You are on page 1of 31

Chương I:

Nhập môn CNXHKH


Như chúng ta đã biết, CNXH thường được hiểu với ba tư cách: CNXH là một học
thuyết, CNXH là một phong trào, CNXH là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều
biểu hiện khác nhau tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể. CNXH đề cập ở đây là CNXHKH dựa trên học thuyết mác-lênin trong thời
đại ngày nay.(Bài viết của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về “ Một số vấn đề lí luận
và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN).
Khái niệm: CNXHKH là một khoa học về tổ chức xây dựng XH mới, lý tưởng trong
tương lai. Xóa bỏ mọi hình thức áp bức bóc lột bất công.
I/ Sự ra đời của CNXHKH:
- Khái quát: gắn liền, xuất phát từ những tiền đề khách quan và chủ quan của lịch
sử. Diễn ra ở châu Âu vào những năm 40 thế kỉ XIX
- Theo nghĩa rộng: CNXHKH là CN Mác – Lênin, luận giải từ các giác độ triết
học, KT học chính trị và chính trị - XH về sự chuyển biến tất yếu của XH loài người
từ CNTB lên CN cộng sản.
- Theo nghĩa hẹp: CNXHKH là một trong 03 bộ phận hợp thành CN Mác – Lênin
(“triết học”, “KTCT” và “CNXHKH”)
- Yếu tố chủ quan: yếu tố con người mà cụ thể là vai trò của Mác và Ăng – ghen
1/Hoàn cảnh lịch sử ra đời CNXHKH:
- Điều kiện kinh tế - xã hội: ra đời từ thực tiễn là phong trào đấu tranh giai
cấp công nhân:
+ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn
thành ở nước Anh và bắt đầu chuyển sang nước Pháp, Đức làm xuất hiện một lực
lượng sản xuất mới, đó là nền đại công nghiệp. Nền đại công nghiệp phát triển đã làm
cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc. Cùng với sự
phát triển trên, sự ra đời của hai giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau: giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân). Cũng từ đây, cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản chống lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh
mẽ. Nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh bắt đầu và có từng bước có tổ
chức và trên quy mô rộng khắp. Phong trào Hiến chương của những người lao động ở
nước Anh diễn ra trên 10 năm (1836 – 1848), Phong trào công nhân dệt ở thành phố
Xi-lê-di, nước Đức diễn ra năm 1844. Đặc biệt, phong trào công nhân dệt ở thành phố
Li-on nước Pháp diễn ra vào năm 1831 và năm 1834 đã có tính chất chính trị rõ nét.
Nếu năm 1831, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Li-on giương cao khẩu
hiệu thuần túy có tính chất kinh tế “sống có việc làm hay là chết trong đấu tranh” thì
đến năm 1834, khẩu hiệu của phong trào đã chuyển sang mục đích chính trị: “Cộng
hòa hay là chết”. Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh giai cấp công nhân đòi hỏi
một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính
trị làm kim chỉ nam cho hành động.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội ấy không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tương
tưởng của giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự ra đời một lý luận
mới, tiến bộ - Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó phát triển là thực sự vì con người, chứ không vì
lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người.(Bài viết của tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng về “ Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở VN).
2/ Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen:
Những điều kiện kinh tế xã hội và những tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý
luận là điều kiện cần cho một học thuyết ra đời, song điều kiện đủ để học thuyết khoa
học, cách mạng và sáng tạo ra đời chính là vai trò của C.Mác và Ph. Ăng ghen.
- Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị:
Với nhãn quan khoa học uyên bác, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa “cái hạt
nhân hợp lý” của phép biện chứng trong triết học V.Ph.Heeghen, cải tạo và loại bỏ
cái vỏ thần bí duy tâm, siêu hình từ triết học L.Phoiơbắc để xây dựng nên lý thuyết
mới – chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Qua các tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Heeghen – Lời
nói đầu (1844)” của C.Mác; “Tình cảnh nước Anh”, “Lược khảo khoa kinh tế - chính
trị” của Ph.Ăng ghen, các ông vừa hoạt động thực tiễn, vừa nghiên cứu khoa học.
Đồng thời, họ đã thể hiện quá trình chuyển biến lập trường triết học và lập trường
chính trị và từng bước củng cố, dứt khoát, kiên định, nhất quán và vững chắc lập
trường đó, mà nếu không có sự chuyển biến này thì chắc chắn sẽ không có Chủ nghĩa
xã hội khoa học.
- Ba phát kiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăng ghen:
o Chủ nghĩa duy vật lịch sử: thành tựu vĩ đại thứ nhất, là sự khẳng định về
mặt triết học sự sụp đổ của CNTB và sự thắng lợi của CNXH tất yếu như nhau.
o Học thuyết về giá trị thặng dư: phát kiến vĩ đại thứ hai của 02 ông là sự
khẳng định về phương diện kinh tế, sự diệt vong không tránh khỏi của CNTB và sự
ra đời tất yếu của CNXH
o Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới giai cấp công nhân: thành
tựu vĩ đại thứ ba, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, giai cấp có sứ
mệnh thủ tiêu Chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công CNXH và Chủ nghĩa cộng sản.
3/ Tuyên ngôn của ĐCS đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Là tác phẩm kinh điển chủ yếu của CNXH KH, đánh dấu sự hình thành về cơ
bản lý luận của CN Mác bao gồm 03 bộ phận hợp thành: Triết học, KTCT học và
CNXHKH.
- Còn là Cương lĩnh chính trị, là kim chỉ nam hành động của toàn bộ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế
- Là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong
cuộc đáu tranh chống CNTB, giải phóng loài người vĩnh viễn khỏi áp bức, bóc lột
giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh
phúc.
Kết luận: Với những điều kiện, tiền đề khách quan nói trên có nghĩa là tiến
trình lịch sử đã tạo ra những yêu cầu khách quan ở mức độ “chín mồi” cho sự ra
đời của CNXHKH.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (11/2021) trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một
lần nữa khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của ĐCSVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử.(Bài viết của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về “ Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN).
II/ Các giai đoạn phát triển cơ bản của CNXHKH
1/ Từ năm 1991 đến nay:
- Ở VN, công cuộc đổi mới do ĐCVN khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ
VI (1986) đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trên tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. ĐCSVN không chỉ thành
công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tố quốc mà còn có những đóng góp to lớn
vào kho tàng lý luận của CN Mác – Lênin nói chung, CNXHKH nói riêng:
o Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là quy luật Cách mạng VN, trong điều
kiện thời đại ngày nay
o Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trung tâm…
o Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN….
o Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền VN XHCN….
o Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc…
o Mở rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện hội nhập quốc tế….
o Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của ĐCS VN – nhân tố quan trọng
hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
- Từ thực tiễn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: “Lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi
lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay . Đây là
niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững chắc trên con đường
đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991,
đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp
tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình
hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là
ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh””.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột
phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35
năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của thế giới.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục
với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng
7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la
Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN.
Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã
ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực
triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà
còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới.
Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện
nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020
đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại
hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký
đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020.
Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội
của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể,
30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài.
(Bài viết của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về “ Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN).
III/ Đối tượng, phương pháp và ý nghĩa của việc nghiên cứu CNXHKH:
1/ Đối tượng nghiên cứu của CNXHKH:
- Những qui luật, tính quy luật chính trị - XH của phát trình phát sinh, hình thành
và phát triển của hình thái kinh tế - XH cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là
CNXH; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, những con đường và hình thức,
phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nhằm hiện thực hóa sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
2/ Phương pháp nghiên cứu của CNXHKH:
- CNXHKH sử dụng phương pháp luận chung nhất là Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin.
- Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, CNXHKH đặc biệt chú trọng sử dụng
những phương pháp nghiên cứu cụ thể và những phương pháp có tính nghiên cứu liên
ngành, tổng hợp:
o PP kết hợp lịch sử và lôgíc (đặc trưng và đặc biệt quan trọng)
o PP khảo sát và phân tích về mặt chính trị - XH dựa trên điều kiện KT –XH (có
tính đặc thù)
o PP so sánh
o Các PP có tính liên ngành: CNXHKH là một khoa học chính trị - XH thuộc khoa
học XH nói chung, do đó cần thiết phải sử dụng nhiều PP nghiên cứu cụ thể của các
khoa học XH khác: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, sơ đồ
hóa, mô hình hóa,…
o Ngoài ra, CNXHKH còn gắn bó trực tiếp với phương pháp tổng kết thực tiển,
nhất là thực tiễn về chính trị - XH.
3/ Ý nghĩa của việc nghiên cứu CNXHKH:
- Về mặt lý luận:
o Có nghĩa quan trọng trang bị những nhận thức chính trị - XH và phương
pháp luận khoa học về quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng XH, giải phóng con người…. Và
CNXHKH chính là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó để
thực hiện mục tiêu trên.
o Một khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động không có nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về CNXH thì không thể có niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách
mạng vũng vàng trong mọi tình huống, mọi khúc quanh của lịch sử và cũng không có
đủ cơ sở khoa học và bản lĩnh để vận dụng sáng tạo và phát triển đúng đắn lý luận về
CNXHKH và con đường đi lên CNXH ở VN
o Góp phần định hướng chính trị - XH cho hoạt động thực tiễn của ĐCS,
nhà nước XHCN và nhân dân. Giúp chúng ta có căn cứ nhận thức khoa học để luôn
cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những
tuyên truyền chống phá,….
- Về mặt thực tiễn:
o Thấy rõ những khoảng cách nhất định so với thực tiễn, bởi vì CNXH trên
thực tế, chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ cũng với thoái trào của hệ thống XHCN thế giới => lòng tin vào CNXH,
CNXHKH và CN Mác – Lênin bị giảm sút. Vì thế việc nghiên cứu, học tập và phát
triển CNXHKH càng khó khăn và có ý nghĩa chính trị cấp bách.
o Chỉ có bản lĩnh vững vàng và sự sáng suốt, kiên định chủ động sáng tạo
tìm ra những nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm,… ta
đi đến kết luận rằng: không phải do CNXH - một xu thế XH hóa mọi mặt mọi mặt của
nhân loại; cũng không phải do CN Mác – Lenin, CNXHKH,… làm các nước XHCN
khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước XHCN đã nhận thức và hành động trái
với các CN trên. Điều này đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố
kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có CNTB. Đồng thời do
sự xuất hiện CN cơ hội - phản bội trong 1 số ĐCS và sự phá hoại của CN đế quốc
thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đã làm cho CNXH thế giới lâm vào thoái
trào. Thấy rõ thực chất những vấn đề trên 1 cách khách quan, khoa học; đồng thời
được minh chứng bởi những thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới các nước
XHCN, trong đó có VN, chúng ta càng củng cố bản lĩnh, kiên định, tự tin tiếp tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng XHCN.
 Việc nghiên cứu học tập CN Mác – Lênin, tư tưởng HCM nói chung, lý
luận chính trị - XH nói riêng và các khoa học khác,… càng là vấn đề thực tiễn cơ bản
và cấp thiết.
o Góp phần quan trọng việc giáo dục niềm tin khoa học cho nhân dân vào
mục tiêu, lý tưởng XH chủ nghĩa và con đường đi lên CNXH.
Liên hệ bản thân: Sinh viên hiểu tri thức về CNXHKH, thái độ, cùng cố niềm tin, lý
tưởng CSCN, tích cực học tập, rèn luyện đóng góp công cuộc xây dựng đất nước; đấu
tranh với quan điểm sai trái, thù địch, đặc biệt là các thế lực thù địch.
Chương II:

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân


I/ Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân:
1/ Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân:
- Khái niệm giai cấp công nhân: Là một tập đoàn xã hội, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản
tiên tiến trong các quy trình công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu
cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay
- Đặc điểm: (giai cấp công nhân thế giới)
o Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao,
quá trình lao động mang tính chất XH hóa.
o Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể
của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội hiện đại.
o Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện cho
giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh
thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó là giai cấp cách mạng và có tinh
thần cách mạng triệt để.
2/ Nội dung, đặc điểm sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân:
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp
công nhân là giai cấp tiến tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng XH duy nhất có
sử mệnh lịch sử: xóa bỏ CNTB, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng XH mới – xã hội XHCN và cộng sản chủ
nghĩa.
3/ Những điều kiện quy định và thực hiện sử mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
- Điều kiện khách quan: Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt
nguồn từ địa vị KT – XH khách quan:
o Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới CNTB, là bộ phận quan trọng
nhất,cách mạng nhất của LLSX có trình độ XH hóa cao.
o Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc phải bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ
đã tạo ra trong thời gian lao động.
o Địa vị KT – XH giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt
để có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
- Điều kiện chủ quan:
o Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định hoàn toàn khách
quan bởi những điều kiện khách quan. Song để sứ mệnh lịch sử đó thành hiện thực
thì cần có những nhân tố chủ quan đảm bảo. Trong hai nhân tố chủ quan là nhân tố
“bản thân giai cấp công nhân” và “Đảng Cộng sản”, ĐCS chính là nhân tố chủ
quan hàng đầu nhằm đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của mình.
o ĐCS là lãnh tụ chính trị, là hình thức tổ chức cao nhất, booh phận tiên tiến
nhất của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, lấy chủ nghĩa Mác – Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản
của Đảng.
o ĐCS ra đời là một tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân. Lý luận khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác (CNXHKH) thâm
nhập vào thực tiễn phong trào công nhân dẫn đến sự ra đời của ĐCS trở thành quy
luật chung cho sự ra đời của các ĐCS ở nhiều nước trên thế giới.
II/ Một số nét mới của giai cấp công nhân thế giới hiện nay:
Sự phát triển của cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và quá trình toàn
cầu hóa kinh tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân thế giới, tạo ra
một số nét mới:
- Thứ nhất, là lực lượng lao động có trình độ học vấn ngày càng được nâng cao,
được đào tạo nghề nghiệp nhất định trong cơ cấu lao động chung. So với giai cấp
nông dân và những người làm dịch vụ giản đơn, giai cấp công nhân được đào tạo
chuyên môn, nghệ nghiệp tốt hơn.
- Thứ hai, là nhóm người lao động đang từng bước tiếp xúc với khoa học – công
nghệ tiên tiến, được rèn luyện tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.
- Thứ ba, giai cấp công nhân khá đa dạng, phức tạp về thành phần XH, về nghề
nghiệp chuyên môn. Hiện nay, cùng với sự phát triển của KH –KT, chất lượng cuộc
sống của giai cấp công nhân đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là giai cấp công nhân
ở các nước tư bản phát triển, một số đã có tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, những tư liệu
sản xuất thiết yếu, quy định sự tồn tại của chế độ TBCN vẫn nằm trong tay giai cấp tư
sản, giai cấp công nhân vẫn phải chịu sự áp bức, bóc lột sức lao động của giai cấp tư
sản và CNTB.
III/ Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN hiện nay:
- Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: Là sản phẩm trực tiếp của chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớn công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền
với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công
nhân VN từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hau (1924 – 1929).
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân VN sớm trở thành
bộ phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của
giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân VN còn có những đặc điểm như sau:
o Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn đân tộc. Dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa
nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau khi phong trào cứu
nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
o Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục,
đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tướng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách
mạng triệt để.
o Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần
cùng hóa nên giai cấp công nhân nước ta có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp
đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
o Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyển, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi
đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và phát triển nên kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
o Thứ năm, quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân Việt Nam diễn ra mạnh
mẽ, từng bước hình thành giai cấp công nhân trí thức Việt Nam. Việc hình thành giai
cấp công nhân trí thức không có nghĩa đơn thuần chỉ là sự bổ sung vào lực lượng giai
cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được nâng
cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động - lao động điều khiển những
công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.
- Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
o Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử to lớn, đó là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng
nòng cắt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
o Trong lĩnh vực kinh tế
 Tiếp tục tham gia thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện phát triển KT thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức, phải chủ động vươn lên làm chủ khoa bọc - công nghệ:
phải tiên phong đi đầu trong những lĩnh vực then chốt mới có thế giữ được vai trò của
