You are on page 1of 15

5.2.

Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân


Nếu ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước
bằng thơ theo cách riêng của mình thì 47 dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư
tưởng Đất Nước của Nhân Dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lí, thời gian
lịch sử và văn hóa phong tục của nhân dân.
5.2.1. Nhìn ở phương diện địa lí
a. Tám câu đầu
- Những cảnh sắc thiên nhiên, danh thắng, tên đất tên làng của ĐN chính là
sự hóa thân của nhân dân . Nó không phải đơn giản là sản phẩm của tạo hóa mà
là vẻ đẹp, tâm hồn, số phận nhân dân, là tinh thần của con người đất Việt hóa
thân tạo thành linh hồn không gian ĐN.
- Liệt kê những hình ảnh – địa danh, danh thắng
- Điệp ngữ góp, góp cho, góp nên: kđ công lao vĩ đại của nd; đóng góp công
sức, khát vọng của nd để làm nên ĐN.
-Hình ảnh Những người vợ nhớ chồng gợi tình nghĩa thủy chung gắn bó của bao
người vợ nhớ thương chồng bất chấp không gian thời gian.
+ Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng
chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Trên nhiều vùng của đất nước ta có
những tảng đá lớn hay núi đá trông giống như hình người đàn bà bồng con. Nhân
dân ta đã thổi vào những hòn đá vô tri ấy một sức sống, một linh hồn mang vẻ đẹp
đời sống tinh thần của nhân dân. Chắc chắn, nếu không có những mối tình đắm say,
chung thủy, không có những người vợ đợi chồng trong các cuộc chiến tranh li tán
thì không có cảm nhận kì thú, sâu sắc như thế về núi Vọng Phu.
-Lối sống thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta còn kết tinh, hóa thân thành huyền
thoại về hòn Trống Mái:
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái.
+ Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp gần bãi biển Sầm Sơn gắn với một sự tích về tình
yêu được lưu truyền ở địa phương , trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy
chung, son sắt, sống chết bên nhau và mãi mãi không bao giờ chia lìa. Phải thế chăng
mà từ những người vợ nhớ chồng nhà thơ đã chuyển thành cặp vợ chồng yêu nhau.
Cặp cũng là đôi, nhưng còn chỉ sự gắn bó khăng khít, không bao giờ có thể chia lìa.
-Trên hành trình khám phá vai trò, công lao của nhân dân qua hàng ngàn năm lịch
sử và sự hóa thân của nhân dân vào hình sông, thế núi, Nguyễn Khoa Điềm còn
phát hiện ra: nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta còn là sự hóa thân của
truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
+ Ý thơ được xây dựng sáng tạo dựa trên truyền thuyết Thánh Gióng – một
truyền thuyết tiêu biểu cho truyền thống yêu nước của người Việt. Nếu nhân dân ta
không có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm qua hàng ngàn năm lịch sử thì
không bao giờ có sự cảm nhận kì diệu đến như vậy về những ao, đầm mộc mạc, bình
dị, gần gũi và đơn sơ. Lòng yêu nước của người dân Việt đã thổi hồn vào những hình
ảnh bình dị thân thương đó một sức sống, một linh hồn dân tộc, để rồi "Đêm đêm rì
rầm trong tiếng đất" ta lại nghe thấy "những buổi ngày xưa vọng nói về".
-Hình ảnh Chín mươi chín con voigóp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. Thể hiện sức
mạnh đoàn kết trong công cuộc xây dựng ĐN buổi sơ khai.
Ý thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi
chín con voi thực chất là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có
đền thờ các Vua Hùng. Nhân dân ta đã hình dung hình chín mươi chín ngọn núi ấy
giống như hình chín mươi chín con voi quây quần, thuần phục đất tổ. Chỉ có một
con không quy thuận, nên bị chặt đầu. Từ truyền thuyết ấy, nhà thơ ca ngợi lịch sử
dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước, ca ngợi tinh thần đoàn kết, truyền
thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam:
Hàng năm ăn đâu, làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
-“ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”: Câu thơ thể hiện sự liên
tưởng, sáng tạo tài hoa của NKĐ: Nhà thơ hình dung những dòng sông hiền hòa,
xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của
những con rồng - thầm lặng, thân thương.
- Không chỉ có những người anh hùng lớn lên từ nhân dân đã hóa thân mình làm
thành lịch sử, mà còn có cả người học trò nghèo cũng hóa thân làm nên núi Bút, non
Nghiên. »Những người học trò nghèo… »
Đặt tên núi như vậy, nhân dân ta ca ngợi truyền thống hiếu học của dân
tộc bằng hình tượng người học trò nghèo hóa thân vào thế núi, hình sông. Cùng từ
đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học
của người Việt.
-Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh. Ai đã đến Hạ Long nếu quan sát, để ý kĩ sẽ thấy có nhiều đảo đá có hình thù
