You are on page 1of 456

Thị trấn Mùa đông

NHẬT PHI

Thị trấn Mùa đông


(Tiểu thuyết)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC


1

Thị trấn Mùa đông


NHẬT PHI

T ưởng như mới chỉ hôm qua thôi tôi gặp Ionah lần đầu tiên,
mới hôm qua thôi tôi bắt đầu mang cái tên này, và tưởng
như một hôm qua khác tôi nghe Makoto kể về ngày hôm qua của cô,
và một hôm qua khác nữa là cái đêm ba người chúng tôi, Makoto,
Ionah và tôi, ngồi bên nhau trong ánh lửa lò sưởi nhập nhoạng nhảy
múa, quanh chiếc radio nhỏ và chờ đợi một giọng nói vang lên, và
một hôm qua khác nữa là ngày mà Viena của tôi chào đời. Và một
ngày hôm qua khác nữa cho từng người mà tôi đã gặp, từng câu
chuyện mà tôi được kể, từng biến cố tôi đã trải qua. Quá nhiều những
ngày hôm qua, mà lại chẳng có ngày hôm qua nào cả. Chỉ có những
ngày hôm nay, ngày hôm nay, mặt trời sẽ ló mình khỏi một đỉnh núi
tuyết, ngày hôm nay, họ sẽ ra thu hoạch củ cải đỏ trên vườn rau nhà
mình, ngày hôm nay, họ sẽ nhận bánh mì đen từ lò bánh, và ngày
hôm nay, mặt trời sẽ lặn xuống một đỉnh núi tuyết khác, ẩn mình chờ
một ngày hôm nay kế tiếp. Và ngày hôm qua chưa bao giờ rời khỏi
nơi đó, Thị trấn Mùa đông.
Ngày hôm nay, tôi đang kể về ngày hôm qua của mình…

-6-
Thị trấn mùa đông

CỪU - CÚ - QUẠ

M ới đầu là trắng xóa. Sau đó là con cừu. Rồi tới tôi, trần
trụi tới nhức mắt trước một lần trắng xóa nữa. Con cừu
để lại dấu chân trên nền tuyết, tôi thì không. Chúng tôi đi giữa hai
cây dương trụi lá. Tới một lúc nào đó thì con cú xuất hiện trên cành
cây, liếc cặp mắt cú bàng quan xuống những dấu chân cừu. Rồi con
quạ trên cành cây đối diện, vỗ cánh bồn chồn. Cứ thế, tôi bước đi,
với con cừu trắng trước mặt, con cú hung bên trái và con quạ gáy
xám bên phải. Cừu - Cú - Quạ. Quạ - Cú - Cừu. Cái âm hưởng gãy
gọn của âm /k/ ấy dường đối lập với tính chất lần hồi khôn cùng của
hành trình này.
Trong lúc đi theo con cừu, tôi tự hỏi có thật cái vật đang nhẩn
nha lúc lắc trước mặt tôi kia là một con cừu hay không, hay chỉ đơn
giản là một đụn tuyết với dư ảnh khúc xạ lắc lư. Một con cừu thì sẽ
phải kêu be be, cũng như là tuyết thì sẽ phải lạnh vậy. Vậy mà tôi lại
đang đi theo một con cừu không be be trên một nền tuyết không hề
lạnh! Nếu như điều này vẫn còn đang đúng thì hẳn là còn nhiều thứ
tồn tại không đúng nữa. Tôi vừa đi tới kết luận rằng mặc dù hai chân
mình - khi nãy là cả hai tay nữa - vẫn không ngừng luân phiên đặt
lên trước rồi trôi về sau, tôi thực sự vẫn không tiến tới phía trước
thêm chút nào, thì ngay lập tức nhận ra cảnh vật xung quanh mình
đã thu nhỏ lại vài phần, cành cây nơi hai con chim đang đậu cũng đã
thấp xuống. Tôi thử bắt chuyện, đầu tiên là với con cú, rồi cả con quạ,

-7-
NHẬT PHI

nhưng chúng không trả lời. Chúng không nói ngôn ngữ của tôi, cho
dù tôi đang dùng thứ tiếng gì.
Dần dà, thứ mới đầu tôi cho là tiếng gió lùa qua rừng cây giờ lại
nghe giống tiếng nhạc ngâm nga âm ử trong miệng. Tôi nhìn quanh
để tìm nguồn phát ra âm thanh ấy nhưng không có vẻ gì đó là con
cừu, con cú hay con quạ cả. Thực tế, giai điệu ấy tuy êm dịu nhưng
lại gây một hiệu ứng âm vang rộng khắp tới độ cảm giác như nó mới
chính là bản thể của toàn bộ không gian này. Rồi, bằng một cách nào
đó, như thể ngôn từ đang được thả trực tiếp vào đầu mình, tôi bắt
đầu ậm ừ hát theo giai điệu của gió. Mới đầu chỉ là một đôi từ bật ra
đâu đó giữa dòng nhạc, và rồi trước cả khi ý thức được mình đang
hát gì, tôi đã đứng khựng lại, mắt nhắm nghiền, giọng hát ngân dài
như gió:
“Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Để người phiêu lãng quên mình lãng du…”
Chính khi đó, tôi trượt ngã, hay đúng hơn là bị hất văng ra
khỏi con đường mòn tuyết phủ. Tôi chỉ kịp mở mắt ra để thoáng thấy
được một ánh xanh nơi đôi cánh của con quạ gáy xám. Và tôi rơi như
một hòn đá lăn trên đồi…
Không có một cành mai nào để bám lấy, tôi chạm đất một cách
êm ái, như thể một thế lực huyền bí nào đó đã tóm lấy tôi giữa không
trung và dịu dàng đặt trả tôi xuống mặt đất. Không còn một con cừu
hay cú hay quạ nào nữa, trước mặt tôi lúc này, khi tôi đang nằm trần
trụi, dang rộng tứ chi trên mặt đất, là một khoảnh rừng triền núi.
Những thân cây nhiệt đới xếp bậc thang lên tới lưng chừng trời, chỉ
để bị khuất lấp bởi một màn mây trắng xóa đặc biệt thấp.
Tôi ngồi dậy, quay lưng lại với bìa rừng, và bắt gặp một tấm
biển trên một cọc gỗ, không cao quá ngực mình, với bốn chữ Thị trấn
Mùa đông được khắc nguệch ngoạc trên nền gỗ đã cũ, có lẽ bằng một

-8-
Thị trấn mùa đông
con dao không được sắc cho lắm. Bỏ lại bìa rừng và cả tấm biển báo
lại sau lưng, tôi tiến vào địa phận được gọi là Thị trấn Mùa đông ấy,
có chút bối rối khi giờ đây không có một con cừu nào dẫn đường cho
tôi nữa. Nhưng tôi đang tiến tới thật. Bằng chứng là những bóng mờ
phía xa kia đang lớn dần lên và dần hiện rõ là những mái nhà thấp,
những tấm vuông xanh trở thành những khoảnh vườn nhỏ. Những
mái nhà, khoảnh vườn khác nhau cho tôi biết cảnh vật xung quanh
mình đang thay đổi với mỗi bước chân. Mái trước của căn nhà này
đua ra hơn mái trước của căn nhà kia một chút, hay khoảnh vườn
này có một vài lá úa, khoảnh vườn kia thì không.
Tôi cứ đi sâu vào trong mà không bắt gặp một bóng dáng đồng
loại nào. Một thị trấn sẽ không thể là một thị trấn chỉ với nhà và
vườn. Trừ khi đó là một thị trấn bỏ hoang, nhưng sự gọn gàng của
những khoảnh vườn và sự khang trang, trong một chừng mực nào
đó, của những căn nhà đã phủ định khả năng đó. Tôi ngước lên, tìm
kiếm một nguồn sáng chuẩn tắc, chỉ để đảm bảo rằng nó vẫn đang ở
đó. Và đó, mặt trời vẫn đang nghiêng nghiêng hắt sáng lên thân mình
trần trụi của tôi. Tôi còn chưa kịp rời mắt khỏi bầu trời khi nhận ra ở
đó có nhiều hơn là nắng và mây: những cột khói rất mảnh, rất sắc nét
đang không ngừng kéo dài ra, như thể có một con thú họ mèo khổng
lồ đang mài móng lên nền trời vậy. Tôi ngây ra, như chờ đợi cái âm
thanh ken két inh tai rớt xuống đầu mình. Nhưng thứ tôi nhận được
là một âm thanh hoàn toàn khác, kém khó chịu hơn, nhưng rùng rợn
hơn nhiều lần.
Và rồi tên lửa bắt đầu rơi. Những quả tên lửa không lớn hơn cổ
tay người, theo tôi ghi nhận, sau khi lên tới đỉnh của quỹ đạo vòng
cung, lần lượt rớt xuống Thị trấn Mùa đông. Như một trận mưa sao
băng. Và tác động của nó cũng tương tự như vậy. Tôi bắt đầu chạy,
ngay khi quả tên lửa đầu tiên chạm đất, phát nổ và hất tung nhiều

-9-
NHẬT PHI

lớp bụi mù. Trong một giây, tôi tưởng đâu loạt tên lửa đang đuổi theo
mình, khi mà từng tiếng nổ vẫn cứ vang dội ngay sau lưng tôi, sẵn
sàng hất văng hay thậm chí xé cái thân mình trần trụi này thành từng
mảnh lỡ như tôi hụt chân chỉ một bước.
Loạt tên lửa đã ngừng khi tôi ra được tới bìa rừng, không cảm
thấy gì khác ngoài chuỗi dư âm vang vọng trong đầu mình, như thể
sau Thị trấn Mùa đông, óc tôi mới là mục tiêu oanh tạc kế tiếp. Tôi
đứng tại chỗ một hồi lâu, chờ cho những dư âm ấy lắng xuống. Trong
lúc đó, tôi nhận ra tấm biển và cả cây cọc gỗ đã biến mất. Suốt một
dải đất chân núi trơn nhẵn, không có một dấu hiệu nào cho thấy một
cây cọc gỗ gắn biển tên đã từng tồn tại. Có lẽ Thị trấn Mùa đông đã bị
xóa sổ sau cuộc không kích rồi, tôi ngẫm nghĩ về giả thuyết ấy. Không
gian chung quanh tĩnh lặng trở lại, như những hạt bụi cũng phải lắng
xuống sau vụ nổ.
Cuối cùng, chỉ còn lại tiếng quạ kêu xao xác, thảng thốt. Tôi
xoay mòng mòng bốn phía để tìm ra con quạ, con quạ ấy, hay chính
là cảnh trí đang bị tiếng quạ xoay chuyển quanh tôi. Tôi thốt nghe
ngực mình đau nhói, cơn đau xoay chuyển trong tôi. Trước khi ngất
đi, tôi kịp nghĩ ra con quạ ấy đang cất tiếng kêu ngay trong lồng
ngực mình.

- 10 -
Thị trấn mùa đông

REI

N àng nói tên nàng là Ionah. Nàng nói nàng bắt gặp tôi “ngủ
quên dưới chân ngọn đồi” và Makoto đã giúp nàng đưa
tôi về đây. Tôi ngồi dậy trên chiếc giường duy nhất trong phòng, ga
giường xanh hoa lá và tấm chăn đỏ với họa tiết con công, dày đặc
như một cuộc biểu tình của loài công vậy. Tôi nhận ra mình đang
mặc một bộ vest đen, khoác ngoài áo sơ mi trắng và cà vạt sọc xanh
xám, quần tây đen, đôi giày da đen bóng dưới chân giường hẳn nhiên
cũng là của tôi nốt.
“Em mặc đồ cho tôi đấy à?”. - Tôi hỏi nàng.
Ionah lắc đầu. “Khi em tìm thấy anh thì anh đã mặc như thế
này rồi”.
Nàng đáp, rồi quay lại với một nồi đang sôi trên bếp. Nàng tắt
bếp, múc ra hai đĩa một món xúp màu đỏ tím rồi đặt lên bàn, trên
bàn đã có sẵn một ổ bánh mì đen lớn trong giỏ mây. Xong xuôi, nàng
ra hiệu cho tôi ngồi vào bàn. Tôi bước xuống khỏi giường, xỏ chân
vào giày không một chút khó khăn.
Ionah cũng ngồi xuống bên bàn, nàng mặc một bộ áo váy tím
nhạt, mềm mại như đôi cánh tay trần trắng mơ màng. Nàng có mái
tóc đen dài mà nàng phải búi cao trong khi nấu ăn. Nụ cười nàng
dành cho tôi ấm áp như không phải dành cho một kẻ ngủ quên nàng
vừa mới bắt gặp. Ionah đẩy ổ bánh mì đen về phía tôi. Tôi cầm lên, xé

- 11 -
NHẬT PHI

ra một miếng, rồi đưa giỏ bánh về phía nàng. Bánh mì có vẻ rất mềm
và hãy còn ấm. Tôi nhìn theo Ionah khi nàng cũng xé một mẩu bánh
mì và chấm vào chất xúp đỏ sền sệt rồi đưa lên miệng. Tôi làm theo
nàng. Ngay lập tức, vị giác của tôi được đánh thức bởi cái nồng đậm
của xúp, cái chua ngậy của bánh mì đen, một khoái cảm lan ra từng
thớ thịt trên cơ thể tôi, tôi run rẩy với một cảm thức chân xác về sự
sống, sự đang-sống.
Tôi ăn hết hơn một nửa ổ bánh mì và húp sạch phần xúp của
mình. Ionah múc đầy cho tôi một đĩa xúp khác, bấy giờ tôi mới nhận
ra xúp được nấu với một loại củ nhỏ, vỏ đỏ, ruột trắng hồng. Nàng
nói đó là củ cải đỏ, thực phẩm chính của Thị trấn Mùa đông.
“Em nói là Thị trấn Mùa đông?”. Tôi chợt nhớ lại trận mưa tên
lửa đã giội xuống cùng một địa danh trước khi tôi ngất đi. “Vậy thì…”.
Ionah dường như hiểu điều tôi đang nghĩ. “Anh đến đúng vào
ngày oanh kích. Thường thì không ai tới đây vào ngày đó cả”. Rồi nàng
chuyền giỏ bánh cùng một nụ cười trấn an sang cho tôi. “Nhưng hôm
nay thì ổn rồi. Anh đừng lo”.
“Ổn tức là sao…”
Ionah không đáp mà đứng dậy đi về phía bồn rửa mặt, giặt một
tấm khăn mặt trắng. Một thoáng tối tăm lướt qua đôi mắt nàng khi
nàng đưa tấm khăn cho tôi. Một tấm khăn sạch nhưng có vẻ đã cũ,
căn cứ vào độ mòn rão của chất vải. Giọng nàng rành rọt.
“Đi ra khỏi cửa, anh rẽ phải, cứ đi thẳng, đừng rẽ ngang, đừng
cố bắt chuyện với ai. Ở cuối đường anh sẽ gặp một căn nhà lớn, đó là
tòa thị chính. Kahn đang đợi anh ở đó”.
“Kahn?”
“Ông ấy là thị trưởng của Thị trấn này”. Nàng đáp, rồi đặt một
ngón tay lên môi tôi. “Và ông ấy không muốn nghe những câu hỏi đâu”.
Tôi nắm lấy cổ tay nàng, giữ ngón tay nàng trên môi tôi. Hơi ấm

- 12 -
Thị trấn mùa đông
nơi cổ tay nàng, mùi hương của nàng lẩn quất trong bầu không khí
sực mùi củ cải đỏ, thảy đều có một vẻ mơ màng gần như phi thực.
Ionah mỉm cười, day nhẹ môi tôi. Rồi nàng nhẹ nhàng luồn tay ra
khỏi nắm tay tôi.
“Sau đó anh hãy quay trở lại đây, đừng đi đâu khác cả trong
ngày hôm nay”.
Tôi gật đầu, nhưng lại tự hỏi bằng cách nào tôi có thể trở lại
chính xác căn nhà này chỉ với chừng ấy chỉ dẫn. Nhưng thay vì hỏi
nàng, tôi chỉ đứng dậy, nắm lấy tay nàng một lần nữa.
“Hãy chờ tôi!”.
Ionah không mở cửa cho tôi mà quay vào trong thu dọn bàn ăn.
Tôi tự biết rằng đã tới lúc phải đi. Cửa nhà không khóa mà chỉ khép
hờ, không có lấy một ổ khóa hay một then cài. Tôi mở cửa bước ra
ngoài. Cánh cửa khép lại sau lưng tôi không một tiếng động.
Có vẻ như đang là buổi sáng. Trời trong và cao. Bên ngoài, Thị
trấn Mùa đông không khác gì so với những gì tôi đã thấy ngày hôm
qua, vẫn những mái nhà ấy và những khoảnh vườn ấy. Mặt khác, lại
có thể nói rằng tôi đã bước vào một chốn hoàn toàn khác, một Thị
trấn Mùa đông có người.
Những người phụ nữ đội khăn lúi húi bên vườn củ cải đỏ.
Những người đàn ông xoay trần bổ củi. Một vài đứa bé quây quanh
một người đàn bà đang bập bùng một tẩu thuốc dài. Một nhóm trẻ
con khác chạy đuổi nhau trên một bãi đất trống dưới sự quan sát
của một cô gái trẻ. Dưới một hiên nhà, hai người đàn ông trung
niên ngồi đối diện nhau qua một bàn kẻ ô vuông với những quân
cờ trắng đen. Phía xa xa, một người mặc áo thụng đang lầm lụi xách
hai xô thiếc lớn.
Không một dấu vết nào, trên nền đất, trên những mái nhà và
những khoảnh vườn, cả trên gương mặt người, cho thấy nơi này từng

- 13 -
NHẬT PHI

là mục tiêu của một trận oanh kích mới đây. Thị trấn và những cư
dân của nó dường như đã không nhớ gì về điều đó nữa rồi. Ionah đã
dặn tôi đừng bắt chuyện với ai, vậy nên tôi rẽ phải theo hướng dẫn
của nàng, rồi cứ thế đi thẳng. Có những người ngước lên nhìn tôi,
cũng có người không, nhưng không ai có vẻ gì ngạc nhiên với sự xuất
hiện của tôi, cũng không ai nói gì cả. Không có bất kì sự ngắt quãng
nào với điều họ đang làm.
Cuối cùng tôi cũng tới được căn nhà lớn mà nàng đã nói tới ở
rìa Thị trấn. Một căn nhà không cao hơn những căn nhà khác nhưng
lớn hơn nhiều lần, với cặp cửa gỗ im lìm khép. Nghĩ rằng cũng như
đối với cánh cửa nhà Ionah, tôi đẩy cửa bước vào, cảm thấy nó nhẹ
hơn rất nhiều so với tưởng tượng. Đón tôi ngay phía sau cánh cửa là
một lối đi dài và hẹp chạy giữa hai dãy ghế gỗ dài có tựa. Hai hàng ghế
choán gần như toàn bộ diện tích căn phòng, chỉ chừa lại một khoảnh
nhỏ ở phía bên kia phòng, nơi một người đàn ông trong bộ áo chùng
nâu đang ngồi, tĩnh tại tới mức không biết được ông có nhận ra sự
xâm nhập của tôi hay không. Căn phòng lớn được soi sáng bởi những
ngọn đèn dầu bập bùng dọc hai bức tường, ánh sáng nhảy múa trên
những tấm tranh kính tạo nên những dư ảnh huyền hoặc.
“Mời vào, chàng trai!”
Giọng người đàn ông trầm mà vang vọng, và khi tôi giật mình
nhìn về phía ông, tất cả những dư ảnh phản chiếu từ màn tranh kính
nhất loạt dừng lại. Tưởng chừng như lửa cũng không còn lay động
nữa. Ánh mắt ông trở thành toàn bộ nguồn sáng của căn phòng.
“Chàng trai, xin mời vào”.
Ông nhắc lại, chỉ từ giọng nói, tôi không dám chắc ông có thực
sự muốn tôi bước vào hay không. Tôi bước vào căn phòng lớn, chậm
rãi đi từng bước như thể sợ rằng một trong những chiếc ghế dài có
thể bật ra chắn đường mình. Nhưng từng hàng ghế chỉ cứ thế trôi về

- 14 -
Thị trấn mùa đông
phía sau, và hình ảnh người đàn ông dần trở nên rõ ràng hơn. Tóc
ông ngắn tới mức như thể vừa mới cạo, và ông không để râu. Trong
khi tôi tiến tới, ông cũng rời khỏi vị trí của mình và ngồi xuống hàng
ghế đầu. Khi chỉ còn vài bước nữa là tới hàng ghế nơi ông ngồi, tôi
mới nhận ra một bức tượng đá trắng lớn đặt ở chính diện, lùi vào
trong bức tường trước mặt. Bức tượng toàn thân một người có lẽ là
đàn ông nhưng từ thắt lưng trở lên đã bị nứt vỡ tới mức bất khả nhận
dạng. Nhớ lời của Ionah, tôi kìm lại mình không bật ra câu hỏi nào
về bức tượng này. Thậm chí tôi còn không dám hỏi người đàn ông
này có phải đúng là người mà Ionah đã nói tới hay không. Và ông xác
nhận điều đó.
“Tôi là Kahn, Thị trưởng của Thị trấn Mùa đông”.
Ông ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Tôi bước tới, ngồi xuống hàng
ghế đầu ở phía bên kia, lối đi ngăn cách tôi và ông.
“Chào ngài”. Tôi đáp, và chờ đợi. Kahn không nhìn tôi, ông ngồi
thẳng lưng, đôi vai buông lỏng thư thái. Ông nói, như không phải là
với tôi.
“Thị trấn Mùa đông này chào đón tất cả những người đến với
nó, nhưng cũng đòi hỏi những người tới đây tuân thủ những quy luật
riêng của nó. Tất cả mọi người đều sẽ tìm được cách thức và lí do để
tồn tại ở đây. Chỉ cần làm đúng vai trò của mình thôi.
“Ở đây tất cả mọi người sẽ cống hiến thứ mình có, và nhận về
thứ mình cần. Không ai được nhận nhiều hơn những người khác,
không ai nằm ngoài những quy luật. Đây là một thị trấn của công
bằng và bình đẳng”.
“Tất cả mọi người ở đây đều hiểu ý nghĩa của những quy luật
đó. Vì Thị trấn Mùa đông là một nơi như vậy. Cậu cũng sẽ hiểu thôi”.
Tôi nghĩ Kahn đã nói những điều như thế. Vì lẽ nào đó, tôi
không thực sự lắng nghe ông. Trong khi Kahn nói, tôi cứ không

- 15 -
NHẬT PHI

ngừng nhìn vào bức tượng trước mắt, dõi theo những bóng đen mà
bức tượng đổ lên chính nó, cố gắng hình dung ra một gương mặt từ
những đường nét vỡ vụn kia. Cuối cùng, tôi đi tới kết luận mơ màng
rằng đó hẳn đã từng là một người đàn ông, và lão ta có một chòm
râu dài. Và rồi, người đàn ông đó bắt đầu cựa mình bước ra khỏi
khe tường. Lão đi từng bước chân dứt khoát tới trước mặt tôi, uyển
chuyển như một sinh thể thực sự. Lão mang dáng vóc của một người
bình thường, nhưng gương mặt thật vẫn cứ khuất lấp dưới những
nứt vỡ. Lão nói, bằng giọng của Kahn.
“Thị trấn Mùa đông sẽ cho một người những điều họ cần để
tồn tại trong nó. Nhưng nó đòi hỏi một cái giá, một hiện vật làm tin”.
“Nhưng tôi không có gì cả”.
Tôi đáp, hoặc là tôi nghĩ mình đã muốn đáp như thế. Vang
trong tai tôi không phải là giọng nói của chính mình, mà là tiếng quạ.
“Có đấy!”.
Tôi hình dung dưới lớp mặt nạ của những đường nứt kia, người
đàn ông - bức tượng đang mỉm cười. Lão vươn bàn tay còn nguyên
vẹn ra, những ngón tay mở rộng, rồi, hoàn toàn không hề báo trước,
xuyên thẳng bàn tay đó qua ngực tôi. Bóng tối sụp xuống, như thể
bàn tay bức tượng không phải đang xuyên vào ngực tôi mà đang chặn
trước mắt tôi vậy, chỉ còn lại cái bóng sừng sững của lão, trắng nhởn
lên một vẻ quái dị. Tôi chợt nghe nhồn nhột, hẳn những ngón tay
tượng đá phải đang sục sạo trong lồng ngực tôi. Và rồi chúng siết lại.
Một khoảnh khắc. Tôi không còn biết cơn đau này đang lan ra
từ đâu, từ lồng ngực tôi, từ ý thức tôi hay cơn đau chính là tôi. Những
ngón tay tượng đá siết chặt vào hơn nữa rồi giật mạnh, chừng như
muốn rút thứ gì đó ra khỏi tôi. Một hiện vật làm tin? Cho dù đó là gì
đi nữa, tôi có thể thấy, giữa cơn đau xé toạc thân thể, rằng chẳng dễ
dàng gì để rút được nó ra cả. Lão rút tay ra, và cơn đau theo đó rút

- 16 -
Thị trấn mùa đông
đi, nhanh như khi nó tới. Trên tay lão không có gì ngoài một sợi lông
vũ màu đen ánh xanh.
“Cậu tên gì?”.
Kahn hỏi, lần đầu tiên nhìn sang tôi. Bức tượng người đàn ông
vẫn bất động, vô diện và tôi vẫn tĩnh tại trên ghế của mình, thân thể
vẹn nguyên. Cơn đau đã qua đi như chưa từng tới và dường như tôi
chỉ vừa trải qua một cái chớp mắt với một lưu ảnh sinh động quá
mức. Không, tôi sẽ không hỏi gì cả.
“Chàng trai, nói tôi nghe tên cậu”.
Kahn nhắc lại. Chỉ tới khi ông hỏi, tôi mới bắt đầu nghĩ về điều
đó. Tên tôi là gì? Tên tôi là gì? Tôi nhẩm điều đó một vài lần trong
đầu, nhận ra không có một từ ngữ nào bật ra như một lời đáp cả. Tôi
nhắm mắt, lục lọi trong đầu mình tìm kiếm một manh mối. Nhưng
tất cả những gì hiện ra chỉ là những gương mặt có mà như không mà
tôi đã lướt qua trên đường tới đây, nụ cười, hơi ấm của Ionah, hương
vị nồng đượm của món xúp củ cải đỏ, âm thanh điên loạn của cuộc
oanh kích. Không, không phải ở đó. Xa, xa hơn nữa.
Mới đầu là trắng xóa. Sau đó là con cừu. Và con cú. Và con quạ.
Cừu - Cú - Quạ. Cừu - Cú - Quạ. Cừu - Cú…
“Quạ…”
Kahn nhìn tôi trong một giây. Rồi ông quay trở lại, nhìn lên
gương mặt không hình thù của bức tượng trong một giây nữa.
“Rei. Đó là tên cậu”.
Vậy là, tên tôi là Rei.

- 17 -
NHẬT PHI

NÀNG CHÍNH LÀ…

K hi tôi rời khỏi chỗ của Kahn thì mặt trời đã lên cao. Nắng
rải ơ hờ trên những mái nhà của Thị trấn Mùa đông, phản
chiếu chói chang như thể những mái nhà đã không hấp thụ chút ánh
sáng nào. Hơi nóng hấp lên oi ả hẳn là lí do khiến những con đường
đã gần như không còn mấy bóng người. Tôi tự hỏi mình đã ở trong
căn nhà lớn đó trong bao lâu. Tôi sẽ dành điều đó để hỏi Ionah. Thì
thầm tên nàng trong miệng, tôi gần như hình dung được chính xác
đoạn đường tôi đã đi tới đây và căn nhà tôi cần phải trở lại.
Ionah không có ở nhà khi tôi về tới nơi. Căn phòng rất tối, tối
hơn nhiều so với bên ngoài, dù vẫn đang được thắp sáng bởi một
bóng đèn vàng buông xuống từ chính giữa phòng. Tôi bước vào nhà,
khép lại cánh cửa sau lưng. Trong khi ngồi xuống ghế, tôi chỉ tự hỏi
liệu tôi có gặp lại nàng tại đây như đã hẹn hay không, thay vì thắc
mắc liệu đây có đúng là căn nhà mình đã rời đi khi nãy hay không.
Thời gian dường như trôi chậm hơn trong niềm háo hức mong được
nói với nàng tên mình. Tôi là Rei. Còn nàng là Ionah. Rei và Ionah.
Ionah và Rei. Tôi sắp xếp hai cái tên trong đầu, để cho chúng chạy
vòng quanh một trục vô hình, thất vọng nhận thấy đó không có vẻ gì
là một sự kết hợp hoàn chỉnh.
Tôi nghĩ về nàng. Nàng có bị đòi hỏi một hiện vật làm tin nào
không? Nàng có trải qua cơn đau đớn như tôi đã từng trải qua hay
không? Thứ gì đã được người đàn ông - bức tượng lấy ra khỏi cơ thể

- 18 -
Thị trấn mùa đông
nàng? Tên của nàng có phải cũng là do Kahn đặt hay không? Và sau
cuối, liệu nàng có muốn trả lời bất kì câu hỏi nào của tôi hay không?
Rốt cuộc, tôi kết luận nghĩ về những điều đó cũng không có ý
nghĩa gì cả. Tôi nhìn quanh căn phòng, thử tìm ra một điều gì đó tôi
có thể làm giúp Ionah trong khi nàng vắng nhà. Nhưng căn phòng
đã ngăn nắp và sạch sẽ một vẻ bình thản, bát đĩa, xoong nồi đã thư
thả tựa vào nhau trên tủ bếp, chăn gối được xếp gọn gàng trên tấm ga
giường xanh, lò sưởi không lửa, không củi mà cũng không có lấy một
đụn tro và thứ duy nhất trong phòng có vẻ như đang không ở đúng
vị trí là cái ghế tôi đang ngồi đây.
Giữa bàn ăn và giường ngủ là một tủ gỗ thấp đen lặng lẽ. Trên
mặt tủ không có gì ngoài một cuộn len trắng và cặp kim đan cài
nơi tấm len trông như một đoạn khăn quàng đan dở, và trong một
thoáng, tôi tưởng đâu hình chữ V mà cặp kim đan tạo thành kia kì
thực lại là một mũi tên chỉ xuống hai cánh cửa tủ bên dưới. Tôi biết
hai cánh cửa tủ này không khóa và chúng sẽ mở ra rất êm chỉ với một
chút lực kéo, như mọi cánh cửa khác ở Thị trấn Mùa đông này. Tôi
nuốt xuống một miệng đầy nước miếng tội lỗi.
Với một phản kháng yếu ớt, hai cánh cửa mở ra dưới tay tôi.
Khoang tủ chỉ có một ngăn duy nhất, và trong đó là một xấp giấy
chất cao chừng một gang tay. Ánh sáng của bóng đèn treo chỉ hắt lên
một phần mép giấy, phản chiếu lên mắt tôi một màu vàng ủ dột. Tôi
đứng dậy, rồi lại ngồi xuống thoáng thấy một dải xanh rất mảnh trên
mặt giấy. Trang giấy tôi cầm lên có một mặt nhẵn và một mặt sần.
Mặt giấy tôi đang nhìn vào là mặt sần với những dòng chữ run run
ngượng nghịu bằng mực xanh. Tôi nghe như chính Ionah đang thì
thầm vào tai mình những lời xanh xao này.
“Ô! Đêm nay trời trong như gương
Không làn mây vương, không hơi sương.

- 19 -
NHẬT PHI

Tơ trăng buông rèm trên muôn cành,


Tơ trăng vàng rung như âm thanh…”
Tôi run rẩy. Những ngôn từ này dường như vọng lại trong tôi từ
miền nào xa lắm, xa hơn cả lối mòn trên đỉnh tuyết, hơn bất cứ cừu,
cú hay quạ nào. Chuỗi thanh bằng dường trải thêm một màn u uẩn
trên nền giấy vàng, dưới ánh đèn vàng ủ ê. Tôi phải nén xuống một
cái nấc nhẹ để có thể đọc tiếp.
“Nghê thường lên khơi nàng Hằng ra,
Hương trầm bâng khuâng quyện mình hoa.
Nhịp nhàng nàng đi theo nhịp đàn,
Âm thanh lên cao nhạc rừng lan.
Tôi lại gần bên, ô! Lạ thường!
Nàng Trăng, ô! Chính là…”
“Ionah sẽ không vui khi anh làm thế đâu”.
Tôi giật nảy, những bóng hình phụt tắt. Tôi vội vàng đẩy trang
giấy trở lại trong tủ và đóng cửa tủ lại trước khi quay mình đứng dậy,
hổn hển lấy lại hơi thở. Cô bé đứng bên khung cửa còn rất trẻ, chỉ
chừng mười lăm mười sáu tuổi. Cô mặc một chiếc áo thun tối màu,
một chiếc váy ngắn nâu sáng, cô mang một cặp kính mắt gọng đỏ
và đội lệch một chiếc mũ beret cũng màu đỏ. Cô có gương mặt tươi
sáng, ấp gọn trong mái tóc ngắn chỉ vừa chấm cổ và dù có đang trong
cơn hốt hoảng bị phát giác, tôi vẫn nhận thấy giọng cô thật trong trẻo
như một dòng suối mát. Cô bước vào phòng, tự nhiên như ở chính
nhà mình, đặt bó củi trên tay xuống một góc phòng. Cô mỉm cười
như để trấn an tôi.
“Chị ấy gần như không bao giờ mở tủ đó ra trước mặt người
khác. Em cũng chẳng biết trong đó có gì”.
Cô ngồi xuống mép giường, xua xua tay vẻ đồng lõa.
“Em là Makoto. Anh đã gặp Kahn chưa?”.

- 20 -
Thị trấn mùa đông
“Rồi…”. Tôi đáp, lần bước trở lại ghế ngồi mà không rời mắt
khỏi cô gái. Makoto, tôi nhớ ra chính cô là người đã cùng Ionah đưa
tôi về đây.
“Thế tên anh là gì?”.
“Rei… Tên tôi là Rei. A, cảm ơn em, vì hôm qua…”.
“Không có gì đâu”. Makoto vu vơ đảo mắt quanh phòng. “Ionah
chắc cũng sắp về rồi…”.
“Nàng Trăng là ai vậy?”.
Câu hỏi vọt ra trước khi tôi kịp suy nghĩ thêm. Khi không phải
là người duy nhất trong phòng, tôi không nghĩ mình có thể mở tủ ra
để đọc phần còn lại của trang giấy. Makoto mở lớn đôi mắt sau cặp
kính, rồi cô nhún vai.
“Anh đã đọc được gì trong đó à?”. Cô chỉ vào cánh cửa tủ còn
chưa khép hẳn. “Em không biết, em chưa từng đọc được gì cả. Ionah
cũng chẳng bao giờ nói về nó”.
Makoto thả đôi giày bệt xuống sàn rồi ngồi lùi sâu vào giường,
đôi chân mảnh mai đung đưa, chốc chốc va vào nhau như hai con lắc.
Cô nói mà không nhìn tôi.
“Thực ra là, em không biết đọc. Ionah có từng cố dạy em đọc
chữ, nhưng chỉ cần ngủ một giấc dậy là em quên sạch. Trong thị
trấn ngoài Ionah ra thì em chưa thấy ai có sách vở gì cả nên em cũng
chẳng biết còn ai khác biết đọc nữa không. Anh là người thứ hai đấy”.
Tôi đã hoàn toàn không nghĩ về điều này khi đọc những gì viết
trên trang giấy của Ionah. Tôi đã cứ thế đọc, không có lấy một cái
nhíu mày. Chắc chắn tôi có thể đọc được không phải nhờ con cừu,
con cú hay con quạ, cũng như Kahn và bức tượng đá. Tôi không biết
tên mình, nhưng lại biết đọc. Nhưng nếu vậy thì tôi cũng không thể
biết chắc được liệu mình có đọc đúng hay không, liệu những hình
bóng đã hiện lên trong đầu tôi có đúng là những hình bóng đã đến

- 21 -
NHẬT PHI

với Ionah khi nàng viết ra những dòng này hay không. Tôi không
biết được.
“Nhiều khi em nghĩ mình đã từng đọc được trước khi tới đây.
Lâu lâu em lại hình dung ra cảnh mình đang ngồi đọc một cuốn sách
mẹ mua cho, lần nào mẹ cũng luôn đứng ở cửa nhìn em đọc. Chắc
em đã từng ham đọc lắm, nên mắt mới cận thế này. Kính này cũng là
mẹ em mua cho em đấy”.
Makoto tháo kính xuống, dịu dàng lau mặt kính vào gấu áo.
Đôi mắt cô dường xa xăm sau lớp kính mới lau. Rồi cô lại nhìn tôi.
“Anh đến đây thế nào vậy?”.
“Anh đi dọc một đoạn đường trên đỉnh núi tuyết”, tôi không có
chút ý định nào giấu cô bé. “Theo sau một con cừu. Trên cành cây hai
bên có một con cú và một con quạ. Rồi con quạ vồ xuống mặt anh,
và anh rơi xuống triền núi, xuống tới đây”.
“Núi tuyết à?”. Makoto nghiêng đầu suy tư. “Không biết có phải
cũng là quả núi ấy không nhỉ?”.
“Thế em cũng tới đây từ trên núi à?”.
“Em không biết”. Cô lắc đầu, vung vẩy đuôi tóc ngắn. “Em chạy
trong một đường hầm rất tối. Em cứ thế chạy mà chẳng biết phía
trước là gì, chỉ một mình em, chẳng có ai khác, cũng chẳng có gì
ngoài tiếng chân với tiếng thở của em. Có khi em đã chạy trong đó
cả một ngày trời. Em tưởng chân em sắp rụng ra tới nơi, nhưng lại
không thể ngừng chạy. Rồi tới một lúc thì tiếng chân của em bị chìm
đi, và em nhận ra mình đang bị một đầu máy xe lửa đuổi sau lưng.
Lần đầu tiên em thấy ánh sáng sau một quãng đường dài, nhưng
chẳng vui gì cả. Ánh đèn đầu tàu cứ thế đuổi theo em. Nhưng cứ mỗi
lần em nghĩ em sắp bị cán bẹp rúm đến nơi rồi thì đầu tàu đó hình
như lại tụt lại phía sau, chỉ có ánh đèn bám theo em không rời. Rồi,
nhờ ánh đèn đó mà em nhìn thấy trên thành hầm một mũi tên chỉ về

- 22 -
Thị trấn mùa đông
phía trước, trên đó là hàng chữ Thị trấn Mùa đông. Nghĩ lại thì em
không hiểu được vì sao em lại hiểu dòng chữ đó nói gì nếu như em
không biết đọc. Có lẽ đó là lần cuối em đọc được một cái gì đó…”
Tôi nín thở nghe Makoto kể về hành trình đến với Thị trấn Mùa
đông của cô. So với việc bị một đầu máy xe lửa đuổi sát sau lưng một
quãng dài thì bị một con quạ bất ngờ sà xuống mặt chỉ như là một
cái bước hụt. Tôi hình dung cô bé cũng đã thức dậy trên đúng chiếc
giường mà cô đang ngồi đây, và Ionah cũng đã chỉ dẫn cô tới căn nhà
lớn phía cuối thị trấn.
“Thế rồi làm sao em tới được đây?” - Tôi hỏi.
“Em cứ thế mà chạy tới đây thôi. Đầu máy không đuổi em nữa
khi em ra được khỏi đường hầm. Rồi em tới chỗ Kahn, và ông ấy bảo
tên em là Makoto”.
“Ông ấy có nói gì với em nữa không?”.
“A… Ông ấy nói về quy luật, bình đẳng gì đó. Em không nhớ
được nữa, hình như lâu lắm rồi”.
Tôi không có dịp hỏi gì thêm, vì vừa khi đó thì Ionah đã về tới,
trên tay nàng là một giỏ đầy những củ cải đỏ và mấy ổ bánh mì đen
gói trong túi vải. Makoto nhảy phóc xuống khỏi giường, chạy tới
ôm lấy Ionah như thể đã lâu không gặp. Cô bé chỉ đứng tới cổ nàng.
Ionah mỉm cười, nàng lấy chiếc mũ trên đầu cô bé đội lên đầu mình.
“Anh đã gặp Kahn rồi phải không?”. Nàng hỏi.
“Tên tôi là Rei”. Tôi đáp. “Rất mừng được gặp em, Ionah”.
Ionah dịu dàng gỡ vòng tay Makoto ra khỏi lưng mình. Nàng
tiến lại bên tôi, cúi xuống và chỉnh giúp tôi nút thắt cà vạt.
“Trông tôi có gì không ổn à?”.
“Không, giờ thì ổn rồi”.
Ánh mắt nàng ngập tràn ánh trăng.

- 23 -
NHẬT PHI

TUYẾT

B ữa trưa của chúng tôi vẫn là xúp củ cải đỏ và bánh mì đen.


Hai cô gái thoăn thoắt thái củ cải, hầm nước dùng mà
không để tôi mó tay vào dù tôi đã đề nghị giúp đỡ. Chỉ tới khi mùi
nước hầm củ cải lan ra khắp căn phòng, tôi mới nhận ra mình đói
tới mức nào. Makoto hỏi khi mỗi người chúng tôi đã ngồi xuống với
một đĩa xúp trước mặt.
“Vậy thì anh sẽ làm gì?”.
“Rei sẽ làm việc cùng với chị, phải không anh?”.
Ionah đáp thay tôi và tôi gật đầu.
“Vậy thì lũ chim sẽ bớt đi một chút phần ăn đấy nhỉ?”.
“Không đâu, vẫn còn rất nhiều củ cải và bánh mì mà”.
“Lũ chim nào thế?”. - Tôi hỏi.
“Buổi chiều lũ chim sẽ bay về đây. Mọi người thường chia cho
tụi nó phần củ cải còn thừa trong vườn nhà mình”. Makoto vui vẻ
đáp. “Rồi tụi nó sẽ bay lên đồi để ngủ tránh rét”.
“Makoto, anh ấy còn chưa biết mà”. - Ionah nhẹ nhàng trách.
“Tôi còn chưa biết điều gì vậy?”. Tôi hỏi nàng, dù biết mình còn
quá nhiều điều chưa biết.
“Rồi anh sẽ biết thôi”.
Sau bữa ăn, hai cô gái lại tiếp tục khước từ mong muốn dọn dẹp
cùng từ tôi. “Anh nghỉ một chút đi. Lát nữa sẽ mệt đấy”. Nàng nói. Tôi
ngồi trở lại xuống giường, ngắm hai cô gái bên chậu rửa mà không

- 24 -
Thị trấn mùa đông
thực sự chú tâm. Tôi muốn đọc tiếp những trang giấy trong tủ của
Ionah, nhưng Makoto đã nói nàng sẽ không thích điều đó rồi. Nhưng
nếu như những gì viết trên đó riêng tư đến vậy, tại sao nàng lại không
cất chúng vào đâu đó kín đáo hơn? Phải chăng sự xuất hiện của tôi
đã làm xáo trộn cuộc sống hàng ngày của nàng? Tôi có nên và có thể
tìm một nơi khác để ở hay không? Nhưng dường như nàng muốn tôi
ở đây, và tôi cũng muốn vậy.
“Xong rồi”. Makoto reo lên, cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.
Ionah đưa cho tôi hai xô thiếc rỗng, bảo tôi đi cùng với nàng.
Trên tay nàng là một túi vải nhỏ và một gàu múc nước còn Makoto
mang theo một giỏ xách bằng mây đan và một chiếc xẻng nhỏ. Nắng
đã dịu đi khi chúng tôi mở cửa bước ra ngoài. Ionah lo lắng nhìn lên
trời, nhíu mày như muốn xem góc nghiêng của nắng.
“Không nhanh lên thì muộn mất”.
“Không muộn được đâu”. Makoto nheo mắt nhìn theo nàng.
“Nay mình có thêm một người giúp kia mà”.
Tôi những muốn hỏi nàng đang lo ngại điều gì và chúng tôi
còn có bao nhiêu thời gian nữa trước khi muộn, nhưng lại tự nhủ rồi
mình sẽ biết thôi. Ba người chúng tôi tới một khoảnh vườn, điều mà
lẽ ra tôi đã phải nghĩ tới, khi mà ở thị trấn này, bước ra khỏi nhà thì
cũng chẳng còn mấy nơi khác để đi. Có người đã chờ chúng tôi ở đó,
tôi nhận ra chính là người mặc áo thụng tôi đã thấy hồi sáng. Hai xô
lớn bên cạnh anh ta đã đầy nước. Ionah cất tiếng với anh ta.
“Chào Matel. Xin lỗi để cậu chờ lâu”.
Matel quay về phía chúng tôi, trình ra một khuôn mặt băng kín
dưới lớp mũ trùm đầu chỉ để hở đôi mắt với cái nhìn chếch lên. Hoặc
là bóng của lớp mũ đỉnh đầu, hoặc thực sự đôi mắt ấy cũng tăm tối
như chính màu xám tro của chúng vậy. Anh ta đáp lại lời chào của
Ionah bằng một âm thanh như là tiếng khịt mũi, nửa như ghi nhận,

- 25 -
NHẬT PHI

nửa như bất cần. Tôi đặt hai cái xô của chúng tôi xuống và Matel lập
tức trút nước từ hai xô của anh ta sang, hai bàn tay của anh ta cũng
cuốn kín băng trắng. Ionah bảo anh ta chờ một lát và anh ta vẫn đáp
lại bằng một tiếng khịt mũi như thế.
Rồi nàng quay sang với khoảnh vườn của mình. Chỉ còn phân
nửa số cây củ cải chưa được thu hoạch, những củ cải đỏ không lớn
hơn một nửa nắm tay lấp ló nhô lên khỏi mặt đất như những con
bọ ú núc. Makoto nhanh nhẹn dùng chiếc xẻng nhỏ của cô xới đất
quanh từng khóm cây, tôi và Ionah theo sau cô bé, nhổ củ cải thảy
vào trong giỏ. Chúng tôi thu được một giỏ đầy củ cải, để chừa lại một
vài củ trên nền đất phần cho lũ chim. Ionah chuyển cho anh chàng
Matel hai vốc củ cải và anh ta cho chúng vào trong túi khâu trên bụng
tấm áo thụng, tôi hiểu đó là cách nàng gửi trả cho hai xô nước.
“Anh ấy chẳng bao giờ nói năng gì”. Makoto nói thầm với tôi,
cô đã không nói câu nào kể từ khi chúng tôi ra tới đây. “Lúc nào cũng
lủi thủi xách nước thôi”.
“Makoto cũng có bao giờ nói chuyện với cậu Matel đâu chứ
hả?”. Ionah quở nhẹ khi Matel đã xách hai xô rỗng đi khuất.
“Em sợ…”. Makoto lí nhí. “Chẳng hiểu sao mỗi lần nhìn thấy
anh ấy là em lại phát run lên, chẳng nói được gì. Anh ấy có gì đó đáng
sợ lắm”.
Ionah bật cười ngán ngẩm rồi khoát tay về phía khoảnh vườn.
“Thôi nào, mình làm nốt đi kẻo muộn nào”.
Bên trong túi vải mà nàng mang theo là những hạt giống nhỏ
màu nâu đất trông như những viên sỏi ven bờ suối. Nàng đưa cho tôi
và Makoto mỗi người một vài hạt và hướng dẫn tôi gieo hạt. Tôi ngồi
xuống bên một hõm đất nhỏ do một củ cải vừa được nhổ để lại.
“Đúng rồi, chỉ cần đặt xuống đó thôi”. Ionah đứng cúi mình
bên tôi, dịu dàng chỉ dẫn. “Rồi anh lấp đất lại, nhưng chú ý chỉ để hạt
giống chìm dưới đất tầm một nửa đốt ngón tay thôi”.

- 26 -
Thị trấn mùa đông
Tôi làm theo lời nàng, cẩn thận chống ngón tay mình lên hạt
giống để căn độ chìm của nó trong khi tay kia cầm xẻng vun đất lấp
lại. Xong xuôi, tôi ngước lên, tìm kiếm sự ghi nhận của Ionah. Ánh
nắng chiều xuyên qua những lọn tóc rủ xuống của nàng, nhuộm đỏ
cả một vầng tóc, như thể nàng đang giấu mặt trời ngay trong mái
tóc mình vậy. Dải tóc dập dờn theo cái gật đầu nơi nàng, nắng cũng
như đang tinh nghịch nháy mắt. Nụ cười nàng nghiêng nghiêng như
nắng nghiêng trên tôi.
Trong khi tôi và Ionah thay phiên nhau gieo hạt thì Makoto
theo sau chúng tôi, múc nước tưới cho từng hạt giống dưới nền đất
và ngâm nga khe khẽ một bài hát vui tươi nào đó. Tôi đoán cô bé
cũng học được bài hát ấy từ mẹ mình. Tôi đang lúi húi phủ đất lên
hạt giống cuối cùng thì Makoto ngừng hát, cô bật lên một tiếng reo
bị kìm nén. Chúng tôi dừng làm, đứng dậy nhìn theo bàn tay chỉ
của Makoto. Từ phía mặt trời đang lặn xuống xuất hiện một rừng
những đôi cánh tí hon, thoạt đầu trông như một đám mây đen kéo
tới che phủ hoàng hôn. Đàn chim thoáng chốc đã phủ kín bầu trời
Thị trấn Mùa đông. Chúng sà xuống đậu trên những mái nhà, những
con chim lông xám với một cái cổ xanh rêu. Makoto trút gàu nước
cuối cùng một cách vội vã rồi kéo tôi ra khỏi khoảnh vườn. Bầy chim
hình như đang chờ đợi điều đó, chúng đồng loạt cất tiếng gù êm ái
mà vang rền rồi tung mình từng đám xuống những khoảnh vườn đã
trống người. Makoto, với giỏ củ cải trên tay, cùng với chúng tôi đi về
nhà bằng những bước giật lùi. Tôi cũng không tránh khỏi việc vừa
đi vừa đảo vòng quanh mà chiêm ngưỡng cảnh tượng này. Những
khoảnh vườn đã trở thành bàn tiệc cho bầy chim, chúng tụm vào
từng đám nơi những củ cải được để lại trên nền đất, giành ăn lẫn
nhau một cách lặng lẽ. Một số con chậm chân bị đẩy ra ngoài rìa
nhẩn nha đi vòng quanh với cái cổ gật gù cam chịu trong khi đám

- 27 -
NHẬT PHI

nhanh nhẹn hơn đã ngụp hẳn cổ vào trong khối lông vũ xám của
chúng bạn, chốc chốc, một con trong số chúng lại nhảy dựng lên,
vỗ cánh hốt hoảng, hồ như bị mổ trúng chân.
“Chúng sẽ đều ăn no chứ?”. Tôi hỏi.
“Em chưa bao giờ thấy chúng than phiền gì về lượng thức ăn”.
Ionah khúc khích đáp.
“Em nghĩ có gì đó không ổn”. Makoto nói giọng ưu tư. “Hình
như… Chúng nó đang ít đi. Ý em là… Không nhiều như trước nữa”.
“Chị không nghĩ thế”. Ionah đáp nhanh, nhưng nàng vẫn nhìn
quanh. Tôi nghĩ đã thấy nàng thoáng cắn môi.
Makoto còn đứng nơi khung cửa quan sát bày chim thêm một
lát nữa khi chúng tôi đã về đến nhà. Ionah lấy một phần củ cải trong
giỏ chuyển vào một giỏ nhỏ hơn và đặt nó vào tay cô bé. Nàng giục.
“Em không về ngay là không kịp đâu đấy!”.
“Em biết mà”. Makoto bướng bỉnh đáp. “Em sẽ về kịp thôi”.
“Makoto không thể ở lại ăn tối với mình được sao em?”. Tôi
lên tiếng.
“Thế thì muộn mất”. Nàng lắc đầu cương quyết.
Nhưng cuối cùng thì Makoto vẫn cứ lầy lại. Ionah tỏ vẻ hết
cách, nàng nhờ tôi gỡ giúp bó củi và xếp chúng vào trong lò sưởi. Tôi
đã học được cách cứ im lặng mà làm theo những chỉ dẫn của nàng,
bởi vì rồi tôi cũng sẽ biết thôi. Và tôi không phải đợi quá lâu. Bày
chim có vẻ đã ăn xong, chúng lại đồng loạt gù lên một quãng ngắn
rồi lại vỗ cánh bay lên, xa hơn khỏi phía mặt trời đang xuống. Thị
trấn Mùa đông chớp mắt lại trở nên trống trải với những mái nhà và
những khoảnh vườn im lìm.
Và rồi tuyết bắt đầu rơi. Mới đầu chỉ là những bông tuyết li ti
khó có thể nhìn thấy rõ, nhưng rồi chẳng mấy chốc, một cơn mưa
tuyết dày bắt đầu trút xuống trên thị trấn. Thì ra đây chính là lí do

- 28 -
Thị trấn mùa đông
nơi này được gọi là Thị trấn Mùa đông. Một làn hơi lạnh nào đã âm
thầm lẻn vào trong căn phòng, nhưng không biết từ lúc nào Ionah đã
thắp lò sưởi lên, ngọn lửa mới nhóm đã bắt đầu reo tí tách. Tới lúc
này Makoto mới cầm lên giỏ củ cải phần mình. Cô bé đứng vươn vai
trước khi tung mình qua khung cửa, lao vào trong trận mưa tuyết.
Cô vừa chạy vừa cười thích thú, tỏ ra không phiền lòng gì với những
bông tuyết đang phủ lên vai mình.
“Em nói muộn là nói tới điều này phải không?”. Tôi quay lại với
Ionah. Nàng đã bắt đầu chuẩn bị bữa tối.
“Tuyết sẽ rơi cả đêm. Nếu Makoto về muộn hơn một chút nữa
thì tuyết sẽ dày tới mức không đi được mất”.
“Vậy thì cô bé có thể ở lại đây, anh có thể…”.
“Không anh ạ”. Nàng nở một nụ cười rầu rầu, “không phải ở Thị
trấn Mùa đông này…”.
“Nơi có những quy luật của riêng nó”. Tôi bất giác tiếp lời nàng,
và nàng gật đầu.
“Em có muốn nói cho tôi biết nhiều hơn về nơi này không?”.
Tôi hỏi nàng khi chúng tôi đã ăn tối và dọn dẹp xong. Nàng ngồi đan,
còn tôi ngồi không, đối diện nhau qua bàn ăn, bên lò sưởi vẫn đang
bền bỉ tỏa ấm. Nàng ngước lên khỏi cặp kim đan, chỉ để rồi lại cúi
xuống ngay.
Điều đó khiến cho tôi cảm thấy hối tiếc vì đã hỏi. Tôi không hối
thúc nàng thêm nữa mà lặng yên ngắm đôi bàn tay mảnh dẻ thoăn
thoắt luồn lách giữa hàng sợi len. Ánh lửa hắt nghiêng trên gương
mặt nàng, hun đỏ một bên gò má lộ ra khi nàng đã cột cao mái tóc,
hằn đậm đường nét cứng rắn duy nhất nơi khuôn mặt nàng dịu êm.
Nửa kia khuôn mặt nàng khuất trong bóng tối, chất chứa những gì
tôi không đọc nổi.
“Tại sao anh lại tới đây?” Nàng bất chợt hỏi ngược lại tôi. Dải
khăn dưới tay nàng đã dài ra thêm chừng một gang tay.

- 29 -
NHẬT PHI

“Tôi cũng không biết nữa. Tại sao em lại hỏi thế?”.
“Tại sao anh lại ở đây? Lẽ ra anh không nên ở đây…”.
“Tại sao?”. Tôi hỏi, nghe môi mình run lên tê dại, như thể tôi
vừa bị cáo buộc một tội ác mình không thực hiện. “Tôi đã ở đây rồi,
đã cùng em làm những việc cần làm ở đây, tôi thậm chí đã để lại vật
làm tin theo yêu cầu, vậy mà giờ em nói tôi không nên ở đây sao?”.
Ionah không đáp, ánh mắt nàng tan đi trước khi kịp chạm tới
tôi. Nàng lẳng lặng cúi xuống trở lại với cặp kim đan. Tôi cũng im
lặng, âm thanh duy nhất còn lại trong phòng là những oằn oài của
đám lửa lò sưởi.
Tôi đứng dậy, tiến ra hé cửa, ghé mắt nhìn ra bên ngoài. Tuyết
vẫn rơi dày, một mảng tuyết trên mặt đất đổ xuống chân tôi qua khe
cửa. Tuyết trắng, nhưng bên ngoài vẫn tối đen. Tôi hít vào đầy một
phổi làn hơi lạnh buốt. Làn hơi như mang vọng âm của những lời
nàng nói trở lại trong tôi. Tôi nhận ra nàng đã nói điều đó với vẻ xót
xa nhiều hơn là oán trách. Hơi thở dài của tôi trôi ra thành một làn
khói ngay khe cửa dẫn vào miền tuyết rơi. Tôi nhìn theo khi làn khói
từ miệng mình biến đi gần như tức khắc. Chính khi ấy, tôi chợt nhận
ra hai đốm sáng duy nhất còn đang tĩnh tại, giữa muôn vàn những
bông tuyết li ti đang không ngừng rớt xuống này, vẻ tĩnh tại ấy lại cho
tôi một ấn tượng về sự mãnh liệt. Cho tới khi tôi nghĩ ra: đó là một
đôi mắt. Và quan trọng hơn, đôi mắt đó dường như đang nhìn chính
tôi! Nửa hồ nghi nửa hoảng sợ, tôi vội vàng đóng sập cửa lại, đẩy cả
tuyết cả hơi lạnh và cả ánh mắt đó trở ra bên ngoài trời.
Khi tôi quay trở lại phía trong, Ionah đã ngừng đan, nàng gục
đầu xuống bàn, hướng mặt về phía lò sưởi. Ánh sáng chờn vờn quanh
dáng hình nàng, cho tôi cảm giác bờ vai nàng đang rung lên. Tôi lại
gần, đặt tay lên vai nàng, nhưng nàng chỉ uể oải nhấc tay lên, mơ hồ
phẩy nhẹ. Giọng nàng yếu ớt, nhưng ấm áp, như được ngọn lửa trong
lò sưởi ấm.

- 30 -
Thị trấn mùa đông
“Thực ra, em rất vui vì anh đã đến và ở đây với em”. Nàng ngồi
thẳng trở lại, gạt đi mấy sợi tóc còn vương trên mặt. “Thị trấn Mùa
đông này được tạo nên bởi những tiền định. Em không biết Kahn đã
nói gì với anh, nhưng cũng giống như vậy thôi. Chắc chắn anh có rất
nhiều điều muốn biết. Tại sao anh lại thức dậy trong căn phòng này?
Tại sao anh lại ở đây cùng với em? Tại sao anh lại không nên ở đây
mà anh lại ở đây? Và tại sao em lại vui vì anh đến? Em không thể trả
lời anh bất kì điều gì trong số đó được. Chỉ cần anh biết rằng tất cả
đã được định trước rồi”.
Nàng nắm lấy tay tôi, dịu dàng dẫn tôi ngồi xuống bên nàng.
“Nhưng anh không biết em đã chờ đợi sự xuất hiện của anh
như thế nào đâu.”
Và tôi không cảm thấy mình cần phải biết gì nữa. Giữ bàn tay
thon mềm của nàng trong tay mình, tôi kể cho nàng nghe về con
đường mòn trắng xóa, về con cừu, con cú và con quạ. Nhưng khi tôi
mới dợm nói về những gì đã diễn ra trong căn nhà lớn của Kahn,
nàng đã đặt một ngón tay lên môi tôi.
“Đó là điều anh phải giữ cho riêng mình. Sẽ không ai ở đây kể
cho anh nghe trải nghiệm đó đâu”.
“Kể cả em sao?”.
“Phải, dù cho em có muốn đi nữa”. Nàng mỉm cười một vẻ trái
ngang. “Vì em quên rồi”.
“Điều đó cũng được định trước rồi phải không?”.
Nàng gật đầu. Và khi nàng đưa tay giúp tôi tháo cà vạt, tôi lại
một lần nữa nhìn ra ánh trăng ngập trong mắt nàng.
Phải chăng việc tôi đọc được những gì nàng viết cũng đã được
định trước rồi?
Nàng có biết không, có giận không?
Nàng Trăng là ai?

- 31 -
NHẬT PHI

Ionah, em là ai?

Những câu hỏi trôi bồng bềnh trong cõi mơ màng ý thức tôi.
Ánh lửa chập chờn như sắp lụi tắt. “Chúc anh ngủ ngon”. Hình như
Ionah đã nói thế. Hình như tôi không mặc áo vest và đeo cà vạt nữa.
Hình như tôi đã ở trên giường, phủ lên mình lớp chăn con công.
Hình như tuyết vẫn rơi.

- 32 -
Thị trấn mùa đông

CỦ CẢI ĐỎ VÀ BÁNH MÌ ĐEN

C ủ cải đỏ được gieo hạt vào buổi chiều, trước khi tuyết
bắt đầu rơi và được thu hoạch từng phần vào sáng hôm
sau, khi trên nền đất không còn một chút dấu vết nào của cơn mưa
tuyết đã kéo dài suốt cả đêm trước. Buổi sáng, mọi người sẽ ra thăm
khoảnh vườn của nhà mình, nhổ một phần củ cải cho bữa sáng và
mang tới lò bánh đổi lấy bánh mì đen với tỉ lệ sáu củ đổi lấy một ổ
bánh mì. Sau bữa sáng và những hoạt động thường nhật buổi sáng,
mọi người sẽ lại ra vườn lấy củ cải và tưới nước cho phần cây còn lại.
Công việc của buổi chiều có phần gấp gáp hơn, vì củ cải phải được
thu hoạch toàn bộ trước khi gieo hạt và tưới nước cho lứa củ cải mới,
rồi tuyết sẽ rơi và không ai ra ngoài nữa.
Gia đình ông Nicolas sở hữu lò bánh mì của thị trấn, hay chính
xác hơn, họ phụ trách nó. Nicolas cùng vợ và hai đứa con, một trai
một gái, có lẽ là những người dậy sớm nhất thị trấn. Không ai biết họ
bắt đầu một ngày làm việc từ lúc nào, nhưng ngay khi những người
đầu tiên tới xếp hàng trước cửa tiệm, họ đã thấy Nicolas-con trai
mang từng bó củi từ kho vào trước lò nướng, nơi Nicolas-cha đang
lom khom căn ke từng búi lửa. Họ sẽ trút từng nắm củ cải đỏ trên tay
mình vào giỏ đặt trước cửa tiệm và nhận từ tay Nicolas-con gái những
ổ bánh mì được nhào trộn với công thức riêng của Nicolas-mẹ.
Trong những lần đi cùng với Ionah tới nhà Nicolas để lấy bánh
mì, tôi thường cố ý đứng nán lại bên bàn bánh kê nơi ngưỡng cửa

- 33 -
NHẬT PHI

tiệm, nhẩn nha hít hà thứ mùi âm ấm của bánh mì mới ra lò. Mùi
bánh mới cho tôi một cảm giác bình yên, thư giãn khó tả. Hít một hơi
đầy căng buồng phổi, tôi thấy như đang được thả mình vào giữa một
cánh đồng lúa mạch vàng rực ngút mắt, đâu đó xa hơn cả con đường
mòn tuyết phủ giữa hai cây dương. Gió dịu dàng lan truyền những
đợt sóng trên mặt biển cây thân cỏ, du dương như lời chúc ngủ ngon
từ Ionah hàng đêm. Và tôi biết là bàn tay nàng đang lay tay tôi, chứ
không phải một bông lúa nào cả.
“Về thôi anh”. Nàng dịu dàng nhắc, trên tay nàng là giỏ mây đầy
những bánh cùng củ cải đỏ. Tôi biết nàng sẽ làm món gì với chúng.
Và cứ thế, với củ cải đỏ và bánh mì đen, Thị trấn Mùa đông tiếp
tục tồn tại qua tất cả những ngày hôm qua. Ngày hôm qua, tôi ăn xúp
củ cải đỏ và bánh mì đen.

- 34 -
Thị trấn mùa đông

TRUYỆN KỂ:

“T rận chiến đã thực sự kết thúc. Bạo chúa đã bỏ mạng,


con rồng lửa cũng đã gặp nghiệp báo của nó. Nhưng
người anh trai cũng bị thương… Ngọn lửa của con rồng đã liếm vào
thân mình anh. Sẽ không còn lâu nữa trước khi anh chết, hoặc bị liệt
vĩnh viễn…”.
Bà lão ngừng lời, thổi lập bập vài hơi vào cái tẩu thuốc dài.
Bà là người duy nhất nhìn theo dải khói mờ mờ chậm rãi bay lên từ
miệng mình, chừng như tận hưởng cơn lo lắng thành tiếng của đám
trẻ vây quanh. Chờ cho đám khói tan đi hết, bà mới chậm rãi kể tiếp.
“Nhưng anh sẽ khỏe mạnh hoàn toàn, cũng như em lần trước
ấy, Quy Ròn. Người anh nói. Nếu như chúng mình đến được trang
trại của ông nội…”.
“Trang trại ở đâu ạ?”. Một cậu bé tóc hoe vàng như cháy nắng
vọt miệng hỏi.
“Trang trại của ông nội nằm trong Thung lũng Táo, một trong
những thung lũng xanh tươi trên một miền đất xa xôi. Này các con,
ở đó bây giờ vẫn còn là thời của những truyền thuyết và những cuộc
phiêu lưu. Ở đó các con có thể cưỡi ngựa trong rừng, đốt lửa trại bên
hồ nước. Sẽ không còn điều gì phải lo sợ hay muộn phiền nữa...”.
“Ở đó họ có ăn củ cải đỏ không ạ?”. Một chú nhóc mập mạp
hồng hào giơ lên bàn tay múp míp.
“Có chứ, họ ăn củ cải đỏ và cả bánh mì đen nữa, và còn nhiều

- 35 -
NHẬT PHI

món nữa”. Bà làm một động tác giả bộ gặm xung quanh cán tẩu
thuốc như thể đó là một khúc giò ngon lành. “Một chốn tươi đẹp
và bình yên…”.
“Là ở đâu thế hả bà?” Cô bé con ngồi gần bà nhất ngước lên đôi
mắt long lanh sáng rỡ, cô bé tựa cằm vào tay bà chờ đợi. Bà lão không
đáp lại ngay, bà xoa đầu cô bé, gương mặt bà thoắt mơ màng.
Mặt trời đã lên gần tới thiên đỉnh, nhưng cái nắng của Thị trấn
Mùa đông không bao giờ quá gay gắt để làm phiền được đám trẻ
đang háo hức nghe truyện. Ngoài bà lão và đám trẻ, và tôi, không còn
ai khác đang ở bên ngoài. Ionah và Makoto hẳn cũng đang bắt đầu
dọn bữa trưa ra rồi. Nhưng cũng như đám trẻ, tôi muốn nghe nốt, ít
nhất là cái tên của nơi chốn tươi đẹp và bình yên ấy.
“Bà Astrid ơi, đi ăn trưa thôi bà”.
Tiếng gọi từ một người phụ nữ trẻ đang rảo bước lại gần nơi
bà lão đang ngồi cùng đám trẻ. Cô mặc một bộ áo váy phồng kẻ caro
xanh trắng, đội một chiếc mũ trắng hình tam giác và đi một đôi guốc
gỗ dày. Người phụ nữ mỉm cười với tụi nhóc một vẻ độ lượng, trong
lúc cúi xuống đỡ bà lão dậy.
“Các con cũng về ăn trưa đi. Buổi chiều bà Astrid sẽ kể tiếp
truyện nhé”.
Bà lão lơ đãng gật gù khi bám vào tay cô để đứng dậy. Bà hấp
háy mắt thay cho lời chào.
“Buổi chiều, buổi chiều…”.
Đám trẻ con cũng nhanh chóng tản đi, sau một chút phản đối
yếu ớt. Chúng tản ra về những căn nhà khác nhau trong thị trấn, một
vài đứa đi chung đường vẫn còn hào hứng bàn luận về câu chuyện mà
chúng vừa được nghe. Tôi tần ngần đứng lại, chẳng vì lí do gì, cho tới
khi bóng mình chỉ còn là một khoanh tròn bé tí dưới chân, như một
cột mốc cô lẻ giữa thị trấn vắng người.

- 36 -
Thị trấn mùa đông
Thế nhưng, chiều hôm đó mọi người đều phải làm vườn, đón
đàn chim từ phía mặt trời lặn và rồi tuyết lại rơi. Tôi tự nhủ ngày hôm
sau sẽ tới sớm để nghe tiếp câu chuyện của bà lão.

Bà Astrid có vẻ là người lớn tuổi nhất Thị trấn Mùa đông. Bà


là một người phụ nữ nhỏ nhắn, thanh lịch, dáng hơi gù do sức nặng
tuổi tác. Tóc bà bạc trắng, cắt ngắn và rất thưa, xoăn nhẹ trên đỉnh
trán cao như những dấu chấm hỏi mà bọn trẻ không bao giờ thôi đặt
cho bà. Bên dưới mái tóc xoăn là gương mặt ngời lên vẻ thông tuệ
tinh tế giữa vô vàn những nếp nhăn. Mỗi khi bà kể chuyện, những
nếp nhăn lại nghiêng ngả xô vào nhau, chừng như hưng phấn với câu
chuyện ẩn bên dưới. Tôi dành cho bà một niềm kính trọng gần như
ngay tức khắc, dù rằng tôi chỉ là một kẻ nghe truyện kể giữa chừng.
Buổi sáng sau đó, tôi thức dậy và thấy Ionah đang soạn sửa
dụng cụ để ra vườn lấy củ cải. Không bao giờ tôi biết được nàng
thức dậy khi nào, hay thậm chí nàng đi ngủ lúc nào, nàng luôn tiếp
tục ngồi đan sau khi chúc tôi ngủ ngon - chưa bao giờ tôi không làm
theo khi nàng nói thế - và luôn đã đang nấu ăn hay sửa soạn đồ khi
tôi thức giấc.
“Em đã bao giờ nghe truyện kể của bà Astrid chưa?”. Tôi hỏi nàng.
“Em chưa”, nàng lắc đầu khi đưa cho tôi tấm khăn mặt. “Makoto
thì rồi, con bé thích nghe truyện lắm”.
“Khi nào đó anh sẽ hỏi Makoto về phần trước truyện này mới
được”. Tôi ngồi dậy, bắt đầu mặc áo vest và loay hoay thắt cà vạt.
“Không cần đâu”, nàng mỉm cười đầy ẩn ý. “Nếu anh muốn
nghe thì ăn sáng rồi ra đó đi. Chắc bà ấy sắp bắt đầu rồi. Em có thể
làm việc một mình mà”.
Nơi bà Astrid ngồi kể chuyện là một khoảnh đất trống nhỏ len
vào giữa một vài căn nhà. Bà ngồi trên một cái ghế gỗ, xung quanh

- 37 -
NHẬT PHI

là mấy băng ghế dài cho đám trẻ. Khi tôi ra tới nơi, bà lão đã chỉnh
tề ngồi giữa một vài đứa trẻ. Bà ngồi nhẩn nha hút tẩu, chừng như
muốn đợi cho đám trẻ tới đủ. Tôi lại gần hơn, ngồi quỳ xuống bên
một băng ghế, tôi không muốn chiếm chỗ của bọn trẻ.
“Chào cậu, Rei”, bà lão đột ngột lên tiếng, hấp háy nhìn tôi.
“Ionah vẫn khỏe đấy chứ?”.
“À… Vâng, chào bà”, tôi đáp, bị bất ngờ. “Cô ấy khoẻ ạ”.
Bọn trẻ đã tới đông đủ trước khi tôi kịp hỏi lại điều gì. Tôi cũng
im lặng theo những cặp mắt háo hức kia. Sau một hơi thuốc cuối, bà
Astrid bắt đầu kể.
“Ở một thành phố kia, có một cậu bé tên là Quy Ròn. Cậu rất
yếu ớt và bệnh tật, cậu không thể đi học hay đi chơi mà luôn phải
nằm một mình trên tràng kỷ trong nhà bếp. Quy Ròn có một người
anh trai. Anh trai cậu thì ngược lại, khỏe mạnh, khôi ngô và luôn
được mọi người yêu quý…”.
Tới một lúc nào đó, tôi bắt đầu nhận ra điều lạ. Tên bạo chúa
đúng ra đã chết vẫn còn đang thống trị, con rồng lửa lẽ ra đã gặp
nghiệp báo thì vẫn còn đang gieo rắc nỗi kinh hoàng chỉ bằng cái tên.
Và trong khi hai anh em vẫn còn đang phi nước kiệu trên lưng ngựa,
tôi tự hỏi họ đang ở vùng đất nào.
“Bà Astrid ơi”, tôi không kìm được mình cắt ngang câu chuyện,
phân vân lựa chọn câu hỏi. “Thế anh em Quy Ròn đã đến được Thung
lũng Táo chưa?”.
Bà lão ngừng lời, đám trẻ cũng nhất loạt ngước lên nhìn tôi
nửa tò mò nửa khó chịu. “Thung lũng Táo nào?”. Một đứa hỏi, nhưng
không ai trả lời.
“Rei này”, bà lão từ tốn nói. “Tôi nghĩ là Ionah cần cậu giúp
chuẩn bị bữa trưa đấy. Sao cậu không về giúp cô ấy nhỉ?”.
“Còn truyện kể?”.