mình trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Giai cấp công nhân Việt Nam
cần tham gia sâu rộng vào sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công
nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đời sống XH; phát triển nhanh và bền vững
phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn.
o Trong lĩnh vực chính trị - xã hội
 Giai cấp công nhân VN góp phản giữ vững, củng cố và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và
tăng cường xây dựng, chính đồn đảng: ngăn chặn, đây lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng,
Thông qua vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã và
đang góp phần xây dựng hệ thống chính trị, là giai cắp tiên phong trong xây dựng
CNXH; là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp, đại đoàn kết toàn dân tộc.
o Trong lĩnh vực văn hóa - tư hưởng
 Cùng với sự quan tâm của Đảng, giai cấp công nhân phát triển về cả số
lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp
không ngừng được nâng cao. Công tác giáo dục, đảo tạo, bồi dưỡng giai cấp công
nhân được quan tâm đáp ứng yêu cầu mới.
 Nội dung và phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công
nhân được đổi mới. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong đổi mới công
tác tư tưởng, lý luận của Đảng nói chung, đối với giai cấp công nhân nói riêng. Phải
tăng dần số lượng giai cấp công nhân trong Đảng, Đảng ta đã luôn thường xuyên giáo
dục chính trị cho giai cấp công nhân để họ nhận thức được đầy đủ vai trò của mình
trong quá trình đây mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta.
o Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, hiện đại:
 Trong các Văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội đều để cập đến vấn đề
xây dựng giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo thông qua ĐCSVN, Để
thực hiện được vai trò lãnh đạo của giai cẤp công nhân trong thời kỳ đổi mới, Đảng
ta xác định rõ mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn này là xây dựng
giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có
ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tỉnh hoa văn hóa dân
tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
những biến đổi của tình hình trong nước, có tỉnh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp
tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiễn phong là ĐCS VN.
 Hiện nay, cùng với việc thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển KT tri thức, Đảng ta chú trọng xây dựng, phát triển
giai cấp công nhân để họ nâng cao trình độ, tiền bộ về mọi mặt đáp ứng tốt các yêu
cầu của một giai cấp lãnh đạo cách mạng vươn lên thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Tại Đại hội đại biểu toản quốc lần thứ XIII của ĐCS VN, Đảng rất quan tâm
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày một lớn mạnh và trưởng thành: “Xây
đựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động
thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường giáo dục chính
trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân. Chăm lo đời sống vật chất, tình thân, nhà ở và
phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân. Đối mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với biến đổi cơ cấu lao
động, nhu cầu công nhân và yêu câu hội nhập quốc tế; tập trung làm tốt vai trò đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công
nhân. Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân
tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay". Như vậy, Đảng luôn chú trọng
xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng, trình độ giác ngộ giai cấp,
luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, có
năng lực tiếp thu và sáng tạo ứng dụng khoa học công nghệ mới, lao động đạt năng
suất hiệu quả cao. Bởi vì, Đảng ta nhận thức rõ sự lớn mạnh của giai cấp công nhân
là nhân tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo vai trò lãnh đạo đối với toàn XH trong sự
nghiệp giữ vững độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên CNXH.
 Từ thực tiễn và những vấn để đặt ra trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta,
đòi hỏi phải tập trung xây dựng giai cấp công nhân VN ngày càng lớn mạnh, đủ khả
năng giữ vững vai trò lãnh đạo trong sự nghiệp cách mạng. Đây là nhiệm vụ quan
trọng, cấp thiết của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội.
Song song với việc xây dựng giai cấp công nhân VN ngày một lớn mạnh hơn thì việc
chú trọng xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh cũng là yếu tố
mang tính chất quyết định đến sự thành công trong quá trình đảm bảo, nâng cao vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân VN. Chính vì vậy, trong nhiều nhiệm kỳ qua,
ĐCS VN rất coi trọng đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh để đảm bảo vai trò là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu và đội tiễn phong của giai
cắp công nhân Việt Nam.
 Đại hội XIII Đảng ta xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chính đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”. Có thể thấy, Đảng ta
thực sự coi trọng công tác xây dựng Đảng và luôn coi đây là nhiệm vụ “then chốt" để
đảm bảo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc tiến lên xây dựng CNXH. Để đảm bảo
thực hiện thành công nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá chiến lược của nhiệm kỳ lần
này cần phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của
Đảng. Chính vì vậy, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần kiên định và
không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định đường lối đổi
mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Sàng
lọc, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng,
 Trong chiến lược trọng tâm và khâu đột phá của Đại hội XIII, Đảng ta
dành sự quan tâm đầu tư để xây dựng tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân, xây
dựng Đảng ta thực sự là "hạt nhân chính trị”, là lực lượng nòng cốt đủ sức mạnh lãnh
đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân tiến lên xây dựng đất nước giàu đẹp.
Một trong những biện pháp được Đảng ta chú trọng đó là nâng cao trình độ về mọi
mặt cho giai cấp công nhân, “giai cấp công nhân trị thức hỏa", tập hợp lực lượng lớn
mạnh trong Đảng, không ngừng củng cố khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trở thành động lực cơ bản của cách
mạng VN. Đây chính là sự đảm bảo vững chắc nhất vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân VN trong sự nghiệp cách mạng giai đoạn hiện nay.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây
dựng tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - XH trong giai cấp công nhân vững
mạnh để đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ tiến lên xây dựng
thành công CNXH.
Chương III:

Chủ nghĩa XH và Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa XH


I/ Chủ nghĩa XH:
- Khái niệm: CNXH là một chế độ XH tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh
tế - XH cộng sản chủ nghĩa, được xây dựng dựa trên nền tảng của CNXHKH.
1/ CNXH, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - XH cộng sản chủ nghĩa:
- Học thuyết hình thái kinh tế - XH của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra tính tất
yếu sự thay thế hình thái kinh tế - XH TBCN bằng hình thái KT – XH cộng sản CN
mà là giai đoạn đầu của CNXH, đó là quá trình lịch sử tự nhiên.
2/ Điều kiện ra đời của CNXHKH:
- Sự phát triển của LLSX và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công nhân là
tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái KT – XH cộng sản chủ nghĩa. Thông
qua cuộc cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân,
ĐCS, thực hiện bước quá độ từ CNXH lên CN cộng sản.
3/ Những đặc trưng bản chất của CNXH:
- CNXH giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con
người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện
- CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công
hữu về TLSX chủ yếu.
- CNXH là XH do nhân dân lao động làm chủ
- CNXH có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho
lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động
- CNXH có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của
văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
- CNXH bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị,
hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
II/ Thời kỳ quá độ lên CNXH:
1/ Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH:
- Theo quan điểm của CN Mác – Lenin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa XH
tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị.
- Các nhà sáng lập CNXHKH có chỉ ra 02 kiểu quá độ từ CNTB lên CNXH, đó
là:
o Quá độ trực tiếp từ CNTB lên CNXH đối với những nước đã trải qua
CNTB phát triển. (chưa có trong thực tiễn)
o Quá độ gián tiếp từ CNTB lên CNXH đối với những nước chưa trải qua
CNTB phát triển. (VN, TQ bỏ qua CNTB quá độ từ thuộc địa nửa phong kiến lên
CNXH)
- Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của CN Mác – Lenin,
trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế
giới, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa
và cách mạng công nghiệp 4.0, các nước lạc hậu, sau khi giành được chính quyền,
dưới sự lãnh đạo của ĐCS có thể tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
2/ Thực chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng từ XH
tiền TBCN và TBCNXH sang XH XHCN. Trong thời kỳ này có sự tồn tại đan xen
của những tàn dư của XH cũ và những nhân tố mới của CNXH thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống XH.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH (đặc điểm chung) là thời kỳ cải tạo XH cũ,
xây dựng XH mới – XH XHCN trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa, xã hội.
 Đặc điểm của Thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN bỏ qua Chế độ TBCN. Thành
tựu của 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986-2021), 30 năm thực hiện
Cương lĩnh đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991-2021) (thông qua
Đại hội VII) và 10 năm thực hiện Cương lĩnh Chính trị Bổ sung và Phát triển
(2011 – 2021) (thông qua Đại hội XI):
- Vận dụng bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:
“Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên
CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khan và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến
đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. VN đi lên CNXH từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, lực lượng s/x rất thấp, lại trải
qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ TBCN là bỏ
qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột TBCN; bỏ qua những thói hư tật xấu, những
thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua
cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có
chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định
và nhấn mạnh:
“Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất
cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm
kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục
qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con
đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta
là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hang đầu quyết định mọi
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng là ngọn cờ tư
tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc VN XHCN trong giai đoạn mới”. Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là
cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với
những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.
 Những đặc trưng của CNXH và phương hướng xây dựng CNXH ở VN hiện
nay:
 Đặc trưng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(1991), đã xác định mô hình CNXH ở nước ta với 06 đặc trưng. Nhưng đến với
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) xác định xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là xã hội với 08 đặc
trưng sau:
- Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Hai là, do nhân dân làm chủ.
- Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
- Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
- Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
- Bảy là, có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
 Phương hướng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 08
phương hướng (trên cơ sở 07 phương hướng của Cương lĩnh 1991) của quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta như sau:
- Một là, đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước gắn với phát triển KT tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường.
- Hai là, phát triển KT thị trường định hướng XHCN
- Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội.
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
08 phương hướng – nhiệm vụ cơ bản nói trên thể hiện tính hệ thống, đồng bộ của
con đường đi lên CNXH ở nước ta, vừa đúng xu thế thời đại, vừa phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
 Các mối quan hệ và nhiệm vụ cơ bản của quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta
 Trong thời kỳ thực hiện các phương hướng cơ bản đó, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng
yêu cầu phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn:
1) Giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
2) Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
3) Giữa kinh tế thị trưởng và định hướng XHCN;
4) Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất XHCN;
5) Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội;
6) Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN;
7) Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
8) Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
 Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đại hội XIII của
Đảng đã xác định mục tiêu đến giữa TK XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo
định hướng XHCN với các mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước (30/4/1975 – 30/4/2025): Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng
hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (03/02/1930 – 03/02/2030): Là
nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí
tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt 12 định hướng
phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 như sau:
(1) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 05 năm
trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh
tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong
quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp.
(3) Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy
vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
(4) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người
Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
(5) Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an ninh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe nhân dân, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao
động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn.
(6) Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi
trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường
quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững
chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số binh chủng, quân chủng, lực lượng.
(8) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của
Việt Nam trong khu vực và trên Thế giới.
(9) Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

(10) Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xây dựng bộ máy
nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường
trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liệu, tệ nạn xã hội và tội phạm.