trông xa như con cóc, con gà. Nhà thơ đã liên tưởng đó là sự hóa thân của tất cả
những gì gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào ĐN.
-Hình ảnh ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm đánh dấu hành trình cha ông ta
mang gươm đi mở cõi, khai phá miền đất phương nam.
=>Như vậy, tất cả mọi danh lam, thắng cảnh trên đất nước ta đều do sự hóa
thân của nhân dân mà thành. Có thể đó là những người anh hùng dân tộc, những
người dân có tên, nhưng cũng có thể là những người dân không tên: Những người
vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau ... họ đã sống một cuộc đời đẹp như huyền
thoại, họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở làm nên Đất Nước muôn đời .... Vì thế,
mọi danh lam thắng cảnh chỉ có ý nghĩa thực sự khi được cảm nhận qua đời sống
tâm hồn của nhân dân.
b. Bốn câu cuối : Từ những hình ảnh cụ thể, tác giả đã khái quát, kết đọng sự
hóa thân của nhân dân vào Đất Nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
+ Thán từ "ôi" diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành của nhà thơ khi nghĩ
về lịch sử 4000 năm dựng nước của dân tộc. Trong suốt 4000 năm ấy, nhân dân thầm
lặng, vô danh đã hóa cuộc đời mình làm nên núi sông, đất nước chúng ta. Câu thơ
"những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào.
Như vậy: Đoạn thơ thể hiện những cảm nhận sâu sắc của NKĐ về ĐN: ĐN
không trừu tượng, không xa xôi. ĐN có trong đời sống, tinh thần nhân dân và nhân
dân hóa thân làm nên sự trường tồn của ĐN. Hình tượng đất nước là điệu hồn, phẩm
chất, ước mơ, hoài bão của cha ông suốt 4000 ngăm lịch sử dựng nước. Suy ngẫm
sâu sắc này cũng được NĐT thể hiện trong bài “Đất nước”
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Từ sự hóa thân của nhân dân vào những danh lam, thắng cảnh trên khắp mọi
miền đất nước, NKĐ đã thể hiện những suy tưởng mang tầm triết lí về vai trò của
nhân dân trong lịch sử, từ đó bày tỏ tình cảm yêu mến, lòng tự hào về ĐN – ND.
-Nghệ thuật:
+Thể thơ tự do đã thể hiện những cảm xúc của tác giả về đất nước thật sâu
rộng, chân thành.
+Giọng điệu tâm tình, sâu lắng, trang nghiêm đã góp phần thể hiện chủ đề
ĐN trong bút pháp chính luận, trữ tình.
+Vận dụng sáng tạo những chất liệu văn hóa dân gian từ đó tạo nên một không
gian nghệ thuật vừa bay bổng, vừa mĩ lệ, diệu kì lại vừa gần gũi, thiêng liêng. Điều
này đã góp phần thể hiện tư tưởng ĐN của nhân dân một cách sâu sắc.
+Các hình ảnh thơ giàu chất suy tưởng có khả năng gợi tả vẻ đẹp trong đời
sống tinh thần của nhân dân.
+Đoạn thơ có cấu trúc câu trùng điệp.Vế đầu của câu thơ là hình ảnh của nhân
dân, những sự vật gắn bó gần gũi, thân thiết với nhân dân (Những người vợ nhớ
chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, những con voi, con rồng...),
vế sau của câu là các danh lam thắng cảnh (hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, đất tổ
Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên...) vừa lặp lại cấu trúc câu theo thủ pháp nghệ
thuật trùng điệp, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật liệt kê đã khẳng định vai trò của
nhân dân trong việc xây dựng, phát triển đất nước
5.2.2. Nhìn ở phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư
tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Tư tưởng này chi phối cách nhìn của nhà thơ khi
nghĩ về lịch sử 4000 năm đất nước:
"Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
- Đoạn thơ được mở đầu bằng một lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết
của chàng trai với cô gái người mình yêu:
Em ơi em hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước.
+ Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước là cái nhìn mang tầm vóc lịch sử,
nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn bốn hướng, trông lại nghìn xưa trông tới mai
sau, cái nhìn của con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa, cái nhìn mang tính sử thi
hoành tráng.
-Phải bằng con mắt ấy, mỗi chúng ta mới có cái nhìn đầy đủ, khái quát và sâu sắc
nhất về vai trò của nhân dân trong lịch sử:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta/
Cụm từ chỉ thời gian không xác định "năm tháng nào" kết hợp với từ "lớp
lớp" chỉ số nhiều, các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình
dị nhưng giàu sức gợi cảm. Nhân dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp
nhau đứng lên giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ hôi, công sức và xương máu của
mình.
-Bằng cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, trong mấy câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Khoa
Điềm đã khái quát vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước
trong cả thời bình và thời chiến:
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
+ Thời bình, Nhân dân là những người "cần cù làm lụng". Sự vất vả dãi dầu
một nắng hai sương của những người lao động chân lấm tay bùn đâu chỉ làm ra hạt
gạo bé nhỏ, tinh khôi, đâu chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, chuyền lửa qua
mỗi nhà từ hòn than qua con cúi mà còn làm nên văn hóa, phong tục, tập quán,
truyền thống, lối sống, phẩm chất tâm hồn dân tộc: nhẫn nại, cần cù, chịu thương
chịu khó.
+ Không chỉ xây dựng, nhân dân còn bảo vệ đất nước thời chiến:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".
=Việt Nam là một dân tộc bé nhỏ nhưng phải liên tiếp đối mặt với các cuộc
chiến tranh xâm lược. Trong những giây phút lâm nguy, đầy thử thách ấy của lịch
sử; người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Tiền
tuyến chắc tay súng, hậu phương vững tay cày. Lớp lớp những người con gái con
trai ấy đã sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Yêu
nước, thương nòi, đó là phẩm chất, truyền thống của dân tộc Việt.
=Vì thế, trách nhiệm chiến đấu bảo vệ đất nước không của riêng ai:
"Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh"
Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi lên trong lòng mỗi chúng ta một niềm tự
hào khôn tả về chiến công lừng lẫy của Bà Trưng, Bà Triệu, của những đội quân tóc
dài, những người con gái Việt Nam đã không quản ngại gian khổ hi sinh vì nền độc
lập, tự do của Tổ quốc. Đất nước của chúng ta là "Đất nước của những người con
gái con trai/Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/
Nước mắt dành cho ngày gặp mặt". Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết bao.
- Trong những cuộc kháng chiến trường chinh ấy, có những người đã trở thành
anh hùng được lưu danh trong sử sách nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân,
Nguyễn Khoa Điềm đặc biệt nhấn mạnh đến những người lao động bình thường,
thầm lặng, vô danh:
"Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Đó là những con người đã lặng lẽ vùi mình vào cát, không đền đài, không bia
tượng, nhưng núi sông này được làm nên từ chính xương máu của họ. Họ sống và
chết cho ĐN hết sức giản dị và bình tâm như Tố Hữu viết
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời
Như thế cảm nhận về ĐN của NKĐ theo 1 lối riêng. Xưa nay khi nghĩ về lịch
sử đất nước các nhà thơ thường nhắc đến các triều đại, nhà vua :”Từ Triệu, Đinh,
Lí....” hay các anh hùng hào kiệt “ Hỡi sông Hồng....”. còn NKĐ trân trọng, ca ngợi
vai trò của nhân dân vô danh trong việc tạo ra 4000 năm lịch sử ĐN. Đây là suy nghĩ
tiến bộ của chân lí thời đại CM, nói như Ăng ghen “Không có mồ hôi và máu của
ND thì các dân tộc không có lịch sử”
-Cái khéo của NKĐ khi nghĩ về lịch sử ĐN là ở chỗ nhà thơ đã liên hệ thê hệ
trước với thế hệ sau: “Nhưng em biết không...ĐN”. Câu thơ như lời nhắc nhở các
thê hệ đi trước đxa làm những điều lớn lao vĩ đại cho ĐN, còn thế hệ chún ta hôm
nay đã làm gì khi ĐN bị chia cắt? Lời thơ có ý nghĩa thức tỉnh thế hệ trẻ vùng đô
thị tạm chiếm miền Nam nói riêng vfa tuổi trẻ nói chung nhận thức về ĐN, về sứ
mệnh của mình xuống đường đấu tranh hòa vào cuộc đấu tranh chung của DT.
5.2.3. Nhìn ở phương diện văn hóa, nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân.
- Đất Nước của Nhân Dân không chỉ hiện diện ở bề rộng không gian địa lí, ở
chiều dài của thời gian lịch sử mà còn ở tầng sâu của tâm hồn, bề dày của văn hóa
dân tộc. Nhân dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa
dân tộc. Những hạt lúa, hòn than, tiếng nói,...đều giản dị nhưng là sự sống của cả
dân tộc, là văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân là người đã giữ gìn,
truyền lại cho muôn đời, tạo thành chiều sâu văn hóa dân tộc:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái" .
-Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước :
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng"
Trong hạt lúa bé nhỏ ấy có mồ hôi công sức lao động của những người nông
dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương, có sự kết tinh của Đất và Nước, của bão
giông, nắng lửa. Trên hết, đó còn là sự lắng kết của phẩm chất, tinh thần lao động
cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Không có hạt lúa nhân dân giữ và truyền
cho ta, không thể có một đất nước VN tươi đẹp :"Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh
mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh cò bay lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường
Sơn sớm chiều", không thể có "những hội hè đình đám/ trên núi Thiên Thai/ trong
chùa Bút Tháp"; không thể có "đường trong làng hoa dại với mùi rơm/ Người cùng
tôi đi dạo giữa đường thơm". Nhân dân đã giữ và truyền cho ta sự sống, văn hóa,
