng 1 - 1971” của Mỹ đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại đông - bắc Campuchia.
+ Tháng 5 - 1971, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè năm
1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên
thế thua. Ta sử dụng 3 đòn tiến công chiến lược kết hợp: đòn tiến công tiêu diệt của bộ đội chủ lực
trên ba hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Bình Trị Thiên; đòn tiến công và nổi dậy ở vùng nông
thôn chống phá bình định; đòn đấu tranh chính trị ở đô thị làm lung lay tận gốc chính quyền địch.
Sau gần 3 tháng chiến đấu (từ 30 - 3 đến cuối tháng 6 - 1972), quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu
khoảng 25 vạn quân, phá và thu hồi một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh, giải phóng một vùng
đất đai rộng lớn với hơn 1 triệu dân.
+ Ngày 27 - 1 - 1973, Mỹ buộc phải ký “Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam”. Nội dung Hiệp định:
Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước
Việt Nam;
Hoa Kỳ cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
Hoa Kỳ cam kết rút hết quân đội, các loại nhân viên, cố vấn, vũ khí đạn dược của Hoa Kỳ và các
nước đồng minh của Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam;
Hoa Kỳ phải có nghĩa vụ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây
dựng sau chiến tranh ở Việt Nam và toàn Đông Dương.
*Ý nghĩa: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã giành thêm thắng lợi
hết sức to lớn và có tính chất quyết định. Nhân dân ta đã đạt được mục tiêu quan trọng hàng đầu là đè
bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta tiến
lên giành thắng lợi hoàn toàn.

55
2.4. Khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc (1973 - 1975)
2.4.1. Khôi phục miền Bắc sau chiến tranh, đẩy mạnh chi viện cho miền Nam
Đến năm 1975, miền Bắc đã khôi phục hầu hết các cơ sở kinh tế, hệ thống giao thông, các công
trình văn hóa, cơ sở y tế. Năng lực sản xuất nhiều ngành kinh tế được tăng thêm một bước, sản xuất
nông nghiệp năm 1973 đạt 5 triệu tấn, công nghiệp năm 1974 tăng 15% so với năm 1973. Nhìn
chung, sản xuất nông, công nghiệp năm 1974 đã đạt và vượt mức năm 1964 và 1971 - là 2 năm phát
triển kinh tế cao nhất trong 20 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế
tiếp tục phát triển; góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ của hậu
phương đối với tiền tuyến.
- Chi viện cho miền Nam: giai đoạn 1973 - 1975, miền Bắc đã đưa vào miền Nam 20 vạn bộ đội,
hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kỹ thuật. Trong 2 tháng đầu năm 1975, miền
Bắc đã gấp rút đưa vào miền Nam 57.000 cán bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cuộc tổng tiến công.
Trong 2 mùa khô năm 1973 và 1975, 26 vạn tấn vật chất gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, xăng
dầu, lương thực… cũng được khẩn trương chi viện cho miền Nam. Ngoài ra miền Bắc còn chi viện
cho chiến trường Lào 108.594 tấn vật chất trong 3 năm 1973 -1975; cho chiến trường Campuchia
13.450 tấn đạn dược trong 2 năm 1974 và 1975.
Tính tổng thể, hậu phương miền Bắc đã đảm bảo 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí và lương
thực, 65% thực phẩm cho chiến trường miền Nam. Sự lớn mạnh về mọi mặt của miền Bắc là nhân
tố quyết định bảo đảm giành thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
2.4.2. Lãnh đạo giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
+ Mặc dù bị thất bại nặng nề nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố không chịu từ bỏ dã tâm áp đặt chủ
nghĩa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, dưới sự
chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện những hành động phá hoại Hiệp định,
liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, khủng bố đàn áp và bóp nghẹt quyền tự
do dân chủ của nhân dân ta trong vùng chúng kiểm soát.
+ Tháng 7 - 1973, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ 21, quyết định đường lối cách mạng trong
tình hình mới. Hội nghị đã nêu rõ:
Con đường cách mạng miền Nam: kiên quyết dùng con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong
tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.
Nhiệm vụ trước mắt: giành dân, giành quyền làm chủ; chống lấn chiếm. Phát triển thực lực cách
mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản.
Tư tưởng chỉ đạo: tích cực phản công, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
+ Thực hiện nghị quyết Trung ương 21, từ cuối năm 1973 và cả năm 1974, quân và dân miền Nam
đã liên tiếp phản công, giành được thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, từ Trị - Thiên đến tây
Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn. Đặc biệt, cuối năm 1974 đầu năm 1975, quân và dân ta giành thắng lợi
ở chiến dịch Phước Long, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long (6 - 1 - 1975) nhưng địch không còn
khả năng đánh chiếm trở lại.
+ Từ ngày 30 - 9 đến 8 - 10 - 1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ trương giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
+ Đợt hai của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1 - 1975 đã quyết tâm
giải phóng miền Nam với kế hoạch hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối năm
1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

56
+ Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975 diễn ra trên toàn miền Nam, với ba đòn tiến công quyết định là chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 - 3
đến 24 - 3), chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ 21 - 3 đến 3 - 4), chiến dịch Hồ Chí Minh (26 - 4 đến 30 - 4).
Chiến dịch Tây Nguyên: Ngày 4 - 3 - 1975, quân ta đánh chiếm, chia cắt Đường số 19, đánh một
số mục tiêu ở Pleiku để nghi binh, tạo thế chiến dịch, ngày 10-3 quân ta nổ súng tiến công đánh
chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Đến ngày 24 - 3 - 1975, chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi
hoàn toàn. Quân, dân miền Nam đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 Việt Nam Cộng hòa, tiêu
diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng rút chạy trên đường số 7, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2,
Quân khu II, giải phóng Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
Trên cơ sở phát hiện những lúng túng và sai lầm trong chỉ đạo chiến lược của địch, ngày 18 - 3 - 1975,
Bộ Chính trị khẳng định thời cơ chiến lược đã đến, quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược
thành cuộc tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch giải phóng miền Nam ngay trong năm
1975, với hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Nhưng trước mắt nhanh chóng tiêu diệt
toàn bộ quân địch trong Vùng 1 chiến thuật, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế, Đà Nẵng.
Từ ngày 6 - 3 - 1975, Quân giải phóng bắt đầu tiến công ở Trị Thiên và Khu V. Đến ngày 21 - 3,
phát huy thắng lợi nhanh chóng và dồn dập ở Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung, hai chiến dịch
ở Quân khu V và Quân khu Trị Thiên đã phát triển thành chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng.
Ngày 25 - 3 - 1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa
năm 1975.
Chiến dịch tiến công Trị Thiên - Huế (từ 5 đến 26 - 3 - 1975): từ ngày 5 đến 20 - 3, Quân đoàn 2
và lực lượng vũ trang địa phương tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở Quảng Trị. 3 giờ sáng
ngày 18 - 3, ta giải phóng thị xã Quảng Trị, buộc địch co cụm về Thừa Thiên - Huế. Từ 21 đến 26 -
3, ta phát triển tiến công và giải phóng Thừa Thiên - Huế. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Bộ Tư lệnh
tiền phương Quân đoàn 1 - Quân khu 1 rút chạy khỏi Huế theo đường biển về Đà Nẵng. Ta kịp thời
phát hiện và triển khai lực lượng chặn đánh, dùng pháo tầm xa khống chế cửa Thuận An, Tư Hiền;
đồng thời, bộ binh và xe tăng tiến công vào thành phố Huế. 10 giờ 30 phút ngày 26 - 3, Huế hoàn
toàn giải phóng, tạo thuận lợi cho quân và dân các địa phương nổi dậy giải phóng toàn tỉnh.
Chiến dịch giải phóng Đà Nẵng (từ 26 đến 29 - 3): từ ngày 26 đến 28 - 3, quân giải phóng đánh
chiếm các vị trí vòng ngoài, triển khai lực lượng áp sát Đà Nẵng. Ngày 29 - 3, pháo binh Quân đoàn
2 và Quân khu 5 bắn phá sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, bán đảo Sơn Trà. 12 giờ ngày 29 -
3, Trung đoàn 1 chiếm Sở Chỉ huy Quân đoàn 1 và sân bay Đà Nẵng; quân ta triển khai lực lượng
bao vây, tiến công địch trên các hướng: Nam, Bắc, Tây Bắc, Tây Nam; 15 giờ ngày 29 - 3, Đà Nẵng
hoàn toàn giải phóng.
Sau 25 ngày đêm chiến đấu (6 - 3 đến 29 - 3), Quân giải phóng tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực
lượng Quân đoàn 1, Quân khu I. Đến ngày 3 - 4, toàn bộ các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung
được giải phóng.
Ngày 4 - 4, Quân uỷ Trung ương giao cho Khu V và lực lượng hải quân tiến công giải phóng các
đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ ngày 14 đến ngày 29 - 4, toàn bộ các đảo trên được giải phóng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh (26 đến 30 - 4 - 1975): Sau khi bị mất toàn bộ quân khu 1 và 2, một nửa
binh lực của quân Sài Gòn đã bị tiêu diệt, trong thế tan rã chiến lược hầu như không thể cứu vãn nổi,
địch vẫn ra sức tổ chức lực lượng, tích cực phòng ngự từ xa như: tập đoàn phòng ngự Phan Rang, tập
đoàn phòng ngự Xuân Lộc và tập đoàn phòng ngự trực tiếp thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 18 - 4, ta tiến công Phan Rang, đập tan tuyến phòng ngự của địch ở đây, bắt sống Trung
tướng Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi. Ngày 20 - 4, trước sức tiến công của ta, Sư đoàn 18
ngụy tháo chạy, Xuân Lộc thất thủ.

57
Từ 26 đến 28 - 4, ta chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài, đập tan sự kháng cự của các sư
đoàn địch, tiếp cận Sài Gòn. Địch bị rối loạn hoàn toàn về chiến lược.
Đêm 29, rạng sáng ngày 30 - 4 - 1975, các binh đoàn chủ lực trên từng hướng: Đông (Nhơn
Trạch), Tây Bắc (Củ Chi, Hóc Môn), Bắc (Bình Dương, quốc lộ 13), Tây - Tây Nam (Vàm Cỏ
Đông, Vàm Cỏ Tây, Long An), Đông - Đông Nam (Biên Hòa, cầu Sài Gòn) đồng loạt tiến công vào
nội đô, đánh chiếm các mục tiêu then chốt của chiến dịch.
Vào 11 giờ 30 phút ngày 30 - 4 - 1975, Tổng thống Dương Văn Minh buộc phải tuyên bố đầu
hàng không điều kiện. Toàn bộ Quân đoàn 3, Quân khu III quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt và tan rã.
Ở khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân miền
Nam từ đầu tháng 3 - 1975, đến ngày 1 - 5 - 1975 đã giải phóng toàn bộ khu vực này, tiêu diệt và
làm tan rã Quân đoàn 4, Quân khu IV. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam đã kết thúc thắng lợi.
3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954 - 1975
3.1. Ý nghĩa lịch sử
3.1.1. Ý nghĩa lịch sử đối với Việt Nam
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã quét sạch quân xâm
lược, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta.
- Kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm
vụ chiến lược, đi lên CNXH.
- Tăng thêm sức mạnh vật chất tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao
uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế.
- Để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu
dài về sau.
3.1.2. Về mặt quốc tế
- Làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào CNXH và cách mạng
thế giới.
- Góp phần thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới. Mở đầu sự sụp
đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
3.2. Bài học kinh nghiệm
- Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả
nước đánh Mỹ.
- Tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp.
- Có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và cấp uỷ quân đội, thực hiện thắng lợi
từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.
- Hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam, tổ chức
xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ CỦNG CỐ KIẾN THỨC

1. Bối cảnh lịch sử và sự phát triển đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và can
thiệp Mỹ qua các giai đoạn 1945 - 1946, 1946 - 1950 và 1951 - 1954?