- 38 -
Thị trấn mùa đông
“Đừng lo”, bà mỉm cười, những nếp nhăn nối nhau như dài
miên man. “Anh em Quy Ròn sẽ không đi đâu cả. Ít nhất là chưa”.
Tôi đứng dậy, thắc thỏm. Có gì đó nơi nụ cười kia cho tôi biết
rằng bà không nói dối tôi. Và có lẽ đó cũng là một trong những quy
luật của Thị trấn Mùa đông này, có lẽ. Tôi quay lưng dợm bước đi,
nhưng rồi đứng lại ngay, tôi biết bà lão lại đang bập tẩu thuốc.
“Bà Astrid này”, tôi hỏi, nhận ra môi mình cũng đang hơi cong
lên. “Cho con hỏi, bà có ghét những câu hỏi không?”.
“Không, Rei ạ, không”, bà nở một nụ cười nhòe khói. “Nhưng
mọi câu hỏi luôn có một thời điểm thích hợp để được trả lời”.
“Cảm ơn bà, Astrid”.

- 39 -
NHẬT PHI

MAKOTO

“N ày, Rei, anh biết không? Em cũng đã từng đi học đấy”.


Chúng tôi đang ở trong nhà của Ionah, Makoto và tôi.
Một ngày hôm qua nào đó, khi Ionah đã đi lấy bánh mì và củ cải còn
tôi ngồi không trong phòng và Makoto mang củi tới. Cô bé nhảy lên
giường và đung đưa chân, bắt đầu nói như thể tiếp tục lại một cuộc
trò chuyện bị ngắt quãng.
“Thế mà em lại không thể đọc?”.
“Em chẳng nhớ gì về trường học cả, ngoại trừ việc trên sân có rất
nhiều trẻ con, từ đám nhóc bé tí cho tới mấy đứa lớn lớn như em bây
giờ. Nhà em ở gần trường, nên ngày nào mẹ cũng đưa em tới trường”.
Tôi nhận ra cô kỳ thực đâu có muốn nói về việc đi học. Bên
ngoài, nắng ươm vàng, có lẽ Ionah cũng sắp sửa về tới. Nhưng tôi
cũng muốn nghe nhiều hơn câu chuyện của Makoto.
“Buổi chiều, sau này là buổi trưa, mẹ lại đón em ở cổng trường
để đi cùng em về. Nhiều khi em nghĩ nếu không đi cùng mẹ thì em
sẽ chẳng thể nào tìm được đường về nhà mất”. Cô bật cười nhẹ rồi lấy
xuống chiếc mũ beret đỏ, xoay xoay nó trên đầu ngón tay.
“Suốt ngần ấy năm em đi học sao?”.
“Vâng, ngày nào cũng vậy. Ngày nghỉ thì mẹ sẽ đưa em đi chơi
đâu đó. Những nơi có nhiều cây cỏ, nhiều những con thú nữa, thích
lắm. Hoặc là em và mẹ sẽ đi chọn sách, rồi về nhà hai mẹ con sẽ đọc
cùng với nhau”.

- 40 -
Thị trấn mùa đông
Tôi hình dung Makoto, cũng với chiếc áo thun này, chiếc váy
và mũ beret này, rạng rỡ bên mẹ cô bé, một người phụ nữ trung tuổi,
hiền hậu. Bà cũng đang mỉm cười với cô con gái trong khi hai người
đang dạo bước trên một lối đi hẹp giữa hai thảm cỏ xanh mướt. Tới
một lúc nào đó, người mẹ sẽ tinh nghịch nhấc lấy chiếc mũ trên đầu
cô con gái và đội lên đầu mình, rồi cả hai người sẽ ngặt nghẽo cười
với nhau, chẳng vì lí do gì cả. Vì họ đang hạnh phúc thôi. Và đám cừu
trên thảm cỏ cũng nhất loạt be lên, chúng cũng đang cười.
“Nhưng em đã không có một người bạn nào sao?”.
Makoto nhíu mày ngẫm nghĩ vài giây rồi lắc đầu. Cô thu hai
chân lên giường, vòng tay ôm lấy hai đầu gối, lắc lư nhè nhẹ.
“Trước khi đến đây thì không. Em nghĩ người bạn thực sự đầu
tiên của em chính là Ionah. Chị ấy giống như chị gái của em vậy. Còn
trước khi đến đây, lúc nào cũng chỉ có mẹ ở bên em thôi”.
“Còn cha em?”.
“Em chưa bao giờ gặp bố em cả. Dù mẹ em kể rất nhiều về ông.
Từ hồi em nhớ được, ông lúc nào cũng đi làm trước khi em thức dậy
và về khi em đã đi ngủ rồi. Ở nhà lúc nào em cũng ở với mẹ em thôi”.
Giọng của Makoto dường như không muốn nói thêm về điều
này, vậy nên tôi cũng không hỏi thêm nữa. Chỉ còn một điều.
“Thế mẹ em, bây giờ…”.
“Mẹ em…”. Cô bé thở dài nhè nhẹ, đôi mắt hướng vô định lên
trên. “Mẹ em không ở đây. Mẹ ở lại đó. Em bị tách khỏi mẹ trước khi
tới được đây. Em tin là đám người xám đã làm gì đó…”.
“Người xám? Ai kia?”.
“Những người đó, đám người xám… Họ lúc nào cũng mặc áo
vest xám và mang những cái cặp táp đen. Một người trong số họ sẽ
đến nhà em vào buổi chiều, lôi từ trong cái cặp táp ra mấy thứ giấy
tờ gì đó, bấm bút cái tách, rồi em sẽ phải đi ra ngoài để mẹ em làm
việc với họ”.

- 41 -
NHẬT PHI

Makoto nhăn mũi như xua đi một thứ mùi xám xịt kinh tởm
nào đó, và tôi hình dung một cô bé Makoto nhỏ hơn với chiếc mũ
beret nhỏ hơn đang áp tai vào cánh cửa phòng mẹ cô, cố gắng nắm
bắt một cuộc trò chuyện rầm rì mà cô không thể nào nghe rõ. Có thể
mẹ cô bé đã cho cô một xấp giấy và mấy cây bút sáp màu, nhưng cô
không quan tâm. Cô lo cho mẹ mình, cô không thích những người
màu xám kia. Và rồi, sau quãng thời gian cảm giác như nhiều ngày
rầu rĩ, cánh cửa phòng sẽ bật mở…
“Người xám đi ra trước, vừa lắc đầu vừa nhét giấy tờ vào lại
trong cặp táp. Không hiểu sao vẻ mặt thất vọng của họ lại khiến em
rất khoái, sao nhỉ… À, phải, em thấy hả hê. Dù cho họ định làm gì
với mẹ em, họ cũng đã thất bại rồi. Nhưng mẹ em thì không vui.
Em chạy vào phòng với mẹ, nhưng mẹ không nói gì cả, cứ ngồi thẫn
thờ trên ghế một lúc lâu. Ánh mắt mẹ lướt qua như không có em ở
đó. Rất lâu rất lâu…”. Makoto với tay kéo tấm chăn con công, quàng
quanh mình. “Rồi mẹ em gần như là tỉnh lại, mẹ sẽ ôm em thật chặt,
thật ấm. Những khi ấy em rất vui. Em lại cảm nhận được mẹ là của
em lần nữa. Nhưng em vẫn lo. Em ghét bọn người xám”.
Cô bé thu mình vào trong chăn, bao kín mình trong đó. Tôi còn
đang lúng túng không biết nên nói hay làm gì thì Ionah đã về tới nơi.
Nàng nhìn lướt qua căn phòng, nhanh chóng nhận ra vấn đề. Mỉm
cười trấn an tôi, Ionah đặt giỏ bánh và củ cải xuống rồi ngồi ghé vào
bên giường. Nàng nhẹ nhàng vén lớp chăn đỏ, dịu dàng như mở ra
một bí mật mong manh. Cô bé trong chăn nhận ra Ionah, cô quàng
tay ôm lấy nàng, dụi đầu vào lòng nàng. Cảnh tượng hai cô gái bên
nhau cho tôi một cảm giác ấm lòng kỳ lạ. Tôi đứng dậy, xoa đầu cô
gái bé.
“Ở đây không có bọn người xám đâu…”.

- 42 -
Thị trấn mùa đông

MATEL

T ôi nhanh chóng khám phá ra có một dòng suối nhỏ chảy


qua, hay đúng hơn, chảy men theo rìa Thị trấn Mùa đông,
ngăn cách thị trấn với vùng bên ngoài. Đối với những con người ở
đây, dòng suối, cũng như dãy núi nơi tôi đã lăn xuống, là một ranh
giới tự nhiên. Những hạt giống củ cải đỏ cần nước suối để nảy mầm,
lớn lên và đậu củ, cũng giống như người dân Thị trấn Mùa đông cần
Matel - người xách nước.
Dòng suối chảy giữa hai bờ ghềnh đá thấp, nước trong vắt nhìn
thấy rõ nền đáy đầy sỏi. Tôi tới sát mép nước, cúi mình khum tay
múc lên một ít nước suối lạnh ngắt. Những ngón tay tôi tê tê khoan
khoái khi nước len qua kẽ tay, tí tách rơi trở lại mặt suối. Tôi buông
tay, trả lại hết vốc nước trên tay mình rồi cúi xuống múc đầy hai
bàn tay nước nữa. Nước suối có một thứ mùi vị sống sượng, đanh
sắc khác xa thứ nước máy chúng tôi có ở nhà, như thể trên thượng
nguồn có một giống cây thuỷ sinh nào đó bắt rễ giữa những viên
sỏi đáy suối và hòa tan vào nguồn nước chất tinh dầu say nồng của
chúng. Thượng nguồn là nơi đâu, tôi tự hỏi, hướng mắt lần lượt về
hai đầu dòng suối, chỉ để thấy không gì khác hơn ngoài dòng nước
loang loáng trải ngút tầm nhìn. Bờ bên kia là một cánh rừng thưa,
những lùm cây bụi núp dưới tán những cây cao hơn, vẻ âm u tịch
mịch ken dày giữa những thân cây như sờ thấy được. Càng nhìn sâu
vào bóng tối nơi bìa rừng, những âm thanh vô danh đang văng vẳng

- 43 -
NHẬT PHI

chung quanh tôi càng nghe giống như những tiếng quạ kêu mời gọi.
Tôi nuốt nước miếng, nhưng cơn thôi thúc lại cứ trào lên. Kahn và
Ionah đã không nói gì với tôi về điều này.
Tôi bắt đầu tháo giày, tất và xắn cao ống quần tây. Suối khá
nông, tôi áng chừng chỉ lên tới ngang đầu gối mình. Tôi lại gần mép
nước hơn nữa, một bàn chân đã bắt đầu lơ lửng sát mặt nước. Rồi tôi
nghe một tiếng khùng khục, phần như tiếng ho, phần như tiếng hắng
giọng, đầy hăm dọa. Tôi sựng lại, vội vàng thu chân lên, vẩy vẩy đôi
chân trần như để đánh lạc hướng khỏi một hành động tội lỗi. Và đó
có lẽ là một dự định tội lỗi thật, với người đang tới sau lưng tôi đây.
Đó là Matel, người xách nước. Ánh mắt anh ta giữa những dải băng
trắng đã sờn rực lên vẻ cáo buộc.
“Chào cậu…Matel”, tôi lúng búng trong khi đi lại tất và giày.
Matel chớp mắt rồi quay đi, khịt mũi đáp lời tôi. Anh ta đặt hai xô
nước xuống bờ đá sát mép nước, quay lại nhìn tôi một lần nữa, chừng
như để chắc chắn tôi đã đi giày xong xuôi và sẽ không có ý định
lặp lại. Rồi anh ta bắt đầu quỳ xuống bên dòng suối, đăm đăm nhìn
xuống nước hồi lâu. Đôi mắt xám tro đùng đục đón lấy ánh nắng
phản chiếu từ mặt nước lại ngời lên một vẻ thành kính. Tôi tưởng
như đã thấy Matel thực hiện một động tác gì đó như một dấu lễ
thánh trước khi vục cái xô đầu tiên xuống nước.
Tôi bước lại gần khi Matel bắt đầu múc nước vào xô thứ hai,
nhấc lên xô nước đã đầy, nó nặng hơn tôi tưởng rất nhiều.
“Để tôi xách giúp cậu”, tôi đề nghị, hít vào một hơi lấy sức đứng
thẳng lên với cái xô đầy. Nhưng một bàn tay cuốn băng của Matel đã
chộp lấy cổ tay tôi, dằn nó xuống không mấy khó khăn, trong khi tay
kia vẫn đang nâng xô thứ hai lên. Cách anh ta nhìn cho tôi một ấn
tượng mãnh liệt như mình đang chuẩn bị lấy trộm xô nước của anh
ta vậy. Tôi thu tay lại trước ánh mắt đó, sững sờ nhìn Matel hai tay

- 44 -
Thị trấn mùa đông
xách hai xô nước đầy quay mình trở lại thị trấn. Khi anh ta trở lại bờ
suối sau đó một chốc, hai xô nước đã cạn và túi áo trước bụng anh ta
đã phồng lên một chút.
“Tôi có thể giúp cậu không?”.
Vẫn chỉ là những cái lắc đầu và tiếng khịt mũi mơ hồ.
Tôi không bỏ cuộc. Tôi quay trở lại bờ suối vào ngày hôm qua
sau đó, với một xô thiếc mang theo từ nhà. Ionah đã kiên nhẫn lắng
nghe khi tôi nói với nàng dự định của mình.
“Tôi sẽ không hỏi gì cả. Cũng chẳng phải là nếu tôi hỏi thì cậu
ta sẽ đáp gì. Tôi chỉ giúp cậu ta một chút, điều này sẽ không vi phạm
một quy luật nào ở đây cả phải không? Mọi người đều cần tìm một
việc gì đó để làm phải không em? Có thể tôi cũng đã được định trước
để làm một người xách nước”.
“Em sẽ không ngăn cản anh đâu”, nàng đáp, dịu dàng che đậy
chút ngại ngần. “Nhưng hãy nhớ quay trở về nhà trước khi tuyết rơi,
trước khi trời tối. Anh không thể ở đâu khác khi trời đã tối đâu”.
“Anh sẽ về kịp mà”. Bàn tay tôi nán lại trên tay nàng khi nàng
đưa cho tôi cái xô thiếc. Ionah, Ionah, nước suối kia có trong hơn mắt
em lúc này không?
Tôi múc đầy xô nước phần mình, nhấc lên đặt xuống một vài
lượt rồi tặc lưỡi trút trở lại tầm ba phần xuống suối. Khi tôi ngẩng lên
thì Matel đã tới nơi, anh ta nhìn tôi thoáng ngạc nhiên nhưng cũng
không bày tỏ thái độ gì cả. Chờ cho Matel múc nước xong và bắt đầu
quay mình trở lại, tôi lập tức đi theo anh ta. Tới khi ấy tôi mới nhận
ra trái với dáng vẻ lầm lụi, chuyển động của Matel thì lúc này anh lại
cực kỳ nhanh nhẹn và khả năng giữ thăng bằng của anh ta gần như
là phi thường. Với hai xô nước đầy nặng trên hai tay, anh ta sải từng
bước rộng, đều nhịp nhàng và hầu như không để một giọt nước nào
sánh ra khỏi xô cả. Trong khi đó, với phần nước chỉ bằng một phần

- 45 -
NHẬT PHI

ba của anh ta, tôi vẫn cứ nhanh chóng bị tụt lại đằng sau, càng lúc
càng xa. Mới đầu, Matel còn chốc chốc ngoái lại như trông chừng tôi,
nhưng rồi tôi bị tụt lại quá xa và anh ta cứ thế đi thẳng.
Chẳng mấy chốc Matel đã quay trở lại, với hai xô rỗng. Và khi
tôi vừa tới được bên những khoảnh vườn đầu tiên ngoài rìa thị trấn,
anh ta đã lại vượt qua tôi, như một cơn gió khoác áo thụng mang
nước tới từng căn nhà. Tôi nản lòng đặt xô nước xuống, đứng thở
hồi lâu, lần thứ tư hay thứ năm gì đó. Ánh nắng phản chiếu trên mặt
nước trong xô làm tôi lóa mắt, mặt trời đã lên cao lắm rồi.
Tôi xách xô nước vơ vẩn đi giữa những căn nhà, mùi xúp củ
cải đỏ đã sực nức cả thị trấn. Rồi tôi dừng lại trước căn nhà duy nhất
không thơm mùi xúp, thay vào đó là một chuỗi âm thanh lạch cạch
như tiếng gỗ va quẹt vào nhau, tôi gõ cửa. Tiếng lạch cạch dừng lại,
rồi rất chậm rãi được thay thế bằng tiếng bước chân lệt xệt.
“Matel? Có phải em không? Sớm quá vậy…”.
Đó là một người phụ nữ chừng lớn tuổi hơn Ionah một chút,
với gương mặt gầy gầy xương xẩu và mái tóc cắt ngắn như đàn ông.
Chị mặc một bộ áo dài nâu với quần lụa đen. Nơi chị toát ra vẻ đĩnh
đạc, hiền hòa. Ánh mắt chị lơ lửng đâu đó tầm cổ và ngực tôi. Cánh
mũi chị phập phồng giây lát. Mắt của người phụ nữ này…
“A… Không phải Matel…”.
“Vâng, tôi mang nước tới ạ”, tôi đáp ngượng nghịu.
“À, không cần đâu. Tôi không trồng củ cải”, chị mỉm cười, rồi
chừng như để cho tôi đỡ áy náy, chị đứng lùi lại, hơi nép mình. “Mời
anh vào chơi”.
“Cảm ơn chị”, tôi đáp rồi bước vào nhà.
Căn nhà của người phụ nữ nhìn chung cũng giống như nhà của
Ionah, chỉ khác là có tới hai cái giường ở hai góc phòng và thay vì một
tủ đứng nhỏ thì lại có một khung cửi lớn, đó hẳn là nguồn của những
tiếng lạch cạch tôi đã nghe thấy từ bên ngoài. Bằng những bước chân

- 46 -
Thị trấn mùa đông
chậm nhưng chắc chắn, người phụ nữ lại bên bàn nước, kéo một ghế
ra hiệu mời tôi ngồi rồi mới đi vòng qua ngồi xuống phía đối diện.
Trên bàn là một giỏ bánh mì đen.
“Chào chị”, tôi mở lời khi đã ngồi xuống ghế. “Tôi là Rei…”.
“Tôi biết”, người phụ nữ mỉm cười, rồi nói thêm để giải thích.
“Không mấy người nghĩ tới chuyện đi lấy nước suối. Đó là việc của
Matel, em trai tôi”.
Chỉ người xách nước mới có thể xách nước, đó hẳn là một quy
luật khác nữa của Thị trấn Mùa đông này. Và bằng một cách nào đó,
mọi người dường không có một chút bất ngờ nào với sự xuất hiện
của tôi. Một số người, như người phụ nữ này, còn biết tên tôi.
“Vậy chị là chị gái của cậu Matel?”.
“Anh có thể nói như vậy. À, tên tôi là Hikari”, giọng chị trầm và
vững trãi như giọng đàn ông, còn nụ cười của chị lại rất ấm áp. “Không
mấy khi có khách tới thăm, thế mà nhà lại chẳng có gì tiếp đãi”.
“Không cần đâu ạ”, tôi nói nhanh. “Tôi cũng rất xin lỗi đã làm
phiền chị”.
“Vậy thì, Rei, nói tôi nghe, tại sao anh lại xách nước?”.
Tôi kể ngắn gọn cho Hikari về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của tôi
với Matel ở rìa suối, và rồi tôi đã quyết định giúp anh ta xách nước
như thế nào. Trong khi tôi kể chuyện, ánh mắt mờ đục của chị bình
thản hướng vào tôi, vẻ mặt chị không bộc lộ gì hơn là lòng mong
muốn lắng nghe. Đến mức khi đã kể xong, tôi chợt có một chút ái
ngại vì không có nhiều hơn để mà kể.
“Tôi hiểu rồi”, Hikari nói. “Tôi nghĩ dù không thể nói ra, nhưng
Matel hẳn rất cảm kích với tấm lòng của anh. Nhưng, Rei ạ, tôi nghĩ
anh không nên làm thế nữa. Tất cả mọi người sẽ chỉ nhận nước và trả
bằng củ cải cho chính Matel mà thôi. Không ai có thể làm việc này
tốt như Matel cả…”.
“Quả thật”, tôi đáp, nhớ lại cách anh ta đã vài lần vượt qua tôi

- 47 -
NHẬT PHI

với gấp ba lần lượng nước.


“Không, tôi không nói về sức mạnh thể chất đâu”, Hikari dường
như đọc được suy nghĩ của tôi. “Matel là người xách nước tốt nhất, vì
không ai có thể hiểu và yêu nước như em tôi cả”.
Khi ấy tôi không tài nào hiểu được ý của Hikari. Ngay lúc đó
thì Matel về tới nhà, đặt hai xô thiếc của anh ta xuống bậc cửa, khùng
khục ho. Cánh mũi người chị gái lại phập phồng giây lát.
“Chào Matel”, chị nói mà không quay ra cửa. “Vào nhà nghỉ đi
rồi chị làm bữa trưa nào”.
Nhưng Matel không nhúc nhích một li, thay vào đó, anh ta tiếp
tục ho khùng khục, nghe kỹ giống như một câu hỏi gặng không lời
lặp đi lặp lại. Đó là liên tưởng của riêng tôi, nhưng Hikari lại trả lời.
“Rei xách nước tới cho chị đấy. Nhưng nhà mình không trồng
củ cải…”.
“Hai người có thể giữ lại để nấu ăn mà”, tôi lên tiếng, giọng tôi
giống như đang bào chữa vớt vát vậy. “Hoặc là để uống, nước suối rất
ngọt, phải không…”.
Lần này là một tiếng hắng giọng nghe như một tiếng gầm ngắn,
như dấu chấm đặt sỗ sàng chặn lại mọi ý kiến. Matel cầm hai cái xô
của anh ta đặt vào trong một góc nhà rồi trút từ trong túi áo những
củ cải đỏ hãy còn bám chút đất cát. Anh ta trút hồi lâu, khó mà tưởng
tượng được một túi áo như thế lại chứa được ngần ấy củ cải. Xong
xuôi, Matel quay lại trước xô nước của tôi, nhấc lên và đi thẳng. Tôi
bật dậy, dợm chạy theo anh ta, nhưng Hikari đã nhẹ nhàng ngăn lại.
“Đừng lo”, chị nói trong khi đứng dậy đi về phía bàn bếp. “Chút
nữa nó sẽ mang xô về đây trả lại cho anh”.
“Cậu ấy đi đâu vậy chị?”. Tôi chỉ còn biết hỏi lại, trong vòng một
câu nói của Hikari, em trai chị đã đi được quá xa.
“Mang nước trả lại cho dòng suối”.
Rồi chị bắt đầu lần tay rửa từng củ cải để chuẩn bị nấu xúp.

- 48 -
Thị trấn mùa đông

NGÀY OANH KÍCH

C ó những buổi chiều, đàn chim không bay về Thị trấn Mùa
đông, điều đó có nghĩa hôm đó là ngày oanh kích. Vào
ngày oanh kích, tuyết không rơi.
Ionah, Makoto và tôi, vẫn mau mau chóng chóng hoàn thành
những việc cần phải làm với khoảnh vườn củ cải của mình. Rồi, thay
vì lầy lại với chúng tôi, Makoto lại vội vàng lấy phần củ cải của mình
chạy như bay về nhà.
Chỉ còn lại Ionah và tôi, nàng đóng kín cửa, dặn tôi đừng cố ra
ngoài, cũng đừng mở cửa ra. Rồi nàng bắt đầu rửa và thái củ cải cho
bữa tối. Nàng nấu ăn, tôi ngồi ngắm nàng, ngắm bờ vai nhịp nhàng
những dao động tinh tế, ngắm cái cổ trắng thanh mảnh lộ ra khi
nàng búi tóc lên. Mỗi khi nấu ăn, nàng đều mặc một cái tạp dề kẻ
caro trắng - xanh ra bên ngoài bộ váy áo tím thường ngày, dù rằng
nàng làm khéo tới độ cái tạp dề lúc nào cũng sạch sẽ như mới. Tôi
những muốn nói với nàng gì đó, cho căn phòng bớt tĩnh lặng, nhưng
lại chẳng nghĩ ra gì để nói cả. Chỉ có tiếng nước chảy, tiếng đụng dao
thớt. Giữa khi đang thái củ cải, nàng khẽ xoay mình lại, cho tôi thấy
từ một góc nghiêng nghiêng một bên xương quai xanh của nàng.
Nàng mỉm cười, giọng nàng cứng cỏi.
“Rei, ngồi vững anh nhé!”.
Tôi đoán khi đó đã là cuối chiều, nắng đã sắp tắt hẳn, khi quả
tên lửa đầu tiên chạm đất, tiếng nổ như sấm dậy, mặt đất và cả căn

- 49 -
NHẬT PHI

nhà của chúng tôi rung lên. Rồi liên tiếp là những tiếng nổ, những
chấn động, bóng đèn trên đầu chúng tôi chớp tắt một vài lần. Tôi đã
từng đối diện với những âm thanh này rồi, nhưng không hiểu sao,
lần này, khi cái bóng màu tím thon thon của Ionah như đang rung
lên trước mắt tôi, tôi cảm thấy tất cả những điều này dữ dội hơn gấp
nhiều lần. Nhưng Ionah vẫn đứng thẳng, nàng đã bắc nồi lên bếp, lửa
đã bập bùng, những búi lửa không dao động trong cuộc oanh kích.
Tôi có thể cảm nhận được mơ hồ rằng những quả tên lửa đã
phát nổ từ xa lại gần nhà chúng tôi, rồi lại xa dần, theo hướng ngược
lại. Đợt oanh kích kéo dài đúng bằng thời gian hầm xong một nồi
xúp củ cải đỏ. Sau chuỗi chấn động là hương thơm nồng dậy khắp
căn phòng. Ionah múc xúp ra hai đĩa và đặt xuống bàn.
“Anh đừng lo”, nàng nói khi nhận ra vẻ mặt tôi. “Không ai bị
sao đâu”.
“Làm sao…”.
Tôi dợm hỏi, nhưng rồi dừng lại ngay. Chúng tôi bắt đầu ăn. Tới
đĩa xúp thứ hai, tôi nghĩ rằng mình đã có thể quên được đợt oanh
kích vừa rồi.
Sau khi ăn tối và dọn dẹp xong xuôi, Ionah không lấy khăn ra
đan như mọi ngày mà đơn giản ngồi lên ghế, không làm gì. Có điều
gì trong dáng vẻ của nàng cho tôi biết nàng đang chờ đợi một thứ gì
đó. Tôi chuyển sang ngồi bên cạnh nàng.
“Ionah này…”, tôi nói với nàng, đưa một tay quàng qua vai nàng.
“Em nói em đã chờ đợi sự xuất hiện của tôi, tôi rất cảm kích vì điều
đó. Vậy thì nếu có điều gì tôi có thể làm để giúp em, bất cứ điều gì,
em sẽ cho tôi biết chứ?”.
Bờ vai nàng, trong một ngày không có tuyết rơi và ngay cả khi
đang nghiêng về phía lò sưởi ấm nóng, vẫn cứ lạnh một cách lạ lùng.
Thân mình nàng khẽ lay động, như thể nàng đang không biết có nên

- 50 -
Thị trấn mùa đông
dựa vào tôi hay không. Bàn tay tôi bắt đầu nóng lên, trong khi bờ vai
nàng hãy còn lạnh.
“Rei à”, nàng nói nhẹ nhàng và đặt tay lên tay tôi. “Ở nơi này,
có ai thực sự cần được giúp đâu? Tất cả mọi người đều đang sống tốt
cuộc đời của mình, tất cả mọi người đều hàng ngày làm những việc
cần làm, nhận lại những gì mình xứng đáng. Bom rơi, nhưng không
ai bị thương cả, không có bất cứ thứ gì bị hư hại. Không ai buồn cả.
Không ai cảm thấy mình cần thêm gì cả…”.
“Không, không tốt một chút nào cả, Ionah ơi”, tôi ngắt lời nàng.
“Tất cả mọi người đâu có đang sống, họ đang làm theo những quy
luật. Đúng vậy, chỉ là những quy luật. Tôi…”.
“Anh có biết vì sao đàn chim luôn bay về đây ngủ vào những
ngày không có bom rơi không?”. Nàng điềm tĩnh nói. “Bởi vì nơi đây,
Thị trấn Mùa đông này, chính là nơi yên bình nhất trong hết thảy”.
“Em nói đây là nơi bình yên ư?”. Tôi mạnh bạo kéo nàng lại gần,
xoay nàng nhìn thẳng vào tôi. “Em có bình yên không, Ionah? Vậy
thì tôi ở đây để làm gì? Để làm gì? Em đã mong tôi, có phải như thế
không? Tôi đã phá vỡ sự bình yên của em ư?”.
Nàng không tránh ánh mắt đầy đòi hỏi, thúc ép của tôi. Ánh mắt
nàng dường sâu hun hút, dường vẫn đong đầy ánh trăng. Tôi tưởng
như mình đang đăm đăm nhìn xuống một đáy giếng trong một đêm
trăng rằm, làn nước xa xăm long lanh xao động. Nếu em là đáy giếng
ngập ánh trăng, Ionah ơi, tôi nguyện gieo mình xuống đó…
“Ionah, nói tôi nghe”.
Tôi luồn tay vào làn tóc mát rượi của nàng, dịu dàng cúi mình
về phía nàng. Phải, tôi đang gieo mình vào ánh trăng. Hơi thở của
chúng tôi thoáng chạm vào nhau.
Có tiếng gõ cửa. Chúng tôi giật mình rời nhau, rồi Makoto mở
cửa bước vào phòng. Ionah ngay lập tức đứng dậy khi thấy cô bé.

- 51 -
NHẬT PHI

“Em tới rồi đây”, Makoto cất lời. “Chào Ionah, chào Rei”.
“Chào Makoto”, Ionah đáp mà không quay đầu lại, nàng đang
đi về phía tủ.
“Chào Makoto”, tôi gật đầu.
Tôi nghĩ đã thoáng thấy cô bé nhướn mày khi nhìn vào tôi.
Nhưng rồi Makoto nhanh chóng nhảy chân sáo vào phòng. Cô bé
tháo giày, nhảy lên giường.
“A, em ngóng quá độ”, cô cười, vẻ hào hứng hiện diện trên từng
phân vuông cơ thể cô. “Rei, anh chưa bao giờ nghe radio phải không?”.
“Radio?”.
Tôi còn đang chưa kịp hiểu thì Ionah đã lấy ra từ trong tủ một
vật thể hình khối chữ nhật màu đen cỡ bằng hai lòng bàn tay, với một
thanh kim loại mảnh gắn bên. Tôi nhận ra đó là một máy thu radio.
Nàng hẳn đã lấy nó ra từ bên dưới xấp giấy, nhưng nàng đã mau lẹ
đóng cửa tủ lại rồi.
“Chị nghĩ anh ấy sẽ gặp chuyện gì bên dưới cống ngầm hả
Ionah?”. Makoto liến thoắng, chừng như không thể kìm được nỗi háo
hức. “Chị có nghĩ là một con quái vật chui lên từ dưới bùn không?
Em đoán nó có một cái miệng khổng lồ và một con mắt bé tí treo lơ
lửng như đèn lồng”.
“Chị không thể biết được đâu”, Ionah mỉm cười bao dung, nàng
đã đặt chiếc radio xuống sàn, dựng đứng cần anten lên và bắt đầu
xoay một nút vặn. “Điều gì cũng có thể xảy đến với người hùng trên
đường làm nhiệm vụ, phải không?”.
“Người hùng gì vậy hai người?”. Tôi hỏi, đứng dậy lại ngồi trên
sàn nhà bên cạnh nàng.
“Suỵt”, cả hai người phụ nữ đồng loạt ra hiệu. Thoạt đầu, từ máy
radio chỉ phát ra những âm thanh rè rè nhiễu nhoẹt. Ionah vẫn kiên
nhẫn xoay nút vặn, từng chút từng chút một. Rồi âm nhiễu ban đầu

- 52 -
Thị trấn mùa đông
lắng xuống, nghe loáng thoáng một giọng người nói, một người phụ
nữ. Ionah gật đầu khe khẽ, còn mắt Makoto bắt đầu sáng lên.
“… Ở số trước… Vậy là… Chàng…”.
Nút vặn xoay dưới tay Ionah thêm một cung rất nhỏ nữa, và rồi
chúng tôi bắt đầu nghe rõ giọng người phụ nữ kia, một giọng nói ấm
nhưng đều đều và bàng quan.
“… Chờ đợi chàng dưới cống ngầm? Chúng ta cùng theo dõi
tiếp trong kỳ này…”.
Một vài giây im lặng, như thể người phụ nữ ở đầu bên kia đang
chờ cho chúng tôi lần lượt ngồi xuống xung quanh máy radio. Và
rồi giọng nói lại cất lên, nhưng với một âm sắc khác hẳn, trầm bổng,
ngân nga, kích thích.

- 53 -
NHẬT PHI

TRUYỆN KỂ TRONG NGÀY OANH KÍCH

M ới đầu là đen thẳm… Chàng chớp mắt mấy cái, cố gắng


để mắt mình quen với bóng tối này. Chàng có cảm giác
nếu như không làm như vậy, khả năng nhìn của chàng dưới đường
cống này sẽ mãi phụ thuộc vào ngọn đèn pin, một khung sáng rất
nhỏ nếu so với chiều rộng đường cống. Một chốc, khi đã nhìn rõ hơn
trong bóng tối, chàng nhận ra đường cống ngầm này rất lớn, điểm
cao nhất của mái vòm dễ chừng phải cao gấp ba lần chàng. Lối đi hai
bên đường dẫn nước lại rất hẹp, mỗi bên chỉ vừa đủ cho hai người
tránh nhau. Chàng bật đèn pin, trước nhất soi xuống mặt nước và
mặt nước trả lại chàng một màu lờ nhờ xanh. Đến khi ấy, chàng mới
nghe được thứ mùi cống rãnh đang bủa vây lấy mình. Trên mặt nước
lững lờ trôi đủ thứ rác thải của thành phố bên trên: những mẩu túi
bóng đủ màu, những vỏ hộp giấy, hộp nhôm, một thứ gì đó hẳn đã
từng là một con gia cầm đã sơ chế. Chàng bật cười thành tiếng, vang
vọng trong ống cống vòm, khi thấy nguyên một cái tủ lạnh đang chìm
một nửa dưới làn nước cống. Nếu cố gắng với tay ra, chàng hoàn toàn
có thể chạm tới cái tủ lạnh và thậm chí kéo nó về phía mình. Sau đó
thì chàng có thể mở ra xem bên trong đó có những gì. Nhưng chàng
lắc đầu thật mạnh, đuổi đi hết mọi suy nghĩ không liên quan. Với
chàng lúc này, tất cả chỉ còn là nhiệm vụ. Chàng sẽ bước thêm một
bước gần hơn tới nhiệm vụ vĩ đại của mình, ở phía cuối đường cống
ngầm này. Đi thôi, chàng tự nhủ. Lần tay lên bờ tường, chàng bắt đầu

- 54 -
Thị trấn mùa đông
bước đi, thận trọng giữ cho ánh đèn của mình ở sát mép nước phía
trước chàng vài bước chân. Đường sẽ dài lắm đây, chàng nghĩ, nếu có
ai đó nói chuyện cùng cho bớt cô quạnh. Và thế là tủ lạnh lên tiếng.
“Anh có vẻ vội nhỉ?”. Nó nói, hình như nó đã trôi gần lại với
chàng hơn, ở rất gần mép nước.
“Phải”, chàng đáp. “Tôi có một nhiệm vụ cần phải hoàn thành”.
“Hừm… Nhiệm vụ à?”. Tủ lạnh tỏ vẻ ưu tư. “Có quan trọng lắm
không?”.
“Rất quan trọng. Cực kỳ quan trọng là đằng khác. Nhiệm vụ
của tôi liên quan mật thiết tới sự tồn vong của dân tộc tôi. Nhiệm vụ
là toàn bộ lí do tôi còn tồn tại”.
“Thì ra là vậy”, tủ lạnh gật gù thông cảm. “Này, nói cho anh hay.
Tôi cũng tồn tại vì một nhiệm vụ duy nhất đấy”.
“Thế à?”.
“Này, anh đang tỏ ra thờ ơ đấy”, tủ lạnh trách móc. “Ít nhất thì
anh cũng nên dành ra một giây dừng lại và nhìn thẳng vào mắt kẻ
đang nói chuyện với anh chứ”.
Thật là một cái tủ lạnh phiền phức, chàng nghĩ nhưng vẫn bước
chậm lại, xoay đèn pin về phía nó. Đó là một cái tủ lạnh đời cũ, đoán
chừng chỉ cao tới ngực chàng. Loại này thì chẳng có chức năng nào
khác ngoài giữ lạnh và làm nước đá. Một cái tủ lạnh thụ động, trái
ngược với những gì nó đang tỏ ra lúc này. Những vết ố chảy dài từ
đỉnh xuống tới chân tủ lạnh, nửa vàng nửa đen, như những cái răng
nanh của một con ma cà rồng đã quá già.
“Này, nhưng cậu làm gì có mắt chứ hả?”.
Chàng nói, rồi chuyển ánh đèn về quỹ đạo trước. Tủ lạnh im
lặng, ý chừng hổ thẹn vì vừa yêu cầu một thứ lễ nghĩa vô lí. Cả hai lại
tiếp tục tiến về phía cuối đường cống ngầm, một bước đi, một trôi.
Một tiếng thằn lằn tặc lưỡi chợt vang lên, như thể cũng bất đồng tình

- 55 -
NHẬT PHI

với thái độ của tủ lạnh. Chàng định chuyển qua bắt chuyện với con
thằn lằn, nhưng chàng chẳng biết nó ở đâu, cũng không muốn làm tủ
lạnh xấu hổ thêm. Im lặng một quãng dài, chàng đếm được ba khúc
quanh của đường cống.
“Này, anh kia”, tủ lạnh sau cùng cũng lên tiếng trở lại. “Đúng là
tôi không có mắt thật, nhưng tôi có cảm xúc đấy”.
Chàng ậm ừ.
“Coi nào, tôi sẽ kể anh nghe về nhiệm vụ của tôi, rồi anh sẽ kể
cho tôi nghe về nhiệm vụ của anh nhé?”. Tủ lạnh đề nghị.
Chàng tiếp tục ậm ừ, và chắc hẳn tủ lạnh coi đó là một tín hiệu
đồng thuận. Nó bắt đầu kể.
“Khi được sản xuất ra, tôi là moden mới nhất thời đó. Anh thử
nghĩ coi, một cái tủ lạnh gọn gàng nhường ấy, tinh tế nhường ấy, cực
kỳ ít tốn điện và chạy đặc biệt êm. Trong đêm, tiếng chúng tôi phát ra
không lớn hơn tiếng thở của một con mèo đang ngủ.
“Tôi được một gia đình giàu có sắm về. Tôi đoán chắc thế,
căn cứ vào những thứ họ nhồi vào tôi. Cá hồi, sò huyết, anh có biết
không? Nhưng tôi tin họ không phải là một gia đình giàu từ truyền
thống, đám trọc phú ấy. Tháng nào họ cũng tống vào tôi ít nhất là
một con gà. Tôi ghét bọn gà. Chúng để lại một thứ mùi rất khó chịu.
Đến những dịp lễ năm mới thì còn kinh khủng hơn nữa. Anh biết
sao không? Ba con gà. Cùng. Một. Lúc. Tôi muốn nổ tung lên được.
“Nhưng đỉnh điểm của sự bất mãn họ gieo cho tôi ấy là sau
ngày sinh nhật thằng con trai ngu ngốc của họ. Ốc nhồi, xúp gà, nem
rán… và cả bánh gato. Anh hiểu không? Bánh gato cùng với tất cả
những thứ kia. Ôi, những kẻ huỷ diệt tủ lạnh…”.
Dường như tủ lạnh đã chất chứa vào cái thân mình đã rỗng
không của nó quá nhiều bất mãn trong suốt một thời gian dài, và
đây là lúc nó bung ra tất cả. Chàng kiên nhẫn lắng nghe nó, như một
nghĩa cử với một người dưng.

- 56 -
Thị trấn mùa đông
“Nếu như tôi có chân, à ừ thì tôi có chân thật đấy, nhưng mà tôi
đâu có chạy được bằng những cái chân ngắn ngủn đó đâu, thì tôi sẽ
chạy khỏi cái nhà đó ngay tức khắc. Có rất nhiều người cần và biết
trân trọng tủ lạnh hơn đang ở ngoài kia, tôi tin thế.
“Nhưng rồi thì tôi cũng chẳng cần phải chạy đi đâu cả. Họ đã
ném tôi xuống dưới này, vì một lí do rất vớ vẩn, anh không tưởng
tượng nổi đâu. Anh đoán thử xem?”.
“Cậu thất bại trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình hả?”.
Chàng đoán đại.
“Sai rồi”, tủ lạnh đắc chí. “Quá sai là đằng khác! Nói thế chứng
tỏ anh chẳng hiểu chút nào về nhiệm vụ của tủ lạnh cả. Tủ lạnh chúng
tôi được sinh ra với nhiệm vụ bảo quản thực phẩm và làm đông nước
thành nước đá. Chứ không phải là chiếu sáng, hiểu chưa?”.
“Tôi hiểu”, chàng vẫn kiên nhẫn. “Nhưng chiếu sáng thì liên
quan gì ở đây?”.
“À đấy, tôi chưa kể điều quan trọng nhất, như thế anh sẽ không
thấy được rõ tầm quan trọng của vấn đề. Trong chúng tôi có một
bóng đèn, anh biết chứ? Và bóng đèn sẽ chỉ sáng khi người ta mở cửa
tủ ra. Đó là cả một mệnh đề triết học đấy. Chúng tôi sẽ cho người ta
thấy rõ bên trong mình, miễn là người ta biết đường tới và mở lòng
chúng tôi ra”.
“Nhưng bọn trẻ con thì không được nhạy cảm như thế. Chúng
sẽ tìm cách nhìn thấy rõ khoảnh khắc bóng đèn phụt tắt. Chúng sẽ
mở chúng tôi ra, chẳng để cho vào hay lấy gì ra cả, chỉ để đóng lại thật
chậm, để nhìn thấy đèn tắt. Và sau hàng ngàn lần chịu đựng cái trò
thí nghiệm đó thì bóng đèn trong tôi bị cháy, thật là tất yếu”.
“Và thế là tôi, một cái tủ lạnh hoàn toàn khỏe mạnh và mẫn
cán, đã bị hỏng bóng đèn. Tôi vẫn thực hiện rất tốt nhiệm vụ của
mình. Cho đến một đêm, cũng chính thằng con trai của nhà đó mò

- 57 -
NHẬT PHI

xuống chỗ tôi để tìm đồ ăn thừa. Tôi nghĩ nó định vọc nồi sườn hầm.
Thằng bé ngốc nghếch không nghĩ tới chuyện bật đèn bếp, nó cứ thế
mở tôi ra, khua khoắng để tìm thứ nó cần. Nó đã phải chịu quả báo
vào đêm đó. Tay nó quờ trúng một cái đĩa, làm cái đĩa rơi xuống đất
vỡ tan. Thằng bé hoảng loạn tìm đường chạy đi và giẫm vào vài mảnh
đĩa vỡ. Tôi phải nói rằng dù cho đã phải chịu đựng sự hành hạ của
nó và gia đình nó trong nhiều năm, tôi vẫn cứ cảm thấy hết sức buồn
lòng khi nghe tiếng khóc váng của nó.
“Chuyện sau đó thì anh cũng đoán được. Thằng bé được bố mẹ
nó đưa đi chích ngừa và tôi thì bị quy trách nhiệm cho thương tích
cỏn con của nó. Tôi bị mang lên xe rác và tống xuống đây. Tôi, một
cái tủ lạnh, đã bị vứt đi vì không còn có thể chiếu sáng”.
Chàng nín cười, chàng không muốn làm cái tủ lạnh bị tổn
thương thêm. Chàng cố nặn ra một tiếng thở dài ra chiều cảm thông
với nó. Tủ lạnh nói được hết tâm tư bấy lâu, cũng bắt đầu tỏ vẻ dễ
chịu hơn.
“Thế còn anh?”. Nó dịu giọng. “Nhiệm vụ của anh là gì?”.
“Bạn thân mến ơi”, chàng nói, ánh đèn pin của chàng rời khỏi
mép nước, trượt lên một bức tường ngăn trước mặt. Chàng khua đèn
một hồi, nhận ra chàng đã tới được đoạn cuối của đường cống ngầm.
Lối lên nằm ở phía bên kia dòng nước cống.
“Tôi rất muốn ở lại để kể cho cậu nghe thêm về nhiệm vụ của
tôi”, chàng rọi đèn về phía một loạt thang sắt ở bờ bên kia. “Nhưng
tôi phải trở lên mặt đất rồi. Tôi phải tiếp tục nhiệm vụ của mình. Cậu
đưa tôi sang bờ bên kia được không?”.
“Bằng cách nào chứ?”. Tủ lạnh dỗi dằn. “Tôi là tủ lạnh, không
phải là xuồng. Sao anh không tự bơi đi?”.
“Ồ, tôi muốn lắm chứ! Nhưng tôi cần giữ cho tất cả đồ đạc của
mình được khô ráo. Điều đó cần thiết cho nhiệm vụ”.

- 58 -
Thị trấn mùa đông
“Và anh thậm chí còn không thèm cho tôi biết nhiệm vụ đó
là gì…”.
“Thôi nào”, chàng cười. “Tôi sẽ kể cho cậu nghe trên đường về,
được chứ?”.
Tủ lạnh buông một hơi thở dài rồi trôi lại sát bên mép nước để
chàng leo lên nó.
“Cảm ơn nhiều, bạn tủ lạnh thân mến”, chàng nói khi đã sang
được tới bờ bên kia, bắt đầu đu mình lên thang sắt.
“Nhớ là phải trở lại đấy”, tủ lạnh gọi với theo. “Tất cả những
người đi làm nhiệm vụ trước anh chưa ai kể cho tôi nghe về nhiệm
vụ của họ cả…”.
Chàng dừng lại ở bậc thang thứ hai, thắc thỏm nhìn lại tủ lạnh.
Giọng nó sâu hoắm.
“Vì không một ai quay trở lại cả…”.
Rồi nó trôi ngược về phía sau, không nói thêm một lời.

- 59 -
NHẬT PHI

VẪN NGÀY OANH KÍCH ĐÓ

“T ruyện kể kỳ này đến đây là kết thúc. Hẹn gặp lại quý vị
và các bạn trong kỳ sau”.
Giọng người phụ nữ kể chuyện thoắt trở lại với vẻ đều đều
không âm điệu. Hai người phụ nữ ở cạnh tôi cũng đồng thời hắt ra
một hơi thở chừng như họ đã nén lại trong suốt thời gian nghe kể
chuyện. Từ máy radio chỉ còn phát ra những tiếng nhiễu vo vo. Ionah
tắt radio và lẹ làng cất nó trở vào trong tủ, không thừa một động tác
nào. Makoto cũng đứng dậy vươn vai, gương mặt cô bé tỏ ra cực kỳ
mãn nguyện.
“Tủ lạnh dễ thương quá, phải không anh chị?”. Makoto hỏi.
“Nó nói hơi nhiều”, Ionah mỉm cười đáp. “Nhưng chị thích
cách nó đặt vấn đề. Một cái tủ lạnh có duyên kể chuyện”.
“Tiếc là ở đây mình chẳng có cái tủ lạnh nào nhỉ?”. Makoto tỏ
ra tiếc nuối. “Nếu em có một cái, em sẽ không bao giờ vứt nó đi, dù
cho nó bị hỏng bóng đèn hay hỏng cả bộ phận làm lạnh đi nữa. Em
sẽ giữ nó lại và bắt nó kể chuyện cho em nghe.
“Còn Rei, anh nghĩ sao?”. Cô bé quay sang tôi. “Đây là lần đầu
tiên anh nghe truyện phải không?”.
“Ừ, lần đầu tiên. Nhưng nhiệm vụ của nhân vật chính là gì
vậy?”.
“Đó là điều tất cả chúng ta đều muốn biết”, Ionah đáp. “Từ lần

- 60 -
Thị trấn mùa đông
đầu em nghe truyện thì anh ấy đã trên đường làm nhiệm vụ rồi. Cho
đến tận kì này, em vẫn chưa được nghe về nhiệm vụ ấy”.
“Chỉ biết là nó rất quan trọng, rất rất quan trọng”, Makoto
bổ sung.
Người đó có một nhiệm vụ, tôi nghĩ khi nhìn đăm đăm vào ánh
lửa lò sưởi đang nhảy múa, liệu tôi có tới Thị trấn Mùa đông này với
một nhiệm vụ nào đó không?
“Chị có nhớ tủ lạnh nói về mấy món ăn không Ionah? Cá hồi,
sò huyết, sườn hầm, rồi cả bánh gato nữa. Chúng mình chỉ có củ cải
đỏ và bánh mì đen…”.
Không ai trả lời cô bé. Không phải vì quên.
Chỉ đến khi đóng cửa tiễn Makoto trở vào trong màn đêm của
thị trấn, Ionah mới rầu rầu nói, khi mà cô bé đã không nghe thấy
nàng nói được nữa.
“Makoto à, không được quên! Đây là Thị trấn Mùa đông”.

- 61 -
NHẬT PHI

KỂ TIẾP CÂU CHUYỆN CỦA MAKOTO.

Ở Thị trấn Mùa đông, Makoto hình như là người duy nhất
cất tiếng hát. Cô bé nói đó là bài hát ru mà ngày xưa mẹ
cô đã dùng để đưa cô vào giấc. Một giai điệu tươi vui, khinh khoái kết
hợp với ca từ có phần lạ lùng.
“Không có đâu em này
Không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ
Đâu có cái chết sau cùng
Tự mình biết riêng mình
Và ta biết riêng ta…”
“Bài hát hay quá”, tôi nhận xét.
“Em biết mà”, Makoto cười tươi. “Thế còn anh, Rei, anh có
thuộc bài hát nào không?”.
“À, trên đường đến đây, tôi có được nghe một bài hát…”.
Tôi nhắm mắt, cố gắng nhớ lại giai điệu của gió trên đỉnh núi
tuyết, giữa hai cây dương. Nhưng tất cả những gì vang lên trong đầu
tôi chỉ là tiếng kêu thảng thốt của con quạ gáy xám. Tôi thử âm ử một
vài nốt, rồi bỏ cuộc vì chẳng ra đâu vào đâu cả. Tôi lắc đầu.
“Không, tôi không nhớ ra được. Thế coi như là tôi chẳng biết
bài hát nào cả”.
“Thế thì đáng tiếc thật”.
“Thế ở đây còn ai khác ngoài em thuộc bài hát nào không?”.

- 62 -
Thị trấn mùa đông
“Em không biết nữa”, Makoto đảo mắt vòng quanh. “Em chưa
thấy Ionah hát bao giờ. Nhưng chắc là tụi trẻ con vẫn phải được nghe
hát ru chứ nhỉ? Không được nghe hát ru thì làm sao mà ngủ được?”.
Chúng tôi đang trên đường đi lấy củi ở nhà Nicholas. Nicholas
con và một vài người thanh niên trạc tuổi anh là những người cung
cấp củi cho cả thị trấn. Họ xoay trần, ai nấy đều có làn da rám nâu,
miệt mài bổ củi nơi sân sau lò bánh. Sau lưng họ là cả một kho đầy
những khúc cây không rõ lấy từ đâu.
Makoto trao đổi với mấy người thanh niên vài điều gì đó, họ
nhìn về phía tôi trong một giây nhưng không có vẻ gì ác ý, rồi cô quay
lại, vung vẩy bó củi khô trên tay. Khi tôi ngỏ ý muốn xách củi giúp
cô, Makoto nhìn tôi thoáng nghi ngại. Không được chuẩn bị trước,
tôi gần như bị bó củi tưởng chừng rất nhẹ ấy kéo sụm cả lưng xuống.
Makoto có vẻ đang cố nín cười.
“Em có thể bước đi thoải mái với một thứ như thế này trên tay
sao hả Makoto?”.
“Anh chưa quen thôi”, cô bé mỉm cười thấu hiểu. “Em nghĩ thế.
Đây, mình sẽ làm thế này…”.
Makoto cúi xuống, chia bó củi ra làm hai phần không đều,
buộc lại cẩn thận rồi đưa cho tôi phần nhỏ hơn. Chúng tôi tiếp tục
đi, chầm chậm.
“Rei này”, Makoto đột ngột nói. “Em nghĩ là họ có một âm
mưu…”.
“Ai cơ?”.
“Đám người xám ấy mà”.
“Là những người mặc vest xám thường tới làm việc với mẹ em
phải không?”.
Makoto gật đầu mạnh bạo.
“Em tin chắc rằng suốt thời gian đó họ đang tiến hành một âm
mưu chia rẽ mẹ và em”.

- 63 -
NHẬT PHI

“Sao em lại nghĩ vậy?”.


Makoto lắc đầu nhè nhẹ, cái lắc đầu dường khiến cho cô có vẻ
quá chiêm nghiệm so với vẻ ngoài. Bó củi dưới tay cô đung đưa, khe
khẽ cạ vào cặp đầu gối, nhưng cô bé tỏ vẻ không để tâm. Nắng cao,
những con đường đã vắng.
“Luôn luôn có những kẻ như thế, anh không nghĩ vậy sao?
Những kẻ sẽ không thể yên lòng khi những người khác hạnh phúc,
những kẻ luôn tìm cách để phá hỏng hạnh phúc của những người
khác, những kẻ lấy chia lìa, khổ đau làm khoái cảm cho mình”.
Tôi không biết nên nói gì. Vẻ hằn học không thể tưởng tượng
nổi có thể hiện hữu nơi cô bé Makoto lại đang tràn ra bầu không khí
xung quanh theo từng lời cô nói. Bó củi phần tôi dường đang nặng
thêm lên.
“Ở đâu cũng có những kẻ như vậy…”. Ba bước chân im lặng,
rồi cô bé nói thêm. “Có lẽ ở Thị trấn Mùa đông này thì không. Đây là
chốn yên bình…”.
“Nhưng ở nơi em từng sống cùng mẹ thì có. Có rất nhiều, em
tin thế. Và họ hoạt động có tổ chức hẳn hoi. Đôi khi em có cảm giác
xung quanh đâu đâu cũng là gián điệp của đám người xám. Chúng
theo dõi mẹ và em mọi lúc, trên đường đi học, khi mẹ và em đi dạo,
khi mẹ đưa em đi mua quần áo mới… Thành phố đó đầy rẫy những
tên gián điệp, em dám chắc với anh như vậy”.
Tôi bất giác nhìn quanh, hồ như muốn tìm kiếm một vài cái
bóng thập thò sau những góc nhà. Nhưng không có ai ngoài một vài
người đang hối hả đi về nhà với giỏ củ cải đỏ. Phải rồi, tôi nhớ ra,
không có người xám ở Thị trấn Mùa đông này.
“Trong nhiều năm, mẹ và em đã có thể chống chọi được qua
hết những thủ đoạn của bọn người xám. Luôn luôn là vậy, mẹ em
sẽ thẫn thờ một chốc, rồi mẹ sẽ tỉnh lại và ôm em vào lòng. Nhưng

- 64 -
Thị trấn mùa đông
mọi chuyện đã bắt đầu thay đổi trong năm cuối cùng em còn ở với
mẹ. Em đoán chắc đám người xám đã thay đổi thủ đoạn. Thời gian
mẹ em ở trong phòng với một tên người xám ngày càng dài ra. Ảnh
hưởng của những buổi đó cũng ngày một tăng lên. Có những ngày
mẹ em cứ thế đứng lên nấu cơm mà không ôm em, có những khi ánh
mắt mẹ lướt qua em như thể em không có ở đó. Ngày càng nhiều
hơn. Và lại có những phút mẹ em trở thành một cái bóng mờ mờ, thế
là em sẽ chớp mắt, rồi dụi mắt nhiều lần để thấy mẹ em rõ ràng như
bình thường. Em không thể hiểu được đám người xám đã làm trò gì
với mẹ em nữa…”.
Khi kể những điều này, những bước chân của Makoto chợt trở
nên vội vã, cô bé đi vượt lên trước tôi, thả lại phía sau câu chuyện như
một làn khói đen. Đôi bờ vai cô bé run lên, bó củi của cô đu đưa như
một con lắc đồng hồ. Tích tắc. Tích tắc.
“Em không bao giờ quên ngày đó. Ngày cuối cùng em còn có
mẹ bên mình, ngày cuối cùng em còn ở lại căn nhà đó. Lần đầu tiên
sau ngần ấy năm, có tới hai gã người xám tới nhà em. Gã đầu tiên
cũng như mọi khi, dẫn mẹ em vào phòng và làm gì đó. Mẹ em ra khỏi
phòng, tiễn hắn ra cửa rồi quay lại. Mẹ em nhìn quanh phòng, khi em
đang ngồi trên ghế, mẹ nhìn quanh, từ bên này sang bên kia, cứ như
thế rất lâu, như là đang tìm kiếm cái gì. Rồi mẹ gọi tên em, giọng mẹ
khác lắm, không giống như đang gọi đâu, mà giống như đang nhắc
lại, ôn lại một cái tên ấy. Em thưa, nhưng mẹ không đáp. Lúc đó thì
gã người xám thứ hai tới…”.
Đã không còn ai đi trên đường. Chúng tôi có vẻ như đang về
muộn mất rồi. Ionah đang chờ. Makoto hẳn cũng biết vậy, nhưng
những bước chân của cô bé lại trở nên cứng ngắc, giật cục, như thể
những ký ức kia đã lấy đi hết năng lượng nơi cô. Makoto ngoái lại
phía tôi, nhưng tôi có thể thấy cô bé đang không nhìn tôi. Có khi nào

- 65 -
NHẬT PHI

cô bé đang thấy tôi trong lốt một kẻ mặc vest xám với gương mặt đen
sì như một cái bóng.
“Rei này, anh có tin được không?”. Rất nhanh, cô bé quay trở lại
và đi tiếp. “Mẹ em đã ôm hắn, ôm một gã người xám ấy. Mẹ khóc, và
gã người xám vỗ về mẹ. Em lại gần, cố gắng ôm mẹ nhưng lại không
thể. Xung quanh gã người xám và mẹ như là có một trường lực ngăn
không cho em chạm vào. Rồi hắn ngước lên, nhìn thẳng vào em bằng
ánh mắt xám xịt. Em đã khuỵu xuống.
“Đó là bố em. Em chưa từng gặp ông ta, nhưng em chắc chắn là
vậy. Bố em là một gã người xám. Ông ta là kẻ đứng sau mọi chuyện.
Đúng vậy. Chắc chắn là vậy”.
Tích tắc. Tích tắc. Bó củi - con lắc vẫn đều đặn đánh nhịp.
“Người xám dẫn mẹ em lên xe, em đi theo họ, ngồi lên ghế sau.
Mắt em không còn nhìn thấy gì trên đường nữa, tai em không còn
nghe thấy những điều họ nói với nhau nữa. Ba người nhà em tới một
nhà hàng. Lạ làm sao, ký ức của em về nơi đó lại rất rõ ràng. Một nhà
hàng rất lớn, rất tráng lệ trong một tòa nhà màu hồng nhạt. Trên trần
buông xuống những chùm đèn khổng lồ, cả phòng tiệc vàng rực,
nhưng đó không phải là màu vàng ấm áp, em chỉ thấy lạ lẫm và sợ
hãi. Và ná thở. Xung quanh có rất nhiều người, không ít người trong
số đó đang mặc vest xám. Một bữa tiệc của những người xám…”
“Người phục vụ đeo nơ đen dẫn ba người nhà em vào bàn, kéo
ghế cho mẹ và người xám nhưng không kéo ghế cho em. Trên bàn
có một bếp lửa, họ đặt lên đó một cái nồi hai ngăn, một ngăn nước
trong, một ngăn nước đỏ, rồi họ rút đi. Một đầu phòng đặt một dãy
bàn dài bày la liệt các thức ăn màu mè. Trong khi họ rót rượu cho bố
mẹ em thì em đi vơ vẩn ra đó xem. Em không biết kể sao cho rõ ràng,
nhưng khi em quay lại bàn thì mẹ em và người xám đã biến mất rồi.
“Em đã rất hoảng sợ. Em choáng váng, ánh đèn vàng rực làm

- 66 -
Thị trấn mùa đông
em lóa mắt. Em chạy quanh phòng tìm mẹ, nhưng đâu đâu cũng chỉ
là những gã người xám. Chúng nhìn theo em, hình như chúng đang
cười nhạo. Em lao ra ngoài tòa nhà. Bóng một chiếc xe hơi lao vụt
qua em, suýt chút nữa tông trúng em. Đó chắc chắn là xe của mẹ. Em
đuổi theo, nhưng nó quá nhanh. Em cứ thế chạy và chạy, không có
một ai trên đường cả, em càng đuổi thì bóng xe càng xa, con đường
càng tối. Và em cứ thế chạy”.
Makoto thở hắt ra một hơi, rùng mình một cái. Nhà của Ionah
đã ở trước mắt. Nàng đang đứng nơi thềm cửa ngóng chúng tôi.
“Sau đó thì anh biết rồi đấy, em thấy mình chạy trong đường
hầm và tới đây. Tới với chị của em”.
Ionah nhận ra chúng tôi, nàng vẫy tay. Makoto thả rơi bó củi,
chạy như bay vào vòng tay đang dang rộng của nàng. Tôi tự hỏi phải
chăng cô bé cũng đã lao vào vòng tay của Ionah như thế khi lần đầu
tới Thị trấn Mùa đông này. Tôi nhặt bó củi của Makoto, giờ thì cả hai
bó củi đều thật nhẹ, và bước tới bên nàng.
“Ionah ơi, em muốn gặp mẹ…”.
Nàng lại dịu dàng vỗ về cô bé. Còn tôi, lần này tôi không biết
phải nói gì cả.

- 67 -
NHẬT PHI

TRĂNG

C ó những lúc, trong khi đang cùng với Ionah đi lấy bánh mì
từ lò bánh hay cùng với Makoto đi lấy củi, hay cùng với cả
hai người phụ nữ đi thu hoạch củ cải, tôi chợt có cảm giác như mình
đang sống ở Thị trấn Mùa đông này hàng thế kỷ rồi. Đã có biết bao
nhiêu ngày hôm qua trôi qua rồi, tôi cũng không biết nữa. Tôi không
còn có thể đếm được thời gian ở nơi này. Tôi tưởng như mình đã bắt
đầu quen với tất cả những lề thói, những quy luật và chấp nhận hết
cả những tiền định. Những câu hỏi dường như không còn đòi hỏi
một lời đáp nữa.
“Vậy là anh em Quy Ròn đã cứu được thủ lĩnh nghĩa quân ra
khỏi ngục tối, kẻ phản bội đã phải đền tội, và giờ họ trở lại căn cứ bí
mật trong thung lũng Bông hồng dại. Tất cả mọi người đều chuẩn bị
cho trận chiến cuối cùng…”.
Bà Astrid ngước lên nhìn tôi, đám trẻ xung quanh vẫn hồi hộp
chờ đợi bà kể tiếp câu chuyện hệt như biết bao nhiêu ngày trước. Ánh
mắt bà hấp háy bình thản, nhưng tôi nghĩ mình nên đi. Tôi nhẩm
trong đầu chính xác những gì bà sẽ kể ngay sau đó.
“Trước ngày trận chiến nổ ra, bão đã nổi trên thung lũng Bông
hồng dại…”
“Xúp hôm nay ngon quá”, tôi thốt lên.
“Oong nguyệt”, Makoto hưởng ứng, miệng cô bé đang phồng
lên đầy một miếng bánh mì bự.

- 68 -
Thị trấn mùa đông
Ionah mỉm cười. Tôi dường đã quên mất tất cả mọi điều nào
khác nơi nàng ngoài sự dịu dàng ấm áp này.
“Oa, tuyết rơi rồi”, Makoto vươn vai nơi ngưỡng cửa, hơi lạnh
tràn vào phòng không khách khí. “Em về đây! Chào anh chị!”.
Tôi và Ionah đứng nán lại bên cửa tiễn cô bé. Khi hơi thở đã
thành sương mờ của tôi tan đi hết, tôi quay trở vào phòng, thả mình
xuống giường. Nhưng Ionah hãy còn đứng đó. Mặt nàng hơi chếch
lên trên, hứng lấy ánh sáng bàng bạc nào. Là tôi tưởng tượng ra hay
dưới ánh sáng ấy, gương mặt nàng chợt nhợt nhạt và ánh mắt nàng
chợt lay động long lanh? Môi nàng hé mở, run rẩy.
“Trăng…”.
Phải rồi, là ánh trăng. Tôi đứng dậy, bước lại bên nàng. Xuyên
qua những dải tuyết trắng, chúng tôi thấy một mảnh trăng khuyết
nửa trên nền trời xanh mênh mang. Ánh trăng sáng da diết như ánh
mắt nàng. Và vì thế nên nó thật đẹp. Tôi nói với nàng điều đó.
“Trăng đẹp quá, phải không em?”.
Tôi vòng tay qua lưng nàng, luồn qua mái tóc dài để chạm lên
vai nàng. Những dải tóc tung mình dao động, mơn man cánh tay tôi:
Nàng đang lắc đầu.
“Không phải là trăng này”, nàng đáp rồi lùi lại đóng cửa, lách
mình khỏi cánh tay tôi.
“Em không thể chịu được ánh trăng này”, nàng nói khi đã ngồi
xuống ghế, bên lò sưởi, với cặp kim đan trên tay. “Luôn luôn là vầng
trăng khuyết nửa. Em luôn biết. Em căm ghét điều đó…”.
“Cuối cùng cũng có một điều ở Thị trấn Mùa đông này làm em
không vừa lòng, phải không?”.
Tôi ngồi xuống bên nàng, cố gắng giấu đi một chút niềm vui
sướng trong giọng mình. Chỉ bởi vì nàng đã nói cho tôi một điều
trong lòng nàng. Ionah không đáp, nàng cúi mặt đan. Nàng đã đan

- 69 -
NHẬT PHI

trong bao lâu rồi? Chiếc khăn dài ra thêm một chút mỗi đêm, nhưng
sao mãi vẫn chưa hoàn thành? Phải rồi, tất cả mới chỉ xảy ra ngày
hôm qua mà thôi…
“Vào đêm trăng tròn, anh ấy sẽ đến…”.
“Ai sẽ đến kia?”. Tôi nói, bàn tay tôi đang len lén tìm vai nàng
bất giác rơi tõm xuống.
“Người em yêu”, nàng lặng lẽ đáp. “Ngày trước…”.
“Ra vậy”, tôi gượng gạo, đến lượt cổ họng tôi đâm ra khô khốc.
“Đó là người… thế nào?”.
Nàng lại lắc đầu, đầu mũi kim trên tay nàng run run, khó nhọc
lần tìm một điểm đặt để luồn qua tấm mạng len. Thấy vậy, tôi xoay
người về phía nàng, đặt bàn tay còn lại lên bàn tay nàng. Bàn tay mới
rơi xuống hãy còn chưa tìm lại được sức lực. Nếu như bàn tay tôi
không thể giúp nàng tĩnh tâm lại, hãy để tôi được run lên cùng một
nhịp với nàng. Tôi muốn nghe câu chuyện của nàng, dù rằng không
thực sự chắc mình có muốn biết những điều đó hay không. Về kẻ
nàng đã từng yêu.
“Anh ấy không phải là người ở đây”, nàng đặt kim đan xuống
bàn. “Anh ấy đến từ đâu, em cũng không biết nữa…”.
“Em và anh ấy luôn gặp nhau vào những đêm trăng tròn, và
luôn tại cùng một nơi. Em không nhớ nơi ấy như thế nào nữa…”.
Nàng đặt bàn tay còn lại lên tay tôi, ấp bàn tay tôi giữa hai bàn
tay đã không còn run rẩy của nàng. Ánh mắt nàng lại ngập đầy ánh
trăng, nàng dường như đang bình ổn, mơ màng, nhưng ánh trăng
này tôi biết không phải dành cho mình.
“Có một dòng suối, điều ấy thì em chắc chắn. Dòng suối hát lên
những giai điệu ngợi ca tình yêu, dòng suối lơ đãng, dòng suối khúc
khích cười mỗi khi em đến. Sau lưng em là cánh rừng thưa, trước
mắt em là đồng cỏ xanh. Và trăng tròn, và tiếng chim hờn ghen…”.

- 70 -
Thị trấn mùa đông
Giọng nàng sao âu yếm quá thế? Gương mặt nàng sao rạng
ngời thế? Đến lượt tay tôi run run, và nàng ấp chặt tay tôi hơn nữa.
“Anh ấy từ đâu tới, em cũng không biết nữa. Em từ đâu tới, em
cũng đã quên rồi. Ngày em và anh ấy gặp nhau lần đầu tiên, văng
vẳng đâu đó có tiếng tiêu ai da diết lắm. Anh ấy nói anh ấy đi lạc tới
cõi này. Chúng em xưng tên và làm quen với nhau”.
Tôi rút tay mình ra khỏi tay nàng, hơi mạnh bạo hơn mức cần
thiết. Tôi làm bộ đưa tay nới nút thắt cà vạt để che đậy cảm xúc của
mình. Cái cách nàng ghép hai con người vào trong cùng một đại từ…
Ionah không thể nào không nhận ra thái độ của tôi, mọi cách
che đậy chỉ là thừa thãi. Một cái gì như một ánh sao băng lướt rất
nhanh qua ánh trăng mắt nàng. Khóe môi nàng khẽ nhích. Và nàng
kể tiếp.
“Em không nhớ được tên anh ấy. Biết sao được? Em còn không
nhớ được cả tên mình. Nhưng em lại nhớ được hết cả những bài thơ
anh ấy làm tặng em. Lúc nào cũng vậy, luôn là một bài thơ cho mỗi
lần em và anh ấy gặp nhau. Suối vẫn róc rách chảy. Tiếng tiêu vẫn
ngân. Chim vẫn hoan ca…”.
Những bài thơ. Thì ra là vậy. Và nàng đã chép lại những bài thơ
đó, giữ chúng trong tủ gỗ ngay trong căn phòng này. Một ngăn tủ ký
ức của riêng nàng. Nàng Trăng…
“Tất cả những gì em nhớ được khi tới Thị trấn Mùa đông này
là những cuộc hẹn với anh ấy. Là ánh trăng tròn và những bài thơ…”.

Tôi quay mặt vào phía trong tường đêm ấy, thao thức nghe củi
cháy tí tách trong lò sưởi. Cơn buồn ngủ kéo đến như mọi ngày,
nhưng những nhộn nhạo trong lòng giữ tôi trằn trọc. Ionah vẫn còn
đan, dù nàng biết tấm khăn sẽ không thể hoàn thành. Một ngày hôm
qua khác nữa đang tới. Tôi nhận ra mình đang bất giác cắn chặt môi,

- 71 -
NHẬT PHI

hơi thở bung ra qua những kẽ răng trở thành một âm thanh rên rỉ.
Tôi đã không biết gì về nàng. Và tôi sẽ phải biết những điều ấy nếu
muốn nắm lấy nàng.
“Rei này”, Ionah nhè nhẹ tới bên tôi, hình như. “Ở Thị trấn Mùa
đông này, tất cả mọi người đều có những điều để biết, để nhớ và để
quên. Em đã quên và em đã nhớ”.
Bàn tay nàng vuốt nhẹ tóc tôi. Cả thân mình tôi giãn ra.
“Anh có thể sẽ quên những gì em đã nói. Nhưng nếu có điều
gì em muốn anh nhớ, thì đó là cảm giác của em lúc này. Không phải
là ký ức, mà là hiện tại. Hiện tại, anh đang ở đây với em. Đó là điều
quan trọng nhất”.
Nàng chúc tôi ngủ ngon.
Nàng có nằm xuống bên cạnh tôi không?
Điều gì sẽ đưa nàng vào giấc ngủ?
Tôi muốn đáp lại nàng, tôi muốn chúc nàng ngủ ngon. Nhưng
hình như tôi đã ngủ mất rồi…

Tương tư ai thiếu bao nhiêu lệ?


Cứ khóc cho hoàn mộng biệt ly.