tinh thần dân tộc như thế .
-Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, nhân dân còn là người "chuyền lửa
qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi". Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đâu chỉ là
sự suy ngẫm, trải nghiệm đầy sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, ẩn sâu
trong từng câu chữ, nhà thơ còn gợi lại cả một truyền thống, phong tục tốt đẹp ngàn
đời của nhân dân ta là truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau được hình
thành trong đời sống nghĩa tình của dân tộc Việt.
- Nhân dân còn là người "truyền giọng điệu mình cho con tập nói". Ngôn ngữ là thứ
của cải vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước: Trong một nghìn năm nhân dân ta sống dưới thời Bắc thuộc,
Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với ý thức và lòng tự hào, tự
tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình. Có thể
nói, tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua, là tiếng nói
tinh thần, tâm hồn của ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Những người
mẹ truyền giọng điệu mình cho con tập nói cũng là truyền cho con tình yêu với ngôn
ngữ, văn hóa, bản sắc dân tộc để kho tàng ngôn nguwxdaan tộc trở nên kì diệu, để
ngôn ngữ trở thành sự gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia: "Mỗi sớm dậy nghe
bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung
lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”.
- Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân"
Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt
trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Vì lũ lụt, hỏa hoạn, thiên tai, chiến
tranh giặc dã, người dân đã phải di cư đến những nơi ở mới, tìm những vùng đất
mới. Trong những chuyến di dân để tìm sự sống ấy, họ đã gánh theo những tên xã,
tên làng, nơi kí thác niềm ước mong của người dân Việt trên mọi miền đất dải chữ
S thân thương. Vì thế, mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình
nhọc nhằn gian khổ mà không ít vinh quang của nhân dân trong công cuộc dựng
nước và giữ nước.
- Không chỉ mở mang bờ cõi, đem lại cho đất nước một dáng hình tươi đẹp,
nhân dân còn là người “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái” .
- Nhân dân còn là người chống ngoại xâm và diệt nội thù:
"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh
dũng “ Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán Đường Tống
Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Đến thời điểm Nguyễn Khoa Điềm viết Đất
Nước, đế quốc Mĩ vẫn đang tiếp tục leo thang chiến tranh ra miền Bắc, nhân dân ta
lại anh dũng đoàn kết một lòng đứng lên giết giặc "Một dây ná một dây chông cũng
tấn công giặc Mĩ". Điệp từ "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, hăng hái, sẵn
sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự nhiên
như lẽ sống ngàn đời của người dân Việt.
- Mạch cảm xúc dâng lên thành cao trào để nhà thơ khẳng định một chân lí:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc.
+ "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây
dựng, bảo vệ đất nước này bằng mồ hôi, xương máu của mình. Không có nhân dân
sẽ không có phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình, thủy chung, cao
đẹp
+ Đất Nước của Nhân dân vì đất nước được hình thành từ những bản sắc văn
hóa dân tộc thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn nhân dân: Yêu nước, cần cù lao động, hiếu
học, chung thủy trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong chiến
đấu, lạc quan, yêu đời trong gian khó.
+ Đất Nước của Nhân dân cũng chính là Đất Nước của ca dao thần thoại. Vì:
Ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư,
tình cảm của nhân dân và lưu giữ tâm hồn nhân dân qua bao biến động thăng trầm
của lịch sử.
Nếu Lí Thường Kiệt phải dùng đến đế cư, thiên thư để trang trọng hóa đất
nước. Nguyễn Đình Chiểu phải dùng đến "một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật
nguyệt chói lòa" để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang
đậm màu sắc dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất
nước thật sự hóa thân trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi người dân trên đất này.
- Những câu cuối: Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú , đẹp đẽ của
văn hóa ,văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao- diện mạo tinh thần , nơi lưu giữ
đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. NKĐ đã chọn ra từ kho
tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt ,của bản sắc văn hóa
đất nước:
+ Thật say đắm trong tình yêu:
"Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"...