58
2. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn của cuộc
kháng chiến chống Pháp? Sinh viên vận dụng những bài học kinh nghiệm đó vào quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay như thế nào?
3. Bối cảnh lịch sử và sự phát triển đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các
giai đoạn 1954 - 1965, 1965 - 1975? Kết quả, ý nghĩa lịch sử, những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
trong từng giai đoạn? Sinh viên vận dụng những bài học kinh nghiệm đó vào nhận diện những vấn đề
lịch sử của thời đại, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay như thế nào?
4. Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, mối quan hệ hai miền Nam - Bắc đối
với thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ? Sinh viên vận dụng vào việc nâng cao ý chí tự lực tự
cường, tự chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay?
5. Ý nghĩa của nghệ thuật vừa đánh vừa đàm đối với ngoại giao Việt Nam hiện nay?
TÀI LIỆU HỌC TẬP

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập
IV, từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/lich-su-tu-
tuong-quan-su-viet-nam-tap-4-tu-nam-1945-den-nam-1975-328
4. Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Cuộc
tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/cuoc-tong-
tien-cong-va-noi-day-xuan-mau-than-1968-buoc-ngoat-quyet-dinh-va-bai-hoc-lich-su-331
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8-37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/van-kien-dang-toan-tap?page=0
6. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2009), Lịch sử biên
niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-dang/lich-su-bien-
nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-3-176
7. TS. Nguyễn Duy Hùng (2010), Phong trào Đồng khởi 50 năm nhìn lại, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/phong-trao-
dong-khoi-50-nam-nhin-lai-346
8. TS. Nguyễn Danh Tiên (2014), Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, giá trị lịch sử, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/tong-tien-
cong-va-noi-day-mau-than-1968-gia-tri-lich-su-1
9.https://dangcongsan.vn/thoi-su/hiep-dinh-pari-moc-son-tren-mat-tran-ngoai-giao-603165.html
10. https://dangcongsan.vn/
11. http://lyluanchinhtri.vn/

59
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975 - 2020)

I. LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1986)

1. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1981)


1.1. Hoàn cảnh lịch sử
- Thuận lợi:
+ Đất nước hòa bình, thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH.
+ Đất nước có sức mạnh tổng hợp của tài nguyên, vị trí địa lý, con người…
+ Khối quân sự SEATO tan rã, thế giới và khu vực có xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn, đối
thoại và hợp tác.
- Khó khăn:
+ Hậu quả của chiến tranh kéo dài, cả hai miền Nam - Bắc đều bị tàn phá nặng nề.
+ Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội của đất nước thấp.
+ Về mặt nhà nước, vẫn còn hai chính phủ, hai mặt trận và những đoàn thể khác nhau ở hai miền.
+ Các thế lực thù địch tiến hành bao vây cấm vận và chống phá Việt Nam.
+ Các nước XHCN lâm vào trì trệ và khủng hoảng.
- Yêu cầu trước mắt: Ổn định và thống nhất nước nhà về mọi mặt, khắc phục hậu quả chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế.
1.2. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
- Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng khóa III (8 - 1975) chủ trương:
+ Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH.
+ Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng CNXH và hoàn thiện quan hệ sản
xuất XHCN.
+ Miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo XHCN và xây dựng CNXH.
- Thực hiện chủ trương thống nhất về mặt Nhà nước:
+ Từ ngày 15 đến 21 - 11 - 1975, Hội nghị hiệp thương chính trị của đoàn đại biểu hai miền Nam -
Bắc được tổ chức tại Sài Gòn để chuẩn bị tổng tuyển cử.
+ Ngày 25 - 4 - 1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất
được tiến hành với hơn 23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ 98,77%, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần
giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
+ Từ ngày 24 - 6 đến ngày 3 - 7 - 1976, kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam thống nhất được
tổ chức tại Hà Nội, quyết định đặt tên nước là Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ
nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ
Chí Minh. Quốc hội cũng đã bầu chức danh của các cơ quan Nhà nước (đồng chí Tôn Đức Thắng làm
Chủ tịch nước) và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp mới.

60
+ Tháng 6 - 1976, các tổ chức chính trị - xã hội được thống nhất cả nước với tên gọi mới: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam…
* Ý nghĩa: Việc hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước là cơ sở để thống nhất trên các lĩnh vực
khác, tạo ra sức mạnh toàn diện của đất nước, đồng thời là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ
lên CNXH.
1.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Đại hội họp từ ngày 14 đến 20 - 12 - 1976 tại Hà Nội; có 1.008 đại biểu thay mặt cho 1.5 triệu
đảng viên trong cả nước và 29 đoàn đại biểu quốc tế tham dự.
Đại hội bầu BCHTW mới gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, đồng chí Lê Duẩn
được bầu làm Tổng Bí thư.
Nội dung Đại hội:
- Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Đại hội khẳng định thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi
nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc
tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc; Đại hội rút ra những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến.
- Về đặc điểm tình hình nước ta trong giai đoạn mới:
+ Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến
thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN.
+ Tổ quốc đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên CNXH với nhiều thuận lợi và khó
khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân gây ra.
+ Cách mạng XHCN ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh
giữa thế lực cách mạng và phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
- Đường lối chung của cách mạng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn mới:
+ Điều kiện xây dựng CNXH: nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động.
+ Con đường đi lên CNXH: tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất,
cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là
then chốt. Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
+ Mục tiêu của CNXH: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn
XHCN, xây dựng nền văn hoá mới XHCN, xây dựng con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội;
xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
- Đường lối xây dựng, phát triển kinh tế: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
kết hợp xây dựng nông nghiệp và công nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa
xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế
địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với
xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân
công, hợp tác, tương trợ với các nước XHCN anh em... đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các
nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở

61
thành một nước XHCN có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học - kỹ thuật tiên
tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”14.
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980): Bảo đảm nhu cầu
của đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật - chất kỹ thuật của CNXH; bước đầu hình thành cơ cấu
kinh tế mới mà chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây
dựng và phát triển nền văn hóa, con người mới; tăng cường nhà nước XHCN; coi trọng nhiệm vụ
củng cố quốc phòng, an ninh; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại của Đảng: Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi
để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, giữ vững nền độc lập, thống nhất; cùng các nước XHCN và
các lực lượng tiến bộ trên thế giới góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và CNXH.
Tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với các nước XHCN. Ra sức bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Thiết lập và mở rộng quan hệ bình
thường với các nước khác trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi.
- Về xây dựng Đảng: Đại hội thảo luận và thông qua một số nội dung bổ sung điều lệ Đảng, điều lệ
đặt lại chức danh Tổng Bí thư thay chức danh Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng; thông qua Nghị quyết
đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Ý nghĩa: Đại hội mở đầu thời kỳ độc lập, thống nhất và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên
CNXH; đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để xây dựng lại đất nước
theo Di chúc của Hồ Chí Minh.
Hạn chế: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, chưa phát hiện ra
những khuyết tật của mô hình XHCN bộc lộ sau chiến tranh và đề ra một số chủ trương chưa phù hợp
với thực tiễn: đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, chỉ tiêu về sản xuất công - nông nghiệp quá lớn…
1.4. Quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1981)
1.4.1. Về xây dựng chủ nghĩa xã hội
Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đảng đã triệu tập một số Hội nghị BCHTW để chỉ đạo
phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu tập trung tháo gỡ khó khăn trong nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và
lưu thông phân phối.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 2 (từ 22 - 6 đến 4 - 7 - 1977): Bàn về phát triển nông nghiệp.
+ Phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp: bảo đảm lương thực, thực phẩm cho toàn xã
hội và có dự trữ; cung ứng nguyên liệu nông, lâm, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng
xuất khẩu.
+ Chủ trương và biện pháp: Hoàn thành quy hoạch vùng nông, lâm nghiệp trên tổng thể và trên địa
bàn từng huyện; thâm canh tăng vụ trên cơ sở áp dụng thành tựu về “cách mạng sinh học”; mở rộng
diện tích canh tác; phân bố lại lao động, khẩn trương đưa lao động đi mở các vùng kinh tế mới; tăng
cường cơ sở vật chất cho nông nghiệp, đặc biệt là thủy lợi; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học,
kỹ thuật; củng cố quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, cải tạo XHCN đối với nông nghiệp ở miền
Nam; xác lập quan hệ sản xuất XHCN trên khắp cả nước dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập
thể, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn.

14
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.524

62
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (8 - 1979): thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách
và Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
địa phương.
+ Hội nghị quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát lưu thông phân phối (được coi là bước đột
phá đầu tiên trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng).
+ Nghị quyết 20 của Đảng chủ trương sử dụng kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân trong phát triển
kinh tế, có sự kiểm soát của Nhà nước; sửa đổi hệ thống giá và cơ chế quản lý giá đã không còn thích
hợp và gây trở ngại cho sản xuất.
+ Nghị quyết 21 đặt ra mục tiêu trong thời gian trước mắt tiêu dùng của xã hội phải dựa vào sản
xuất trong nước, chống tư tưởng ỷ lại vào viện trợ.
Cốt lõi của hai Nghị quyết là khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong
cải tạo XHCN, phá bỏ những rào cản, mở đường cho sản xuất “bung ra”.
Thực hiện Nghị quyết BCHTW lần thứ 6, tháng 10 - 1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về
việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hóa được trả thù lao thích đáng, được sử dụng
toàn bộ sản phẩm và được miễn thuế; đồng thời công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát ngăn
sông cấm chợ, người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường sau khi đã làm
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (9 - 1980): đã nghe báo cáo và cho ý kiến để hoàn chỉnh bản Dự thảo
Hiến pháp mới và quyết định những biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp sau khi được Quốc
hội thông qua.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 9 (12 - 1980): họp bàn về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội năm 1981. Về cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, Hội nghị chủ trương thực hiện rộng rãi
chế độ khoán sản phẩm cuối cùng cho đội và hộ xã viên.
+ Trên cơ sở đó, ngày 13 - 1 - 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến
công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp.
+ Ngày 21 - 1 - 1981, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP về chủ trương và biện pháp nhằm
phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc
doanh; Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng
hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước.
1.4.2. Về bảo vệ Tổ quốc
- Bảo vệ biên giới Tây Nam:
Tháng 4 - 1975, tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng ở Campuchia và tăng cường
chống phá Việt Nam. Ngày 3 - 5 - 1975, Pôn Pốt cho quân đổ bộ chiếm đảo Thổ Chu, Phú Quốc, sau
đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn công lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân Việt Nam trên toàn tuyến
biên giới Tây Nam. Cuối tháng 12 - 1978, Pôn Pốt huy động tổng lực tiến công xâm lược quy mô lớn
vào lãnh thổ dọc biên giới Tây Nam Việt Nam.
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, quân và dân Việt Nam đã phản công, quét sạch quân Pôn Pốt ra
khỏi bờ cõi. Đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 26 - 12
- 1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia tiến công
và giải phóng Phnom Pênh (7 - 1 - 1979). Ngày 18 - 2 - 1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước
hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
- Bảo vệ biên giới phía Bắc:
Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, nhưng từ sau 1975, quan hệ
Việt - Trung đã xuất hiện rạn nứt. Từ năm 1978, quan hệ giữa 2 nước xấu đi rõ rệt, Trung Quốc rút

63
chuyên gia, cắt viện trợ cho Việt Nam và thường xuyên gây ra xung đột trên toàn tuyến biên giới.
Ngày 17 - 2 - 1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng loạt tấn công toàn tuyến biên giới
nước ta, từ Lai Châu đến Quảng Ninh, tiến sâu vào lãnh thổ, gây ra cho nhân dân ta nhiều tổn thất về
người và cơ sở vật chất.
Quân và dân Việt Nam, trước hết là quân và dân các tỉnh biên giới phía Bắc, đã kiên quyết chiến
đấu bảo vệ vùng biên giới của Tổ quốc.
Ngày 5 - 3 - 1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng các hành động chống phá trên tuyến biên
giới vẫn kéo dài cho đến năm 1984, đặc biệt là khu vực Vị Xuyên (Hà Giang).
- Cùng với việc bảo vệ biên giới, quân và dân ta còn đấu tranh chống lại âm mưu và hoạt động phá
hoại của lực lượng FULRO15 ở Tây Nguyên, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
1.5. Kết quả
- Thành tựu:
+ Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
+ Nhân dân ta đã khắc phục được hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất công, nông,
thương nghiệp và giao thông vận tải. Đến năm 1980, đã hoàn thành cơ bản cải tạo XHCN ở các tỉnh
Nam bộ.
+ Về cải tạo XHCN và củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp: Đến năm 1979, miền Bắc có
4.154 hợp tác xã có quy mô toàn xã; ở các tỉnh miền trung và Tây Nguyên đã căn bản hoàn thành việc
đưa nông dân vào làm ăn tập thể; ở Nam bộ đã lập được 12.246 tập đoàn sản xuất.
+ Bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc. Quan hệ
đối ngoại với các nước XHCN được củng cố và tăng cường, đến năm 1976, đã thiết lập quan hệ bình
thường hóa với các nước trong khu vực.
- Hạn chế:
+ Kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Từ năm 1976 đến
1980, đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng lên nhưng sản lượng lương thực giảm
đến mức thấp nhất, Nhà nước phải nhập khẩu lượng lương thực ngày càng lớn.
+ Tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân trong giai đoạn 1976 - 1980 1,4%/năm, công nghiệp tăng
bình quân 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9%, thu nhập quốc dân tăng bình quân 0,4%/năm, nền kinh tế có
chiều hướng đi xuống, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn.
+ Đất nước phải đối mặt với chiến tranh biên giới; bao vây, cấm vận kéo dài.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh
tế (1982 - 1986)
2.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế: Tình hình quốc tế và khu vực có thêm nhiều bất lợi đối với sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta: cuộc khủng hoảng của hệ thống các nước XHCN ngày càng
nghiêm trọng, quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước trong khu vực trở thành đối đầu.