- 72 -
Thị trấn mùa đông

BÊN KIA RẶNG NÚI NƠI MẶT TRỜI LẶN XUỐNG

T ôi không còn cố gắng tìm hiểu nội dung những trang giấy
trong ngăn tủ của Ionah nữa. Toàn bộ trong đó là ký ức
của nàng và tôi tôn trọng tuyệt đối mong muốn giữ chúng cho riêng
mình của nàng. Nàng có thể chia sẻ với tôi khi nào nàng muốn, và
tôi cũng biết rằng những ký ức ấy sẽ lại khuấy lên trong tôi những
xúc cảm hư hao. Tôi lặng lẽ dõi theo nàng từ xa, những khi chúng tôi
không ngồi cùng trong một căn phòng, những khi quanh chúng tôi
không có ánh lửa hay mùi xúp củ cải.
Trên đường trở về nhà sau ca làm vườn buổi sáng, nàng thường
vẩn vơ đi ra phía rìa thị trấn, đâu lưng lại với ánh nắng trưa, đăm đăm
nhìn về rặng núi xa xa, nơi đàn chim bay về, nơi mặt trời lặn xuống.
Nàng đứng đó hồi lâu, dáng hình nàng thật nhỏ bé trước rặng núi xa
kia. Mái tóc nàng để thả, che kín tấm lưng, bờ vai nàng, che cả những
nghĩ suy của nàng khỏi tôi. Nàng đang nghĩ gì, đang chờ đợi điều gì?
Còn điều gì sẽ đến từ bên kia rặng núi? Ngoài những quả tên
lửa của ngày oanh kích?
“Cậu có nhiều câu hỏi lắm, phải không Rei?”.
Bà Astrid hỏi. Bà đã đến sau lưng tôi từ lúc nào, khi tôi đang
đứng tại đúng nơi nàng vẫn đứng, mắt tôi tìm kiếm điều nàng vẫn
tìm kiếm, một ngày hôm qua nào khác. Tôi quay lại để thấy người kể
chuyện của Thị trấn Mùa đông đang đứng đó với sự giúp đỡ của một
cây gậy ngắn.

- 73 -
NHẬT PHI

“Vâng, thưa bà”, tôi đáp. “Dẫu sao thì đối với nơi này, con cũng
chỉ là…”.
“Hỏi một câu đi!”. Bà bất ngờ nói như ra lệnh.
“A…”, vô vàn câu hỏi lướt qua đầu tôi, nhưng dường như giọng
nói của bà Astrid lại chỉ lôi ra một điều duy nhất. “Có gì, ở bên kia
rặng núi này vậy hả bà?”.
Bà Astrid gật gù như thể đó đúng là điều bà đã mong đợi tôi
sẽ hỏi. Bà bước lại gần tôi, hướng ánh nhìn ra phía xa xa, qua khỏi
những đỉnh núi. Câu trả lời nghe như một tiếng thì thầm, như một
điều cấm kị.
“Thành phố Thủy tinh…”.
Rồi ngay lập tức bà quay đi.
“Hãy đến tìm tôi vào buổi chiều. Cậu sẽ là người đầu tiên được
nghe truyện kể buổi chiều của bà lão này đấy, Rei ạ”.
Sau bữa trưa, Makoto chỉ đường cho tôi tới nhà bà Astrid. Cô
bé nhìn tôi đầy ấn tượng khi biết tôi là thính giả buổi chiều đầu tiên
của bà. Ionah không tỏ ý phản đối khi tôi nói sẽ không thể làm vườn
cùng nàng vào buổi chiều. Nàng mỉm cười với vẻ bất ngờ của Makoto.
“Nếu có ai đó được nghe thêm câu chuyện gì từ bà Astrid, thì
đó chỉ có thể là Rei của chúng ta thôi”.
Rồi nàng quay sang tôi.
“Rei này, đừng quên những điều em đã luôn dặn anh nhé”.
Tiếng lộc cộc của đôi guốc gỗ vang lên trả lời khi tôi gõ cửa căn
nhà của bà Astrid, rồi người phụ nữ mặc váy xanh trắng xuất hiện
khi cánh cửa mở ra. Cô mỉm cười sơ sịa chào tôi rồi vội vã bỏ đi với
những dụng cụ làm vườn. Tôi còn chưa kịp cất lời đáp lễ với cô.
“Mời vào, Rei, và đóng cửa lại nhé!”.
Căn phòng có phần hơi tối, ngọn đèn duy nhất buông xuống
từ trần nhà hẳn có công suất chỉ bằng một nửa ngọn đèn của chúng

- 74 -
Thị trấn mùa đông
tôi. Chính giữa gian phòng của bà không phải một bộ bàn ghế cao
mà là một chiếc bàn thấp cùng một bộ bốn chiếc ghế bành. Bà Astrid
đang khoan khoái ngả mình trên một trong những chiếc ghế ấy. Trên
bàn trước mặt bà là ba tách uống nước và một ấm trà đang hững hờ
bốc khói. Toàn bộ ấn tượng về gian phòng này là một vẻ cũ kĩ bất cần
nhưng vẫn tỉnh táo và khôn ngoan, như chính con người chủ nhân
của nó vậy. Hoặc giả tôi đã có ấn tượng đó chỉ vì biết đó là căn phòng
của bà Astrid. Tôi chào bà rồi bước vào phòng, khép cửa lại, cảm giác
như mình đã vừa thực hiện một bước đi lùi thời gian, về ngày hôm
qua của những ngày hôm qua vậy.
“Ngồi xuống đi”, bà nói, rồi nhô mình cầm lấy ấm trà rót vào
hai cái tách. “Cậu uống nước nhé?”.
“Vâng, cảm ơn bà”.
Tôi cầm lấy cái tách phần mình và nhấp một ngụm trà theo bà.
Dưới ánh sáng tù mù này, tôi không nhận ra được màu của nước trà,
chỉ biết rằng nước rất ấm, dìu dịu ngọt nhưng lẩn quất một vị gờn
gợn đầy khiêu khích.
“Chỉ là nước đun sôi thôi”, bà bật cười nhẹ. “Cậu có nhận ra
không?”.
Tôi nhìn lại vào tách của mình một lần nữa, hơi nước bốc lên
rất nhẹ, và tôi nghĩ ra.
“Là nước suối phải không ạ?”.
“Tôi thấy là cậu cũng đã thử uống nước suối rồi đấy”, bà gật
đầu. “Thường thì nước suối chỉ dùng để tưới vườn, nhưng tôi thì
được phép uống. Cậu biết vì sao không?”.
Câu trả lời đến hết sức tự nhiên, tôi cũng không hiểu vì sao.
“Vì bà là người kể chuyện”.
Bà lại gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Bà uống một ngụm nước nữa trước
khi ngước lên nhìn tôi chăm chú. Ánh mắt bà có gì đó khiến tôi

- 75 -
NHẬT PHI

cảm thấy ngượng nghịu, như thể tôi đang bị lột trần ra trước mắt bà.
Nhưng tôi chỉ đơn giản nhìn lại bà, mặc cho cơn bồn chồn đang lớn
dần trong mình.
“Ánh mắt cậu đã khác”.
Bà đột ngột nói.
“Khác như thế nào ạ?”.
“Ionah thật là một cô gái đặc biệt, cậu có thấy vậy không?”. Bà
phớt lờ câu hỏi của tôi. “Tôi tin mình không sai khi nói rằng cô ấy là
người đặc biệt nhất trong cả Thị trấn Mùa đông này”.
“Vâng…”, tôi nghĩ mình đang bắt đầu đổ mồ hôi, do hơi ấm của
nước suối đun sôi, do sức nóng của căn phòng đóng kín hay vì lí do
gì đó khác. “Cô ấy là một người tuyệt vời”.
“Ionah là người hiểu rất rõ Thị trấn Mùa đông, Kahn hẳn sẽ gọi
cô ấy là một công dân kiểu mẫu”, bà bật cười như châm biếm. “Hiểu,
và chấp nhận. Nhưng điều đặc biệt nhất, và cũng trớ trêu nhất, chính
là việc cô ấy luôn thu hút những người đặc biệt khác tới bên mình,
những ngoại lệ”.
“Ionah luôn nói với con về những quy luật, những tiền định của
thị trấn. Cô ấy nói đây là nơi bình yên hơn hết thảy”.
“Bình yên, phải…”, bà xoay tròn cái tách của mình trên bàn,
như muốn lựa cách để đặt chính cái từ ấy vào đó. “Không muộn
phiền, không lo âu, không sợ hãi, không khổ đau. Thị trấn Mùa đông
là một nơi như thế, được tạo dựng lên dành riêng cho những con
người tìm đến đây”.
Bà Astrid nhấc tách lên, nhưng thay vì uống thì bà lại úp ngược
tách xuống, nước suối đã đun đổ tung trên mặt bàn. Nước thoáng
chốc đã chảy lan ra phủ kín mặt bàn, biến mặt bàn thành một tấm
gương mờ. Tôi bắt gặp ánh mắt bà qua tấm gương nước, có điều gì
đó đang rực lên trong đó.

- 76 -
Thị trấn mùa đông
“Nhưng cậu thì khác, đúng không Rei?”. Qua tấm gương soi,
ánh mắt bà dường đang len lỏi vào tâm can tôi, sâu hơn rất nhiều
bàn tay của người đàn ông tượng đá đã từng sục sạo. “Cách cậu tới
đây. Cách cậu nhìn và hiểu về nơi này. Cậu không giống như những
người khác”.
“Ơ… Con không chắc”, tôi ngần ngừ, dù tôi biết bà đúng. “Sao
bà… biết ạ?”.
“Vì tôi là người kể chuyện, Rei à”, bàn tay bà bắt đầu chuyển
động mơ hồ, lơ lửng trên mặt bàn, như thể đang chuẩn bị cho một
phép màu. “Để tôi kể cho cậu nghe một câu chuyện…”.
Và phép màu xảy ra thật. Bóng ngọn đèn trần trong màn gương
nước bắt đầu lay động, như bóng trăng vỡ ra với một hòn sỏi ném
xuống mặt nước. Chớp mắt, nơi vừa mới là ánh đèn đã hiện lên
những đường nét nguệch ngoạc như nét vẽ của trẻ con đan vào nhau.
“Dãy núi tuyết ngăn cách Thị trấn Mùa đông…”.
Thị trấn Mùa đông hiện lên trên mặt bàn trong hình dạng ba
mái nhà nhỏ và một khoảnh màu xanh lá với những chấm đỏ và
những chấm trắng nhỏ. Tuyết rơi trên những mái nhà và những
khoảnh vườn.
“… với Thành phố Thủy tinh”.
Phía bên kia rặng núi lấp lánh ba tòa nhà lớn hơn, cao hơn.
Những tòa nhà xây bằng thủy tinh. Đó là một nơi như thế nào?
Những quy luật, tiền định nào tồn tại ở nơi đó? Đó có phải là một
chốn bình yên không? Và hơn hết thảy, đó có phải là nơi mà nàng
đã luôn ngóng về hay không? Nàng đang chờ đợi điều gì từ đó? Rất
nhiều câu hỏi hiện lên trong đầu tôi, nhưng mặt gương nước hãy còn
đang xao động.
“Cuộc chiến đã nổ ra từ bao giờ, không ai còn nhớ được. Không,
không thể gọi đó là một cuộc chiến được, khi mà chỉ có một bên

- 77 -
NHẬT PHI

không ngừng oanh kích và bên kia chỉ đáp trả bằng im lặng. Những
cuộc oanh kích nhắc cho Thị trấn Mùa đông nhớ rằng họ không chỉ
có một mình, rằng có những ngày hôm qua khác với những ngày
hôm qua. Vì sao lại có cuộc chiến, cậu sẽ muốn hỏi thế. Câu trả lời lại
nằm xa nữa, xa khỏi dãy núi tuyết…”.
Bà Astrid mở rộng một cánh tay về phía ấy, xa khỏi dãy núi, qua
cả những mái nhà tuyết rơi. Như thể màu được rải trực tiếp từ bàn
tay bà, nơi sát cạnh bàn phía đó, một khối kiến trúc nguệch ngoạc
duy nhất được thành hình. Một ngọn tháp lờ nhờ trên nền xám đen
với những nét xiên xiên mảnh mảnh cắt qua.
“Tháp cổ, nơi mưa không bao giờ ngừng rơi…”.
Tôi lờ mờ nhận ra ngọn tháp này hẳn nằm sâu trong cánh rừng
bên kia dòng suối. Gần như cùng lúc, tôi hiểu rằng việc lội qua suối
để tới đó cũng đã là một cấm kị ngay tại Thị trấn Mùa đông này rồi.
“Có gì ở Tháp cổ đó hả bà?”. Tôi hỏi, rồi vuột miệng nói thêm.
“Ngoài mưa…”.
“Một điều chúng ta đã từ bỏ, và họ thì đã đánh mất”.
“Đó hẳn phải là một điều quan trọng lắm”, tôi nuốt nước miếng.
“Để họ phải dùng tới những biện pháp như vậy. Nhưng nếu như mọi
người, ý con là chúng ta, đã từ bỏ thứ đó, tại sao không đơn giản để
cho họ lấy nó đi?”.
Thay vì trả lời tôi, bà Astrid chỉ nhướn mày rồi đưa tách nước
lên miệng, nhận ra trong tách đã không còn nước nữa rồi, bà lại tặc
lưỡi đặt xuống. Chuỗi cử chỉ ấy hiện trên một thân hình già nua gây
một cảm giác thật kỳ lạ.
“Vì Tháp cổ, Thành phố Thủy tinh đã không ngừng oanh kích
Thị trấn Mùa đông. Đã từng có thời, thị trấn này đã luôn phải sống
dưới nỗi lo sợ. Đã từng có thời, những ngày oanh kích không trôi qua

- 78 -
Thị trấn mùa đông
đơn giản và thầm lặng như thế này. Bom đã từng rơi trên những mái
nhà, những mảnh vườn. Máu đã từng chảy”.
Giọng bà không khác mấy khi bà kể câu chuyện của anh em
Quy Ròn cho đám trẻ. Và cũng như đám trẻ, trước giọng kể bình
thản, trầm lắng ấy, tôi vẫn cứ bị xung động mãnh liệt. Tôi ná thở,
hình dung một tấm mạng được đan bởi những sợi lo sợ đang phủ lên
những gương mặt an nhiên tôi thấy hàng ngày, hình dung đám trẻ
hau háu nghe truyện lại đang gào khóc giữa tiếng bom rơi, hình dung
những mái nhà thủng lỗ chỗ, những mảnh vườn bị xới tung, củ cải
đỏ nát bét dưới chân người, đầm đìa thứ nước màu hồng nhạt như
máu của đất. Và hơn hết cả, đó là những ngày mà bình yên đã không
mặc định trong tâm trí nàng.
“Trước khi là một người kể chuyện, tôi là bác sĩ duy nhất ở thị
trấn này. So với kể chuyện cho đám trẻ, công việc tôi đã luôn yêu
thích từ trước khi tới đây, làm một bác sĩ cứu thương nặng nề và khó
khăn hơn rất nhiều. Ngay sau khi tiếng bom cuối cùng lắng xuống,
rất nhiều người sẽ vây quanh căn nhà này, bế những người bị thương
trên tay, gào khóc xin tôi hãy ưu tiên cho người thân của họ trước.
Bác sĩ Lindgren, họ gọi tôi như thế, xin hãy cứu anh ấy, không, cô ấy
bị nặng hơn. Những người bị thương nằm la liệt trong căn phòng
này và cả bên ngoài nữa. Tôi khử trùng vết thương, phẫu thuật gắp
ra những mảnh bom găm vào cơ thể họ rồi khâu lại. Những bệnh
nhân chờ tới lượt rên rỉ trong đau đớn, người thân của họ thì lặng
lẽ khóc. Và Kahn không ngừng nhắc rằng tôi cần phải sơ cứu cho
tất cả những người bị thương trước nửa đêm. Những người phụ nữ
gom phần củ cải còn lại nấu những nồi xúp lớn và tới bón cho những
người bị thương”.
Đó là những thời khắc khó khăn, nỗi đau như màn sương dày
len vào khắp nẻo thị trấn. Với mỗi người bị thương kế tiếp, tôi như lại

- 79 -
NHẬT PHI

già đi thêm nhiều tuổi. Tôi cũng kiệt quệ và căng thẳng, nhưng nếu
có ai đó không được phép khóc thì đó chính là tôi mà thôi. Nén lại
nước mắt là điều làm tôi cảm thấy khổ sở nhất. Thế nhưng, trước nửa
đêm, khi mọi người đều đã được sơ cứu xong xuôi và trở về nhà và
tôi lại được ở một mình trong căn phòng này, tôi lại không thể khóc
được nữa. Tôi ăn phần bánh mì và xúp củ cải của mình rồi lên giường
ngủ, gần như không còn nghĩ gì nữa. Thực ra, khi đó tôi lại cảm thấy
nực cười, Rei ạ. Cậu có biết tại sao không?”.
Tôi lắc đầu một cách khó nhọc. Bàn chân bàn tay tôi đang run
lên như một cơn sốt rét, còn các khớp lại đang cứng lại, khô khốc.
“Tôi đã là một bà già từ trước khi tới đây, đã chứng kiến chiến
tranh trên quê cũ của mình, tôi không xa lạ với cái chết, với nỗi đau.
Từ khi tới đây, tôi đã sống qua không biết bao nhiêu cuộc oanh kích
như thế, tôi đã thực hiện chính xác đúng ngần ấy thao tác sau mỗi
đợt bom rơi, máu từ những bệnh nhân của tôi có thể ngập tràn cả
thị trấn này. Ấy vậy mà lần nào cơ thể tôi cũng chực vỡ ra với những
sợ hãi, xót xa, đau đớn, lần nào tâm trí tôi cũng phải ra sức nén tất
cả những cảm xúc đó lại để tôi làm đúng bổn phận của mình. Năm
tháng, máu và nước mắt đã không giúp được cho một bà già như tôi
trở nên đủ tỉnh táo. Và tôi bật cười trong giấc ngủ”.
Tôi ngờ rằng bà đã không thực lòng khi nói điều đó, và nụ cười
hấp háy trên gương mặt bà lúc này hẳn không thể là cái cười trong
những giấc ngủ mệt nhoài ấy.
“Ngày hôm sau, nhịp sống trên Thị trấn Mùa đông trở lại như
bình thường, như cậu vẫn luôn biết. Có thể đâu đó vẫn còn những
ánh mắt thảng thốt, nhưng mọi người đều hiểu tất cả đã là ngày hôm
qua rồi…”.
“Nhưng mọi chuyện bây giờ không còn thế nữa, phải không
bà?”. Tôi sực nghĩ ra, hấp tấp ngắt lời bà. “Bom vẫn rơi vào ngày này

- 80 -
Thị trấn mùa đông
ngày khác, nhưng đã không có ai bị thương nữa, không có gì bị hư
hại nữa, phải không bà?”.
“Đúng vậy, những ngày kinh hoàng ấy đã trôi đi rồi. Thị trấn
Mùa đông đã có một ngày hôm qua khác. Nhưng không ai quên
những ngày ấy, ngày hôm qua của ngày hôm qua”.
“Tại sao vậy bà? Ý con là tại sao chúng ta lại có được sự bình
yên của ngày hôm qua này ấy ạ”.
“Là Ionah”, bà Astrid mỉm cười, như đã nhìn thấy trước câu hỏi
của tôi, cũng như gương mặt tôi khi nghe câu trả lời. “Chính Ionah là
người đã đẩy ngày hôm qua đó ra xa khỏi thị trấn này”.
“Ionah…”.
“Đúng vậy, là Ionah. Không ai khác biết về điều đó cả, nhưng
Ionah chính là người đã mang bình yên trả về nơi này”.
Bà chợt nghiêng đầu, tôi tưởng đâu đã thấy vành tai bà giật giật.
“Sẽ tới lúc nào đó, chính Ionah sẽ kể cho cậu nghe về điều đó.
Còn bây giờ…”.
“Con hiểu”, tôi đáp. “Mọi câu hỏi luôn cần một thời điểm để có
câu trả lời, phải không ạ?”.
Chống tay lên hai đầu gối, tôi gục xuống, nhìn vào mặt bàn,
mặt gương, hay chính là tấm bản đồ. Thị trấn Mùa đông - Thành
phố Thủy tinh - Tháp cổ. Rồi tiếng gõ cửa vang lên cùng lúc với lời
bà Astrid.
“Vào đi con”.
Tôi ngước lên khi một tia sáng mảnh rơi xuống sàn từ cánh cửa
mới được mở ra. Người phụ nữ sống cùng bà Astrid bước vào với
giỏ củ cải. Cô vẫn nhìn tôi với vẻ lãnh đạm, thậm chí là dè ngại. Tôi
chào cô và cô lại gật đầu qua quýt. Mặt bàn đã khô cong như chưa
từng có một giọt nước nào rơi xuống khi tôi một lần nữa nhìn xuống.

- 81 -
NHẬT PHI

Tấm bản đồ giờ chỉ còn trong trí nhớ của tôi, mà tôi đã tranh thủ vẽ
lại như dưới đây ngay khi có dịp. Tôi chào hai người rồi bước ra cửa.
Đàn chim nhất loạt cất cánh, hướng về cánh rừng nơi chúng
sẽ ngủ trong đêm. Đàn chim này xuất phát từ Thành phố Thủy tinh
và đến khu rừng Tháp cổ để ngủ trong đêm. Hay chúng đến Thành
phố Thủy tinh vào ban ngày và bây giờ đơn giản trở lại khu rừng của
chúng. Tôi tự hỏi. Dù là thế nào, Thị trấn Mùa đông này cũng chỉ như
một điểm chuyển tiếp.

- 82 -
Thị trấn mùa đông

Thị trấn Mùa đông –


Thành phố Thuỷ tinh – Tháp cổ

- 83 -
NHẬT PHI

TRUYỆN KỂ TRONG NGÀY OANH KÍCH 2

Q uỷ Vương sống trong một căn biệt thự lớn nằm chênh
vênh trên một vách núi. Một phần của tòa nhà đua hẳn
ra ngoài khoảng không, làm thành một ban công khổng lồ và được
chống đỡ bằng một hệ thống kèo và cột chéo. Chàng bấm chuông cửa
và đưa danh thiếp cho một người giúp việc đeo mặt nạ mỏ chim màu
đen. Đó là một người phụ nữ, chàng đoán vậy, nếu đó là một người
thật. Cô ta biến mất sau cánh cổng lớn để trình danh thiếp cho chủ
nhân mình.
Chàng lùi lại, nhẩn nha chiêm ngưỡng tòa nhà. Đó là một công
trình bằng gỗ đồ sộ, với hai tầng nhà dưới một lần mái thoải. Bất kì
ai đã thiết kế tòa nhà này cũng phải là một kiến trúc sư đại tài với con
mắt thẩm mỹ và nghệ thuật phi thường. Sau cánh cổng lớn là một
mặt tường chạy hết chiều rộng căn biệt thự, hay nói đúng hơn là một
bức tranh sơn mài khổng lồ, mô tả mặt cắt một cánh rừng trải dài
qua cả bốn mùa. Sắc xuân, nắng hạ, thu tàn, đông giá xếp hàng trên
cùng một bức tranh mà không gây bất kỳ cảm giác tương phản hay
cộc lệch nào. Những sắc màu chờm lên nhau một vẻ tự nhiên và tinh
tế đến độ dù mô tả những trạng thái khác nhau, chúng vẫn làm nên
một tổng thể thật đồng nhất. Trên bầu trời vàng ảm đạm của mùa
thu, đơn lẻ một cánh chim dạt về đông, văng vẳng tiếng kêu thảng
thốt trên nền sơn mài.
Người giúp việc trở lại, mở rộng cánh cổng trước mặt chàng rồi

- 84 -
Thị trấn mùa đông
đứng lùi sang một bên, ra hiệu mời chàng vào. Chàng cảm ơn cô rồi
bước vào. Vẫn không nói một lời, người phụ nữ ra hiệu cho chàng đi
ra phía sau. Khi bước vòng qua góc tường, chàng tưởng đâu đã thấy
cánh chim cô lẻ kia đã tiến gần hơn tới mùa đông một chút. Leo hết
một dãy cầu thang rồi men theo một hành lang dài, chàng tới được
ban công mặt sau tòa nhà, nơi Quỷ Vương đang ngồi, day lưng lại
với chàng.
“Chào người hùng”, Quỷ Vương nói mà không quay lại. “Mừng
anh đến với Jigokuhen… Đó là tên trang viên này”.
Lão nói thêm, ý chừng phòng khi chàng không hiểu hết. Nhưng
chàng đến đây không phải để tìm hiểu về căn biệt thự này. Chàng đáp
lạnh lùng.
“Tôi đến đây vì nhiệm vụ”.
“Tôi biết”, Quỷ Vương nói. “Nhưng tại sao anh lại không ngồi
xuống đây một chút và cùng tôi tận hưởng cảnh sắc tuyệt vời này nhỉ?”.
Chàng bước tới, ngồi xuống chiếc ghế bành êm ái còn lại, được
kê đối diện với ghế của Quỷ Vương qua một bàn nước nhỏ, trên
đó bày một giỏ trái cây, một đĩa thịt nguội kèm dưa chuột muối và
một chai rượu vang đỏ đã cạn. Phần rượu cuối cùng đang ở trong li
lớn trên tay Quỷ Vương. Lão có vẻ đang hoàn toàn thư thái mà tận
hưởng khung cảnh trước mặt mình.
Và lão có lí. Ban công sau của Jigokuhen nhìn ra một thung
lũng bao la, mướt mải xanh. Những tán thông vươn cao, xếp lớp tự
nhiên, khấp khểnh một cách đồng bộ. Những dải lá kim nhọn hoắt
hướng lên trời như muốn tranh nhau chút ánh nắng cuối ngày. Len
lỏi giữa rừng lá kim, một con sông mơ màng chảy, đón lấy ráng chiều
vỡ òa trên mặt nước. Xa xa một góc trời, hoàng hôn đang xuống.
Cảnh trí vừa hùng vĩ vừa dịu dàng khiến cho chàng cũng không còn
cảm thấy gấp gáp với nhiệm vụ của mình. Chàng mơ hồ quờ tay trên
mặt bàn, rồi lại nhận ra không có một cái li nào ở đó cho chàng cả.

- 85 -
NHẬT PHI

“Xin lỗi”, Quỷ Vương bật cười. “Trong lúc chờ anh tới, tôi đã
mải vui mà uống hết mất chai vang cuối cùng rồi. Nhưng tôi có cái
này còn hay hơn nữa”.
Quỷ Vương giơ tay trên không búng cái tách. Người giúp việc
xuất hiện sau lưng họ.
“Agatha, lấy lên đây cho tôi chai Royal Salute và hai cái ly, cô
biết loại nào rồi đấy”. Lão ra lệnh mà không quay lại, tay lão nhón một
miếng mỡ muối thả vào miệng. “Đó là Agatha, cô ấy là quản gia, kiêm
luôn người hầu phòng. Ngày trước tôi có nhiều người giúp việc trong
nhà hơn, nhưng bây giờ kinh tế khó khăn hơn rồi, anh biết đấy”.
Quỷ Vương có một thân hình đường bệ có phần không ăn
khớp với trang viên đầy chất nghệ thuật này. Lão đeo một chiếc mặt
nạ quỷ đỏ rực với hai cái sừng ngắn cong cong trên trán và một cái
mũi khoằm, phần miệng được để hở ra cũng đỏ lựng và nhẫy mỡ.
Nhưng chàng không thể nào tránh được cảm giác thán phục và phần
nào nể trọng trước khí chất cao quý nơi lão.
Hai người ngồi song song với nhau, ngăn giữa bởi một bàn đầy
đồ nhắm. Một kẻ thực hiện sứ mệnh, một kẻ an nhàn đón đợi số
phận. Rồi rượu được mang lên. Chàng quay lại, cảm ơn người phụ
nữ mang tên Agatha kia. Chàng bật ra một tiếng kêu kinh ngạc khi
nhận ra bức tường sau lưng mình mà chàng đã không để ý tới khi
bước ra ban công.
Một khung cảnh kinh hoàng. Lửa. Máu. Những gương mặt
sợ hãi tột bậc. Cả một ngôi làng, hay một dinh thự, hay cả một tòa
thành, quay cuồng trong trận bão lửa. Màu lửa huy hoàng nhấn chìm
tất cả. Và ở chính giữa bức tranh lớn, một ngọn lửa bốc cao hơn
hết thảy, cuốn lấy một cỗ xe ngựa đang rã dần. Trong xe ngựa, nét
mặt đau đớn của một mỹ nhân dường đang khắc họa toàn bộ những
thống khổ của thế gian.
Chàng run rẩy, chàng bàng hoàng, chàng xúc động như chưa

- 86 -
Thị trấn mùa đông
bao giờ xúc động trong đời. Và rồi chàng thốt lên một tiếng nghèn
nghẹn. “Thần diệu!”.
“Bức bình phong đó là niềm tự hào của tôi đấy”, Quỷ Vương nói
trong khi rót thứ rượu màu hổ phách ra hai ly đáy bằng. Lão không
nói dối, niềm tự hào quả thực đang hiện lên trong ánh mắt lão. “Cảnh
địa ngục trước mắt, cũng là lí do tôi đặt tên trang viên này như vậy”.
“Ông đúng là Quỷ Vương”.
Chàng nói, nửa kinh tởm nửa kính nể, và Quỷ Vương bật cười
sảng khoái. Lão nâng ly. Hai người chạm ly vào nhau một cái nhẹ
như không.
“Không phải lúc nào tôi cũng là Quỷ Vương đâu”, lão nói sau
khi uống cạn tuần rượu đầu tiên. “Trước khi làm Quỷ Vương thì tôi
đã từng được thờ phụng, được trọng vọng, được cúng dường. Tín đồ
của tôi ở khắp mọi nơi, nếu không muốn nói tất cả mọi người ở xứ
này đều đã từng là tín đồ của tôi”.
Dải bóng tối đầu tiên bắt đầu hờ hững buông xuống qua mái
đua trước ban công. Chàng lặng lẽ uống ly rượu phần mình thành
ba hớp.
“Tôi đã từng sống vương giả, tất cả nhờ của cải mà người ta
cúng dường cho tôi. Sự xa hoa anh thấy giờ đây thực chất chỉ là một
mẩu bé tí tẹo so với những gì tôi từng có, như một dư ảnh rớt lại
trong võng mạc kẻ lữ khách đã xuống tới chân núi từ trên đỉnh”.
“Người ta từng thờ phụng ông vì điều gì vậy?”.
“Vì tất cả. Đã có thời họ tin rằng chỉ cần thờ phụng tôi, cúng
cáp, tế lễ đầy đủ thì tôi sẽ cho họ mọi thứ. Tiền bạc, danh vọng, ái
tình. Dục vọng, những kẻ có dục vọng tìm đến tôi, xì xụp quỳ lạy,
dâng lên tôi những tiền vàng, những mâm cao cỗ đầy. Và tôi nói
với họ điều họ muốn nghe. Rằng hãy cứ về đi, và không ngừng cầu
nguyện, không ngừng gọi tên tôi trong cả những giấc mơ, và họ sẽ có
được thứ họ muốn”.

- 87 -
NHẬT PHI

Rượu ở tuần thứ hai bị rớt ra khỏi ly trong khi rót, bởi lẽ Quỷ
Vương đang vừa rót vừa cười sằng sặc.
“Đương nhiên không phải lúc nào họ cũng đạt được những sở
nguyện ấy. Đôi khi họ nhận được những thứ ngược lại hoàn toàn”,
lão rót rượu vào ly của chàng, dòng chất lỏng vẫn rung lắc theo tiếng
cười của lão. “Nhưng thay vì tìm hiểu nguyên nhân thì họ lại cho
rằng họ đã chưa cúng dường hay tế lễ tôi đầy đủ. Và cứ thế, trong một
thời gian dài, rất dài, tôi chưa bao giờ phải lo về đời sống vật chất của
mình. Ôi, những năm tháng đẹp đẽ xưa…”.
Quỷ Vương uống ly thứ hai mà không nâng lên chạm cốc với
chàng. Chàng ngần ngừ làm theo, nhưng mùi rượu mạnh xộc lên
mũi ở ly thứ hai này khiến chàng cảm thấy ớn ứ. Chàng hỏi xin một
chút nước đá. Trong lúc chờ đá được mang lên, chàng kín đáo quan
sát Quỷ Vương qua ly Royal Salute. Màu hổ phách quét lên gương
mặt lão một vẻ hoài niệm sâu sắc ngay cả khi lão đang xuýt xoa tâm
đắc sau từng hớp rượu.
“Tôi cũng là kẻ biết lo xa”, Quỷ Vương nói khi gắp đá thả vào ly
của chàng. “Ngay cả khi còn đang được cung phụng như thế, tôi cũng
đã có ý thức tích luỹ của cải phòng khi có sự bất thường. Dù là thần
thánh gì đi nữa cũng không nằm ngoài quy luật vô thường của đời
này, anh biết đấy. Cái gì dùng được ngay thì tôi dùng ngay, cái gì giữ
lại được thì tôi giữ lại. Như chai rượu này chẳng hạn. Anh không biết
nó ở nhà tôi bao lâu rồi đâu. Thậm chí ngay khi nhận được nó, tôi đã
biết mình sẽ để dành khui nó vào lúc nào. Tôi đã biết sẽ có ngày hôm
nay, tôi biết nó sớm muộn cũng sẽ tới…”.
“Ông là Quỷ Vương”, chàng đáp đơn giản.
“Không phải lúc nào cũng thế”, Quỷ Vương nhắc lại, lão xoay
chai rượu trên mặt bàn, chừng như đang cân nhắc có nên rót luôn
tuần thứ ba hay không.

- 88 -
Thị trấn mùa đông
“Thế giới luôn luôn xoay chuyển. Ngày hôm trước là thần, ngày
hôm sau đã là quỷ. Không phải là tôi khác đi, mà là họ đã quyết định
như thế…”.
Tuần rượu thứ ba.
“Họ kết luận rằng dục vọng, lòng tham là những thứ xấu xa và
tàn hại. Họ cho rằng con người nên sống một cuộc đời giản tịnh và
tri túc, rằng bình yên chỉ có được khi họ hài lòng với những gì mình
có, không hơn. Những ước muốn, tham vọng là mầm mống của tội
ác và bạo loạn. Chốn lạc viên mà mọi người cùng mơ tới không có
chỗ cho những điều đó.
Trong nỗ lực kiến tạo chốn lạc viên đó, họ hướng vào tôi như là
hiện thân của những điều họ cần phải tận diệt. Rằng tôi chính là kẻ
đã gieo rắc những tăm tối trong tâm hồn con dân của họ. Tôi là Quỷ
Vương, đơn giản vậy thôi”.
Tuần rượu thứ tư. Chàng uống cùng Quỷ Vương, không phải
như một nhiệm vụ, mà như hai kẻ đồng đẳng.
“Họ đập phá toàn bộ nhà cửa của tôi ở xứ ấy. Không còn ai cầu
nguyện hay cúng dường cho tôi nữa. Không ai muốn dành ra bất cứ
điều gì cho một Quỷ Vương cả. Nhưng như tôi đã nói, tôi là kẻ biết lo
xa. Tôi đã cho xây trang viên này từ lâu, và dọn về đây ngay khi người
ta bắt đầu trao cho tôi danh phận này. Tôi đặt tên cho trang viên này
là Jigokuhen, theo tên bức bình phong này. Quỷ Vương ngự ở chốn
địa ngục, hợp lí đấy chứ?”.
Tuần rượu thứ năm. Mặt chàng đã bắt đầu ngấm đỏ, nhưng còn
xa lắm mới tới ngưỡng đỏ nơi tấm mặt nạ Quỷ Vương.
“Tôi đã tính toán. Tôi biết mình sẽ phải tiêu pha thế nào với số
của cải còn lại. Tôi muốn tối ưu hóa sự hưởng thụ của mình trong
những năm tháng còn lại. Anh có thể nói là tôi đã chờ anh kể từ ngày
đầu tiên dọn tới đây. Nhưng anh đã tới muộn hơn dự tính của tôi”.
“Đến được đây mất nhiều thời gian hơn tôi nghĩ”, chàng đáp.

- 89 -
NHẬT PHI

Người phụ nữ tên Agatha tới sau bàn rượu, nhặt chai lên và rót
cho cả hai người rồi gắp đá vào ly của chàng. Tuần rượu thứ sáu.
“Cô về được rồi, Agatha”, Quỷ Vương nói, đoạn rút từ trong
túi áo ra một phong bì nhỏ. “Đây, thư giới thiệu. Cảm ơn cô về thời
gian qua”.
Người phụ nữ ngập ngừng vài giây trước khi đón lấy chiếc
phong bì. Cô áp nó vào lòng. Môi cô giật giật, rồi mở phong bì ra.
“Ông chủ sẽ ổn chứ ạ?”.
Chàng ngoái lại nhìn Agatha. Cho dù đã giấu một nửa khuôn
mặt sau tấm mặt nạ, cô vẫn không thể nào giấu nổi nỗi lo lắng rất
chân thành.
“Đừng lo, Agatha”, Quỷ Vương đáp. “Tất cả đều có thời điểm
của nó”.
Cô hầu gái đứng lùi lại, cúi mình chào ông chủ một lần sau cuối
rồi biến mất nơi góc hành lang.
“Cô ấy là một quản gia tốt”, Quỷ Vương nói sau tuần rượu thứ
sáu. “Tôi hy vọng cô ấy sẽ sớm tìm được một công việc mới. Nếu tôi
thực sự có quyền năng như họ đã từng cầu nguyện, tôi sẽ ban cho cô
ấy điều đó”.
“Nhưng ông không có, phải không?”. Chàng nói. “Vì ông là
Quỷ Vương”.
“Phải, một Quỷ Vương khánh kiệt”.
Lão lại cười, một cái cười tự trào cay đắng.
“Anh rót đi, làm ơn”.
Chàng làm theo lời lão, rót nốt phần rượu còn trong chai vào
hai ly. Tuần rượu thứ bảy sẽ là tuần rượu cuối cùng. Quỷ Vương đặt
lên bàn một khẩu súng lục ổ xoay. Một khẩu súng đẹp, báng súng ánh
lên một màu bạc đầy kiêu hãnh.
Mặt trời đã khuất hẳn. Bóng tối bao trùm lên khung cảnh hùng
vĩ trước mặt chàng. Bóng tối mang tới một tính cách khác cho rừng

- 90 -
Thị trấn mùa đông
thông. Rừng như một ác thú vừa thức giấc, nhưng vẫn thu mình,
hướng cặp mắt sắc lẹm mà quan sát con người. Xào xạc những hơi
thở đêm.
Tiếng chạm cốc của hai người như vang vọng khắp cả không
gian. Quỷ Vương nghiêng ly, chầm chậm trút rượu vào miệng mình,
để cho chất men cay lan tỏa trong vòm miệng, để rượu lần lượt len
qua từng kẽ răng. Lão thoáng rùng mình khi đặt ly xuống rồi quay
sang chàng, mỉm cười nhẹ tênh. Lão đẩy khẩu súng về phía chàng.
Tuần rượu cuối cùng lại là tuần rượu đầu tiên mà chàng uống
nhanh hơn Quỷ Vương. Chàng không muốn tận hưởng gì cả, chàng
tới đây vì nhiệm vụ. Đặt ly xuống, chàng cầm lên khẩu lục bạc. Cả sáu
ổ đều đã được nạp đạn. Đáy vỏ đạn cũng ánh lên màu bạc.
“Làm nhiệm vụ của anh đi, người hùng”.
Chàng cầm chắc báng súng, đặt tay lên cò súng, hướng nòng
súng vào thái dương Quỷ Vương.
“Ông có muốn cầu nguyện gì không, Quỷ Vương?”.
“Không, người hùng ạ”. Lão đáp. “Tôi đã nghe quá đủ những lời
nguyện cầu trong đời mình rồi”.
“Hãy yên nghỉ, Quỷ Vương”.
Chàng lên đạn, siết cò. Đạn nổ. Và hai cái sừng biến mất trên
tấm mặt nạ quỷ.
“Quỷ Vương đã chết”, chàng nói, nòng súng rơi xuống, toòng
teng dưới ngón tay chàng trên cò súng. “Nhưng nhiệm vụ của tôi
không phải là giết ông…”.

Tôi có cảm giác kỳ truyện kể này hãy còn chưa kết thúc, nhưng
những từ cuối cùng của người hùng kia, nếu có, đã bị nhấn chìm bởi
những âm thanh nhiễu sóng nghe như tiếng răng rắc của gỗ khô. Cái
bóng của ba người chúng tôi lắc lư như thể cũng đang bị lay động bởi
chương truyện vừa nghe.

- 91 -
NHẬT PHI

“Cuối cùng cũng không biết được nhiệm vụ của anh ấy là


gì”, Ionah lên tiếng đầu tiên, như để nhắc nhở chúng tôi về với căn
phòng này.
“Aaaa, sao lại như thế chứ?”. Makoto thốt lên, dài giọng.
“Ông ấy không xứng đáng bị đối xử như vậy”.
“Em cũng cảm thấy thế”, Ionah đáp trong khi nhoài người
tắt radio.
“A…”, Makoto lại thốt lên. Cô chuyển một cái nhìn suy tư từ tôi
sang máy radio rồi quay lại. “Em cứ nghĩ mãi, Rei ạ. Từ lúc gặp anh,
em đã thấy anh rất quen. Giờ em nghĩ ra rồi”.
Cả tôi và Ionah đều đứng hình lại, ngơ ngác nhìn cô bé.
“Chị có thấy thế không, Ionah? Rei rất giống với anh ấy, người
hùng ấy. Hay chỉ mình em thấy thế thôi nhỉ? Người hùng trong hình
dung của em… rất giống anh, Rei ạ”.
Sự hào hứng nơi Makoto với phát hiện này cũng rõ ràng không
kém sự hào hứng khi cô ngồi bên lò sưởi chờ Ionah dò sóng radio. Cô
bé khua tay mơ hồ trước mặt tôi, như thể đang vẽ ra hình dung người
hùng của cô và đối chiếu trên tôi.
“Cách anh ấy nghĩ, và nói, và kể chuyện. Rei này, anh có nhiệm
vụ gì không thế?”.
Makoto hỏi điều đó với một vẻ bông đùa vô tư, nhưng Ionah
vội vã cắt lời cô, có gì đó như là hốt hoảng trong giọng nàng.
“Nào, Makoto, em lại tưởng tượng ra đấy”, nàng đặt tay lên vai
tôi, day nhẹ. “Nhiệm vụ của Rei chẳng phải là tới Thị trấn Mùa đông
để sống cùng chúng ta sao?”.
Tôi nghĩ nhiều về điều nàng nói đêm đó. Ừ, nếu như đó là
nhiệm vụ của tôi…

- 92 -
Thị trấn mùa đông

LỬA - NƯỚC

L ửa đã cháy trong ký ức kể từ ngày nó mới biết nhớ. Đám


người đó vượt biển tới đây với một mục đích duy nhất: gieo
rắc kinh hoàng trên quê hương nó. Chúng tràn qua các làng mạc, bắt
bớ trai tráng, giết chóc người già, cưỡng bức phụ nữ. Chúng cao lớn
hơn những người cao lớn nhất trong làng, khỏe mạnh hơn những
người cường tráng nhất, và hơn hết thảy, trên tay chúng là những
thanh sắt lớn phun ra lửa. Nó đã chứng kiến không biết bao nhiêu
dũng sĩ trong thôn làng đã ngã xuống trước sức mạnh kỳ lạ của đám
người kia. Những người lớn gọi đó là súng trường. Và đạn. Và bom.
Rồi chúng kéo tới đây cả những cỗ xe khổng lồ bằng thép. Chúng cán
qua tất cả những vật cản, khạc lửa vào những mái nhà. Chúng không
bao giờ ngừng lại.
Lửa ngùn ngụt cháy. Máu không bao giờ khô, nhuộm đỏ biết
bao con sông, dòng suối. Tiếng khóc không bao giờ ngớt trong những
thôn làng. Và cơn hận thù không bao giờ nguôi trong lòng nó.
Một toán trong đám người ấy đang ngồi quanh một đống lửa,
ánh lửa hắt lên nước da đen đúa như bùn của chúng. Chúng hẳn phải
là những kẻ đến từ địa ngục, ngày ngày bắt người bỏ vào vạc dầu và
chẳng bao giờ dừng lại để lau đi lớp muội tro bám trên da thịt, nên da
chúng mới đen như thế. Nó cảm giác thứ chúng đang nấu trên lửa kia
cũng là một phần thân xác đồng bào nó, đồng loại của nó. Nó nhặt
lên một hòn đá, ném về phía đám người kia. Nó đã nghĩ rằng nếu nó

- 93 -
NHẬT PHI

may mắn, nó có thể hạ được một tên trong số đó. Hòn đá rơi trúng
vai một tên. Hắn không chết, thay vào đó, hắn văng ra một từ gì đó
nghe như một tiếng sủa. Hắn quay lại và tìm thấy nó, hiên ngang đầy
thách thức.
Nó vẫn đứng, dù cho hai chân đã bắt đầu run lên, kể cả khi
kẻ kia đã tới trước mặt nó, sừng sững như một con quỷ khổng lồ.
Đôi mắt hắn đỏ quạch những đường gân, nhưng đó không phải là
cơn giận dữ đơn thuần, đó là một dòng những toan tính man dại về
những trò mà hắn có thể chơi với thằng nhóc này, hành hạ nó, tra
tấn nó. Nhúng từng ngón tay nó vào nồi nước sôi. Xiên lưng nó bằng
que cời than nóng đỏ. Bất kỳ điều gì sẽ làm thằng nhóc không bao giờ
quên được hậu quả của việc thách thức chúng.
Cái bóng khổng lồ của gã đàn ông ngoại quốc trùm lên toàn
bộ thân hình bé nhỏ của nó. Hắn gằn giọng, những âm thanh mà
nó không nghe hiểu được. Bàn tay hắn vươn tới phía nó như những
nanh vuốt quỷ dữ.
“Xin ông! Cháu xin ông!”.
Đó là chị gái nó, từ lâu lao đến chắn giữa nó và kẻ kia. Chị ôm
nó, rồi đẩy nó đi. Chị vừa nói, vừa khóc, cuống quýt, tuyệt vọng.
“Cháu xin ông! Ông làm gì cháu cũng được, xin ông tha cho
em cháu”.
Hắn dừng lại trong một giây, trước khi quay lại với những gã
còn lại, cười cợt điều gì đó. Nó không hiểu. Nhưng nó hiểu lời khẩn
cầu và cử chỉ của chị nó. Rằng nó hãy chạy đi. Chạy đi và đừng nghĩ
gì cả. Rằng nó chỉ là một thằng bé yếu ớt, không phải là dũng sĩ diệt
quỷ. Nó chạy, lấp kín tai mình bằng tiếng khóc của chị nó và tiếng
cười của những gã đàn ông đến từ địa ngục.
Đêm đó, chị gái nó không về. Chị không bao giờ về.

- 94 -
Thị trấn mùa đông
Lạch xạch. Lạch xạch. Khung cửi đưa đều. Con thoi bền bỉ dao
động, dồn những sợi chỉ đỏ đan dày vào nhau. Hikari đang dệt một
tấm vải đỏ lớn. Và kể. Tiếng khung cửi đều đặn làm nền cho câu
chuyện của chị.

Không cha. Không mẹ. Không gia đình. Nó sống cùng với
những đồng chí của nó, những đứa trẻ cũng như nó, đã bị những kẻ
kia tước đi những điều thân yêu nhất. Nó sắm vai một thằng bé bán
đậu phộng, hàng ngày ngước nhìn kẻ thù giễu qua trước mặt, tuỳ
hứng cướp bóc, nhạo báng đồng bào nó. Nhưng nó đã không còn là
thằng bé của ngày xưa, nó học được cách im lặng, giấu đi nỗi căm
hờn của mình và trình ra cho kẻ thù từng bao đậu phộng rang. Nó có
một nhiệm vụ, nó luôn luôn biết thế. Ý thức về nhiệm vụ giữ cho nó
tỉnh táo và vững vàng.
Đám người ngoại quốc trở thành một phần của mảnh đất này.
Chúng dựng bốt, xây đồn, tuỳ nghi nhào nặn thôn làng theo ý chúng.
Chúng nghêng ngang đi lại, những thân hình trắng xác đến bệnh
hoạn hay đen đúa một màu tàn độc. Thôn làng giờ đây chỉ còn toàn
người già, phụ nữ và trẻ con. Những người thanh niên khỏe mạnh đã
bị chúng bắt đi lao động khổ sai tại một miền xa nào đó. Tới những
người phu kéo xe tay cũng không còn chạy trên đường làng nữa, khi
mà đám người kia đã mang tới đây những hộp sắt vừa chạy vừa nổ
ầm ầm. Đó là xe hơi, chạy bằng một thứ chất lỏng gọi là “xăng”. Xe
hơi chạy xăng, xe tăng chạy xăng, tàu thuỷ chạy xăng.
“Nói cách khác”, người đồng chí của nó nói. “Không có xăng thì
chúng nó cũng chẳng còn sức mạnh gì cả”.
Và nhiệm vụ của nó diễn ra quanh nơi đám người kia trữ xăng.
Nó quan sát chúng, trong lốt một đứa trẻ con bán đậu phộng vô hại.
Cũng có đôi khi đám người đó tới mua đậu phộng của nó, và nó phải

- 95 -
NHẬT PHI

bán cho chúng, cúi gằm gương mặt căm hận. Giá mà nó có thể tìm
cách để đầu độc chúng bằng đậu phộng, nhưng những người đồng
chí lớn của nó không cho phép. Họ nói nó cần phải kiên nhẫn vì
nhiệm vụ, một cơn nóng giận tức thời, một hành động trả thù cảm
tính có thể làm hỏng tất cả. Nhưng chẳng phải chỉ cần tước đi nguồn
sức mạnh của lũ người kia là được hay sao? Không, nó tin là nó có
một nhiệm vụ riêng. Chỉ cần chờ tới lúc…
Mùi xăng nồng xộc vào mũi nó ngay khi nó mới mở ra cái nút
chai bằng lá chuối. Nó ghé mắt nhìn thứ chất lỏng nhờ nhờ xanh
trong chai, trong lòng dậy lên phẫn nộ. Đây là thứ đã đưa bọn chúng
tới đây, là thứ đã nổ ầm ầm trong buồng cháy, đẩy những cỗ xe bọc
thép cán lên những xác đồng bào nó. Nó kinh tởm thứ chất lỏng này,
nhưng nó cũng cần thứ đó, vì nhiệm vụ, nhiệm vụ của riêng nó.
“Mày nhờ tao kiếm xăng làm gì đấy?”.
“Rồi mày sẽ biết”, nó cười, bục cả đôi môi khô khốc. “Nếu bọn
chúng đã thích lửa đến thế…”.

“Rei, anh đưa cho tôi cuộn chỉ xanh được không?”.
Tôi làm theo lời chị. Lô chỉ đỏ gắn trên khung cửi đã gần hết.
“Matel đã sống cả phần đời trước đó của nó với lửa và máu”,
Hikari tiếp tục đạp khung cửi, loạt chỉ đỏ cuối cùng dồn lại. “Cho tận
tới ngày cuối cùng…”.
“Matel đã tự tẩm xăng lên cơ thể mình rồi châm lửa, trở thành
một ngọn đuốc sống. Mang trên lưng khối lửa cuối cùng trong đời,
nó đã lao vào kho xăng của đám người ngoại quốc, giữa khi họ đang
đổi gác. Nó đã không được nhìn thấy ngọn lửa huy hoàng nhất của
đời nó. Ừ, cũng chẳng phải là nó cần thêm ánh lửa trong đời nữa”.
Chỉ đỏ đã hết. Hikari đón lấy cuộn chỉ xanh từ tay tôi, khéo léo
luồn đầu sợi chỉ vào tấm vải đỏ đã có.

- 96 -
Thị trấn mùa đông
“Dòng suối đã đưa Matel tới đây. Toàn bộ cơ thể em tôi bị
phỏng rất nặng và phải cuốn băng vĩnh viễn. Matel tỉnh lại ở Thị trấn
Mùa đông này, và ngay lập tức gắn bó với công việc xách nước. Một
nửa cuộc đời đã gắn với lửa và thấu hết những nỗi kinh hoàng, đau
thương của nó, Matel yêu nước hơn bất cứ điều gì trên đời. Không
bao giờ nó làm rớt dù chỉ một giọt nước”.
Sau lửa là nước. Tôi thầm nghĩ, nhìn nửa xanh của tấm vải trên
khung cửi của Hikari bắt đầu thành hình.
“Không ai có thể làm công việc đó tốt hơn Matel cả”.

- 97 -
NHẬT PHI

ĐÊM TRẮNG

S ớm ngày hôm sau, mặt trời sẽ lại lên qua rặng núi tuyết, mọi
người trong thị trấn sẽ lại xếp hàng dài trước nhà Nicolas
để lấy bánh mì, củ cải đỏ sẽ lại tiếp tục được thu hoạch và gieo trồng,
Matel sẽ lại xách từng đôi xô nước tới từng khoảnh vườn, bà Astrid
sẽ lại được vây quanh bởi đám trẻ hau háu nghe kể chuyện. Tới chiều,
đàn chim sẽ lại bay về nơi này để nhận sự sẻ chia của mọi người,
Makoto sẽ lại quan hoài về số lượng đang giảm dần của chúng, và rồi
tuyết sẽ lại rơi, cũng như đêm nay. Sau đêm nay, một ngày hôm qua
khác sẽ lại tới. Nhưng không phải với tôi, tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ rằng
mình đã trở thành một điều gì đó khác, một Rei khác. Vì đêm nay là
một đêm khác, với Ionah ở bên tôi.
“Rei này”, Ionah trở mình, quay sang tôi, giọng nàng không
vang hơn một hơi thở. “Có điều gì anh muốn biết không? Một điều
thôi, bất cứ điều gì, nếu như em biết…”.
Nàng trần trụi nằm bên tôi, bầu ngực ấm nóng kề sát bên mạng
sườn tôi, một bàn tay nàng mơn trớn khuôn ngực tôi. Nàng dùng
một ngón tay vẽ trên ngực tôi những vòng tròn đồng tâm. Những
vòng tròn đồng tâm, hay chính là một vòng xoáy? Tôi đón lấy tay
nàng, áp lòng bàn tay nhỏ nhắn lên ngực trái mình.
Có quá nhiều điều tôi chưa biết về Thị trấn Mùa đông này. Có
quá nhiều điều để mà hỏi. Rằng tất cả những quy luật của nơi này
có ý nghĩa gì? Rằng cuộc chiến một chiều kia đã bắt đầu từ bao giờ

- 98 -
Thị trấn mùa đông
và khi nào sẽ kết thúc? Về Makoto, về Matel. Về câu chuyện của bà
Astrid. Nhưng tôi tin rằng, với bàn tay nàng nơi ngực trái tôi, những
xung động chân phương nhất nơi tôi truyền tới nàng, nàng sẽ biết.
“Chỉ một điều thôi, Ionah à, chỉ một điều thôi”, tôi thì thầm.
“Em biết mà, phải không, Ionah?”.
Những lọn tóc nàng chà lên vai tôi cho tôi biết nàng đang gật
đầu. Ionah vươn mình lại gần, khẽ đặt lên môi tôi một nụ hôn khô ấm.
“Em biết”, nàng nói mà không rời môi nàng khỏi môi tôi, bờ
môi nàng giãn ra trong một thoáng, một nụ cười. “Em sẽ kể anh
nghe. Những gì em có thể nhớ được. Ngày hôm qua của em. Chỉ cần
anh nhớ rằng, Rei ạ, rằng điều này là thật. Giây phút này là thật”.
Rồi nàng luồn tay ra khỏi tay tôi, nàng trở mình, xoay lưng lại
phía tôi. Tôi ôm lấy nàng từ phía sau, vùi mặt vào làn tóc mát rượi của
nàng, thỏa thuê trong hương thơm nồng nàn không liên quan chút gì
tới củ cải đỏ và bánh mì đen.
“Rei à”, nàng nắm lấy tay tôi, khi ấy đang đặt trên làn bụng
phẳng êm ái của nàng, dập dềnh theo từng nhịp thở của nàng. “Trước
anh, em đã từng yêu hai người. Người thứ nhất chính là chàng thi sĩ,
người tới với em vào những đêm trăng tròn, ở nơi có dòng suối và
cánh rừng và đồng cỏ xanh. Một nơi đó xa xăm, vào một thời nào đó
xa xăm mà em cũng không thể nhớ được. Nhưng người thứ hai thì
em nhớ rất rõ. Em và anh ấy đã từng cùng ở đây, trong thị trấn này,
ngay tại căn nhà này…”.
Tôi bất giác ôm siết nàng vào lòng hơn nữa, như muốn thâu lấy
cả thân hình trần trụi nhỏ nhắn này vào trong mình.
“Tên anh ấy là Nogias…”.

Nogias không thực sự thuộc về nơi này. Anh tới từ phía bên kia
dãy núi tuyết, một thế giới khác. Anh ấy đã chào em và xưng tên ngay

- 99 -
NHẬT PHI

khi thức dậy trên chính chiếc giường này. Anh ấy biết tên mình, nên
anh ấy đã không tới chỗ của Kahn vào ngày đầu tiên tới đây. Thực
ra là Nogias đã từ chối tới đó. Anh ấy dặn em hãy nói với mọi người
rằng anh ấy đã tới đó rồi, và được đặt cho cái tên này.
“Ionah”, anh nói. “Tên em thật đẹp”.
Rồi anh chợt bật cười.
“Ionah và Nogias. Nogias và Ionah. Em có thấy tên của chúng
ta rất hợp với nhau không? Giống như là hai cái tên sẽ luôn được
nhắc đến cùng với nhau vậy. Ionah - Nogias”.
Nogias nhẩm lại hai cái tên nhiều lần, như đang căn ke hai
mảnh ghép để chắc chắn rằng chúng thực sự khớp với nhau. Khi
nghe anh ấy nhẩm tới lần thứ ba thì em bắt đầu bị thuyết phục rằng
hai cái tên ấy hợp với nhau thật. Em đã bật cười. Nogias ngừng lẩm
nhẩm, ngước lên nhìn em. Em cũng thôi cười khi anh ấy đăm đăm
nhìn em đầy suy tư. Rồi anh nói.
“Em nên cười nhiều hơn, Ionah. Em thực sự xinh đẹp khi em
cười đấy”.
Em nghĩ là em đã thoáng đỏ mặt khi đó. Em không đáp mà quay
lại nấu ăn, nhưng không thể phủ nhận rằng khi đó em đã rất vui.
Nogias mặc một bộ đồ kaki dài màu xanh nhạt. Mới đầu bộ đồ
ấy cực kỳ dơ và tả tơi, anh ấy nói đó là kết quả của hành trình vượt
qua dãy núi tuyết để tới đây. Em giúp anh ấy giặt sạch và khâu lại
những vết rách. Trong bộ đồ đã được làm mới, Nogias trông giống
như một nhà du hành hăm hở và đầy kiêu hãnh. Còn em khi ấy có lẽ
là khác bây giờ nhiều lắm. Tóc em ngắn hơn bây giờ, gần ngắn bằng
tóc Makoto. Da dẻ cũng đen đúa hơn. Gầy nữa, chiếc váy tím em
thường mặc ngày ấy rộng thùng thình như em đang khoác một cái
bao tải vậy.
“Này, sao em không để tóc dài nhỉ?”. Nogias sẽ tới sau lưng khi

- 100 -
Thị trấn mùa đông
em đang nấu bếp và nói như vậy. “Em có một mái tóc rất đẹp đấy, nếu
như buông dài”.
“Em thấy bất tiện lắm”, em đáp. “Những lúc em nấu ăn, mùi
thức ăn sẽ bám vào tóc em, và rất nóng nực nữa. Và những lúc em
làm vườn, tóc có thể vương lên mắt, bất tiện lắm”.
“Thì em có thể búi tóc lên những khi ấy”.
“Vậy thì rắc rối lắm”.
Em làm bộ lờ anh ấy đi, tiếp tục xắt củ cải thả vào nồi xúp,
nhưng thực ra từ lúc ấy em đã bắt đầu nghĩ đến việc sẽ để tóc dài như
lời anh nói. Thực ra thì em chưa từng quyết định sẽ để tóc ngắn, nói
đúng hơn, em chưa từng nghĩ tóc mình trông như thế nào. Tóc của
em, cũng như tất cả mọi người ở đây, đơn giản là không bao giờ dài
ra cả. Đó hẳn cũng là một trong những quy luật khác ở đây. Nhưng
Nogias đã thay đổi điều đó. Ngay khi em nghĩ em sẽ để tóc dài, tóc
của em bắt đầu dài ra thật. Mỗi ngày một ít. Và tới một ngày kia,
trong khi em đang hé cửa nhìn mặt trăng qua bầu trời mưa tuyết,
Nogias chợt đến vuốt tóc em.
“Phải rồi”, anh nói. “Như thế này. Như thế này là đẹp”.
Em cầm lên một lọn tóc, giật mình nhận ra nó đã dài ra như
thế nào. Thật là kì lạ. Nogias mở hé cửa ra thêm một chút, anh nhìn
trăng, rồi cười nhẹ.
“Em có biết vì sao mặt trăng lại khuyết không? Là vì em đấy”.
“Tại sao lại là vì em?”.
“Mặt trăng quá xấu hổ khi nhìn thấy em, khi tự so sánh mình
với em, vậy nên nó phải khuyết đi”.
Đối mặt với màn trời tuyết rơi lạnh căm, mà em lại cảm thấy
mặt mình đang nóng lên. Em vội đóng cửa lại, quay vào trong nhà,
phần để giấu đi nụ cười hân hoan không thể kìm lại được. Nogias
cũng ngồi xuống ghế.

- 101 -
NHẬT PHI

“Em biết không, Ionah?”. Anh nói. “Ở chỗ anh, có những ngày
trăng tròn…”.

Nogias biết rất nhiều điều em không biết, những điều không có
ở Thị trấn Mùa đông. Anh ấy dạy em đọc và viết. Chữ viết thật là kỳ
diệu, anh ấy thường nói như thế. Và đúng là như vậy thật. Em có thể
ghi lại những điều em muốn nhớ, để chắc rằng em sẽ không bao giờ
quên được. Em học rất nhanh. Bàn tay em dường như đã từng quen
với tư thế ấy, những chuyển động ấy. Một cây bút mực và những tờ
giấy một mặt nhẵn một mặt sần. Em và anh ấy đã tập viết mà liên tục
lo rằng mực hoặc giấy sẽ hết.
Vào những đêm tuyết rơi, chính anh ấy, chứ không phải máy
radio nào cả, sẽ ngồi bên lò sưởi và kể chuyện cho em nghe. Ngày ấy
Makoto chưa có ở đây, chỉ có em và Nogias, và những câu chuyện
miên man bất tận. Đó đã từng là những ngày tươi đẹp nhất của em
từ khi tới Thị trấn Mùa đông này. Nhưng những ngày tháng ấy không
kéo dài được lâu.
“Rồi một ngày nào đó anh sẽ phải đi khỏi đây”.
“Rời khỏi đây?”. Em ngừng tay khuấy nồi xúp, ngay khi ấy em
chưa kịp hiểu hết lời anh. “Tại sao? Anh sẽ đi đâu?”.
“Anh phải quay lại thành phố của anh”, Nogias đáp mà không
nhìn em, anh gục đầu trên hai bàn tay đan vào nhau, giọng anh như
một lời thú tội. “Một ngày nào đó anh sẽ phải quay trở lại đó, vì một
nhiệm vụ”.
“Ionah, xin đừng trách anh về điều này. Anh tới đây vì một
nhiệm vụ, và vì nhiệm vụ đó, anh sẽ phải rời khỏi đây”.
“Bao giờ anh sẽ quay lại?”. Em hỏi, dường như em đang cố tình
không hiểu.
“Anh không biết”, anh đáp thành thực. “Có thể là không bao giờ”.

- 102 -
Thị trấn mùa đông
Em nhớ là chân tay em đã rụng rời khi nghe anh ấy nói điều đó.
Em đã để tóc dài, em đã trở nên trắng trẻo và đầy đặn. Em đã cười
nhiều hơn. Em nghĩ mình đã trở nên xinh đẹp như lời anh ấy nói
ngay ngày đầu tiên. Để không phải ở lại đây một mình.
“Nào, có phải là anh sẽ đi ngay buổi sáng ngày mai đâu”, Nogias
mỉm cười, anh đứng dậy đón lấy cái muỗng lớn trong tay em và bắt
đầu khuấy xúp. Anh múc lên một muỗng xúp đưa lên miệng. “Còn ở
đây ngày nào thì anh còn phải thưởng thức xúp củ cải đỏ của Ionah
ngày đó chứ”.
Em đã trải qua một ngày thật khó nhọc. Hình dung về cảnh sẽ
phải tiếp tục ở lại đây mà không có Nogias, dường như em đang bị
hút hết toàn bộ sức lực ra khỏi em. Em gần như không thể làm được
việc gì cho tử tế. Nogias vẫn ở bên em, anh ấy giúp em hoàn thành
mọi việc cần phải làm, lấp phần của anh vào bất kì phần nào em
bỏ quên hay làm hỏng. Em đã nghĩ chỉ cần có Nogias ở bên, em sẽ
không lo sợ điều gì nữa.
“Nogias, em sẽ đi cùng với anh”, em đã nói với anh ấy như thế
ngay đêm hôm ấy. Em đã quả quyết, em đã chuẩn bị tinh thần, em sẽ
chấp nhận tất cả những gì có thể xảy đến, miễn là anh ấy còn ở bên
cạnh em.
“Không được đâu, Ionah”, Nogias đáp. “Không thể đâu”.
“Tại sao chứ?”.
“Bởi vì em thuộc về nơi này”, anh ấy tránh ánh mắt của em khi
nói điều đó. “Còn anh thì không”.
Em nghĩ em đã chuẩn bị bật khóc ngay lúc ấy. Đúng vậy, em
vẫn luôn biết, như biết những quy luật ở nơi này, rằng em sẽ không
thể rời khỏi đây được. Em gục đầu xuống mặt bàn, và nghe tiếng anh
ấy xô ghế đứng dậy. Nhưng em chưa kịp khóc, hình như em đã quên
mất cách khóc rồi, thì Nogias đã đặt xuống bàn một vật gì đó. Anh ấy

- 103 -
NHẬT PHI

đặt tay lên vai em. Em ngẩng lên, đó là một vật thể hình khối vuông
nhỏ màu đen, với một thanh kim loại gắn trên đầu.
“Ionah, đây là máy radio. Khi anh đi rồi, nó sẽ thay anh kể
chuyện cho em nghe. Em hãy làm thế này…”.
Nogias không để ý, hoặc có lẽ là cố tình không để ý, tới những
tiếng nấc của em, tới đôi mắt em đang muốn bung ra hai hàng lệ. Anh
điềm nhiên chỉ dẫn em cách điều chỉnh radio. Em nghe, cố gắng nghe,
tựa như mỗi lời Nogias nói với em lúc này đều có thể là lời cuối cùng.
“Nhưng không phải ngày nào cũng có truyện để kể”, Nogias nói
khi đã giải thích xong. “Chỉ một số ngày thôi. Em sẽ sớm biết thôi”.
Nogias cầm lên chiếc radio, nhìn quanh phòng, rồi lại đặt xuống.
“Ionah, hãy nhớ rằng sự tồn tại của vật này và những câu chuyện
mà nó sẽ kể là một bí mật giữa hai chúng ta”, anh ngừng một chút, rồi
nói tiếp. “Không, em có thể chia sẻ chúng với những người em thực
sự tin tưởng, những người em yêu quý và quan tâm từ tận đáy lòng”.
“Nhưng rồi anh sẽ đi”, em đáp, khi ấy em chỉ có thể nghĩ đến
Nogias như một người như thế. “Em còn có thể chia sẻ những điều
này với ai nữa đây?”.
“Những người đó sẽ sớm xuất hiện thôi”, anh ấy lùa tay vào tóc
em. “Thị trấn Mùa đông nên là, và phải là, một chốn yên bình hơn
hết thảy. Em sẽ không cô đơn ở đây đâu”.
Củi đã tàn dần từ lúc nào, ánh lửa trong lò sưởi trở nên yếu ớt.
Một làn hơi lạnh đã lanh lẹ luồn vào trong phòng. Hoặc chỉ là em
cảm thấy thế, vì nắng ấm của riêng em cũng đang xa dần rồi.
“Nogias à, anh nói anh sẽ quay trở lại thành phố của anh, phải
không?”. Em hỏi. “Có nghĩa là anh sẽ lại một lần nữa đi qua dãy núi
tuyết phải không?”.
Anh gật đầu.
“Vậy anh sẽ cần thêm gì đó để giữ ấm đấy”, phải cố gắng lắm

- 104 -
Thị trấn mùa đông
em mới mỉm cười được một chút. “Em sẽ đan cho anh một tấm khăn
quàng nhé. Để anh không bị cảm lạnh trên đường đi, và… và…”.
“Và anh có thể mang theo hơi ấm của Ionah, người anh yêu
thương, tới bất kì nơi đâu anh đến…”.
“Vâng…”.
Nogias thảy thêm củi vào lò. Lửa lại chậm rãi bò lên những
thanh củi mới. Nhưng hình như em đã ấm lên rồi. Hay vì hàng nước
mắt nào đã len lén chảy dài trên má em.

Nogias đã không ở lại đủ để nhận được món quà duy nhất từ


em. Anh ấy ra đi sau một ngày kia. Một ngày oanh kích.
Đàn chim không bay về Thị trấn Mùa đông vào buổi chiều hôm
ấy. Nogias đứng ngẩn hồi lâu bên vườn củ cải mới vừa được gieo hạt,
hết hướng mắt về phía dãy núi tuyết lại tần ngần nhìn xuống mặt đất
vườn không còn những củ cải để lại. Anh nói với chính mình điều gì
đó mà em nghe như là “tới lúc rồi”.
Ngày ấy, mọi người luôn cảm thấy rất khó để tập trung vào việc
mình đang làm trong ngày oanh kích. Lưỡi dao run run trật trìa đặt
xuống mặt thớt, những lát củ cải xiên xẹo, méo mó và món xúp luôn
quá mặn hoặc quá nhạt. Nogias tỏ ra bình tĩnh một cách kỳ lạ. Anh
lặng lẽ giúp em nấu xúp, sắp đĩa và bánh mì lên mặt bàn đang rung
lắc dữ dội. Tên lửa ngày hôm ấy có vẻ rơi xuống gần nhà em hơn.
Nogias ăn rất nhiều bánh mì, đôi lúc bỏ quên cả đĩa xúp.
“Xúp không vừa hả anh?”.
Em hỏi, nhưng anh không đáp, chỉ tiếp tục ngấu nghiến ăn
bánh mì đen. Anh mắc nghẹn, và em lấy nước cho anh.
“Cảm ơn em”, anh đón lấy ly nước, uống cạn. “Ăn xong chúng
ta sẽ làm gì?”.
Trước đó anh chưa từng hỏi một điều như thế. Anh biết rõ

- 105 -
NHẬT PHI

những lề thói của nơi này, và có lẽ anh còn biết nhiều hơn em
tưởng. Đúng vậy, đêm của ngày oanh kích không giống như những
đêm khác.
“Bây giờ mọi người sẽ tới tập trung ở nhà bác sĩ Lindgren, để
hỗ trợ cứu chữa những người bị thương”, em đáp, bắt đầu thu dọn đĩa
ăn trên bàn. “Ấy là nếu chính họ không bị thương. Lần này chưa đến
lượt chúng ta, anh à”.
Vẻ sững sờ lướt qua ánh mắt của Nogias khi ấy gần với vẻ khi
sực nhớ ra một điều luôn biết hơn là thực sự bất ngờ hay ngạc nhiên.
Anh ấy ôm em rất chặt từ phía sau khi em đang đứng bên chậu rửa.
Rồi rất nhanh, anh buông em ra.
“Vậy ta đi thôi”.
Đón đợi Nogias và em ở phía bên kia cánh cửa là những hoang
tàn, thê lương. Một cảnh tượng mà em đã chứng kiến nhiều đến mức
quen thuộc, nhưng vẫn không ngừng gieo cho em cảm giác kinh hãi,
lợm giọng. Mùi khét, mùi hăng cay và thoảng cả chút mùi máu tanh.
Khói bụi mờ mịt mà vẫn không khuất lấp được những nỗi đau đang
sống dậy, sinh động rộn ràng trong thị trấn. Những người thanh niên
còn lành lặn chia từng nhóm đưa những người bị thương ra khỏi
những căn nhà đổ nát. Những người bị thương, và cả một vài bộ
phận cơ thể bị tách rời ra của họ, được đưa lên cáng và chuyển tới
nhà bác sĩ Lindgren. Mặt đất và những khu vườn bị xới tung, đến
mức không thể phân biệt được đâu là đất đâu là vườn nữa. Khắp thị
trấn là tiếng khóc, tiếng kêu thét, la ó, tiếng rên rỉ, những tiếng người
chồng chéo lên nhau như thể muốn tái hiện chuỗi rúng động tiếng
bom rơi.
Nogias vẫn tiếp tục tỏ ra bình tĩnh, anh tới phụ giúp một toán
người đang cố gắng nâng một thanh kèo lớn đang đè ngang chân
một người phụ nữ. Rồi anh cùng họ đưa chị ấy tới gia nhập vào đoàn

- 106 -
Thị trấn mùa đông
người đang vây quanh nhà bác sĩ Lindgren. Em thì mang phần củ cải
của mình tới góp cùng những người phụ nữ khác đang nấu xúp.
Kahn đi quanh khu vực cứu thương, vòng qua bàn phẫu thuật
nhắc nhở bác sĩ Lindgren rồi lại xuống chỗ những người đang chờ,
động viên, an ủi họ. Ngày oanh kích gần như là dịp duy nhất Kahn
xuất hiện trước mặt mọi người, và chỉ riêng sự có mặt của ông thôi
đã là một liều thuốc an thần với những người đang bị thương và một
điềm lạc quan với người nhà của họ. Mọi người thôi gào khóc, lặng lẽ
chờ đến lượt, lặng lẽ uống phần xúp của mình, rì rầm niềm hy vọng.
Đã luôn như thế trong vô số những ngày oanh kích trước đó, mọi
người đều hiểu và chấp nhận. Nhưng có một người thì không, người
chưa từng sống qua một ngày oanh kích nào trước đó.
“Bác sĩ Lindgren”, anh tới gần khi một bệnh nhân vừa được
đưa xuống khỏi bàn phẫu thuật, chuẩn bị cho một bệnh nhân khác.
“Người phụ nữ này bị tổn thương nội tạng, tôi nghĩ chúng ta nên
phẫu thuật cho chị ấy trước”.
Một vài tiếng la ó phản đối.
“Những người khác bị nhẹ hơn”, anh điềm nhiêm nói. “Tôi có
thể giúp họ phần nào”.
“Anh có thể làm được gì, chàng trai?”, bác sĩ Lindgren nhìn
nhanh xuống người phụ nữ mà Nogias đưa tới, gật đầu ra hiệu cho
mấy người đưa chị lên bàn phẫu thuật rồi mới quay sang anh.
“Xin hãy cho tôi một ít thuốc sát trùng và bông băng, tôi sẽ sơ
cứu cho những người bị nhẹ”, nhìn quanh một lần nữa, anh nói thêm.
“Và tôi có thể phân loại mức ưu tiên cho từng người”.
Bác sĩ Lindgren nhìn vào mắt anh trong vài giây, rồi bà chợt hỏi.
“Hiện cậu đang ở đâu?”.
“Tôi ở cùng Ionah, thưa bà”.
Nogias mở tay về phía em, và bà Lindgren nhìn theo. Rồi bà
gật đầu.

