You are on page 1of 9

1.

Hoàn cảnh lịch sử ra đời CNXHKH


- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, CNXHKH là chủ nghĩa Mác – Lênin, luận giải từ các giác độ triết học,
kinh tế học chính trị và chính trị - xã hội về sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo nghĩa hẹp, CNXHKH là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn
kết một cách hữu cơ và là sự tiếp tục một cách logic của triết học, kinh tế chính trị học trở
thành 1 học thuyết hoàn chỉnh, thống nhất, phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ tạo
nên nền đại công nghiệp, nền đại công nghiệp cơ khí giúp cho phương thức sản xuất TBCN
có bước phát triển vượt bậc. Cùng với sự phát triển đó, sự mâu thuẫn trong lòng xã hội
giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất cũng được bộc lộ ra ngoài một cách rõ nét thành
những cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Kể đến như phong trào
Hiến chương của người lao động nước Anh (1836-1848), phong trào công nhân dệt ở Đức
(1844) và ở Pháp (1831-1834).
Các cuộc đấu tranh chứng minh rằng giai cấp công nhân đã trưởng thành và trở thành một
lực lượng chính trị độc lập, bắt đầu đứng lên chống lại giai cấp tư sản. Sự phát triển của
phong trào công nhân đòi hỏi phải có một lý luận cách mạng khoa học để giúp giải phóng
giai cấp công nhân một cách triệt để.
- Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lý luận:
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực
khoa học tự nhiên và xã hội tạo nền tảng cho phát triển tư duy lý luận.
Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vật lý học và sinh học đã tạo ra bước phát triển
đột phá có tính cách mạng: Thuyết tiến hoá (Charles Darwin), Thuyết tế bào (Schleiden và
Schwam) và Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng (Mayer). Tất cả các phát minh
này là tiền đề khoa học cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu những vấn đề lý luận chính trị - xã hội là
những vấn đề thuộc CNXHKH.
Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng có những thành tựu
đáng ghi nhận trong việc xây dựng và phát triển CNXHKH, trong đó có triết học cổ điển
Đức (Hegel và Feuerbach), kinh tế chính trị học cổ điển Anh (Smith và Ricardo), chủ nghĩa
xã hội không tưởng phê phán (Saint Simon, Fourier và Owen).
2. Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với sự ra đời của CNXHKH
C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895), trưởng thành ở Đức, là những nhà triết học
đã tiếp thu các giá trị của nền triết học cổ điển, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và kho
tàng tri thức nhân loại, tạo nên điều kiện đủ cho CNXHKH ra đời.
- Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị:
Khi mới bước vào hoạt động khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen là hai thành viên tích cực của
câu lạc bộ Hêghen trẻ và chịu ảnh hưởng từ quan điểm triết học Hêghen và Phoiơbắc. Tuy
nhiên, hai ông đã sớm nhận thấy những mặt tích cực và hạn chế trong triết học của Hêghen
và Phoiơbắc, từ đó kế thừa, cải tạo và xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng. Từ năm
1843 đến 4/1844, hai ông qua những tác phẩm của mình đã thể hiện rõ sự chuyển biến từ
thế giới quan duy tâm sang thế giới duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập
trường cộng sản chủ nghĩa.
- Ba phát kiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử được sáng lập dựa trên phép biện chứng duy vật trên nghiên cứu
chủ nghĩa tư bản, là sự khẳng định về mặt triết học sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự
thắng lợi của CNXH là tất yếu.
Học thuyết giá trị thặng dư được sáng tạo từ việc nghiên cứu nền sản xuất công nghiệp và
nền kinh tế TBCN, là sự khẳng định trên phương diện kinh tế về sự diệt vong của chủ nghĩa
tư bản và sự ra đời của CNXH là tất yếu.
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân khắc phục những hạn chế có tính lịch
sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán, đồng thời khẳng định vai trò của giai cấp
công nhân trong sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của CNXH.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của CNXHKH:
Tháng 2/1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn
thảo được công bố trước toàn thế giới, đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ
nghĩa Mác nói chung và CNXHKH nói riêng.
Tác phẩm đã nêu ra và phân tích một cách có hệ thống lịch sử và logic hoàn chỉnh về
những vấn đề cơ bản nhất, đầy đủ, súc tích và chặt chẽ nhất thu tóm hầu như toàn bộ
những luận điểm của CNXHKH.