15
FULRO (Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức): là tổ chức chính trị - quân sự của các phần tử thân
Pháp, Mỹ trong các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam (chủ yếu ở Tây Nguyên) và Campuchia nhằm thực hiện âm
mưu chia để trị, kích động hận thù dân tộc chống lại cách mạng Việt Nam; có mầm mống từ năm 1948 khi Pháp lập xứ
Tây Kỳ tự trị và năm 1958 tổ chức phong trào Badaraca chống Ngô Đình Diệm; năm 1965 tại đại hội thành lập “Mặt
trận thống nhất các dân tộc thiểu số ở Cam Pốt (Campuchia) và Việt Nam” họp ở Phnôm Pênh chính thức lấy tên gọi là
FULRO với mục tiêu thành lập quốc gia Đêga ở cao nguyên nam Đông Dương. Sau 30 - 4 - 1975, FULRO tiếp tục hoạt
động phá hoại công cuộc xây dựng đất nước, gây nhiều tội ác với nhân dân Tây Nguyên.

64
- Tình hình trong nước: Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng.
2.2. Nội dung Đại hội
- Đại hội họp từ 27 đến 31 - 3 - 1982 tại Hà Nội, có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng
viên và 47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế tham dự.
- Đại hội đã bầu BCHTW gồm 116 uỷ viên chính thức, 36 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn
được bầu làm Tổng Bí thư.
- Trên cơ sở kiểm điểm một cách toàn diện sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội lần thứ IV, đánh giá
những thành tựu, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những
biến động của tình hình thế giới; Báo cáo chính trị khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và
đường lối kinh tế do Đại hội IV đề ra, bổ sung và đề ra một số quan điểm mới: Báo cáo khẳng định
quá độ lên CNXH là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ, nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là giữ ổn định, và tiến lên cải thiện một bước
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, chủ
yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự.
- Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Xây dựng thành công CNXH
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau.
- Nội dung, bước đi, cách làm để thực hiện công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên:
tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp
một bước lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một
số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
*Đại hội V có bước phát triển nhận thức mới về thời kỳ quá độ, điều chỉnh chủ trương công
nghiệp hoá nhưng chưa thấy hết sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa tháo
gỡ được những vướng mắc trong lưu thông phân phối, vẫn tiếp tục chủ trương cải tạo XHCN ở
miền Nam, tiếp tục đầu tư cho công nghiệp nặng một cách tràn lan, chưa thật sự coi nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu.
2.3. Các bước đột phá tiếp tục đổi mới về kinh tế
Để từng bước đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, Đảng đã triệu tập một số Hội nghị BCHTW
nhằm tìm phương hướng, biện pháp tháo gỡ khó khăn, giải quyết những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế:
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (7 - 1984): chủ trương tập trung giải quyết về phân phối, lưu thông:
hai công việc cần làm ngay là đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do
và điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (6 - 1985): được coi là bước đột phá thứ 2 trong quá trình tìm tòi,
đổi mới kinh tế của Đảng. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
trong giá và lương (tính đúng, tính đủ và thực hiện cơ chế một giá; thực hiện trả lương bằng tiền, xóa
bỏ chế độ cung cấp hiện vật, xóa bỏ mua thấp, bán thấp và bù lỗ); lấy giá, lương, tiền làm khâu đột
phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh XHCN.
- Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8 -1986): đã đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc quan
điểm kinh tế (đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế). Hội nghị thảo luận kỹ và đưa ra quan
điểm về ba vấn đề lớn (cơ cấu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế):
+ Về cơ cấu sản xuất: Hội nghị chỉ ra những sai lầm chủ quan, nóng vội, đề ra một số chủ trương
quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Đây là nguyên nhân
quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm 1981 - 1985 như giậm chân tại chỗ, năng suất lao động

65
giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn định.
Hội nghị xác định, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo
hướng thật sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; phát triển
công nghiệp nặng cần phục vụ đắc lực cho yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất
khẩu. Tập trung lực lượng thực hiện cho được ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
+ Về cải tạo XHCN: đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo XHCN do chưa nắm vững quy luật
cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ. Vì vậy, phải biết lựa
chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như quy mô từng vùng, từng lĩnh vực;
phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên
quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu
nhiều thành phần và phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo XHCN không chỉ là sự
thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối, gắn liền với mỗi bước
phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Về cơ chế quản lý kinh tế: Hội nghị cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính tập
trung, quan liêu, bao cấp. Cần đổi mới cơ chế kế hoạch hóa theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo
của các quy luật kinh tế XHCN, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa, tiền
tệ; giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính
của nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
Những kết luận trên là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và
quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế.
2.4. Kết quả
- Thành tựu:
+ Giai đoạn 1981 - 1985, trong sản xuất, đã ngăn chặn được đà giảm sút của những năm 1979 -
1980, đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt: nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9%, sản xuất lương thực
bình quân đạt lên 17 triệu tấn/năm (so với 13,4 triệu tấn thời kỳ 1976 - 1980), sản xuất công nghiệp
tăng bình quân 9,5%/năm, thu nhập quốc dân tăng bình quân 6,4%/năm.
+ Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế được tăng cường; quốc phòng an ninh được củng cố, quân và dân
ta tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Lào và Campuchia.
- Hạn chế:
+ Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội V đã không hoàn thành các mục tiêu đề ra.
+ Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng. Sản xuất tăng chậm và
không ổn định, nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo
dài (năm 1980 là 189,5%, năm 1981 là 313,7%, năm 1986 lên 774,7%); hàng năm, Nhà nước phải bù
lỗ hàng tỷ đồng cho các đơn vị quốc doanh. Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, lưu thông và phân phối
rối ren, vật giá tăng nhanh. Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải..., giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập
khẩu chậm được thu hẹp, có mặt còn gay gắt hơn trước. Nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân
dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ giảm sút nghiêm trọng.
+ Đất nước tiếp tục bị bao vây, cấm vận, quan hệ đối đầu với Trung Quốc và ASEAN chưa được
cải thiện.

66
II. LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (1986 - 2021)

1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1986 - 1996)
1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và bước đầu thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện (1986 - 1991)
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
+ Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh.
+ Quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại trên thế giới; từ chạy đua vũ trang sang
chạy đua phát triển kinh tế và khoa học - kỹ thuật.
+ Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng và tiến hành cải cách, đổi mới.
- Tình hình trong nước: Quá trình đổi mới từng phần đã mang lại những kết quả tích cực; tuy
nhiên, khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn trầm trọng, đổi mới toàn diện trở thành yêu cầu bức thiết của
đất nước.
1.1.2. Nội dung Đại hội
Đại hội diễn ra từ ngày 15 đến 18 - 12 - 1986 tại Hà Nội với sự tham dự của 1.129 đại biểu và 32
đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội bầu BCHTW gồm 124 uỷ viên chính thức. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm
Tổng Bí thư.
- Về đánh giá tình hình: Trên cơ sở tổng kết những thành tựu, hạn chế trong 5 năm 1981 - 1985,
Báo cáo chính trị nghiêm khắc chỉ ra tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Nguyên nhân chủ quan của tình trạng trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước: xác định
mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách,
nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu, muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế trong
thời gian ngắn (5 năm), chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ hàng hóa - tiền tệ; mắc sai lầm rất
nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Trên lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về
nhận thức lý luận, chậm tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong công tác
tổ chức, chậm đổi mới công tác cán bộ, lựa chọn và bố trí cán bộ không chú ý đến năng lực làm việc
và kinh nghiệm rèn luyện thực tế. Phong cách lãnh đạo mang nặng tính quan liêu...
- Tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cách mạng XHCN.
- Nhiệm vụ chung của chặng đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, xây
dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo.
- Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.
+ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, nhằm phát triển sản xuất, đặc biệt là đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, chủ yếu tập trung cho 3 chương trình lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu.

67
+ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
+ Tạo chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ,
giữ gìn kỷ cương phép nước.
+ Bảo đảm nhu cầu về quốc phòng và an ninh.
- Phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ
cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; khai thác mọi tiềm năng của đất nước.
- Tư tưởng chỉ đạo: Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ
của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất XHCN.
- Về chính sách xã hội: Đại hội khẳng định chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu, khả
năng trong chặng đường đầu tiên. Để thực hiện chính sách xã hội, Đại hội chủ trương thực hiện kế
hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an
toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội; chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo
dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội; thực
hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc.
- Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại:
+ Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực đối ngoại là “ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình
ở Đông Nam Á và thế giới”.16
+ Chính sách đối ngoại: Tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương; tăng cường tình
hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng XHCN, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH; sẵn sàng
đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở
Đông Nam Á và thế giới.
- Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước: quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tăng
cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực
lượng to lớn của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng: Báo cáo chính trị nêu ra 6 yêu cầu:
+ Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ
chủ yếu của công tác tư tưởng.
+ Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý.
+ Đổi mới phong cách làm việc, mở rộng dân chủ, khuyến khích năng động, sáng tạo trên cơ sở
nguyên tắc, đường lối của Đảng.
+ Nâng cao chất lượng đảng viên, mở cuộc vận động làm trong sạch Đảng, học tập đạo đức, tác
phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi.
+ Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở, tạo điều kiện để quần chúng tham gia xây dựng Đảng.

16
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.781

68
+ Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng.
*Ý nghĩa: Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, là Đại hội khởi đầu cho công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn thách thức.
Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội là chưa tìm ra giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối, lưu thông.
1.1.3. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VI
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình hình có nhiều diễn biến phức tạp: chế độ XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô lún sâu vào khủng hoảng, chủ nghĩa đế quốc tăng cường hoạt động “diễn biến hòa
bình”; xung đột ở khu vực biên giới và hải đảo tiếp tục diễn ra, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
nước vẫn rất nghiêm trọng, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi... Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã triệu tập một số
hội nghị Trung ương để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 2 (4 - 1987): tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối
lưu thông. Mục tiêu tháo gỡ ách tắc trong lưu thông, phân phối là: giảm bội chi ngân sách, giảm tăng
giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động. Hội nghị đề ra những quy định
mới về giá cả và lưu thông vật tư - hàng hóa, chính sách và biện pháp giải quyết tiền lương; chính
sách và biện pháp tăng thu, hạn chế bội chi ngân sách, giảm tốc độ lạm phát; thực hiện thu mua nông
sản theo giá thỏa thuận, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và đầu tư theo hướng dành ưu tiên cho ba chương
trình kinh tế lớn.
- Thực hiện chủ trương, Nghị quyết của Đảng, ngày14 - 11 - 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban
hành Quyết định số 217-HĐBT, trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp; Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (5 - 4 - 1988), chủ trương khoán sản
phẩm đến hộ và nhóm hộ xã viên (Khoán 10); theo đó nông dân được nhận khoán và canh tác ổn định
trong 15 năm, bảo đảm có thu nhập từ trên 40% sản lượng canh tác; ngày 29 - 12 - 1987, kỳ họp thứ 2
Quốc hội khoá VIII đã thông qua Luật đất đai và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có hiệu lực từ
ngày 1 - 1 - 1988.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (6 – 1988): ra nghị quyết về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (3 -1989): Trung ương Đảng chính thức dùng khái niệm “hệ thống
chính trị” thay khái niệm “chuyên chính vô sản”. Trên cơ sở đánh giá quá trình đổi mới, Hội nghị
khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn, tạo được những chuyển biến tích cực, nhưng đất nước vẫn
chưa ra khỏi khủng hoảng. Hội nghị đề ra những chủ trương cụ thể và xác định 6 nguyên tắc cơ bản
để tiếp tục công cuộc đổi mới:
+ Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy thực hiện tốt
hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức và bước đi thích hợp.
+ Hai là, đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin mà là vận dụng sáng tạo học thuyết.
+ Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức của hệ thống chính trị phải nhằm tăng cường sức mạnh
và hiệu lực của chuyên chính vô sản.
+ Bốn là, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN của nhân dân ta.
+ Năm là, xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xây dựng CNXH.
+ Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
- Tháng 5 - 1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về các biện pháp cấp bách
chống lạm phát và Nghị quyết số 13-NQ/TW về chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu

69
sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình, đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Nghị quyết xác định trong
quan hệ quốc tế, chúng ta phải “thêm bạn bớt thù”.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (3 - 1990) thông qua 2 nghị quyết :
+ Nghị quyết 8A về tình hình các nước XHCN, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp
bách của Đảng ta: Nghị quyết chỉ ra nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng và chỉ rõ những người
cộng sản Việt Nam cần rút ra những bài học từ sự khủng hoảng đó, đổi mới nhận thức về mô hình và
con đường xây dựng CNXH; tích cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu của mình;
cần cảnh giác và kiên quyết chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch.
Nghị quyết xác định nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân là phải đẩy mạnh toàn diện sự
nghiệp đổi mới, giữ vững ổn định chính trị; trước mắt cần tập trung vào những nhiệm vụ cấp bách
sau: (1) Tăng cường công tác chính trị tư tưởng. (2) Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. (3)
Tiếp tục làm chuyển biến tốt tình hình kinh tế, xã hội. (4) Nâng cao cảnh giác, coi trọng hơn nữa công
tác quốc phòng, an ninh, có phương án cụ thể để ứng phó với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. (5) Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo
phương châm thêm bạn bớt thù, giữ vững hòa bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân: khẳng định mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là vô cùng hệ trọng, có quan hệ đến vận
mệnh chính trị của Đảng ta và sự sống còn của cách mạng nước ta. Vì vậy, công tác quần chúng của
Đảng phải đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi
và nghĩa vụ.
1.1.4. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới 1986 - 1991
- Thành tựu:
+ Vượt qua những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng trong hệ thống XHCN và sự chống phá
của các thế lực thù địch, đất nước vẫn giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội.
+ Kinh tế có bước chuyển biến tích cực: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu
dùng tăng 13 - 14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương
trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản
xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, nếu năm 1987 tốc độ tăng giá bình quân 19,8%/tháng thì
năm 1989 còn 2,5%/tháng.
+ Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân bước đầu được cải thiện: đầu năm
1988, có 21 tỉnh ở Bắc bộ và Trung bộ thiếu đói, giữa năm 1988, nạn đói được khắc phục, năm 1989,
đã có đủ dự trữ lương thực và xuất khẩu được 1,2 triệu tấn gạo.
+ Quốc phòng, an ninh quốc gia được bảo đảm, quan hệ quốc tế từng bước cải thiện và mở rộng:
quân và dân Việt Nam đã chiến đấu giữ vững vùng biên giới và hải đảo của Tổ quốc, đã rút hết quân
tình nguyện khỏi Campuchia (9 - 1989); tháng 9 - 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn
đại biểu cấp cao Việt Nam sang thăm và đàm phán với đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc, mở đầu
quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.
- Hạn chế, yếu kém: Đất nước còn nhiều yếu kém và khó khăn, chưa vượt ra khỏi khủng hoảng và
bao vây, cấm vận; nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết.

70
1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế: Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hoá phát triển
mạnh mẽ. Đối thoại, hợp tác cùng phát triển trở thành xu thế chung trong quan hệ quốc tế.
- Tình hình trong nước:
+ Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, chính trị - xã hội cơ
bản ổn định, kinh tế phát triển ngày càng vững chắc, quan hệ đối ngoại đang chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại và hợp tác.
+ Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng, tiếp tục bị bao vây, cấm vận và chống phá về nhiều mặt.
+ Quan hệ kinh tế với các nước bạn bè truyền thống bị thu hẹp.
1.2.2. Nội dung Đại hội
Đại hội diễn ra từ 17 đến 27 - 6 - 1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn
2 triệu đảng viên cả nước.
Chủ đề Đại hội: “Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”.
Đại hội đã thông qua các văn kiện: Báo cáo chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ chủ
yếu trong 5 năm 1991-1995; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Đại hội đã bầu BCHTW gồm 146 ủy viên, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng:
+ Báo cáo đã đánh giá quá trình thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và rút ra 5 bài
học kinh nghiệm:
Một là, phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên
tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước về kinh tế - xã hội.
Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ XHCN, nhưng để phát huy dân chủ đúng
hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc, phù hợp với tình
hình chính trị - xã hội nói chung.
Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết
đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường
tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng CNXH ở nước ta.
+ Những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995:
Mục tiêu tổng quát: “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng”.17
Mục tiêu cụ thể: Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có
tích lũy từ nội bộ nền kinh tế; tạo thêm nhiều việc làm, giảm nhịp độ tăng nhanh dân số; ổn định và
từng bước cải thiện đời sống vất chất và tinh thần của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, đổi

17
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.93

71
mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ
chức và cán bộ; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
Phương hướng chỉ đạo: Tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc; kết hợp động lực kinh tế
với động lực tinh thần, thực hiện hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; tiếp tục đổi mới toàn diện
và động bộ, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác; tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi, mở
rộng và tăng cường quan hệ quốc tế.
Báo cáo xác định những nhiệm vụ chủ yếu: về ổn định và phát triển kinh tế, chính sách xã hội;
khoa học, giáo dục, văn hóa; quốc phòng và an ninh; chính sách đối ngoại…
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh năm 1991):
+ Trên cơ sở tổng kết quá trình 60 năm cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh nêu ra
năm bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
+ Về những đặc trưng cơ bản của CNXH mà nhân dân ta xây dựng:
“Do nhân dân lao động làm chủ.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.18
+ Bảy phương hướng lớn về xây dựng CNXH ở Việt Nam:
Một là, xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh công - nông - trí làm nền
tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm.
Ba là, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh
tế quốc dân.
Bốn là, tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho thế giới quan Mác -
Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

18
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.138

72
Sáu là, xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm
vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
+ Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “xây dựng xong về cơ bản những
cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm
cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh”.19
+ Quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của
chặng đường đầu là thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế
phát triển nhanh ở chặng sau.
*Ý nghĩa: Cương lĩnh đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên CNXH; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh
tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
- Về Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000:
+ Mục tiêu tổng quát đến năm 2000: đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phấn
đấu vượt qua tình trạng nước nghèo kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng,
an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. GDP đến năm 2000
tăng gấp đôi so với năm 1990.
+ Chiến lược đề ra các quan điểm chỉ đạo của Đảng; phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, hình
thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chiến lược chỉ rõ các chính sách và giải pháp về
vốn, kinh tế đối ngoại, dân số và việc làm, văn hóa, giáo dục, khoa học, tài nguyên và môi trường;
phương hướng cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác cán bộ.
- Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng: Báo cáo nhấn mạnh tự đổi mới, tự
chỉnh đốn là yêu cầu hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Điều lệ Đảng sửa đổi khẳng định Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng.
1.2.3. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VII
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp: ngày 25
- 8 - 1991, Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán; ngày 8 - 12 - 1991, Liên bang Cộng hòa XHCN Xô
Viết sụp đổ; các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá Việt Nam... Đảng đã triệu tập một số
hội nghị để bàn về phương hướng, giải pháp thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 1995
và lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 2 (họp từ 25 - 11 đến 4 - 12 - 1991): đã bàn về vấn đề kinh tế, xác định
quan điểm, chủ trương thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và việc sửa đổi Hiến pháp 1980.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 3 (6 - 1992): đã thảo luận về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng; về nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hòa bình của địch; về
phát triển kinh tế đối ngoại trong tình hình mới.
+ Báo cáo của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng khẳng định:
Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh
đốn. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách
mạng của nước ta và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta.
Nguyên tắc: Việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng XHCN; tăng
19
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.140

73
cường vai trò lãnh đạo của Đảng; thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; củng cố
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Phương châm: Đổi mới chỉnh đốn Đảng phải gắn với đổi mới các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, có bước đi và phương thức phù hợp.
Báo cáo đã đề ra các chủ trương và giải pháp đối với 4 nhiệm vụ quan trọng: xây dựng Đảng về
chính trị - tư tưởng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
+ Về phát triển kinh tế đối ngoại trong tình hình mới: Báo cáo chính trị đã đánh giá những cơ hội
và thách thức, nêu ra những quan điểm cơ bản, phương hướng, chính sách và giải pháp lớn để chỉ đạo
hoạt động kinh tế đối ngoại; chủ trương mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các hoạt động kinh tế
đối ngoại để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh trên nguyên tắc: bảo vệ độc lập, thống nhất, chủ
quyền, an ninh quốc gia.
+ Nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia, chống “diễn biến hòa bình”
của địch:
Nghị quyết khẳng định, trong tình hình mới phải phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống cách mạng, đề cao cảnh giác, kiên quyết chống lại những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
* Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (1 - 1993): đã ban hành các Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo; về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt; về những vấn đề
cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; về chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình; về công tác thanh niên trong thời kỳ mới.
Quan điểm của Đảng trong các nghị quyết trên là mọi sự phát triển đều do con người, vì hạnh phúc
của con người; coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi
nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; đồng thời, coi hạnh phúc của con người là mục tiêu
phấn đấu cao nhất.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (6 - 1993): ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã
hội nông thôn. Nghị quyết xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 là phát triển nhanh và vững
chắc các ngành kinh tế chủ yếu, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, nguyên liệu, đẩy mạnh xuất
khẩu; bảo vệ tài nguyên, cải thiện môi trường; cải thiện một bước đời sống nông dân, tăng diện giàu,
đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới về mọi mặt.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1 - 1994): Trung ương đã tổng kết quá trình
đổi mới và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn trong quá trình xây dựng đất nước. Kiểm điểm
tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Báo cáo chính trị chỉ rõ:
+ Những thành tựu quan trọng đã đạt được: Khắc phục một bước tình trạng khủng hoảng kinh tế -
xã hội; tiếp tục giữ vững và củng cố ổn định chính trị; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của đất
nước được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó
là tiền đề đưa đất nước bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH).
+ Thách thức: Tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, nguy cơ “diễn biến hòa bình”.
+ Thuận lợi cơ bản: Đảng có đường lối đúng đắn, đoàn kết, nhất trí; nhân dân cần cù, thông minh,
yêu nước, có bản lĩnh và ý chí kiên cường, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; các lực lượng vũ
trang trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; những thành tựu đổi mới đang

74
tạo ra thế và lực mới cho cách mạng; cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế mở rộng quan hệ hợp
tác đem lại cho ta khả năng có thêm nguồn lực quan trọng.
+ Những nhiệm vụ chủ yếu của những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII: Thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả cao; xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN; chăm lo các vấn đề văn hóa, xã hội; bảo đảm quốc phòng, an
ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; đổi mới, chỉnh đốn Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (7 - 1994): bàn về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000
theo hướng CNH, HĐH và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
+ Về phát triển công nghiệp, công nghệ: Hội nghị đưa ra khái niệm, xác định mục tiêu và quan
điểm, chủ trương, chính sách và biện pháp về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000.
+ Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới: Hội nghị xác định mục tiêu là xây dựng
giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng; có
trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực làm chủ công nghệ hiện đại; lao động có kỷ luật, có kỹ
thuật, năng động, sáng tạo, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh,
có uy tín trên thị trường.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (1 - 1995): ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, nêu lên
các quan điểm xây dựng, hoàn thiện nhà nước.
1.2.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu:
+ Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và
ổn định: nhịp độ tăng GDP bình quân 8,2%/năm, sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, nông nghiệp tăng
4,5%, kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng 20%. Lạm phát giảm từ 67,47% năm 1991 xuống còn 12,7%
năm 1995. Lương thực không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân và dự trữ, hàng năm còn xuất
khẩu được 2 triệu tấn. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển lực
lượng sản xuất, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được tiếp tục xây dựng.
+ Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị: Kỳ họp thứ XI, Quốc hội
khoá VIII (từ 24 - 3 đến 25 - 4 - 1992) đã thông qua Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội và Luật
bầu cử; tiến hành cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Quyền làm chủ của nhân dân được
phát huy.
+ Tạo được chuyển biến tích cực về mặt xã hội: Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện, hàng năm tạo được hơn 1 triệu việc làm, thu nhập bình quân năm 1995 đạt 289 USD/người
so với 188 USD năm 1991; cơ sở hạ tầng được nâng cấp; các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân được cải thiện... lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
+ Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh vững chắc: Gần 500 cuộc bạo loạn và âm mưu
bạo loạn được phát hiện và dập tắt.
+ Quan hệ đối ngoại mở rộng, phá được thế bao vây cấm vận: Năm 1991, Việt Nam bình thường
hóa quan hệ, từng bước mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị nhiều mặt với Trung Quốc và ASEAN.
Quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào và Campuchia được củng cố, phát triển; quan hệ với Liên
bang Nga và các nước truyền thống được đổi mới. Ngày 3 - 2 - 1994, Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận đối với
Việt Nam; ngày 11 - 7 - 1995, Việt Nam - Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 28 - 7 - 1995,