- 107 -
NHẬT PHI

“Vậy tôi nhờ cậu”.


Bác sĩ Lindgren nói những người phụ việc của bà lấy cho Nogias
những thứ mà anh yêu cầu rồi tập trung vào ca phẫu thuật cho người
phụ nữ.
Nogias không nói ngoa, anh đi lướt qua những người bị thương,
cắt đặt một thứ tự phẫu thuật cho họ, sơ cứu cho những người bị
nặng nhất và gần như xử lí hoàn tất cho những ca thương tích nhẹ.
Anh làm tất cả với vẻ tập trung quả quyết. Ánh mắt anh sáng rực
lên, bước chân anh sải dài, bàn tay anh thoăn thoắt, không gấp gáp,
mà cũng không để một giây nào bị bỏ phí. Mới đầu, mọi người còn
lên tiếng phản đối cái cách anh quyết định thời điểm được cứu chữa
của họ, nhiều người trong số họ thậm chí còn không biết anh là ai.
Nhưng rồi anh đã thuyết phục được họ, mà không cần nói thêm một
lời. Cả khu cứu thương trở nên ổn định và trật tự hơn, ca cứu thương
thực sự đã hoàn thành sớm hơn mọi thường rất nhiều.
Kahn đứng im lặng quan sát tất cả, trong khi em kín đáo liếc
về phía ông đôi lúc, trong suốt cả ca cứu thương có sự tham gia của
Nogias. Ông không tỏ thái độ gì rõ rệt, nhưng em biết có điều gì đó
lướt qua ánh mắt ông, một vài khoảnh khắc.
Mọi người lần lượt trở về những căn nhà đã được sửa chữa tạm
thời để ngủ qua đêm. Tất cả đều biết rằng sáng hôm sau, mọi chuyện
sẽ trở lại đúng như những gì vốn phải thế. Nhưng Nogias vẫn tiếp
tục nghĩ khác, em tin là thế. Anh im lặng trên đường trở về nhà, và
im lặng trong cả đêm đó. Em biết anh ấy hẳn đã kiệt sức sau ca cứu
thương, với ngần ấy máu và nỗi đau. Lẽ ra em mới là người kéo chăn
cho anh ấy ngủ, rồi quay trở lại bàn với tấm khăn mới chỉ đan được
một chút.
“Rồi anh sẽ rời khỏi đây, phải không?”.
Em hỏi, và Nogias gật đầu. Anh lặng yên nhìn em rất lâu, vuốt
tóc em, lướt nhẹ những ngón tay trên mặt em.

- 108 -
Thị trấn mùa đông
Anh có thể nào không đi không, Nogias?
Anh có thể chờ tới khi em đan xong khăn không?
Sao em lại không thể đi cùng anh?
Phải rồi, vì đó là tiền định…
Hình như em đã được bế lên, đặt xuống giường. Hình như em
đã mơ hồ nhìn thấy bóng anh ấy lần cuối, chập chờn theo ánh lửa lò
sưởi yếu dần. Phải, đó là lần cuối…

Ionah thở hắt ra một hơi nhè nhẹ, đứt đoạn như một tiếng nấc.
Tôi siết chặt hơn vòng tay quanh eo nàng và nàng vòng tay qua đó,
ấp lấy hai bàn tay tôi. Cơ thể nàng run lên nhè nhẹ trong vòng tay
tôi. Căn phòng tối và lạnh, lò sưởi đã tắt lửa từ lâu. Tôi luồn ra khỏi
tay nàng, đưa tay dém chăn quanh thân mình nàng. Trong một giây,
dường như đôi bàn tay nàng đã hớt hải tìm tay tôi. Rồi nàng quay
mình lại, dụi vào ngực tôi một chút ươn ướt.
“Ionah, Ionah”, tôi gọi khẽ, tên nàng như muốn dài ra mãi từ nơi
nào đó sâu hút trong lòng tôi. “Tôi sẽ không đi đâu hết. Tôi hứa đấy”.
Tôi không biết chắc được chuyển động mà ngực tôi đang cảm
nhận được có thật là một cái gật đầu của nàng hay không.

Đó cũng là một ngày oanh kích. Sau cơn địa chấn nhỏ, Makoto
tới nhà chúng tôi như thường lệ. Ba người chúng tôi ngồi bên lò sưởi,
quanh chiếc radio màu đen, hồi hộp chờ đợi. Nhưng Ionah cứ xoay
mãi, xoay mãi mà không có một âm thanh nào đáp lại sự chờ đợi của
chúng tôi, ngoài những tín hiệu nhiễu đến vỡ vụn. Chúng tôi kiên
nhẫn chờ thêm một lúc nữa nhưng chiếc radio vẫn không có gì để
nói. Makoto là người hết kiên nhẫn đầu tiên. Cô bé đứng dậy, vươn
vai trong khi hắt ra một tiếng kêu đầy thất vọng.
“A… Chán thế! Không được nghe truyện hay sao?”.
Makoto bắt đầu đi lại vòng vòng trong phòng, như muốn góp

- 109 -
NHẬT PHI

chuyển động của mình vào những vòng xoay nút vặn của Ionah. Tôi
nhún vai với cô bé rồi cúi xuống bên Ionah. Đó có thể là một ảo ảnh
của ánh lửa lò sưởi, nhưng trong khi tiếp tục tỉ mẩn xoay nút vặn
từng góc rất nhỏ một, ánh mắt nàng đùng đục nét lo âu, hơn là đơn
thuần sốt ruột. Thêm một vòng rưỡi nút vặn, nhiều vòng bước chân
quanh phòng của Makoto, đôi mắt Ionah chợt mở lớn trong một giây,
như thể nàng vừa nhận ra một điều gì đó. Nàng đột ngột đứng dậy,
cất chiếc radio trở vào trong tủ.
“Không có truyện kể ngày hôm nay thật rồi”, nàng kết luận với
Makoto, giọng nàng cố tỏ ra bình thản. “Em phải về thôi, Makoto”.
“Thật sao chị?”. Makoto tiu nghỉu. “Em đã chờ mãi”.
“Em không thể nói là em đã mong chờ ngày oanh kích được”,
nàng mỉm cười, bước ra mở hé cửa.
“Nếu những ngày đó là không thể tránh được”, Makoto nói như
thanh minh trên những bước chân uể oải ra phía cửa, “thì mong đợi
một kì truyện cuối ngày cũng đâu có gì sai?”.
Ionah khép lại cánh cửa khi Makoto đã lao ra bên ngoài bóng
tối. Rồi nàng quay lại, thả mình lên giường. Đó là một cảnh tượng
mới mẻ đối với tôi. Tôi gần như chưa từng thấy Ionah nằm trên
giường trước đây. Tôi luôn luôn chỉ thấy nàng làm việc trong vườn,
đứng nấu ăn trên bếp hay ngồi đan bên bàn. Nàng nằm quay lưng lại
phía tôi. Ánh lửa hắt lên bờ tường bóng hình thon thả của nàng, đậm
nét thêm những đường cong của cơ thể nàng trong làn váy tím.
“Thực ra em mới là người mong chờ những ngày oanh kích,”
nàng nói. “Ngày oanh kích luôn mang lại những khác biệt cho thị
trấn này… Cho em”.
Nàng trở mình, quay lại phía tôi. Nàng gác đầu lên một tay,
một tay đặt xuôi theo thân mình, khẽ khàng nắm lấy vạt váy áo, như
muốn cuốn nó lên.
“Đó là ngày anh đã đến đây với em”, nàng mỉm cười, nụ cười tôi

- 110 -
Thị trấn mùa đông
chưa bao giờ thấy trước đó, nụ cười hoàn tất vẻ đẹp nữ tính nơi nàng.
“Đến đây với em nào, Rei”.
Đó không phải là cách nói chuyện quen thuộc của nàng. Tôi
nghe tim mình lạc một nhịp, đôi chân như tự động trôi về phía nàng.
Tôi ngồi xuống giường, ngẩn ngơ ngắm nhìn nụ cười của nàng. Rồi
tôi tháo giày, cho cả hai chân lên giường. Nàng vẫn chỉ mỉm cười như
khích lệ, bàn tay trên thân váy khẽ giật giật. Tôi đặt tay mình lên đó,
rồi nằm xuống bên cạnh nàng. Gương mặt nàng thật gần, thanh tú,
khêu gợi đến choáng ngợp. Ánh mắt nàng còn hơn cả một biển trời
ngập trăng.
“Em đã luôn cố gắng trân trọng sự bình yên của nơi này, sự
bình yên trong em”, nàng nói. “Củ cải đỏ và bánh mì đen. Đêm tuyết
rơi. Truyện kể của bà Astrid. Nước suối để tưới vườn. Makoto. Tiếng
bom rơi trong ngày oanh kích”.
“Em luôn chấp nhận những tiền định, những quy luật. Em luôn
sợ rằng sẽ có điều gì đó kinh khủng lắm xảy ra khi vòng lặp này bị
phá vỡ. Em không bao giờ nghĩ mình có thể yêu một lần nữa. Em
không… được phép. Nhưng rồi anh lại tới”.
“Điều đó khiến em cảm thấy bất an sao?”. Tôi hỏi, lần bàn tay
đang đặt lên vai nàng.
“Em không thể lí giải được”, nàng đáp, ngần ngừ cắn môi.
“Nhưng em nghĩ nên thành thật với lòng mình. Không lề thói nào có
thể tồn tại mãi được”.
“Thứ gì sẽ tồn tại mãi?”. Bàn tay tôi tiếp tục lần lên cao nữa,
dừng lại nơi xương quai xanh của nàng.
“Khoảnh khắc này, Rei ạ, khoảnh khắc này”.
Nàng vươn tới, đặt lên môi tôi một nụ hôn. Tôi nhắm mắt, mở
miệng đón nhận hơi thở nàng, bờ môi nàng, nghe toàn thân đê mê
đến bủn rủn, nghe tan chảy hết những nghĩ suy. Đó là một cái hôn

- 111 -
NHẬT PHI

sâu, rất sâu, như thể nàng muốn cùng lúc hút lấy hết nơi tôi một điều
gì và truyền vào một điều gì đó khác. Khi tôi mở mắt ra, đèn đã tắt,
chỉ còn ánh lửa lò sưởi hắt sáng lên chúng tôi.
“Giúp em đi”, nàng cầm lấy tay tôi, nhẹ nhàng đặt lên ngực nàng.
Trong ánh lửa dường như cũng đã được chỉnh yếu đi, tôi giúp
nàng cởi bỏ váy áo. Tôi kéo gấu váy của nàng lên cao dần, trong lúc
nàng giúp tôi tháo cà vạt và mở nút áo sơ mi. Những ngón tay tôi
nghe tê dại. Bóng tôi đổ xuống nàng, khiến cho tôi không còn nhận
ra được màu đồ lót của nàng, chỉ có làn da trắng xanh xao như đang
sáng lên đến nao lòng. Hơi thở của chúng tôi gấp gáp hơn khi trút bỏ
những lần vải cuối cùng. Nàng ôm chặt lấy cổ tôi, tặng tôi thêm một
cái hôn sâu nữa.
Chúng tôi hôn khắp cơ thể nhau, cuồng nhiệt, như không muốn
chừa lại một phân vuông nào. Như thể đó là điều tự nhiên nhất trên
đời này. Nàng gọi tên tôi, chỉ gọi thôi mà như thúc giục. Tôi cũng đáp
lại, gọi tên nàng, như thể đó là ngôn từ duy nhất còn lại trên đời.
Từng hơi thở như từng lời nguyện cầu. Những chuyển động
này không phải một lề thói. Hơi ấm này không phải một tiền định.
Ngày hôm qua đã ở lại với chính nó. Và giây phút này là vĩnh cửu.
Và rồi tôi vỡ òa bên trong nàng, Ionah của tôi.

Một dải sáng mảnh, bàng bạc trắng rớt xuống mặt đất, rồi leo
lên mặt bàn. Tôi chớp mắt nhiều lần cho tới khi nhận rõ ra được cái
hình thù đang lách chách nhảy dưới ánh sáng kia là một con chim.
Một con chim đen với cái gáy xám. Đó là một con quạ. Con quạ thôi
nhảy khi tôi bắt đầu cựa mình. Nó nhìn tôi, nghiêng nghiêng cái cổ
như đang áng lường điều gì đó nơi tôi. Rồi nó nhảy lên thành ghế,
đậu lên cái cà vạt của tôi đang trên đó. Tôi ngồi dậy. Con quạ lại nhìn
tôi, nghiêng đầu ra phía cửa, cánh cửa mà khi nãy Ionah đã đóng lại.

- 112 -
Thị trấn mùa đông
Tôi có cảm giác nó đang muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi nhìn
xuống, và khi đã chắc chắn rằng Ionah vẫn đang thở đều trong giấc
ngủ có lẽ là êm đềm, tôi mới dợm đứng lên. Đó là khi con quạ quắp
lấy cái cà vạt của tôi và tung cánh bay ra ngoài cửa.
Tôi ngẩn ra trong một giây. Có gì đó mách bảo tôi rằng đây
chính là con quạ đã đẩy tôi từ trên vách núi tuyết xuống Thị trấn Mùa
đông này. Nếu đúng là như vậy thì hơn cả lấy lại cái cà vạt, tôi cần
phải đuổi theo nó. Tôi nhẹ nhàng xuống khỏi giường, cố gắng mặc
lại quần áo mà không phát ra tiếng động để tránh đánh thức Ionah.
Mặc xong quần và áo sơ mi, tôi đẩy cửa lao ra ngoài, hy vọng con quạ
chưa bay đi xa quá.
Đón đợi tôi ở bên kia cánh cửa là một miền trắng bạc đến chói
lòa. Trong khoảnh khắc, tôi bị choáng ngợp tới mức mọi giác quan
như bị tê liệt. Vầng trăng khuyết trên nền trời tỏa một thứ ánh sáng
trắng, lạnh lùng mà huy hoàng, dát bạc lên toàn bộ cảnh vật, lên
những mái nhà, những khoảnh vườn. Không, dường như không chỉ
là mặt trăng, mà cả thị trấn đang tự dát bạc lên chính nó, mỗi sự vật
dưới nền trời này hình như đều đang sáng lên, ngay cả những cái hố
toang hoác trên mặt đất mà cuộc oanh kích để lại. Bầu không khí
lạnh căm, dù cho đêm nay tuyết không rơi. Tất thảy tĩnh lặng tắm
trong biển ánh sáng ấy.
Khi đã lấy lại được dòng suy nghĩ, tôi bắt đầu nhìn quanh tìm
kiếm và nhận ra con quạ, với cái cà vạt của tôi trong những cặp móng
nhọn, đang đứng trên một mái nhà gần đó. Nó đang đợi tôi hay cũng
đang choáng ngợp như tôi trước cảnh tượng này? Nó bay đi khi tôi
chạy tới gần ngôi nhà đó, chỉ để nhanh chóng đáp xuống một mái
nhà khác.
Cứ thế, dưới ánh trăng lạnh lùng, tôi và con quạ tham gia vào
một màn đuổi bắt từ mái nhà này qua mái nhà khác. Nó không vội

- 113 -
NHẬT PHI

vã, tôi biết chắc như vậy, chừng như bản thân trò đuổi bắt này mới là
mục đích của nó. Cái cà vạt của tôi chỉ là một cái cớ không hơn. Rồi
tôi nhận ra thêm một điều nữa. Con quạ đang dẫn tôi đi không phải
trên một cung đường không hề ngẫu nhiên. Vùng não sâu thẳm tiềm
thức tôi đang tự động tái hiện lại lộ trình này, đoạn đường mà tôi đã
đi ngay lần đầu tiên tôi thức dậy trong thị trấn này.
Tòa thị chính hiện ra trước mắt khi con quạ cuối cùng cũng thả
cái cà vạt của tôi xuống nền đất sát bên hông một căn nhà nọ. Khi cúi
xuống để nhặt nó lên, tôi chợt nghe bầu không khí xung quanh mình
xáo động, qua khóe mắt, tôi thấy một hình thù nào đó lướt qua trên
không. Một hình thù với đôi cánh màu hung. Đó là con cú! Con quạ
đã biến mất, là là trên những mái nhà chỉ còn lại con cú hung. Trong
một giây, tôi tưởng đâu con cừu cũng sẽ sớm xuất hiện trở lại trước
mắt mình. Nhưng không có một con cừu nào cả, con cú cũng không
buồn nhìn xuống phía tôi. Nó lướt qua phía tôi với một vẻ bất cần,
như một kẻ trở về sau một nhiệm vụ và không còn cần quan tâm tới
điều gì khác. Nơi nó trở về, chính là toà thị chính.
Cánh cửa tòa nhà lớn bật mở, và Kahn bước ra. Không hiểu vì
sao, tôi vội vã đứng nép vào hông căn nhà bên cạnh, ghé mắt nhìn ra.
Tôi không thực sự có ý định tránh mặt Kahn, nói cho cùng, việc còn
lang thang ở bên ngoài vào lúc này cũng không hoàn toàn là lỗi của
tôi. Nhưng nếu như ông đã không nhìn thấy tôi ngay từ đầu, tôi có
cảm giác việc tôi xuất hiện sau đó mới thực sự là một tội lỗi.
Con cú tìm tới Kahn một cách hết sức tự nhiên, trên một đường
bay định sẵn. Nó đậu xuống vai ông thị trưởng, rúc lên vài hồi nhè
nhẹ, tựa một lời thông báo. Kahn gật đầu, rồi ông làm một động tác
gì đó giống như một cử chỉ chấp thuận, hoặc một tín hiệu hành động.
Vẫn mang theo con cú hung trên vai mình, Kahn lẳng lặng lùi vào
bên trong tòa thị chính. Họ chắc hẳn đã không hề nhìn thấy tôi.

- 114 -
Thị trấn mùa đông
Tôi bước ra khỏi bóng tối của căn nhà, và nhận ra con quạ từ
bao giờ đã quay trở lại trên mái nhà. Nó đang nhìn về phía cánh cửa
tòa thị chính vừa mới đóng lại, xoay cái gáy xám về phía tôi.
“Này quạ…” tôi dợm lời, và con quạ quay lại. “Nói tôi nghe…”.
Con quạ không đáp, thay vào đó, nó ngẩng đầu lên trời. Tôi làm
theo, đó là khi tôi nhận ra tuyết bắt đầu rơi. Tuyết vẫn rơi trong đêm
ngày oanh kích, ấy là suy nghĩ đầu tiên tìm đến tôi, một nhận thức.
Suy nghĩ thứ hai đến ngay khi con quạ nhìn tôi một lần cuối, trước
khi tung cánh bay đi, về phía rặng núi tuyết xa xa. Ở ngoài dưới trời
mưa tuyết là một điều cấm kị, một sự nhắc nhớ. Tôi bắt đầu bước đi
về phía nhà của Ionah.
Tuyết rơi dày và nặng hạt lên với tốc độ đáng kinh ngạc. Chẳng
mấy chốc, những bước chân của tôi đã bắt đầu lún xuống tuyết, buộc
tôi phải bước đi nhanh hơn, gần như là chạy. Khi tôi nhìn quanh để
xác định phương hướng, tuyết đã phủ kín gần như toàn bộ mặt đất,
lấp đầy cả những hố bom. Tuyết đã ngập lên tới cẳng chân khi tôi
không còn nhận ra đường về nữa. Bốn phía là tuyết trắng. Trên tay
tôi là cái cà vạt sọc xanh xám giờ đây đã có thêm một vết rách nhỏ,
không dài hơn một đốt ngón tay, hẳn là do móng vuốt của con quạ.
Tuyết đậu nặng trĩu trên vai tôi, như muốn nhấn tôi chìm sâu
hơn xuống lớp tuyết trên nền đất. Và rồi tôi thực sự khuỵu xuống
nền tuyết, chân tôi sa xuống một trong những cái hố bom đã bị tuyết
giấu đi. Trước khi lịm đi, cảm nhận tuyết đang phủ kín thân mình,
tôi chợt nghĩ ra, trong đêm trắng này, với con cú hung và con quạ gáy
xám… chẳng phải chính tôi mới là con cừu hay sao?

- 115 -
NHẬT PHI

NGÀY HÔM QUA KHÔNG TRỞ LẠI

K hi tỉnh dậy, tôi nhận ra mình đang nằm trên giường của
Ionah, với tấm chăn con công đắp ngang lưng và đôi giày
xếp ngay ngắn dưới chân giường. Ionah đứng bên bếp, chăm chú
khuấy nồi xúp củ cải đỏ, hệt như cái ngày tôi thức dậy ở nơi này lần
đầu tiên. Tôi ngồi dậy, lắc đầu nhiều lần để tìm lại một ý niệm. Đêm
qua là một đêm trắng. Ionah. Đêm trắng. Vầng trăng khuyết ánh bạc.
Con cú hung. Con quạ gáy xám. Và tôi. Và Ionah. Bên ánh lửa chập
chờn. Điều gì trong ấy là thực? Hay tất cả chỉ là một ảo giác của tôi?
Rồi tôi nhận ra có một vật đang ở trên tay mình: cái cà vạt. Với
một vết rách nhỏ, không dài hơn một đốt ngón tay.
Tôi đeo cà vạt lên cổ rồi xuống khỏi giường. Ionah chào tôi
trong khi bắt đầu múc xúp vào đĩa. Gương mặt nàng bình thản, an
yên, nhưng nàng khẽ đẩy tôi ra khi tôi tới ôm nàng từ phía sau.
“Nào, Rei, em đang chuẩn bị bữa sáng mà”, nàng nói, không có
điều gì khác lạ trong giọng nàng, nhưng điều đó lại khiến tôi mơ hồ
bất an.
Đó có thể đã là một ngày hôm qua bình thường khác, khi tôi
và Ionah im lặng ngồi ăn bánh mì và xúp củ cải. Không ai trong
hai chúng tôi nói gì về đêm hôm trước. Tôi thậm chí không thể hỏi
nàng hay ai khác đã tìm thấy tôi trong tuyết và đưa tôi về đây. Nhưng
những ngày hôm qua đơn giản là không trở lại.
Khi tôi và Ionah bước ra khỏi nhà cho ca làm vườn buổi sáng,

- 116 -
Thị trấn mùa đông
tôi nhận ra Thị trấn Mùa đông của ngày hôm ấy có đôi chút khác lạ.
Bầu không khí buổi sáng sớm còn lẩn quất chút hơi lành lạnh, rất
nhẹ thôi, nhưng cũng đủ để làm nên một khác lạ. Nhưng điều khác lạ
hơn cả là sự vắng mặt của rất nhiều người trên những khoảnh vườn.
Đi thêm một chút nữa, chúng tôi thấy một nhóm khá đông người
dân đang túm tụm lại xung quanh một thứ gì đó. Đám đông có cả
người lớn, thanh niên và cả trẻ con nữa. Họ rì rầm bàn tán, những
tiếng rì rầm như đóng băng thành một khối lo sợ đậm đặc trên đầu
họ, trong tiết trời trở lạnh đột ngột này.
Thứ những người đó đang đứng vây quanh là một cái hố trên
mặt đất mà mọi người dễ dàng nhận ra là một hố bom, một cái hố
nông, điểm sâu nhất cũng chỉ cách mặt đất một khoảng bằng một
cánh tay người lớn. Không có chứng cớ nào cả, nhưng tôi ngay lập tức
nhận ra đây là cái hố tôi đã sa chân xuống trong đêm trước. Thoáng
chốc, tất cả những ánh mắt lướt qua tôi đều giống như một lời cáo
buộc, oán trách. Khối lo sợ kia như đang đổ ập xuống đầu tôi trong
giây phút ấy. Ionah nắm lấy tay tôi, ân cần gại nhẹ bằng những đầu
ngón tay của nàng. Nàng có hiểu được cảm giác tội lỗi vô cớ này của
tôi không? Hay chính nàng cũng đang lo sợ trước sự lạ này, một điều
lẽ ra không thể có ở Thị trấn Mùa đông bình yên của nàng?
Mọi người đột nhiên giãn ra, và Kahn xuất hiện, trong bộ áo
chùng nâu. Không nói một lời, ông cúi xuống bên miệng hố, trầm
ngâm quan sát. Rồi ông đứng dậy, đằng hắng, xua tay ra hiệu cho
mọi người tản đi. Ionah cũng kéo tôi đi, nhưng vì một lí nào đó, tôi
vẫn đứng lại, cho tới khi quanh miệng hố chỉ còn lại hai chúng tôi
và Kahn. Vị thị trưởng nhìn tôi, một cái nhìn xoáy sâu như cái cách
người đàn ông - tượng đá đã xuyên bàn tay vào lồng ngực tôi. Nhưng
trước cả khi tôi kịp nghĩ xem cái nhìn này có thể lôi được điều gì đó
từ trong tôi ra không thì Kahn đã ngừng lại. Đó là vì bà Astrid đã tới
đứng bên cạnh ông.

- 117 -
NHẬT PHI

“Chào buổi sáng, ngài thị trưởng”, bà nói với ông nhưng lại hấp
háy mắt nhìn tôi. “Thật hiếm hoi thấy ngài đi ra ngoài như thế này”.
“Gọi tôi là Kahn, Astrid”, Kahn hắng giọng. “Bà biết tôi cần làm
gì cho thị trấn này mà”.
“Phải rồi, thị trấn này cần ông, Kahn ạ”, bà nói, và lại nhìn tôi,
qua làn khói thuốc bà vừa thở ra. “Cũng như bất kỳ ai khác”.
“Hy vọng tôi sẽ không phải đi ra ngoài thêm một lần nào nữa”,
Kahn nói, khi ông quay lưng bỏ đi.
“Cũng tức là ông sẽ không phải gặp tôi một lần nào nữa”.
Bà Astrid nói theo, nhưng Kahn không đáp.
“Chào Ionah, chào Rei”, bà nói với chúng tôi. “Rất vui được thấy
hai người vẫn khỏe mạnh thế này”.
Ánh mắt bà rõ ràng là mang vẻ thú vị, như thể bà đã đọc được
điều gì đó mới trong chúng tôi. Nụ cười móm mém của bà vừa như
thích thú, vừa như hài lòng, như thể bà đã được thấy điều gì mình
nửa tin nửa ngờ sẽ xảy đến suốt bấy lâu.
“Hôm nay cậu có muốn nghe truyện không, Rei?”.
“Ơ, con rất muốn…”, tôi bị bất ngờ. “Nhưng con cần phải…”.
“Không sao đâu anh”, Ionah mỉm cười. “Anh đi cùng bà Astrid
đi. Em vẫn làm vườn một mình được mà”.
“Cảm ơn Ionah”, bà Astrid cười. Hai người phụ nữ trao đổi với
nhau một ánh nhìn vẻ thông đồng trước khi bà Astrid quay lưng
bước đi và Ionah buông tay tôi ra.
“Anh sẽ quay lại sớm”.

Nhưng truyện kể của bà Astrid vào buổi sáng đó rốt cuộc vẫn là
cuộc phiêu lưu của anh em Quy Ròn trong Thung lũng Hoa anh đào.
Vẫn giọng kể ấy, vẫn câu chuyện ấy, và vẫn những khoảng nghỉ nhập
nhèm hơi thuốc. Chốc chốc, bà Astrid lại ngước lên, nhìn lướt qua

- 118 -
Thị trấn mùa đông
đám trẻ và dừng lại với sự thắc thỏm nơi tôi. Cảm giác như bà đang
muốn kể cho tôi một điều gì đó khác chứ không phải câu chuyện này,
thứ vẫn đang được đám trẻ nuốt lấy từng lời. Nhưng rồi, đâu đó ở
giữa truyện kể, khi hai anh em Quy Ròn đang lần vào trong hang tối
để giải cứu thủ lĩnh nghĩa quân, một cánh tay chợt phất lên cao giữa
đám trẻ.
“Bà ơi”, đó là một cô bé gầy guộc có mái tóc đỏ rực và gương
mặt lốm đốm tàn nhang. “Hình như đoạn này bà kể rồi ạ…”.
Ý kiến của cô bé nhanh chóng bị nhấn chìm bởi những tiếng
nhao nhao của những đứa trẻ khác. Nhưng tôi thực sự ngạc nhiên,
và bà Astrid thì chậm rãi giơ lên một cánh tay, dập tắt những phản
đối và ôn tồn hỏi.
“Pippi, sao con lại nghĩ vậy?”.
“Thưa bà”, cô bé ngập ngừng, dường như hoài nghi chính trí
nhớ của mình trước phản ứng của chúng bạn. “Con nhớ mang máng
là Quy Ròn đã đi vào hang rồi…”.
“Vậy con nghe tiếp xem có đúng không nhé”, bà Astrid đáp, với
một vẻ gần như là xúc động.
Tôi trở lại nhà khi buổi kể chuyện đã kết thúc như mọi ngày
hôm qua khác, cái hố bom hãy còn ở đó, thu hút ánh nhìn từ bất kì ai
đi ngang qua, như thể họ đều bối rối vì không biết phải làm gì với nó.
Những ánh mắt ấy, cũng như câu hỏi bất ngờ được tung lên không
trung của cô bé tóc đỏ, đã cho tôi nhận ra rằng, ngày hôm qua đã
thực sự qua đi trên Thị trấn Mùa đông này.

Nhưng sự thay đổi lớn nhất mà tôi nhận ra được, cũng là điều
tôi quan tâm hơn hết thảy, là ở nơi Ionah. Những sự thay đổi diễn ra
chậm, gần như khó có thể thấy được theo mỗi ngày hôm qua mới đến
và đi, nhưng đến khi tôi giật mình nhận ra, tôi mới ý thức được rằng
chúng đã luôn có ở đó rồi, kể từ sau cái đêm trắng ấy.

- 119 -
NHẬT PHI

Nàng bắt đầu ăn nhiều hơn, mỗi ngày một chút, nhưng tôi chỉ
có thể nhận ra vào một bữa sáng nọ, khi nàng chỉ vào ổ bánh mì mà
tôi đã xé ra một nửa và hỏi “Anh còn ăn nữa không, Rei?”. Tôi vui
vẻ nhường lại nửa ổ bánh cho nàng, và từ sau hôm đó, giỏ bánh mà
chúng tôi mang về từ nhà ông Nicolas luôn có thêm một ổ bánh nữa.
Nàng cũng bắt đầu tỏ ra khó ở. Mới đầu là chỉ những khi tôi có ý định
gần gũi nàng. Những cái ôm, những cái nắm tay thưa dần, và cho tới
khi nàng phản đối ngay khi tôi mới chỉ chạm vào tóc nàng, tôi mới
nhận ra những nét mỏi mệt đã luôn hiện hữu trên gương mặt nàng,
nơi bọng mắt nàng thâm quầng.
Tôi đơn giản nghĩ rằng nàng đang không được khỏe, ngoại trừ
việc hình như nàng đang bắt đầu mập lên. Chính Makoto là người
cho tôi biết điều gì mới đang thực sự diễn ra. Đó là một ngày, khi ba
người chúng tôi đang cùng ngồi ăn trưa. Ionah đột nhiên buông thìa
xúp xuống, một cách khẩn thiết, nàng đứng dậy, nhào tới bên bồn
rửa và bắt đầu gập mình ọe khan.
“Ionah”, Makoto mở lớn đôi mắt. “Lẽ nào chị…”.
Ionah lắc đầu không đáp. Rồi nàng ngồi xuống giường, nhìn tôi
thều thào.
“Rei à, em khát…”.
Tôi đứng dậy, lấy cho nàng một ly nước từ vòi, nhưng nàng xua
tay khi tôi đưa ly nước tới trước mặt nàng.
“Không phải nước này, anh à…”. Nàng khó nhọc nói, nuốt nước
miếng nhiều lần. “Nước suối…”.
“Anh ra suối lấy nước đi”, Makoto nói khi đưa cho tôi cái xô
thiếc, trước khi tôi kịp cảm thấy lạ lùng. “Em sẽ ở lại đây với Ionah”.
Ngày hôm đó, xô nước trên tay tôi không còn trĩu nặng nữa.
Tôi múc đầy một xô nước và rảo bước trở về nhà từ bờ suối, không
nghĩ đến điều gì khác ngoài cơn khát của Ionah. Tôi nghĩ mình đã đi

- 120 -
Thị trấn mùa đông
ngang qua Matel trên đường về, nhưng anh ta không bộc lộ thái độ
gì cả.
Makoto đứng đợi tôi nơi ngưỡng cửa. Cô bé chặn tôi lại, vẻ mặt
nửa nghiêm trang nửa háo hức.
“Rei này, anh không biết Ionah đang có chuyện gì phải không?”.
Tôi gật đầu, và Makoto bật cười với vẻ lo lắng của tôi.
“Không sao đâu”, cô bé đón lấy xô nước từ tay tôi. “Chúc mừng
anh chị. Anh sắp làm cha đấy! Và Ionah thì sắp làm mẹ”.
Gương mặt cô bé rạng rỡ mơ màng. Và tôi nghĩ mình đã thực
sự ngây ra. Một điều gì đó đang nổ lách tách trong đầu tôi khi tôi
lấy lại xô nước từ tay Makoto và lao vào nhà. Ionah đang nằm trên
giường, nàng đón tôi bằng một nụ cười yếu ớt. Tôi đỡ nàng dậy đưa
cho nàng ly nước suối. Trong khi nàng uống nước với vẻ tri ân, tôi
khẽ khàng đặt tay lên bụng nàng. Một giai điệu êm ái gõ nhịp lên bàn
tay tôi, cộng hưởng với nhịp đập trái tim chính tôi và nàng.
“Rei, anh chào con gái của chúng ta đi”, nàng mỉm cười.
“Sao em biết?”.
“Vì đó là con gái chúng ta mà”, nàng nói, đặt lên má tôi một nụ
hôn nhẹ. “Cảm ơn anh, Rei”.

- 121 -
NHẬT PHI

VIENA

B ằng cách nào đó, cái hố đã biến mất sau đêm hôm đó.
Không đứa nhóc nào trong đám trẻ còn thắc mắc về sự
lặp lại của truyện được kể bởi bà Astrid. Thị trấn Mùa đông dường
như đang cố gắng đưa tất cả trở lại với những ngày hôm qua của nó.
Nhưng chúng tôi biết rằng ngày hôm qua đã ở lại đằng sau rồi, mỗi
ngày của chúng tôi sẽ luôn là một ngày mới. Chắc chắn là như vậy.
Vì sao tôi biết ư? Tôi biết khi nhìn vào nét mặt mệt nhọc nhưng
rạng rỡ hơn mỗi ngày nơi Ionah. Tôi biết khi con gái của chúng tôi lớn
dần trong nàng. Tôi biết khi tôi kiên quyết bắt nàng ở nhà nghỉ ngơi và
để tôi đi làm vườn một mình. Và tôi biết khi Makoto đột nhiên nói, khi
tôi và cô bé đang gieo hạt củ cải và tưới nước trong vườn.
“Anh đang vừa làm vừa cười đấy, Rei”, cô bé nói, cũng với một
nụ cười.
“Vậy à?”. Tôi dừng tay, nhưng vẫn cảm nhận rất rõ cơ mặt mình
đang giãn ra không thể đừng được. “Ừ, anh đang rất hạnh phúc đấy”.
“Em biết mà”, cô bé cúi xuống tiếp tục tưới nước rồi nói tiếp mà
không ngẩng lên. “Em bé thật là may mắn…”.
“Em nói sao?”.
“Bé gái của anh chị thật là may mắn. Bé sẽ được sinh ra và lớn
lên với cả cha và mẹ ở bên… Và ở một nơi không có bọn người xám”.
Trong giọng nói của cô bé phảng phất một chút ganh tị, và tôi
một lần nữa không biết phải đáp lại cô thế nào.

- 122 -
Thị trấn mùa đông
Và những ngày như thế cứ thế trôi đi. Hàng ngày, tôi sẽ thức
dậy trước, hôn thật nhẹ lên mái tóc nàng thay cho lời chào buổi sáng
rồi xách giỏ đi lấy bánh mì. Ionah sẽ thức dậy khi tôi trở về, nấu bữa
sáng cho hai chúng tôi, việc duy nhất mà nàng vẫn tiếp tục không
để tôi đụng tay vào. Công việc buổi sáng của tôi ngoài làm vườn còn
có ra suối lấy nước về cho nàng. Nàng luôn uống nước suối với một
gương mặt đầy phúc lành, như thể đó là một nghi thức với một thứ
nước thánh nào đó. Nét mặt ấy của nàng, cùng với hình hài đang lớn
lên từng ngày bên trong nàng, khiến cho việc xách nước đối với tôi
không còn chút nào là mệt nhọc, mà gần như đã là một niềm vui.
Dần dà, một xô nước suối cũng không còn đủ với nàng, và tôi hoàn
toàn vui vẻ lấy thêm cho nàng một xô nước mỗi ngày. Dường như
nước suối mới thực sự là nguồn dinh dưỡng nàng cần để nuôi lớn
con gái bé nhỏ của chúng tôi. Đó là những ngày vất vả nhưng yên
bình đối với cả hai chúng tôi. Đã rất lâu rồi bom không còn rơi trên
Thị trấn Mùa đông. Đã nhiều ngày chúng tôi chỉ còn sống trong
niềm hạnh phúc mong chờ. Lần đầu tiên từ khi tới đây, tôi có cảm
giác vội vã.
“Ionah ơi, Rei ơi”, Makoto chợt hỏi, trong một bữa trưa, khi
ngày ấy đã gần lắm. “Bé con tên gì anh chị nhỉ?”.
Tôi dừng lại, nhận ra mình chưa từng nghĩ tới điều đó. Tôi nghĩ
về cái tên của mình, hay cái tên mình đang mang ở thị trấn này. Tôi
nhìn nàng, thoáng lo sợ về một tiền định nào khác nữa.
“Em nghĩ sao?”.
“Viena”, nàng mỉm cười. “Em đã muốn dành để nói với anh khi
anh bế con trên tay. Nhưng Makoto hỏi mất rồi”.
“Viena, Viena…”. Tôi ngơ ngẩn nhẩm lại cái tên ấy. Viena, tên
con mang một âm hưởng tươi mới, hiền hòa, cũng như những ngày
này của ta vậy. Đúng vậy, đó là cái tên đẹp nhất mà tôi từng được nghe.

- 123 -
NHẬT PHI

“Viena”, Makoto cũng tỏ vẻ ấn tượng. Cô bé vuốt nhẹ lên bụng


của Ionah. “Viena, chào con, đứa bé đầu tiên chào đời ở Thị trấn
Mùa đông”.
Viena, đó là tên con, là tên sự mong chờ của ta, là lí do cho sự
vội vã của ta những ngày này, là tình yêu, là niềm hy vọng. Gọi tên
con mỗi ngày là mục đích của ta.
“Nào, Rei”, Ionah khúc khích cười, lùa bàn tay nàng vào tóc tôi.
“Viena vẫn còn chưa ra đời mà”.
“Anh không thể chờ được”.
Nụ cười vẫn đó, nhưng ánh mắt nàng hình như đang hướng về
nơi xa xăm nào đó. Chỉ là khi đó tôi đã không nhận ra. Tôi đang ngây
ngất trong niềm hạnh phúc mới này.
Viena.

- 124 -
Thị trấn mùa đông

NGÀY OANH KÍCH CUỐI CÙNG

Đ ó là ngày Ionah trở dạ. Nàng đang nằm trên giường, kêu
thất thanh khi tôi và Makoto trở về nhà sau ca làm vườn
buổi chiều. Tôi lao tới bên nàng, nắm lấy tay nàng. Nàng siết chặt tay
tôi, hổn hển.
“Rei, em… Em sắp sinh rồi”.
“Thật sao em?”. Trong tôi khi ấy là niềm vui bùng nổ trộn lẫn
với nỗi lo lắng khi chứng kiến vẻ đau đớn của nàng. “Anh… Anh phải
làm gì?”.
“Tìm bác sĩ Lindgren… Bà Astrid”, nàng hẳn phải rất khó nhọc
để nói với tôi, giữa cơn đau đớn khôn cùng. “Bà ấy sẽ biết…”.
“Đi đi, Rei!”. Makoto khẩn thiết bảo tôi. “Em sẽ trông chị ấy”.
Không cần thêm một lời, tôi đẩy cửa lao ra bên ngoài, trong
đầu không còn gì khác ngoài đoạn đường tới nhà bà Astrid. Tôi nghĩ
mình đã chạy nhanh hơn cả cái ngày đầu tiên, khi những quả tên lửa
liên tục rơi xuống phía sau mình. Cánh cửa nhà người kể chuyện bật
mở gần như ngay khi tôi mới đưa tay chạm vào đó. Người phụ nữ ở
cùng bà lập tức đứng lùi lại khi thấy tôi, và tôi thấy bà Astrid đã đứng
ở đó, với một túi vải lớn. Bà đang đợi tôi.
“Bà Astrid ơi…”. Tôi nói không ra hơi.
“Ionah sắp sinh phải không?”. Bà nói, rồi không đợi tôi trả lời,
bà đưa cái túi cho tôi và tất tả bước khỏi nhà. “Mau lên thôi”.
Nhưng dù cho cố gắng nhanh đến thế nào, người kể chuyện già

- 125 -
NHẬT PHI

cũng khó lòng bắt kịp được tôi. Tôi phải cố gắng đi chậm lại và đỡ bà.
Tôi nhận thấy bác sĩ Lindgren cũng vội vã và lo lắng không kém gì
tôi. Và đó là lúc bom bắt đầu rơi. Quả tên lửa đầu tiên phát nổ ở cách
chúng tôi một quãng xa, nhưng chừng đó là đủ để tôi bắt đầu hoảng
loạn. Tôi đứng sững lại, nhìn bà Astrid trong một giây. Tôi biết rằng
sẽ không kịp nếu như chúng tôi dừng lại và tìm chỗ trú. Nhưng bà
Astrid đã đi vượt lên trước tôi, bà nắm lấy cổ tay tôi.
“Đi theo tôi, Rei”, bà nói quả quyết, và tôi ngay lập tức làm theo.
Bà Astrid dẫn tôi đi, cẩn trọng mà vẫn vội vã. Bom bắt đầu rơi
xung quanh chúng tôi, rất gần, nhưng bằng cách nào đó, những bước
chân của bà Astrid hoàn toàn tránh được những xung động của cuộc
oanh kích và tôi chỉ việc đi theo bà. Đó là quãng đường dài nhất tôi
từng đi ở Thị trấn Mùa đông này. Quãng đường, và nỗi lo lắng, và nỗi
sợ hãi, và sâu thẳm là niềm hạnh phúc phải tạm thời quên đi.
“Cậu ra ngoài một chút đi Rei”, bà bình tĩnh nói khi chúng tôi
đã vô sự tới nơi, giữa tiếng gào khóc của Ionah và tiếng bom vẫn
đang khủng bố thị trấn này. “Cứ đứng sát vào cửa, đừng đi đâu cả.
Nơi này an toàn rồi”.
Ionah nhìn tôi đầy bất nhẫn, nước mắt nàng đã chảy, bàn tay
nàng run rẩy khi từng ngón tay buông lỏng tay tôi ra. Chúng tôi đều
biết cần phải nghe theo lời bác sĩ Lindgren.
“Gắng lên em”.
Tôi nói, hôn lên trán nàng. Tôi đã gần như khuỵu xuống khi
đóng lại cánh cửa nhà sau lưng mình. Trước mắt tôi là khói bụi, sau
lưng tôi là niềm hi vọng.

Tiếng khóc của Viena cất lên ngay khi tiếng bom cuối cùng vừa
dứt. Hay chính là tiếng khóc của con đã buộc cuộc oanh kích phải
dừng lại. Không một dư âm chấn động nào lọt được vào tai tôi nữa,

- 126 -
Thị trấn mùa đông
chỉ còn tiếng con gái tôi đang mãnh liệt chào cả Thị trấn Mùa đông,
chào cả thế giới, chào Ionah và tôi, đang thật lực đòi lấy làn không
khí đầu tiên trong đời.
Cánh cửa nhà bật mở sau lưng tôi, và Makoto đang vừa cười
vừa khóc.
“Anh ơi…”.
Tôi thậm chí không còn kịp nghĩ tới việc đáp lời cô bé. Tôi bước
vào nhà, và kia, thiên thần nhỏ của tôi, ánh mặt trời của tôi, Viena
của tôi, con đã thôi khóc và đang say ngủ trên tay bà Astrid, trong
một lần vải xanh êm ái. Tôi đón lấy Viena từ tay bà, say sưa ngắm
gương mặt xinh đẹp vô ưu của con.
“Nào, Rei”, Ionah thều thào gọi tôi, niềm hạnh phúc không hề
bị vẻ mệt nhọc khuất lấp. “Lại đây cho em ngắm con với nào”.
Tôi bế Viena lại, quỳ xuống bên giường nàng. Tưởng chừng
như rất lâu, tôi và Ionah cùng im lặng bên Viena. Cả tôi và nàng đều
bất giác thở thật khẽ, thật khẽ. Rồi cũng thật khẽ, nàng đặt môi lên
trán con.
“Viena, mừng con ra đời”.

“Bà Astrid, Makoto”, Ionah nói, với một chút khó khăn khi tự
nhắc mình rời mắt khỏi Viena, và tôi cũng vậy. “Cảm ơn hai người”.
“Đừng nói thế, Ionah thân mến”, bà Astrid đáp, trong khi
Makoto hãy còn nấc. “Được đón đứa trẻ đầu tiên ra đời ở Thị trấn
Mùa đông là một vinh hạnh lớn của tôi. Ionah, Rei, hai người cho
phép tôi chúc phúc cho Viena chứ?”.
Chúng tôi không có lí do gì để từ chối. Tôi bế Viena lại gần
người kể chuyện và bà cúi đầu thật thấp xuống bên con, thì thầm
điều gì đó tôi không nghe rõ. Giọng bà cất lên mơ hồ như một bài
kinh nguyện. “Mong cho tương lai là của con”. Đó là câu hoàn chỉnh
duy nhất mà tôi nghe được.

- 127 -
NHẬT PHI

“Chúc mừng cô cậu”, bà nói khi đã làm xong nghi lễ chúc phúc
nho nhỏ của mình. “Viena là cả một kỳ quan đấy”.
“Giờ thì, tôi phải xin lỗi Ionah một chút. Cô có thể cho tôi
“mượn” Rei một chút không? Tôi cần ai đó đưa mình về nhà”.
“Bà để con”, Makoto dợm tiến lại, có phần miễn cưỡng, nhưng
Ionah đã ngăn cô bé lại.
“Vâng”, nàng nói. “Rei à, anh đưa bà Astrid về đi. Rồi về đây với
em và con”.
“Làm phiền cậu, Rei à”.
Khi đặt Viena lên đôi tay háo hức của Makoto, tôi nhận ra một
bàn tay bà Astrid đã luôn đặt lên hông kể từ khi tôi bước lại vào
phòng, và từ đó dường như đang ri rỉ ra một sắc đỏ quạch. Không ai
khác có vẻ nhận ra điều đó, vậy nên tôi đơn giản đỡ bà bước ra ngoài,
sau khi chào tạm biệt ba người phụ nữ còn lại trong phòng.
Bà Astrid ngã quỵ xuống ngay khi tôi khép cửa lại sau lưng. Khi
đỡ bà dậy, tôi thấy một vết thương lớn nơi hông bà, nơi máu đã bắt
đầu chảy tràn ra, nhuộm đỏ cả bàn tay gầy guộc.
“Một mảnh bom, Rei ạ”, bà nói, khó nhọc đứng lên. “Cũng
không phải chuyện gì to tát lắm”.
Xâm lấn tôi là một cảm giác áy náy đến tội lỗi. Bà đã đỡ đẻ cho
Ionah với vết thương này suốt chừng ấy thời gian ư?.
“Quay vào nhà thôi bà”, tôi đỡ lấy bà, dợm quay lưng đẩy cửa,
nhưng bà giữ tôi lại.
“Không, Rei ạ, tôi cần phải về nhà”, bà nói, giờ đây cơn đau đã
hiển hiện lên gương mặt và giọng nói của bà. “Đó là nơi duy nhất tôi
được phép…”.
Bà bỏ lửng câu nói, và bắt đầu bước đi, chừng như không cần
biết tôi có đi theo bà hay không. Tôi không còn lựa chọn nào khác là
đi theo bà, cảm nhận bàn tay níu lấy tay tôi đang mỗi lúc một nặng
hơn. Nhưng bà tỏ vẻ hài lòng khi tôi đi cùng bà.

- 128 -
Thị trấn mùa đông
Chúng tôi đi ngang qua những hố bom còn đang bốc khói,
những miệng hố gần như lấp vào khoảng đất trống giữa các ngôi nhà
và các khoảnh vườn khiến chúng tôi có rất ít đường để đi. Chốc chốc,
bà Astrid lại chớm bước hụt chân xuống hố, tôi biết vết thương đã
ảnh hưởng nhiều hơn tới cả các giác quan của bà.
Người phụ nữ ở cùng bà đón chúng tôi bằng vẻ lo lắng không
giấu giếm. Cô gần như đã nhìn tôi bằng ánh mắt như thể tôi chính là
kẻ đã gây ra thương tích cho bà. Điều đó cũng không thực sự sai. Tôi
và cô đỡ bà nằm xuống giường, trong khi bàn tay tôi vẫn đặt lên hông
bà, cố gắng cầm máu trong tuyệt vọng.
“Sofia”, bà Astrid gọi, khi người phụ nữ hớt hải quay lại giường
với khăn và nước. “Lấy tẩu thuốc cho ta”.
Trong khi Sofia ngồi bên giường, nhồi thuốc vào tẩu với vẻ
nhẫn nhịn, bà Astrid bắt đầu nói, mơ màng nhìn lên trần nhà.
“Rei này, Viena là cả một kỳ quan đấy. Cô bé là con của cậu và
Ionah, là đứa trẻ đầu tiên ra đời ở Thị trấn Mùa đông. Sự ra đời của
cô bé sẽ thay đổi tất cả”.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Máu vẫn đang chảy loang ra trên tấm khăn
đặt trên hông bà. Bà đã từ chối tất cả những phép trị thương mà Sofia
đưa ra. Trước cơn đau của người kể chuyện già, niềm hạnh phúc của
tôi dường như đang trôi đi như một ký ức xa xôi.
“Cậu muốn nghe nốt câu chuyện của Quy Ròn không Rei?”.
Có điều gì trong giọng bà nói với tôi rằng lần kể chuyện này sẽ
vô cùng quan trọng, rằng phần kết của câu chuyện là toàn bộ lí do bà
Astrid yêu cầu tôi theo bà về nhà, và rằng tôi nên lắng nghe.
“Nangilima… Đó là tên vùng đất mà anh em Quy Ròn sẽ phải
tới. Một nơi bình yên hơn hết thảy. Không có bạo chúa, không có
con rồng lửa. Nơi mọi người đều được sống mà không phải lo sợ
hay muộn phiền, chỉ việc rong ruổi trên lưng ngựa qua những thảo

- 129 -
NHẬT PHI

nguyên, ngồi câu cá bên bờ suối, đốt lửa trại trong rừng và đến tối thì
trở về nhà với bánh táo của ông nội đợi sẵn…”.
“Làm sao để tới được Nangilima hả bà?”. Tôi bần thần hỏi, như
thể đang đóng vai một đứa trẻ ngồi nghe truyện, như một xúc tác cần
thiết cho bà.
“Phải thực hiện một cú nhảy… Từ trên vách đá, xuống thung
lũng bên dưới. Nhưng người anh trai đã không còn có thể đi được
nữa rồi. Quy Ròn phải cõng anh, và cả hai sẽ cùng nhảy”.
Không cần phải hỏi gì thêm, tôi biết rằng cú nhảy của anh em
Quy Ròn từ trên vách đá sẽ hoàn toàn không giống với cú ngã của
tôi từ trên đỉnh núi tuyết. Tôi đã tỉnh dậy ở đây, Thị trấn Mùa đông.
“Họ sẽ tỉnh dậy ở Nangilima, ấy là nếu như Quy Ròm dám nhảy.
Quy Ròn rất sợ, cậu vẫn là một cậu bé nhút nhát, dù rằng đã trở nên
can đảm hơn rất nhiều sau tất cả những gì đã trải qua ở đây. Cậu rất sợ,
đây là thử thách lớn nhất của cậu. Một cú nhảy lớn. Nhưng vì anh trai,
cậu sẽ làm. Rồi cậu sẽ không bao giờ nữa… không bao giờ nữa”.
“Phải rồi, cậu đã thấy ánh sáng rồi. Họ đã tới Nangilima rồi…”.
Những câu cuối cùng trôi ra từ miệng người kể chuyện già một
cách yếu ớt. Bà đang dùng chút sức lực cuối cùng để kể chuyện cho
tôi hay sao? Từ bao giờ mắt tôi đã ầng ậng nước. Bàn tay tôi run run
khi đặt lên tay bà.
“Đừng lo, Rei”, bà nói với một nụ cười, như đọc được suy nghĩ
của tôi. “Đâu phải là tôi sẽ chết đâu. Tôi sẽ tiếp tục làm một người kể
chuyện, chỉ là không phải ở Thị trấn Mùa đông này nữa. Khi Viena
sinh ra, tôi đã biết rằng mình sẽ phải rời khỏi đây, vì Thị trấn Mùa
đông cần thêm những đứa trẻ và sẽ không nuối tiếc một người kể
chuyện già chỉ biết kể đi kể lại một câu chuyện đâu”.
“Bà sẽ tới đâu ạ?”. Tôi hỏi, và câu trả lời gần như đã ở đó rồi.
“Nangilima, Rei ạ”, Astrid Lindgren vẫn mỉm cười. “Tôi tới
Nangilima đây”.

- 130 -
Thị trấn mùa đông

TẠM BIỆT NHỮNG NGÀY BÌNH YÊN

K hi nghĩ về ngày hôm đó, tôi nhận ra chừng nào chúng


tôi còn sống trong Thị trấn Mùa đông, những quy luật,
những tiền định của nơi này vẫn sẽ tìm tới chúng tôi, đặt chúng tôi
vào lại những vòng lặp của nó, tất cả vì một thứ bình yên nào đó mà
con người tại đây tôn thờ. Khi chúng tôi phá bỏ những lề luật ấy và
đón Viena ra đời, thị trấn biết phải làm thế nào để duy trì sự cân bằng
của nó và sắp đặt lại tất cả. Nhưng Viena không phải là kẻ không mời
duy nhất.
Tôi ngắm Viena an lành ngủ trên tay Ionah, cố gắng tự thuyết
phục mình rằng con vẫn đang lớn lên, bằng dòng sữa của nàng. Nàng
bồng Viena trên tay thêm một lúc, chừng như để tôi ngắm con cho
thỏa. Khi rời mắt khỏi con gái, tôi thoáng thấy gương mặt Ionah vội
vã dãn ra thành một nụ cười.
“Em biết là anh lo lắng cho em và con”, nàng nói khi đặt Viena
vào trong nôi và ngồi xuống ghế bên cạnh tôi. “Nhưng nếu đó là điều
anh cần phải làm và em cần phải trải qua, thì hãy cứ vậy đi. Điều
quan trọng là anh sẽ trở lại, phải không, Rei?”.
Tôi gật đầu, mọi từ ngữ đều trở nên vô nghĩa trong đầu tôi, và
lòng tôi dường như đang có một khoảng trống toang hoác không thể
lấp đầy. Nhưng sau cùng, đó cũng là quyết định của chính tôi.
“Vậy là anh sẽ vượt qua rặng núi tuyết”, nàng hướng ánh mắt
mơ hồ ra xa, “tới Thành phố Thủy tinh…”.

- 131 -
NHẬT PHI

“Phải”, cố gắng lắm tôi mới có thể mở miệng ra đáp lời nàng,
“anh sẽ tới Thành phố Thủy tinh như một nhiệm vụ”.
“Đêm sẽ lạnh lắm đấy”, nàng nói trong khi đứng dậy tiến về
phía cái tủ đứng. “Anh sẽ cần thứ này”.
Khi nàng quay lại, tôi thấy trên tay nàng là một tấm khăn quàng
trắng. Nàng đã không ngừng đan trong thời gian mang thai Viena,
và cùng với bào thai lớn lên trong nàng, tấm khăn đã thực sự dài ra
theo từng nhịp đan.
“Cảm ơn em, Ionah”, tôi đáp.
Khi nàng mở tấm khăn ra để quàng quanh cổ tôi, một mẩu giấy
rơi xuống bàn tay mở của tôi. Nàng vội vàng quay mặt đi, và tôi biết
mình hãy đọc nó vào một lúc khác.

Tôi không thể mở mắt. Mới đầu, tôi nghĩ đó là một hiệu ứng
của sự mệt mỏi, thể chất tôi đã trải qua ngày hôm trước. Ionah đang
không ở bên cạnh tôi, tôi biết được khi không nhận ra tiếng thở hay
hơi ấm của nàng bên mình. Nàng hẳn đã thức dậy từ trước và giờ
đang ở bên nôi của Viena. Còn Thị trấn Mùa đông đã dậy chưa? Tôi
nghĩ mình đã thoáng mỉm cười, chỉ bằng một suy nghĩ về con.
Điều tiếp theo tôi ý thức được là một lực rất mạnh dộng vào mặt
mình từ một bên, một lực đủ để hất văng tôi ra khỏi giường. Nhưng
tôi không văng đi, chỉ cảm giác đầu mình bị lật sang một phía. Tôi còn
chưa kịp cảm nhận được sự đau đớn từ va chạm đó thì một lực tương
đương đã lại tìm tới mặt tôi từ phía ngược lại. Tôi xây xẩm.
“Đủ rồi”, một giọng trầm trầm vang lên trong bóng tối. “Lùi
ra đi”.
Tiếng bước chân lạo xạo lùi xa, và một đôi bàn chân khác hình
như đang tiến lại gần tôi. Tôi có cảm giác mình đang ở trong một căn
nhà, hơi nóng phả vào tôi từ khắp các hướng. Tôi nhận ra mình đang

- 132 -
Thị trấn mùa đông
bị trói trong tư thế quỳ vào một cái gì đó giống như một cây cột, hai
tay bị trói quặt ra sau lưng.
“Lại là cậu, Rei”, giọng nói gằn xuống tôi một vẻ kìm nén, và tôi
nhận ra, đó là Kahn. “Cậu đã không nghe lời cảnh báo của tôi”.
Tôi im lặng, tôi biết Kahn đang muốn nói tới điều gì. Sau chừng
ấy những quy luật tôi đã phá vỡ, chừng ấy những điều vì tôi mà rơi
ra khỏi vòng lặp và đỉnh điểm là sự ra đi của người kể chuyện già,
có lẽ đã tới lúc tôi đứng trước phiên tòa dành cho mình. Giọng nói
của ngài Thị trưởng thoắt biến thành giọng của người đàn ông - bức
tượng trong tòa thị chính, dù rằng hai giọng nói đó thực chất là một.
“Mọi chuyện đã đi quá xa rồi”, ông nói. “Thị trấn này đã bỏ qua
cho cậu quá nhiều lần, vì đây là một chốn bao dung và bình yên. Tất
cả những gì chúng tôi yêu cầu chỉ là mỗi người tôn trọng các quy luật
và ở đúng vị trí của mình. Tất cả chỉ vì sự bình yên của thị trấn.
“Nhưng cậu đã không nghe. Không, tôi phải nói là ngay từ đầu
cậu đã không hiểu, không hiểu một chút nào hết”, Kahn - tượng đá
tiếp, rồi giọng ông chợt lắng xuống, trở nên người hơn khi nào hết.
“Nhưng Astrid đã không nghĩ vậy. Bà ấy đã nhìn thấy điều gì đó ở
cậu. Và đó là sai lầm của bà ấy. Thị trấn Mùa đông mất Astrid, trong
khi chính cậu mới là kẻ không thuộc về nơi này”.
Nửa sau câu nói cuối cùng của Kahn đột nhiên trở nên sắt đá.
Tôi mơ hồ cảm nhận được một vật gì sắc lạnh như một lưỡi dao kề
sát cổ mình. Vậy là đã tới đó rồi, tất cả diễn ra quá nhanh. Lời buộc
tội, lời tuyên án và phán quyết, tất cả đã có cả rồi. Giờ hành quyết đã
tới. Hình như tôi đang mỉm cười. Trong một giây, khi tôi dường như
đã chấp nhận phán quyết của người đại diện cho Thị trấn Mùa đông
này, tất cả những gì tôi đã trải qua chợt hiện lên trong đầu tôi như
một thước phim lướt cảnh.
Tôi nhói lòng khi nghĩ về Viena. Viena, con gái ta, rời xa con

- 133 -
NHẬT PHI

trước khi con kịp biết đến ta là điều đau đớn hơn hết thảy. Lẽ ra ta
phải ở bên con, nhìn con lớn lên trong vòng tay ta và mẹ con. Rồi
ta sẽ thay bà Astrid kể con nghe về cuộc phiêu lưu của anh em Quy
Ròn, bàn tay ta sẽ mang nước suối về cho con, vì con cần thứ nước
đó. Con có thể gục vào lòng ta mà khóc trong những ngày bom rơi
xuống thị trấn này. Ta sẽ bảo vệ con, dù rằng không biết sẽ phải bảo
vệ con khỏi điều gì. Nhưng lẽ ra ta phải ở bên con.
Tôi quặn đau khi nghĩ về Ionah. Ionah, người yêu dấu, thời gian
ở bên em không bao giờ là đủ, nhất là khi tôi mới chỉ bắt đầu chạm
được vào trái tim em, khi chúng ta mới bắt đầu thực sự là một gia
đình. Từng ngày trải qua bên em là một ngày tuyệt vời trong cuộc
đời tôi. Bên ánh lửa lò sưởi trong những đêm tuyết rơi, em chúc tôi
ngủ ngon, và tôi biết mình đã sống trọn một ngày nữa trong cuộc đời
mình. Giờ đây bên em là Viena và Makoto. Nhưng tôi muốn được ở
bên em, dù là thêm một ngày.
Nhưng tôi sẽ phải rời khỏi đây, vì Kahn lại vừa nói đây, khi vật
sắc lạnh kia đang tiến sát vào cổ tôi hơn nữa.
“Tôi rất tiếc, Rei. Cậu không thể ở đây được nữa”.
Nơi tôi phải đến sẽ là đâu? Là Nangilima ư? Nơi người kể
chuyện già đang ở ư? Hay một nơi nào khác? Một miền tuyết trắng
hay màn đêm đen thẳm?
“Tất cả vì sự bình yên của Thị trấn Mùa đông”.
Nhưng có đúng như vậy không? Có thật sự bình yên sẽ tới với
thị trấn này, với Ionah và Viena của tôi, một khi tôi không còn ở đây
nữa hay không? Sự bình yên đó là gì? Là củ cải đỏ và bánh mì đen. Là
những đêm tuyết rơi. Là những ngày oanh kích.
“Không, ông sai rồi, Kahn”. Tiếng quạ trong tôi cất lên, vang
trong tai tôi, rồi trước khi tôi kịp nhận ra, tôi thấy tiếng quạ đã trở
thành giọng mình. “Tôi không làm gì sai cả”.

- 134 -
Thị trấn mùa đông
Hơn cả một tiếng nói, đó là cả một nỗ lực kinh khủng từ phía
tôi, như thể chính miệng tôi cũng đang bị khóa lại trong suốt thời
gian phiên tòa diễn ra. Ngay khi tự mình bung khóa, tôi bắt đầu nói
như không thể ngừng lại.
“Ông gọi đó là bình yên sao, ngài Thị trưởng? Ông gọi đây là
một chốn bình yên sao? Bình yên nào là nỗi thấp thỏm trong mỗi
ngày kế tiếp? Bình yên nào là tiếng bom rơi, dù là tiếng bom rơi được
báo trước? Bình yên nào là tuyết rơi thay cho then cài? Bình yên nào
nơi những đứa trẻ không lớn, những truyện kể không được ghi nhớ?
Nếu yêu thương là sai trái, ngài Thị trưởng à, thì bình yên của ngài
để làm gì vậy?”.
Tôi đã mỉm cười khi tôi chấp nhận phán quyết dành cho mình,
nhưng giờ đây, khi tôi đã quyết định phản kháng lại nó, tôi nhận ra
gương mặt mình đang co quắp lại, đầm đìa nước mắt, giọng tôi lạc đi.
“Bà Astrid đã ra đi, sau khi cùng với tôi tới mang lại một phép
màu cho thị trấn này. Nhưng kẻ đã hại bà không phải là tôi”.
“Anh ta đúng đấy”.
Một giọng phụ nữ điềm tĩnh cất lên, tưởng đâu chính bà Astrid
đã quay trở lại, lên tiếng bảo vệ tôi. Nhưng đó là một giọng nói trẻ
hơn nhiều. Cùng khi đó, tôi thấy toàn thân mình được thả gục xuống
mặt đất, cây cột nào hay những sợi dây trói như đồng loạt biến mất,
cùng với hơi nóng vẫn đang bủa vây tôi. Tôi nghe chung quanh mình
mát rượi, tôi cảm giác về tự do. Và rồi tôi mở mắt ra được.
Đó là Sofia, người sống cùng với bà Astrid. Cô đứng đối diện
với tôi, bên cạnh Kahn, cô là người đã lên tiếng về lời tự bào chữa
của tôi. Không có một lưỡi dao nào trên tay cả hai người họ. Xa hơn
một chút là Matel, và xa hơn nữa, tôi kinh ngạc nhận ra, là gần như
toàn bộ người dân của Thị trấn Mùa đông. Họ đã đứng ở đó tự bao
giờ, im lặng lắng nghe Kahn buộc tội tôi, và rồi tiếp tục im lặng khi

- 135 -
NHẬT PHI

tôi phản kháng. Họ vẫn đang im lặng, gương mặt ai nấy đều mang
một vẻ mâu thuẫn kì lạ. Họ tỏ vẻ giật mình khi tôi cựa mình, cố gắng
đứng dậy. Mắt tôi tìm Ionah hay Makoto, nhưng cả hai người hình
như đều không có ở đó.
Điều tiếp theo tôi nhận ra là tôi đã đứng dậy được, ở giữa cái
hố mà cuộc oanh kích trước nữa đã để lại. Không một ai giúp tôi trèo
lên khỏi miệng hố, dường như họ đều đang sợ, là sợ tôi hay sợ Kahn
hay sợ một quy luật nào khác nữa thì tôi không biết được. Sofia nhìn
tôi, và hơn tất cả, tôi thấy nỗi căm ghét trong mắt chị. Nhưng chị nói
tiếp, khi tôi đã lên tới mặt đất.
“Bà Astrid đã ra đi, bà bị thương trong khi đi cùng người đàn
ông này, đúng”. Lời chị xoáy vào tôi, như thể chủ đích khiến tôi dằn
vặt. “Nhưng kẻ đã làm bà bị thương không phải là anh ta, mà là
những kẻ đã rải tên lửa xuống Thị trấn Mùa đông. Đúng vậy, đó mới
là những kẻ phải chịu trách nhiệm cho mất mát của chúng ta”.
“Rei không có lỗi”.
Một giọng thứ hai vang lên, từ dưới đám đông. Matel quay về
phía giọng nói ấy cất lên, tôi nhìn theo anh ta và thấy Hikari đang
chậm rãi tiến về phía tôi. Matel quay xuống dìu chị lại gần. Đôi mắt
đục mờ của người phụ nữ dịu dàng hướng vào tôi, lơ lửng.
“Tha lỗi cho chúng tôi, Rei. Im lặng đôi lúc là điều cần làm”.
“Cảm ơn chị”, tôi thều thào. “Cảm ơn cô, Sofia”.
Không ai mỉm cười cả, và thậm chí Kahn còn tỏ vẻ thất vọng
ghê gớm, nhưng không lâu, ông nhanh chóng lấy lại sự điềm tĩnh cần
thiết. Kahn hắng giọng, nhưng Sofia lại là người lên tiếng trước.
“Nhưng điều đó không được phép kéo dài thêm! Đó là lời của
bà Astrid Lindgren”.
“Ý cô là sao, Sofia?”. Kahn hỏi, ông có vẻ cũng rối trí như bất cứ
ai. “Astrid đã nói gì?”.

- 136 -
Thị trấn mùa đông
“Rằng có ai đó sẽ cần phải chấm dứt điều này”, Sofia đáp, và cô
nhìn thẳng vào mắt tôi. “Chấm dứt những ngày oanh kích”.
Một cơn chộn rộn nổ ra gần như ngay tức khắc. Tất cả những
người có mặt dường như đồng loạt bị kích thích bởi ý tưởng đó, họ
quay sang nhau, rì rào bàn tán. Trong giây lát, đoàn người như đang
tái hiện âm thanh của bầy chim giành ăn trên những khoảnh vườn.
“Astrid đã nói vậy thật sao?”.
Kahn nghi hoặc hỏi, và Sofia gật đầu. Tôi biết đó là lúc mình
phải lên tiếng, một lời khẳng định.
“Tôi sẽ làm điều đó”.
Và một lần nữa, cả Thị trấn Mùa đông xoay chuyển quanh tôi,
với tiếng quạ vẫn thảng thốt trong lồng ngực tôi. Nhưng lần này, tôi
không còn đau đớn hay sợ hãi nữa. Tôi không còn phải trốn chạy,
không còn phải tìm kiếm nữa. Lần đầu tiên kể từ khi tới đây, tôi biết
được vận mệnh của mình.

Khi tôi bước ra khỏi nhà, với một tay nải nhỏ những thứ Ionah
chuẩn bị cho tôi, Makoto đã đứng đó từ bao giờ. Đôi mắt cô bé hoe
đỏ, và cô lặng lẽ bước qua tôi để vào nhà Ionah. Tôi không đọc được
những gì đang diễn ra trong đầu cô bé, nhưng có điều gì đó khiến tôi
quyết định đứng lại đó để chờ cô.
Chiều đã xuống, Thị trấn Mùa đông đã vắng bóng người.
Những người cuối cùng còn đang ở trên những khoảnh vườn vội vã
hoàn thành nốt công việc còn đang dang dở, để lại chút củ cải trên
nền đất trước khi tất tả trở về nhà. Họ không mảy may ghé mắt về
phía tôi, dù rằng mới đây thôi tôi đã là tâm điểm của tất cả mọi ánh
mắt nơi thị trấn này. Họ giống như đang chạy trốn hơn là trở về một
mái ấm nào đó. Chạy trốn khỏi bầy chim, chạy trốn khỏi tuyết hay
chạy trốn khỏi chính màn đêm, tôi cũng không biết nữa. Tôi không

- 137 -
NHẬT PHI

phải là họ. Tôi đã từng cố gắng trở thành một trong số họ, nhưng rồi
tôi biết là không thể nào. Cả thị trấn này đều vội vàng, vội vàng như
chẳng kịp. Tôi là tha nhân đối với tất cả, với Ionah là mối dây liên kết
duy nhất, một kẻ hoài không chịu hiểu điều mà họ cho là hiển nhiên.
Tôi lặng lẽ ngắm đàn chim đến từ nơi mặt trời lặn xuống, nơi
mà tôi đang chuẩn bị đi tới. Chúng chia thành từng nhóm nhỏ, tụm
lại trên từng khoảnh vườn mà hưởng thụ bữa tối mà Thị trấn Mùa
đông luôn hào phóng khoản đãi. Khi nhìn về phía bầy chim đang
tụ nơi khoảnh vườn nhà mình, tôi tự hỏi liệu đó có phải chính là
những con chim đã đáp xuống đó từ buổi chiều đầu tiên, và vẫn luôn
là chúng hay không. Đàn chim có trở thành một phần của những lề
thói một khi đáp xuống thị trấn này? Chúng có quyền lựa chọn tới
và đi khi nào hay không? Tôi không biết được. Cũng như chính tôi,
rất sớm thôi, liệu việc tôi rời khỏi Thị trấn Mùa đông để tìm kiếm sứ
mệnh của mình có phải là một tiền định khác hay không?
“Rei”, Makoto gọi tôi, tiếng gọi của cô như thể đã đánh động
bầy chim, chúng nhất loạt tung cánh và hợp lại thành một đám mây
lớn trôi về phía rặng núi phía xa. “Cảm ơn anh đã đợi em. Em biết là
anh sẽ đợi”.
Tôi quay lại nhìn cô bé, trông cô có vẻ bình tĩnh hơn nhiều so
với khi nãy. Cô lắc đầu nhiều lần như để mọi ý nghĩ rơi vào đúng chỗ,
chiếc mũ beret đỏ đã không còn trên mái tóc cô nữa.
“Rei, em sẽ đi cùng với anh”, sau cùng cô bé nói. “Em đã sắp
xếp với mọi người rồi. Anh chị nhà Nicolas sẽ mang bánh mì và củi
tới cho Ionah mỗi ngày. Và Matel cũng đã đồng ý mang thêm cho chị
một xô nước suối. Những người khác sẽ thay phiên nhau làm vườn
giúp chị ấy và mang củ cải tới đây. Tất cả mọi người, à không, hầu hết
thôi, đều rất sẵn lòng giúp đỡ Ionah và bé Viena”.
“Cảm ơn em, Makoto”, tôi đáp, cố ý lờ đi câu đầu tiên của cô bé.
“Vậy anh cũng yên tâm đi rồi”.