3. Những điều kiện khách quan và chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
- Định nghĩa giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá
trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất
tiên tiến, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ TBCN lên CNXH. Ở các
nước TBCN, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu
sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Ở các
nước XHCN, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản
xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội.
- Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân là thông
qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu
tranh xoá bỏ các chế độ người bóc lột người, xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
- Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
 Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định.
Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của nền đại công nghiệp trong phương thức
sản xuất TBCN, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại,
nắm vai trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân là lực lượng
phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và
lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất XHCN,
xây dựng CNXH với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp
bức, bóc lột người.
 Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Giai cấp công nhân có được những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách
mạng: tính tổ chức và kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
mình và giải phóng xã hội. Những phẩm chất này được hình thành từ chính những điều
kiện khách quan, được quy định từ địa vị kinh tế và địa vị chính trị - xã hội trong nền
sản xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại.
Giai cấp công nhân được trang bị lý luận tiên tiến là chủ nghĩa Mác – Lênin, có đội tiền
phong là Đảng Cộng sản dẫn dắt, do đó họ là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế
đi lên của tiến trình phát triển lịch sử.
Địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân đã tạo nên những phẩm chất chính trị
là giai cấp tiến tiến nhất; giai cấp có ý thức kỷ luật cao; giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để; giai cấp có bản chất quốc tế.
- Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử:
 Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.
Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất lượng của giai cấp công
nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình. Chất lượng giai cấp công nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức
chính trị của một giai cấp cách mạng, tự giác nhận thức được vai trò và trọng trách của
giai cấp mình đối với lịch sử, do đó họ phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Giai cấp công nhân là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến,
chất lượng giai cấp công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa
học kĩ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.
 Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn lực bổ sung quan trọng nhất của Đảng,
làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp.
Đảng Cộng sản là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc
và xã hội. Sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất giai cấp công nhân mà còn
ở mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao động đông đảo
trong xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải
phóng xã hội.
 Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan trên, để cuộc cách mạng thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lênin còn chỉ rõ
phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác.

4. Khái niệm dân tộc và cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Khái niệm dân tộc:
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và
giữ nước.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành
trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngôn
ngữ và văn hoá.
 Dân tộc theo nghĩa rộng dùng để chỉ một quốc gia dân tộc (nation), theo nghĩa hẹp dùng
để chỉ một tộc người (ethnie).
- Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin:
 Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Các quốc gia dân tộc không phân biệt lớn hay nhỏ, đông hay ít người, ở trình độ phát
triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh
tế, chính trị, văn hóa.
Trong quan hệ xã hội cũng như quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp
bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân
tộc phải được hiện thực hoá trên cơ sở pháp luật.
Để thực hiện được quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc, trước hết phải loại bỏ
tình trạng áp bức giai cấp, từ đó đấu tranh xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc. Đây được
xác định là một quá trình lâu dài.
 Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền tự quyết là quyền thiêng liêng của các quốc gia dân tộc, bao gồm quyền tự lựa
chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết cũng bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập,
đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng thành
một liên bang.
Quyền tự quyết giúp các quốc gia dân tộc chống lại việc can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, tuy nhiên vẫn cần lưu ý và kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động, thù địch lợi dụng quyền này để chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc.
 Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để có sức mạnh giành
thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, phản ánh sự gắn bó
chặt chẽ giữa tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Nội dung này vừa là nội dung chủ yếu, vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội
dung của cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể, bởi có liên hiệp lại thì mới có sức
mạnh đấu tranh dành được quyền bình đẳng và quyền tự quyết.

5. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất, nguồn gốc và nguyên tắc
giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH?
- Định nghĩa tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo
hiện thực khách quan, thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội đều trở
nên siêu nhiên và thần bí.
- Bản chất của tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Về bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng: Tôn giáo là một hiện
tượng xã hội - văn hoá do con người tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi
ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn
giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
Về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với
thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo được hiểu là một thực thể xã hội với các tiêu chí cơ bản
như có một đấng tối cao để tôn thờ, có hệ thống giáo lý giáo luật, có cơ sở thờ cúng, có hệ
thống tín đồ và giáo hội để quản lý tôn giáo.
 Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự
ngưỡng mộ, cách thức thể hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực
lượng có tính thần thánh, linh thiêng để cầu mong sự che chở, giúp đỡ.
 Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần thánh đến
mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá mức, trái với
các giá trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.
 Cuồng tín là lòng tin của con người vào sức mạnh của một thế lực siêu nhiên nào đó
một cách điên cuồng, gây ảnh hưởng rất xấu đến con người, nguy hiểm đến tính mạng.
- Nguồn gốc của tôn giáo:
 Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phối khiến cho
con người cảm thấy yếu đuối và bất lực, không giải thích được nên con người đã gán
cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí để hình thành nên các biểu tượng tôn
giáo.
Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, có áp bức bóc lột bất công, do không giải thích
được nguyên nhân của những điều này, cộng với sự lo sợ trước sự thống trị của các lực
lượng xã hội nên con người trông chờ vào một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế.
 Nguồn gốc nhận thức.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trình độ nhận thức của con người đã phát triển đến
một mức độ nhất định, tuy nhiên còn nhiều vấn đề con người chưa giải thích được và đó
là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.
 Nguồn gốc tâm lý.
Sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đã dẫn con người đến việc nhờ
cậy thần linh, ngay cả những nét tâm lí như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng…
trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi
cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.
- Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
 Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng
liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Quyền tự do tư tưởng của
nhân dân nói rằng việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa
chọn của mỗi người dân.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, mọi người dân theo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ.
 Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ hướng vào giải quyết những tiêu
cực của tôn giáo mà không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo.
Xác lập một thế giới không có áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói cũng và ngăn chặn
nảy sinh tệ nạn trong xã hội, phát triển đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng ấm no
hạnh phúc trong hiện thực.
 Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ và phản tiến bộ, phản ánh màu thuận
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực
lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt
tư tưởng phản ánh mẫu thuẫn không mang tính đối kháng về niềm tin, mức độ tin giữa
những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như
những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan trong quá
trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
 Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực đời sống xã hội
luôn có sự khác biệt, vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá
và ứng xử đối với những vấn đề có thể liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo
cụ thể.
Nghĩa rộng chỉ một cộng đồng người ổn định tạo thành nhân dân của một nước, có
chung lãnh thổ quốc gia. Có nèn kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung cùng gắn bó
thống nhất về kinh tế chính trị văn hóa và cùng trả qua chiều dài lịch sử cùng nhau
dựng nc và giữ nc. Đây là khái niệm dùng để chỉ một quốc gia dân tộc
Theo nghĩa hẹp thì dân tộc là một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử có
mỗi liên hệ chặt chẽ với nhau về chung ý thức tự giác về tộc người và ngôn ngữ văn
hóa. Đây là khái niieemj chung để chỉ một tộc người
Cương lĩnh dân tộc gồm ba nội dung :
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Sứ mệnh thiêng liêng nhất. các dân tộc hoàn toàn bình đẳng không phân biệt dân tộc
lớn hay nhỏ, đến từ đâu và các dân tộc không có quyền tự lợi về kinh tế chính trị,..
Các dân tộc không có quyền bóc lột và áp bức dân tộc khác
Để thực hiện được quyền bình đẳng thì phải thủ tiêu được tình trạng áp bức bóc lột của
các giai cấp với nhau,…
LÀ cơ sở để thực hiện quyền tự quyết dân tộc và xâu dựng mối quan hệ hợp tác giữa
các dân tộc hữu nghị trên thế giới
Các dân tộc có quyền tự quyết
Các dân tộc có quyền tư quyết định vận mệnh đất nc
Quyền tự tách ra và quyền sát nhập vào các cộng đồng khác
Quyền này không đồng nhất với mấy bọn tự trị
Liên minh công nhân giữa các dân tộc
Phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là sự giao thoa
giữa chủ nghía yêu nc và chủ ngh quốc tế chân chính
Liên hiệp công nhân lại giúp đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động chống lại chủ ngh
đế quốc
Bản chất của tôn giáo
CN mác lê nin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện
thực khách quan thông qua sự phản ánh đó LL tự nhiên trở nên là một thế lực siêu
nhiên và thần bí
Ở một cách tp cận khác thì tôn giáo là một thực thể xã hội
Về bản chất tôn giáo CN mác lê nin khẳng định tôn giáo là một hiện tg xã hội văn hóa
do con nguoi tạo ra. Con ng sáng tạo ra tôn giáo để nhàm phục vụ mục đích của họ thê
hiện ước mơ nguyện vọng của con người. Tuy nhiên con người lại bị lệ thuộc vào nó
tuyệt đối hóa và phục tùng vô điều kiện
CN mác lê nin cũng cho rằng điều kiện kinh tế xét đến cùng là nguyên nhân dẫn đến sự
tồn tại của các hình thức xã hội đó
Về phg diện thế giới quan , tôn giáo mang t giới quan duy tâm trái ngược vs thế giới
quan duy vật, khoa học của CNXHKH, Mặc dù vậy thì các nhà tư tg ko đàn áp
Tôn giáo và tín ngưỡng có sự giao thoa nhưng không đồng nhất. Tín ngưỡng là các
hành động niềm tin vào các thế lực để cầu mong sự che chở
Mê tín là các niềm tin mê muội của con ng vào các dẫn chứng sự vc không dựa trên căn
cứ khoa học nào Dị đoạn là sự suy đoán của con người hành động sai lệch không tuân
thủ một chuaant mực xã hội nào cả
Như vậy xét về bant chất thì tôn giáo là một hn tg xã hội tiêu cực nhg mà theo chừng
mcuwj thì tôn giáo cũng có mặt tích cực
Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên kinh tế xã hội
Khi xã hội ở thời nguyên thủy thì LLSx chưa phát triển trc thiên tai bão lũ thì con
người yếu đuối không thể tìm được cách chống lại và phòng bị nên đã gán cho nó sức
mạnh quyền lực thần bí.
Với kinh tế xã hội thì con người khi gặp phải sự khác bt về giai cấp và vị giai cấp khác
đàn áp bóc lột thì cũng không thể giải thích được và trc sự thống trị của các LLXH thì
con người mong chờ sự giải thoát của thế lực vô hình
Nguồn gốc nhận thức
Sự nhận thức của con người về tự nhiên có giới hạn về cả bản thân và xã hội mà có
những điều không thể bt được khoảng cách giữa bt và không bt vẫn confn tồn tại thì
con người thông qua lăng kính tôn giáo có thể giải thích điều đó được. Ngay cả những
vấn đề đã được KH cm nma do dân trí thấp thì tôn giáo mà mảnh đất tuyệt vời cho
con người trông đợi sự giải thích

Nguồn gốc tâm lý


Sự sợ hãi những hiện tg tự nhiên sự vật hiện trg hay do lúc ốm đau may rủi or cần tìm
đến sự bninhf yên thì con người thường tìm đến tôn giáo

Những tình cảm như đôi lauws lòng bt ơn cùng dẫn con nnguowif ta đến với tôn giáoS

You might also like