75
Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN. Đến năm 1995, quan hệ ngoại giao mở rộng tới 160
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước.
Những thành tựu trên là nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hòa bình, tạo môi trường thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, mở rộng
quan hệ quốc tế, cải thiện vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Hạn chế, yếu kém:
+ Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo, kém phát triển, chưa thực hiện tốt cần - kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển; trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu. Trong khi nhu cầu vốn
đầu tư phát triển lớn thì việc sử dụng vốn còn lãng phí và kém hiệu quả. Năm 1995, đầu tư cho xây
dựng cơ bản bằng vốn trong nước chỉ chiếm 16,7% GDP.
+ Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực: Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa được
ngăn chặn; đời sống của một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng căn
cứ địa cách mạng còn rất khó khăn. Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp. Các vấn
đề về ô nhiễm môi trường, giao thông, khai thác và sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên, văn hóa phẩm
độc hại, tệ nạn xã hội... gia tăng.
+ Quản lý Nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu: Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng
bộ, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch, quản lý đất đai còn yếu
kém... Thủ tục hành chính rườm rà, chậm đổi mới. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực;
bội chi ngân sách và nhập siêu lớn... Quản lý nhà nước về khoa học công nghệ, về tài nguyên - môi
trường, về giáo dục - đào tạo, thông tin, báo chí, văn hóa, văn nghệ chưa tốt.
+ Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm: Năng lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị chưa được nâng lên kịp
thời với đòi hỏi phát triển đất nước. Công tác bồi dưỡng, tuyển chọn, thay thế cán bộ trẻ còn lúng
túng, chậm trễ. Năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa tương xứng với yêu cầu và
nhiệm vụ; không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt về lý tưởng, tha hóa về phẩm chất đạo đức.
2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
(1996 - 2021)
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (1996 - 2001)
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế:
+ Sau biến cố ở Đông Âu và Liên Xô, CNXH lâm vào thoái trào nhưng tính chất của thời đại
không thay đổi, loài người vẫn đang quá độ từ CNTB lên CNXH.
+ Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố xảy
ra ở nhiều nơi.
+ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội, mở ra cơ hội và thách thức to lớn cho các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển và chậm phát triển.
+ Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế; hợp tác ngày
càng tăng nhưng cạnh tranh cũng gay gắt.

76
+ Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng cao, nhưng
tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định.
- Tình hình trong nước:
+ Thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra những thời cơ lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để bước vào
CNH, HĐH; phá được thế bị bao vây, cô lập.
+ Những thách thức được tạo ra từ 4 nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII chỉ ra vẫn chưa
được giải quyết.
- Yêu cầu của đất nước là nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh CNH, HĐH, thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển.
2.1.2. Nội dung Đại hội
Đại hội diễn ra từ 28 - 6 đến 1 - 7 - 1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho
hơn 2,1 triệu đảng viên cả nước và 35 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội đã bầu BCHTW gồm 170 uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu là Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị:
+ Đánh giá tình hình đất nước sau 10 năm đổi mới, Đại hội khẳng định công cuộc đổi mới đã thu
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ
là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.20
+ Những hạn chế yếu kém: Đất nước còn nghèo và kém phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu
cực; việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng, vừa buông lỏng; quản lý nhà nước
về kinh tế - xã hội còn nhiều thiếu sót; hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
+ Bài học kinh nghiệm sau 10 năm đổi mới:
Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững 2 nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới,
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
+ Mục tiêu đến năm 2000 và 2020: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.”21

20
Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.331
21
Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.336

77
+ Định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu:
(1) Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH:
* Quan điểm CNH, HĐH:
Một là, giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
đối ngoại. Dựa vào nội lực là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở,
hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu.
Hai là, CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Bốn là, khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với
công nghệ hiện đại, đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
Năm là, lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án
đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có.
Sáu là, kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
* Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90:
Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, phát triển chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng.
Xây dựng kết cấu hạ tầng.
Phát triển nhanh du lịch và các ngành dịch vụ.
Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
(2) Chính sách đối với các thành phần kinh tế: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
(3) Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật về kinh tế, tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa; đổi mới các chính sách tài
chính, tiền tệ, giá cả.
(4) Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo.
(5) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
(6) Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với giải quyết tốt
các vấn đề xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, thực hiện nhiều hình thức
phân phối, khuyến khích làm giàu hợp pháp.
(7) Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh: Từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng
vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Bảo vệ
nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động gây
mất ổn định chính trị - xã hội, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
(8) Chính sách đối ngoại: “Nhiệm vụ của đối ngoại là củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, phục vụ sự

78
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa đa phương hóa các quan hệ
đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển.”22
(9) Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng cơ chế cụ
thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tiếp tục đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, làm tốt
công tác dân vận.
(10) Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, xây dựng Nhà nước
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
+ Xây dựng Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới: Giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực cán bộ, đảng viên; củng cố
Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ;
nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng.
* Ý nghĩa: Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo
định hướng XHCN.
2.1.3. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII
- Hội nghị BCHTW lần thứ 2 (12 - 1996): bàn về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000.
Hội nghị nhấn mạnh phải thực sự coi giáo dục đào tạo là “quốc sách hàng đầu”; giáo dục đào tạo
cùng với khoa học công nghệ là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; xác định
những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ thời kỳ
CNH, HĐH.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 3 (6 - 1997) thông qua:
+ Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh.
+ Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: Chiến lược khẳng định cán bộ và công tác cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước,
của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ
cán bộ, Đảng nêu ra phương hướng, nhiệm vụ, các giải pháp lớn về công tác cán bộ trong nhiệm kỳ
Đại hội VIII.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (12 - 1997): Tháng 7-1997, diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính, tiền
tệ khu vực. Để ngăn chặn và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng, Hội nghị
nhấn mạnh cần nêu cao tinh thần tự lực tự cường, phát huy nội lực để vượt qua khó khăn mới. Hội
nghị bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (7 - 1998): ban hành nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc:
+ Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa:

22
Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.399-400

79
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Hai là, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh,
con người phát triển toàn diện.
Ba là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Sáu là, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
+ Nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển văn hóa: xây dựng con người Việt Nam; xây dựng môi
trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa;
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ
thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; chính sách văn
hóa đối với tôn giáo; củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về
văn hóa.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (2 - 1999): ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết yêu cầu tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý
chí và hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi 4 nguy cơ; đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết,
thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước.
2.1.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu: Giai đoạn 1996 - 2000, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, tăng
cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc
độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
+ Kinh tế tăng trưởng khá: GDP tăng bình quân 7%/năm, gấp đôi so với năm 1990. Công nghiệp
tăng 13,5%/năm, các lĩnh vực dịch vụ và xuất nhập khẩu đều phát triển.
+ Văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, giáo dục - đào tạo
phát triển về quy mô và cơ sở vật chất, đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học.
+ Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
+ Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng: Việt Nam đã phát triển quan hệ thương mại với
140 nước, quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ; hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả
tích cực.
+ Thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Hạn chế:
+ Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; năng suất lao động thấp,
chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao, nhiều sản phẩm công - nông nghiệp thiếu thị trường tiêu
thụ; nhiều nguồn tài nguyên bị xâm hại nghiêm trọng; hệ thống tài chính - ngân hàng còn yếu kém,
thiếu lành mạnh; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí, thất thoát nhiều; quan hệ
sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp.
+ Một số vấn đề văn hóa - xã hội gay gắt, bức xúc chậm được giải quyết.
+ Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển.

80
+ Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng.
+ Công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập; kỷ luật,
kỷ cương chưa nghiêm.
+ Cải cách hành chính còn chậm, thiếu kiên quyết và hiệu quả thấp.
2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tiếp tục thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước (2001 - 2006)
2.2.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
+ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, thúc đẩy kinh tế tri thức, làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội.
+ Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc
đẩy hợp tác, vừa gia tăng sức ép cạnh tranh và tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
+ Nhân loại đứng trước nhiều thách thức: chủ nghĩa khủng bố, can thiệp vào công việc nội bộ,
thiên tai, biến đổi khí hậu...
+ Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động, trong đó Trung Quốc có vai trò
ngày càng lớn.
- Tình hình trong nước: Sau 15 năm đổi mới, đất nước đạt nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và
lực mới nhưng những nguy cơ, thách thức chưa được đẩy lùi.
2.2.2. Nội dung Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19 đến ngày 22 - 4 - 2001 tại Hà Nội,
với 1.168 đại biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên cả nước.
Chủ đề của Đại hội là: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội bầu BCHTW gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị gồm 15 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu làm Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị:
+ Báo cáo đã tổng kết những thành quả của cách mạng Việt Nam thế kỷ XX và triển vọng phát
triển trong thế kỷ XXI:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc, đó là khoa học và công nghệ
tiến nhanh chưa từng thấy, kinh tế phát triển đan xen những cuộc khủng hoảng lớn và sự phân hoá
giàu nghèo giữa các nước; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu và hàng trăm cuộc xung đột
vũ trang; phong trào cách mạng phát triển rộng trên toàn thế giới và CNXH hiện thực tạm thời lâm
vào thoái trào ở thập niên cuối.
Đối với nước ta, đó là thế kỷ của những biến đổi to lớn, gắn liền với thắng lợi của cuộc đấu tranh
oanh liệt giành lại độc lập tự do, thống nhất tổ quốc và xây dựng CNXH.
Qua 15 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm thay đổi bộ mặt đất
nước, đời sống của nhân dân cơ bản ổn định, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN.
+ Những bài học kinh nghiệm chủ yếu của 15 năm đổi mới:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn
sáng tạo.

81
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
+ Về con đường đi lên CNXH ở nước ta:
Báo cáo chính trị khẳng định Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN.
Mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo
định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và chống lại những tư tưởng, hành động tiêu cực; đấu
tranh làm thất bại mọi hành động và âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập, xây
dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công -
nông - trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ
quá độ.
+ Về đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tăng trưởng kinh tế đi liền phát triển văn hoá, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Coi phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần;
tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà
nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
+ Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc:
Báo cáo xác định phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
+ Tăng cường quốc phòng, an ninh: Bảo vệ Tổ quốc là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc”.23

23
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.204-205

82
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của lực
lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh và lực lượng của thế trận an ninh nhân dân.
Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân tinh nhuệ, chính quy, từng bước hiện đại, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập
và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng
hòa bình.
Phương châm đối ngoại: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước XHCN và các nước láng giềng, tiếp tục mở
rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và
các tổ chức quốc tế, tích cực giải quyết các vấn đề toàn cầu, phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao
của Nhà nước với hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại của nhân dân.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc,
lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng; tôn trọng ý kiến khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
+ Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; cải cách thể chế và phương thức
hoạt động của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; đấu tranh phòng chống tham nhũng.
+ Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng: Cần tập trung làm tốt
những công tác quan trọng là giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn
tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010:
+ Mục tiêu tổng quát: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,

83
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
+ Mục tiêu cụ thể: đưa tổng sản phẩm GDP tăng gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%.
+ Quan điểm phát triển:
Phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công
nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực.
Gắn việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh.
2.2.3. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
Quá trình lãnh đạo tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế,
BCHTW, Bộ Chính trị đã họp và chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 3 (8 - 2001): ban hành Nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đảng chủ trương tiếp tục sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, tạo bước phát triển mới, tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả hơn vì kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo, quyết định việc giữ vững định hướng XHCN.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (11 - 2001): cho ý kiến về một số điểm cần sửa đổi của Hiến pháp
năm 1992. Trên cơ sở đó, Nghị quyết về sửa đổi Hiến pháp 1992 được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ
10 thông qua ngày 25 - 12 - 2001.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (3 - 2002): thông qua các nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân; về đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010;
về đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn và Nghị quyết về
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, ngày 27 - 3 -
2003, Ban Bí thư ra chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hội nghị BCHTW lần thứ 12, khóa IX, 7 - 2005 đã chỉ đạo thí điểm cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
- Hội nghị BCHTW 8 (7 - 2003): ban hành “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Chiến lược khẳng định bảo vệ Tổ quốc, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
2.2.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu:
+ Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối
toàn diện: GDP năm sau tăng cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51%, đạt
mức kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Hoạt động kinh tế
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Một số sản phẩm đã có sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bước đầu được xây
dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh; một số loại thị trường mới đã hình thành.
+ Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề
xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện: Giáo dục và đào tạo tiếp tục

84
phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định
đường lối, chính sách, điều tra đánh giá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, nghiên cứu
ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh.
+ Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có bước
phát triển mới: Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn
xã hội được bảo đảm. Quan hệ đối ngoại rộng mở, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đã giải quyết được một
số vấn đề về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với một số quốc gia; chủ động và tích cực
tham gia các diễn đàn thế giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế và khu vực tại Việt Nam.
+ Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.
+ Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực: công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công
tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát
triển đảng, công tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên
phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức.
- Hạn chế:
+ Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
+ Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được
giải quyết tốt; kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng
cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng giãn
ra. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của
CNH, HĐH. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội
có chiều hướng tăng.
+ Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế: Sức mạnh tổng hợp và khả
năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang chưa được phát huy đầy đủ. Ở một số địa bàn,
còn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về quốc
phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo kịp diễn biến của tình hình.
+ Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số
khâu chậm đổi mới; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu; tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng.
2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình lãnh đạo thực hiện nghị
quyết Đại hội
2.3.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Thời cơ và thách thức đan xen.
- Đất nước trải qua 20 năm đổi mới, đạt được những thành tựu lớn; thế và lực, uy tín quốc tế
tăng lên.
- Tuy nhiên, đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị còn nhiều
yếu kém.
2.3.2. Nội dung Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X họp từ ngày 18 đến ngày 25 - 4 - 2006 tại Hà Nội. Dự Đại
hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên cả nước.