- 138 -
Thị trấn mùa đông
Rồi tôi quay lưng dợm bước đi.
“Anh không nghe sao Rei?”. Makoto gọi giật, chưa khi nào tôi
nghe giọng cô bé mất kiên nhẫn đến thế. “Em sẽ đi cùng với anh. Tới
Thành phố Thủy tinh”.
Cô bé cúi gằm mặt xuống khi tôi quay lại nhìn cô.
“Em có cảm giác em sẽ biết thêm được điều gì đó khi rời khỏi
thị trấn này”. Makoto nói khó nhọc. “Biết đâu… Em sẽ tìm được
mẹ… ở đó”.
Đôi vai Makoto bé nhỏ bắt đầu run lên, tuyết đã bắt đầu rơi.
Một hạt tuyết nào lặng lẽ rớt xuống mặt đất dưới chân cô, vỡ ra rất
khẽ. Rồi tôi bắt đầu bước đi như đã định.
“Nhớ mang theo bánh mì phần mình nhé”.
“Vâng”.
Tôi không cần phải quay lại nhìn một lần nữa để thấy được
niềm hân hoan nơi cô bé.

- 139 -
NHẬT PHI

TẠM BIỆT, THỊ TRẤN MÙA ĐÔNG

S ofia đón chúng tôi ở phía rìa thị trấn. Cô không bộc lộ chút
cảm xúc nào khi thấy Makoto đi cùng với tôi, chỉ tháo chiếc
mũ trắng ra và phủi tuyết ra khỏi đó. Vẫn không nói một lời nào, cô
ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Cô dẫn chúng tôi quay ngược lại vào
trong thị trấn rồi tới trước chính căn nhà của cô, nơi bà Astrid đã từ
biệt thị trấn này và giờ đây cô sống một mình ở đó.
Cảnh trí trong nhà gần như không có gì thay đổi, ngoại trừ
cảm thức rõ ràng rằng chủ nhân đích thực của nó đã không còn ở
đây nữa rồi. Khi bước vào phòng khách giờ đây đã vắng khói thuốc,
tôi nhận ra quả thực khói thuốc của bà Astrid đã tạo nên toàn bộ bầu
không khí rất riêng của căn phòng này. Chiếc giường nơi bà Astrid
đã nắm lấy tay tôi lần cuối giờ đây trống trơn, lạnh ngắt. Sofia đi
tới bên giường, và bằng một sức mạnh khó ngờ, cô đẩy dịch chiếc
giường sang một bên. Bên cạnh tôi, Makoto thốt lên một tiếng kêu
kinh ngạc.
Đó là một cánh cửa sập với một tay nắm hình khuyên bằng kim
loại. Sofia nhấc mở nó lên bằng một tay, để lộ ra một khoảng không
tối hù. Đặt cánh cửa xuống đất, cô lấy từ trong túi váy ra một cây đèn
pin nhỏ và đưa cho tôi.
“Anh soi đèn”.
Cô nói gọn, rồi đu mình xuống khoảng không ngay khi tôi
chiếu đèn xuống đó. Đó là một dải thang rút bằng kim loại, ánh sáng

- 140 -
Thị trấn mùa đông
đèn pin trên tay tôi rọi sáng những mảng màu loang lổ đỏ và nâu,
dải thang này hẳn đã tồn tại ở đây từ lâu lắm. Makoto xuống theo cô,
rồi cuối cùng mới tới lượt tôi. Bàn tay tôi tê rát khi nắm lấy từng bậc
thang tròn gỉ sét. Bước thang không cao lắm, hơn một lần tôi bị giật
mình khi bàn chân đang lửng lơ dang dở đã chạm tới bậc thang kế
tiếp. Tôi đếm được cả thảy mười một bậc thang khi đã xuống tới mặt
sàn bên dưới, nơi Makoto đang đợi với vẻ hồi hộp.
“Tách” một tiếng, và rồi ánh sáng trắng bắt đầu nháng lên xung
quanh chúng tôi, chớp tắt một vài hồi trước khi phủ kín toàn bộ
không gian dưới lòng đất này. Ánh sáng yếu và chập chờn như thể
những bóng đèn cũ cũng đang run lên. Rồi tôi nhận ra đó là một căn
phòng nhỏ, trông giống như một nhà kho cũ với hai hàng kệ sắt chạy
dọc hai bên. Trên đó là rất nhiều những khay kim loại, những hũ thủy
tinh nhỏ, kéo, kim và những lưỡi dao rất mảnh. Tất cả đều bị phủ bởi
một lớp bụi rất dày, tuy thế chúng vẫn cứ sáng lên một vẻ lạnh toát,
như thể giận dữ vì bị đánh thức sau một giấc ngủ vùi quá dài.
“Đây là nơi bà Astrid đã từng trú ẩn trong những ngày oanh
kích,” Sofia nói, đáp lại những thắc thỏm nơi chúng tôi. “Căn hầm
được thiết kế riêng cho bà, bác sĩ duy nhất của thị trấn”.
Trong khi cô nói, Makoto rón rén lại gần hàng kệ sắt cao vượt
quá đầu cô bé.
“Đừng có đụng vào thứ gì cả!”. Sofia gần như quát lên và
Makoto sợ hãi rụt lại một bàn tay hiếu kỳ. Giọng cô vang trong bốn
bức tường, tưởng như cả căn phòng đang rung lên cộng hưởng niềm
phẫn nộ.
“Sao chị lại dẫn chúng tôi xuống đây?”. Tôi hỏi, bất giác hạ giọng
thật thấp.
“Dù cho các người có đi vòng quanh Thị trấn Mùa đông đến
bao lâu, các người cũng sẽ không tìm được một đường nào dẫn ra

- 141 -
NHẬT PHI

khỏi đây để tới Thành phố bên kia đâu”, cô đáp. “Bà Astrid đã dặn tôi
hỗ trợ hết mức bất kì ai nhận lấy nhiệm vụ đi sang Thành phố Thủy
tinh, thế đấy”.
Giọng cô giống như đang tiếc nuối vì đã không thể đứng nhìn
chúng tôi chết cóng ở bên ngoài trong khi đi vòng quanh thị trấn
dưới trời mưa tuyết để tìm một lối đi.
“Cảm ơn chị”, Makoto dịu dàng nói. “Chị thật tốt, em nói thật đấy”.
Sofia như thể bị giội ngược trong một giây, rồi cô quay lưng
đi tới cuối căn hầm trú ẩn, nơi có một tủ đứng màu xám cao chạm
trần phòng mà khi đó tôi mới nhận ra. Khi cô mở ra hai cánh cửa tủ,
chúng tôi nhận ra đó kì thực là một cánh cửa dẫn xuống một đường
hầm khác, một đường hầm dài thô sơ khoét sâu vào lòng đá như một
cái hang dài và hẹp.
“Bước qua cánh cửa này tức là các người đã ra khỏi Thị trấn
Mùa đông”, Sofia nói. “Tất cả những gì phía đó là ngoài khả năng can
thiệp của tôi”.
Tôi nhìn sang Makoto và cô bé gật đầu. Phải, chúng tôi vốn đâu
có lựa chọn nào khác.
“Đây là đường dẫn tới Thành phố Thủy tinh?”. Tôi hỏi khi
chúng tôi bắt đầu tiến vào đường hầm đá.
“Đó là nếu các người đi đúng…”.
Sofia mơ hồ đáp khi đóng lại hai cánh cửa sau lưng chúng tôi.
Sau cùng là đen thẳm.

- 142 -
Thị trấn mùa đông

THƯ CỦA IONAH

G ửi Rei,

Xin đừng quay đầu lại, xin đừng rời khỏi hành trình của anh,
dù anh đang đi tới đâu, khi đọc lá thư này, vì đó là tất cả những điều
em muốn anh biết mà em chưa thể, hoặc chưa kịp nói ra. Mục đích
của anh là điều vô cùng quan trọng, khi mà anh đã tìm được điều đó
khi tới đây, tới Thị trấn Mùa đông này. Và đó có lẽ không phải là để
ở bên em.
Không ai khác ngoài Makoto ở thị trấn biết rằng em biết viết.
Nhưng em tin anh có thể đọc. Có những điều em hoàn toàn tin
tưởng, bằng chính trực giác của mình, mà không liên quan gì tới
những quy luật hay tiền định của Thị trấn Mùa đông cả. Cũng như
em biết rằng, dù có muốn hay không, rồi anh sẽ tới bên em để rồi lại
rời xa em.
Em vẫn luôn biết, ngay từ khi em bắt gặp anh nằm dưới chân
đồi ngoài rìa thị trấn. Hẳn anh đã biết vì sao em lại có mặt ở đó, đó
là một thói quen của em kể từ khi Nogias ra đi, một điều đặt em ra
ngoài những vòng lặp như tất cả mọi người khác. Và đó là điều đã
đưa em tới với anh. Khi ấy, em đã ngay lập tức biết rằng anh sẽ là một
người quan trọng trong cuộc đời em, và anh sẽ thay đổi một điều
gì đó ở Thị trấn Mùa đông này, như cách Nogias đã làm cho những
ngày oanh kích trở nên êm dịu hơn.

- 143 -
NHẬT PHI

Tất cả những điều ấy để nói lên rằng, Rei à, tình yêu của em là
thật. Và em tin rằng anh cũng yêu em nhiều như em yêu anh vậy. Vậy
thì, Rei ơi, tình yêu của anh có đủ cho một sự tha thứ không, khi em
sẽ nói với anh một sự thật khác?
Đó là về Viena, con gái chúng ta. Không hề sai khi nói Viena
đúng thực là con của chúng ta, của anh. Anh đã ở đó khi Viena chào
đời, anh gần như là người đầu tiên bế con trên tay, và quan trọng
hơn, nhờ anh mà con mới được ra đời. Viena đích thực là con của
anh, nhưng cùng lúc đó, Viena lại không phải là con anh. Thực sự là
Viena đã luôn ở đó, bên trong em, rất lâu trước khi anh tới đây, trong
hình hài một phôi thai đang say ngủ. Một giấc ngủ đông, em nghĩ
thế. Một phôi thai được thành hình bởi một phần của em, và một
phần của Nogias. Đúng thế, Viena đã luôn ở đó rồi, trong em.
Khi anh đi vào bên trong em, một điều gì đó trong cái đêm ấy
đã đánh thức Viena bên trong em, và con đã bắt đầu lớn lên như mọi
bào thai khác. Vậy là nhờ anh mà Viena mới có thể ra đời. Em chỉ
có thể lí giải mơ hồ rằng bởi lẽ em là một cư dân của Thị trấn Mùa
đông, tất cả những gì thuộc về em đều phải tuân theo quy luật của
nơi này, dù em có muốn hay không. Nhưng điều quan trọng là em
không muốn, em thực sự không muốn. Sự bình ổn, an yên ở nơi này,
nó tốt thật đấy, nhưng em cần hơn thế nữa, em cần những người em
yêu thương và yêu thương em. Em cần Viena, cũng như em cần anh.
Em nghĩ chính mong muốn đó đã giữ Viena lại trong em, để con có
thể thức giấc khi thời điểm đến. Và rồi anh đến.
Anh không thuộc về Thị trấn Mùa đông này, em biết chứ. Dù
rằng anh vẫn luôn lắng nghe em, vẫn cố gắng cùng em tuân theo
những quy luật, nhưng em biết anh không muốn thế, em biết anh
khác với tất cả những người khác. Và cái đêm ấy, em đã quyết định
mình cần phải làm gì đó, thách thức những điều mọi người vẫn luôn

- 144 -
Thị trấn mùa đông
kính sợ. Hơn tất cả, em muốn anh đi vào bên trong em. Nếu như số
phận một phôi thai của con gái em là một lời nguyền, thì đêm ấy em
đã thực hiện một nghi thức giải nguyền, cùng với anh.
Em biết điều này thật khó chấp nhận, nhưng xin anh hãy tin
rằng đó là sự thật, thật như tình yêu của em vậy. Anh có thể nghĩ rằng
em đã lợi dụng anh, anh có thể oán trách em, và em sẽ đón nhận điều
đó, cũng như em đã thách thức, cũng như em đã phản kháng, cũng
như em đã yêu.
Và em tin anh vẫn sẽ coi Viena là con mình, và rồi đây con sẽ
gọi anh là cha khi anh trở về. Anh chắc chắn hãy trở về nhé.
Và đây là thỉnh cầu của em, không phải một sứ mệnh hay
nhiệm vụ nào cả, không phải một điều gì đó được định trước cả, chỉ
là lời thỉnh cầu của một cô gái tới người đàn ông của mình thôi. Khi
anh trở về, Rei à, từ Thành phố Thủy tinh, anh có thể mang về cho
em một điều không? Một điều gì đó thuộc về Nogias. Bất kỳ thứ gì,
có thể chỉ là một tin tức thôi. Vì em muốn biết, em chỉ muốn biết mà
thôi. Em biết anh ấy sẽ không thể tới thị trấn này một lần nữa, và giờ
người em mong đợi sẽ trở về là anh, Rei của em.
Đây là lần đầu tiên em viết một điều về chính bản thân mình,
không phải là tập viết theo hướng dẫn, không phải là chép lại điều gì
từ trong ký ức. Nếu anh còn đọc tới đây, xin anh biết rằng em luôn
luôn nghĩ về anh.
Ionah

- 145 -
1.5

Hành lang Ghi nhớ

“Đây không phải là Thành phố Thủy tinh”.


NHẬT PHI

ĐƯỜNG HẦM

Đ ường hầm hẹp và tối. Khô và lạnh. Và gập ghềnh. Cả trần


hang và nền hang đều tùy hứng trồi sụt bất ngờ, đến nỗi
chúng tôi không biết được mình đang đi lên hay đi xuống nữa. Cũng
chẳng hề gì, vì lên hay xuống vốn cũng chỉ là một phạm trù tương
đối. Sẽ thật sai lầm nếu như tôi cho rằng Thành phố Thủy tinh cũng
nằm trên cùng một mặt sàn giống như Thị trấn Mùa đông. Vả chăng
đây mới chỉ là đường hầm.
Tôi đi trước, với ánh đèn pin thận trọng quét khắp từng mặt
cắt chúng tôi đi qua, để đảm bảo rằng mình sẽ không sảy chân xuống
một gờ đá nào, và quan trọng hơn, không bỏ sót một lối đi nào có thể
hiện ra. Nhưng cho tới lúc này, con đường hầm vẫn cứ độc đạo, và
tôi bắt đầu nghĩ về lời nhắc của Sofia. Nếu con đường là độc đạo, phải
đi như thế nào mới là đúng? Makoto lặng lẽ đi phía sau tôi, không
nói một lời. Dường như trong vòng nhiều giờ, tiếng bước chân của
chúng tôi là tất cả những gì vang lên trong khoảng không gian rất
hạn chế này.
Ấy vậy mà đường hầm dường cũng không hoàn toàn tĩnh tại.
Sự gập ghềnh của đường đi và khoảng không đóng rồi lại mở trên
đầu chúng tôi cho tôi một cảm giác rằng con đường này thực sự đang
sống, ẩn giấu hơi thở của nó trong hơi thở của chính chúng tôi.
Khi tìm thấy một khoảng nền bằng vừa đủ rộng, tôi đề nghị
chúng tôi dừng lại nghỉ chân. Makoto đồng ý với một cái gật đầu chỉ

- 148 -
Thị trấn mùa đông
vừa đủ nhẹ để tôi ghi nhận. Trong lúc đã ngồi xuống và trải tay nải
xếp bánh mì ra trước mặt, tôi mới nhận ra mình đã kiệt sức thế nào.
Hình như chúng tôi đã đi được một quãng đường rất dài trong lòng
đất, nơi ngọn đèn pin trên tay tôi là nguồn sáng duy nhất và những
bước chân, nếu được đếm, sẽ là đơn vị thời gian duy nhất. Đôi bàn
chân bắt đầu nghe tê buốt trên nền hầm lạnh ngắt, cơn tê buốt như
thể đang chạy lên cao dần, và tôi hình dung nếu như nó chạy lên tới
đầu tôi, có thể tôi sẽ không bao giờ đứng lên được nữa.
Chúng tôi lẳng lặng ngồi ăn bánh mì đen. Bánh mì khô khốc
như muốn dính chặt hai hàm răng tôi lại và chúng tôi phải lùa xuống
bằng nước. Không nói ra nhưng tôi biết Makoto cũng đang cảm thấy
nhớ món xúp củ cải đỏ của Ionah. Ngoại trừ điều đó ra, phần nào
trong tôi lại đang nhún vai cho rằng nơi này cũng không khác mấy
so với Thị trấn Mùa đông. Một khoảng không gian giới hạn, và một
lề thói của hai bàn chân thay phiên nhau tiến về phía trước, trên một
con đường không ngã rẽ.
“Rei này”, Makoto đột ngột lên tiếng, cô bé chỉ ăn hết một nửa
ổ bánh mì, “Anh có nghĩ đường hầm này sẽ dẫn mình tới Thành phố
Thủy tinh không?”.
“Nếu Sofia đã nói vậy…”, tôi ngần ngừ, biết rằng Makoto luôn
có cảm nhận của riêng cô.
“Em tin Sofia”, cô bé quả quyết. “Nhưng em không tin con
đường này… Ít nhất là chưa”.
“Nhưng chúng ta không còn lựa chọn nào khác, phải không?”.
Makoto một lần nữa gật đầu rất khẽ. Tôi chưa từng thấy Makoto
trầm lặng như thế này. Khi đã thu dọn xong, tôi hối thúc cô bé tiếp
tục lên đường, dù tin hay không, tôi biết rằng đó là điều chúng tôi
cần làm.
Cơn tê buốt vẫn chưa rời khỏi đôi chân tôi khi tôi đứng lên,

- 149 -
NHẬT PHI

nhưng đó không phải lí do khiến tôi ngay lập tức khuỵu xuống. Nếu
như đường hầm này vẫn đang say ngủ từ khi chúng tôi bước vào thì
hẳn là giờ đây nó đã trở mình thức dậy. Toàn bộ lòng hang bắt đầu
rung lên, mới đầu là rất nhẹ, chỉ vừa đủ để tóc mái của Makoto đu
đưa trước mặt tôi, ở nơi lặng gió này. Xuyên qua những lọn tóc, đôi
mắt cô bé ánh lên một vẻ phấn khích đầy thách thức, chừng như
chính cô bé đã đánh thức đường hầm bằng hoài nghi của mình.
Dao động của lòng hang bắt đầu mãnh liệt hơn, và Makoto hét
lên với tôi.
“Chạy đi anh”.
Cô bé lao tới, kéo lấy tay tôi, và chúng tôi bắt đầu chạy. Chân
tôi vẫn đau, nhưng Makoto gần như đang kéo tôi đi bằng một sức
mạnh phi thường. Tôi thốt ngoái lại và nhận ra chúng tôi đang chạy
khỏi điều gì.
Nước.
Nước đang tràn xuống, hoặc là đang dâng lên, rất nhanh từ sau
lưng chúng tôi. Làn nước dữ dội, hung bạo như một cơn lũ đuổi theo
chúng tôi. Là những cái rùng mình của lòng hang đã phá vỡ mạch
ngầm giấu nước này hay chính nước mới là kẻ đã rung lắc cả con
đường hầm này? Trong khi chạy ngược lên con đường mỗi lúc một
dốc cao, tôi nhận ra đó lại là một phạm trù tương đối khác. Hiện thực
chân phương mà tôi thấy ấy là làn nước này đặc biệt trong, so với một
dòng nước ngầm.
Bàn tay Makoto vẫn không ngừng siết chặt tay tôi trong khi
chúng tôi chạy. Con đường đã trở nên dốc đến mức không thể tin
được và lồng ngực tôi bắt đầu quặn đau. Với mỗi bước chạy, tôi lại
đánh rơi đi thêm một chút hơi thở của mình. Hơi thở của chúng tôi
rớt xuống nước, và như những tảng đá, khiến cho nước dềnh lên mỗi
lúc một nhanh hơn.

- 150 -
Thị trấn mùa đông
Điều cuối cùng mà lí trí tỉnh táo của tôi còn ghi nhận được là
nước đã liếm tới chân tôi. Sau đó, đầu óc và lồng ngực tôi đồng loạt
trống rỗng.
“Makoto, đừng chạy nữa”. Tôi níu tay cô bé lại, chút sức lực cuối
cùng của tôi bất giác được dành cho một nụ cười. “Hít căng hơi vào”.
Đúng vậy, vì trên đầu tôi đã vang tiếng quạ kêu.
Nước tràn lên, che khuất đi ánh mắt kinh ngạc của cô bé, nuốt
lấy tâm trí tôi.

- 151 -
NHẬT PHI

GINGAWA

C hính dòng nước đã đưa chúng tôi tới đây. Trong giây phút
cuối cùng trước khi ngất đi, tôi đã quyết định tin rằng đó
là một lựa chọn đúng. Vậy thì nơi đây hẳn phải là Thành phố Thủy
tinh rồi. Vấn đề là tôi đang ở đâu trong thành phố ấy.
Bao quanh tôi là tĩnh lặng, với chỉ một nhịp thở rất khẽ xen vào
giữa những hơi thở của tôi. Cơ thể tôi hoàn toàn khô ráo trên một
mặt sàn nhẵn và cứng. Đầu tôi gối trên một khối mềm mại. Vì một
lí do nào đó, tôi trì hoãn việc mở mắt ra, lo lắng về những gì mình sẽ
thu nhận được. Những lề thói của Thị trấn Mùa đông phần nào đã
tập cho tôi quen với những bất biến, qua đó mơ hồ hình thành nỗi e
ngại với những không gian mới. Dù rằng tôi biết sự trì hoãn này cũng
không thể kéo dài lâu.
“Anh tỉnh rồi à?”. Giọng của Makoto nghiêng trên tôi, bồn
chồn, lo lắng.
“Anh ngủ bao lâu rồi?”. Tôi hỏi, vẫn chưa mở mắt.
“Em không biết nữa”, cô bé đáp, “Em cũng mới tỉnh được một
lúc thôi”.
“Chúng ta có việc phải làm, phải không?”. Tôi nói như để tự
động viên mình. “Đến nơi rồi”.
Điều đầu tiên tôi nhận ra khi mở mắt thật không thể tin được.
Đó là những mảng màu loang lổ, sặc sỡ đến nhức mắt. Sau một vài
cái chớp mắt, tôi nhận ra đó là một bức tranh lớn được vẽ trên một

- 152 -
Thị trấn mùa đông
trần nhà thấp, hay đúng hơn là rất nhiều bức tranh nối vào nhau, đan
vào nhau, chồng chéo lên nhau. Một mặt trần được tạo nên bởi rất
nhiều những bức tranh như thế, trải dài hết tầm mắt. Thứ tiếp theo
tôi nhìn thấy là gương mặt của Makoto. Gương mặt cô bé bắt đầu
giãn ra khi bắt gặp ánh mắt tôi.
“Chào buổi sáng, Rei”, cô bé nói, với một nụ cười cố gắng.
Tôi ngồi dậy, nâng đầu lên khỏi tay nải của mình. Chúng tôi
đang ở một nơi giống như giữa một hành lang rất dài. Ba trên bốn bề
mặt được phủ kín bởi những mảng màu, chỉ chừa lại mặt sàn lát bằng
một thứ gạch trơn bóng màu vàng nhạt. Đây một mảng xanh lá, cắt
xéo qua bởi một vệt đỏ, rồi ngay bên cạnh là một mảng xanh dương,
với những nét đen nguệch ngoạc không theo một quy luật nào cả.
Cảm tưởng như cả một đoàn người đã tới đây, tuỳ hứng hắt lên tường
và trần từng thùng sơn lớn làm nền và một đoàn người khác lại phun
sơn lên bề mặt đó nữa. Và dù họ có làm gì với hai bức tường, chắc
hẳn ngay sau đó, một đoàn người khác nữa đã dành rất nhiều thời
gian để lau sạch sẽ lại sàn nhà.
“Nơi này kỳ lạ quá anh nhỉ?”.
Khi sự chú ý đã rời khỏi tôi, giọng của Makoto lại có vẻ hào
hứng như mỗi khi cô bé bắt gặp một điều gì mới. Tôi mỉm cười với cô
bé, mắt vẫn mông lung quét khắp cả dãy hành lang. Ấy là khi tôi nhận
ra hai bức tường có nhiều hơn là những mảng màu bừa bãi. Những
cánh cửa với những tay nắm màu bạc, nằm gần nhau đến nỗi những
căn phòng chúng mở ra hẳn chỉ vừa hết một sải tay. Trên mỗi cánh
cửa đều có gắn một tấm biển nhỏ mà nội dung đã bị sơn che phủ hết.
Nhưng điều thứ hai mới khiến cho tôi cảm thấy ngạc nhiên.
Vì đó là thứ mà tôi hiểu được. Đây đó trên hai bức tường phủ sơn
màu là những dòng chữ đủ kích thước được viết bằng mực hay cũng
được phun sơn màu. Tác phẩm có lẽ của một đoàn người thứ tư,

- 153 -
NHẬT PHI

những người có lẽ đã tới đây và thất vọng vì còn quá ít khoảng trống
và quá ít sơn hay mực để cho họ thể hiện. Một số dòng chữ đủ rõ để
đọc được, số khác hoặc được viết quá khó nhìn, hoặc bị nuốt lấy bởi
chính màu sơn nền đến nỗi không thể đọc được.
Ánh mắt Makoto dừng lại thắc thỏm trước một trong những
dòng chữ ấy. Tôi nhìn theo cô, nhẩm đọc, và kinh ngạc hơn khi nào
hết. Đó chính là những câu mà Makoto thường hay hát, lời bài hát
của mẹ cô bé.
“Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng”
Hai dòng chữ được viết bằng một nét chữ đơn giản, phóng túng
và nhiều ngẫu hứng. Có cảm giác như người viết dòng chữ này đang
bị giằng xé giữa thanh thản và vội vàng.
“Anh đọc được dòng kia không?”.
Makoto hỏi và tôi đọc lại cho cô bé. Cô bé đáp lại bằng một nụ
cười, bóng hàng chữ long lanh trong mắt cô.
“Em vui quá”, Makoto gạt nhanh nước mắt. “Vậy là cũng có
người biết bài hát của mẹ em. Em không đọc được, nhưng khi nhìn
vào dòng chữ ấy em thấy thân quen lắm. Vậy là bài hát của mẹ em là
có thật rồi.
“Anh có nghĩ họ biết mẹ em không? Người đã viết dòng này lên
tường ấy”.
“Có thể lắm chứ”, tôi cười, xoa đầu cô bé. Tôi không muốn nói
với cô bé, và cũng không tin, rằng đây có thể chỉ là sự trùng hợp. “Để
biết được thì chúng ta phải đi tiếp đã”.
Makoto gật đầu. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng đi về phía của
dòng chữ ấy, như thể nó đã được đặt ở đó như một chỉ báo cho chúng
tôi. Những cánh cửa im lìm, sặc sỡ dường như không khuyến khích
chúng tôi mở ra, vậy nên chúng tôi cứ thế đi, hy vọng tìm được một

- 154 -
Thị trấn mùa đông
điều gì đó ở cuối hành lang này.
Tôi không thể đếm được số cánh cửa chúng tôi đã bước qua,
dần dà tôi cũng không còn dõi mắt lên tường để đọc các dòng chữ
nữa, phần lớn là những câu không đầu không đuôi, hình như luôn
được rút ra từ một văn bản nào đó dài hơn. Nhưng bất cứ khi nào
nhìn lên tường và bắt gặp một dòng chữ nào đó còn đọc được, tôi đều
nhận ra mình thực sự có thể đọc được chúng. Bất cứ ai đã viết lên bức
tường này rõ ràng cũng nói cùng một ngôn ngữ với chúng tôi. Những
dòng chữ quả thực đã cho tôi cảm giác về sự dịch chuyển, cảm giác
rằng hành lang này không phải một vòng lặp. Điều đó thuyết phục
tôi thêm rằng chúng tôi đã thực sự rời khỏi Thị trấn Mùa đông và đặt
chân lên Thành phố Thủy tinh rồi.
Và hành lang này quả thực có một điểm cuối. Đó là nơi chúng
tôi gặp ông, ngồi trên sàn, tựa lưng vào bức tường cuối hành lang, với
một chai nước uống dở trên tay và rất nhiều vỏ chai lăn lóc bên cạnh.
Đó là một người đàn ông lớn tuổi, với mái tóc bạc trắng xõa
ngang vai, chòm râu ngắn và hàng ria mép cũng bạc trắng. Gương
mặt ông đỏ lựng, chiếc áo thun sẫm nâu hình như đã từng có màu
vàng bơ và từ cách xa nhiều bước chân, chúng tôi vẫn có thể nhận
ra một mùi rất gắt từ hơi thở ông. Ông ngước cặp mắt sáng quắc lên
nhìn chúng tôi qua mi mắt, nhưng không nói gì cả. Người đàn ông
này cùng một lúc toát ra cả vẻ bệ rạc lẫn nét tinh anh, sắc sảo.
“Xin chào… ngài”, tôi lên tiếng, bởi lẽ Makoto đã vội vàng bước
lùi lại, nấp sau lưng tôi. “Tôi là Rei, đây là Makoto, và, ờ… Chúng tôi
tới từ Thị trấn Mùa đông”.
Tôi những tưởng cái tên Thị trấn Mùa đông sẽ thu hút được sự
chú ý từ ông, hay ít nhất cũng đánh động được ông, nhưng người đàn
ông đơn giản tiếp tục yên lặng nhìn chúng tôi thêm vài giây trước khi
cúi xuống trở lại với cái chai trên tay. Và cái chớp sáng lướt rất nhanh

- 155 -
NHẬT PHI

qua đôi mắt ông có thể cũng là do tôi tưởng tượng ra mà thôi. Nhưng
tôi đã quyết tâm không để điều đó ngăn trở mình. Vì lẽ nào đó tôi tin
rằng người đàn ông này nói cùng một thứ ngôn ngữ với tôi.
“Xin hỏi đây có phải là Thành phố Thủy tinh không ạ?”.
Người đàn ông hắng giọng, chỉ để trút thêm một lần nữa thứ
chất lỏng trong suốt trong chai vào miệng. Tôi nhắc lại.
“Chúng tôi từ Thị trấn Mùa đông và đang trên đường tới Thành
phố Thủy tinh, xin hỏi đây là đâu ạ?”.
Bức tường sau lưng người đàn ông được phủ một màu xanh
dương, nhạt dần từ dưới lên, điểm một vài vùng đen tung tóe như thể
sơn đen đã được hắt thẳng lên tường. Bức tranh, nếu có thể gọi nó như
vậy, dường như đang mô tả một màn trời đang tróc ra từng mảng. Một
màn trời giả, che khuất cả một vùng đen thẳm sâu ở phía sau.
“Ông ơi”, Makoto bước vượt qua tôi, tới ngồi trước mặt người
đàn ông, “Uống rượu không thôi thì cồn ruột lắm đấy. Con mời ông
ít bánh mì nhé?”.
Cô bé tháo tay nải xuống, lấy ra một ổ bánh mì có vẻ đã ỉu
nhưng không ướt đặt vào tay không cầm chai của ông. Người đàn
ông ngước lên, và Makoto mỉm cười với ông. Rồi ông đặt chai xuống
và bắt đầu xé bánh mì thảy vào miệng, như thể đó là một điều hết sức
tự nhiên. Sau khi ăn một lèo hết ổ bánh mì đen, ông lại cầm chai lên
và tu một ngụm lớn nữa.
“Đây không phải là Thành phố Thủy tinh”.
Đó là điều đầu tiên người đàn ông nói với chúng tôi, bằng một
chất giọng trầm, khàn và rành rọt đáng kinh ngạc. Đó là điều tôi đã
không muốn nghe nhất. Chúng tôi đã đi sai hay người đàn ông này
đang nói dối? Hoặc không phải cả hai. Chúng tôi đơn giản là đi chưa
tới mà thôi.
“Cũng không phải là Thị trấn Mùa đông”. Ông trút phần chất

- 156 -
Thị trấn mùa đông
lỏng còn lại trong chai vào miệng, khà một hơi khoan khoái. “Các
người thấy đấy, đây là một hành lang”.
Một hành lang. Nhưng có hành lang nào lại chỉ là một hành
lang? Người ta không thể nào chỉ xây lên một hành lang để rồi gọi nó
là một hành lang cả.
“Cậu kia”, người đàn ông đột ngột dằn mạnh cái chai trên tay
xuống sàn, ông chỉ vào tôi. “Đi lấy cho ta chai rượu! Cửa số chín phía
bên trái”.
Ông phẩy tay về bức tường phía bên trái, bên phải của tôi. Tôi
ngơ ngác nhìn ông, rồi nhìn sang Makoto. Cô bé gật đầu với một cái
nhún vai và một nụ cười có phần ngang trái.
Tôi làm theo lời ông, cố gắng đếm đi đếm lại từng cánh cửa để
chắc chắn rằng mình không mở nhầm. Vắt ngang qua cánh cửa thứ
chín là một loạt những đường song song gợn sóng bằng sơn đỏ, một
cơn đại hồng thuỷ, hay đúng hơn là những gì còn lại sau đại hồng
thuỷ. Mấy từ lặp đi lặp lại trên những dải sóng ấy, tạo ra một dải sóng
khác của riêng chúng. “ai biết mà đưa… ai biết mà đưa… ai biết mà
đưa…”. Biết gì và đưa gì?
Cánh cửa số chín mở ra một căn phòng hẹp và dài đúng như
tôi nghĩ. Mùi gỗ rất nồng xộc vào mũi tôi ngay khi cánh cửa mở ra,
và dường như cả một màn bụi ngay lập tức dâng lên khi tôi vừa bước
chân vào trong phòng. Căn phòng giống như một kho chứa, được
soi sáng bằng một ngọn đèn vàng duy nhất. Ánh sáng yếu ớt buông
xuống trên hai kệ gỗ ở hai bên, lấp lánh lập lòe trên thân những chai
rượu xếp dày trên đó. Toàn bộ số chai đó đều không nhãn mác, chứa
cùng một thứ chất lỏng trong suốt là rượu. Khung cảnh này ít nhiều
khiến tôi liên nhớ tới kho chứa dụng cụ của bà Astrid. Không muốn
lưu lại đó quá lâu, tôi với lấy một chai và trở ra.
Người đàn ông đã ngủ khi tôi quay trở lại, ngả sang một bên

- 157 -
NHẬT PHI

tường, quai hàm trễ xuống, chốc chốc lại giật giật. Makoto ngồi cách
ông một đoạn ngắn như đang trông chừng cho ông. Cô bé đưa tay
lên miệng suỵt tôi. Tôi khẽ khàng đặt chai rượu xuống bên cạnh ông
rồi lại ngồi bên cô bé.
“Ông ấy tên là Gingawa”, Makoto thì thầm. “Và hành lang này
được gọi là Hành lang Ghi nhớ”.

- 158 -
Thị trấn mùa đông

SA MẠC

T rong khi chia nhau ổ bánh mì cuối cùng, cả tôi và Makoto


đều nhận ra chúng tôi đang không thực sự đói. Cảm giác
đói của chúng tôi dường như đã bị bỏ lại trong đường hầm, cuốn trôi
theo làn nước lũ đột ngột. Thậm chí tái hiện lại cảm giác đó trong đầu
cũng là một điều gì đó thật khó khăn, giống như cố vẽ lại một gương
mặt không gặp từ lâu.
Hành lang Ghi nhớ tĩnh lặng, ấy là nếu như tôi bỏ qua tiếng
thở rền đều của Gingawa và những âm vang của bản hòa tấu sắc màu
hỗn loạn trên tường và trần hành lang. Những cánh cửa im lìm đóng
đằng sau những bức tranh hỗn độn không chủ đề, như một đảm
bảo rằng sẽ không có ai bất thần mở cửa xông vào đây. Một trong số
những cánh cửa đó hẳn là cánh cửa đã mở lối cho chúng tôi tới đây.
Nhưng là cánh cửa nào thì tôi cũng không có cách nào biết được.
Tôi có cảm giác rằng mình không nên tự tiện mở một cánh cửa nào
ra cả. Không ai biết, đúng hơn người đàn ông này có thể biết, nhưng
ông đang ngủ.
Tôi nghĩ về Ionah, và Viena. Nàng có thể đang cho con ăn, hoặc
bế con trên tay và đi lòng vòng trong thị trấn, hoặc hai mẹ con đang
êm đềm ngủ, trong tiếng ru êm đềm của cơn mưa tuyết bên ngoài.
Tôi không biết chắc được, bởi lẽ không có cách nào biết được thời
gian ở đây. Nhưng ít nhất tôi biết hai người đang được an toàn ở Thị
trấn Mùa đông. Chừng nào không ai ra ngoài trong ngày oanh kích.

- 159 -
NHẬT PHI

“Anh có thấy mệt không, Rei?”. Makoto thì thầm hỏi, cô bé đã


ngồi xích lại gần tôi. Tôi lắc đầu, tôi không thấy mệt, ít nhất là cái mệt
nhọc thể xác. Makoto gật đầu với tôi, như muốn nói “em cũng vậy”,
tôi nghĩ cô bé hiểu ý tôi.
“Ở cửa số chín có gì vậy anh?”.
“Rượu”, tôi hạ giọng đáp, “Toàn là rượu. Hai giá gỗ toàn những
chai rượu như thế kia”.
Makoto nhìn theo tay chỉ của tôi, gật đầu vẻ thắc thỏm, rồi cô
bé bò trở lại chỗ khi nãy, gần với phía người đàn ông tên Gingawa
hơn. Cô bé lục tìm trong tay nải và lấy ra tấm vải chúng tôi dùng để
đặt đồ ăn trong hầm. “Ít ra thì cũng đỡ hơn không có gì”. Tôi đoán cô
bé đang nói thế, dựa vào khẩu hình của cô.
Rồi cô bé nhón chân lại gần người đàn ông và đắp tấm vải lên
người ông. Người đàn ông ngúc ngắc đầu như một cử chỉ hàm ơn
trong vô thức. Và dường như ngay cả trong vô thức, Gingawa vẫn có
một phản xạ mở miệng nên lời mỗi khi nhận được một nghĩa cử nào
đó. Ông bắt đầu nói mơ.
Đó là một âm bật môi, được lặp lại nhiều lần, nghe giống như
là “pa”. Giọng người đàn ông mang một vẻ khẩn thiết giữa những
ề à lè nhè trong cơn say. Cảm giác như ông đang gọi lại một ai đó.
Một chặp, ông ngừng lại, quai hàm lại buông xuống, nhưng lần này,
gương mặt ông dường như thống khổ hơn nhiều lần.
Makoto đột nhiên đứng bật dậy, cô bé rảy chân vài lần trước
khi nhìn sang tôi với vẻ “Anh đi không?”. Tôi nghiêng đầu, ý hỏi “Đi
đâu?”. Makoto nhún vai rồi ra hiệu cho tôi đi theo cô. Tới khoảng
giữa hành lang, chắc chắn rằng đã ra khỏi tầm tai nghe của Gingawa,
Makoto mới nói với tôi.
“Em muốn đi xem một chút”. Giọng cô bé nghe như thể chúng
tôi đang bắt đầu đi dạo trong công viên, cách cô bé bước đi cũng như

- 160 -
Thị trấn mùa đông
vậy, nhàn nhã, ung dung, thiếu điều nhảy chân sáo nữa thôi. “Xem
những cánh cửa này dẫn tới đâu”.
“Mình không nên…”. Tôi ngập ngừng phản đối, không thể nói
rằng tôi không thấy điều đó hấp dẫn mình.
“Sao lại không nên?”.
“Em có nghĩ sẽ có điều gì đó nguy hiểm xảy ra khi chúng ta mở
cửa mà không được phép không?”.
Makoto suy nghĩ về lời tôi trong một giây.
“Vậy mình sẽ mở he hé cửa, nhìn vào xem có gì nguy hiểm
không rồi mới vào nhé?”.
Lẽ ra tôi nên biết sẽ chẳng thể nào cản được một khi Makoto đã
quyết định điều gì. Tôi gật đầu và hỏi cô muốn khám phá cánh cửa
nào trước nhất, nghĩ rằng ngay tức khắc cô sẽ muốn mở cánh cửa
nơi có dòng chữ trong bài hát của mẹ cô. Nhưng Makoto không đáp
ngay, cô bé đi vòng vòng trước một vài cánh cửa và dừng lại trước
một trong số đó.
Toàn bộ bề mặt cánh cửa được dành cho một bức tranh duy
nhất, và ngược lại, bức tranh cũng nằm trọn vẹn trên mặt cửa đó.
Tôi nghĩ mình hiểu lí do Makoto đã dừng lại trước cánh cửa ấy. Bức
tranh trước mặt chúng tôi có gì đó rất khác với ba bề mặt lem sơn
màu quanh đó. Đó là một bức tranh được tạo nên bởi những hình
khối trên một nền xanh tím than, áp đảo là những khối đa giác màu
đỏ nhiều sắc độ. Một vài khối đa giác khác rải rác trong khối đỏ lớn,
méo mó và lộn xộn, nhưng vẫn cho tôi cảm giác về một gương mặt,
một gương mặt đỏ lựng và xám ngoét.
“Anh nghĩ bức tranh này vẽ gì?”.
“Một người say rượu”, tôi đáp, “giống như ông Gingawa ấy”.
“Gingawa không như thế này”. Makoto quả quyết. “Em nghĩ
đây là một con quỷ”.

- 161 -
NHẬT PHI

Rồi cô bé đặt tay lên tay nắm cửa. Ánh sáng đổ xuống qua khe
cửa hẹp như nước tràn qua kẽ nứt trên tường, như thể nắng đã xếp
hàng đằng sau cánh cửa suốt bao lâu và giờ bắt đầu vội vã xô đẩy
nhau len qua. Makoto quay sang nhìn tôi, chừng muốn xác nhận
rằng không có gì nguy hiểm sau cánh cửa này và rằng chúng tôi nên
đẩy cửa bước vào thôi. Dù rằng ánh sáng không phải lúc nào cũng
đồng nghĩa với an toàn…
Ánh sáng ấy quả thực là nắng, và đằng sau cánh cửa hoàn toàn
không phải là một căn phòng rộng một sải tay như tôi tưởng tượng.
Đó là một không gian rộng mở hết tầm mắt, dường như chúng tôi đã
ra tới bên ngoài Hành lang Ghi nhớ này. Dưới chân chúng tôi là miên
man cát vàng, trên đầu chúng tôi là xanh ngắt một nền trời và chói
chang một vầng mặt trời. Một sa mạc, từ đó bật lên trong đầu tôi, và
tôi nói điều đó với Makoto.
“Hình như em đã từng nhìn thấy cảnh này trong sách của mẹ
em”. Cô bé gật gù. “Một vùng toàn là cát, và rất nóng”.
Makoto bước qua ngưỡng cửa, tiến vào sa mạc, tôi làm theo cô
bé. Khi ấy, tôi nhận ra cánh cửa mà chúng tôi vừa bước qua kì thực
đang cô độc đứng giữa sa mạc với không một bức tường nào bao
quanh. Một ngưỡng cửa từ góc nhìn của tôi và một khung gỗ nâu
trống rỗng từ những phía khác. Giống như chúng tôi đã vừa bước
qua một cánh cửa thần kỳ tới một chiều không gian khác vậy. Và tại
sao lại không phải là như thế chứ? Makoto đón nhận điều này với vẻ
hoàn toàn bình thản, cô bé quan tâm nhiều hơn đến việc khám phá
vùng đất mới.
“Miễn là mình vẫn nhìn thấy cửa để về, anh nghĩ thế không?”.
Tôi đành phải đồng ý với cô, và chúng tôi bắt đầu tiến vào sa
mạc, theo hướng mặt trời. Như thế, ít nhất hai cái bóng dưới chân
cũng sẽ giúp chúng tôi dễ dàng tìm được đường về hơn. Cát nóng rẫy

- 162 -
Thị trấn mùa đông
dưới chân theo từng bước đi của chúng tôi. Hơi nóng bủa vây chúng
tôi từ khắp các phía, cảm giác như nước đang bốc hơi trực tiếp khỏi
cơ thể tôi qua các lỗ chân lông. Tới một lúc, tôi phải cởi áo vest và cà
vạt ra cầm trên tay. Khi tôi ngoái lại phía sau, cánh cửa đã chỉ còn là
một cái chấm bé tí. Mặt trời thì vẫn còn xa lắm.
Xung quanh chúng tôi chỉ có cát và cát. Ngay cả Makoto cũng
bắt đầu tỏ ra nản lòng. Cô bé buông mình thụp xuống nền cát, cát
nóng gắt, nhưng đủ êm ái để nâng đỡ cặp chân mảnh khảnh của cô.
Không có chiếc mũ beret đỏ, mái tóc ngắn của cô bé dường trống trải
đến mong manh.
“Anh có nghĩ phía trước sẽ có gì đó không, Rei?”.
“Anh thực sự không biết”, tôi đáp. “Sa mạc luôn rất rộng lớn. Và
hoang vắng”.
“Hơn cả hoang vắng nữa…”.
Tôi và Makoto giật thột, đồng loạt quay sang nhìn nhau. Giọng
nói vừa cất lên là một giọng cao, khò khè như một tiếng rít gió nghèn
nghẹt. Và rồi con rắn xuất hiện, một hình thù ánh bạc nhỏ và dài uốn
lượn qua một đụn cát gần đó. Con rắn uốn lượn lại gần chúng tôi,
ngóc lên cái đầu nhọn với cái lưỡi chẻ đôi. Sau cơn bất ngờ ban đầu,
Makoto ngồi ngay ngắn trở lại, thích thú nhìn vào mắt con rắn.
“Bạn vừa nói đó hả?”.
Con rắn không đáp ngay, nó trườn từ bên chân Makoto sang
bên chân tôi, cặp mắt đùng đục sau lớp màng trong dường đang dò
xét chúng tôi. Tôi bất giác giật lùi lại. Rồi nó vặn mình dợm bỏ đi.
“Không phải…”.
“Không phải gì cơ?”. Makoto hỏi, trông dáng điệu cô bé như thể
muốn với tay tới kéo đuôi con rắn lại.
“Tôi đang chờ một người”, con rắn dừng lại, cái lưỡi rắn thò
thụt rất nhanh mỗi khi nó cất tiếng, dù quai hàm không hề động đậy.
“Các người không phải…”.

- 163 -
NHẬT PHI

“Bạn đang chờ ai vậy?”. Makoto mơ hồ vạch những nét nhỏ lên
nền cát, giật mình thu tay lại mỗi khi nghe cát nóng lên. “Biết đâu
chúng mình lại giúp được gì đó”.
“Các người không giúp được gì đâu”. Con rắn đáp quả quyết, nó
lại trườn đi, nhưng quay lại ngay khi mới đi được khoảng một bước
chân người. “Các người từ đâu tới?”.
“Hàng lang Ghi nhớ”, tôi dè dặt đáp, rồi vội vàng bổ sung. “Thực
ra là Thị trấn Mùa đông”.
“Tức là dưới mặt đất”.
Con rắn ngóc đầu lên khỏi mặt đất, nghiêng qua lại một vẻ kỳ
khôi. Một kẻ trườn trên mặt cát có thể mỉa mai những kẻ đi bằng hai
chân dưới mặt đất sao?
“Người tôi đang chờ tới từ trên kia”, con rắn ngửa đầu, chĩa cái
lưỡi dài lên trời. “Cậu ấy tới từ những vì sao”.
Makoto nheo mắt nhìn theo con rắn, nhưng trên đầu chúng tôi
chỉ là nền trời xanh khôn cùng. Tôi nhận thấy giờ đây con rắn đã xoay
hẳn lại về phía chúng tôi, nó có vẻ thực sự muốn tiếp tục câu chuyện.
“Không có nhiều người từ những nơi đó đến đây”, nó nói. “Khi
nghe tiếng các người, tôi đã nghĩ đó có thể là cậu ấy. Sự thất vọng có
lẽ đã khiến tôi có chút vô lễ. Các người có tên không?”.
Chúng tôi lần lượt xưng tên, và con rắn vươn đầu cao lên một
chút nữa như một sự ghi nhận.
“Còn bạn tên là gì?”.
“Tôi không có tên. Loài rắn vốn không đặt tên cho nhau. Chúng
tôi có nhiều cách để nhận ra nhau hơn là một từ ngữ”. Trong giọng rít
gió của con rắn chợt len vào chút ngùi ngùi. “Và cũng chẳng có sinh
vật nào khác ở đây để mà gọi tên tôi”.
“Vậy người bạn của bạn, người đến từ những vì sao ấy, sẽ nhận
ra bạn khi cậu ấy quay trở lại chứ?”.

- 164 -
Thị trấn mùa đông
“Điều ấy là chắc chắn. Nói cho cùng, tôi là sinh vật đầu tiên cậu
ấy gặp khi tới đây…”.
Sa mạc lặng gió, nhưng từ khi con rắn xuất hiện, tôi đã không
còn thấy quá nóng bức nữa. Hoặc vì tôi đã quên mất điều đó từ khi
bắt đầu cuộc đối thoại này.
“Tôi cũng chính là kẻ đã tiễn cậu ấy trở về lại ngôi sao của cậu ấy.
“Một đồng loại của các người đã thu lấy những gì còn lại sau
khi cậu ấy đi. Ông ta có lẽ căm ghét tôi lắm”.
“Nhưng mình thấy bạn không phải kẻ đáng ghét đâu”.
Makoto nói, với một nụ cười tươi. Con rắn hạ đầu xuống mặt
cát, chừng như ngượng ngùng.
“Chúng tôi muốn tới Thành phố Thủy tinh”, tôi lên tiếng. “Cậu
có biết đường tới đó không?”.
Con rắn ngước lên nhìn tôi, cái nhìn khiến tôi đột nhiên cảm
thấy lạnh toát những đầu ngón tay trong một phần giây. Nó đã dành
cho Makoto cái nhìn khác, tôi tin thế.
“Anh tên là Rei, phải không?”. Con rắn thình lình hỏi. “Cái tên
rất hợp với anh đấy. Anh chẳng biết gì cả, có phải vậy không?”.
“Không, Rei biết nhiều lắm chứ”, Makoto đáp thay như bênh
tôi. “Anh ấy biết đọc chữ, không như mình…”.
“Những con chữ chỉ là cái vỏ”, con rắn nói. “Sự thật nằm ở bên
dưới đó, rất sâu”.
Tôi im lặng, bẽ bàng, cảm giác như thể con rắn bằng cách nào
đó đã luồn được thân mình thon nhỏ của nó vào trong tâm trí tôi và
găm cặp nanh khô khốc của nó lên đó.
“Sa mạc này chẳng bao giờ có một dòng chữ nào cả”, nó điềm
nhiên nói tiếp. “Nhưng nó có thể dạy cho các người nhiều điều hơn
bất kỳ cuốn sách nào…”.
Tôi bắt đầu nghe xây xẩm mặt mày, mà những điều con rắn nói

- 165 -
NHẬT PHI

chỉ giống như một dẫn xuất. Tiếng rít gió của con rắn thoắt giống
như một tiếng cười.
“Điều đầu tiên các người nên học được là không thể đầu trần ở
trong sa mạc quá lâu”.
Mắt tôi tìm Makoto, nhận ra cô bé cũng đang ở trong một trạng
thái tương tự. Cô bé bắt đầu thở một cách khó nhọc, lảo đảo đứng lên
và gần như đổ mình vào tay tôi.
“Nói tôi nghe điều cuối này”, con rắn đề nghị. “Cánh cửa đó,
cánh cửa mà các người đã bước qua để tới đây ấy. Mặt bên hành lang
của nó có dòng chữ nào không?”.
“Không có”, tôi đáp, “chỉ có một bức tranh”.
“Rei nói đó là một người say rượu, còn mình thấy đó là một con
quỷ”. Makoto yếu ớt bổ sung với một nụ cười gắng gượng.
“Ra là thế. Giờ thì các người nên quay trở lại hành lang đó đi”,
con rắn ngóc đầu lên lần cuối. “Cho dù các người có muốn đi tới đâu,
sa mạc này cũng không đưa được các người tới đó đâu”.
Rồi nó quay mình, trườn qua đụn cát và biến mất.

- 166 -
Thị trấn mùa đông

PAL

C ảm giác váng vất khó chịu biến mất ngay khi chúng tôi
đóng lại cánh cửa dẫn vào sa mạc lại sau lưng. Bầu không
khí của Hàng lang Ghi nhớ dường như có khả năng biến tất cả mọi
cảm giác thành những ký ức xa mờ.
“Em vẫn muốn nói chuyện với anh bạn rắn thêm nữa”, Makoto
cười, cô bé đã dựa lưng lên bờ tường mà ngồi trượt xuống. “Nhưng
đúng là không thể ở đó thêm được. Lần tới em sẽ mang theo dù”.
“Nếu chúng ta còn cần phải quay lại sa mạc đó lần nữa”, tôi
đồng tình.
“Cần chứ. Em tin thế”.
“Vậy thì trước hết chúng ta cần kiếm được một cây dù đã”.
“Có thể ông Gingawa biết đấy”.

Gingawa vẫn đang ngủ gà gật khi chúng tôi quay trở lại chỗ
ông, vậy nên tôi và Makoto quyết định sẽ thử đi về hướng ngược lại,
tìm tới đầu bên kia của hàng lang này. Những bức tranh tường hỗn
độn kéo dài cả hai phía khiến tôi không có được chút hình dung nào
về quãng đường chúng tôi đã đi. Hành lang này có thể dài bằng cả
đường kính của Thị trấn Mùa đông, quãng đường cho một lần xách
nước, hoặc có thể chỉ bằng chiều dài của tòa thị chính, đoạn đường
giữa hai dãy ghế dẫn lên bức tượng trắng.
Gì thì gì, chúng tôi cũng không bắt gặp bất kì một chướng ngại

- 167 -
NHẬT PHI

hay sự kiện nào cho tới cuối hành lang. Tôi gần như đã thở phào khi
biết được hành lang này thực sự có một điểm cuối. Hành trình đầy
màu sắc của Hành lang Ghi nhớ được chặn lại bởi một bức tường
trắng, một điều dường như vừa lạ lùng vừa tất yếu. Bất kỳ đoàn người
nào tới đây với sơn và mực hẳn đã quyết định không đụng tới bức
tường này, như một dấu mốc, hay một sự nhắc nhớ. Một cánh cửa
trắng với tay nắm bạc hoàn thiện bức tranh không màu ấy.
Cánh cửa cuối một hành lang có thể dẫn tới đâu? Một căn
phòng, một ban công hay một dải cầu thang. Bất kỳ nơi nào trừ một
hành lang khác. Nhưng đó lại đúng là điều chúng tôi bắt gặp, ở phía
bên kia cánh cửa trắng. Một hành lang khác. Một hành lang khác với
hai mặt tường và một mặt trần phủ kín những màu sơn.
Chúng tôi lặng lẽ bước trên hành lang thứ hai ấy, nhìn lên hai
bức tường dài chỉ bằng nửa con mắt, lảng tránh một ý nghĩ, cố gắng
không nhớ ra một cảm giác. Cho tới khi Makoto bật reo lên và kéo
tay tôi, chỉ vào một dòng chữ trên tường. Bằng cách nào đó, cô bé vẫn
nhận ra, những lời trong bài hát của mẹ cô.
Tôi đấm tay vào mặt tường đối diện, bật ra một tiếng chửi thề.
Giờ thì tôi đã gọi tên ra được cảm giác ấy. Đó là nỗi chán ghét. Những
vòng lặp không buông tha chúng tôi. Hành lang Ghi nhớ này rốt cuộc
cũng không khác Thị trấn Mùa đông mà chúng tôi vừa rời bỏ, chỉ là
một vòng lặp khác. Makoto nhìn tôi ái ngại, như hối tiếc vì đã chỉ cho
tôi dòng chữ ấy. Tôi cố mỉm cười với cô bé.
“Đi tiếp nào! Có khi Gingawa đã dậy rồi đấy”. Tôi vẩy vẩy mấy
ngón tay. “Có nhiều điều cần phải hỏi ông ấy đấy”.
Nhưng dường như có ai đó đã tới gặp Gingawa trước chúng tôi.
Tôi nhận ra giọng Gingawa đang càu nhàu điều gì đó không nghe rõ
từ khoảng giữa hành lang. Rồi giọng thứ hai vang lên, trầm mà vọng.
“Ông không nên từ chối lòng tốt của một người bạn cũ như
thế, Gin”.

- 168 -
Thị trấn mùa đông
Đáp lại là tiếng khịt mũi như khinh bỉ của Gingawa. Chúng tôi
vẫn bước tới, thật nhẹ để không gián đoạn câu chuyện đang khiến
chúng tôi tò mò.
“Tất cả mọi người đều có lí do để rời khỏi đây”. Giọng kia nói.
“Tại sao ông không làm như họ nhỉ?”.
Đó giống như một lời châm biếm hơn là một gợi ý, căn cứ vào
cách mà Gingawa đáp lại người kia.
“Im đi! Tất cả là tại mày”.
“Đừng khắc nghiệt thế, Gin! Ông biết tôi chỉ làm điều cần làm”.
Ngừng một chút. “Một Hành lang Ghi nhớ là không đủ…”.
Gingawa không đáp. Hình như ông lại đang trút rượu vào miệng.
“Ông vẫn cứ chỉ ngồi uống như vậy sao? Trách sao mà tới Pal
rồi cũng bỏ đi”.
“Im ngay”. Gingawa gào lên, rồi một tiếng động như một vật gì
không cứng lắm vừa bị ném xuống đất. “Đừng có nhắc tới Pal trước
mặt tao”.
“Tức giận cũng vậy thôi, bạn già ạ. Tất cả đều đã được định
trước rồi”.
Tôi quay sang Makoto, ánh mắt chúng tôi gặp nhau trong một
giây. Rồi chẳng ai bảo ai, chúng tôi bắt đầu tăng tốc, lao về đầu bên
kia của hành lang. Đó là Kahn, giờ thì chúng tôi đã nhận ra giọng
nói ấy.
Một bóng người trong tấm áo chùng nâu lọt vào tầm mắt của
chúng tôi trước tiên, rồi tới Gingawa, và trên mặt đất, bên cạnh mấy
cái chai là một giỏ mây đổ chỏng chơ với mấy ổ bánh mì đen lăn trên
sàn. Chúng tôi không kịp nhìn rõ gương mặt người mới tới, nhưng đó
không thể là ai khác. Kahn cũng đã nhận ra sự có mặt của chúng tôi.
“Ăn bánh mì đi, Gin”.
Ông nói, trước khi bước rất nhanh tới cánh cửa gần nhất, mở

- 169 -
NHẬT PHI

ra và biến mất sau đó, trước khi chúng tôi kịp tới gần. Tôi nghe máu
trong mình sôi lên, như vừa nhận ra một sự dối gạt ghê gớm. Chỉ
bằng ba bước chân, tôi đã tới trước cánh cửa ấy, còn không buồn
để ý tới họa tiết trên đó. Nhưng tay nắm cửa không nhúc nhích. Tôi
giận dữ tung chân đá nhiều lần vào cửa, nhưng không có gì lay động
cả, ngoại trừ tâm trí tôi, thứ đang rung lắc dữ dội cùng với những
chuyển động mạnh bạo quá sức tôi.
“Vô ích! Cửa không mở đâu”.
Gingawa nói, ánh mắt ông thậm chí còn quạch đỏ hơn trước,
nhưng ông có vẻ đang nhìn tôi với một chút tiêu khiển. Điều đó
thậm chí khiến tôi muốn công kích cánh cửa này nhiều hơn nữa, nếu
không phải là lúc đó Makoto đã tới nơi. Cô bé đặt tay lên vai tôi.
“Ông biết ông ta?”. Tôi quay sang Gingawa, gay gắt. “Đó là
Kahn, Thị trưởng của Thị trấn Mùa đông, có phải không?”.
“Đó là một kẻ phản bội”. Người đàn ông đáp đơn giản, rồi cúi
xuống với chai rượu.
“Bánh mì vẫn còn ăn được đấy ạ”. Makoto lên tiếng, như thể đã
chưa có một lời to tiếng nào trước đó. “Và còn ấm nữa”.
Cô bé nhặt mấy ổ bánh mì trên nền đất, phủi mấy cái rồi xếp
gọn gàng lại vào giỏ mây và đặt xuống trước mặt Gingawa.
“Ông ấy nói đúng”, cô bé cầm lên một ổ bánh, chìa ra cho người
đàn ông, “Ông ăn một chút bánh mì đi ông”.
Gingawa đón lấy ổ bánh mì từ tay Makoto với một chút khiên
cưỡng rồi bắt đầu chầm chậm xé từng miếng thảy vào miệng. Makoto
mỉm cười vẻ hài lòng. Chờ cho người đàn ông ăn xong một ổ bánh,
cô bé mới nhỏ nhẹ nói.
“Con gọi ông là Gin, được không ạ?”.
Gương mặt Gin chợt nhăn nhúm, co quắp lại, như thể cả ổ
bánh mì đã bị đẩy ngược trở lại lên cổ họng ông. Nhưng đó không

- 170 -
Thị trấn mùa đông
phải sự tức giận. Biểu cảm của ông gần hơn với một vẻ bất ngờ đầy
cảm kích.
“Pal… Cũng thường gọi ta như thế…”.
Một lòng bàn tay trên mặt, đôi vai rung lên, người đàn ông đầu
bạc bật khóc như một đứa trẻ, lặng lẽ, kìm nén.

Gin lại tiếp tục gà gật ở cuối chai rượu trên tay. Makoto là người
nhận ra điều đó, cô bé bảo tôi dẫn cô tới phòng chứa rượu để lấy
thêm cho ông.
“Gin tội nghiệp”, cô bé nói, “người tên Pal ấy hẳn là quan trọng
với ông ấy lắm. Ông ấy thậm chí đã gọi tên người đó trong mơ, anh
có nhớ không?”.
“Anh nhớ”, tôi gật đầu. “Có vẻ như đã từng có nhiều người ở
Hành lang Ghi nhớ này hơn là bây giờ… Và Kahn là một trong số đó”.
“Em cũng ngạc nhiên”. Makoto thừa nhận. “Đó đúng là Kahn, phải
không? Ông ấy có đến đây theo cách giống như chúng ta không nhỉ?”.
“Anh nghi ngờ điều đó”, tôi nhận thấy mình đang nghiến răng
ken két. “Ngài thị trưởng luôn có quá nhiều bí mật”.
Tôi nhặt bừa một chai rượu trên giá, trong khi Makoto đảo mắt
quanh phòng chứa rượu nhỏ. Cô bé đột nhiên chặn tôi lại khi tôi tiến
ra phía cửa. Thói quen đóng cửa lại khi bước vào nhà mà Thị trấn
Mùa đông đã tập cho cô bé đã khiến tôi phát hiện ra một điều mà
trước đó tôi không để ý tới, điều đã thu hút sự chú ý của Makoto vào
mặt sau của cánh cửa.
“Anh đọc được, phải không?”.
“Có vẻ như người tên Pal đó không phải đã bỏ đi mà không
nghĩ gì tới ông Gin tội nghiệp”.
Hàng chữ viết bằng mực đen, bằng một nét bút mảnh, ngay ngắn.
“Gin, đừng uống rượu một mình

- 171 -
NHẬT PHI

Pal”
Có một thoáng xao động rất khẽ nơi ánh mắt của Makoto khi
tôi đọc cho cô bé nghe thông điệp trên cánh cửa phòng rượu. Rồi cô
bé chợt quay lại và bắt đầu đi quanh căn phòng nhỏ nhiều vòng, đôi
mắt đầy chủ ý quét qua những chai rượu trên giá gỗ. Tôi còn chưa
nhận ra cô bé đang muốn tìm kiếm gì thì cô đã bật lên một tiếng reo
khẽ. Cúi mình xuống một góc của giá rượu, Makoto lấy lên một vật
nhỏ được gói trong một thứ giấy đã ngả vàng. Cô bé cẩn thận bóc lớp
giấy ra, tươi cười đặt vào tay tôi một miếng giấy nhỏ dày chữ, thứ đã
bọc quanh hai cái ly nhỏ trong suốt. Hai cái ly có vẻ còn sạch, giữa
một căn phòng đầy bụi bặm như thế này, đơn giản là nhờ vào lớp giấy
gói ấy thôi.
“Sao em biết…?”.
“Em cảm giác thế”, Makoto đáp đơn giản. “Em nghĩ Pal sẽ
không để lại chỉ một lời nhắn”.
Một lần nữa, cô gái nhỏ bé này lại nhìn ra một điều gì đó ẩn
bên dưới những con chữ. Con rắn nói đúng, tôi chỉ có thể thấy được
những cái vỏ.
“Anh biết không, Rei?”. Makoto nói khi chúng tôi quay trở lại
chỗ Gin. “Khi mình mới đến đây, cách Gin đón chào chúng ta đã
khiến em nghĩ rằng mình đã làm gì đó có lỗi lắm, đã phá hỏng không
gian của riêng ông, làm phiền việc ông tận hưởng những chai rượu
một mình. Em đã nghĩ rằng chúng ta đã sai khi đến Hành lang Ghi
nhớ. Là đường hầm kia đã dẫn sai hay chúng ta đã đi sai thì em
không biết được.
“Nhưng khi biết về người tên là Pal và điều người đó đã nhắn
tới Gin, em bắt đầu tin rằng không phải ngẫu nhiên mà chúng ta tới
Hành lang Ghi nhớ này. Trước khi ông ấy giúp mình tìm đường đến
Thành phố Thủy tinh, em nghĩ mình có thể làm gì đó cho ông ấy. Cho
nỗi cô đơn của ông”.

- 172 -
Thị trấn mùa đông
Tôi mỉm cười, không đáp mà với tay xoa đầu cô bé. Từ Thị trấn
Mùa đông tới Thành phố Thủy tinh quả thật không phải hành trình
tôi có thể thực hiện một mình.
Chúng tôi trở lại cuối hành lang, nơi Gingawa đang ngồi nhìn
cái chai rỗng không đưa trước mặt với vẻ ngây ngô buồn tẻ. Ánh
mắt ông sáng lên vẻ hài lòng khi nhận ra chai rượu mới trên tay tôi.
Nhưng Makoto đã vượt qua tôi để đến bên ông.
“Gin à, uống rượu một mình có phải là buồn lắm không ông?”.
Vừa nói cô bé vừa đặt hai cái ly xuống trước mặt ông. Rồi cô
vẫy tôi lại gần.
“Con không biết uống rượu. Con còn nhỏ quá”. Cô bé cười và
chỉ vào tôi. “Rei sẽ uống với ông nhé?”.
Tôi không thể nói là người đàn ông thích thú ngay với ý tưởng
đó. Ông nhìn chai rượu trên tay tôi, như thể tôi đang giữ nó làm con
tin, chừng như cân nhắc giữa việc uống với tôi và không có gì để
uống. Rồi ông gật đầu, vẫn với một chút khiên cưỡng.
Tôi rót rượu vào hai ly, đẩy một ly về phía ông và kính cẩn nâng
lên ly phần mình. Tôi chưa từng trải qua điều này trước đây, nhưng
bằng một cách nào đó, tôi biết mình phải làm gì. Gin nhíu mày, khịt
mũi và điềm nhiên nâng ly lên, hẩy đáy ly của ông va vào miệng ly
của tôi, có phần hơi mạnh quá.
Thứ chất lỏng trong suốt trong ly có hương thơm thảo mộc khá
gắt, sự mãnh liệt của rượu gợi tôi nhớ về thứ nước suối ở Thị trấn
Mùa đông. Rượu trôi êm vào cổ họng tôi, rồi rất nhanh, hun nóng
toàn bộ cơ thể tôi. Tôi thốt rùng mình. Gin bật cười khoái trá với
cảnh đó, tôi có cảm giác ông đã bắt đầu ghi nhận tôi hơn. Ông đẩy ly
về phía tôi, thay cho yêu cầu về tuần rượu kế tiếp.
Lần này tôi uống chậm hơn, để cho rượu chạy quanh vòm
miệng, cảm nhận chất cay tê lan tỏa trong đó, rồi tới vị ngọt nồng.

- 173 -
NHẬT PHI

Không thể nói là tôi không thích điều này. Makoto đón lấy chai rượu
và bắt đầu rót thay tôi.
“Này Gin”, tôi nói, cảm giác như đó là giọng của một ai khác,
đã là tuần rượu thứ mấy rồi?. “Người tên là Pal đó là một người bạn
cũ, phải không? Nếu như Pal quan trọng với ông như vậy, tại sao ông
không rời khỏi đây để đi tìm người đó?”.
“Ngươi nghĩ là ta không muốn sao?”. Người đàn ông đáp vẻ cộc
cằn, nhưng tôi lại cảm thấy gần gũi hơn với mùi rượu hắt ra từ miệng
ông. “Ta không thể”.
“Tại sao?”.
“Ta không thể rời khỏi đây”. Gin nấc lên một tiếng, vẩy vẩy cái
ly cạn trước mặt, và Makoto lại rót cho ông. “Ta không thể rời khỏi
đây được. Ta là người cuối cùng còn lại ở Hành lang Ghi nhớ. Nếu
như ta đi khỏi đây, toàn bộ hành lang này sẽ sụp đổ. Không còn lại
gì nữa cả”.
Ông uống cạn một ly nữa mà không cần tới tôi. Rồi ông bất
chợt phá lên cười sằng sặc.
“Nếu như ta rời khỏi đây, Hành lang này sụp đổ …”. Ông ngừng
một hơi, ợ lên một tiếng và uể oải nhép miệng, “thì cả Thị trấn Mùa
đông và Thành phố Thủy tinh của các người cũng không còn tồn tại
được nữa đâu.
“Hắn ta biết rõ điều đó”, hàng chân mày và giọng nói ông đượm
vẻ trớ trêu, trong khi ánh mắt ông rõ ràng đang bừng lên giận dữ,
“nhưng hắn ta vẫn không thôi nhắc lại, không thôi khiêu khích ta
làm thứ không thể. Hắn biết ta sẽ không làm. Hắn chỉ muốn thấy ta
thống khổ, đó là niềm vui thú của hắn”.
Cổ chai trên tay Makoto ngần ngừ nâng lên hạ xuống. Cô bé lo
lắng nhìn tôi, và tôi ra dấu cho cô cứ việc rót cho ông. Gin đã chìm
trở lại vào cuộc độc ẩm, sự bầu bạn của tôi có chăng chỉ là một cái
cớ, một sự kích hoạt những chất chứa trong ông. Ông vẫn chạm ly

- 174 -
Thị trấn mùa đông
vào ly của tôi, vẫn hướng về tôi khi ông nói, nhưng tôi biết cả cái ly
lẫn chính tôi đã trở thành một cái gì khác trong mắt ông rồi. Một dư
ảnh, hay một phần của cảnh trí. Gin đang nói với chính mình hơn là
với chúng tôi.
“Hắn nghĩ hắn biết nhiều hơn bọn ta, hắn nghĩ hắn là một vị
Thánh đấy, nhưng hắn chỉ là một kẻ phản bội mà thôi. Nếu không
phải vì hắn, sẽ chẳng ai nghĩ đến chuyện rời khỏi đây cả. Nếu không
phải vì hắn, thì Pal…”.
Gin đặt ly xuống, khùng khục ho. Makoto vội đặt chai rượu
xuống để vỗ lưng cho ông. Cơn ho đến cũng như một điều được
định trước, như để buộc chúng tôi phải nán lại Hành lang Ghi nhớ
này thêm nữa, bởi lẽ nó đến vào đúng lúc tôi cảm giác mình chuẩn
bị nghe được những điều thực sự quan trọng. Hoặc chính là Gin, vô
tình hay hữu ý, đã cho phép cơn ho tới để chặn câu chuyện đang vào
đà. Ông đang rất xúc động, hoặc đang tỉnh hơn mức chúng tôi tưởng.
Khi cơn ho hắng qua đi, người đàn ông trở lại với bộ dạng bệ rạc vô
vi của mình. Ông vươn vai, ngáp banh miệng rồi tựa mình vào bức
tường sau lưng, ông lại bắt đầu thở đều.
Nhìn người đàn ông đầu bạc đi vào giấc ngủ một cách đơn giản
như thế, tôi đột nhiên cảm thấy thèm ngủ kinh khủng. Một giấc ngủ
êm đềm, thư thái, giống như những đêm tôi đã trải qua tại Thị trấn
Mùa đông. Hành lang này không có lò sưởi, không có chăn và nệm,
và hơn hết, không có lời chúc ngủ ngon của Ionah. Nhưng mặt khác,
nó có một thứ có thể giúp được tôi tương tự. Tôi trút phần chất lỏng
còn lại trong chai vào miệng, tương đương với ba tuần rượu cùng
một lúc.
“Chúc ngủ ngon, Makoto”, tôi nói, ngơ ngẩn cười với cô bé.
Vẫn còn quá nhiều cánh cửa ở nơi đây để chúng tôi mở ra. Vào
ngày mai, ấy là nếu khái niệm đó tồn tại trong Hành lang Ghi nhớ
này. Còn lúc này là giờ ngủ.