Ca dao có câu:
"Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru".
Nguyễn Khoa Điềm đã viết thật dung dị : "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong
nôi" để ca ngợi tinh thần say đắm trong tình yêu của người dân Việt. Người Việt
"Đã yêu, yêu đến tận cùng/ Đã thương thương đến nát lòng vì nhau".
+ Không chỉ say đắm trong tình yêu, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa.
"Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm được
xây dựng từ chất liệu ca dao:
"Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng"
"Vàng" biểu tượng cho những giá trị cao quý; "công cầm vàng" là những gian
nan, vất vả, cực khổ mà con người phải trải qua. Đối với người dân Việt, công sức,
tình nghĩa mà con người dành cho nhau còn quý giá hơn vàng. Đó cũng là một nét
đẹp trong tinh thần dân tộc.
+ Quyết liệt, bền bỉ trong tranh đấu:
"Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
Câu thơ được sáng tạo từ câu ca dao :"Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành
gậy gặp đâu đánh què" để nói về tinh thần quyết liệt trong chiến đấu của người dân
Việt.
- Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát, đem lại cảm nhậnvề
một đất nước đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như một dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến
hiện tại, tương lai. Trên dòng sông âm vang những sắc màu văn hóa Việt Nam, phẩm
chất tâm hồn Việt Nam, vô cùng tự hào và yêu quý.
6.Tổng kết
6.1. Nghệ thuật
- Đoạn thơ trích trong chương V giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết
bằng chiều sâu trí tuệ, văn hóa vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của
cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người.
-Các chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị , sáng tạo đem lại
sức hấp dẫn cho đoạn trích góp phần thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
- Hình tượng thơ có sức mạnh gợi cảm. Mỗi câu chữ đều gợi liên tưởng đến
chiều sâu của không gian và thời gian, của lịch sử và văn hóa với biết bao thăng trầm
đổi thay của đất nước và những con người đã làm nên đất nước này.
- Từ Đất Nước được lặp lại nhiều lần và viết hoa ,giọng thơ tâm tình, tha thiết
trầm lắng góp phần thể hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận trữ tình.
6.2. Nội dung
Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới
có. Tư tưởng ấy có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc.
+ Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Và:
"Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới"
=> Đó chính là sự đề cao vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm.
+ Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người
anh hùng giữ nước là người nông dân yêu nước mến nghĩa làm quân chiêu mộ: "Nhớ
linh xưa cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường
nhung....". Đó là hình ảnh người nông dân lam lũ bước vào cuộc chiến đấu vì chính
nghĩa. Họ đã hi sinh vì quê hương, đất nước.
+ Đến thơ văn hiện đại, với “ Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Tre Việt
Nam” - Nguyễn Duy, “ Lửa đèn” - Phạm Tiến Duật,... vai trò của nhân dân với đất
nước cũng tiếp tục được đề cao. Nguyễn Đình Thi viết: "Ôm đất nước những người
áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng". Nguyễn Duy mượn hình ảnh cây tre để
nói lên phẩm chất bình dị của nhân dân trong lao động và chiến đấu, xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc.
=> Như vậy, đề cao vai trò của nhân dân với đất nước là cả một truyền thống
trong lịch sử văn học dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của
mình về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình
diện: lịch sử , địa lý , văn hóa ...