85
Chủ đề Đại hội: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
Đại hội đã bầu BCHTW gồm 160 ủy viên, Bộ Chính trị 14 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu làm Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị:
+ Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Đại hội rút ra những bài học
kinh nghiệm:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo
của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và luôn nhạy bén với cái mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Mục tiêu, phương hướng tổng quát 5 năm 2006 - 2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.24
Mục tiêu cụ thể: Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, tốc độ cao và bền vững, gắn với phát triển
con người. Mục tiêu về kinh tế đến năm 2010, GDP gấp 2,1 hơn lần so với năm 2000; GDP bình quân
đạt 7,6% - 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN: Nắm vững định hướng XHCN
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển
đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh
lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.
+ Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; phát triển nhanh hơn
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; phát triển kinh tế vùng; phát triển kinh tế biển; chuyển dịch cơ cấu
lao động, cơ cấu công nghệ; bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên quốc gia, cải thiện
môi trường tự nhiên.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực: đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao
năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
+ Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội.
+ Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:

24
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.23

86
Đảng chủ trương tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển
đất nước đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương.
Phương châm đối ngoại là “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.25
+ Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu.
+ Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN:
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để
phát huy dân chủ, mọi đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có
sự tham gia ý kiến của nhân dân.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; đẩy mạnh cải
cách hành chính; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn
bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt
động và quyết định của cơ quan công quyền.
+ Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng: Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết, thống nhất, gắn bó mật thiết với
nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực.
Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta.
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi: Quan điểm mới là cho phép đảng
viên làm kinh tế tư nhân, kể cả tư bản tư nhân nhưng yêu cầu phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nêu cao tính tiên phong gương mẫu của đảng viên.
*Ý nghĩa: Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân,
quyết tâm đổi mới toàn diện, phát triển với tốc độ nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ mới.
2.3.3. Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X
- Hội nghị BCHTW lần thứ 3 (7 - 2006): ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Chủ trương của Đảng là lãnh đạo chặt chẽ công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân,
thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; tích cực,
chủ động phòng ngừa là chính, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Gắn phòng, chống tham
nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải
tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm,
trọng điểm.

25
Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.651

87
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị BCHTW 3, ngày 7 - 11 - 2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 06-CT/TW
về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn trong toàn xã hội.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (1 - 2007) thông qua các Nghị quyết:
+ Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 05 - 2 - 2007 về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế
nước ta phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO.
Trên cơ sở chỉ ra những cơ hội, thách thức khi Việt Nam là thành viên WTO, Hội nghị đề ra một
số chủ trương, chính sách lớn: Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức trong toàn Ðảng,
toàn dân, toàn quân về WTO và chủ trương gia nhập WTO của Ðảng, Nhà nước. Khẩn trương bổ
sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy định của Tổ
chức Thương mại thế giới; hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; phát huy tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Ðẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm. Bổ sung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với Tổ chức Thương
mại thế giới. Bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc. Giữ vững và tăng cường quốc phòng,
an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập. Hoàn thiện các thiết chế dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng.
+ Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9 - 2 - 2007 về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, với
quan điểm chỉ đạo: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, phát triển toàn
diện các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tốc độ nhanh, bền vững, hiệu quả cao với
tầm nhìn dài hạn. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh,
hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với nội địa theo
hướng CNH, HĐH. Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường trên biển.
Phát huy đầy đủ và hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực
bên ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển Việt Nam đóng góp khoảng 53 - 55% GDP,
55 - 60% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (7 - 2007) thông qua các Nghị quyết: về công tác tư tưởng, lý luận và
báo chí trước yêu cầu mới; về tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Đảng; về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Nghị quyết về tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Đảng nhấn mạnh: Công tác kiểm tra
giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo nguyên tắc,
phương pháp công tác đảng. Tổ chức đảng, đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu sự
giám sát của nhân dân. Giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm. Chủ động
phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy; khắc phục thiếu sót, khuyết
điểm, vi phạm ngay từ khi mới manh nha. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính; xử lý
nghiêm các vi phạm để răn đe và giáo dục.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (1 - 2008) đã thông qua các nghị quyết và kết luận của Trung ương
về các vấn đề quan trọng:
+ Nghị quyết về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước: Trên cơ sở đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của giai cấp công nhân, Nghị quyết xác

88
định nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là
tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện mới;
quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công
nhân; hoàn thiện và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong
xây dựng giai cấp công nhân.
+ Nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong hội nhập
kinh tế quốc tế: Đảng nêu những chủ trương và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN:
Một là, thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Hai là, hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
Ba là, hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các
loại thị trường.
Bốn là, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.
Năm là, hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
+ Nghị quyết về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên: Đảng xác định trong 5 năm tới cần phấn đấu đạt được các mục tiêu: Tập
trung sức để xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng;
kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng
ở cơ sở; chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp ủy và cán bộ, đảng viên thật sự
tiền phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
+ Ra kết luận về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công
giai đoạn 2008 - 2012: Đảng khẳng định phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ công chức, viên chức sống
được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Bảo đảm tốt hơn đời sống của người nghèo,
đồng bào dân tộc, đối tượng chính sách xã hội nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (7 - 2008) đã thông qua các nghị quyết:
+ Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên: khẳng định tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH vừa là mục
tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Từ nay đến năm
2020, tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; có đạo đức
cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có năng lực và bản lĩnh trong
hội nhập quốc tế; có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng và tác phong lao động tập thể, là những công dân tốt
của đất nước.
+ Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: khẳng định trí thức
là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
của đất nước. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Xây dựng đội ngũ

89
trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trước hết là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước.
+ Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân và nông thôn: Đảng chủ trương giải quyết đồng bộ các vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; tăng mạnh
đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông
nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông thôn.
2.3.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu:
+ Năm 2006 và 2007 kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, trên 8%. Từ cuối năm 2007, do
tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng suy giảm. Vượt qua thời kỳ suy giảm,
kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện, bình quân 2005 - 2010 là
7%/năm, GDP đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000, GDP năm 2010 đạt 1.168
USD/người (năm 2008 đã vượt qua tình trạng nước nghèo, đứng vào hàng các nước có thu nhập trung
bình của thế giới).
+ Văn hoá và xã hội có tiến bộ nhiều mặt, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện: các
chương trình 134 (hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nghèo về đất canh tác, đất ở, nhà ở và nước sạch), 135
(chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững), 167 (xóa nhà dột nát ở các hộ nghèo) của
Chính phủ được quan tâm đẩy mạnh.
+ Chính trị - xã hội ổn định: Chính phủ được sắp xếp theo hướng tinh gọn (bộ máy các cơ quan
Đảng, Nhà nước ở Trung ương gọn hơn, còn 6 ban tham mưu của Trung ương, Chính phủ còn 22 bộ
và cơ quan ngang bộ); đẩy mạnh cải cách hành chính, hệ thống chính quyền địa phương được
tăng cường.
+ Quốc phòng và an ninh được củng cố: Tháng 12 - 2008, Việt Nam đã hoàn thành phân giới cắm
mốc trên biên giới đất liền với Trung Quốc, bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh
Bắc bộ với Trung Quốc, tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hợp tác toàn diện và hoàn thành
một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Campuchia.
+ Quan hệ đối ngoại rộng mở, đi vào chiều sâu: Việt Nam chính thức gia nhập WTO ngày 7 - 11 -
2006; tổ chức thành công tuần lễ cấp cao APEC lần thứ 14 (11 - 2006); hoàn thành tốt vai trò Ủy viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, Chủ tịch Hội đồng
bảo an Liên Hợp Quốc tháng 7 - 2008 và tháng 10 - 2009, Chủ tịch ASEAN năm 2010. Đến năm
2010, Việt Nam có quan hệ thương mại đầu tư với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ…
- Hạn chế:
+ Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các yếu tố
phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu.
+ Cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề yếu kém, bức xúc của xã hội
chưa được giải quyết tốt, nhất là về giáo dục và đào tạo, y tế; tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối
sống của một bộ phận trong xã hội ngày càng nghiêm trọng.
+ Môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, tài nguyên chưa được khai thác tốt.
+ Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu,
cản trở sự phát triển.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Công tác dự báo chiến lược và hội nhập
kinh tế còn lúng túng, hạn chế.

90
2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế
2.4.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
+ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, với nhiều thời cơ và thách thức.
+ Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
tranh chấp lãnh thổ, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia gia tăng.
+ Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí
hậu xảy ra nghiêm trọng.
- Tình hình trong nước:
+ Quá trình đổi mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng: tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và ổn
định; đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng, hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa
bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực phát triển; văn hóa và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt...
+ Nhiều yếu kém, thách thức chưa được khắc phục.
+ Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn
biến hoà bình”.
2.4.2. Nội dung Đại hội
Đại hội được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 12 đến ngày 19 - 01 - 2011. Dự Đại hội có 1.377 đại
biểu, đại diện cho 3,6 triệu đảng viên cả nước.
Chủ đề của Đại hội: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội đã thông qua các văn kiện: Báo cáo chính trị, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020,
Báo cáo một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và bầu BCHTW gồm 175 ủy viên chính
thức, 25 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm
Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị đã tổng kết những thành tựu và hạn chế của đất nước sau 5 năm thực hiện nghị
quyết Đại hội X và rút ra một số bài học kinh nghiệm:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi
mới, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Tăng cường
huy động gắn với sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước.
Ba là, coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ
đối ngoại, thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nâng cao năng
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tế của
đất nước, kịp thời đề ra những giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền,
tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của cả xã hội.

91
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011):
+ Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm:
Trên cơ sở tổng kết những thành tựu và hạn chế của quá trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Cương lĩnh đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
+ Quá độ lên CNXH ở nước ta:
Nước ta quá độ lên CNXH trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. “Theo quy
luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.
Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đặc trưng của mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta: Xây dựng về cơ bản nền tảng kinh tế của
CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Phương hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu trên là:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

92
Thực hiện và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
+ Những định hướng lớn về phát triển văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và phân phối.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy, là
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
*Ý nghĩa: Cương lĩnh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ; thể hiện nhận thức mới về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam; là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động của toàn Đảng,
toàn dân; định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020:
+ Mục tiêu tổng quát của Chiến lược: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề
vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.26
+ Quan điểm phát triển:
Một là, phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong chiến lược.
Hai là, đổi mới đồng bộ và phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, là nguồn lực
chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao,
đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
+ Ba đột phá trong chiến lược:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.

26
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.103

93
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ
thống giao thông và hạ tầng các đô thị lớn.
+ Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh.
Phát triển nông nghiệp toàn diện, theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
Phát triển mạnh dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức
cạnh tranh.
Phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông.
Phát triển hài hòa và bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới.
Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế.
Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục, đào tạo.
Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và
bền vững.
Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu,
phòng, chống thiên tai.
Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự,
an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bảo đảm thực hiện thắng lợi chiến lược:
Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với
thị trường.
Hoàn thiện bộ máy Nhà nước, tạo bước chuyển biến mạnh về cải cách hành chính.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ
máy Nhà nước.
2.4.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện nghị quyết Đại hội XI
Bước vào thực hiện Nghị quyết đại hội XI, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức từ
cuộc khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), suy thoái kinh tế toàn cầu; khủng
hoảng và biến động chính trị ở các nước Bắc Phi, Trung Đông; tranh chấp và căng thẳng ở Đông Bắc
Á, ở biển Hoa Đông và biển Đông... Đảng và Nhà nước quyết tâm lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội,
chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, từng bước tái cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng; kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (1 - 2012) đã thông qua các nghị quyết:
+ Nghị quyết về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, xác định hướng phát triển của hạ tầng các lĩnh vực và
nhấn mạnh yêu cầu phải quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại và đồng bộ.
+ Nghị quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, nêu rõ ba vấn đề cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng: (1) kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng

94
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên; (2) xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế; (3) xác định thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (5 - 2012) ban hành:
+ Kết luận về tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
+ Kết luận về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp năm 1992.
+ Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết BCHTW 3 (khoá X) "Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí".
+ Nghị quyết về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. Đồng thời BCHTW đã
nhất trí thông qua và ban hành Kết luận về một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền
lương đến năm 2020.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (10 - 2012) thông qua các Kết luận và Nghị quyết về một số vấn đề
quan trọng:
+ Kết luận về đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: Đảng chủ
trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng; chấm
dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành; khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý, mở rộng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước; tăng cường công tác xây dựng Đảng,
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
doanh nghiệp.
+ Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Quan điểm của Đảng coi khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu: Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là
động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng,
an ninh; phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm
các nước dẫn đầu ASEAN, đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới, tiềm lực
khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Chủ trương: Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới,
thu hút nguồn lực và chuyên gia trong và ngoài nước tham gia các dự án khoa học và công nghệ của
Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau
khi được đi đào tạo ở nước ngoài trở về nước làm việc.
+ BCHTW đã báo cáo kết quả kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo tinh thần Hội nghị Trung
ương 4 khóa XI, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận khuyết điểm vì đã không ngăn chặn, đẩy lùi được tình
trạng tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
+ Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.