- 175 -
NHẬT PHI

TRÊN MIẾNG GIẤY GÓI LY

M ột mặt là đoạn cuối của một bài báo giống như một lá
thư.

“…Nhưng xin quý bạn đọc cũng chớ quá buồn lòng. Đây là một
điều có thể nhìn thấy trước được, rằng sớm muộn gì nó cũng phải
xảy đến, kể từ khi nhà chức trách thành phố đưa ra những quyết sách
đã trở thành một phần truyền thống từ nhiều năm trước. Vả chăng,
vạn sự trên đời này đều khởi sinh từ duyên số. Tồn tại rồi diệt vong,
hội ngộ rồi li biệt, cho tới cả tình yêu và lẽ sống chết, tất thảy đều
nhờ vào duyên số. Duyên số đã cho tôi cơ hội được làm việc tại đây
và được trò chuyện với quý bạn đọc. Đó là một điều may mắn lớn
lao của tôi trong đời. Nhưng rồi mối duyên nào cũng tới lúc phải kết
thúc. Số báo này có lẽ sẽ không đến được tay của quá nhiều người,
dù vậy, tôi cũng mong những bạn đọc hiếm hoi còn tìm tới chúng tôi
sẽ đừng quá buồn lòng. Nếu như chúng ta vẫn có duyên với nhau…
Ngày mai chúng tôi sẽ bắt đầu chuyển ra khỏi căn hộ số 451F,
nơi chúng tôi đã cùng nhau làm nên từng số báo, cùng nhau trải qua
nhiều đêm thức trắng với mong muốn Thành phố Thủy tinh sẽ không
ngủ quên trước những điều đang thực sự diễn ra. Một nơi nhiều kỷ
niệm đối với cá nhân tôi, nhưng cũng đến lúc rồi. Máy móc và thiết
bị in ấn sẽ được chuyển đi ngay khi số báo này được in ra, không lâu
sau khi tôi viết xong bài viết cuối cùng này. Tôi không được cho biết

- 176 -
Thị trấn mùa đông
những anh bạn trung thành và lặng lẽ ấy sẽ được đưa tới đâu. Chúng
tôi đã đồng hành với nhau quá lâu, và điều đó khiến cho tôi thực sự lo
lắng. Tôi hy vọng họ sẽ được ở một nơi an toàn, được thong thả nghỉ
ngơi chờ đợi một ngày quay trở lại với công việc.
Và tôi cũng hy vọng mình còn sống để một ngày nào đó được
gặp lại các bạn. Trên những trang giấy.
Tổng biên tập
R.B”

Mặt kia là một phần của một cáo phó, với một góc rất nhỏ ảnh
của người quá cố, lộ ra phần cổ và vai trong bộ vest không rõ màu.

“Ông Rogerg Asmas, nguyên Thị trưởng thành phố, đã qua đời
vào hồi 22h ngày 21 tháng 12 năm 1953 tại nhà riêng, sau thời gian
dài chống chọi với căn bệnh bọ đen, hưởng thọ 91 tuổi.
Ông Asmas đã đảm nhiệm vai trò Thị trưởng thành phố trong
bốn nhiệm kỳ, từ năm 1912 đến năm 1928. Ông là một thị trưởng
khả kính, dành được nhiều tình cảm của người dân thành phố. Thời
gian tại vị của ông ghi dấu nhiều thành tựu của Thành phố Thủy tinh.
Tuy nhiên đó cũng là giai đoạn mà quan hệ của Thành phố chúng
ta với Thị trấn Mùa đông đi vào bế tắc, một điều đã được người kế
nhiệm ông mạnh tay thay đổi.
Tang lễ ông Rogerg Asmas được tổ chức vào ngày 24 tháng 12
năm 1953, theo nghi thức cấp cao nhất dành cho cựu nguyên thủ.
Mong ngài an nghỉ, Rogerg đáng kính.
Ban biên tập”

- 177 -
NHẬT PHI

MAKOTO HỌC CHỮ

C hào anh, Rei.


Nếu như anh đọc được thư này của em thì đúng là anh đã
ngủ lâu thật đấy. Cả ông Gin nữa. Hai người đã ngủ suốt từ lúc đó tới
giờ. À mà em là Makoto đây. Anh ngạc nhiên lắm phải không? Em
đã biết đọc và viết rồi đấy. Em đã rất hào hứng muốn khoe anh từng
phần trong quá trình học chữ của em, nhưng lần nào em quay lại
cũng thấy anh và Gin vẫn đang ngủ. Thế là em quyết định sẽ viết hết
lại, để khoe với anh.
Em nên bắt đầu từ đâu nhỉ? À, phải rồi, chắc anh đang muốn
hỏi em đã học chữ như thế nào phải không? Là Matsu đã dạy cho em
đấy. Matsu là anh bạn rắn mà mình đã gặp trên sa mạc ấy anh. Em có
cảm giác cái tên đó rất hợp với bạn ấy, vì sao thì em cũng chẳng biết
đâu. Từ giờ em sẽ gọi bạn ấy là Matsu nhé. Sau lần ấy, em đã tin chắc
là Matsu biết chữ. Thế là khi anh và ông Gin đang ngủ, em quyết định
sẽ quay lại đó để hỏi bạn ấy.
Sa mạc khi em quay trở lại đang là buổi đêm. Mặt trăng khuyết,
giống như trăng ở Thị trấn Mùa đông vậy, ở đúng vào vị trí của mặt
trời vào ban ngày. Trên trời là cả một biển sao, chi chít, không một
góc nào em đưa mắt tới mà không có sao. Nên đêm trên sa mạc
cũng sáng không kém gì ban ngày cả. Em chưa từng thấy một bầu
trời đêm nào tráng lệ đến thế. Nơi em ở khi trước, khi em nhìn qua
ô cửa sổ nhà cũ, thì không có sao, và lại nhiều nhà cao tầng nữa.

- 178 -
Thị trấn mùa đông
Còn ở Thị trấn Mùa đông thì anh biết đấy, mình có được đi ra ngoài
vào ban đêm đâu. Nên anh chắc chắn phải quay lại đó vào buổi đêm
mới được.
Anh biết không, sa mạc này chỉ có hai buổi thôi, ngày và đêm.
Mặt trời hoặc mặt trăng luôn luôn ở cùng một điểm mỗi lần em tới
đó. Nếu như em thử rời khỏi đó, đóng cửa lại, chờ một lát rồi mở cửa
trở lại thì mặt trời chắc chắn vẫn cứ ở vị trí đó. Nhưng nếu như em
quay lại Hành lang Ghi nhớ, làm một việc gì đó hay khám phá một
cánh cửa khác mà quên luôn sa mạc đi thì lần kế tiếp em trở lại, ngày
đã chuyển sang đêm hoặc đêm đã chuyển sang ngày rồi. Mặt trời và
mặt trăng cứ thay phiên nhau vẫy chào em ở góc cánh cửa như thế.
Để em kể tiếp chuyện em học chữ nhé. Đó là ban đêm, em sợ
là Matsu có thể đã đi ngủ rồi, nhưng bạn ấy vẫn đi ra khi em tới chỗ
lần trước.
Không phải, Matsu nói. Rồi nó nhận ra em.
Xin chào.
Lại là cô à, cô bé? Ở đây không có thứ cô tìm đâu.
Sao bạn biết mình đang tìm gì? Em hỏi lại. Matsu không đáp. Thế
là em nói tiếp, cho nó đỡ phải xấu hổ. Lần này mình đi tìm thứ khác?
Thứ gì vậy?
Chữ. Mình muốn học chữ.
Matsu cười, đúng ra là huýt gió, nhưng em nghĩ đó là tiếng cười
của nó.
Mình nói thật đấy. Mình muốn học chữ. Có thể với bạn những
con chữ chỉ là cái vỏ, sự thật có thể không phải lúc nào cũng nằm
ở đó nhưng mình đã nhận ra đó là cách duy nhất để chúng ta trò
chuyện với những người mình không thể gặp nữa, hoặc những người
mình chưa gặp. Những con chữ có thể không phải là đích đến, nhưng
chúng có thể cho mình một con đường, hay một cánh cửa. Bạn không
nghĩ thế sao?

- 179 -
NHẬT PHI

Vậy cô muốn tìm đến cái đích nào, hả cô bé?


Mình… Muốn hiểu mọi người hơn.
Thế từ đâu mà cô nghĩ rằng tôi có thể dạy chữ cho cô hả?
Mình tin là bạn biết chữ. Và bạn có quan tâm tới những dòng
chữ. Mình tin là bạn cũng đang chờ một thông điệp.
Đêm ở sa mạc lạnh lắm đấy, đừng ở lại đây lâu. Matsu nói rồi
trườn qua đụn cát. Lần sau hãy mang theo bút và giấy.
Và em nghĩ Matsu cũng giống anh thật đấy, Rei ạ.

Trong lúc anh và Gin vẫn đang ngủ, em đã mở rất nhiều cánh
cửa để tìm bút và giấy. Em sẽ kể anh nghe về từng cánh cửa sau nhé.
Rồi em tìm thấy những thứ em cần sau một cánh cửa kia. Có một
cổng vòm rất lớn ở trên tường, cổng vòm ấy màu vàng lờ lợ, có nhiều
đường sơn màu xanh rêu chảy xuống từ trên đỉnh cổng. Cánh cửa
vào căn phòng mà em nói đến nằm ở mé phải của cổng vòm ấy. Khi
áp tai vào cánh cửa ấy, em nghe thấy một chuỗi tiếng động đều đặn,
nghe như ai đó đang gẩy một cái thìa vào mép bàn pha với tiếng ngáy
của người bị hen suyễn.
Tiếng động đó phát ra từ một vật rất lớn, lớn bằng một nửa nhà
của chúng mình ở Thị trấn Mùa đông. Em nghĩ đó là một cỗ máy
khổng lồ. Trên cỗ máy đó có hai cái hốc, em đoán đó là cửa vào cho
nguyên liệu và cửa ra cho sản phẩm, nhưng em lại chẳng thể nghĩ ra
được đó là những gì, vì máy thì đang chạy ầm ĩ mà cứ như không ấy.
Nên em sẽ gọi nó là máy kêu.
Ngoài máy kêu ra, trong phòng còn có một bàn làm việc, trên
ấy là một ngọn đèn bàn, tỏa ánh sáng vàng cam mỏng ra khắp phòng,
một cây bút máy và một lọ mực. Chắc anh cũng đoán được là em đã
mừng đến thế nào. Vấn đề còn lại là giấy thì cũng được giải quyết
ngay tức khắc, khi em nhìn quanh thêm một chút và thấy mấy xấp

- 180 -
Thị trấn mùa đông
giấy chất cao ngay bên cạnh máy kêu. Có tất cả ba chồng giấy, một
cao đến đầu gối em và hai chồng kia thì cao đến hông. Những tờ
giấy hình vuông, mỗi chiều phải dài gần bằng cánh tay em. Ngay khi
chạm vào mặt giấy, em đã biết đây chính là thứ giấy đã dùng để gói
hai cái ly mình tìm thấy trong kho rượu. Và hình như cũng chính là
loại giấy mà Ionah đã dùng. Đó là một cảm giác thực sự kỳ diệu, Rei
ạ. Trong thoáng chốc, em cảm giác có một sự liên kết rất thực thể
giữa Hành lang Ghi nhớ này với Thị trấn Mùa đông của chúng ta.
Điều đó cho em cảm giác chúng ta đã thực sự đi từ thị trấn tới hành
lang này. Thế cũng có nghĩa là chúng ta có thể đi được tiếp đến Thành
phố Thủy tinh, phải không anh?
Nhưng mục đích chính của em khi đó là học chữ. Em vòng lại
cuối hành lang, anh và Gin vẫn đang ngủ, thế là em bắt đầu đi quanh
hành lang và vẽ lại những dòng chữ mà em đã biết nội dung. Lời
nhắn của Pal, lời bài hát của mẹ em. Cây bút máy không còn mới,
nhưng vẫn còn dùng rất tốt, mực ra đều và trơn. Nhưng vẽ lại toàn
bộ ngần ấy con chữ thì vẫn thật là khó. Em sợ rằng chỉ cần một nét
bị khuyết hay lệch góc thôi thì toàn bộ ý nghĩa của thông điệp sẽ thay
đổi. Thành ra khi em chép lại xong và quay trở lại sa mạc thì ở đó trời
cũng lại sáng mất rồi.
Matsu đã ở đó khi em tới nơi. Em có cảm giác là bạn ấy đã chờ em.
Đừng lại gần! Matsu nạt, rồi hạ giọng. Nhìn xuống chân cô đi.
Em nhìn xuống, thấy những đường vạch trên nền cát. Những
con chữ, được vạch bằng một nét mềm mại và liền mạch. Em nhận
ra những con chữ này đã được viết bằng gì.
Tên cô đấy. Matsu nói. Đó là bài học đầu tiên.

Những buổi học của em và Matsu không kéo dài được quá lâu,
vì bầu không khí ở sa mạc sẽ trở nên quá nóng ngợp hay quá buốt

- 181 -
NHẬT PHI

giá đối với em sau một lúc, sau cùng thì em cũng không tìm được
một cây dù hay một tấm chăn nào cả. Em không còn nhớ được em
đã mang giấy và bút đến đó bao nhiêu ngày và bao nhiêu đêm nữa.
Thời gian của em được đếm bằng số chữ em có thể viết, số vần em có
thể ghép, số câu em có thể đọc hoàn chỉnh. Sa mạc cũng chỉ có ngày
và đêm như thế, nhưng ở đó, em đã lớn lên, bằng cách học hỏi. Điều
này thật khác với Thị trấn Mùa đông. Em cảm thấy rất vui với điều
đó, vui vì em đã quyết định đi cùng với anh.
Một lần em đã hỏi Matsu, nếu như người bạn mà bạn ấy đang
chờ đợi sẽ đến từ một ngôi sao nào đó thì tại sao bạn ấy không rời
khỏi sa mạc để tìm người ấy.
Tôi không thể. Matsu đáp. Rời khỏi sa mạc này, tôi sẽ không
còn là con rắn mà cậu ấy từng gặp nữa. Tôi sẽ chỉ còn là một con rắn
độc như bao con rắn độc khác, một con rắn không biết nói và không
biết chữ. Chỉ ở trong sa mạc này, tôi mới là tôi. Là con rắn mà cậu ấy
biết, là con rắn mà cô đã gọi là Matsu. Thế đấy.
Này Makoto, Matsu nói với em, khi nó đã xác nhận rằng em đã
hoàn thành việc học chữ, hình như đó là lần đầu tiên bạn ấy gọi tên
em, khi quay trở lại Hành lang ngoài kia, rồi đến được nơi nào đó mà
cô muốn đến, cô có thể giúp tôi một việc chứ?
Chắc chắn rồi, em đáp, thực sự em vui vì có thể làm gì đó cho
Matsu, bạn ấy đã giúp em cho tới khi đó mà không đòi hỏi điều gì,
nếu mình có thể làm được gì đó cho bạn.
Có thể rất dễ, có thể rất khó. Matsu trầm ngâm. Tôi muốn biết
tên của sa mạc này.
Vậy mình sẽ hỏi giúp bạn, hứa đấy. Thế thì bạn cũng sẽ chờ
mình quay lại để nói cho bạn biết chứ?
Tôi sẽ chờ.
Này Rei, và cả ông Gin nữa, hai người có biết không? Tên của
sa mạc này ấy.

- 182 -
Thị trấn mùa đông

MAKOTO KHÁM PHÁ

C hào anh, Rei.

Phải nói là em không vui đâu, khi thấy anh và ông Gin cứ ngủ
hoài như thế. Điều đó làm em buồn đấy, giống như là em đã bị bỏ rơi
vậy, giống như là hai người cứ thế điềm nhiên nói chuyện mà chẳng
đoái hoài gì tới đứa trẻ con như em. Giá mà em cũng ngủ được như
hai người thì tốt, nhưng em lại không biết uống rượu. Em không cảm
thấy buồn ngủ một chút nào, lạ thật đấy. Hồi còn ở nhà, em sẽ ngủ
ngay khi mẹ chúc em ngủ ngon và rời khỏi phòng, tắt đèn. Lúc ở Thị
trấn Mùa đông, em vẫn có thể ngủ rất nhanh, leo lên giường là em sẽ
ngủ được ngay. Nếu không phải là trong những ngày oanh kích thì
sau khi ăn tối và dọn dẹp xong thì chẳng còn việc gì để làm nữa, anh
biết mà. Giá mà em cũng biết đan như Ionah, hoặc là có giấy và bút
để vẽ thì tốt, nhưng nhà em thì chẳng có gì cả. Nên là khi ở Hành lang
Ghi nhớ, em rất vui vì có rất nhiều điều để khám phá, chẳng phải lo
không có việc gì để làm. Nhưng mà nếu có anh Rei cùng khám phá
với em thì hẳn là sẽ vui hơn.
Em đã mở nhiều cánh cửa, mỗi cánh cửa lại dẫn em vào một
không gian khác nhau. Anh yên tâm, không có gì nguy hiểm bên kia
những cánh cửa đâu, nên lúc nào em cũng ổn hết. Chỉ hơi buồn là
ngoài Matsu ra, em chưa gặp thêm ai ở bên kia những cánh cửa ấy cả.
Chỉ toàn là, gì nhỉ. Em sẽ lần lượt kể cho anh nghe nhé.

- 183 -
NHẬT PHI

Cánh cửa thứ nhất.


Là một cánh cửa rất đáng sợ, ý em là hình vẽ trên cánh cửa ấy.
Đó là một hình người màu đen, đang ôm đầu và la hét. Đôi mắt của
người đó không có màu, chỉ trắng dã, khiến em cảm giác là người
đó đang bắt gặp một điều gì đó kinh khủng lắm. Miệng của người
đó cũng trắng. Em thậm chí còn có thể tưởng tượng ra được tiếng la
của người đó nữa, nhưng tiếng la đó vừa chói tai lại vừa man dại đến
mức em nghĩ dù là thứ trước mặt người đó là gì thì nó cũng chuẩn bị
lấy mạng của người đó rồi. Em sợ, nhưng cũng không thể ngăn mình
mở cửa bước vào.
Đằng sau cánh cửa là một cảnh tượng hoàn toàn đối lập. Một
vẻ bình yên tuyệt đối. Căn phòng ấy không rộng lắm, bốn bức tường
màu hồng nhạt, rất ấm, trên trần nhà gắn nhiều những ngôi sao lấp
lánh đủ màu, như một bầu trời thu nhỏ vậy. Có một ô cửa sổ nhìn ra
một khoảng sân có thảm cỏ, giống như một sân chơi. Kê sát vào cửa
sổ là một chiếc giường gỗ, trải nệm trắng muốt, rồi tới một chiếc ghế
tựa lót đệm êm ái. Tới gần hơn, em thấy trên đệm ghế có một cuốn
sách dày, bọc da màu rượu vang, hàng chữ cán vàng, em đọc được
đấy, ghi tựa sách là ‘Người đẹp say ngủ’. Em đứng ở giữa phòng, gọi
vài lần nhưng không ai trả lời cả, nên em mạn phép cầm sách lên xem
thử. Nhưng cuốn sách không có một dòng chữ nào cả, đằng sau lớp
bìa da chỉ là giấy trắng. Hụt hẫng thật đấy, cuốn sách đầu tiên em tìm
thấy khi biết chữ trở lại lại chỉ có mỗi một cái tựa.
Đặt cuốn sách xuống, em ngước lên và ngay lập tức tìm ra một
niềm vui khác. Em thấy, qua màn kính ô cửa sổ lớn, rất nhiều đứa
trẻ con trên sân chơi. Những đứa trẻ con khoảng năm sáu tuổi đang
chạy nhảy, nô đùa với nhau. Một vài đứa đang tranh nhau chỗ ngồi
trên một xích đu hai ghế. Mấy đứa khác đang đào hố hay xây nhà trên

- 184 -
Thị trấn mùa đông
một ô cát gần đó. Một bé trai úp mặt vào thân cây, hình như đang
đếm ngược trong trò chơi trốn tìm. Một bé trai khác đang cuống quýt
nhìn quanh, rồi như là bí quá, nhảy thẳng vào một lùm cây bụi. Ba
bé gái nằm sấp bụng trên mặt cỏ, chụm đầu vào một cuốn sách tranh
sặc sỡ. Khung cảnh này đã từng rất quen thuộc với em, trong thời
gian mà mẹ còn thường hay dắt em ra công viên chơi. Em chợt cảm
thấy xúc động đến muốn khóc, nhưng em không khóc, à thực ra là
em chưa khóc.
Em chưa khóc, cho đến khi em nhìn xuống góc ô cửa kính. Mắt
em bắt đầu cay khi em bắt gặp ở đó một người phụ nữ đang dắt tay
một bé gái. Bé gái mặc váy đỏ viền trắng và đội một cái mũ chóp đỏ
có chùm bông trắng trên đỉnh, còn người phụ nữ mặc một bộ váy ở
nhà đơn giản kẻ caro vàng xanh. Họ quay lưng lại phía ô cửa, nên em
không thấy được mặt họ. Nhưng em biết là họ đang hạnh phúc lắm.
Bé gái chỉ tay lên trời và cả hai người ngước lên phía một đám mây
trắng. Bé gái quay sang nói gì đó và người mẹ lắc đầu. Hình như vai
họ đều đang rung lên, họ đang cười. Đó có thể chính là em và mẹ,
trong một buổi chiều bình yên nào, trước khi đám người xám bắt đầu
xuất hiện trong cuộc đời mẹ và em.
Hay người phụ nữ kia chính là mẹ em? Có phải mẹ đã tìm ra
được một đứa con gái khác để thay thế em không? Không phải đâu,
không phải đâu, phải không anh? Em không đuổi được suy nghĩ đó
ra khỏi đầu. Và em bắt đầu khóc. Em muốn lao ra sân chơi ấy, muốn
biết liệu đó có phải là mẹ em hay không. Nếu đó thật sự là mẹ em thì
sao? Em sẽ không biết phải nói gì nữa. Em sẽ khóc to hơn ngay trước
mặt họ? Hay em sẽ chạy đi, một lần nữa chạy, không phải là đuổi theo
mẹ nữa, mà là chạy khỏi mẹ? Em không biết, em thực sự không biết.
Nhưng rồi em nghĩ là không phải đâu, không thể nào được.
Em lại nhìn họ, qua làn nước mắt. Họ vẫn đang nhìn lên trời.

- 185 -
NHẬT PHI

Rồi em đoán được cuộc trò chuyện của họ. Em nghe thấy lời họ trong
đầu mình.
Con đố mẹ đám mây kia hình gì đấy? Bé gái nói.
Đám mây nào hả con gái? Người mẹ sẽ đáp thật hiền từ.
Đám mây ở trên ngọn cây kia kìa.
À, mẹ thấy rồi…
Người mẹ sẽ nheo mắt nhìn theo tay chỉ của cô bé, và em nhìn
theo bà. Trí tưởng tượng của người lớn không giúp bà ngay lập tức
nghĩ ra hình dung của con gái mình. Bà sẽ cười và lắc đầu. Và cô bé
sẽ hối thúc.
Thì mẹ cứ đoán đi.
A… Cối xay tiêu chứ gì? Đó là nỗ lực của người mẹ, cố gắng
liên tưởng tới những gì thật là gần gũi.
Sai rồi! Lêu lêu! Cô bé cười khanh khách. Đấy là ngựa thần có
cánh.
Sao ngựa lại có cánh hả con?
Vì nó là ngựa thần mà mẹ.
Và cả hai mẹ con lại cùng cười. Cối xay tiêu hay ngựa thần có
cánh cũng không quan trọng, chúng chỉ là cái cớ cho niềm hạnh
phúc của họ. Em cảm nhận được điều đó, nhưng em lại nghĩ khác,
Rei ạ. Đó không phải là ngựa thần có cánh. Đó là một thiên sứ, một
thiên sứ có đôi cánh trắng muốt và cây đàn hạc trên tay. Một lần nữa
em khao khát mãnh liệt được lao qua ô cửa sổ để đến với họ. Lần
này để nói với họ rằng, bé con à, đó không phải ngựa trời đâu, đó là
thiên sứ đấy. Thiên sứ đang dạo một bản nhạc hạnh phúc, để ngợi ca
những khoảnh khắc bình yên trong cuộc đời này, trên một sân chơi
chỉ có niềm vui, tiếng cười, những đứa trẻ chơi đùa, và không có bọn
người xám.
Nhưng em không thể. Em bị ngăn cách khỏi sân chơi ấy bởi

- 186 -
Thị trấn mùa đông
một tấm kính cửa sổ. Không chốt, không bản lề, không rãnh trượt.
Chỉ là cửa kính. Ô cửa sổ này được tạo ra chỉ để nhìn, và tự dệt nên
những cuộc chuyện trò trong đầu, không phải để nghe hay bước qua.
Như một màn hình gắn tường. Một bức tranh động.
Này Rei, anh có tưởng tượng được cảm xúc của em khi ấy
không? Anh đang ngủ. Ionah và Viena đang ở lại nơi chúng ta đã rời
đi. Mẹ em ở rất xa, xa tới mức em không thể hình dung nổi. Em chỉ
có một mình, trong căn phòng này. Sau ô cửa kính này. Em có quá
nhỏ để gọi cơn đau thắt ngực này là nỗi cô đơn không?

- 187 -
NHẬT PHI

LẠI LÀ CỪU - CÚ - QUẠ

T ôi thức dậy, và nhận ra cả Gin và Makoto đều đang không


ở đó nữa. Hành lang Ghi nhớ im ắng tới độ tưởng chừng
như thời gian đã ngừng lại nơi ấy. Và liệu thời gian có tồn tại ở nơi
này hay không? Không có ngày hay đêm, tôi không thể nào ý thức
được mình đã ở đó bao lâu. Cảm tưởng như chỉ cần tôi quyết định
ngồi xuống và buông lơi hành trình của mình, cả Hành lang Ghi nhớ
cũng sẽ dừng lại luôn, như mặt hồ lặng gió. Nhưng có ngày hay đêm
thì cũng thế thôi, nếu như người ta không thể ghi nhớ thêm được
điều gì, giống như ở Thị trấn Mùa đông vậy. Một vòng tròn thì chỉ
là một phiên bản rộng hơn của một điểm mà thôi. Tôi cứ nghĩ như
vậy một hồi lâu, tung hứng Thị trấn Mùa đông và Hành lang Ghi nhớ
trong đầu mình, cho tới khi con cừu lên tiếng.
“Anh còn định ngồi ở đó tới bao giờ nữa? Chẳng phải anh có
việc cần làm sao?”.
“Đúng là tôi có”, tôi đáp, uể oải đứng dậy, “nhưng tôi không biết
phải bắt đầu như thế nào”.
“Anh có một nơi cần tới”, con cừu bắt đầu đủng đỉnh bước đi, ý
chừng bảo tôi hãy đi theo, “đó là một điểm khởi đầu”.
Tôi bước đi theo con cừu và Hành lang Ghi nhớ bắt đầu chầm
chậm trôi về phía sau. Những cánh cửa và mọi hình thù, sắc màu trên
đó bị chúng tôi bỏ lại. Không một lần chúng tôi rẽ ngang trong suốt
cả hành trình không ngắn mà cũng chẳng dài ấy.

- 188 -
Thị trấn mùa đông
“Tất cả đều có một điểm khởi đầu”. Con cừu nói mà không
ngoảnh lại. “Hành lang Ghi nhớ này đã từng là điểm khởi đầu của tất
cả. Thị trấn Mùa đông - Thành phố Thủy tinh - Tháp cổ”.
“Đã từng…”, tôi lặp lại. “Tại sao lại là đã từng? Nếu như tất cả
những nơi ấy vẫn còn tồn tại?”.
“Vì hầu như chẳng còn ai nhớ đến điều đó nữa. Một khái niệm
bị lãng quên thì chẳng khác nào một khái niệm đã chết.
“Họ tới đây trước tiên. Nói cho đúng ra, họ chẳng có nơi nào
khác để đến vào khi ấy. Hành lang Ghi nhớ này là thế giới của họ, sản
phẩm của họ và cũng chính là sự tồn tại của họ. Cùng một lúc, họ tạo
ra nơi này, đồng thời sống trong đó. Mối quan hệ giữa họ với Hành
lang Ghi nhớ giống như là mối quan hệ con gà - quả trứng vậy. Anh
hiểu chứ?”.
Đó là một câu hỏi cắc cớ mà có vẻ như sự xác nhận của tôi
cũng chẳng có mấy giá trị. Nhưng tôi vẫn gật đầu. Trong khi đó, tôi
mơ hồ cảm giác những hình ảnh trên tường có gì đó khác với khi tôi
đi trong đó cùng với Makoto, nhưng tôi cũng không có cách nào để
biết chắc.
“Nhưng chính vì vậy mà Hành lang Ghi nhớ này ràng buộc họ
theo cách riêng của nó. Từng người trong số họ đều có thể rời khỏi
đây, bất kỳ ai cũng có thể tìm tới đây, người ta có thể đến và đi, nhưng
không bao giờ được phép bỏ rơi Hành lang Ghi nhớ. Ngay khi người
cuối cùng rời khỏi nơi này, nó sẽ sụp đổ”.
“Gin đã nói về điều này…”.
“Đúng vậy. Gin là người cuối cùng trong số những người đầu
tiên còn ở lại Hành lang Ghi nhớ. Chẳng phải là ông ta không muốn
rời khỏi đây…”.
“Nếu Hành lang Ghi nhớ sụp đổ thì điều gì sẽ xảy ra?”.
“Không ai dám chắc được”, con cừu đáp, tôi nghĩ nếu nó có thể

- 189 -
NHẬT PHI

nhún vai thì nó sẽ làm thế, “nhưng giả thuyết khả dĩ nhất là tất cả
những vùng đất khác cũng sẽ sụp đổ theo. Thị trấn Mùa đông, Thành
phố Thủy tinh hay Tháp cổ cũng sẽ tiêu biến thành đống gạch vụn,
hoặc tệ hơn nữa, bốc cháy hoàn toàn. Bởi lẽ đây là nơi khởi nguồn
của tất cả”.
“Đó là lí do Gin phải ở lại đây…”.
“Vậy còn những người khác thì sao? Họ đâu cả rồi?”.
“Họ rời khỏi đây, lần lượt, từ rất lâu rồi. Họ khai mở những
vùng đất khác. Vì họ tin chỉ Hành lang Ghi nhớ là không đủ. Không
đủ cho những gì cần đến”.
Kahn là một trong số đó, tôi nghiệm, dùng lưỡi lùa suy nghĩ
này quanh vòm miệng. Ông là kẻ đầu tiên đã rời bỏ Hành lang Ghi
nhớ và bị coi như một kẻ phản bội, để xây dựng Thị trấn Mùa đông và
đón nhận những người như tôi, Ionah và Makoto. Khi nghĩ theo cách
đó, Kahn giống như một nhà kiến thiết can đảm và vĩ đại.
“Thành phố Thủy tinh cũng vậy ư”. Tôi hỏi, nhận ra đầu lưỡi
mình đang bắt đầu ran lên những khúc mắc mới. “Cũng là ai đó rời
khỏi đây và dựng nên thành phố đó ư?”.
“Nhận thức về lẽ đủ đầy không giống nhau ở tất cả mọi người”,
con cừu đáp, vẻ hiển nhiên. “Thị trấn Mùa đông, Thành phố Thủy
tinh và Tháp cổ lần lượt ra đời trên cơ sở những sai khác đó. Lý tưởng
của những người sáng lập dẫn dắt từng cộng đồng và tình bạn giữa
họ duy trì sự hòa hợp của cả ba”.
“Vậy thì tại sao…?”.
Con cừu bất chợt dừng bước, và tôi dừng lời. Chúng tôi đã tới
điểm cuối của hành lang, một bức tường trắng với toang hoác một
đường nứt vỡ xẻ dọc ở chính giữa, như một khe cắm chìa trên một ổ
khóa khổng lồ. Con cừu hất hàm, ra hiệu cho tôi đi qua đó.
“Tôi không chui vừa”, nó nói. “Vả chăng người cần đi qua phía

- 190 -
Thị trấn mùa đông
đó là anh, không phải là tôi. Anh có việc cần làm, còn tôi thì không.
Tôi đã làm xong việc của mình rồi”.
“Việc của cậu là gì?”.
“Anh nghĩ một con cừu thì có việc gì khác chứ hả?”.
Khi tôi quay sang, con cừu đã đang bắt đầu gặm một bó cỏ xanh
không biết lấy từ đâu ra. Vừa nhai nó vừa ngước lên nhìn tôi một vẻ
vô tư lự rất…cừu. Rồi chừng như lo rằng tôi còn chưa nhận ra, nó
“be” lên một tiếng dài thõng thượt. Tôi biết rồi, Cừu.
Tôi thở hắt ra một hơi rồi len mình qua khe nứt, đột ngột nhận
ra trong mình một cảm giác tưởng chừng đã mất từ lâu. Tôi đói. Và
như một hô ứng, thứ trước nhất tôi ý thức được khi bước qua khe
nứt trên tường là một tổ hợp mùi thức ăn thơm lừng đầy mời gọi.
Mùi thơm tràn ngập bầu không gian của hành lang thứ hai, có thể
vẫn chính là Hành lang Ghi nhớ, nhòe nhoẹt màu trên hai bức tường.
Không còn nhìn tới gì khác, cũng không cần một nhân vật nào dẫn
đường, tôi bước tới, nương theo mùi hương kia. Và ở đó, chờ tôi ở
giữa hành lang là nguồn cơn của mùi hương đang tỏa ngập nơi này -
một bàn tiệc trải hai lần khăn đỏ và trắng với một cái ghế duy nhất,
như để dành riêng cho tôi.
Tôi kéo ghế ngồi xuống, phất khăn ăn gài vào cổ áo rồi mới bắt
đầu nhìn tới nội dung của bàn tiệc. Tôi có một chai vang trắng, một
ly chân cao, một đĩa cá hồi hun khói với sốt, một chén xúp vàng ươm
với lớp kem tươi tạo hình hoa phủ lên trên, một ít salad, một ổ bánh
mì trắng trong giỏ mây đồng cỡ và một lát bánh kem đỏ như nhung
tráng miệng, tất cả dụng cụ ăn đều mới tinh, sáng bóng, gợi ý rằng
đây hẳn là một bữa ăn nhất hạng. Ở góc bàn ăn là một cây nến dài
đang êm ái tỏa sáng. Ánh lửa nhảy múa trong mắt con cú màu hung
đang đứng trên một cây cột kê bên mé bàn. Cây cột cao ngang đầu
người, thành thử khi ngồi xuống, tôi ở vị trí thấp hơn con cú, như thể

- 191 -
NHẬT PHI

nó đang giám sát tôi với bàn ăn này vậy. Con cú đứng im lặng, như
một con chim nhồi bông, ngoại trừ đôi mắt nửa nghiêm nghị nửa hờ
hững dõi theo từng chuyển động của hai bàn tay tôi.
Tôi rót rượu ra ly và bắt đầu ăn. Cơn đói của tôi đã trở nên dữ
dội hơn nhiều kể từ khi tôi bước vào hành lang thứ hai này. Như
thể mùi hương là thứ nhiên liệu cho cơn đói ấy vận hành. Tôi cắm
cúi ăn, không ngấu nghiến cũng không thực nhẩn nha, cứ một hớp
rượu vang cho ba miếng đồ ăn. Chai rượu mới vơi một nửa khi tôi
ăn xong, đến tận miếng cuối cùng và cảm giác như sẽ không bao giờ
cần ăn gì nữa.
Nhưng đó chưa phải đã hết. Khi ngẩng lên, khoan khoái dựa
lưng vào ghế, tôi thấy trên bàn đã xuất hiện thêm một đĩa xúp đỏ tím
và một giỏ bánh mì đen quen thuộc. Là tôi đã không nhận ra hai món
đó khi mới ngồi xuống bàn, hay một tay bồi bàn vô hình nào đó đã
nhẹ nhàng mang chúng tới trong khi tôi chú mục vào những món ăn
hào nhoáng kia? Lòng tôi quặn lên niềm nhớ nơi tôi không thuộc về.
“Xin lỗi”, tôi nói, trong trường hợp có tay bồi bàn đó thật, “quả
thật tôi không thể ăn thêm được nữa”.
“Không sao đâu”. Con cú nói, giọng nó trầm và rè như phát qua
một máy thu thanh cũ. “Ở đây anh sẽ không cần tới thứ này nữa”.
“Nhưng Thị trấn Mùa đông thì luôn cần”, tôi đáp, như một
phỏng đoán hơn là một kết luận.
“Đó là họ nghĩ thế”. Con cú nói, và tôi mơ hồ cảm giác đã nghe
giọng này ở đâu đó trước đây. “Con người vẫn thường hay nhầm lẫn.
Và đầy định kiến. Anh có dám chắc mình đang không như vậy không?”.
“Có thể, nếu cậu đã nói vậy”, tôi nhún vai, rót thêm một chút
rượu vang ra ly. “Tôi cũng là con người mà”.
“Ngay cả điều đó cũng có thể là một nhầm lẫn khác… Không,
cảm ơn”.

- 192 -
Thị trấn mùa đông
Con cú lắc đầu, biên độ hơi quá rộng, khi tôi nâng ly rượu vang
trắng lên ra ý mời nó. Tôi uống hết ly rượu, khép mắt để cảm nhận
hết cái chất ngọt ngào lẫn cay nồng của rượu vang. Tôi không biết nói
gì với nhận xét của con cú hết.
“Anh đến đây vì một nhiệm vụ, có phải không? Cũng giống như
anh ta”.
“Ai cơ?”.
“Một kẻ khác, từ lâu lắm rồi. Anh ta cũng đi ngang qua đây,
vì một nhiệm vụ. Có điều hành trình của anh ta dẫn theo chiều
ngược lại”.
“Tôi nghĩ tôi đã từng nghe về người đó”. Tôi nói. “Vậy rồi người
đó có hoàn thành được nhiệm vụ ấy không? Anh ta có trở lại đây để
quay về nơi anh ta đã khởi hành không?”.
“Anh ta đã trở lại đây…dù nhiệm vụ mà thành phố giao cho
anh ta thì không có một kết quả gì cả”.
“Thật đáng tiếc…”.
“Không hẳn đâu…”. Con cú rúc lên một tiếng, tôi có cảm giác
đó là cách nó bật cười. “Anh ta đã làm được một điều còn to lớn hơn
thế. Một điều tốt hơn cho tất cả”.
“Điều tốt hơn cho tất cả…”. Tôi ghép nối điều này với câu
chuyện của Ionah, câu chuyện về người đàn ông khi trước của nàng.
Anh ta đã làm được một điều tốt hơn cho tất cả, cho nàng. Và tới lúc
này thì tôi đã nghĩ ra.
“Anh tìm kiếm điều gì?”. Con cú hỏi. “Hay nhiệm vụ của anh
là gì?”.
“Tôi muốn trả lại sự bình yên cho Thị trấn Mùa đông. Một sự
bình yên đúng nghĩa”.
“Vậy sao?”.
Con cú rúc lên một tiếng nữa, trước khi quay đi. Tôi nhận ra nó

- 193 -
NHẬT PHI

đã quay đầu trọn một nửa vòng tròn, day gáy về phía tôi. Chúng tôi
im lặng một hồi lâu, chừng như cân nhắc những gì đối phương nói.
Rồi tôi xô ghế đứng dậy. Con cú xoay đầu trở lại phía tôi, hoàn thành
đúng một vòng tròn.
“Chìa khóa tới thứ mà anh gọi là sự bình yên nằm ở bên kia
cánh cửa trước mặt”. Lần này nó xoay hẳn hai chân trên thanh
ngang mà nó đang đậu trên. “Anh có thể sẽ chấm dứt được thứ đã
phá hỏng sự bình yên đó. Đi đi, người làm nhiệm vụ. Đi làm nhiệm
vụ của anh đi.
“Nếu như anh thực sự nghĩ rằng thế là đã đủ…”.
Con cú nói thêm, ngay khi bàn tay tôi đặt lên tay nắm cửa. Tôi
không đáp.

Cửa mở. Tôi đã nghĩ về một hành lang thứ ba, nhưng không
phải. Mở ra trước mắt tôi là một miền không gian khôn cùng, bao
la xanh ngắt. Giây đầu tiên, tôi đã tưởng rằng mình đã bước tới một
điểm ở đâu đó giữa lưng trời. Rồi tôi nhận ra miền xanh này kì thực
có hai nửa trên dưới, một nhạt một đậm. Tôi đang ở giữa biển.
Vượt qua được ấn tượng choáng ngợp ban đầu, tôi biết rằng
mình đang ở trên boong một con tàu lớn, rất lớn. Con tàu đang nổi
ở giữa một miền biển xanh, bốn bề nước bao vây. Cánh cửa tôi vừa
bước qua nhìn ra bên hông tàu, bên phải tôi là một hệ thống dày đặc
những đoạn ống tròn nhỏ nghếch lên ngửi trời, bên trái tôi, có vẻ là
mũi tàu, một bàn điều khiển dày những nút bấm, cần gạt. Khi nhìn
kỹ hơn những đoạn ống, tôi phát hiện ra những mũi chóp đỏ nhô
lên, lưng chừng, lấp lửng như sẵn sàng phóng ra bất cứ lúc nào. Đây
chính là hệ thống phóng tên lửa oanh kích thị trấn, tôi kết luận, với
một cơn co giật nhói lên trong ruột. Và như thế chìa khóa cho sự
bình yên mà tôi tìm kiếm chỉ ở ngay kia thôi.

- 194 -
Thị trấn mùa đông
Tôi tiến về phía bàn điều khiển, nghe toàn thân mình run lên.
Mục đích của tôi đã ở ngay kia rồi, điều tôi săn đuổi đã ở ngay trước
mắt, gần và sớm hơn tôi tưởng. Chỉ còn một câu đố cần giải nữa thôi,
rồi tôi sẽ trở lại Hành lang Ghi nhớ, tìm Makoto và quay về Thị trấn
Mùa đông bình yên, với Ionah và Viena của tôi. Cái kết có hậu chỉ
còn cách tôi một câu đố nữa thôi, trên bàn điều khiển kia.
Chiếm gần hết mặt bàn điều khiển là một màn hình lớn, với
vô số những chấm đỏ nhấp nháy và hàng loạt đường đồng mức chạy
vòng quanh trên một nền xanh lục tai tái, một khung vàng gói hai
chữ “Tự động” nằm gọn ở góc trên của màn hình xanh ấy. Những
chấm đỏ đứng thành nhiều cụm và chừa ra kha khá những mảng
xanh trống trơn. Hay chính những chấm đỏ mới đang chỉ thị các
khoảng trống? Khi nghĩ như thế, thật đơn giản để luận ra màn hình
này hiển thị điều gì. Tôi thậm chí còn đoán được ý nghĩa của một
vài khoảng xanh. Mắt tôi dừng lại đôi chút tại một điểm mà nếu có
thể, tôi sẽ phóng thật lớn lên để tìm một hai bóng hình thân thương.
Không cần thiết, tôi sẽ gặp lại họ sớm thôi. Một hành động đơn giản,
chỉ cần tôi tìm ra.
Chẳng khó khăn gì để tìm thấy một cần gạt lớn hơn tất thảy
trên bàn điều khiển. Khi gạt đi lớp bụi xung quanh cần gạt đó, tôi
tìm thấy một cặp chữ “Đóng” và “Mở” ở hai đầu rãnh trượt. Cần gạt
đang nằm ở chế độ “Mở”, hẳn rồi. Nhưng khi tôi đặt tay lên đó, tôi
nhận ra cần gạt cứng ngắc, dường như bị chặn lại bởi một chốt khóa
dưới rãnh trượt. Ổ khóa cách đó chỉ một gang tay. Cuối cùng thì thứ
tôi thực sự thiếu là một chìa khóa. Tôi đăm đăm nhìn vào rãnh khóa
nằm ngang, như một cái miệng hé mở. Nó có thể nói gì với tôi đây?
“Anh đã làm rất tốt khi tới đây, nhưng rất tiếc, nhiệm vụ của anh
dừng lại ở đây thôi”. À? Hay là “Người cuối cùng kéo cần đã tiện tay
ném luôn chìa khóa xuống biển rồi”? Tôi nghĩ mình không muốn
nghe điều gì từ nó cả.

- 195 -
NHẬT PHI

Tôi buông mình xuống, tựa lưng vào thành bàn điều khiển,
nghe nỗi thất vọng dâng lên quá đầu mình. Như thể tôi vừa gục
xuống đáy một bể thất vọng và giờ chỉ chờ chết ngạt trong đó. Và đó
là khi tôi một lần nữa nghe thấy tiếng con quạ. Tiếng quạ luôn vang
lên rất đúng lúc, nhưng hơn thế, lần này, âm thanh xao xác ấy vang
lên trên đầu tôi, và con quạ xuất hiện. Con quạ gáy xám với lớp lông
dưới cánh ánh xanh. Nó đảo vài vòng trên đầu tôi, và rồi thả xuống
trước mặt tôi một vật thể nhỏ lấp lánh ánh bạc. Chiếc chìa khóa.
Con quạ đậu xuống tay nắm của cần gạt, nghiêng đầu nhìn tôi
đứng dậy với chìa khóa trên tay. Chiếc chìa khóa bạc trôi vào ổ một
cách dễ dàng, đẩy trôi hoàn toàn nỗi thất vọng nơi tôi. Ngón tay tôi
nắm lấy chìa khóa, một lần nữa toàn thân tôi run lên.
“Đúng rồi đấy”, con quạ nói. “Xoay chìa đi”.
Tôi làm theo lời nó, và một vài tiếng lách cách vang lên trong
guồng máy. Tôi với tay về phía cần gạt, nơi con quạ vẫn đang đậu.
“Anh chắc chứ?”. Nó hỏi. “Gạt cần này, rồi ném chìa khóa
xuống biển, đúng thế, anh sẽ chấm dứt những ngày oanh kích trên
Thị trấn Mùa đông. Bom sẽ không rơi nữa, chỉ còn những ngày yên
ả. Sẽ không còn nỗi sợ hãi, sẽ không còn những ám ảnh”.
“Đó không phải là điều tốt nhất sao?”.
“Mọi người sẽ tiếp tục ăn bánh mì đen và củ cải đỏ, sẽ làm vườn
vào ban ngày và đóng cửa khi đêm xuống. Sẽ có một người khác
kể chuyện cho lũ trẻ vào mỗi sáng, có thể là chính anh, những câu
chuyện mà lũ trẻ sẽ quên và đòi anh kể lại vào ngày hôm sau. Đàn
chim đến và đi. Tuyết sẽ rơi mỗi khi mặt trời lụi tắt, bất kể ngày nào”.
Tôi im lặng. Và giọng con quạ dường như giội thẳng vào trong
tôi. Con quạ, hay chính tôi?
“Thị trấn Mùa đông là như thế, bất kể có những ngày oanh kích
hay không. Mày có thực sự muốn điều đó không? Mày vừa mới thất

- 196 -
Thị trấn mùa đông
vọng, mày đã từng vui sướng. Và mày cũng đã từng hoài nghi. Nhưng
mày chỉ hoài nghi được tới đó thôi ư?”.
“Mày có muốn biết vì đâu mà lại có những ngày oanh kích
không? Rõ ràng là mày muốn. Mày muốn làm được nhiều hơn những
gì kẻ kia đã làm được không? Đừng có nói là không. Thứ mày trả về
cho Thị trấn Mùa đông, nếu như mày gạt cần, có đúng thực là sự bình
yên không? Mày khác Kahn, khác tất cả bọn họ, phải vậy chứ?”.
Con quạ gáy xám kêu lên một tiếng sau cuối, rồi cất cánh bay lên.
“Đúng vậy. Gạt cần, và anh sẽ giúp Thị trấn Mùa đông trở nên
yên tĩnh. Nhưng nếu không, anh có thể giúp được nhiều hơn một thị
trấn. Lựa chọn… là ở anh”.
Và rồi chỉ còn lại mình tôi. Tôi và mối hoài nghi. Tôi, chìa khóa
và cần gạt. Tôi, với quyền năng và lựa chọn. Một lần nữa, câu trả lời
vốn dĩ đã ở đó rồi. Có bình yên nào không xót xa?
Tôi xoay chìa trở lại. Lách cách, lách cách. Lòng tôi nặng trĩu.
Lồng ngực tôi nặng trĩu. Không khí như bị bóp nghét ra khỏi buồng
phổi tôi. Tôi rút chìa khóa, thả vào túi áo vest. Và chính khi đó, toàn
bộ không gian xung quanh tôi bắt đầu méo mó. Bóng tối tràn lên từ
dưới mặt biển xanh thẫm. Vô số mảng màu xộc xệch túa ra từ trên
nền trời vô tận. Và tôi không còn thở được nữa.

Tôi bừng tỉnh dậy, hổn hển thở, hau háu nuốt lấy không khí
như kẻ vừa từ cõi chết trở về. Một cơn bóng đè. Một giấc mơ hoang
đường. Mấy chai rượu rỗng không lăn lóc quanh chân tôi, âm thanh
của thủy tinh cạ trên sàn vang vọng trong hành lang nghe sống động
hơn bao giờ hết. Bàn tay tôi đút trong túi áo vest nghe lành lạnh. Tôi
rút tay ra. Và đó, trong lòng bàn tay tôi, là chiếc chìa khóa màu bạc.

- 197 -
NHẬT PHI

MAKOTO KHÁM PHÁ

L úc em bình tĩnh lại và ngẩng lên, đám trẻ vẫn đang chơi
đùa trên thảm cỏ, cô bé con và mẹ vẫn đang đứng ở một
góc sân, ngước lên nhìn theo những đám mây. Bé trai đã tóm được
cậu bạn đang trốn trong lùm cây, em đã biết là nó sẽ chẳng trốn được
lâu như thế đâu mà. Em những muốn ở lại thêm để xem nó sẽ tìm
tiếp những đứa khác như thế nào, nhưng rồi lại nghĩ biết đâu anh
đã dậy rồi và đang đi tìm em. Tạm biệt. Xin thứ lỗi vì tôi đã vào mà
không xin phép. Em nói. Chẳng có lời nào đáp lại. Vậy là em rời khỏi
căn phòng đó.
Này Rei, anh đã rất tệ đấy. Nếu như anh đã dậy rồi thì cũng nên
chờ em một chút chứ. Em có đi lâu lắm đâu. Thế mà lúc em quay lại
chỗ ông Gin thì đã không thấy anh đâu nữa. Gin đã dậy, ông đang
dốc ngược một chai rỗng, ra chiều nuối tiếc.
Con chào ông. Em nói. Để con lấy thêm rượu cho ông nhé? Mà
Rei đâu rồi hả ông?
Cậu trai đó hả? Gin ngước lên, mắt ông sáng lên, không hiểu
vì đề nghị hay vì câu hỏi của em. Ông cười. Cậu ta lên đường đi làm
nhiệm vụ của cậu ta rồi.
Nhiệm vụ? Đến Thành phố Thủy tinh ấy ạ. Em đã cực kỳ ngạc
nhiên. Sao anh ấy không chờ con?
Đừng lo. Gin nói. Cậu ta sẽ quay về sớm thôi. Nếu như cậu ta
nhận ra được điều cần thiết.

- 198 -
Thị trấn mùa đông
Điều gì ạ?
Cậu ta sẽ nói cho cô biết, nếu như cậu ta có trở lại. Lấy rượu
cho ta đi bé.
Lấy rượu cho Gin xong, em ngồi lại đó một lúc, chờ anh quay
lại. Em chờ mãi, chốc chốc em lại ghé vào sa mạc hứng nắng. Em
không đi tìm Matsu. Em muốn sẽ có câu trả lời cho bạn ấy khi em
quay trở lại. Cho đến khi ngày chuyển sang đêm trên sa mạc, và Gin
lại tiếp tục ngủ gà gật, em quyết định mình sẽ làm gì đó. Khám phá
Hành lang Ghi nhớ, hoặc tìm anh. Lẽ ra trong lúc Gin còn thức em
nên hỏi ông xem anh đã mở cánh cửa nào. Giờ thì em lại cứ phải lần
mò rồi. Em đặt mấy trang giấy viết lá thư trước đó xuống bên cạnh
Gin, chèn lên một chai rượu rỗng đề phòng nó bay mất. Rồi em bắt
đầu đi dọc hành lang, cố nghĩ xem cánh cửa nào có thể khiến anh
muốn mở ra. Em thử bắt chước cách nghĩ của anh. Nếu là Rei thì anh
ấy sẽ chọn cánh cửa nào nhỉ? Em tự hỏi mình như thế, rồi nhận ra là
em chẳng biết mấy về suy nghĩ của anh cả. Rei lúc nào cũng dịu dàng
và vị tha, anh lắng nghe nhiều hơn là bày tỏ, nên em chẳng biết anh
nghĩ gì bao giờ.
Nhưng nếu có điều gì em biết chắc chắn về anh, Rei ạ, thì đó là
tình yêu anh dành cho Ionah. Và em đã tìm thấy Ionah, ở giữa Hành
lang Ghi nhớ. Em đã tin chắc rằng anh đã bước vào đó. Cánh cửa với
đôi bàn tay mảnh dẻ đan một tấm khăn len trắng.

Cánh cửa thứ hai


Nhưng anh không có ở đó. Đằng sau cánh cửa ấy chỉ là một căn
phòng khác, đủ nhỏ, đủ trống để em chỉ cần quét mắt qua một lượt là
có thể kết luận không có ai trong phòng cả. Để cho chắc, em còn lên
tiếng gọi, nhưng bốn bức tường nuốt lấy giọng em và trả lại bằng im
lặng. Chỉ có mình em, một lần nữa.

- 199 -
NHẬT PHI

Căn phòng được soi sáng bằng một bóng đèn vàng rủ xuống
từ trên trần thấp, chụp đèn đu đưa ở khoảng không cao hơn đầu em
là mấy. Áp lên ba mặt tường là ba tấm bảng đen lớn, đúng hơn là ba
tấm bảng ấy chính là ba mặt tường. Thậm chí em có cảm giác rằng
nếu như mình xô vào đó đủ mạnh, mấy tấm bảng sẽ đổ xuống và mở
ra cho em một không gian khác rộng lớn hơn. Giống như là ai đó đã
dựng ba tấm bảng này lên quanh cửa vào để ngăn không cho những
người đến sau có thể khám phá được gì nhiều hơn ấy.
Dĩ nhiên căn phòng không chỉ là những bức tường. Em thấy
dưới chân tường, rải rác quanh phòng, rất nhiều những chồng giấy,
những cuốn sổ mở hoặc đóng, quây quanh một bàn làm việc không
ghế. Trên bảng, trên giấy và sổ, em hầu như không tìm thấy gì khác
ngoài những con số và những phép tính phức tạp - phấn trắng trên
bảng và chì đen trên giấy. Chốc chốc lại xuất hiện một vài chữ cái
đứng bên một con số, chúng không tạo thành từ ngữ mà đơn giản chỉ
là một phần của những phép tính. Em biết làm tính đấy chứ, ít nhất
là em biết cộng trừ nhân chia, nhưng những phép tính ở đây là gì
đó nằm ngoài những gì em biết. Chúng như một dạng phức hợp các
công thức, với ba hay bốn tầng số trong một tổ hợp số và phép tính.
Không một dấu bằng nào trong những gì em thấy, em nghĩ chủ nhân
của những phép tính này đã giấu đi những kết quả vào đâu đó và
chỉ lưu lại ở đây những bản nháp, hoặc kết quả thực sự chưa bao giờ
được tìm ra. Ở một góc tấm bảng trong cùng là một tấm lưới phấn
những ô vuông, như một hệ ô bàn cờ. Một vài trong số những giao
điểm của nét phấn dọc và ngang được tô đậm lên, tạo thành những
điểm nút mà em không hiểu ý nghĩa. Thế đấy, một căn phòng không
có anh, không có ai, và không có gì mà em hiểu được.
Em đang ngồi viết dưới ánh sáng của ngọn đèn vàng đó, Rei ạ.
Dù đúng là em chẳng hiểu gì về căn phòng này cũng như là những

- 200 -
Thị trấn mùa đông
gì em tìm được ở đó, em vẫn cảm thấy bầu không khí nơi này có gì
đó rất dễ chịu và em có thể tập trung thật tốt. Và có lẽ em vẫn đang
chờ đợi anh sẽ đẩy cửa bước vào, vì phản ảnh của Ionah trên mặt cửa
ngoài kia.
Anh đã không tới rồi. Em sẽ rời khỏi đây thôi. Biết đâu anh
cũng đã ở đó chờ em rồi, biết đâu anh lại tiếp tục bị Gin kéo vào cuộc
rượu của ông ấy. Nhưng em phải kể nốt cho anh điều này đã. Nếu
không viết lại bây giờ, em sợ em sẽ quên mất. Ai mà biết được em sẽ
thực sự ghi nhớ được gì khi quay trở ra Hành lang ấy chứ.
Căn phòng này hóa ra không phải chỉ có những con số và phép
tính. Em tìm thấy một thứ khiến em phải thốt lên vì bất ngờ và thích
thú, trong lúc đi quanh phòng, lần lượt chào từng hệ phức hợp số
trên bảng, thứ mà em đã tưởng là độc nhất ở nhà của Ionah ở Thị
trấn Mùa đông. Anh tin được không, Rei? Em đã tìm được một máy
radio đấy. Em không mang nó ra ngoài được, vì em nghĩ là chủ nhân
căn phòng có thể vẫn sẽ cần đến nó. Nhưng em sẽ ghi lại đây những
gì nó kể với em, bằng một giọng đàn ông điềm đạm khiến em phần
nào liên tưởng tới giọng anh.
Mới đầu em thử bắt chước Ionah, dựng cột sắt lên rồi xoay nút
vặn, nhưng em cứ xoay mãi, hết một vòng rồi ngược lại, hết nhanh
lại chậm, nhưng không có gì đáp lại em cả. Em đã tưởng đâu kết
quả cũng sẽ giống như lần cuối cùng mình chờ đợi radio ở nhà của
Ionah chứ. Rồi em quyết định thử tới loạt nút bấm nửa đen nửa bạc
xếp hàng trên nóc máy. Có thể em đã làm hỏng gì đó rồi, nhưng cuối
cùng thì âm thanh cũng vang lên từ chiếc máy, khi một nút được bấm
xuống và không bật trở lại ngay. Vài giây một thứ âm thanh như tiếng
thở của đêm…

- 201 -
NHẬT PHI

Ngày trên chiến hạm rất dài, dài đến mức tưởng như sẽ không
bao giờ trôi hết. Khi tôi mới tới đó, tên lửa chưa được nạp lại trong
những bệ phóng dạng nòng súng. Chúng đã rời khỏi đó và rải xuống
thị trấn trong đêm cuối cùng tôi còn ở đó. Tôi ở lại đó rất lâu, chờ đợi
ai đó từ thành phố sẽ tới cùng với loạt tên lửa mới. Tôi biết họ sẽ tiếp
tục oanh kích, vậy nên tôi chờ ở đó, hy vọng có thể thương lượng với
người sẽ mang tên lửa tới. Có thể là ai đó tôi biết. Về cơ bản, bằng
những tính toán của mình, tôi đã ngăn chặn được nguy cơ thương
vong trong tương lai. Nhưng những ngày oanh kích nên được kết
thúc hẳn. Ít nhất đó là mục đích của tôi trong lúc này. Vì cô ấy. Mọi
công cuộc khác mà thành phố đã giao cho tôi có thể để sau giải quyết.
Tôi cứ thế ngồi trên boong tàu và chờ đợi. Biển lặng một cách
kì lạ, khiến cho chiến hạm như đang được đậu trên đất liền. Tôi biết
mình đã ở đó rất lâu, đủ để nhận ra ngày trên biển rất dài, đủ để nghĩ
hết những gì có thể nghĩ. Tôi đã dợt trong đầu rất nhiều lần những
gì mình sẽ nói với người mang tên lửa tới. Những ngày oanh kích
không mang lại lợi ích gì đâu, tôi sẽ nói thế với người đó, thị trấn ấy
vẫn đang đối phó rất tốt trong những ngày đó. Họ sẽ chẳng có lí do
gì để nhượng bộ chúng ta cả. Họ có một bác sĩ giỏi và một thị trưởng
kiên định. Không, tôi trung thành với thành phố của chúng ta. Anh
nghĩ tôi có thể bị họ tẩy não dễ dàng vậy sao? Tôi chỉ đang nghĩ về
điều tốt nhất cho tất cả… Cứ thế, suy nghĩ trở thành đơn vị đếm thời
gian duy nhất của tôi.
Thế rồi đêm cũng dần buông xuống. Nắng tắt cũng là lúc tôi trở
dậy. Đúng vậy, họ có thể làm điều đó trong đêm. Tôi hít thật sâu, khí
biển lạnh và mặn mòi. Thế rồi tôi nhận ra mình đã thấm mệt. Tôi đã
không ăn gì suốt một ngày dài, trong khi mọi cảm giác đã trở lại sống
động ngay khi tôi rời khỏi hành lang đó. Rồi chiến hạm bắt đầu chao
đảo nhè nhẹ, tôi cố nghĩ như vậy, để tránh phải thừa nhận rằng mình

- 202 -
Thị trấn mùa đông
đang bắt đầu choáng váng. Gió lên, biển động. Đêm thổi vào tôi quá
nhiều cảm giác không mong muốn.
Tôi ngồi xuống, thấp dần, rồi nhận ra mình đã nằm bẹp xuống
sàn tàu từ lúc nào. Mắt tôi kiên quyết níu lấy ngọn đèn nháy đỏ nơi
nóc cabin, cố gắng tách biệt màn đêm của biển với màn đêm trong
mắt tôi. Nhưng không được quá lâu. Tôi dần thiếp đi, bất chấp ý
muốn của mình, như những đêm tôi ở bên em trong thị trấn.
Đánh thức tôi là âm thanh dày như đá tảng của thuốc súng nổ
trong bệ phóng. Họ đã tới trong khi tôi còn đang ngủ, hoặc kỳ thực
họ đã chờ tôi thiếp đi để thực hiện tất cả. Bất lực và tuyệt vọng, tôi kiệt
quệ nhìn loạt tên lửa vạch lên nền trời những cột khói trắng. Chúng
đang hướng tới điểm đến quen thuộc của chúng. Nhưng chúng sẽ rơi
xuống những nơi khác. Sẽ không còn ai bị thương cả. Chắc chắn là
như thế. Xâm chiếm tôi vẫn là một cảm giác day dứt đến nghẹn lòng.

Một quãng im lặng khác nữa. Lẫn trong tiếng thở của đêm là
tiếng thở của người đàn ông vừa ngừng nói. Em nghĩ người ấy đang
xúc động, một vài tiếng thở vỡ ra như tiếng nấc.

Tôi nhận ra mình sẽ không thể ngăn chặn được những loạt tên
lửa mới tới. Tôi sẽ cứ thế mà gục xuống và chúng sẽ cứ thế mà xuất
hiện trong ống phóng khi tôi thức dậy.
Hiện tại, tôi nghĩ mình đã làm được điều tốt nhất trong khả
năng. Tôi tin rằng một ai đó khác sẽ thực sự giúp được cho cả thị
trấn của em và thành phố của tôi. Tôi đang giao phó điều đó cho một
người tôi chưa từng biết, chỉ với hy vọng rằng người đó sẽ xuất hiện.
Chìa khóa sẽ được giao cho người thực sự biết khi nào cần tra chìa
vào ổ. Đó là tất cả những gì tôi làm được vào lúc này.
Tạm biệt.

- 203 -
NHẬT PHI

Một vài giây sau cuối, rồi nút mà em đã bấm xuống tự động nảy
trở lên. Đoạn ghi âm đã kết thúc. Em tin rằng những gì em ghi lại
sẽ giúp được điều gì đó cho anh. Anh chính là người đó, phải không
Rei?.

Tái bút: Khi nào quay lại chỗ ông Gin, anh hãy chờ em một chút
nhé. Còn một nơi em muốn khám phá nữa. Em sẽ đi một mình, vì
đây là ý muốn của riêng em, câu hỏi của riêng em. Nên đừng đi tìm
em nhé, em sẽ kể anh nghe những gì em tìm thấy, nếu như chúng
giúp ích cho nhiệm vụ của mình. Xin lỗi vì đã bắt anh chờ. Mà anh
cũng đã bắt em chờ mãi còn gì. Thế là huề nhé.

- 204 -
Thị trấn mùa đông

MAKOTO KHÁM PHÁ

E m đã đọc được. Và giờ em sẽ viết lại. Không phải để ghi nhớ


đâu, vì em biết em sẽ không quên. Đơn giản là em muốn viết
lại, muốn được thấy những ngôn từ ấy hiện ra dưới tay mình.
“Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng”
Em nhìn hai hàng chữ trên giấy, rồi nhìn lại chúng trên cánh
cửa trước mặt. Thật lạ lùng làm sao, chúng dường như mang một ý
nghĩa khác hẳn khi được chính tay em viết ra, một ý nghĩa nào đó
mà em đã không bao giờ nghĩ đến khi hát. Cứ như thể là chỉ khi em
viết ra, lời hát mới được tựu hình, như những hình dung được khắc
lên làm một bức tranh tường. Phải chăng một ý nghĩa vẫn sẽ tiếp tục
tàng hình cho tới khi chúng ta khoác lên chúng lớp vỏ của những
con chữ, dù rằng nó vốn dĩ đã ở đó rồi? Nhưng ý nghĩa đó là gì thì
em cũng chưa tìm ra được. Ý nghĩa ở đằng sau những con chữ. Đằng
sau cánh cửa này.

Thung lũng Táo


Em thấy mình bước ra từ một cửa hang trên triền đồi. Cũng
khó có thể gọi đó là một cửa hang được, khi mà mở ra sau cánh cửa
này không phải một lòng hang mà là một hành lang. Nhưng đó đúng
là một triền đồi, dẫn qua một cánh rừng thưa.
Bao quanh em là một màu xanh mát lành, trên nền đất nâu ấm

- 205 -
NHẬT PHI

áp. Tiếng chim ríu ran lách chách trên đầu em, xa xa là tiếng suối róc
rách êm êm. Cành lá rì rào đưa theo gió mơn man lay. Chốc chốc,
một chiếc lá nào rụng xuống, đệm vào bầu thanh âm một âm phách
mỏng nghiêng nghiêng. Giống như là cánh rừng đang chào đón em
bằng một khúc hát đáng yêu vậy. Và mỗi bước chân của em cũng
dường nhẹ bẫng, như được nhạc rừng nâng đỡ.
Từ cửa hang xuống tới chân đồi, cây rừng đứng dạt sang hai
bên làm thành một lối mòn dốc thoải. Một cọc chỉ đường hướng mũi
tên ngược lên cửa hang kiên gan đứng nơi cuối đường mòn. Đó là
một cọc gỗ bình thường, ẩm và cũ, tấm biển hình mũi tên trống trơn,
như muốn xua hết những lữ khách trở lại nơi họ tới nhưng lại không
tìm ra lí lẽ gì cho điều đó. Em tự hỏi không biết đã có bao nhiêu
người thực sự quay mình trở lại khi nhìn thấy tấm biển này, nhất là
khi cả cánh rừng đã chào đón họ như thế. Cũng có thể một kẻ xấu
tính nào đó đã xoay ngược tấm biển lại, để ngăn những người khác
tới chia sẻ vùng đất của họ. Em không biết được, nên em cứ bước tới,
xuống chân đồi.
Đón em ở đó là một con đường bằng phẳng chạy men theo
chân đồi, ngăn cách ngọn đồi với một khoảnh rừng khác, kém thưa
hơn. Em đứng đó hồi lâu, phân vân trước ngã ba đường đột ngột. Khi
đứng trước chỉ hai ngả rẽ, em bỗng cảm thấy khó khăn hơn rất nhiều
so với khi đi dọc theo Hành lang Ghi nhớ, cố gắng chọn ra một cánh
cửa để mở. Em nhắm mắt, thử lắng nghe để tìm kiếm một tiếng gọi.
Nhưng không ngả đường nào đang thực sự gọi em cả. Chỉ có tiếng
suối. Cứ coi như đó là một tiếng gọi, em nương theo tiếng suối và bắt
đầu bước xuyên vào khoảnh rừng trước mặt.
Cây ở đây cao hơn trên sườn đồi, và tán cũng rộng hơn. Bóng
cây đổ xuống rất dày, biến đoạn đường của em thành một vùng tranh
tối tranh sáng. Đi vào sâu hơn, em không còn nghe được tiếng chim

- 206 -
Thị trấn mùa đông
hót hay tiếng gió ru nữa, và tiếng lá rơi đôi khi bỗng khiến em giật
mình. Chỉ có tiếng suối vẫn đang gọi em, dù rằng, trong rừng, tiếng
gọi ấy thoắt trở nên bớt cởi mở hơn. Không có lối mòn, em phải bước
đi thận trọng hơn, tránh những rễ cây trồi lên khỏi mặt đất ngáng
chân, tránh cả những khoảng đất lún được nguỵ trang kĩ bởi lớp lá
khô dày. Đừng lo, Rei, em không hề vấp ngã hay hụt chân lần nào
đâu. Em nghĩ là em có một trực cảm về con đường em cần đi. Và em
phải nói thật là bầu không khí nơi này cho em một cảm giác quen
thuộc khó tả. Em không lí giải được, rừng rậm với những thân cây
cao ngút thì sao mà giống với đất bằng với vườn củ cải xen kẽ được
cơ chứ? Có phải em đang đi và tránh mọi cạm bẫy tự nhiên theo cái
cách mấy quả tên lửa né những mái nhà và vườn tược của chúng ta
ra không?
Em không biết em đã đi trong rừng bao lâu, nhưng trời hãy còn
sáng khi em ra tới bìa rừng. Em nhẹ hết cả người. Và kìa, em ra tới
bờ suối rồi. Ánh sáng lấp loáng ràn rạt vỡ trên mặt nước như tràng
vỗ tay chúc mừng em vượt qua thử thách trong rừng. Tiếng suối reo
cũng thành như bản nhạc mừng công. Em đứng ngẩn ngơ, tận hưởng
thành quả cảnh vật và âm thanh của mình cho tới khi em nhận ra
mình không phải là người duy nhất ở đó.
Có hai người đã đến trước em bên bờ suối, họ ngồi day lưng lại
phía em, hai đôi vai buông thõng thư thái. Nhìn từ đằng sau, họ toát
ra một vẻ tĩnh tại hài hòa đến mức trông họ như một phần của cảnh
trí, như hai trong vô số những hòn sỏi vô ưu bên bờ suối. Những hòn
sỏi khác lạo xạo dưới chân em khi em bước lại gần, và họ quay lại. Đó
là hai cậu trai, một người tóc vàng có vẻ trạc tuổi em và một người bé
hơn có mái tóc đen. Họ có lẽ là hai anh em, người anh trai tuấn tú và
tự tin, trong khi người em có phần rụt rè hơn. Đôi mắt của họ cùng
mang một màu xanh sẫm rất sáng.