(11) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng
cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu, phát huy truyền
thống đoàn kết, thống nhất của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo
vệ chính trị nội bộ; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận,
công tác kiểm tra, giám sát và công tác dân vận của Đảng; tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
(12) Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn
định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy
luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà
nước và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ;…
Chương IV:

Dân chủ XHCN và nhà nước XHCN


I/ Dân chủ và dân chủ XHCN
1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
a. Quan niệm về dân chủ
- Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII – VI TCN. Các nhà
tư tưởng Hy Lạp cổ đại đã dùng cụm từ “demoskratos” để nói đến dân chủ, trong đó
“demos” là nhân dân (danh từ) và “kratos” là cai trị (động từ). Theo đó, dân chủ được
hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị gọi giản lược là quyền lực
của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
- Theo quan điểm của CN Mác – Lênin dân chủ có một số nội dung cơ
bản sau đây
o Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước.
o Thứ hai, trên phương diện chế độ XHCN và trong lĩnh vực chính trị, dân
chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân
chủ.
o Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý XH, dân chủ là một nguyên
tắc – nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình
thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quan lý XH.
- Từ những cách tiếp cận trên, dân chủ có thể hiểu Dân chủ là một giá trị
XH phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một hình thức tổ chức nhà nước
của giai cấp cầm quyền; có quá trình ra đời, phát triển cùng với lịch sử xã hội nhân
loại.
b. Sự ra đời, phát triển của dân chủ
- Với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch
sử nhân loại, cho đến nay có ba nền (chế độ) dân chủ. Nền dân chủ chủ nô, gắn với
chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dẫn chủ tư sản, gắn với chế độ TBCN; nền dân chủ
XHCN, gắn với chế độ XHCN.
2. Dân chủ XNCH
a. Quá trình ra đời của nền dân chủ XHCN
- Dân chủ XHCN đã được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp
và Công xã Pari năm 1871. Tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga
thành công với sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới (1917), nền dân
chủ XHCN mới chính thức được xác lập. Sư ra đời của nền dân chủ XHCN đánh dấu
bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ XHCN
bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong đó, có sự kế thừa
những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những
giá trị của nền dân chủ mới.
- Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ có
trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng;
được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
b. Bản chất của nền dân chủ XHCN
- Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân
chủ XHCN
o Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp
công nhân (Đảng Mác – Lênin) mà trên mọi lĩnh vực XH đều thực hiện quyền lực
của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn
ngày càng cao hơn các nhu cầu lợi ích của nhân dân.
o Bản chất kinh tế: Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ sở hữu XH về
những TLSX chủ yếu của toàn XH đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày
càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thân của toàn thể nhân dân lao động.
o Bản chất tư tưởng – văn hóa – XH: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng
Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái
ý thức XH khác trong XH mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn
hóa truyền thông dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ
XH mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia dân tộc. Trong nền dân chủ XHCN,
nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn
hóa, có điều kiện phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn
hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát
triển con người.
II/ Nhà nước XHCN
1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước XHCN:
a. Sự ra đời của nhà nước XHCN:
- Trong lịch sử phát triển của XH loài người có xuất hiện 4 kiểu nhà nước:
nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước XHCN. Nhà
nước XHCN được ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1947.
- Nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng XHCN sản sinh ra và có sứ mệnh xây
dựng thành công CNXH, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt
của đời sống XH trong một XH phát triển cao – XH XHCN.
b. Bản chất của nhà nước XHCN:
- So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước XHCN là kiểu nhà
nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong lịch sử.
Tính ưu việt về mặt bản chất của nhà nước XHCN được thể hiện trên các phương
diện.
o Về chính trị, nhà nước XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động.
o Về kinh tế: bản chất của nhà nước XHCN chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của XHCN, đó là chế độ sở hữu XH về TLSX chủ yếu.
o Về văn hóa XH: nhà nước XHCN được xây dựng trên nền tảng tinh
thần là lý luận của CN Mác – Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của
nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc
c. Chức năng của nhà nước XHCN:
- Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước XHCN được chia
thành các chức năng khác nhau:
o Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước XHCN được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
o Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của
nhà nước XHCN được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, XH.
o Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng XH (tổ chức và xây dựng)
2. Mối quan hệ giữa dân chủ XHCN và nhà nước XHCN
III/ Dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN ở VN:
1. Dân chủ XHCN ở VN:
a. Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ XHCN ở VN:
- Chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta được xác lập sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Đến năm 1976, tên nước được đổi thanhg Cộng hòa XHCN VN.
- Sau 35 năm đổi mới, dân chủ XHCN ngày càng đc phát triển và hoàn
thiện phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta “ Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ
ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương
và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm…”
b. Bản chất của nền dân chủ XHCN ở VN:
- Đó là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm
chủ. Điều này đã được HCM khẳng định:
“ Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân.
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân”.
- Bản chất dân chủ XHCN ở VN được thực hiện thông qua các hình thức
dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
o Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực
hiện do nhân dân “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực
tiếp bầu ra. Những con người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
o Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông đó, nhan dân bằng hành
động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước và XH.
2/ Nhà nước pháp quyền XHCN ở VN:
a. Quan niệm về nhà nước pháp quyền XHCN ở VN:
- Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn
pháp luật, nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện
cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của chính mình. Trong hoạt
động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan nhà nước được phân quyền rõ ràng và
được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng.
- Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước
pháp quyền vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà
nước pháp quyền được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều
được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật
phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
b. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền XHCN VN:
- Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, ở
Việt Nam trong thời kì đổi mới, có thể thấy Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
có một số đặc điểm cơ bản như sau:
o Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân
o Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến
pháp và pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của XH, pháp luật được đặt ở vị trí tối
thượng để điều chỉnh các quan hệ XH.
o Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có
cơ chế phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
o Thứ tư, Nhà nước pháp quyền XHCN ở VN phải do ĐCS VN lãnh đạo,
phù hợp với điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà nước được giám sát bởi
nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các
tổ chức, các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.
o Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN ở VN tôn trọng quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của
nhân dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và bãi miễn
những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh
của pháp luật.
o Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng bảo
đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thông nhất của Trung ương.
3. Phát huy dân chủ XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở VN
hiện nay:
a. Phát huy dân chủ XHCN ở VN hiện nay:
- Một là, xây dựng, hoàn hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ XHCN.
- Hai là, xây dựng ĐCS VN trong sạch, vững mạnh với tư cách điều kiện
tiên quyết để xây dựng nền dân chủ XHCN VN.
- Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh với tư cách
điều kiện để thực thi dân chủ XHCN.
- Bốn là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - XH trong xây dựng
nền dân chủ XHCN.
- Năm là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản
biện xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
b. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN VN:
- Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
- Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
- Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
- Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm.
Bổ sung văn kiện ĐH XIII vào xây dựng nền dân chủ XHCN và nhà nước pháp
quyền XHCN VN:
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng với nhiều luận điểm mới có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Đó là thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Làm tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dán kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng ”. Xác định rõ hơn vai trò
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chỉnh trị xã hội
làm nòng cốt" để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhả nước ban hành đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền làm chủ của nhân dân. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống
chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân
chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Trên cơ sở đó: “Xử lý kịp thời,
nghiêm minh những tổ chức, có nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn
định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyển làm chủ của
nhân dân".
 Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN VN:
Trong xây đựng Nhà nước pháp quyền XHCN VN, Văn kiện của Đảng lần này
nhấn mạnh: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN VN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhả nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ
sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành
động; xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan
nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tính gọn, hoạt
động hiệu lực. hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng
cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soái quyền lực gắn với siết
chặt kỷ cương, kỷ luật trong họat động của Nhà nước và cán bộ công chức, viên
chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham những, lãng phí, quan liêu, tội
phạm và tệ nạn XH”.
Chương VI:

Vấn đề dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
I. Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của XH loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên
nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
- Theo nghĩa rộng, dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng
người ổn đinh làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống
nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau
bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh
chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
- Theo nghĩa rộng, dân tộc có một số đặc trưng cơ bản sau:
o Thứ nhất, có chung một vùng lãnh thổ ổn định.
o Thứ hai, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế.
o Thứ ba, có chung một ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp.
o Thứ tư, có chung một nền văn hóa và tâm lý.
- Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc
người hình thành trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bên vững, có chung ý thức
tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn hóa.
Có 3 đặc trưng cơ bản:
o Cộng đồng về ngôn ngữ
o Cộng đồng về văn hóa
o Ý thức giác tộc người
2. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc:
a. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc:
- Nghiên cứu về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin phát hiện ra hai xu hướng khách quan
trong sự phát triển quan hệ dân tộc.
o Xu hướng thất nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng
dân tộc độc lập
o Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở
nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau.
b. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Một là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng (mỗi cái triển khai 1 đoạn đầu tiên)
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay
nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi
ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH, khồn dân tộc nào được giữ đặc
quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị và văn hóa.
- Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
- Ba là: Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp; phản ảnh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
II/ Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo:
a. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo:
 Thứ nhất: Bản chất của tôn giáo
- Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên
và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí… Ph.Ăngghen cho rằng: “… tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc con người – của những
lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong
đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
 Thứ hai: Nguồn gốc của tôn giáo
- Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - XH:
- Nguồn gốc nhận thức
- Nguồn gốc tâm lý
 Thứ ba: Tính chất của tôn giáo:
- Tính lịch sử của tôn giáo
- Tính quần chúng của tôn giáo
- Tính chính trị của tôn giáo
b. Nguyên tắc giải quyết vấn đề về tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
trình cải tạo XH cũ, xây dựng XH mới
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết
vấn đề tôn giáo.
Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Quan điểm và chính sách của đảng và nhà nước ta hiện nay về vấn đề dân
tộc và quan hệ dân tộc ở việt nam
a) Đặc điểm dân tộc Việt Nam
o Có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người (Người Kinh chiếm 85,7% dân
số cả nước, 53 dân tộc thiểu số còn lại chiếm 14,3% dân số).
o Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
o Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược
quan trọng.
o Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng
đồng dân tộc – quốc gia thống nhất.
o Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng
của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
b) Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc
 Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc:
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã thực hiện nhất quán những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc. Căn cứ vào thực tiễn lịch
sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào
tình hình Thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn
đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt.
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi việc giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng
như tiềm năng của từng dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIII khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách bảo đảm
các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân
tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Duyên hải miền Trung. Nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm
tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
 Quan điểm về vấn đề dân tộc được thể chế hóa thành các chính sách sau:
 Về kinh tế: Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua
các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển KT – XH ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách
mạng.
 Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn
ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các
dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với
điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu
văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội,
chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng – văn hóa ở nước ta hiện nay.
 Về xã hội: Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an ninh xã hội trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông
qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số,
y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai
trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị – xã hội ở miền núi, vùng dân
tộc thiểu số.
 Về an ninh – quốc phòng: Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở
đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự – an toàn xã hội.
Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo
thế trận quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
3. Quan điểm và chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
a) Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
o Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo, có 06 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo. Trong đó, 04 tôn giáo như: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo được xem là tôn giáo chính thống còn tôn giáo nội sinh
(dân gian) như Cao Đài, Hòa Hảo.
o Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có xung
đột, chiến tranh tôn giáo.
o Tín đồ của các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc.
o Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có
uy tín, ảnh hưởng với tín đồ.
o Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
nước ngoài.
b) Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn
giáo hiện nay
 Quan điểm:
Đại hội XIII khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo,
chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp
luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất
nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo
chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
 Chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
 Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
 Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
 Nội dung, cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
 Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
 Vấn đề theo đạo và truyền đạo: Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại
gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo
được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ
chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
III. QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM (Lược bớt, đọc Giáo
trình).
Chương VII:

Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH


Nội dung 1:
Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình. Phương hướng cơ bản xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên CNXH.
1. Khái niệm gia đình:
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng
cố chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình.
2. Vị trí của gia đình trong xã hội:
Gia đình là tế bào xã hội.
Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân
của mỗi thành viên.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.
Gia đình là hạt nhân của xã hội.
Gia đình là nền tảng của xã hội.
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt.
Gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng đời người.
3. Chức năng cơ bản của gia đình:
Chức năng tái sản xuất ra con người.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.
Nội dung 2:
1. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng gia đình hạnh phúc:
Thứ nhất, gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội; là yếu tố cơ bản quyết định đến
sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
gia đình Việt Nam phát huy đầy đủ vai trò của mình, Đảng và nhà nước chủ trương
xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, là tế bào lành mạnh của xã
hội. Mọi chính sách về gia đình đều nhằm phục vụ mục tiêu này.
Thứ hai, xây dựng gia đình hạnh phúc là sự tổng hòa, đồng bộ của hệ thống các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực liên quan; đặc biệt là
các chính sách về kinh tế hộ gia đình, xóa đói giảm nghèo, y tế, dân số kế hoạch hóa
gia đình, giáo dục. Nhưng trong đó các yếu tố nội sinh từ gia đình là phát huy giá trị
các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, giáo dục đạo đức, lối sống, đời
sống gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình và có vai trò quyết định đến xây dựng
gia đình hạnh phúc.
Thứ ba, gia đình có vai trò quyết định đến việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Được hội tụ đầy đủ các yếu tố như sức khỏe, trí tuệ, năng lực, bản lĩnh chính
trị, nhân cách, đạo đức. Vừa nắm bắt được những giá trị tiên tiến của thế giới, vừa lưu
trữ được những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và phải dựa trên sự
gắn kết hài hòa ba mối quan hệ: gia đình - nhà trường - xã hội, đó chính là nhân tố
quyết định đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
Thứ tư, gia đình là nơi lưu giữ, gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc thông qua giáo dục gia đình, sự truyền đạt tiếp nối giữa các thế hệ trong gia
đình. Vì vậy các cấp, các ngành liên quan nên tập trung nhiệm vụ giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình; cung cấp và hướng dẫn những kiến thức, kỹ năng xây dựng
đời sống gia đình.
Thứ năm, việc xây dựng gia đình hạnh phúc phải gắn với xây dựng từng gia đình và
trong các phong trào khác ở khu dân cư, thôn, xóm, ấp.
Sau 35 năm đổi mới đất nước, gia đình Việt Nam đã có những thay đổi tiến bộ vượt
trội về mọi mặt. Kinh tế hộ gia đình Việt Nam đã có bước phát triển nhanh, trở thành
bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần to lớn vào quá trình xóa đói
giảm nghèo. Công tác gia đình, xây dựng gia đình nó ấm, tiến bộ, hạnh phúc được
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng, dành nhiều công sức, nguồn lực tổ
chức, chỉ đạo, thực hiện các chương trình, đề án quốc gia nhằm nâng cao năng lực
các gia đình, tạo điều kiện cho các gia đình tiếp cận các chính sách an sinh xã hội cơ
bản, đặc biệt là các gia đình khó khăn có điều kiện vươn lên xây dựng cuộc sống no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
2. Một số định hướng xây dựng gia đình trong giai đoạn 2021 – 2030:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật về xây dựng gia đình.
Thứ hai, thúc đẩy giáo dục gia đình và các dịch vụ hỗ trợ gia đình.
Thứ ba, sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội trong định hướng giá trị và
xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống cho trẻ.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, truyền thông về bình đẳng
giới.
Thứ sáu, phổ biến kết quả nghiên cứu nhằm gìn giữ, phát huy và định hướng dư luận
xã hội cho các giá trị gia đình trong thời kỳ hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; xây
dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ mới, hướng tới xây
dựng, phát triển gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc và văn minh.

You might also like