95
- Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (5 - 2013) đã thông qua:
+ Nghị quyết về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới: Trung ương chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả
những bức xúc chính đáng của nhân dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng
cường mối quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng và Nhà nước; nâng cao nhận thức của đội ngũ
cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí
công tác dân vận trong tình hình mới; tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà
nước. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân; quan tâm xây
dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban Dân vận, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp
vững mạnh; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện công tác dân vận.
+ Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường: xác định mục tiêu “Đến năm 2020, về cơ bản, chủ động thích ứng với
biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính; có bước chuyển biến cơ bản trong
khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô
nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân
bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.
Đến năm 2050, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có
hiệu quả và bền vững tài nguyên; bảo đảm chất lượng môi trường sống và cân bằng sinh thái, phấn
đấu đạt các chỉ tiêu về môi trường tương đương với mức hiện nay của các nước công nghiệp phát
triển trong khu vực”.27
Hội nghị nêu ra các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đến năm 2020.
+ Thảo luận Báo cáo của Bộ Chính trị về sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, thống nhất nhận định: sau một năm thực
hiện, đã tạo được một số chuyển biến tích cực, bước đầu làm rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và xử lý nghiêm những vụ việc phức
tạp, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết vẫn còn một số hạn
chế, khuyết điểm.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (11 - 2013) đã thông qua:
+ Nghị quyết 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: Quan điểm của Đảng
là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; phát huy cao nhất sức mạnh
tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước.
+ Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế:
Quan điểm của Đảng coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới từ quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện;
đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo

27
BCHTW ĐCSVN, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 03-6-2013, HNBCHTW Đảng (khóa XI), Về chủ động ứng phó
với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Báo điện tử ĐCSVN,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

96
dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả
các bậc học, ngành học.
Mục tiêu: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và
phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất
lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào
tạo; giữ vững định hướng XHCN và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
+ Thảo luận, cho ý kiến đối với một số nội dung quan trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
về vai trò lãnh đạo của Đảng; về vị trí của Công đoàn Việt Nam; về thành phần kinh tế; về thu hồi đất;
về quy định bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; về chính
quyền địa phương; về Hội đồng Hiến pháp; về một số nội dung quan trọng khác và ra Kết luận về
việc hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Trên cơ sở ý kiến của Trung ương, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, ngày 28 - 11 - 2013, đã
thông qua Hiến pháp năm 2013 với 11 chương, 120 điều.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 9 (5 - 2014) đã thông qua:
+ Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước:
Quan điểm: (1) Coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. (2) Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. (3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn
thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. (4) Xây dựng đồng bộ môi trường
văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn
hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. (5) Xây dựng và phát
triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể
sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mục tiêu, nhiệm vụ: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa, chủ động
hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Các giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa, con người: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; tăng cường nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực văn hóa.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 14 (1 - 2016) đã thảo luận Báo cáo của Bộ Chính trị về kết quả đàm
phán và xin chủ trương về ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). BCHTW đồng
ý để Chính phủ cùng chính phủ các nước ký Hiệp định TPP vào đầu tháng 02 - 2016; giao Bộ Chính
trị chỉ đạo công tác chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn Hiệp định theo đúng quy định của
pháp luật.

97
2.4.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu:
+ Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm
2013 dần dần hồi phục, năm sau cao hơn năm trước: tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh từ 18,13%
năm 2011 xuống còn 0,63% vào năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 17,5%/năm, tăng từ
157,1 tỉ USD năm 2010 lên 327,76 tỷ USD năm 2015; bội chi ngân sách nhà nước bình quân 5,4%,
GDP giai đoạn 2011- 2015 tăng bình quân 5,9%/năm; tỉ lệ nợ công so với GDP cuối năm 2010 là
51,7%; năm 2015 là 63,1% , do huy động thêm nguồn lực để thực hiện đột phá chiến lược về kết cấu
hạ tầng.
+ Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba bước đột phá chiến lược
được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo
hướng CNH, HĐH (năm 2011, tỷ trọng các ngành nông nghiệp là 19,57%, công nghiệp và xây dựng
là 32,54%, dịch vụ chiếm 36,74%; năm 2015 tỷ trọng này lần lượt là 17%, 33,25 và 39,73%)
+ Giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ có bước phát triển, đời sống văn hoá của nhân dân ngày
càng được cải thiện: tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015
(theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1.517 USD năm
2010 lên 2.109 USD năm 2015.
+ Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước. Đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
+ Dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được phát huy.
- Hạn chế:
+ Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện; một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch.
+ Kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, nợ công còn tăng nhanh; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh nền kinh tế còn thấp; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thiện;
chất lượng nguồn nhân lực thấp, kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô
hình tăng trưởng chậm.
+ Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa,
xã hội, y tế chậm được khắc phục; quản lý và sử dụng tài nguyên, môi trường còn bất cập.
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn
biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng.
+ Dân chủ XHCN và sức mạnh đại đoàn kết chưa được phát huy đầy đủ, kỷ cương, kỷ luật chưa
nghiêm.
+ Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.
+ Hội nhập quốc tế chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
2.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII và tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
2.5.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế: Tình hình thế thế giới diễn biến nhanh, rất phức tạp và khó lường. Kinh tế thế
giới phục hồi chậm, nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất. Khủng hoảng nợ công

98
diễn ra trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt làm ảnh hưởng không
nhỏ đến kinh tế, chính trị và an ninh khu vực.
- Tình hình trong nước:
+ Đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, uy tín và vị thế được nâng cao; tình hình chính trị - xã
hội ổn định, thể chế, chính sách, bộ máy hành chính… có nhiều chuyển biến tích cực.
+ Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu 2011, lạm phát tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn
định, sản xuất và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; nguy cơ rơi vào "bẫy thu nhập trung bình",
không đủ năng lực để đổi mới sáng tạo; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khai
thác và sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, tốc độ già hóa dân số, năng
lực cạnh tranh thấp; tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, xu hướng lợi ích nhóm.
+ Vấn đề bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia là những thách thức lớn đối với sự phát triển của đất
nước, đặc biệt là diễn biến phức tạp trên biển Đông...
2.5.2. Nội dung Đại hội
Đại hội được tổ chức ở Hà Nội, từ ngày 21 đến ngày 28 - 1 - 2016, có 1.510 đại biểu thay mặt cho
4,6 triệu đảng viên tham dự.
Chủ đề Đại hội: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại”.
Đại hội đã bầu BCHTW gồm 180 ủy viên chính thức, 20 ủy viên dự khuyết và 19 ủy viên Bộ
Chính trị. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư.
- Báo cáo chính trị:
+ Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2016), Đại hội rút ra một số
kinh nghiệm:
Một là, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức coi trọng công tác
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; chú
trọng đổi mới công tác tổ chức - cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đồng thời kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch.
Hai là, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước
và thế giới; nắm bắt và dự báo những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ
trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp.
Ba là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm
quốc phòng - an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Bốn là, kiên trì thực hiện những mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung nguồn
lực thực hiện những nhiệm vụ cấp bách; trước mắt giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo
đột phá để giữ vững và đẩy mạnh nhịp độ phát triển.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc
gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới.
+ Nhìn lại những thành tựu và hạn chế sau 30 năm đổi mới, Đại hội rút ra những bài học
kinh nghiệm:

99
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất
phát từ thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu
quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang
tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức chính trị -
xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
+ Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016 - 2020:
Mục tiêu tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc và dân chủ XHCN. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN. Giữ vững hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.28
Nhiệm vụ tổng quát:
(1) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH,
HĐH; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học công nghệ; nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có
hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương; công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế.
(3) Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy
mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của
giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
(4) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát
triển toàn diện.
(5) Quản lý tốt sự phát triển của xã hội, bảo đảm an sinh và nâng cao phúc lợi xã hội; nâng cao
chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây
dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn.

28
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.76

100
(6) Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường; chủ
động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội; củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh...
(8) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
(9) Hoàn thiện, phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
(10) Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy
dân chủ, tăng cường kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ
nạn xã hội và tội phạm.
(11) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đổi mới
mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường và
nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của
Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
(12) Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
+ Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước:
Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế: “Kết hợp có hiệu quả phát triển
chiều rộng với chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng
suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh hướng tới
phát triển bền vững; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với
bảo đảm quốc phòng an ninh, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.29
+ Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực.
+ Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ: Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm
cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiếp tục đổi mới, đồng
bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức
đầu tư và cơ chế tài chính.
+ Xây dựng, phát triển văn hóa, con người: Mục tiêu là xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân

29
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, tr.87

101
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
+ Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó
với biến đổi khí hậu.
+ Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình
mới: Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và
chế độ XHCN; bảo vệ công cuộc đổi mới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân
tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Mục tiêu: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp
phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Phương hướng, nhiệm vụ: Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy, là
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đối ngoại, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng định
hình các thể chế đa phương.
Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục -
đào tạo và các lĩnh vực khác.
Tăng cường công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung,
phương pháp và công tác tuyên truyền đối ngoại.
+ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân: lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn
trọng những sự khác biệt không trái với lợi ích quốc gia - dân tộc.
+ Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trung tâm của cả hệ thống chính trị; chú trọng xây
dựng Đảng về chính trị. Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức,
chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả của công tác dân vận, tăng cường quan hệ
mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII:
Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

102
Ba là, tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng
thể và đồng bộ lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Giải quyết tốt việc
cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Bốn là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa các quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu; tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức, thực hiện hội nhập hiệu quả trong điều kiện mới.
Năm là, thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển
xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu là, phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con
người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh.
- Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn của tình hình trong nước và quốc tế, Bộ Chính trị,
BCHTW Đảng đã điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020:
“Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược,
cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm ổn định quốc phòng, an ninh và ổn
định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.”30
2.5.3. Lãnh đạo thực hiện nghị quyết Đại hội XII
- Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (10 - 2016) đã thông qua:
+ Nghị quyết về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế: Trên cơ sở những kết quả do hội nhập quốc tế mang lại,
Hội nghị chủ trương thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị
- xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
+ Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ: Nghị
quyết chỉ rõ 27 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đề ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và
giải pháp thực hiện Nghị quyết.
Để tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Chỉ thị 05-CT/TW, ngày
15 - 5 - 2016 về tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, coi đây là nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 5 (5 - 2017) thông qua các Nghị quyết: về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN; về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước; về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
+ Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN: Coi phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là yêu cầu

30
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội, tr.223

103
khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; là
một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, phân bổ, huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển. Chủ trương xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi
mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (10 - 2017): ban hành Nghị quyết tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Nghị quyết về công tác dân số trong tình
hình mới.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 7 (5 - 2018) đã thông qua các Nghị quyết: về cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh
nghiệp; về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
- Hội nghị BCHTW lần thứ 8 (10 - 2018) đã thông qua:
+ Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22 - 10 - 2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Quan điểm là: Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững,
thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về
biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.
+ Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên BCHTW Đảng.
2.5.4. Kết quả thực hiện
- Thành tựu:
+ Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc
hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao;
quy mô và tiềm lực kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá, đạt gần 6%/năm (2016 - 2020), riêng năm
2020 GDP còn 2,19%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô
GDP năm 2020 đạt 271,2 tỉ USD; GDP bình quân đầu người là 2.779 USD. Lạm phát được kiểm soát
ở mức thấp (1,81% giai đoạn 2016 - 2020, so với 5,15% của giai đoạn trước). Bội chi ngân sách nhà
nước giảm từ mức bình quân 5,4% GDP giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 3,5% GDP giai đoạn 2016
- 2019 (riêng năm 2020 do tình hình dịch bệnh phức tạp nên bội chi lên 4,99% GDP). Tỉ lệ nợ công so
với GDP giảm từ 63,7% năm 2016 xuống còn 56,8% năm 2020.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển biến tích cực: Tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong
GDP giảm từ 18,17% năm 2015 xuống 14,8% năm 2020; công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ tương ứng
là 38,58% và 41,15%; dịch vụ là 43,25% và 43,51%.
Cơ cấu lao động chuyển dịch từ khu vực năng suất lao động thấp sang khu vực năng suất lao động
cao hơn: tỉ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong tổng số lao động cả nước chiếm 32,8%
năm 2020 (năm 2015 là 44%); công nghiệp và xây dựng là 30,3%; ngành dịch vụ là 35,7%.
+ Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển: Việc
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo được triển khai tích cực theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Thị trường khoa học - công nghệ, hệ sinh thái
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo phát triển khá. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng vượt bậc,