LỆNH PHỤ:
Chất trữ tình- chính luận: đây là đặc điểm phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm
có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc dạt dào và suy tư sâu lắng, là một trong những
nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước.

 Chất trữ tình- chính luận trong đoạn trích:


Trong anh và em hôm nay

Làm nên Đất Nước muôn đời.
- Chất chính luận thể hiện trong nhận thức của tác giả về mối quan hệ và trách nhiệm
công dân với đất Đất Nước, qua cấu trúc suy luận, kết cấu câu mệnh lệnh Đất Nước
là…Phải biết.
- Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng không hề khô khan trái lại đầy xúc
cảm, bởi nhà thơ vận dụng rất khéo léo và tinh tế qua hình thức trò chuyện, tâm tình
của anh và em. Em ơi em làm cho lời thơ mềm mại, ngọt ngào, thấm sâu vào tâm tư
người đọc. Nhà thơ nói với em mà như nói với tất cả mọi người về tình yêu, trách
nhiệm đối với Đất Nước không phải chỉ của anh, em trong thơ mà nó là cuộc sống,
là trách nhiệm của tất cả chúng ta với Đất Nước.

 Nhận xét chất sử thi trong sáng tác của nhà thơ.
– Chất sử thi trong văn học tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn
của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con
người đại diện cho phẩm chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số
phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu. Giọng điệu sử thi là giọng
ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.
– Nguyễn Khoa Điềm hướng về những con người bình dị đã cần cù làm lụng và đánh
giặc bảo vệ đất nước giữa những ngày kháng chiến chống Mĩ ác liệt, đất nước còn
chia cắt. Đoạn thơ được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò chuyện, từ
ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô danh.

 Nhận xét cách nhìn mới mẻ của tác giả về Đất Nước:
– Nhìn Đất Nước đa diện, tinh tế, sâu sắc, đặc biệt nhà thơ phát hiện quá trình Đất
Nước hình thành và phát triển gắn liền với đời sống bình dị của nhân dân lao động.
Đất Nước kết tinh đời sống tâm hồn, phẩm chất đẹp đẽ, truyền thống đạo lí ngàn đời
của dân tộc.
– Cách nhìn mới mẻ về hình tượng Đất Nước cho thấy sự gắn bó, am hiểu, lòng tự
hào và tình yêu đất nước sâu nặng, phong cách thơ trữ tình- chính luận của tác giả
Nguyễn Khoa Điềm.