- 207 -
NHẬT PHI

Xin chào. Em nói. Họ đáp lại em bằng một nụ cười tươi như
không phải dành cho một người lạ.
Vẫn chỉ là hai nụ cười không lời khi họ vẫy tay ra hiệu cho em
tới bên. Em nghĩ họ muốn nói, này, lại đây chơi với chúng tớ đi. Sự
nhiệt thành của họ khiến em không thể từ chối được, mà em cũng
không muốn từ chối, dù em biết điều đó sẽ khiến anh phải chờ em
lâu hơn. Niềm vui hồn nhiên tươi sáng nơi họ là điều đã lâu lắm rồi
em không được chia sẻ.
Họ đang câu cá. Hay đúng hơn là họ đang cầm cần câu, thả dây
câu xuống rìa suối trong khi cứ nhìn nhau, và nhìn em, mà cười miết.
Đôi khi, chẳng vì lí do gì, họ lại cùng phá lên cười, chẳng hề quan tâm
tiếng cười ấy có thể xua cá đi xa. Tiếng cười của họ trong hơn cả làn
nước suối. Nước trong thì không có cá, nhưng tiếng cười thật trong
sẽ thu hút những người bạn, như em. Ngồi bên họ, dù chẳng với câu
chuyện nào, em cũng bất giác mỉm cười, như thể niềm vui không lời
nơi họ đã dần dần lan sang em. Miệng em cứ mở rộng dần ra.
Họ cứ ngồi và cười như thế, hai mẩu phao câu vẫn cứ dập dềnh
như thế, như thể chính chúng cũng đang tận hưởng một buổi chiều
mát mẻ trên dòng suối. Bóng nắng cho em biết thời gian vẫn đang
trôi qua, nhưng em cũng không còn để tâm đến thời gian nữa. Hình
như khi ấy em đã quên mất cả anh và nhiệm vụ của chúng ta.
Em nghĩ em đã quên hẳn, tới cả khi nắng tắt dần và hai anh em
họ bắt đầu đứng dậy. Cả hai người đưa tay lên miệng và huýt sáo một
hồi dài cao vút. Em chưa kịp hiểu họ đang làm gì thì mặt đất bờ suối
đã rung lên, mạnh dần. Vài viên sỏi trên cùng còn nảy lên, và rồi phi
tới trước mặt em hai chú ngựa rất đẹp, hai chàng tuấn mã màu nâu,
một con có một vệt lông trắng ở giữa trán, con kia thì không. Người
em nhảy lên lưng chú ngựa có vệt lông trắng, người anh làm theo với
chú ngựa còn lại, chìa một cánh tay ra với em. Nhảy lên đi, cậu ấy có

- 208 -
Thị trấn mùa đông
lẽ đang nói thế. Em nắm lấy tay cậu và đu lên ngồi sau cậu trên lưng
chú ngựa nâu cường tráng ấy. Và họ thúc ngựa lao đi.
Rei này, anh đã nghĩ ra rồi phải không? Em cũng đã nhận ra,
khi ngồi sau lưng người anh trai, nhìn mái tóc vàng óng của cậu tung
bay trước mặt. Họ chính là hai anh em trong truyện kể hàng ngày của
bà Astrid.
Nếu đúng như vậy thì đây chính là Thung lũng Táo, và hẳn họ
đang đưa em về nhà ông nội họ. Đúng như vậy thật. Hai chú ngựa đưa
chúng em từ bờ suối quay lại con đường men chân đồi, ngang qua
cọc chỉ đường hướng về phía cửa hang, ngang qua rất nhiều người
khác, ai cũng mỉm cười và vẫy tay với hai anh em, và cuối cùng dừng
lại trước một căn nhà gỗ có hàng rào bao quanh và một vườn cây
xanh tốt. Căn nhà khá giống với những ngôi nhà của chúng mình ở
Thị trấn Mùa đông, với tường gỗ và ống khói, nhưng lớn hơn. Người
em nhảy xuống ngựa và đẩy cánh cửa gỗ không khóa cho chúng em
bước vào. Một tấm biển nâu đã mờ chữ cho em biết trang trại này đã
từng có tên, nhưng giờ thì không.
Hai anh em dẫn em đi vòng qua hông nhà để ra vườn sau, nơi
ông nội họ đang hái những quả táo ở dưới thấp thảy vào một giỏ lớn.
Người ông nhận ra ngay khi hai anh em vừa bước lại gần. Ba người
họ chào nhau bằng những cái vẫy tay và những nụ cười thật rộng.
Rồi người anh đi tới giúp ông mang giỏ táo vào nhà, trong khi người
em nắm lấy tay em. Chú nhóc nói, vẫn không phải vào tai mà vào
thẳng suy nghĩ của em, đi nào, chị ăn tối với chúng em và ông nhé.
Em mỉm cười đáp lại, hy vọng lời cảm ơn của em cũng đi vào được
tới trái tim cậu bé.
Tối đó, em và ba người họ ăn tối bên lò sưởi bập bùng cháy.
Bữa ăn có thịt hầm, rau tươi và bánh mì trắng. Em không còn nhớ
được đã bao lâu rồi mình không ăn gì khác ngoài củ cải đỏ và bánh

- 209 -
NHẬT PHI

mì đen ở thị trấn nữa, đúng hơn là trong khi nhét đầy miệng món
thịt hầm thơm mềm và béo ngậy, em đã không còn nhớ gì tới củ cải
đỏ và bánh mì đen nữa rồi. Và còn rất nhiều táo nữa chứ. Giá mà em
nhặt được về cho anh mấy quả. Nhưng biết đâu khi ăn táo đó, anh
cũng sẽ lại giống em thì sao, quên mất rằng mình có một nhiệm vụ
cần thực hiện?
Không ai nói gì bên bàn ăn, nhưng đó vẫn cứ là một bữa tối
vui vẻ. Thậm chí có thể nói ba người bọn họ ăn uống một cách ồn ào.
Không phải theo nghĩa là họ nhai rau ráu hay nuốt ừng ực gì cả, mà ồn
ào trong cách họ thường xuyên va thìa dĩa vào thành đĩa hay gõ muôi
vào thành nồi một cách cố ý, và cả những tiếng cười nữa. Em có cảm
giác như họ đang vừa ăn vừa hát vừa gõ nhịp ấy. Rồi trong đầu em,
những tiếng cười tiếng gõ ấy dần dần thành hình một câu chuyện.
Hồi sáng cháu câu được một con cá to lắm nhé, bằng này này.
Cậu em nói.
Nhưng to quá nên Quy Ròn không giữ được, lại thả nó đi rồi.
Người anh thêm vào, cười lớn.
Không phải, em cố tình thả nó đi đấy. Quy Ròn phân trần. Vì
ông đã bảo là sẽ nấu thịt hầm rồi còn gì.
Nếu có cá thì ông sẽ làm cá nướng, người ông nói, xoa đầu đứa
cháu nhỏ, lần sau câu được cá thì cứ mang về cho ông nhé.
Chúng cháu gặp Makoto ở bờ suối. Người anh nói, nhìn sang
em. Cô ấy đi ra từ bìa rừng.
Chị can đảm thật đấy. Quy Ròn trầm trồ. Chúng em không bao
giờ dám đi vào rừng một mình đâu.
Trong rừng không có gì nguy hiểm đâu. Tới lượt ông nội cười
với em. Đây là Thung lũng Táo mà.
Phải rồi, đó là Thung lũng Táo, nơi yên bình hơn hết thảy. Em
nghĩ thế trong đêm, cuộn mình trong chăn, trên chiếc ghế dài trong

- 210 -
Thị trấn mùa đông
phòng ăn đã được sửa soạn lại thành giường cho em. Em xin lỗi, Rei,
em đã gần như quên hết về Hành lang Ghi nhớ và anh trong đêm ấy.
Buổi sáng, anh em Quy Ròn tới phụ giúp mọi người khác trong
thung lũng làm vườn hay chăn cừu và được trả công bằng rau củ hay
thịt cá. Và những nụ cười. Thung lũng Táo là xứ sở của những nụ
cười, anh ạ. Không có những quy luật, không có những câu chuyện
để lo lắng hay sợ hãi. Chỉ có giúp đỡ lẫn nhau, rồi rong chơi trong
rừng, trên thảo nguyên, bên bờ suối. Cùng làm vườn, chăn cừu, rồi
cùng cưỡi ngựa, câu cá. Ăn những món nóng sốt ngon lành vào buổi
tối rồi ngủ một giấc an lành. Không ai nói gì, nhưng ai cũng hiểu
nhau. Dần dà em học được cách giao tiếp với họ chỉ bằng nụ cười.
Em hiểu họ, và họ cũng hiểu em. Tới một lúc thì em thậm chí cảm
thấy mình không còn cần tới ngôn ngữ nữa.
Anh em Quy Ròn và ông nội họ trở thành gia đình của em. Họ
chấp nhận việc em ở cùng họ một cách tự nhiên, như thể em là cô
cháu gái đã thất lạc bấy lâu của ông nội, là người chị em tới giờ mới
gặp của anh em Quy Ròn. Ông nội hiền từ, cậu em trai dễ mến và
người anh lịch thiệp. Em chưa bao giờ sống trong một gia đình toàn
vẹn đến thế. Phải, đã có lúc em đã quên mẹ em, cả Ionah rồi.
Quy Ròn rất quý em. Cậu bé quấn quýt em mỗi khi có thể, luôn
giành những việc hơi nặng một chút, dù cu cậu thấp em hơn cả một
cái đầu. Em gần như không đòi hỏi điều gì, nhưng em biết nếu em có
thì cậu bé cũng sẽ không bao giờ từ chối em. Cho đến một ngày, khi
cùng với anh em họ tới bên bờ suối để câu cá. Hai chàng tuấn mã sẽ
được thả đi cho gặm cỏ và uống nước. Em hỏi, trước khi Quy Ròn
buông dây cương chú ngựa có vệt lông trắng giữa trán của mình.
Cho chị cưỡi thử được không? Em cười, chỉ tay vào chú ngựa.
Không được đâu. Quy Ròn đáp, trước sự ngạc nhiên của em.
Chị không quen cưỡi thì không cưỡi được đâu.

- 211 -
NHẬT PHI

Thì chị sẽ tập. Em đáp.


Sao lại phải tập? Em và anh trai có thể đưa chị đi mà. Nụ cười
của cậu bé không gợn chút hoài nghi.
Chị muốn thử mà.
Chị sẽ bị ngã đấy. Ngã thì sẽ bị đau.
Đau thì sao?
Chị không được để bị đau. Thung lũng Táo không để ai bị đau cả.
Rồi Quy Ròn thả ngựa đi. Và em chợt nhận ra, Thung lũng Táo
cũng có một quy luật. Không đau, không buồn, không lo lắng hay sợ
hãi. Chỉ có những nụ cười không lời.
Nếu vậy thì chị cũng sẽ không có được niềm vui khi lần đầu
cưỡi trên mình chú ngựa này. Em nói, nhưng Quy Ròn đã không còn
lắng nghe nữa rồi.
Anh biết không, Rei, đó chính là lúc em bắt đầu nhớ lại. Em
nhớ về Thị trấn Mùa đông. Thung lũng Táo kỳ thực rất giống với
Thị trấn Mùa đông của chúng ta. Một Thị trấn Mùa đông không có
những ngày oanh kích. Chốn bình yên hơn hết thảy. Và em sợ hãi.
Đêm ấy, em không ngủ được. Em nhớ lại tất cả, lí do mình có
mặt ở đây, lí do chúng ta đã đi được tới lúc này. Và hơn hết, em nhớ
tới Ionah, người đang chờ đợi chúng ta ở Thị trấn Mùa đông. Không
có niềm đau và nỗi buồn, em nghĩ, liệu Viena có lớn lên được không?
Không trải qua cơn đau ngày oanh kích ấy, liệu Ionah có đón Viena
chào đời được không? Chính tiếng kêu của Ionah ngày ấy đã đánh
thức em, kéo em ra khỏi tấm chăn ấm trên ghế dài.
Em nhón gót đi ra chuồng ngựa. Hai chàng tuấn mã đang ngủ.
Em thử gọi chúng, nhưng môi em như dính lại với nhau. Em không
tìm lại được một ngôn từ nào cả. Một nụ cười là không đủ để đánh
thức hai chú ngựa dậy. Rồi, sau bao lâu, lần đầu tiên em nghe thấy
một giọng nói, một giọng nói có thực thể, từ sau lưng em.

- 212 -
Thị trấn mùa đông
Chúng không dậy đâu, Makoto, con à.
Đó là bà Astrid. Em không giật mình về tiếng nói, em không
ngạc nhiên về sự xuất hiện của bà. Hình như em đã luôn mong đợi bà
xuất hiện, ở Thung lũng Táo này. Em nhào vào lòng bà, và em khóc.
Makoto, Makoto yêu quý. Bà Astrid nói, dịu dàng vuốt tóc em.
Con đã phải chịu đựng rồi. Chưa tới lúc để con tới đây đâu.
Con phải chịu đựng hả bà? Cuối cùng em đã nói lại được, chưa
bao giờ em cảm thấy mừng rỡ thế khi nghe thấy chính giọng mình.
Không, bà ơi, con đã rất vui, con đã thấy bình yên đến nhường nào.
Phải rồi, con yêu, con đã phải chịu đựng niềm vui này đủ lâu rồi.
Trớ trêu, em biết, nhưng nếu anh ở đây, em tin anh sẽ hiểu.
Đây là đâu hả bà? Có phải Thung lũng Táo không?
Đúng rồi, con à. Bà Astrid đáp, bà đỡ em đứng thẳng dậy và dìu
em ra cửa.
Đây là Thung lũng Táo, thung lũng xinh đẹp nhất trong các
thung lũng ở Nangilima.
Nangilima ạ? Em hỏi, giờ đây em với bà đang đi trên con đường
bên đồi. Em biết bà đang dẫn em đi đâu.
Phải, Nangilima. Miền đất đầu tiên của ta. Tạo vật của ta. Nơi
ta đã trốn chạy và rồi phải quay lại.
Trời rất tối, không trăng, không sao, nhưng bà Astrid nắm tay
em và cứ thế dẫn em đi trên con đường bằng phẳng. Hình như một
ánh sáng mờ mờ đang tỏa ra từ thân thể bà. Như ngọn đèn biển trong
cơn bão lớn.
Con đã ở đây bao lâu rồi ạ?
Rất nhiều ngày hôm qua, con à. Chỉ như một cái chớp mắt thôi.
Rei…
Rei đang chờ con ở ngoài kia, ở Hành lang Ghi nhớ.
Em nhìn thấy cọc chỉ đường, hình như chính nó cũng đang

- 213 -
NHẬT PHI

sáng lên trong đêm. Bà Astrid dừng lại bên cây cọc, em và bà cùng
hướng mắt nhìn theo mũi tên chỉ.
Bà ơi, con có thể gặp lại bà không?
Ta không biết, con à. Nhưng ta phải nói rằng ta có mặt ở đây là
vì con. Vì con là người duy nhất nhớ đến ta ở Nangilima.
Con tưởng như mình đã quên. Em thú thật, và bà Astrid đáp lại
với một nụ cười. Một nụ cười thật.
Điều quan trọng là con đã nhớ ra. Và khi con nhớ ra, ta đã đến
với con. Bà ngừng một chút, em biết bà buồn. Dù chỉ trong chốc
lát thôi.
Con sẽ bước qua cánh cửa đó một lần nữa. Em nói, như khẳng
định, như an ủi, như phân trần, như lòng chẳng nỡ.
Đúng rồi, con ạ.
Con có nên quay lại trang trại để chào tạm biệt anh em Quy
Ròn và ông nội không bà?
Không cần thiết đâu con. Họ sẽ tiếp tục sống vui vẻ và bình yên
mà không có con.
Quy Ròn liệu có buồn không ạ?
Nangilima không có nỗi buồn, con yêu à. Bà ôm em một lần
nữa. Nhưng có những người sẽ buồn khi con không ở bên họ. Con
biết phải không? Quay trở lại với những người đó thôi.
Vâng, con sẽ quay lại. Nhưng để con ôm bà thêm một lúc nữa
thôi nhé.
Ừ, ừ, một lúc nữa thôi. Rồi con hãy về, về nơi có nỗi buồn, con
yêu.

- 214 -
Thị trấn mùa đông

TẠM BIỆT, HÀNH LANG GHI NHỚ

Người ôm lấy muôn loài nằm trong tiếng bi ai…

T rong muôn loài ấy, hẳn phải có Cừu, Cú và Quạ, những


kẻ chẳng vội vàng gì đưa thế giới ra khỏi vòng bi ai ấy. Vả
chăng, bi ai và hạnh phúc vốn dĩ là hai mặt của cùng một đồng xu,
thứ mà cuộc đời đã tung lên với mỗi bước đi của nó. Không tung
đồng xu lên cũng tức là không bước đi. Một cuộc đời tĩnh tại tuyệt
đối dường như còn đáng sợ hơn nhiều lần. Chìa khóa mà con quạ đã
trao cho tôi có thể là chìa khóa mở ra một cánh cửa nào đó, mà cũng
có thể chìa khóa kích hoạt chuyển động của thế giới này. Nhiệm vụ
của anh ta, nhiệm vụ của tôi, cũng có thể chính là mong muốn của
những người đã gầy dựng nên tất cả những chiều không gian này, có
lẽ chỉ đơn giản là tra chìa khóa ấy vào đúng ổ, vào đúng lúc. Và tôi
cũng biết rằng thời điểm sẽ không tự nó đến, mà chính tôi sẽ phải đi
tới đó. Lúc này, tôi biết, cũng là một thời điểm.
Makoto nhất quyết ép tôi và Gin ăn bánh mì, thứ đơn giản đã
xuất hiện khi không ai trong chúng tôi ở đó mà chứng kiến, bằng
không, cô bé sẽ không đi lấy rượu cho chúng tôi. Tôi xé ổ bánh mì ra
làm đôi, rồi làm tư, đặt một phần tư ổ bánh vào tay Gin. Makoto nhìn
chúng tôi ăn với vẻ hài lòng, rồi cô bé rót rượu ra hai ly. Khi chúng tôi
cụng ly, tôi nhận thấy Gin làm điều đó với một vẻ chú tâm cẩn trọng
hơn nhiều so với cuộc rượu trước. Hai thành ly chạm nhau, rung lên
cùng một nhịp khe khẽ trong một giây, như thể chính chúng cũng

- 215 -
NHẬT PHI

đang trao đổi một điều gì đó, một điều có thể Gin đã nói với cái ly của
ông từ trước. Tôi vơ vẩn mỉm cười khi rượu trôi vào trong cổ họng
mình, hun lên trong tôi gì đó như là chí khí.
“Ngài Gingawa”, tôi nói, “tôi nghĩ đây sẽ là cuộc rượu cuối cùng
của chúng ta trong thời gian này”.
Người đàn ông với mái đầu bạc không đáp. Ông lật úp cái ly
rỗng của mình trên không, trước khi lật ngửa nó lại ra hiệu cho
Makoto rót tiếp.
“Với chúng tôi có thể là nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm”,
tôi nói tiếp. “Nhưng với ngài, thời gian đó có thể không nhiều hơn
một cái chớp mắt đâu nhỉ. Vì ở Hành lang Ghi nhớ này đâu thực sự
có thời gian, phải không? Nên ngài không phải lo sẽ không có ai tới
để giúp ngài lấy rượu đâu?”.
Tôi với chai rượu đặt cạnh Makoto, xoay cổ chai trong tay. Hãy
còn gần đầy.
“Có thể khi ngài uống xong chai rượu và ngẩng lên thì chúng
tôi đã quay trở lại đây rồi. Khi đó thì tôi rất hân hạnh được hầu rượu
ngài một lần nữa”.
Trên đầu tôi là một vòng xoáy được tạo nên bởi những nét sơn
trắng xám. Một cơn lốc lơ lửng trên bầu trời vụn vỡ, chỉ chực hút tất
cả mọi thứ vào tâm nó, để rồi trả lại một bầu trời sạch trơn. Hoặc giả
nó đang cố gắng hút lấy cả bầu trời, để phô bày thứ gì đó. Nếu như
cơn lốc này hiện diện trên nền trời của Thị trấn Mùa đông, có lẽ tất
cả mọi người ở đó sẽ nhận ra một điều gì đó. Ví như một bề trên nào
đang vừa lật úp cả thị trấn xuống rồi lật lại, khi ngày vừa tàn, và cả
thị trấn rốt cuộc chỉ là một quả cầu tuyết pha lê khổng lồ. Cảm giác
đó có lẽ sẽ là một điều gì đó hơn cả nỗi bi ai. Nhận thức đôi khi lại là
những mũi kiếm, và ổ lòng con người chỉ như một con thú bị thương
tội nghiệp, thân mình bê bết máu.

- 216 -
Thị trấn mùa đông
“Tôi có một đứa con gái, ở Thị trấn Mùa đông”. Tôi kể, không
hiểu vì sao tôi lại muốn kể với Gin điều này, dù rằng điều đó khiến
ngực tôi cũng nhói đau. “Tôi yêu con bé hơn hết thảy mọi điều. Tên
con bé là Viena. Ngày Viena ra đời, tôi mất một người bạn lớn đáng
kính, còn người phụ nữ tôi yêu trải qua một cơn đau tưởng như khốc
liệt hơn mọi đớn đau trong đời. Bản thân cô ấy cũng là một người đã
quá quen với nỗi u sầu ly biệt.
“Ngày Viena ra đời, chúng tôi hạnh phúc, nhưng đồng thời
cũng đớn đau. Nhưng chúng tôi đều biết rằng không có đớn đau ấy,
con gái chúng tôi cũng không thể ra đời. Nó sẽ mãi mãi chỉ là một
bào thai, một thực thể lưỡng bào, mãi mãi chấp chới nơi lằn ranh
giữa sự sống và không sống. Ra đời và lớn lên đòi hỏi những nỗi đau.
“Tôi đã nghe nói về một chốn bình yên, nơi không có nỗi buồn,
không có đớn đau. Khi rời khỏi Thị trấn Mùa đông, tôi những muốn
biến nơi ấy trở thành một chốn bình yên như thế. Nhưng rồi tôi
không thể nghĩ được con gái mình sẽ lớn lên thế nào trong một miền
đất như vậy. Không, dĩ nhiên, tôi không muốn bom rơi quanh nhà
chúng tôi thêm một lần nào nữa. Đây không phải là chuyện có hay
không, mà là một điều gì đó khác hơn. Một thứ nằm ngoài cái hộp.
“Đó là lí do tôi cần phải đến được nơi ấy. Có rượu hay không
có rượu”.
“Ta chẳng bao giờ cần người uống rượu cùng cả”. Gin đáp,
giọng khiên cưỡng cộc cằn.
“Pal thì không nghĩ vậy”. Tôi rút trong túi áo ra mẩu giấy gói ly.
“Tôi nghĩ tôi biết ông ấy, hay là bà ấy, ở đâu”.
Gin ghé mắt sang tôi trong một giây, chỉ vừa đủ để nhận ra màu
giấy và chất giấy. Và gần như chắc chắn, tôi thấy ánh mắt ông nhá
sáng trong một giây đó.
“Tôi sẽ cố gắng tìm người ấy khi chúng tôi tới được nơi đó. Ít ra
thì ngài muốn biết chút tin tức về người ấy chứ?”.

- 217 -
NHẬT PHI

“À, ngài không phải nói gì cả đâu! Dù thế nào thì chúng tôi
cũng sẽ đi tới đó mà. Đường đi đã mở ra rồi”.
Makoto đứng dậy trước tiên, cô bé đẩy chai rượu lại bên cạnh
Gin, mỉm cười.
“Con cảm ơn ông”.
“Vì điều gì, cô bé?”.
“Vì đã để chúng con ở lại đây và khám phá”.
“Hành lang Ghi nhớ không ngăn trở ai tới, cũng không níu giữ
ai đi cả. Chừng nào thấy khám phá đã đủ, các người cứ việc đi”.
Tôi ngờ rằng Gin đã không thật lòng khi nói điều đó, nhưng
cũng chẳng có gì quan trọng. Rồi tới lượt tôi đứng dậy. Không có ly
rượu nào được nâng lên thay lời tiễn biệt cả. Chúng tôi đi. Được vài
bước, tôi đứng lại, để Makoto vượt lên trước mình.
“Cảm ơn ngài”.
“Vì điều gì?”.
“Vì thứ này”.
Tôi xòe lòng bàn tay, cho ông thấy chiếc chìa khóa bạc trên đó,
và lần đầu tiên, Gin mỉm cười. Nụ cười thông tuệ gạt đi hết mọi vẻ
say sưa mê mải, một câu nói đủ để tôi hiểu ông và ông hiểu tôi.
“Người trăm năm đi tìm chìa khóa…
Cửa muôn đời vẫn mở đấy thôi”.
Tôi tiếp lời. “Tạm biệt, Gingawa. Tạm biệt, Hành lang Ghi nhớ”.

Hành lang Ghi nhớ vẫn im lìm như thế, ẩn giấu vô vàn miền
không gian đằng sau những cánh cửa lem màu, khi chúng tôi bước
dọc theo đó một lần sau cuối. Hành lang vẫn vậy, như khi tôi tỉnh dậy
ở đây lần đầu tiên, nhưng đồng thời cũng không còn gì như cũ cả. Ý
nghĩa của những mảng màu, bí mật sau từng ô cửa và hiểu biết của
tôi về chính nơi đây. Bước ra khỏi đây, chúng tôi sẽ là một Rei khác,

- 218 -
Thị trấn mùa đông
một Makoto khác. Dãy hành lang, dù ngắn hay dài, cũng đã là một
hành trình.
“Rei này”, Makoto lên tiếng, khi chúng tôi đi ngang qua dòng
chữ trong lời bài hát của mẹ cô bé, “anh đã biết từ khi nào thế?”.
“Anh không chắc nữa”, tôi đáp. “Anh nghĩ anh đã có một hoài
nghi, có thể từ trước cả khi chúng ta tới được đây.
“Em biết không, Makoto, với mỗi bước đi trong đời chúng ta
đều có thể nhặt được một mảnh ghép để đặt lên tấm màn hoài nghi
của mình. Khi đã nhặt đủ, chúng ta sẽ có một bức tranh làm câu trả
lời cho mình. Nói cách khác, câu trả lời sẽ giúp chúng ta nhìn rõ được
bức tranh đó. Nhưng bức tranh thực sự có thể lớn hơn rất nhiều. Đó
là lí do chúng ta cần phải tiếp tục đi”.
“Chúng ta sẽ đi tới chừng nào hả anh?”.
“Tới khi nào chúng ta chấp nhận câu trả lời mà mình có, và bức
tranh khi đó sẽ trở thành toàn cảnh đối với riêng chúng ta. Sau cùng
thì thế giới cũng chỉ là phản ảnh của chính nhận thức của chúng ta
thôi mà”.
“Hành lang Ghi nhớ cũng vậy, ý anh là thế phải không?”.
“Phải đấy”, tôi mỉm cười, vỗ nhẹ lên mái đầu trần của Makoto,
“cửa sẽ mở ra khi chúng ta biết mình muốn đi tới đâu”.
“Cửa sẽ mở ra với cả em nữa chứ?”.
“Chắc chắn rồi, Makoto. Em cũng đã biết mà”.
Chúng tôi đã tới cuối hành lang, nơi cánh cửa trắng đang chờ
đợi. Đúng vậy, tôi biết, như thể tôi đã luôn biết, rằng cánh cửa không
khóa này sẽ đáp lại lời kêu gọi của tôi, một khi tôi đã biết mình cần
đòi hỏi điều gì. Đây không phải là một giấc mơ hoang đường. Bàn tay
tôi đặt lên tay nắm cửa.
“Điều gì sẽ chờ đợi chúng ta sau cánh cửa này?”.
Makoto hỏi, cao giọng hơn bình thường một chút, câu hỏi tôi

- 219 -
NHẬT PHI

biết không phải dành cho mình. Rồi tay cô bé cũng đặt lên tay nắm
cửa, bao ra ngoài bàn tay tôi. Tay nắm cửa xoay nhẹ khi chúng tôi
cùng nhau ấn xuống. Vì lẽ nào đó, tay Makoto níu lấy tay tôi, giữ cho
cánh cửa chưa vội mở ra.
“Em muốn nói gì đó không, Makoto?”.
“Vâng…”. Makoto nghiêng nghiêng đầu, rồi vẫn giữ bàn tay
trên tay nắm cửa, cô bé xoay lại với dải hành lang dài đằng sau hun
hút sâu. “Hành lang Ghi nhớ này, cảm ơn bạn, mình đã học được rất
nhiều. Mình có cảm giác mình đã lớn lên, lần đầu tiên kể từ khi mình
không còn ở bên mẹ. Bạn vẫn còn giữ ở đây rất nhiều điều mình chưa
biết. Nếu có thể, mình sẽ quay lại đây để học được nhiều hơn nữa.
Nhưng bây giờ thì mình phải đi rồi, vì mình có nhiều hơn một lời
hứa cần thực hiện.
“Tạm biệt, Hành lang Ghi nhớ”.

- 220 -
2

Thành phố Thủy tinh


NHẬT PHI

“A nh tin hay không thì tuỳ, nhưng tủ lạnh đã nói dối đấy…”.
Đó là lời của con thằn lằn, một điều tôi chắc chắn, dù
rằng tôi không thực sự nhìn thấy nó. “Không, không phải về chuyện
nó đã bị tống xuống đây như thế nào. Con người ta có xu hướng
thành thật khi nói về bi kịch của riêng bản thân mình. À, tủ lạnh thì
không phải là người, nhưng cũng không khác nhiều lắm”.
Con thằn lằn ngưng lại, tặc lưỡi nhiều lần, chừng như hối thúc
tôi phản hồi gì đó. Nó ý thức được rõ ràng mình đang nói chuyện với
ai, còn tôi thì không. Nhưng tôi sẽ không nghĩ về điều đó nữa, ít ra
thì tôi cũng đang có ai đó để mà nói chuyện, khi mà bóng tối là tất
cả chung quanh. Tôi hắng giọng, để cho thằn lằn biết rằng mình vẫn
đang lắng nghe và sẵn sàng lên tiếng khi có thể.
“Nhưng nó đã nói dối về những người khác, những người cũng
đã đi dưới đường cống ngầm này để thực hiện nhiệm vụ của họ.
Anh nhớ chứ? Nó đã nói rằng không ai trong số họ quay trở lại, phải
không? Nhưng đó chỉ là một nửa sự thật, tức là không hơn gì một lời
nói dối. Để tôi nói anh nghe sự thật. Sự thật là chẳng có ai quay trở
lại đây cả, đơn giản vì đã chẳng có ai đi qua đây hết. Con người kia
là kẻ đầu tiên và duy nhất mang theo nhiệm vụ xuống đường cống
ngầm này”.
“Sao cậu biết điều đó?”.
“Tôi đã ở đây từ rất lâu trước khi cái tủ lạnh bị tống xuống đây.
Thậm chí trước cả khi đường cống này được xây dựng. Tôi là chủ
nhân của bóng tối lòng đất, anh cũng có thể nói tôi chính là bản thể
của lòng đất. Không có điều gì xảy ra ở chốn này mà tôi lại không
biết cả”.

- 222 -
Thị trấn mùa đông
“Cứ cho là cậu đúng đi, thì tại sao cái tủ lạnh lại nói dối một
điều như vậy? Tôi không thấy một động cơ nào cho việc đó cả”.
“Đúng vậy, tủ lạnh đã bị tống xuống dưới cống đủ lâu để tất cả
mọi động cơ của nó đều đã trở nên vô dụng rồi. Vả lại, ai mà hiểu
được cái gì diễn ra trong đầu một cái tủ lạnh bỏ đi kia chứ? Nhưng tôi
nghĩ nó đã muốn giữ anh ta lại đây, dù chỉ trong chốc lát, bằng cách
đe dọa anh ta về thứ mà nó cũng chưa từng biết”.
“Vậy tại sao nó lại muốn giữ anh ta lại?”.
“Ai mà biết. Có lẽ nó cô đơn và muốn có ai đó để nói chuyện.
Nó muốn có ai đó lắng nghe nó và cho nó lắng nghe điều gì đó. Tủ
lạnh tội nghiệp…”.
Khó mà nghe ra được sự cảm thông trong giọng nói thủng
thẳng, điềm nhiên của con thằn lằn, chưa kể những tiếng tặc lưỡi cứ
đều đều như làm nền, như giữ nhịp. Tôi hỏi, để cho nó một cơ hội
thanh minh.
“Còn cậu? Cậu vẫn luôn ở đó, dưới cống ngầm, cùng với tủ lạnh
kia mà?”.
“Tới đó thì anh lại nhầm lẫn rồi đấy. Điều gì khiến anh nghĩ tôi
có thể giao tiếp gì đó với cái tủ lạnh chứ hả? Tôi, một con thằn lằn! Gì
thì gì, dù tôi có muốn đến mức nào, tôi và tủ lạnh vẫn cứ chỉ là hai kẻ
xa lạ tình cờ ở trong cùng một bóng tối. Tôi và nó khác nhau”.
“Cậu biết gì không, thằn lằn”, tôi mỉm cười, và màn đêm khẽ
xao động, đủ để cho con thằn lằn biết điều đó. “Cậu và nó rất giống
nhau đấy”.
Con thằn lằn không đáp. Và Makoto gọi tôi. Cô bé đang lay khá
mạnh vai tôi, nếu như tôi không nhầm.
“Này, Rei, anh ngủ như thế còn chưa đủ hay sao?”.
Cả bóng tối lẫn con thằn lằn tức khắc bị chiếm chỗ bởi ánh đèn
pin trên tay Makoto rọi thẳng vào mắt tôi. Khi đã vượt qua được cơn
chói lóa đột ngột, tôi thấy Makoto đang chun mũi vẻ dỗi dằn.

- 223 -
NHẬT PHI

“Em đã chẳng ngủ một chút nào trong suốt thời gian ở đó, còn
anh thì chẳng mấy khi tỉnh cả. Vậy mà giờ anh lại là người ngủ tiếp
sao, Rei?”.
“Ở đó đâu có thời gian hả Makoto?”. Tôi cười khi chống tay lên
gối đứng dậy. “Còn ở đây thì có”.
Makoto lè lưỡi rồi buông ánh đèn pin ra khỏi tôi, kết thúc màn
trừng phạt nho nhỏ của cô bé. Ánh đèn hắt dọc theo đường cống
ngầm, trước khi bị màn đêm nuốt mất.

- 224 -
Thị trấn mùa đông

ĐƯỜNG CỐNG NGẦM

M ột dải cầu thang bằng sắt mỏng đen bóng xoắn chúng
tôi xuống khối đêm đặc của những mỏi mệt và đói khát,
những nhọc nhằn và ấm ức. Những cảm giác như chực chờ chúng
tôi trong màn đêm, hổn hển hơi thở thèm khát của riêng chúng, rền
vang những âm thanh chỉ nghe được khi dìm mình trong bể tối này.
Kẽo kẹt từng bước chân của chúng tôi.
Đây có phải chính là con đường kẻ kia đã đi qua để tới Thị trấn
Mùa đông? Là đường cống ngầm đã được nhắc tới trong truyện kể
ngày oanh kích? Makoto có thể không biết về kẻ kia, nhưng tôi biết
cô bé cũng đang nhớ tới chương truyện trong đêm ấy. Ánh đèn pin
trên tay cô bé chốc chốc lại quét xuống mép nước, lần tìm. Tới một
lúc, vẫn với ánh đèn đã lạc ra khỏi lối đi hẹp và chúng tôi đang bước
theo dư ảnh của nó, Makoto hỏi tôi.
“Tới được Thành phố Thủy tinh rồi mình sẽ làm gì hả anh?”.
“Anh cũng chưa biết được”, tôi thành thật. “Nhưng cũng giống
như cánh cửa dẫn xuống đường cống ngầm này đã mở ra với chúng ta,
anh tin rằng bức tranh sẽ tự nó hiện lên khi mình thu nhặt đủ những
mảnh ghép. Sẽ có con đường khi mình muốn tìm, phải vậy không?”.
Khi nói điều đó, tôi đã không thể nghĩ được những gì có thể xảy
ra với cả hai chúng tôi tại thành phố ấy.
Makoto trượt ánh đèn trở lại lối đi. Từ nãy tới giờ, Makoto luôn
đi trước tôi, xăng xái dẫn đường. Nhưng lúc này, tôi đã dần bắt kịp cô

- 225 -
NHẬT PHI

bé. Lạc trong nghĩ suy, tôi vượt qua cô bé khi nào không biết. Makoto
lên tiếng khi tôi vừa bước vào tâm điểm của vòng sáng trắng.
“Nhưng Thành phố Thủy tinh có giống Hành lang Ghi nhớ
đâu, phải không anh?”.
Tôi không đáp. Không phải chỉ vì nghe miệng mình khô khốc
và tâm trí mình dường đang loãng ra. Một ngọn đèn pin là đủ để dẫn
chúng tôi đi trên con đường độc đạo, nhưng một chiếc chìa khóa
bạc thì không bao giờ có thể cho tôi biết về thời điểm để tra nó vào ổ
khóa. Bên ngoài màn đêm này có thể là cái gì đó còn bí ẩn hơn nữa.
Con thằn lằn lại thủng thẳng tặc lưỡi, nhưng tôi biết chẳng phải là nó
đang cố gắng nói gì với mình. Thằn lằn thì tặc lưỡi, đơn giản thế thôi.
Cũng như dưới cống ngầm thì phải tối vậy.
Và rất nhanh, ánh đèn của chúng tôi yếu dần, vòng sáng bao
quanh tôi nhạt nhòa rồi lịm tắt. Giờ đây, lại là đen thẳm. Cả tôi và
Makoto cùng đứng sững lại, im lặng, như thể bị bắt quả tang xâm
phạm một miền riêng tư nào. Trong bóng tối, chúng tôi nghe rõ mồn
một tiếng nước nhỏ giọt từ trần vòm xuống dòng nước cống. Rồi tôi
nghe Makoto hít vào một hơi dài, dè dặt trước khi khẽ khọt lên tiếng.
“Anh còn ở đó không Rei?”.
“Anh ở đây”, tôi đáp, hạ giọng thật thấp như cô bé. “Đèn hết
pin, thế thôi”.
Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi thấy Makoto đang mỉm cười
thú vị, cây đèn pin đung đưa trên một tay.
“Em cứ nghĩ mãi, Rei ạ. Em đã học được tới mức đọc thông viết
thạo ở trên sa mạc, trong khi luôn luôn quên đi những gì Ionah dạy
mỗi khi đi ngủ. Củ cải đỏ và bánh mì đen thì luôn có sẵn ở đó cho
chúng ta sau một đêm, thế mà giờ đèn lại hết pin. Em không biết lần
tới khi có dịp, em có dám ngủ hay không nữa”.
“Chúng ta đang đi tìm câu trả lời cho chính điều đó đấy, Makoto ạ”.

- 226 -
Thị trấn mùa đông
Chúng tôi nép mình vào thành đường cống ngầm, lần mò
từng bước đi. Tôi có cảm giác, với việc mắt mình đã nhìn lại được,
chúng tôi đã đạt được một thỏa hiệp nào đó với bóng tối. Các người
có quyền đi tiếp, các người có quyền nói và cười. Và hát, đó là việc
Makoto đang làm.
“Mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời…”. Giọng
cô bé ngân nga khe khẽ, nhưng cũng đủ để giội lên vòm mái, giội
ngược trở lại, tạo thành một giọng ca trầm, rè và đặc biệt gai góc như
vào bè cùng cô bé. Lời hát nhắc cho tôi rằng chúng tôi đã có những
hành trình dưới lòng đất cả từ Thị trấn Mùa đông tới Hành lang Ghi
nhớ và từ Hành lang Ghi nhớ tới Thành phố Thủy tinh. Những bước
chân khuất nẻo mặt trời.
“Anh nghe thấy gì không, Rei?”. Makoto chợt ngừng hát, cô bé
khum tay bên tai, nghiêng đầu về phía trước.
Đó là tiếng nước rơi, không phải là tí tách như những giọt nước
đọng trên trần cống đã đệm phách cho chúng tôi từ trước tới giờ, mà
là một loạt âm thanh xối xả, vỡ tan trên nền đá, một dòng nước từ đâu
đó đang tràn xuống qua một cửa thoát trên nóc hầm. Makoto hẳn đang
nghĩ giống tôi, đó cũng chính là cửa thoát cho chính chúng tôi.
Tiếng nước xối ở phía trước không xa chúng tôi, và qua một
khúc quanh, chúng tôi thậm chí còn thấy được một khoảnh sáng nhỏ
dưới nền đá, vặn vẹo không ngừng khi nước lao xuyên qua cửa thoát.
Một lần nữa, nước có vẻ rất trong so với một mạch ngầm. Makoto bật
ra một tiếng kêu nghèn nghẹn. Cô bé loạng choạng bước tới, gần như
đã đổ mình vào tôi. Để cô bé vịn tay lên vai mình, tôi cũng không
chắc mình có thể đứng vững nữa. Tưởng như chúng tôi đã trải qua
hàng trăm năm dưới hai hầm ngầm và một hành lang không có nắng
để tới đây, để nhìn ra ánh sáng của Thành phố Thủy tinh, nơi chúng
tôi cần đến.

- 227 -
NHẬT PHI

Như mời như gọi, dòng thác nhỏ thoáng chốc đã suy biến
thành một làn nước mỏng lăn trên thành cống khi chúng tôi lại gần.
Khoảng sáng tựu hình thành một hình lưỡi liềm trắng trơ trọi dưới
chân chúng tôi, một thứ ánh sáng phản tự nhiên kỳ lạ. Nhưng đối với
tôi lúc này, điều đó chỉ có nghĩa là chúng tôi đã thực sự ở dưới nền
đất của Thành phố Thủy tinh rồi.
Đó không phải một cửa thoát nước bình thường, mà là một cái
lỗ trên mé trần cống ở độ cao cách đầu chúng tôi một khoảng ngắn,
với bề rộng đủ cho một người chui qua, nham nhở như bị đục khoét
thô bạo. Chúng tôi thậm chí còn không phải nghĩ xem mình sẽ phải
leo lên cái lỗ đó như thế nào, bởi lẽ, ở đó, vắt vẻo sát mặt nền là một
dải thang dây, ướt nhẹp, nhưng chắc chắn. Tất cả như để chuẩn bị cho
sự xuất hiện và thâm nhập của chúng tôi. Trong giây lát, tôi gần như
tin chắc rằng cả thế giới đang tạo điều kiện để tôi tìm tới vận mệnh
của mình.
Mặc cho toàn thân đang run lên vì phấn khích cũng như kiệt
sức, mặc cho sự dễ dàng quái gở mà nhận thức tôi đã cố tình bỏ qua
lúc ấy, tôi tiến tới, và bắt đầu đu mình lên thang. Cơn hưng cảm đến
tự mãn dường đang tiếp sức cho tôi, tôi leo hết một nửa chiều dài
thang không chút khó khăn. Từ miệng cửa thoát lên tới mặt đất chỉ
còn một đoạn ngắn. Mắt tôi phải nheo lại khi đối diện với nguồn
sáng qua miệng lỗ, một nguồn sáng trắng, lửng lơ trên cao, như một
mặt trời nhỏ hay một mặt trăng cực lớn. Và giọng Makoto vọng lên
từ dưới cống ngầm.
“Rei này, anh có thấy lạ không?”.
Chân tôi bước hụt nấc thang kế tiếp, và bụng dưới tôi thót lên
một cái. Niềm phấn khích rớt xuống suýt chút nữa đã kéo cả tôi tụt
theo. Nguồn sáng chói lóa kia là thứ đã giữ tôi lại.
“Anh ấy đã phải bơi qua dòng nước để tìm được điểm leo lên”,

- 228 -
Thị trấn mùa đông
Makoto nói tiếp, không để ý tới sự hụt hẫng của tôi. “Nhưng từ lúc
xuống đây tới giờ chúng mình chỉ đi men một bên bờ”.
“Đó chỉ là một câu chuyện thôi, Makoto”, giọng tôi kìm nén.
“Một câu chuyện hư cấu. Em không nghĩ nó là chỉ dẫn du hành cho
chúng ta đấy chứ?”.
“Không”, cô bé ngập ngừng, “nhưng em thấy lạ. Cả việc có một
miệng lỗ thoát được đào và cả thang dây bày sẵn nữa. Nó quá là…
tiện lợi, anh nghĩ thế không?”.
“Và tại sao nó lại không thể tiện lợi chứ?”. Tôi gắt, không nghĩ
rằng chút sức lực cuối của mình lại dành để tranh luận với chính
người bạn đồng hành. “Đã có người đi từ đây sang đó, và tạo ra một
con đường cho chúng ta đi từ đó sang đây. Thế thôi”.
“Anh có nhớ Sofia đã nói gì trước khi chúng ta đi không?”.
“Sofia đã ở lại Thị trấn Mùa đông rồi, Makoto. Trước mặt chúng
ta đã là Thành phố Thủy tinh”.
Tôi bặm môi đu lên nốt mấy bậc thang cuối, trong khi Makoto
vừa thở dài. Cô bé hình như đã bắt đầu đặt tay lên thang.
“Em chỉ mong là anh đúng”.

- 229 -
NHẬT PHI

ĐIỀU THỰC SỰ ĐÃ XẢY RA VỚI ĐÀN CHIM

G iờ thì tôi ước mình đã nghe lời cảnh báo của Makoto. Nếu
như đó là cách thế giới dẫn tôi tới với vận mệnh của mình,
thì quả thực thế giới này vẫn chưa bao giờ thôi tàn nhẫn. Hoặc chỉ
đơn giản là tôi đã chọn sai lối đi trên con đường độc đạo, và mãi mãi
trôi lệch khỏi đích đến của mình. Nhưng đó không phải là chuyện tôi
có tới được đó hay không nữa rồi. Nỗi đau đớn và dằn vặt của tôi còn
lớn hơn thế. Tôi đã phản bội niềm tin của tất cả, Thị trấn Mùa đông,
bà Astrid, Ionah, và hơn hết, Makoto, người bạn đồng hành của tôi.
Ngay khi chưa thể giúp được ai.

Chúng tôi thực sự đã tới được Thành phố Thủy tinh. Tôi nhận
ra điều đó khi chui lên khỏi miệng hố và đối mặt với nguồn sáng trên
đầu mình. Đó là ngọn đèn trên đỉnh một cột đèn cao, kiên định soi
sáng con đường nhỏ chạy ngang qua trước mặt chúng tôi, như muốn
thách thức cả màn đêm. Con đường nhỏ nơi chúng tôi đang đứng
chạy ngang qua hông của hai tòa nhà lớn, rất lớn, với những bức
tường dựng bằng một thứ vật liệu nửa đục nửa trong, phản chiếu ánh
đèn, và cùng lúc cho chúng tôi nhìn thấy chính mình, dường như lần
đầu tiên từ khi biết nhớ. Thủy tinh.
Tôi, và hẳn là cả Makoto, chìm trong một ấn tượng choáng
ngợp. Đến mức cả một quãng dài chúng tôi không nói gì với nhau,
chỉ lặng người, hết nhìn sự ngơ ngẩn của chính mình in trên tường

- 230 -
Thị trấn mùa đông
lại quét mắt tới từng góc cạnh của tòa nhà đối diện. Tưởng như chưa
khi nào chúng tôi lại phải ngước lên nhiều đến thế để nhìn một vật
thể đứng trên mặt đất. Xa hơn nữa, về phía con đường nhỏ mở ra,
chúng tôi thấy nhiều hơn nữa những tòa nhà thủy tinh như thế, cao
hơn có, thấp hơn có, và vô số những cột đèn sáng chói lóa. Nơi này
không có màn đêm, và không một bóng người. Ở phía ngược lại, con
đường bị chặn bởi một mặt tường khác. Chẳng ai bao ai, chúng tôi
lê bước về phía đó rồi ngồi xuống, tựa lưng vào bức tường thủy tinh.
Tôi muốn nói gì đó với Makoto, chia sẻ với cô bé ấn tượng của
mình, nhưng rồi nhận ra đầu mình trống rỗng. Tôi quay sang, thấy
cô bé gật đầu và mỉm cười, nhẹ nhõm và mệt mỏi. Không cừu, không
quạ, không cú, tôi thiếp đi.

Trời đã sáng khi tôi thức dậy, mặt trời đã xuất hiện, thay ca cho
những cột đèn đường, ở một góc tương đương. Vì lẽ nào đó, tôi bỗng
cảm thấy an tâm khi mặt trời vẫn tồn tại ở thành phố này, phân tách
ngày và đêm. Và mặt trời không phải là thứ duy nhất xuất hiện vào
ban ngày. Cả thành phố đã thức dậy, khuấy lên một bầu không gian
ồn ã, náo hoạt. Người và xe hối hả chạy ngang qua con đường lớn
ngoài kia, trôi qua tầm nhìn mắt tôi, bị giới hạn bởi hai tòa nhà lớn
kia, như qua một mặt cắt. Những cỗ xe bốn bánh và những bộ trang
phục nhiều màu lấp loáng trên mặt kính đang phản chiếu chính nhịp
sống này. Họ không dừng lại để ghé mắt vào con đường nhỏ nơi
chúng tôi đang ngồi. Họ vội vàng, có lẽ. Cũng chẳng phải là họ đã bỏ
qua điều gì, tôi nghĩ vậy.
“Chào buổi sáng, Rei”, Makoto rủ rỉ đầy hào hứng, một giấc
ngủ kịp lúc đã trả lại cho chúng tôi một chút năng lượng. “Xin chào,
Thành phố Thủy tinh”.
“Chào Makoto”, tôi đáp, bông lơn, “thay mặt Thành phố Thủy tinh”.

- 231 -
NHẬT PHI

“Không cần đâu anh”, cô bé cười, chỉ tay về phía đường lớn,
“thành phố này đang chào mừng chúng ta kia kìa”.
Tôi nhìn theo ngón tay cô bé, và không kìm được một tiếng kêu
thích thú khi nhận ra từ phía ấy, bầy chim đang vỗ cánh trôi lại gần
chúng tôi. Chúng đậu lại trên một thân cây rất cao, gần như trụi lá
mà tôi đã không để ý thấy vào đêm trước. Những con chim lông xám
với cái cổ xanh rêu. Những con chim sẽ hòa vào một đàn lớn hơn tìm
sang Thị trấn Mùa đông vào buổi chiều.
“Này, anh có nghĩ mình có thể nhờ chúng chuyển lời gì đó cho
Ionah không?”.
“Một ý hay đấy”. Tôi bật cười. “Anh sẽ chọn một anh bạn đẹp
mã để Ionah có thể nhận ra”.
Và tôi đã làm như thế, dõi mắt lên từng chú chim đang chia
nhau chỗ đậu trên những cành cây khẳng khiu, xuyên qua những
tiếng gù trầm và dày, cố gắng tìm lấy một cá thể khác biệt và hy vọng
rằng nó có thể mang về Thị trấn Mùa đông một chút ánh mắt yêu
thương của tôi dành cho nàng. Rồi tôi tìm thấy thật, một khoang tím
trên cái cổ xanh mập ú của một con trong bầy chim trên cành. Nó,
cũng như chúng bạn, đang gật gù một vẻ vô vi, hồ như muốn rũ khỏi
tai những tạp âm của thành phố, một điều khiến tôi gặp ít nhiều khó
khăn trong việc định vị nó.
Tôi đột nhiên nảy sinh một tình cảm gần như yêu mến với cá
biệt chú chim này khi nó bất ngờ xoay cổ về phía tôi, như muốn
đáp lại cái nhìn của tôi. Tôi có cảm giác nó đang thực sự nhìn thẳng
vào tôi, và lạ lùng thay, trong cái nhìn ngỡ như tình cờ ngỡ như vô
thưởng phạt ấy, tôi lại nghe ra điều gì đó như van lơn, như cầu cứu.
Tôi không thể biết được tâm trí mình đã ghi nhận cái gì trước,
thứ âm thanh đanh gọn như một lát cắt rất mỏng của cuộc oanh kích
ngày nào hay hình ảnh người bạn có cánh của tôi bắt đầu lìa khỏi

- 232 -
Thị trấn mùa đông
cành cây, rớt thẳng xuống đất như một trái sung rụng. Nhưng tôi biết
mình nhận ra cái gì ở giây tiếp theo - một tràng cười. Tiếng cười hỗn
độn giọng, trẻ trung, sung sướng một cách man rợ.
Phần còn lại của bầy chim thoáng chốc đã biến mất nơi thân
cây trong cơn hoảng loạn, và Makoto đã đứng bật dậy khỏi góc tường.
Tôi lao theo cô bé, về phía đầu kia của con đường, nơi bốn gã thanh
niên đang vừa cười vừa chầm chậm tiến về nơi con chim xấu số đang
run rẩy những nhịp cuối. Một khẩu súng dài đen hãy còn bốc khói
trên tay gã trai đi đầu. Mối ưu tư của cô bé trong những buổi chiều
đã không sai. Số lượng chim trong đàn đã giảm đi, và những kẻ kia
phải chịu trách nhiệm cho điều đó. Tôi nghe lòng mình sôi lên với
cơn giận hơn khi nào hết. Và tôi biết Makoto còn căm phẫn hơn
nhiều lần.
Toán thanh niên hãy còn cười cợt khi đứng trước xác con chim,
máu đã ngừng chảy từ miệng vết thương mới khi nãy còn là khoang
cổ tím đã thu hút sự chú ý của tôi. Cả bốn gã đều còn rất trẻ, bốn
gương mặt búng ra sữa sáng rỡ một niềm thích thú thuần tuý khi gã
đi đầu lấy chân gẩy gẩy xác con chim, như đứa trẻ con được nhận
kẹo. Vẻ hồn nhiên lạ lùng ấy khiến tôi bất giác chùn lại.
Nhưng Makoto thì không. Cô tới trước mặt gã trai, và không hề
ghìm đà, tống vào mặt gã một cú đấm mạnh khó ngờ. Sức mạnh từ
cú đấm của Makoto đẩy gã loạng choạng giật lùi, xô nghiêng cả mấy
gã còn lại. Khi bốn thân người đổ vào nhau, tôi mới chợt nhận ra tất
cả bọn chúng đều đang khoác áo gió màu xám. Nhất thời, cả bốn gã
thanh niên đều đang co rúm mình sợ hãi. Makoto đứng trước bọn
chúng, hiên ngang như một nữ chiến binh, dù đôi vai cô bé vẫn còn
run lên vì kích động.
Khi đã định thần lại và nhận ra kẻ vừa tấn công mình chỉ là
một cô gái nhỏ nhắn, bốn gã thanh niên lại tiếp tục cười, như thể thứ

- 233 -
NHẬT PHI

chúng vừa nhận được chỉ là một trò đùa xỏ vô hại. Chúng nói gì đó
với nhau, trước khi đồng loạt tiến về phía Makoto. Đó là lúc tôi lao
tới chắn giữa cô bé và bốn gã thanh niên.
“Bọn khốn”. Tiếng Makoto vang lên sau lưng tôi, giọng cô bé
như muốn vỡ ra.
“Lùi lại đi, Makoto”. Tôi nói, chuẩn bị cho điều tệ nhất. “Dù thế
nào cũng đừng nhảy vào”.
“Nhưng…”.
“Không nhưng gì cả…”. Tôi gằn, giọng khô khốc, trong đầu chỉ
nghĩ tới việc che chắn cho cô bé. Mồ hôi bắt đầu rịn ra nơi chân tóc
mang tai tôi.
Bốn gã người xám trẻ tỏ ra giật mình trong một giây, rồi chừng
như chúng nhận ra tất cả những gì tôi định làm và có thể làm là đứng
đó, hai tay dang rộng, chúng bắt đầu quay sang trao đổi với nhau
bằng cùng một thứ giọng nhừa nhựa. Ngay cả khi đang căng thẳng
tột độ, tôi vẫn mang máng nhận ra chúng đang nói với nhau bằng
thứ ngôn ngữ tôi có thể nghe được. Nghe được, nhưng không hiểu.
Loáng thoáng lọt vào tai tôi một vài từ lặp đi lặp lại, “cá hồi”, rồi lại
“cá hồi”…
Thoạt tiên, tôi bị thúc vào bụng bằng báng súng. Tôi gập người,
chỉ kịp ném lại phía sau cho Makoto một ánh mắt can ngăn. Rồi là
đấm, là đá, là chỏ, là gối. Tôi khuỵu xuống, thu tay che mặt, nghe hai
cánh tay ướt nhớt những nước rồi máu. Makoto đang kêu cứu. Qua
kẽ hở giữa hai tay, qua những cái cẳng chân đang không ngừng đạp
xuống, tôi thấy mặt cắt con đường lớn, nơi những người những xe
vẫn cứ ồ ạt lướt qua. Tôi quá choáng váng để nhận ra họ có giây nào
ngoái nhìn vào khoảng trống hai tòa nhà này hay không, sau ngần ấy
kêu gọi của Makoto. Nếu như trận đòn này là đủ để cả hai chúng tôi
có thể ra khỏi đây, thế cũng được.

- 234 -
Thị trấn mùa đông
Và rồi, một lần nữa, tôi nghe trên đầu mình mang lên tiếng quạ,
như tiếng quạ xoay vần tôi dưới chân núi tuyết, như tiếng quạ đánh
thức ý chí tôi ngày phán quyết nọ, như tiếng quạ trong lòng hầm.
Nhưng khác với tất cả, lần đầu tiên, tôi cảm thấy tiếng quạ này thật
đến thế, rung trong ổ tai tôi. Những cú đạp chậm và thưa dần khi tôi
đã không còn có thể mở mắt ra nhìn thấy gì được nữa.
Hình như có tiếng vỗ cánh rất gần.
Hình như tôi lại ngất đi mất rồi.

- 235 -
NHẬT PHI

CÁ HỒI

“C á hồi sinh trưởng tại các dòng sông nước ngọt trong
rừng rồi theo dòng nước di cư ra biển, trở thành một
loài cá nước mặn. Tới kỳ sinh sản, cũng là cuối vòng đời, chúng lại
ngược dòng trở lại khúc sông nơi chúng đã sinh ra để thực hiện sứ
mệnh cuối cùng của mình là đẻ trứng, rồi chết”.
Con bọ đen khổng lồ, hình như là một con gián, đang ngồi bên
một cái bàn gỗ nhỏ rất cũ, một cuốn sách dày chữ mở trước mặt. Cái
lưng đen bóng nhẫy của nó cong một cách đầy hợp lí trên cái ghế gỗ
có tựa cùng một bộ với bàn. Hai hàng giá sách chạy dài hai bên bàn,
được lấp đầy bởi vô số những gáy sách đủ loại và kích cỡ. Con gián
chừng như vẫn đang chú mục vào cuốn sách trước mặt trong khi nói
với tôi bằng một giọng chiêm nghiệm rất người.
“Trên hành trình hành hương ngược sông đó, đàn cá hồi sẽ phải
thực hiện nhiều những bước nhảy vượt thác. Từ chân thác, chúng
quẫy đuôi cực mạnh, tăng tốc và tung mình lên độ cao gấp nhiều lần
chiều dài cơ thể chúng. Đó là một hành trình gian nan, không phải
con cá hồi nào cũng có thể đi được về tới đích. Kiệt sức, sự thay đổi
môi trường hay những kẻ thù tự nhiên như gấu, chim bói cá là những
thứ cản trở đàn cá hồi. Và chính số lượng lớn, chứ không phải điều
gì khác, đã bảo vệ được nguồn trứng quý giá mang ý nghĩa sống còn
cho sự ra đời của thế hệ cá hồi kế tiếp”.
Bộ bàn ghế chốc chốc lại oằn oài cọt kẹt trong khi con gián

- 236 -
Thị trấn mùa đông
nói, đó có lẽ là những lúc nó cựa mình hay đung đưa mấy cái chân
khẳng khiu. Tôi có cảm giác nó vẫn còn đang ở một phần dẫn nhập
nào đó thôi.
“Vì tập quán phức tạp và nỗ lực to lớn đến thế, cá hồi thường
được coi như một loài động vật gan dạ, mạnh mẽ và ưa thử thách.
Có thể nói phản kháng là phẩm chất nằm trong máu thịt của chúng,
những kẻ ưa ngược dòng.
“Dần dần, cá hồi trở thành một từ để chỉ những hành động, sự
việc hay con người mang những tính chất ấy. Thách thức, chống chọi,
phản kháng, không chịu đầu hàng trước nghịch cảnh. Hoặc đôi khi,
đơn giản chỉ là một hành động đáp trả sự khiêu khích”.
“Thì ra là vậy”, cuối cùng, tôi đáp. Tôi đang trò chuyện với một
con gián khổng lồ, đúng hơn là nghe nó nói, trong một nơi giống như
một đại thư viện cổ xưa. Tôi còn có thể nói được gì nữa đây? Và con
gián nói tiếp, một lần nữa chứng tỏ rằng tôi vẫn được biết tới.
“Và còn vô số những từ ngữ tương tự nữa. Có thể cậu chưa biết,
Rei ạ, nhưng ở đây là như thế, với những ngôn từ được cải biên, vặn
xoắn, cào bằng hay hợp nhất, mà chẳng ai thực sự hiểu chúng từ đâu
ra. Những kẻ nói về cá hồi lại là những kẻ chưa bao giờ biết tới dòng
sông hay biển cả. Họ nghĩ về mặt trời cũng chỉ như một tia sáng đèn
xuyên qua một cái hố đào xuống lòng cống ngầm”.
“Tại sao ông lại nói với tôi điều này?”.
“Chỉ là một chút chia sẻ của một con mọt sách thôi, Rei à. À,
hẳn là cậu sẽ nhìn tôi như một con gián”.
Cọt kẹt, cái ghế đang cười đấy ư?
“Đây là đâu? Nơi ông nói tới là nơi nào?”.
“Cậu vẫn luôn biết mà, phải không?”. Con gián hỏi ngược lại
tôi, như thể nó vẫn đang chờ tôi đưa ra một câu hỏi hợp ý.
“Tên ông là gì?”.

- 237 -
NHẬT PHI

“À, vậy đấy”, con gián đáp với vẻ thích thú, “một con bọ đen vô
danh có lẽ không phải là một ý hay. Tôi có thể là R.B., tôi cũng có thể
là Rogerg Asmas, mà tôi cũng có thể là Pal”.
“Ông không thể là cả ba người cùng một lúc được”.
“À, vậy đấy. Cậu nghĩ tôi đang “cá hồi”1, tôi thì lại nghĩ cậu mới
đang “cá hồi…”.

- 238 -
Thị trấn mùa đông

HỘP NHẠC

T ôi tỉnh dậy giữa một miền không gian trắng xóa, vây
quanh tôi là bốn bức tường trắng, bao lấy thân tôi là một
tấm chăn trắng trên một lần ga giường cũng trắng. Màu trắng nhức
mắt khiến tôi nhớ lại con đường trên đỉnh núi tuyết, nơi tôi đã bước
đi cùng với con cừu, con cú và con quạ. Mới đầu là trắng xóa…
Rồi tôi nhận ra không gian đang bao chứa mình giống như một
phòng bệnh xá. Bộ vest, áo sơmi và khăn quàng của tôi được gấp gọn
gàng đặt trên một cái ghế nhôm gần đó, bản thân tôi đang mặc một cái
áo chùng vải trắng rộng lùng bùng. Trong vài giây, tôi tưởng đâu ngần
ấy những miền trắng đang ở đó với mục tiêu tẩy sạch cả trí óc tôi.
“Tên anh là gì?”.
“Rei”.
“Anh từ đâu tới?”.
“Thị trấn Mùa đông, ít nhất là tôi nghĩ thế, qua Hành lang Ghi nhớ”.
“Chào anh, Rei. Chào mừng đến với Thành phố Thủy tinh”.
Đó là một người phụ nữ trẻ trong bộ đồ y tá trắng, với mái tóc
vàng xoăn từng lọn, rung lên như những quả chuông khi cô gật đầu.
Cô khá cao, và mảnh khảnh, gương mặt thon thả với đôi gò má cao.
Rất khó để nói được cô là kiểu người nào nếu chỉ nhìn vào gương
mặt ấy. Cô nói tên cô là Miku, và rằng tôi sẽ được biết mình đang ở
đâu khi gặp cấp trên của cô. Nhưng còn một điều nữa tôi cần phải
biết. Miku nhướn mày, rồi cô lắc đầu.

- 239 -
NHẬT PHI

“Không, khi chúng tôi tìm thấy anh trong hẻm, không có ai
khác ở đó cả”.
Tôi lờ mờ nghe thấy Miku nói gì đó về việc cô sẽ chờ ở ngoài
cửa để tôi thay đồ, cô nhắc tới một cái tên, nhưng nó không thể lọt
được vào đầu tôi. Lấp đầy tai tôi lúc này là những tiếng thì thầm ma
quái của nỗi sợ hãi, của mối nghi hoặc. Makoto…

Cả căn phòng bệnh xá khi nãy lẫn hành lang hẹp mà Miku đang
dẫn tôi theo lúc này đều không có lấy một ô cửa sổ. Tiếng đôi giày
cao gót của người phụ nữ vang rất dày trong bốn mặt tường, khiến
tôi có cảm giác mình đã lại một lần nữa đi trong lòng đất. Chúng
tôi bỏ qua một vài cánh cửa nâu im ỉm đóng suốt dọc hành lang để
tới trước một cửa hai cánh lớn hơn. Miku gõ lên cánh cửa ba lần rồi
điềm nhiên mở cửa, ra hiệu cho tôi bước vào.
Đó là một căn phòng lớn và ấm áp. Thảm nhung dưới chân và
bóng đèn chùm trên đầu. Chiếm gần hết diện tích bốn mặt tường là
những kệ tủ cao chạm trần, trên đó bày ngay ngắn nhưng chen chúc
vô số đồ đạc đủ loại. Những bình gốm đủ cỡ, những món đồ gỗ chạm
khắc tinh xảo có, sơ sài có, một số cây đèn bàn nhỏ, những cái hộp
vuông không rõ chất liệu, một vài bức tranh lồng trong khung kính,
một vài bộ ấm chén, một vài chai thủy tinh rỗng và một cái gì đó
trông như một nửa của thứ từng là một cây sáo kim. Chủ nhân căn
phòng này hẳn là một nhà sưu tầm cực đoan và có phần bất tri kỳ vị.
Tựa vào bức tường trong cùng là một bộ bàn ghế cao, hẳn là nơi
chủ nhân ngồi làm việc. Trên bàn la liệt đầu thừa đuôi thẹo những
khí cụ kim loại vô danh nào đó, dưới bóng một ngọn đèn bàn không
bật. Chính giữa căn phòng là một bộ bàn ghế thấp hơn, lót nệm lông
êm ái. Miku bảo tôi cứ việc tự nhiên ngồi xuống đó trong lúc cô lấy
đồ uống.

- 240 -
Thị trấn mùa đông
“Alexandre sẽ về ngay bây giờ thôi”.
Miku nói rồi rút ra khỏi phòng. Căn phòng lập tức trở nên
yên tĩnh gần như tuyệt đối. Những đồ vật trên tường kia, dẫu có là
một bộ sưu tập ấn tượng, cũng đều không còn sống. Nhưng cũng
không thể nói rằng chúng đã chết. Điều gì quyết định sự sống hay
chết của một đồ vật? Mong muốn tuyệt đối hóa dường như luôn đẩy
con người vào những tình cảnh ná thở. Nghĩ tới đó, tôi chợt hình
dung về Makoto. Cô bé, sau khi tôi ngất đi, hẳn đã chạy khỏi con
hẻm để tìm kiếm sự giúp đỡ. Đám người xám trẻ kia hẳn đã trút giận
xong xuôi lên tôi và bỏ đi từ trước đó. Và trước khi cô bé quay trở lại
với những người tử tế muốn giúp tôi thì Miku và những cộng sự của
cô đã tìm thấy tôi rồi. Đó là lí do tôi đang có mặt ở đây, còn Makoto
thì không. Cô bé hẳn đang nương nhờ nơi một gia đình nào đó khác.
Makoto luôn được yêu quý tại bất kỳ nơi nào cô bé đặt chân tới, điều
đó thì tôi biết chắc. Dĩ nhiên, đó chỉ là một dạng điều kiện lý tưởng
mà tôi tự vẽ ra để trấn an mình. Tôi biết rằng mình sẽ phải tìm cô
bé trước khi khởi sự bất kỳ nhiệm vụ gì. Tôi ngồi lún mình vào lưng
ghế, khép mắt, ngả đầu ra sau, cố gắng tận hưởng một chút thư thả.
Những gì đang chờ phía trước chắc hẳn sẽ còn vượt xa khỏi những gì
tôi có thể tưởng tượng ra.
“Miku, em sẽ không tin anh tìm được thứ gì đâu”.
Giọng nói vang lên không phải từ bên ngoài phòng, nhưng
cũng không phải bên trong. Đó là một giọng đàn ông trẻ tuổi, sang
sảng, hào hứng hồn nhiên. Rồi tôi nhận ra thứ mà tôi đã không nhìn
thấy khi mới bước vào phòng, một cánh cửa nhỏ cùng màu tường
đằng sau lưng bộ bàn ghế cao. Cánh cửa mở ra, và chủ nhân giọng
nói, cũng là chủ nhân căn phòng, xuất hiện, như thể bước ra từ chính
bức tường. Đó là một người đàn ông ở vào đâu đó những năm đầu
tuổi ba mươi, cao lớn với bờ vai rộng và mái tóc nâu rối xõa rũ xuống

- 241 -
NHẬT PHI

trán. Anh ta khoác một tấm áo choàng đi đường màu đen và mang
một balo vải xanh xám. Anh ta không nhìn thấy tôi khi bước vào
phòng, bởi lẽ anh còn đang mải mê với một vật thể nhỏ trên tay. Chỉ
tới khi đã khép lại cánh cửa sau lưng và cởi áo choàng treo lên mắc,
anh ta mới ngước lên và ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Đôi mắt xanh
lơ rất sáng được phủ lên sơ sịa một vẻ uể oải bất cần.
“Cuối cùng thì anh cũng đã tới”.
Đó là điều anh ta nói.

“Tôi là Alexandre, thủ lĩnh phong trào phục hồi Thành phố
Thủy tinh. Còn đây là cô Miku, cộng sự của tôi”. Alexandre nói, trong
khi Miku rót ra ba ly thủy tinh một thứ dung dịch màu hổ phách sủi
tăm từ một chai nhựa lớn.
“Tôi là Rei, từ Thị trấn Mùa đông”.
Tôi đáp và chúng tôi bắt tay nhau, không quá mạnh bạo, không
quá hời hợt. Bàn tay anh ta mềm mại hơn nhiều so với tưởng tượng
của tôi.
“Chúng tôi đã chờ đợi anh từ rất lâu rồi”.
“Tôi ư?”.
“Đúng vậy”, Alexandre chân thành mỉm cười. “Tôi luôn tin rằng
Thành phố Thủy tinh chỉ có thể phục hồi thực sự với sự giúp đỡ của
một người tới từ Thị trấn Mùa đông. Nhưng Rei này, tôi muốn anh,
và cả Miku nữa, xem thứ này. Một vật tuyệt vời mà tôi mới tìm được”.
“Hai người uống nước đi đã”, Miku nói nhẹ nhàng, nhưng cả tôi
và Alexandre đều làm theo.
Thứ dung dịch màu hổ phách ấy có vị ngọt, chua nhẹ mà sắc,
gờn gợn tê tê khi trôi qua cổ họng tôi. Một thứ nước giải khát thú vị
mà tôi chưa từng được nếm qua, nhưng khi tôi đang thử nhấm nháp,
nghiền ngẫm lại hậu vị của nó trong miệng thì mọi hương vị đã tan

- 242 -
Thị trấn mùa đông
đi như thể tôi chưa từng uống gì vào cả. Tôi nhấp một ngụm lớn nữa,
nhưng hậu vị cũng không lưu lại lâu hơn là bao.
“Đây”. Alexandre hạ giọng rồi chậm rãi đặt lên bàn thứ anh đã
mân mê suốt từ lúc bước vào phòng tới giờ. Đó là một khối hộp chữ
nhật màu gỗ, nhỏ vừa trên một lòng bàn tay, với một tay cầm kim loại
nhỏ gấp khúc vươn ra từ một bên hông. Alexandre nhìn tôi, rồi nhìn
sang Miku, rõ ràng mong đợi chút vẻ tò mò hưởng ứng. Miku thực
sự đã hít vào một hơi dài.
Alexandre mỉm cười tâm đắc, trước khi giữ tay cầm bằng hai
đầu ngón tay và bắt đầu xoay nhẹ. Một giai điệu bắt đầu ngân lên khe
khẽ theo từng chuyển động của bàn tay anh, từng thanh âm trong
trẻo vang lên, rồi tan đi ngay, nhường chỗ cho thanh âm kế tiếp, như
những khối bong bóng lần lượt vỡ ra khi lên tới mặt nước. Một giai
điệu đẹp, và tôi chợt thấy mình đang bất giác khớp từng nốt nhạc vào
một lời thơ bất chợt vang lên trong đầu.
“Người nằm xuống, nghe tiếng ru
Cuộc đời đó, có bao lâu mà hững hờ?”
Bản nhạc kết thúc sau chừng hơn một phút, với một vài vòng
quay cuối cùng của Alexandre mà không một thanh âm nào vang lên
cả. Bên cạnh tôi, Miku bung ra hơi thở cô đã kìm giữ nãy giờ. Gương
mặt cô tỏ ra điềm tĩnh, nhưng ánh mắt cô lại thể hiện điều ngược lại.
Khóe môi cô khẽ giật giật.
“Một cái hộp nhạc”, tôi nói, dù không thực sự hiểu vì sao tôi
biết. Vả chăng, cái tên tự nhiên nhất cho một cái hộp có thể phát nhạc
không phải chính là hộp nhạc hay sao? Alexandre rạng rỡ gật đầu.
“Người đến từ Thị trấn Mùa đông quả thật biết rất nhiều thứ
nhỉ? Đây là lần đầu tiên tôi biết tới một hộp nhạc đấy”.
Tôi định nói mình chưa từng thấy một hộp nhạc nào ở Thị trấn
Mùa đông nhưng lại nghĩ rằng điều đó chỉ dẫn tới những vấn đáp

- 243 -
NHẬT PHI

thiếu ý nghĩa khác nên thôi. Tôi có những điều quan trọng hơn cần
nói với họ.
Vẫn với dáng điệu nâng niu ngây ngất ấy, Alexandre cầm hộp
nhạc đặt lên một ngăn cao trong bộ sưu tập của anh. Anh đứng lại
đó, ngắm món đồ mới bổ sung trong vài giây rồi mới quay lại ngồi
xuống ghế.
“Anh nghĩ tôi giống như một kẻ thu lượm đồ cũ, phải vậy
không, Rei?”. Anh ta nói. “Nhưng tôi tin rằng tất cả những thứ có
trên tủ kia sẽ giúp chúng tôi phục hồi được Thành phố Thủy tinh. Tôi
đã bắt đầu thu thập chúng từ nhiều năm trước, dành rất nhiều thời
gian để nghiên cứu chúng. Chúng tôi đã có những bước tiến, dù rất
nhỏ. Và giờ thì anh đã tới đây. Tôi tin rằng…”.
“Khoan đã”, tôi đưa tay lên cắt lời anh ta, “tôi chưa biết gì về các
vị cả, ngoại trừ hai cái tên. Tôi tới từ Thị trấn Mùa đông cũng với một
nhiệm vụ. Tôi không biết mục đích của chúng ta có thể gặp nhau ở
đâu. Nhưng trước hết, tôi có một việc muốn thỉnh cầu”.
Qua khóe mắt, tôi lại thấy cái nhướn mày của Miku, chừng như
đối với cô, tôi vốn không ở vị trí để mà có thể đòi hỏi. Nhưng tôi chỉ
nhìn Alexandre. Vị thủ lĩnh trẻ tuổi đáp lại tôi bằng ánh mắt cứng cựa
đầy tâm huyết.
“Bất kỳ điều gì chúng tôi có thể làm để giúp anh, xin cứ nói”.
Alexandre nói, và tôi không chút nào nghi ngờ sự chân thành nơi
anh. “Đó cũng là cách để chúng tôi có được lòng tin của anh”.
“Cảm ơn anh, Alexandre”.
Tôi kể cho Alexandre và Miku nghe về cách chúng tôi đã đến
được Thành phố Thủy tinh, bắt đầu từ con đường dưới cống ngầm,
qua cái hố trên thành cống cho tới con hẻm nơi bầy chim đậu
xuống, về cuộc va chạm và trận đòn từ bốn gã người xám trẻ. Và
sau cùng, sự mất tích của Makoto. Alexandre lắng nghe tôi một

- 244 -
Thị trấn mùa đông
cách chăm chú, nhíu mày đầy căng thẳng khi tôi kể về hành động
của đám người xám.
“Tôi rất tiếc”, cuối cùng anh nói. “Cô gái bạn anh ấy, Makoto
phải không, anh có tấm hình nào của cô ấy không?”.
“Rất tiếc là không”. Tôi lắc đầu. “Cô bé cao khoảng chừng này,
tóc cắt ngắn chấm vai…”.
“Chúng tôi cần một hình ảnh để có thể tìm cô bé”, Miku cắt lời
tôi. “Chúng tôi có thể phát thông báo, nhưng không phải là với mấy
câu mô tả”.
“Tại sao?”.
“Bởi vì sẽ chẳng ai hiểu những gì anh hay chúng tôi nói cả”.
Mắt tôi tìm đến Alexandre, tìm kiếm một xác nhận ngược lại.
Nhưng anh ta đơn giản gật đầu buồn bã.
“Ở Thành phố Thủy tinh này là thế, Rei ạ”.
Tôi biết mình đã từng nghe một điều tương tự. Không phải
một lần.