104
năm 2020 đứng thứ 42/131 nền kinh tế, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu
nhập trung bình thấp.
+ Phát triển văn hoá, xã hội và xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tốt: Đời sống văn hoá
của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được đề
cao và phát huy. Hoạt động giao lưu, quảng bá giá trị văn hoá Việt Nam được thực hiện chủ động và
tích cực…
+ Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
Lý luận về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH ngày càng rõ hơn; cải cách hành chính, phòng
chống tham nhũng, lãng phí đạt chuyển biến rõ rệt, được nhân dân đồng thuận, đánh giá cao.
Đến 2020, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 181 quốc gia và vùng lãnh thổ; mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; ký kết trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định
chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá với các nước và các tổ chức quốc tế;
thiết lập quan hệ “Đối tác Chiến lược Toàn diện” với 3 quốc gia là Trung Quốc (2008), Liên bang
Nga (2012) và Ấn Độ (2016); quan hệ “Đối tác Chiến lược” với 17 quốc gia và quan hệ “Đối tác
Toàn diện” với 13 quốc gia.
- Hạn chế:
+ Hoàn thiện thể chế; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; CNH, HĐH còn chậm,
chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt
mục tiêu đề ra, khoảng cách so với các nước trong khu vực còn lớn, năng lực cạnh tranh và tính tự
chủ của nền kinh tế còn hạn chế.
+ Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
+ Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Một số vấn đề xã hội nổi
cộm chưa được giải quyết triệt để. Đạo đức, lối sống trong gia đình, trường học, xã hội có mặt xuống
cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội; môi trường văn hóa có những mặt chưa thật sự lành mạnh,
trái với thuần phong, mỹ tục…
+ Khai thác và sử dụng tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả chưa cao, chưa theo cơ chế thị trường,
nhất là tài nguyên đất; ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu… đang ở tình trạng báo động.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Bộ máy nhà nước ở một số nơi còn cồng kềnh; phân
công, phân cấp, phân quyền ở các cấp, các ngành thiếu mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ; việc công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước còn hạn chế; đổi mới lề lối làm việc, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan nhà nước chưa đi vào thực chất; việc xây dựng cơ sở dữ
liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin - nền tảng để xây dựng chính phủ điện tử còn chậm; thực
thi pháp luật chưa hiệu quả; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng.
+ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và dân
chủ XHCN có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ.
+ Các lĩnh vực an ninh quốc phòng, đối ngoại còn một số hạn chế. Hội nhập quốc tế chưa được
triển khai đồng bộ; năng lực hội nhập quốc tế chậm được cải thiện; chưa khai thác hết và phát huy
hiệu quả lợi ích đan xen, ổn định với các đối tác quan trọng…

105
2.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (1 - 2021)
2.6.1. Bối cảnh lịch sử
- Tình hình quốc tế:
+ Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển nhưng gặp nhiều trở ngại; chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, bảo hộ có xu hướng tăng lên; sự điều chỉnh chính sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn
diễn biến khó lường. Tăng trưởng kinh tế và đầu tư thương mại quốc tế có xu hướng giảm; nợ công
và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ gia tăng. Khủng hoảng kinh tế trầm trọng và suy thoái toàn
cầu do đại dịch gây ra có khả năng kéo dài; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức
quản trị toàn cầu, cách thức quản trị kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của toàn thế giới.
+ Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn biến
nhanh, đột phá, tác động sâu rộng, đa chiều trên toàn cầu. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số
sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản
xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội.
+ Những vấn đề về an ninh phi truyền thống ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động mạnh mẽ;
thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gia tăng… đặt ra những thách thức chưa từng có cho phát triển
bền vững.
+ Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là động lực quan trọng của kinh tế toàn cầu, song tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định do cạnh tranh chiến lược, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên. Tình hình
biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định khu
vực và môi trường đầu tư phát triển.
- Tình hình trong nước:
+ Sau 35 năm đổi mới, đất nước đạt được nhiều thành tựu đáng kể, vị thế đất nước trên trường
quốc tế được nâng cao.
+ Tuy nhiên, đất nước còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro. Nguy cơ tụt hậu và rơi
vào bẫy thu nhập trung bình là những thách thức lớn. Tác động tiêu cực từ bên ngoài nhanh và mạnh
hơn. An ninh quốc gia, đặc biệt là vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ diễn biến
phức tạp…
2.6.2. Nội dung Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII diễn ra từ ngày 26 - 1 đến 1 - 2 - 2021 tại Hà Nội. Có 1.587
đại biểu, thay mặt cho gần 5,2 triệu đảng viên cả nước tham dự.
Chủ đề của Đại hội: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN.”
Đại hội đã bầu BCHTW gồm 200 đồng chí, trong đó có 180 uỷ viên chính thức, 20 uỷ viên dự
khuyết; Bộ Chính trị gồm 18 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư.
- Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế của nhiệm kỳ Đại hội XII và 35 năm đổi mới, Đại hội rút
ra những bài học kinh nghiệm:
Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ,
thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

106
Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm
túc quan điểm "lấy dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân
thụ hưởng”.
Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực,
động lực và tính ưu việt của chế độ XHCN; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm
người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương;
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý,
điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kiên định và
đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tuân
theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh
tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi
trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ trong phát triển đất nước.
Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên
quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối
quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát
huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
- Đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (Cương lĩnh năm 2011), 35
năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, Trung ương khẳng định: Lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên
CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm
trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh
thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế
như ngày nay.
- Quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới:
+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các
nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
+ Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc
phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
+ Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng

107
hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
+ Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích
cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong
đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
+ Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức;
xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định
thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
- Mục tiêu phát triển giai đoạn 2021 - 2025:
+ Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, CNH, HĐH; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN.
+ Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
- Sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ 2021 - 2025:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp
tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”,
những biểu hiện “tự diễn biến’, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.
Hai là, tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc xin Covid-19 cho cộng đồng;
phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại,
hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhất là
trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển
đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế
nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về sở hữu trí tuệ và giải quyết các
tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.

108
Ba là, giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng
tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước.
Bốn là, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc
tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã
hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con
người Việt Nam.
Năm là, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân
chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội,
trước hết là việc thực thi tinh thần thượng tôn pháp luật, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và
thực hành dân chủ XHCN của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính
trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu là, quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường;
chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Ba đột phá chiến lược:
+ Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện
đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát,
kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
+ Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân
lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng,
đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công
nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
+ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển
một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát
triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế
số, xã hội số.
- Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030:
+ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi
dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.

109
+ Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo
môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư,
sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô
thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số
trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế.
+ Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng
một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh
thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
+ Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã
hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung
tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
+ Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn
minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan
tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã
hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch
bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi
trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô
nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây
dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
+ Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ
cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý
kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
+ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
+ Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường
đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai,

110
minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt
động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
+ Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng;
đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ
Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng.
+ Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất
XHCN; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân
chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ
lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng XHCN; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ
quốc XHCN; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
3. Bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới
- Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ,
thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam.
- Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện
nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, thắt chặt mối quan hệ với nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng; tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; lấy
hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
- Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ
lực lớn, hành động quyết liệt, sáng tạo; kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người
đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị; phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận;
coi trọng chất lượng, hiệu quả thực tế, tạo đột phá để phát triển.
- Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kiên định và
đổi mới, kế thừa và phát triển, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong quá trình
phát triển; thực sự coi trọng, phát huy vai trò động lực của con người, văn hoá, giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
- Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi
với giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, linh hoạt, hiệu quả mối quan hệ

111
với các nước lớn và các nước láng giềng; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt đúng thời cơ; phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ CỦNG CỐ KIẾN THỨC

1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương về đổi mới từng phần của Đảng trước Đại hội VI năm 1986? Kết
quả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn 1976 - 1985?
2. Bối cảnh lịch sử và nội dung đường lối đổi mới, quá trình lãnh đạo, kết quả, ý nghĩa và những
bài học kinh nghiệm qua từng Đại hội Đảng (1986 - 2020)?
3. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng?
4. Chủ trương tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế của Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI (2011)?
5. Quan điểm của Đảng về những đặc trưng của chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng? Ý
nghĩa của nó đối với sự phát triển đất nước giai đoạn hiện nay?
6. Những bài học kinh nghiệm qua quá trình đổi mới? Ý nghĩa của sự nghiệp đổi mới đối với sinh
viên/đất nước?
7. Sinh viên vận dụng những bài học kinh nghiệm vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong quá
trình xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay?
8. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam? Sinh viên
(theo từng ngành nghề đào tạo) với nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc?
9. Sinh viên hoàn thiện bản thân như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của nguồn nhân lực thời kỳ
hội nhập quốc tế?
TÀI LIỆU HỌC TẬP

1. Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
3. Bộ Quốc phòng – Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2016), Xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong văn kiện Đại hội XII của Đảng, Nxb. Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/xay-dung-va-
hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-trong-van-kien-dai-hoi-xii-cua-dang-227
4. Bộ Quốc phòng - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2016), Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong văn kiện Đại hội XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/van-de-xay-
dung-chinh-don-dang-trong-van-kien-dai-hoi-xii-221
5. Bộ Quốc phòng - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2016), Quan điểm của Đảng về giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong văn kiện Đại hội XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/quan-diem-
cua-dang-ve-giao-duc-va-dao-tao-khoa-hoc-va-cong-nghe-trong-van-kien-dai-hoi-xii-225

112
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37-69, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/van-kien-dang-toan-tap?
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết (2015), Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, tập 1- 2, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.
13. Tạp chí Cộng sản - Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Kỷ yếu hội thảo - Văn kiện Đại
hội XI của Đảng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/ky-yeu-hoi-
thao-van-kien-dai-hoi-xi-cua-dang-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-tap-chi-cong-342
14. GS. TS Nguyễn Phú Trọng (2005), Xây dựng chỉnh đốn Đảng - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/xay-dung-
chinh-don-dang-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-226
15. Nguyễn Phú Trọng (2017), Vững bước trên con đường đổi mới, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia
– Sự thật, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/vung-buoc-
tren-con-duong-doi-moi-tap-1-2011-2014-398
16. Nguyễn Phú Trọng (2017), Vững bước trên con đường đổi mới, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia
– Sự thật, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/vung-buoc-
tren-con-duong-doi-moi-tap-2-2015-2017-399
17. http://lyluanchinhtri.vn/

KẾT LUẬN

- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã trải qua những thời kỳ, giai đoạn
lịch sử quan trọng, đó là:
+ Từ 1920 - 1930 là thời kỳ vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm
1945, Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
+ Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo Nhà nước và trở thành Đảng cầm
quyền. Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân và tiến hành cuộc

113
kháng chiến chống Pháp làm nên thắng lợi của Điện Biên Phủ (7 - 5 - 1954), buộc Pháp ký Hiệp định
Geneve (21 - 7 - 1954), kết thúc gần một thế kỷ Pháp xâm lược Việt Nam.
+ Từ năm 1954 - 1975, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, quá độ
đưa miền Bắc tiến lên CNXH, tiến hành cuộc chống Mỹ, cứu nước nhằm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Với đại thắng mùa Xuân 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và
thống nhất.
+ Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đề ra đường lối cách mạng XHCN và lãnh đạo cả nước quá
độ lên CNXH, xây dựng lại đất nước sau 30 năm kháng chiến, đồng thời lại phải tiến hành chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế, giúp
Campuchia và Lào. Những năm 1975 - 1986, Đảng từng bước đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế, chính
sách, khảo nghiệm thực tiễn để tìm con đường đổi mới đất nước. Từ năm 1986 - nay, Đảng lãnh đạo
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đã đạt được những thành tựu đáng kể, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.

114
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc
đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/van-kien-dang-toan-tap?
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết (2015), Báo cáo
tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, tập 1- 2, Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
10. Lê Mậu Hãn (2009), Các Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/cac-cuong-
linh-cach-mang-cua-dang-cong-san-viet-nam-252
11. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản
Việt Nam, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-dang/lich-su-bien-
nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-1-18.
11. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên
Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-dang/lich-su-bien-
nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-2-175.

115

You might also like