 Những cảm nhận mới mẻ, sâu sắc về đất nước được thể hiện qua đoạn
thơ:
Đất là nơi anh đến trường
..... Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.

a/ Sự mới mẻ, sâu sắc về nội dung


- Cách nhìn về đất nước rất bình dị mà lớn lao:
+ Đất nước được hình thành từ những gì bé nhỏ, gần gũi, riêng tư trong cuộc
sống mỗi người.
+ Đất nước là sự hoà quyện không thể tách rời giữa cá nhân với cộng đồng
- Hình tượng đất nước được mở ra ở bề rộng không gian, chiều dài thời gian
và ở chiều sâu văn hoá:
+ Bề rộng không gian gần gũi, thân thương với mỗi người
+ Chiều dài thời gian gắn với việc nhân dân bền bỉkiên cường xây dựng và
bảo vệ đất nước.
+ Chiều sâu văn hoá của một dân tộc có truyền thống lâu đời.
b. Sự mới mẻ, sâu sắc về nghệ thuật:
- Toàn bộ đoạn thơ, tác giả mượn chất liệu văn hóa dân gian đậm đặc để diễn tả
những suy tư, trăn trở của mình. Đi sâu vào tìm hiểu, nhìn nhận đất nước ở bình
diện văn hóa là một nét mới mẻ, độc đáo trong thơ ca.
- Thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu, có sự kết hợp giữa chất chính
luận và trữ tình, từ Đất Nước viết hoa, lúc được tách ra để khơi sâu, lúc hợp lại tạo
sự thống nhất, gắn bó.
- Giọng điệu thơ sâu lắng, hình ảnh thơ gần gũi, bình dị.
- Câu chuyện Đất Nước được chuyển tải dưới câu chuyện tình yêu của Anh và Em
=> tạo giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, chất trữ tình vì thế cũng trở nên rõ ràng, vấn đề
chính trị được nói một cách nhẹ nhàng, thấm thía.

*Nhận xét về sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm:
+ Thơ ông có sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người
trí thức về đất nước , con người Việt Nam . Ông đã có những khám phá mới mẻ và
sâu sắc khi thể hiện về hình tượng đất nước trên nhiều bình diện : địa lý, lịch sử ,
văn hóa …
+ Thơ ông có giọng điệu riêng , vừa tâm tình sâu lắng thiết tha vừa đầy suy tư
triết lý . Màu sắc văn hóa dân gian mà ông đem vào thơ cũng tạo nên một không
gian vừa gần gũi thân thuộc với tâm hồn mỗi người Việt Nam lại vừa bay bổng lãng
mạn .
+ Ngôn ngữ thơ vừa giản dị tự nhiên theo kiểu “thơ trữ tình điệu nói” lại vừa
uyển chuyển đầy sáng tạo.Ẩn sâu trong đó là chiều sâu trí tuệ, văn hóa và một tình
yêu đối với đất nước .

* Nhận xét về cách vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá dân gian của Nguyễn
Khoa Điềm khi viết về Đất Nước trong đoạn:
Họ giữ và truyền cho…. Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của nhà thơ:
- Biểu hiện: Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian trong
đoạn thơ. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con
người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn):
+ Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, đều gần gũi, quen
thuộc với mỗi con người Việt Nam: Có ca dao, dân ca, …
+ Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo: Vận dụng ca dao nhưng dẫn dắt khéo léo,
khi lấy nguyên vẹn toàn bài, khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những
nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu
thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng,
ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...
- Ý nghĩa: Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo
nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực,
lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã
thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy
nghệ thuật của nhà thơ. Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm
ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình.
* Nhận xét về cách vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá dân gian của Nguyễn
Khoa Điềm khi viết về Đất Nước trong đoạn:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
.... Đất Nước có từ ngày đó
- Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng rất đa dạng và sáng tạo:
+ Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, những vật dụng quen thuộc: tóc
bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng…
+ Có ca dao tục ngữ “gừng cay, muối mặn”...
+ Có truyền thuyết, truyện cổ tích như: Trầu Cau, Thánh Gióng .
- Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài từ của câu ca
dao hay một hình ảnh, một chi tiết của câu chuyện cổ …nhưng lại gợi ra cả một
trường liên tưởng thật sâu rộng.
=> Bằng chất liệu văn hoá dân gian, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa
Điềm đã thể hiện cách cảm nhận về Đất Nước thật độc đáo, hấp dẫn:Đất Nước hiện
lên vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa
bình dị thân quen với cuộc sống hàng ngày của nhân dân.

* Nhận xét cách sử dụng các chấ t liê ̣u của văn hoá dân gian của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm. (Những người vợ nhớ chồng…. hóa núi sông ta...

- Cho ̣n những chấ t liê ̣u tiêu biể u của văn hoá dân gian: sự tić h núi Vo ̣ng Phu,
truyề n thuyế t Thánh Gióng - những câu chuyê ̣n gắ n với những huyề n thoa ̣i, huyề n
tić h…trong mấ y ngàn năm qua đươ ̣c nhắ c đế n tự nhiên bằ ng ý nghia, ̃ bằ ng hiǹ h
ảnh chi tiế t, bằ ng cách nói đâ ̣m chấ t dân gian => sáng tạo độc đáo…
- Viê ̣c cho ̣n từ những chấ t liê ̣u tiêu biể u của văn hoá dân gian, sử du ̣ng nhuầ n
nhi,̣ sáng ta ̣o những chấ t liê ̣u ấ y có ý nghia:
̃
+ Giúp người đo ̣c cảm nhâ ̣n và xúc đô ̣ng thấ m thía những thân phâ ̣n, những
vẻ đe ̣p trong tâm hồ n, tính cách người Viê ̣t.
+ Đem đế n cái nhin ̀ mới mẻ, đô ̣c đáo về không gian điạ lí của đấ t nước: mỗi
danh lam thắ ng cảnh đươ ̣c nhin ̀ nhâ ̣n như mô ̣t phầ n tâm hồ n máu thiṭ của
Nhân Dân, sự đóng góp của Nhân Dân; mỗi ngo ̣n núi, dòng sông, ruô ̣ng đồ ng, gò
bãi…như có linh hồ n, như mang vẻ đẹp, tâm tra ̣ng, tính cách Nhân Dân.
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không
gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu
tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu
vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật
của nhà thơ. Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất
nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình.
*Liên hệ Trách nhiệm của bản thân với Đất Nước trong đoạn thơ :
Trong anh và em hôm nay
… Làm nên Đất Nước muôn đời”.

- Trách nhiệm của bản thân với Đất Nước : Nhận thức sâu sắc, thấm thía về
Đất Nước, nhà thơ gửi tới thế hệ trẻ những lời nhắn nhủ về trách nhiệm công dân
với Đất Nước:
+Phải biết gắn cuộc đời riêng của mình với cuộc đời chung của dân tộc, biết
đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết để làm nên sức mạnh, cùng nhau ghé
vai gánh vác giang sơn.
+Đặc biệt là phải biết dâng hiến, thậm chí hi sinh sự sống vì Tổ quốc.Hai chữ
hóa thân xuất phát từ quan niệm của nhà Phật sống gửi thác về, trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm từ này được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là lấy sự sống của bản thân
để tiếp nối sự trường tồn của đất nước trong chiến tranh, mà còn là sự cống hiến
giống như Tố Hữu viết Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình, hay nhà thơ Thanh
Hải Ta làm con chim hót, ta làm một nhành hoa, làm được như vậy là ta đã thực sự
hóa thân vào dáng hình xứ sở để làm nên đất nước muôn đời.
Cụ thể về Trách nhiệm của thanh niên hiện nay:
+ Tích cực học tập rèn luyện để xây dựng Đất Nước
+ Gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc…

*Nhận xét về tư tưởng đất nước của nhân dân trong đoạn trích
+Kết tinh tư tưởng, là cảm hứng chủ đạo bao trùm cả đoạn trích và chương V: Đất
Nước của Nhân Dân - của những con người giản dị vô danh.
+ ĐN vừa gần gũi vừa thiêng liêng hùng vĩ ; vừa nhỏ bé vừa lớn lao cao cả trong
mỗi người
+ Nhân dân đã kết tinh những vẻ đẹp của mình để làm nên đất nước
+Những giá trị văn hóa dân gian thể hiện vẻ đẹp tinh thần của nhân dân lao động.

You might also like