Sau cùng Alexandre và Miku cũng lắng nghe tôi miêu tả Makoto
bằng vốn từ ít ỏi của mình, họ hứa sẽ làm tất cả trong khả năng để
giúp tôi tìm cô bé. Tôi nói lời cảm ơn họ, nhận ra niềm hy vọng trong
mình chẳng hề được kéo lên. Thoáng chốc, căn phòng chỉ còn vang
lên tiếng thở không đều của ba người chúng tôi, dường như việc
không thể cam kết một kết quả cho thỉnh cầu của tôi đang khiến cho
Alexandre cảm thấy ái ngại. Anh chừng như đang không biết phải
nói như thế nào về điều phong trào của anh cần nơi tôi. Tôi nhắm
mắt, ngửa đầu ra lưng ghế, lắng nghe mà không thực sự lắng nghe.
Tôi nghe có tiếng xô ghế, rồi tiếng bước chân trên thảm nhung. Và
rồi tiếng nhạc từ chiếc hộp nhạc một lần nữa lại ngân lên. Một vòng,
rồi một vòng nữa.

- 245 -
NHẬT PHI

“Hình như đã lâu lắm rồi không có điều gì tốt lành xảy đến
trong thành phố của chúng tôi cả”, Alexandre nói. “Trong khi nhặt
nhạnh những thứ này, thứ mà những người sở hữu không còn cần đến
nữa, thứ mà tôi coi như những tư liệu quý, cùng với việc nghiên cứu
chúng, tôi luôn ngấm ngầm tận hưởng một khoái cảm của riêng mình.
Cái khoái cảm rằng tôi đang nắm trong tay một điều gì đó tốt đẹp”.
Tôi mở mắt nhìn Alexandre, bàn tay anh vẫn chầm chậm quay
đều. Rồi, hoàn toàn đột ngột, tôi trông thấy con quạ gáy xám đang
đậu trên vai anh. Tôi dợm đứng dậy, nghe gai ốc chạy lan trên da
mình, nhưng rồi, sau cái chớp mắt thứ hai, tôi nhận ra đó kỳ thực chỉ
là một bức tranh, một bức tranh lồng khung kính trong bộ sưu tầm
của Alexandre. Không có tiếng quạ nào vang lên cả, trong tôi hay từ
bên ngoài.
Alexandre nhận ra chuyển động bất thường của tôi. Bàn tay
anh dừng quay.
“Này, Alexandre”, tôi nói, để đáp lại vẻ thắc thỏm của anh, “anh
biết không? Dù cho anh có xoay hộp nhạc kia bao nhiêu lần đi nữa,
cũng sẽ chỉ có một giai điệu vang lên thôi”.
Alexandre mỉm cười yếu ớt, trước khi tiếp tục vòng quay.
“Tôi biết chứ”, anh nói. “Nhưng ít nhất giai điệu này vẫn còn
vang lên. Đôi khi tôi nghĩ, dù có là một vòng lặp, miễn là điều tốt đẹp
hãy còn hiện hữu”.
Tôi bật cười nhẹ rồi đứng dậy, tiến ra phía cửa. Trong khi quét
ánh mắt một lần nữa quanh gian phòng, tôi tưởng như đã thấy con
quạ gáy xám trong tranh vừa nháy mắt với mình.
“Tôi thì không, thủ lĩnh à”.
Và hộp nhạc thì vẫn quay đều khi tôi đẩy cửa bước ra ngoài.

- 246 -
Thị trấn mùa đông

NHÀ TÔN VÀ MÀN HÌNH THỦY TINH

N ơi tôi đang ở, trụ sở của phong trào phục hồi Thành phố
Thủy tinh, là một dãy những căn nhà hộp bằng tôn nằm
ở ngoài rìa thành phố. Một con đường vành đai lớn chạy ngang qua
trước mặt dãy nhà, ngăn cách bởi một bãi cỏ cao nửa vàng nửa xanh,
ầm ào những xe cộ. Những cỗ xe bốn bánh, phần lớn là xe tải, lao
qua rất nhanh trước mặt tôi bất cứ khi nào tôi bước ra từ căn nhà hộp
phần mình, họ lướt qua quá nhanh để nhận ra những căn nhà này,
vốn dĩ khác kiểu với toàn bộ phần còn lại của thành phố.
Tôi được cấp cho một căn phòng thuộc một trong số những
căn nhà tôn ấy, nơi tôi dành phần lớn thời gian để cố gắng vẽ lại chân
dung Makoto trên mặt sần của những trang giấy ít ỏi tôi xin được.
Tôi nhận ra đây chính là thứ giấy Ionah đã dùng để tập viết và chép
thơ. Theo lời của Miku, trong kho của trụ sở có một lượng không lớn
loại giấy này và một ít bút và mực, những thứ mà gần như không ai
đụng tới kể từ khi cô bắt đầu tham gia vào phong trào. Cô lấy giấy và
bút mực cho tôi mà không thắc mắc hay nhắc nhở gì, nhưng tôi biết
mình nên dùng chúng một cách tiết kiệm nhất có thể. Tôi đoán chính
Alexandre đã dặn cô cứ việc thực hiện những gì tôi yêu cầu. Dù sao
đi nữa, tôi cũng bỏ cuộc sau đó không lâu, nhận ra mình không thể
nào vẽ lại được Makoto, ít nhất bằng thứ mực xanh trên ngọn bút sắt
này. Khả năng diễn đạt bằng đường nét của tôi thực sự có hạn, và với
nét vẽ này, Makoto có thể trông như bất kì một cô bé nào cùng tuổi

- 247 -
NHẬT PHI

cô. Ấy là khi người xem không nhìn nhận bức vẽ như một thứ gì trừu
tượng hơn.
Hàng ngày, cũng chính Miku mang thức ăn tới cho tôi trên một
khay nhựa. Thức ăn được thay đổi hàng ngày, và thường thường, để
có chuyện mà nói, tôi sẽ hỏi cô về thực đơn của mình. Câu trả lời của
cô sẽ là những thứ kiểu như khoai tây nghiền, rau trộn, mì sợi, bánh
mì trắng, trứng chiên… Cứ khoảng ba hay bốn món cho một bữa, ba
hay bốn cái tên được gọi lên bằng giọng đều đều của Miku trước khi
cô rút đi. Tôi ngồi ăn một mình bên cái bàn sắt duy nhất trong phòng,
luân phiên đưa từng muỗng đồ ăn vào miệng, đều đặn như một thói
quen hơn là một nhu cầu tận hưởng. Tôi chưa từng có cảm giác này
trước đây, với củ cải đỏ và bánh mì đen.
Lâu lâu, tôi sẽ ra khỏi phòng, ngồi xuống bậc cửa của căn nhà
và nhìn về phía thành phố. Những tòa nhà kính cao vút lấp loáng ánh
nắng vào những buổi chiều, và đôi lúc, một bầy chim sẽ bay ngang
qua đầu tôi để vào thành phố. Chúng sẽ làm gì ở đó cho hết một ngày,
trước khi tụ họp lại để tìm sang Thị trấn Mùa đông? Một điều gì đó
mà chỉ có Thành phố Thủy tinh mới có thể cho chúng. Ngoại trừ
những cuộc săn.
Tôi không gặp Alexandre kể từ hôm ấy. Anh ta hẳn lại đang
trên đường nhặt nhạnh những tư liệu để bổ sung cho bộ sưu tập của
mình. Tôi hy vọng trong lúc đó anh ta cũng đang tìm kiếm Makoto
thay tôi. “Rei, anh hãy ở lại đây một vài ngày”, đó là điều anh ta nói
với tôi trước khi tạm biệt, “chúng tôi sẽ làm tất cả để tìm Makoto cho
anh. Hứa với tôi, đừng tự ý rời khỏi đây. Một người tới từ Thị trấn
Mùa đông như anh sẽ không thể sống được trong Thành phố Thủy
tinh đâu”. Khi Alexandre nói điều đó, tôi đã không thể ngờ đó lại là
một thực tế hiển hiện đến vậy. Tới ngày thứ năm, tôi đã quyết định
rằng mình sẽ phải phớt lờ cảnh báo của anh để vào thành phố, trước
hết là vì Makoto.

- 248 -
Thị trấn mùa đông
Suốt một dải đường dài trước mặt dãy nhà, tôi không tìm được
một lối mòn nào qua bãi cỏ, vậy là tôi quyết định mình sẽ phải đi
xuyên qua đó. Những ngọn cỏ cao tới ngang hông ngả rạp khi tôi rẽ
chúng sang hai bên để nhón chân bước qua, cố gắng không giẫm lên
một gốc cỏ nào. Những cạnh cỏ có răng cưa cứa lên tay tôi, vương
lên áo quần tôi, giật giật như thể muốn níu lại bước chân tôi, nhưng
chúng cũng chẳng ngăn được tôi ra được tới mé đường sau một hồi
dò dẫm. Một cỗ xe tải lớn với thùng xe dạng hộp như chính những
căn nhà sau lưng tôi vừa mới lao qua. Cỗ xe kế tiếp sẽ sớm tới thôi.
Tôi đứng bên vệ đường một hồi lâu, cánh tay vươn ra làm hiệu
mỗi lần có một cỗ xe chuẩn bị lao tới. Nhưng chúng không dừng lại,
và tôi phải vội vàng thu tay lại mỗi lần có một cỗ xe nào lướt qua sát
mé đường. Chiếc kế tiếp, chiếc kế tiếp, tôi nhủ thầm.
“Anh thấy đấy, họ sẽ không dừng lại đâu”. Đó là giọng Alexandre.
“Làm sao anh biết chắc được?”. Tôi đáp. “Hay anh muốn nói với
tôi rằng Thành phố Thủy tinh này cũng được tạo nên bởi những quy
luật và tiền định?”.
“Không, không có một quy luật nào cả, Rei ạ”, anh ta nói, rành
rọt mà bất nhẫn. “Chỉ có thời gian trôi qua thôi, trôi, và cuốn trôi.
Đó là lí do họ không thể dừng lại. Vội vàng là cách để họ tồn tại. Vội
vàng như chẳng kịp”.
“Nếu vậy thì tôi sẽ đi bộ vào thành phố”. Tôi quả quyết.
“Không cần đâu”, Alexandre bật cười nhẹ. “Tôi sẽ đưa anh vào”.
“Bằng cách nào?”.
“Xe hơi của tôi”.

Alexandre dẫn tôi quay ngược trở vào khu nhà, trên chính lối
mòn tôi đã tạo ra khi nãy. Những thân cỏ hãy còn hơi nghiêng, như
thể chính chúng cũng biết rằng rồi tôi sẽ sớm phải đi trên lối món

- 249 -
NHẬT PHI

này một lần nữa và quyết định rằng sẽ cứ giữ nguyên tư thế như vậy
để chờ tôi.
“Tôi xin lỗi đã để anh chờ lâu như vậy”, Alexandre nói khi
chúng tôi đã quay trở vào một trong những căn nhà tôn ấy. “Tôi đã
cố gắng điều tra về Makoto trong mấy ngày vừa rồi. Không phải là
chúng tôi không có manh mối gì, nhưng tôi sẽ cho anh biết khi nào
mọi thứ sáng tỏ hơn”.
Tôi nhận ra Alexandre đang đưa tôi quay trở lại chính căn nhà
đầu tiên, nơi tôi đã thức dậy sau biến cố trong hẻm. Đúng như hình
dung của tôi, Alexandre dẫn tôi vào trong phòng của anh - dường
như trên kệ đã xuất hiện thêm một vài món đồ nho nhỏ mới - và mở
cánh cửa phụ phía sau bàn làm việc. Trước khi bước qua ngưỡng cửa
ấy, tôi nhận ra chiếc hộp nhạc đang ở trên bàn trong một trạng thái
bị tháo tung quá nửa. Một dải băng trắng lấm chấm những lỗ bé xíu
vắt ngang qua mặt bàn.
Sau cánh cửa là một dải cầu thang đá dài và hẹp, với hai dãy đèn
vàng nhỏ chạy dọc theo hai bờ tường, dẫn chúng tôi xuống một gian
phòng kín bưng, nơi một cỗ xe bốn chỗ sơn trắng đơn giản đang nằm
nhàn tản, hướng đầu về phía chúng tôi như đang hóng chủ về. Đó là
một cỗ xe khác kiểu so với những cỗ xe, hay đúng hơn là dư ảnh của
những cỗ xe, vẫn thường lướt qua trên con đường trước dãy nhà. Cả
mui xe lẫn đuôi xe đều ngắn hơn, với nhiều những đường cong như
một cái mũi to mà tẹt, một hình thù tương đối phản khí động học.
Cỗ xe này hẳn không được thiết kế để lướt nhanh, vả chăng, bất kỳ ai
ngồi sau tay lái cũng sẽ không muốn lướt nhanh với một cỗ xe như
thế này, bởi lẽ sẽ chẳng có gì che chắn anh ta khỏi gió bụi hay những
chướng ngại vật bất chợt cả. Một cỗ xe mui trần.
“Không mới lắm”, Alexandre cười đầy tự hào khi vỗ vỗ lên mui
xe như cưng nựng một con thú nuôi, “nhưng vẫn còn rất tốt. Anh

- 250 -
Thị trấn mùa đông
bạn này đã có ở đây từ thời ông nội tôi. Lâu lắm rồi, cái thời mà tôi
nghĩ thành phố của chúng tôi hãy còn nhiều điều tốt đẹp hơn. Đương
nhiên tôi cũng phải sửa chữa, cải tiến một chút khi nó thuộc về mình.
Đẹp đấy chứ, phải không?”.
Tôi không đáp. Alexandre không hỏi thêm, tuy nụ cười tự hào
hãy còn trên môi khi anh mở cửa xe, ngồi xuống ghế lái. Tôi ngồi
xuống ghế bên, ngay lập tức cảm giác bị lún sâu vào lưng ghế. Không
thể nói đó không phải một sự dễ chịu. Máy xe hộc lên một tiếng khi
Alexandre xoay chìa khóa khởi động xe. Tôi bất giác lần tay vào túi áo
mình, chiếc chìa khóa bạc vẫn ở đó, lạnh ngắt, như muốn khẳng định
mục đích tồn tại mang tính thời điểm của nó. Alexandre đánh lái một
vòng rộng, cỗ xe xoay gần như tại chỗ để hướng về phía ngược lại, và
rồi chúng tôi bắt đầu dong xe trên một con đường bằng phẳng thoải
dốc. Tôi hiểu rằng một lần nữa mình đang từ dưới lòng đất tiến lên
bề mặt.
Tôi, với áo vest đen, sơ mi trắng, khăn quàng trắng và cà vạt xanh
xám, bên cạnh là Alexandre, thủ lĩnh phong trào phục hồi Thành phố
Thủy tinh, trong bộ vest màu be kẻ caro và quần kaki trắng sữa. Tôi
đoán chúng tôi trông giống như hai quý ông trẻ tuổi đang tiến vào
thành phố cho một chuyến chơi đêm thời thượng. Khác rằng chúng
tôi đi lên từ lòng đất.
Cỗ xe chạy không nhanh, nhưng phần hành trình bên dưới mặt
đất của chúng tôi vẫn cứ dài hơn tôi tưởng tượng. Và khi làn không
khí của nửa trên thành phố bắt đầu tràn xuống qua một cửa ra lớn
trước mặt chúng tôi, tôi đã nghĩ ra được nhiều điều hơn dự định.
“Alexandre”, tôi gọi, khi ánh sáng của những ngọn đèn đường
bắt đầu nhức nhối xối vào mắt tôi, “thực ra thì anh chưa tìm ra được
chút nào tung tích của Makoto có phải không?”.
“Tôi không nói dối anh”, Alexandre đáp bình thản, “chúng tôi
vẫn đang cố gắng. Anh sẽ gặp lại cô bé sớm thôi”.

- 251 -
NHẬT PHI

“Nhưng hẳn nhiên là chúng ta không phải đang đi đón


Makoto, phải không?”. Tôi nói tiếp, khi Alexandre không đáp. “Anh
muốn cho tôi thấy cái thành phố mà anh cảm thấy cần được phục
hồi, có phải không?”.
“Tôi nghĩ đó là điều cần thiết cho tất cả chúng ta”.

Không còn thấy những mái nhà tôn nữa khi chúng tôi lên tới
mặt đất, tiến vào con đường lớn, trở thành một phần của dòng xe vội
vã. Đêm đã buông, phết bóng tối lên những góc hiếm hoi mà ánh
sáng những ngọn đèn đường không thể chạm tới. Chạy song song
hai bên rìa con đường là hai dãy hàng rào mắt cáo với kẽm gai trên
đỉnh, che chắn chúng tôi khỏi những cánh đồng lúa mì bạt ngàn,
những vườn cây trái và hoa màu quy mô. Chốc chốc, trồi lên một
căn nhà gạch cô lẻ im lìm nằm sau hàng trăm lớp cây cối, những căn
nhà không có ống khói, và thậm chí có thể đang không có người. Tôi
tự hỏi họ dựng lên dãy hàng rào này để bảo vệ trang trại khỏi điều gì
nếu như không ai dừng lại trên con đường ngoài này.
Con đường lơ đãng uốn khúc một vài lần trước khi dẫn chúng
tôi vào tới trung tâm Thành phố Thủy tinh. Phần lớn những cỗ xe
nhanh chóng tỏa đi các hướng một khi đã vào tới thành phố, một số
khác, bao gồm cả chúng tôi, thì cứ tiếp tục đi thẳng trên con đường
chính. Tới một lúc, hoàn toàn không báo trước, một tổ hợp ấn tượng
không thể tin nổi ập tới các giác quan của tôi, đồng loạt.
Vây quanh chúng tôi, trên vỉa hè những con phố vuông góc
như ô bàn cờ, là cả một biển người. Cảm giác như tất cả những tòa
nhà kính trong thành phố vừa bị dốc ngược, trút toàn bộ người dân
trong đó ra đường. Bản thân những tòa nhà cũng đã có sự thay đổi
lớn. Từng tòa nhà, với bốn mặt tường kính, đã trở thành những cụm
màn hình khổng lồ, vận hành như những nguồn sáng thay thế, và

- 252 -
Thị trấn mùa đông
trở thành tâm điểm chú ý của hàng ngàn con mắt chung quanh. Một
cô gái rất trẻ trong bộ áo váy ngắn đen có viền ren đang nhảy múa
trên một màn hình - tường kính. Hai người đàn ông xoay trần, mặc
quần đùi bó đang quần nhau trên một màn hình khác, một người
đang dùng cả cánh tay siết cổ người kia trong lúc người đó giậm chân
nhiều lần lên nền sàn, hai tay đấm vô vọng vào thân hình lực lưỡng
của kẻ thắng thế. Một màn hình khác nữa chiếu cảnh một chàng trai
chênh vênh trên một sợi dây nối giữa nóc hai tòa nhà kính vào ban
ngày. Và vô số những màn hình như thế nữa.
Mà đó chưa phải là tất cả. Ấn tượng hình ảnh khiến tôi choáng
ngợp, nhưng khối âm thanh nặng nề rắn chắc xung quanh mới đang
đè nghiến lên lồng ngực tôi, tưởng chừng không thể thở được nữa.
Những con người này, với ánh mắt hướng lên từng màn hình thủy
tinh, chắc chắn đang không im lặng. Tôi nhìn thấy những đôi môi
đang mấp máy, nhiều cái miệng đang mở lớn và nhiều những gì
trông như là nụ cười. Nhưng họ lại như đang tuyệt đối im lặng trước
tiếng nhạc, tiếng nói, tiếng gào thét được tăng âm nhiều lần dồn dập
phát ra từ chính những tòa nhà kia. Một lần nữa, đó lại là thứ ngôn
ngữ mà tôi biết, nhưng không hiểu. Rất nhiều ngôn từ được xổ ra
cùng một lúc, đan vào nhau, chồng chéo nhau, nhưng cùng lúc, từng
dòng ngôn ngữ riêng biệt lại rời rạc và không mang chút ý nghĩa nào
đối với tôi cả. Ngoại trừ một từ duy nhất, được lặp lại không ít lần,
“cá hồi”. Hai võ sĩ đang “cá hồi” với nhau, chàng trai đi trên dây cá
hồi với lẽ sinh tử, và ca khúc của cô gái trong bộ váy đen hẳn đang
cổ động tất cả mọi người hãy “cá hồi” với những định kiến thường
tình. Có lẽ thế.
“Anh không hiểu, phải không Rei?”. Alexandre hỏi, có thể
không phải lần đầu tiên, vì khó khăn lắm tôi mới nghe ra giọng anh
giữa ngần ấy hỗn tạp âm thanh.

- 253 -
NHẬT PHI

“Không”, tôi lắc đầu. “Anh thì sao?”.


“Tôi hiểu cả”, anh ta đáp, vẻ trớ trêu. “Tôi cũng là một cư dân
của Thành phố Thủy tinh mà”.
Tôi những muốn hỏi Alexandre liệu anh ta có lớn lên cùng
với thứ ngôn ngữ này không, nhưng trước khi kịp mở lời, tôi lạnh
sống lưng nghe một vật gì đó vừa xẹt ngang qua tai mình. Alexandre
phanh gấp, đẩy cả hai chúng tôi chúi về phía trước. Anh ta nhìn sang
tôi, vẻ khúc mắc lưng chừng. Rồi anh nhướn máy, ra dấu cho tôi nhìn
về cùng hướng. Và ở đó, tôi thấy, trên một góc vỉa hè, đấu lưng lại
với tất cả những người lớn khác, một nhóm mấy đứa nhóc trạc bảy
tám tuổi đang đứng nhìn về phía xe chúng tôi. Bắt gặp ánh mắt tôi,
chúng ngẩn ra trong nửa giây rồi phá lên cười. Giữa tất thảy những
ầm ào bủa vây, tôi vẫn nghe rõ một cách kỳ lạ tiếng cười khanh khách
của đám trẻ, như thể chúng không phải cười với nhau mà đang cười
thẳng vào đầu tôi vậy. Một cỗ xe hộp bắt đầu nhá còi inh ỏi sau lưng
chúng tôi.
Một đứa trong đám trẻ chợt đưa tay ra hiệu. Cả đám ngừng
cười, trong khi thằng nhóc lần tay trong túi tìm thứ gì đó. Khi nhận
ra thứ trên tay thằng nhóc là một cái ná thun, và thứ nó đang tìm
trong túi hẳn là một viên đạn khác, tôi vội quay sang Alexandre. Anh
vẫn kịp mỉm cười chua chát trước khi nhấn ga, và cỗ xe mui trần của
chúng tôi lại phóng đi. Xuyên qua những con phố, len qua những
quảng trường người quanh từng màn hình thủy tinh khổng lồ.
Đoàn người rút đi rất nhanh, như nước trôi qua lỗ thoát nơi
đáy chậu, khi những màn hình thủy tinh lần lượt phụt tắt, trở lại
thành những bức tường kính, bàn giao nhiệm vụ chiếu sáng thành
phố lại cho những ngọn đèn đường. Trong suốt một quãng dài, tôi
và Alexandre không nói gì với nhau, và hành trình của chúng tôi cho
tới khi ấy chỉ còn là những cung đường lòng vòng, lòng vòng quanh
những ô vuông.

- 254 -
Thị trấn mùa đông
“Rồi chúng ta sẽ tìm được Makoto, tôi cam đoan với anh vậy”,
Alexandre nói khi chúng tôi là những người duy nhất còn lại trên con
đường chính. Anh đã bắt đầu đánh lái để đưa chúng tôi trở về trụ sở.
“Tôi tin rằng Makoto vẫn đang an toàn ở đâu đó”, tôi đáp mà
không thực sự nhập tâm. “Và tôi không muốn cô bé cứ ở trong thành
phố này một mình”.
“Tôi hiểu”.

Tiếng cười thích thú, hồn nhiên đến trong vắt của đám trẻ khi
nhắm vào tôi bằng ná thun hãy còn vang lên trong đầu tôi nhiều lần
trong đêm đó. Đám trẻ này rồi đây sẽ lớn lên, khoác lên mình những
tấm áo màu xám, ná thun thay bằng súng trường, và ai mà biết được
đích ngắm của chúng sẽ là gì khi không còn ai chạy xe mui trần trên
phố nữa. Có hay không anh bạn có khoang cổ tím, đàn chim giờ
hẳn đã đang yên giấc nơi cánh rừng bên kia núi tuyết. Lớp tôn úp
lên đầu tôi những canh dài tịch mịch. Tuyết không rơi trên Thành
phố Thủy tinh.

- 255 -
NHẬT PHI

GOẰM VÀ BỆNH BỌ ĐEN

T ôi đã ngủ cả buổi sáng ngày hôm sau đó, chỉ thức giấc khi
nghe điều ấy được đọc lớn lên trong phòng mình, bằng
một giọng nữ cao và mỏng gần như trong suốt. Trong cơn mơ hồ,
tôi hầu như quên mất rằng đó chính là điều mình đã viết lên khoảng
trống gần như cuối cùng trên trang giấy vào ngày hôm trước, tưởng
đâu một lần nữa tôi đang được nghe một chỉ điểm nào khác vang lên
trong đầu mình. Nhưng có lẽ chẳng có chỉ điểm nào lại được nói một
cách chậm chạp và ngập ngừng đến thế, như một đứa trẻ đang loay
hoay tập đánh vần.
“Táo”.
Người phụ nữ thốt lên, và tôi choàng tỉnh. Giữa khi còn đang
váng vất sau cơn ngủ dằng dai, tôi vẫn có thể nghĩ ra đây đã là lần thứ
tư mình thức dậy với sự có mặt của một người phụ nữ.
“Cô là ai?”.
Đó là một cô gái rất trẻ, với mái tóc dài gợn sóng màu khói xõa
xuống lưng, hững hờ khuất lấp đôi vai trần. Cô mặc một bộ áo váy
một quai màu xanh ảm đạm như bầu trời sau cơn mưa chiều, bộ váy
bó sát quanh những đường cong trơn tru trên cơ thể cô. Khi cô quay
sang, tôi thấy cô có một đôi mắt nâu ươn ướt và nụ cười rộng để lộ
những cái răng trắng nhỏ xinh. Nhưng ngay cả khi cô đang nhìn
thẳng và cười với tôi, vẫn có điều gì đó nơi khóe mắt và viền môi
cô khiến tôi cảm giác không thể chạm tới được ánh mắt và nụ cười

- 256 -
Thị trấn mùa đông
ấy. Như một tấm mạng vô hình phủ lên gương mặt trẻ trung xinh
đẹp này.
“Netsuko, á”, cô đáp, rồi vội vàng chép miệng như thể vừa nói
sai điều gì. “Em là Netsuko. Em mang bữa trưa tới cho anh”.
Trên mặt bàn, chặn lên xấp giấy của tôi, là một khay nhựa khác
với ba cái đĩa, một cái bát nhỏ và một cốc giấy. Tôi ngồi dậy, bước
xuống khỏi giường và bắt đầu khoác áo sơ mi lên.
“Vậy cô Miku đâu rồi?”.
“Chị Miku đang làm việc ở ngoài rồi, nên em mang đồ ăn tới
cho anh”. Netsuko nói. “Em có gõ cửa mấy lần nhưng không thấy anh
trả lời nên em tự mở cửa vào luôn”.
“Không sao đâu”, tôi đáp, dù rằng cô gái nói điều đó như một
tường thuật đơn thuần hơn là một lời xin lỗi. “Cảm ơn cô”.
Netsuko vẫn đứng bên bàn khi tôi đã vệ sinh cá nhân xong xuôi
và ngồi xuống ăn trưa. Không có vẻ gì là cô sẽ rút đi cả, vậy nên tôi
hỏi cô có muốn dùng bữa cùng với tôi không. Cô nhíu mày trong
một giây, hàng mi cong khẽ lay động như nhành liễu đón gió sớm.
“A, không, em đã ăn rồi”, cô nói. “Xin anh cứ ‘dây leo”.
Đến lượt tôi nhíu mày, rồi tôi nhận ra cô đang vô thức chêm vào
thứ ngôn ngữ phổ dụng ở Thành phố Thủy tinh này khi nói chuyện
với tôi. Cô hẳn có ý mời tôi cứ tự nhiên ăn, ngay cả khi có mặt cô
ở đó. Phần vì đói, gì thì gì tôi cũng đã bỏ qua bữa sáng, phần cũng
muốn biết những lề thói hành xử khác ở nơi này, tôi quyết định sẽ
làm theo lời cô, sẽ “dây leo”.
“Em xem mấy…cái này được không?”. Netsuko hỏi, chỉ tay vào
xấp giấy trên bàn.
“Ừ, cô cứ ‘dây leo’ đi”, tôi đáp, trong khi bắt đầu đưa lên miệng
một miếng dưa chuột muối.
Netsuko cầm lấy tập giấy rồi điềm nhiên ngồi lên giường tôi, lật

- 257 -
NHẬT PHI

xem từng tờ một cách chăm chú. Tới một lúc, cô tháo đôi giày cao gót
ra và bắt đầu ngồi thu cả hai chân lên giường. Đôi chân cô đặc biệt
thon và trắng, một điều đến bây giờ tôi mới để ý thấy. Ánh mắt tôi bất
giác trượt từ những ngón chân lên tới đùi cô và tôi gần như đã phải
hãm phanh lại, không để nó chạy lên cao hơn. Tôi quay lại với bữa
trưa của mình, cảm thấy có chút sai lầm vì đã bảo cô cứ “dây leo”, dù
chưa hiểu từ đó có nghĩa là gì. Nghĩ lại thì, dù là giường, là giấy hay
là mực, hầu hết những đồ vật trong phòng này đều không phải là của
tôi, và Netsuko có quyền “dây leo” đến mức nào cô thích.
Khi đã ăn xong và ngẩng lên, tôi thấy Netsuko đang đăm đăm
nhìn mình. Cô vẫn ngồi ở tư thế đó, ở trên giường, xấp giấy đã được
đặt sang một bên. Tôi có cảm giác cô đã nhìn tôi như thế được một
lúc rồi, cái nhìn qua tấm mạng vô hình, vừa như thăm dò một mẫu
vật, vừa như nhấm nháp một món gì đó ngon lành. Tôi nhìn lại cô,
cốt để thể hiện rằng mình đã ăn xong, nhưng không có dấu hiệu gì
rằng cô sẽ đứng dậy và thu dọn chén đĩa mang ra. Rồi, chẳng nói
chẳng rằng, cô cầm lấy xấp giấy, đưa trả cho tôi, vẩy vẩy như thể đó
là một sự phiền toái, cũng im lặng như thế, tôi đón lấy, đặt chúng lên
bàn. Dường như giờ mới là thời điểm cho mục đích thực sự của cô
khi thay Miku mang bữa trưa tới cho tôi.
“Mọi người bảo rằng có thể anh cần, vậy nên em đến đây”,
Netsuko nói, cô nghiêng đầu, vén tóc bên vai trần hất ra sau, để lộ
một bên xương quai xanh.
“Tôi cần…gì?”. Tôi hỏi lại, tưởng chừng có mấy quả bong bóng
vừa vỡ lách tách bên trong đầu óc trống rỗng của mình.
“Goằm”.
“Gì kia?”.
“Goằm ấy mà”, cô nhắc lại, giọng nôn nóng, chừng như bất đắc
dĩ lắm cô mới phải nói ra từ đó. “Anh biết đấy”.

- 258 -
Thị trấn mùa đông
Cô chép miệng, vẫn với vẻ sốt ruột ấy. Rồi cô miễn cưỡng trở
mình đứng xuống khỏi giường, không xỏ chân vào giày, và, hoàn
toàn không lường trước được, cô đưa tay qua màn tóc bên kia, kéo
quai áo váy qua vai, lẹ làng luồn tay ra khỏi vòng quai đó. Quả bong
bóng cuối cùng vỡ bung trong đầu tôi, và trước khi cô kịp kéo sâu
thêm cả bộ váy xuống, tôi vội vàng đưa tay ra hiệu cho cô dừng lại.
“Được rồi”, tôi quýnh quáng. “Tôi hiểu rồi. Không cần đâu”.
Netsuko sững người lại, đôi mắt nâu mở lớn trong vài giây, tôi
tin rằng cô đã thở hắt ra một hơi nhẹ nhõm. Cô kéo quai áo váy
trở lại rồi thả mình xuống giường. Chúng tôi không nói gì với nhau
trong một lúc. Rồi Netsuko ngồi dậy, đi lại giày và bước qua tôi để thu
lấy khay thức ăn. Cô dừng lại khi ra gần tới cửa.
“Anh chắc chắn là không muốn chứ?”.
“Cảm ơn cô”, tôi nói, biết rằng điều này nghe thật là gượng gạo.
“Nhưng tôi thực sự không cần đâu. Ít nhất là…”.
“Nếu anh cần thì cứ bảo em nhé”, Netsuko quay lại phía tôi,
lưng tựa vào cánh cửa gỗ. “Thật đấy. Họ nói bệnh bọ đen chẳng chừa
một ai đâu”.
“Bệnh bọ đen?”. Tôi biết mình đã từng đọc được cái tên này ở
đâu đó, và khi nhớ ra, tôi bất giác đứng bật dậy khỏi ghế. “Netsuko,
bệnh bọ đen đó có nghĩa là gì?”.
“Anh không biết hả?”. Cô gái nghiêng đầu. “Em đã tưởng cái gì
anh cũng biết cơ đấy”.
“Chẳng có ai biết tất cả mọi điều cả”, tôi cười đau khổ. “Tôi
không phải là người ở đây, Netsuko à”.
“Anh biết ‘cá hồi’…”. Netsuko nói, cô đã đặt khay nhựa lại lên
bàn và quay trở lại ngồi lên giường tôi. “Em đã dùng từ đó bao nhiêu
lâu mà chẳng biết nó từ đâu ra”.
“Chỉ là tình cờ thôi”, tôi đáp nhanh, không muốn kể cho cô

- 259 -
NHẬT PHI

nghe việc tôi đã được giảng cho điều này bởi một con gián khổng lồ
ngồi trong thư viện, một điều thậm chí đã không thực sự xảy ra. “Cô
có thể cho tôi biết về bệnh bọ đen đó chứ?”.
“Vâng”, cô gật đầu, mơ hồ khua một ngón tay trên cánh tay
trần. “Khi mắc bệnh bọ đen, trên da người ta sẽ xuất hiện những
đốm đen, to chừng này này, giống như là bị mấy con bọ đen bám trên
da ấy. Mới đầu chỉ là một, hai con thôi, nhưng nếu không chữa kịp
thì sẽ ngày càng nhiều lên, dần dần sẽ phủ kín mặt da người ta. Thế
là họ chết”.
“Nhưng điều đó liên quan gì tới việc tôi có muốn… hay không?”.
“Họ nói rằng anh sẽ mắc bệnh bọ đen nếu như anh không được
làm điều anh muốn quá lâu đấy”.
“Điều đó có thật không? Cô tin sao?”.
“Rất nhiều người nói vậy”. Cô nhún vai, rồi chợt bật cười sau
vài giây. “Cha và anh trai em cũng nói với em vậy mỗi lần họ muốn
goằm em”.
Tiếng cười, ánh mắt và cả giọng nói của cô đều phớt tỉnh một
cách thành thực và trong một thoáng, tôi tưởng như cô mới vừa vén
lên tấm mạng vô hình kia để cho tôi được nhìn thấy rõ cô. Tôi nghe
gai ốc sởn lên toàn thân mình. Không phải là bọ đen.
“Vậy còn bản thân cô? Cô có muốn làm điều đó không? Cô có
sợ bệnh bọ đen không?”.
“Em sợ chứ”, cô vẫn cười. “Nhưng em chưa bao giờ biết được
mình muốn làm gì cả, cho tới khi em nhặt con dao lên và đâm cả hai
người họ”.
Lần này thì tôi im lặng, chỉ lắc đầu nhè nhẹ.
“Sau đó thì họ đưa em vào một chỗ kia, cùng với nhiều đứa
cũng tuổi em. Tụi em được cho ăn và được phát quần áo giống nhau,
nhung nhúc một bày màu xám. Khu ấy có hàng rào bao quanh, nhưng

- 260 -
Thị trấn mùa đông
không có gai, muốn là có thể trèo qua được, nhưng chẳng đứa nào
nghĩ tới chuyện trèo ra cả.”.
“Ban ngày tụi em chăn bò, nuôi gà hoặc là trồng cà rốt. Tối thì
tập trung xem chiếu bóng. Cũng chẳng khác gì ở ngoài này, thỉnh
thoảng em vào thành phố, thấy mọi người cũng chẳng khác gì mình
hồi đó. Em ở đó được một thời gian thì họ tống em ra ngoài. Em đang
lơ vơ thì gặp Alexandre, anh ấy bảo em về làm việc ở đây. Hình như
cũng lâu lắm rồi”.
Netsuko vươn vai, trước khi đu mình xuống sàn, và tôi hiểu
rằng kỳ truyện kể của ngày hôm nay đã kết thúc rồi. Tôi nhìn cô phủ
lại tấm mạng lên đôi mắt nâu, nghe lòng hỗn độn mông lung, những
muốn nói gì đó với cô mà lại chẳng biết nói gì. An ủi ư? Cô đâu giống
như kẻ cần được an ủi. Khuyên nhủ ư? Tôi là ai để mà khuyên nhủ
cô cơ chứ? Tôi gục đầu, nhìn xuống đôi bàn tay mình. Chúng rồi sẽ
làm được gì?
“Anh tên là Rei, phải không nhỉ?”. Netsuko hỏi, tôi ngước lên
để thấy cô đã lại đứng ở ngưỡng cửa phòng. “Anh tới từ Thị trấn
Mùa đông?”.
“Phải, từ Thị trấn Mùa đông”.
“Ở đó không có bệnh bọ đen sao?”.
“Không có, Netsuko ạ”, tôi mỉm cười. “Mọi người ở đó chẳng
bao giờ thực sự muốn làm điều gì cả”.
“Họ thật là ba số”. Netsuko nói thêm, khi dáng hình xanh xanh
u ám của cô đã khuất khỏi tầm mắt tôi. “Nhiều khi em nghĩ rốt cuộc
em cũng chỉ muốn yên ổn mà ăn táo”.

- 261 -
NHẬT PHI

TIN LÀNH

Đ ó là một ngày trăng tròn, và tôi đang ngồi trên bậc cửa
trước căn nhà tôn được phân cho mình. Trăng có tròn ở
Thị trấn Mùa đông? Tôi nghĩ là không. Và Ionah sẽ tiếp tục căm ghét
vầng trăng khuyết nửa đang nghiêng trên mặt đất tuyết phủ, ấy là nếu
như nàng có hé cửa và nhìn ra. Có lẽ nàng sẽ không làm thế, nàng sẽ
khép cửa và đốt lò sưởi, để giữ ấm cho Viena trong những đêm lạnh
này. Con gái tôi liệu có lớn lên mỗi ngày không, khi mà ánh trăng này
vẫn không khác qua từng đêm?
Tới một lúc, Alexandre bước đến, ngồi xuống cạnh tôi. Tôi
nhận ra sự xuất hiện của anh ta, nhưng không nói gì, anh ta cũng vậy.
Cho tới khi cảnh vật trước mắt tôi bỗng mờ đi trong một thoáng, rồi
một thoáng nữa. Từng cụm khói nhỏ lơ lửng trôi lên chắn tầm mắt
tôi, rồi tan đi rất nhanh khi ánh trăng xuyên qua. Alexandre chìa cho
tôi một bao thuốc lá gói giấy, dùng ngón tay đẩy lên một điếu thuốc
có đầu lọc vàng. Tôi đón lấy điếu thuốc, và anh ta châm lửa cho tôi
bằng một cái hộp quẹt mạ bạc. Sâu trong ký ức mơ hồ, xa hơn cả con
đường trên núi tuyết, tôi biết đây không phải là điếu thuốc lá đầu tiên
của mình.
“Tôi có rất nhiều hình dung”, Alexandre nói, khi khói từ chính
miệng tôi bắt đầu lướt trên màn trời trăng, “có lúc tôi nghĩ đó là một
con thỏ đang giã bột, cũng có khi tôi lại thấy một bà lão đang ngồi
xem thứ gì đó đặt trên đùi, và có nhiều khi, một thằng cu ngồi tựa
lưng vào gốc cây lại đang nhìn tôi”.

- 262 -
Thị trấn mùa đông
Tôi biết anh ta đang nói về điều gì. Tôi giữ khói trong vòm họng
mình trong vài giây trước khi thở đám khói ấy ra làm ba lần. Lưỡi tôi
nghe dài dại khi ngụm khói bao lấy nó, những thớ cơ nơi hai ngón
tay kẹp điếu thuốc tôi vô thức giật giật.
“Miku nói đó giống hơn với một người phụ nữ trẻ đang ngả
mình vào chính vòng tròn bao quanh cô ta. Còn Netsuko thì chẳng
thấy nó giống cái gì cả”.
“Đây cũng là một thứ tư liệu mà anh thu lượm được hay sao,
Alexandre?”. Tôi hỏi, nhìn xuống điếu thuốc đã cháy được non nửa.
“Không đâu”, Alexandre bật cười, “đây là một mặt hàng được
ưa chuộng ở Thành phố Thủy tinh. Một thứ khá xa xỉ đấy, nếu anh
hỏi tôi. Nó đôi khi cũng xuất hiện trên các màn hình thủy tinh trong
thành phố, với lời giới thiệu rằng nó sẽ mang lại những khoảnh khắc
đốn ngộ kỳ vĩ, đương nhiên, bằng ngôn ngữ của thành phố”.
Alexandre xoay mặt trước gói thuốc lá, cho tôi thấy hình một
trái táo đỏ tươi in trên đó. Rồi anh rút một điếu khác ra và châm lửa,
trước khi nói tiếp.
“Nhưng Rei này, việc của tôi không phải lúc nào cũng là đi thu
nhặt đồ cũ đâu. Nhiệm vụ trước nhất của phong trào chúng tôi là dạy
ngôn ngữ cũ cho những người muốn học, chúng tôi dạy tất cả, nghe,
nói, đọc, viết. Không phải ai cũng hứng thú, và người của chúng tôi
phải tìm kiếm và thuyết phục những người có tiềm năng”.
“Các anh tìm kiếm như thế nào?”.
“Tất cả mọi nơi chúng tôi đi tới. Trong thành phố, quanh các
màn hình thủy tinh, tại các điểm giải trí khác, trên đường, quanh các
trang trại, và đôi khi, ngay tại cửa các khu giáo dưỡng.
“Khi gặp Netsuko lần đầu tiên, tôi đã biết rằng cô ấy có tiềm
năng để trở thành một người trong chúng tôi. Tôi không nói về năng
lực hay điều kiện gì cả, tôi muốn nói về ý muốn ấy. Cô gái ấy, khi đó

- 263 -
NHẬT PHI

còn trẻ lắm, có ánh mắt của một kẻ chỉ cần một điều gì đó để làm
trong đời. Bất kỳ điều gì”.
“Vậy là anh đã thu nạp cô ấy?”. Và đã cố ý sắp xếp để cô ta tới
gặp tôi, tôi nghĩ thầm, nhưng không nói ra.
“Tôi cho Netsuko một mục đích, vừa đủ để cô ấy có một lí do
để sống…”.
“Vừa đủ để cô ấy không mong muốn một điều gì, và không quá
nhiều để thực sự trở thành mong muốn của cô ấy”, tôi cắt lời anh ta.
“Anh muốn nói thế, phải không?”.
Tôi dụi tắt điếu thuốc của mình trên mặt đất và thả nó xuống
ngay đó. Alexandre châm cho tôi một điếu khác.
“Anh nói đúng. Tôi không phủ nhận đâu. Netsuko sẽ chẳng có
cách nào khác để tồn tại ở Thành phố Thủy tinh này cả. Và nói thật
với anh tôi vốn không có ý định cứu giúp riêng một ai cả. Mục đích
của tôi là phục hồi Thành phố Thủy tinh”. Alexandre gẩy gẩy đầu lọc
bằng ngón tay cái để tàn thuốc rơi xuống.
“Và anh sẽ phục hồi thành phố này về trạng thái nào?”.
“Tôi không biết”, anh ta đáp, thả điếu thuốc mới hút được vài
hơi xuống đất và dùng chân di tắt. “Nhưng không phải là cái thành
phố mà Rhodes đang xây dựng ở đây. Thành phố Thủy tinh này đã
từng rất khác”.
“Làm sao anh biết?”.
Tôi thì biết.
“Tôi được nghe kể lại, từ một người đã từng đi khỏi thành phố
này. Tới Thị trấn Mùa đông”.
Lời của Alexandre gọi dậy một cái tên trong trí nhớ tôi, cái tên
trồi lên tới cổ họng, nhưng tôi đã vội vã nuốt nó xuống cùng với
một hơi thuốc. Tôi sặc sụa ho và Alexandre phải vỗ lưng cho tôi,
vừa vỗ anh vừa cười thích thú. Nhưng anh ta cũng chẳng cười được

- 264 -
Thị trấn mùa đông
lâu, bởi lẽ đó là khi câu chuyện của chúng tôi bị cắt ngang, bởi một
tin dữ đối với chính Alexandre và trụ sở, và rốt cuộc lại là tin lành
đối với riêng tôi.
“Alex, cháy rồi, Alex”.
Cả tôi và Alexandre bật dậy ngay khi ấy, mắt tôi lướt về phía
tiếng gọi, tìm kiếm một ánh lửa. Đó là một người đàn ông trẻ tuổi
mà đôi khi tôi có lướt qua trong những lần vẩn vơ đi quanh những
căn nhà của trụ sở. Gương mặt anh ta xám ngoét thấy rõ dưới ánh
trăng, nhưng cột khói duy nhất quanh đây chỉ là từ điếu thuốc trên
tay tôi mà thôi.
“Mark, có chuyện gì vậy?”.
“Là Gates, anh ấy đang ở đây”, Mark ngắc ngứ đáp, chừng như
anh ta cũng chẳng hiểu gì hơn chúng tôi về vụ cháy, một rắc rối, theo
cách nói của họ, tôi nghĩ vậy, “anh ấy cần gặp anh. Và anh ấy trông có
vẻ không được…khỏe lắm”.
“Dẫn tôi tới chỗ anh ta”. Alexandre nói đơn giản, bằng thứ
giọng trầm và chắc nịch, giọng của một thủ lĩnh. Một giọng khác khi
anh ta quay sang tôi khi mới dợm bước đi. “Rei, đi cùng tôi nếu anh
không phiền”.
“Tôi thì không, nhưng các anh thì sao?”. Tôi đáp, điếu thuốc
trên tay đã tắt và tôi thả nó xuống chân. “Tôi chỉ là người ngoài”.
“Anh là người chúng tôi đã chờ đợi”.

Theo lời giới thiệu ngắn của Alexandre, tôi được biết Gates là
nhân viên mật vụ được cài vào làm việc trong tòa thị chính thành
phố. Nhiệm vụ của anh ta là thăm dò những công chức ở đó, thu
thập ý kiến, gạn lọc ra những người có tiềm năng và quan trọng hơn,
thông tin cho trụ sở về những quyết sách mới của nhà chức trách.
Bản thân việc anh ta có mặt ở trụ sở vào lúc này đã là một sự bất
thường, một vụ cháy.

- 265 -
NHẬT PHI

Khi chúng tôi đến nơi, Gates đang nửa nằm nửa ngồi trên
giường đơn trong phòng bệnh xá, cũng chính là nơi tôi tỉnh dậy để
rồi gặp Miku. Bên cạnh anh là Netsuko, cô gái đang đỡ lấy một ly
nước trong khi anh ta uống từng ngụm nhỏ. Gates là một người đàn
ông nhỏ thó, với hàng ria mép mỏng, khuôn mặt đặc biệt dài so với
thân mình. Sắc diện anh ta tím tái, đờ đẫn như thể vừa bước ra từ địa
ngục. Alexandre đứng nán lại nơi cửa phòng, chỉ bước vào khi thấy
Gates đã uống nước xong và Netsuko đã cầm ly lùi ra. Cả khi đang
uống nước và lúc này, ánh mắt người đàn ông vẫn luôn hướng vào
một điểm nào đó lơ lửng chỉ chừng vài phân trước mặt anh ta, như
thể một nỗi dằn vặt nào đó đã không cho phép anh ta nhìn ra xa hơn.
“Gates, anh bạn…”.
“Alex…”. Gates ngước lên trong một giây, vỡ tung kích động,
hai bàn tay anh ta úp lấy mặt, hay đúng ra là tự cào lên mặt mình.
“Chúng đã tra tấn tôi. Tôi không còn lựa chọn nào khác. Anh phải
thấy…”.
“Bình tĩnh nào, Gates”, Alexandre tiến tới, nắm lấy hai vai người
cộng sự. “Tôi sẽ không trách anh. Bình tĩnh nói tôi nghe”.
“Hắn biết, Alex, Rhodes biết…”.
“Từ khi nào?”.
“Tôi không biết. Chúng bắt tôi giữa đêm, tra khảo tôi, tra tấn
tôi…”. Chừng như vừa nhớ ra được điều gì, Gates sững người lại trong
một thoáng, rồi lại tiếp tục tự cào mặt mình, gương mặt anh ta thậm
chí tiếp tục tái đi. “Là lỗi của tôi. Đúng vậy, là lỗi của tôi”.
“Là lỗi của anh, đúng”, Alexandre đáp, hoàn toàn bất ngờ.
“Chuộc lỗi bằng cách kể chi tiết cho tôi anh đã phạm sai lầm thế nào”.
“Là con bé ấy”, Gates nói qua kẽ răng. “Con bé tạp vụ. Nó đã
đọc trộm báo cáo của tôi khi tôi không chú ý. Tôi không thể ngờ có ai
đó ở tòa thị chính có thể đọc ngôn ngữ cũ. Chắc chắn nó đã chỉ điểm
cho Rhodes”.

- 266 -
Thị trấn mùa đông
“Anh đã cho chúng biết những gì? Và vì sao chúng lại thả anh
về đây?”.
“Tên anh, Alex, tôi xin lỗi. Tôi đã cho chúng biết tên anh”. Người
đàn ông bắt đầu nấc lên. “Chúng thả tôi về, để tôi chuyển cho anh…”.
Gates chỉ một ngón tay run run về phía bàn, chỉ tới khi đó, tôi
mới nhận ra trên đó là hai phong bì lớn. Rồi tôi nhận ra nét chữ tròn
trịa nắn nót của Makoto trên một trong hai tấm phong bì. Tôi nhặt
tấm phong bì đó lên bằng bàn tay run run, cảm giác niềm vui mừng
nhẹ nhõm đang chảy tràn ra khắp cơ thể mình và có thể khiến tôi
buông lơi hết mọi sức lực dù chỉ để đứng vững.
“Gửi Rei. Họ nói mấy lá thư này sẽ được gửi tới chỗ có người từ
Thị trấn Mùa đông tới. Nên em quyết định gửi kèm cả thư cho anh
nữa. Để anh biết rằng em vẫn an toàn”.
“Nếu là Rei thật, anh sẽ phải trả lời được câu hỏi này: Chai
Royal Salute đã được uống hết trong bao nhiêu tuần rượu?”.
“Bảy”, tôi thì thầm trước khi cầm lên bì thư đề tên mình và đi
ra khỏi phòng bệnh xá.

- 267 -
NHẬT PHI

THƯ CỦA MAKOTO


TỪ TÒA THỊ CHÍNH THÀNH PHỐ

G ửi Rei,

Em mong thư này tới được chính tay anh. Em vẫn luôn tin
anh đang được an toàn ở đâu đó. Anh sẽ không dừng lại cho đến khi
hoàn thành nhiệm vụ của mình đâu, phải không? Chắc hẳn anh đã
lo lắng lắm, khi tỉnh dậy mà không thấy em đâu. Em xin lỗi. Em cũng
đã không thể hiểu được chuyện gì đã xảy ra nữa. Em sẽ kể đúng như
những gì em trải qua từ khi đó, rồi anh hãy viết lại cho em để kể phần
anh nhé.
Khi anh ngất đi rồi, bọn người xám cũng bỏ đi luôn, chẳng
quan tâm gì đến em nữa. Em nghĩ sau khi đánh anh một hồi thì
chúng nó cũng quên mất vì sao chúng lại đánh anh rồi. Tất cả là tại
em. Nhưng em nghĩ anh đã đúng, em không nên nhắc lại cho chúng
điều đó. Nhìn con chim bị bắn, rồi anh bị đánh, lần đầu tiên em cảm
thấy tức giận nhiều hơn là sợ hãi. Nhưng khi anh ngất đi, và chỉ còn
lại em và anh trong hẻm, em lại bắt đầu hoảng sợ. Anh chỉ ngất đi
thôi, em thì lại chẳng làm gì được. Em cứ lay mãi mà anh không tỉnh
lại. Em không đủ sức mang anh đi xa, mà thành phố này lại không
có bà Astrid. Em chẳng biết gì về nơi này cả. Nhưng em sẽ phải làm
gì đó.

- 268 -
Thị trấn mùa đông
Em kéo anh vào góc đường, để anh tựa vào tường. Đó là tất cả
những gì em có thể làm được với anh. Môi và mắt anh đã thâm tím
hết cả, nhưng ít nhất là không có vết thương nào nghiêm trọng cả.
Nên em nghĩ em có thể để tạm anh lại đó để đi tìm người giúp. Em
lao ra khỏi con hẻm, cảm giác như vừa tung mình vào một khu rừng
lạ lẫm. Nếu được chọn, em đã không làm thế.
Thành phố này thật sự đông đúc, và không phải ai cũng mặc
áo xám giống như bọn khốn kiếp kia, nên thoạt đầu em ngỡ rằng sẽ
chẳng khó khăn gì để gặp được một ai đó sẵn lòng giúp mình. Em
đứng bên lề đường để kêu cứu, nhưng những chiếc xe hơi lao qua
nhanh quá, và xe nào xe nấy đều bịt kính kín mít hết nên em đoán họ
không nghe thấy. Rồi em nhận ra những người đi bộ trên lề đường
cũng đang đi rất nhanh. Tất cả bọn họ đều đang mang một gương
mặt tất bật, vội vã, như thể họ chỉ cần chậm trễ một giây thôi là thế
giới của họ sẽ sụp xuống vậy. Em rất sợ việc mình có thể đang làm
phiền ai đó, phiền tới mức khiến cho cuộc sống của họ bị lạc nhịp
hay trật trìa. Nhưng khi ấy không phải là lúc để em ngại ngùng.
Chị ơi, xin giúp em. Em nói với một người phụ nữ, một chị gái
tầm tuổi Sofia. Chị ta đeo túi xách và cầm trên tay một chiếc cốc giấy,
chị ta đang dán mắt vào đó như thể đang tự ngắm mình qua thứ chất
lỏng trong cốc. Khi em tiến lại gần, chị ta bị giật mình, chiếc cốc giấy
tuột khỏi tay, đổ tung tóe lên mặt đất một chất lỏng đỏ quạch. Chị ơi,
xin giúp em. Em nhắc lại. Anh của em bị đánh ngất ở trong này. Ở
gần đây có bệnh xá nào không ạ?
Nhưng người phụ nữ có vẻ không hiểu em. Chị ta mở tròn mắt,
rồi há hốc miệng để lộ cái lưỡi bị nhuộm đỏ lòm. Đó không còn là
sự bất ngờ nữa, em nhận ra chị ta đang sợ hãi. Trước khi em kịp nói
thêm gì, chị ta đã vội vàng lách qua em và chạy đi mất hút.
Có những người đã hoảng sợ như thế, có những người bình

- 269 -
NHẬT PHI

tĩnh hơn, giơ tay ra hiệu cho em dừng lại và lắc đầu bước đi, cũng có
những người chẳng buồn dừng lại để nghe em nói, cứ thế lao đi, gạt
em ra hay xô thẳng vào em. Thành phố này không hiểu em, và cũng
không muốn hiểu em. Dường như người duy nhất em có thể giao
tiếp lại đang bất tỉnh ở trong hẻm mất rồi.
Lạc lõng, tuyệt vọng, cô độc, em không thể kìm được nữa, em
bật khóc, thu mình vào một góc đường, gục đầu lên hai đầu gối.
Không có tuyết rơi mà vai em vẫn run lên vì lạnh. Em đã cố ngăn
mình lại, cố giữ bình tĩnh, bởi vì giờ là lúc em phải hành động, không
có ai che chở, nuông chiều em nữa. Nhưng sau cùng em chỉ là một
con bé yếu đuối, mít ướt, luôn phải dựa vào ai đó. Mẹ, Ionah, bà
Astrid, và anh.
Có ai đó đang lay vai em, mới đầu em tưởng rằng đó là vai em
vẫn đang rung lên khi em khóc, cho đến khi người đó thực sự đã siết
mạnh vào hai vai em mà lắc. Em lau nhanh nước mắt vào cườm tay
rồi ngẩng lên để thấy hai bóng người khổng lồ đang phủ lên mình.
Đó là hai người đàn ông cao lớn, khổ người và trang phục tương
tự nhau, cùng một màu vàng hoe hoe với hàng nút áo đặc biệt lớn.
Em không thấy rõ được mặt họ do sấp bóng, nhưng em hình dung
họ cũng đang đeo cùng một khuôn mặt. Một vài tia sáng vươn ra từ
vành mũ họ, như thể mặt trời đang cố nhoi lên khỏi họ để vẫy em.
Các chú ơi, giúp cháu với. Em nói, tóm lấy chân một trong hai
người. Anh cháu bị đánh ngất ở trong hẻm kìa.
Người đàn ông để mặc em giữ chân mình, ông ta quay sang
nói gì đó với người đi cùng. Chắc anh cũng biết phải không? Họ
nói ngôn ngữ giống chúng ta, nhưng theo một cách mà mình không
thể nào hiểu được. Từ ngữ của họ rời rạc, đứt đoạn và hết sức ngẫu
nhiên. Đến bây giờ thì em đã học hiểu được phần nào rồi, nhưng khi
đó thì em có cảm giác họ như đang giễu cợt mình vậy. Sau khi trao

- 270 -
Thị trấn mùa đông
đổi với nhau gì đó, một trong hai người chợt đưa tay ra trước mặt em,
vẩy vẩy như đang đòi cái gì đó. Em có gì để đưa cho họ kia chứ? Vậy
là em chỉ rối rít nhắc lại lời cầu cứu, hy vọng rằng cử chỉ và thái độ
của em sẽ đánh động được điều gì nơi họ. Nhưng hình như là không.
Chắc chắn là không rồi.
Camus. Một người nói.
Camus. Người kia gật đầu.
Rồi, hoàn toàn không hề báo trước, họ cúi xuống, một người
xốc một bên tay em và bắt đầu kéo em đi. Em cố gắng vùng ra, nhưng
không thể. Đó là hai người đàn ông lực lưỡng, còn em chỉ là một đứa
con gái thảm hại. Hai người đàn ông thậm chí đã nhấc bổng em lên
khỏi mặt đất, để hai chân em khua khoắng như một con vịt đần độn.
Em gào lên, kêu cứu những người xung quanh, nhưng một lần nữa
không ai lắng nghe em cả. Ánh mắt bàng quan của họ cho em cảm
giác rằng chính em mới đang sai và hai người đàn ông đang thực thi
một thứ gì đó như là nhiệm vụ chứ không phải là ngược lại. Nhưng
chẳng phải bất kỳ người xám nào cũng có thể trút bỏ áo khoác để
mặc lên một màu nào đó khác hay sao? Tại sao họ lại không nghĩ
như thế kia chứ? Ngực em thắt lại khi nghĩ rằng em đang bất lực để
mặc anh lại trong hẻm. Người em rũ ra sau một hồi chống cự, và rồi
em cũng bắt đầu lịm đi, chỉ còn mơ hồ nhận thấy họ đã hạ em xuống
thấp hơn, có lẽ vì mỏi tay, lệt xệt lê hai bàn chân em trên nền gạch.
Họ đưa em tới một trong số những căn nhà gạch hiếm hoi lọt
thỏm trong một rừng những tòa nhà cao tầng bằng kính của thành
phố này. Camus, Camus, họ cứ liên tiếp nói như vậy và chỉ vào em,
với bất kỳ người nào họ gặp trong căn nhà đó, những người mà em
đoán là đồng sự với họ bởi lẽ ai ấy đều mặc cùng một bộ đồ màu
vàng nhờn nhợt ấy. Cứ Camus, Camus. Em phát điên lên được. Tại
sao họ không nói với nhau trọn một câu kia chứ? Có một Camus

- 271 -
NHẬT PHI

ở đây, chẳng hạn, ít ra là như thế. Hay là cô bé này bị Camus, đang


Camus, chúng ta cần phải làm gì đó. Nói như vậy thì tốn thời gian
lắm hay sao?
Em được đưa vào một phòng kín, nơi luôn có ít nhất hai người
áo vàng đứng chắn cửa, bị ấn xuống ghế ngồi bên một cái bàn lớn.
Căn phòng không rộng lắm, nhưng trống trải, không có đồ đạc nào
khác ngoài cái bàn, cái ghế em đang ngồi và một cái ghế nữa. Em
không thể ra ngoài, không phải bằng sức mạnh hay tốc độ, hai viên
gác cửa khỏe và nhanh hơn em rất nhiều, cũng không phải bằng một
mánh khóe nào, vì họ cũng không hiểu được những gì em nói. Em
nghĩ đến việc giả bệnh, và nếu như họ có chút trắc ẩn nào, chắc hẳn
họ sẽ phải đưa em tới một bệnh xá và em sẽ lợi dụng lúc họ không
chú ý để trốn ra, quay lại con hẻm và đưa anh tới đó, cho dù có phải
kéo lê anh đi khắp phố.
Nhưng em chưa kịp tiến hành kế hoạch đó thì một người khác
đã bước vào phòng. Đó là một người đàn ông đường bệ, hơi có phần
ục ịch, ông mặc một bộ vest tối màu nghe chừng có vẻ muốn bung
hết cả nút ra và đeo cà vạt chấm bi. Hàng râu kẽm của ông lem nhem
một màu vàng vàng có lẽ là từ nước sốt mẩu bánh mà ông đang cầm
trên tay. Ông ta nhét nốt mẩu bánh vào miệng và phồng má nhai
trước khi ngồi xuống ghế đối diện em qua cái bàn. Vừa mút ngón
tay, ông ta vừa nhìn em bằng ánh mắt vô thần trống rỗng, như thể
ông đang không biết mình ở đây với mục đích gì. Và em quyết định
không chờ đợi một câu hỏi nào cả.
Chào chú, con là Makoto. Em nói, rất nhanh, nhưng rành rọt.
Con đến từ Thị trấn Mùa đông. Có một người bạn của con…
Người đàn ông đột ngột đập bàn, ông mở tròn mắt và há hốc
miệng, một mẩu thức ăn rớt xuống cái bụng phệ của ông. Ông tỏ vẻ
ngạc nhiên, nhưng đó không phải cái ngạc nhiên như em đã thấy

- 272 -
Thị trấn mùa đông
ở người phụ nữ trên phố. Chị ta ngạc nhiên sợ hãi trước thứ mình
không biết, còn người đàn ông đang ngạc nhiên vì thứ mình đã luôn
biết, em tin thế. Không để em kịp nói hết, ông đứng bật dậy, suýt chút
nữa đã kéo cả cái ghế theo, gạt hai người gác cửa để lao ra ngoài. Em
ngơ ngác, nhưng phần nào cảm thấy dễ chịu vì ít ra ông cũng chưa
kịp lặp lại từ Camus kia.
Em đứng dậy, đi ra phía cửa, nhưng hai người đứng gác chặn
em lại. Và khi em còn chưa kịp nói gì với họ thì người đàn ông râu
kẽm đã quay trở lại. Gương mặt ông mang một vẻ hồ hởi căng thẳng,
mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán ông. Ông mỉm cười một cách cố gắng,
nhưng chân thành.
À…không lo. Ông nói bằng một sự nỗ lực thật sự, chừng như
ông phải liên tục tư duy mỗi khi nói ra một chữ để tìm ra chữ tiếp
theo. Không gì hết. An toàn. Ổn.
Không ổn đâu ạ. Em rối rít. Còn một người bạn của con đang
bị thương…
Người đàn ông tiếp tục cười, một nụ cười pha trộn giữa động
viên và lảng tránh, và gật đầu. Em nhận ra rốt cuộc ông cũng giống
như những người kia thôi, những từ ngữ rời rạc là tất cả những gì
ông có thể hiểu và truyền đạt. Ông dùng tay ra hiệu, không rõ là cho
ai, và hai người canh cửa bắt đầu nắm lấy vai em và dẫn em đi theo
ông. Em được dẫn vào một cỗ xe hơi đậu trước cửa căn nhà, với hai
người áo vàng ngồi kẹp hai bên ở băng ghế sau và chính người đàn
ông râu kẽm cầm lái. Em có chút e ngại. Lần cuối em ngồi trên một
chiếc xe hơi lại chính là chuyến đi đưa em tới sự mất mát lớn nhất
trong đời mình. Nhưng em vẫn ngồi lên đó và đi theo họ.
Tới đó thì em phải xin lỗi anh một lần nữa, Rei ạ. Em thực sự
đã kiệt quệ, chúng ta đã không ăn gì kể từ sau khi rời khỏi Hành lang
Ghi nhớ, chỉ ngủ được một giấc ngắn ngủi trước khi đối mặt với quá

- 273 -
NHẬT PHI

nhiều. Em biết anh cũng vậy, và không hề ít hơn em một chút nào.
Nhưng em đã không còn sức nữa, dù chỉ để cố gắng nói thêm điều
gì đó. Chỉ riêng việc giữ cho mình tỉnh táo đã hút lấy toàn bộ năng
lượng còn lại trong em rồi. Và hơn nữa, một phần nhỏ trong ý thức
còn lại của em mách bảo rằng chúng ta đang đi tới điểm ngoặt, và em
thực sự muốn biết điều gì đang chờ đợi mình, với những con người
này. Một điều gì đó sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Thành phố Thủy
tinh này, đưa chúng ta gần hơn tới vận mệnh của mình. Em xin lỗi,
Rei. Em sẽ hối hận đến chết mất nếu như có chuyện gì đó xảy ra với
anh trong khi ấy. Em xin lỗi.
Đích đến của chuyến xe ấy là một tòa nhà bằng kính, một tòa
tháp thủy tinh thì đúng hơn. Ngay cả giữa trùng trùng điệp điệp
những tòa nhà kính khổng lồ, tòa tháp này vẫn cứ vươn lên vượt trội
hơn hết thảy, vươn qua cả những đám mây. Em nghĩ đó thậm chí có
thể là tòa nhà cao nhất cả thành phố này. Mà đúng là thế thật, vì đó
chính là tòa thị chính của Thành phố Thủy tinh, công trình quan
trọng bậc nhất của toàn thành phố.
Người đàn ông râu kẽm rõ ràng là một yếu nhân, hai cánh cửa
bằng kính của cổng chính tòa nhà tự động trượt sang hai bên khi ông
bước đến gần, và tất cả những người có mặt cũng đều tự động đứng
dạt ra để nhường đường cho ông. Họ cúi đầu khi làm như thế. Khi
em nói rằng họ tự động, tức là họ thực sự tự động, như một cái máy
được lập trình để tránh lối và cúi đầu mỗi khi người đàn ông này
bước qua. Những gương mặt như bị đóng băng trong một giây, mọi
câu chuyện ngay lập tức dừng lại, để rồi tiếp tục ngay sau đó, khi ông
đã đi qua. Có thể hàng ria của ông vận hành như một công tắc đối
với họ.
Khi đã quen với điều đó và thôi không còn chú ý vào từng biểu
cảm trên gương mặt người, em mới nhận ra mình đang ở trong một

- 274 -
Thị trấn mùa đông
sảnh đường cực kỳ lớn, cao đến mức em tưởng như có thể đặt nguyên
cả đỉnh núi tuyết vào trong đó, và rộng đến mức có thể chứa được
tất cả mọi người của Thị trấn Mùa đông mà vẫn chừa ra được nhiều
chỗ cho một vài mảnh vườn nữa. Mà quả thực số lượng người có mặt
trong sảnh đường ấy cũng phải ngang ngửa với dân số thị trấn. Tất
thảy bọn họ đều có vẻ vội vã, không khác gì hơn những người em
đã bắt gặp trên phố. Nhiều người cầm cốc giấy và uống nước trong
đó thành nhiều ngụm nhỏ, ngắt chừng nhưng liên tục. Có những
người mang trên tay những hộp vuông, và không ngừng để mắt tới
nó, chừng như họ quan tâm tới cái hộp hơn chính những bước chân
của mình.
Em được dẫn vào một buồng thang máy ở chính giữa sảnh
đường, tới giờ thì chỉ còn người đàn ông râu kẽm đi cùng em. Em nhớ
ở trường học của em ngày trước cũng có thang máy, nhưng buồng
thang máy này thì hoàn toàn khác với những gì em nhớ. Buồng thang
máy này đúng ra là một lồng kính, chạy dọc theo một ống thủy tinh,
vươn cao quá cả trần sảnh đường. Em có một chút ái ngại khi di
chuyển lên cao như thế ở chính giữa một sảnh đường ních người,
trong bộ váy ngắn đồng phục này. Nhưng không ai có vẻ sẽ ngước lên
cả. Họ nhìn ngang, và nhìn xuống bất cứ thứ gì trên tay. Khi lên tới đủ
cao, em nhìn được toàn cảnh sảnh đường, và nhận ra ngay cả khi ai
nấy đều vội vàng như thế, họ vẫn cứ bước đi theo những đường thẳng
tắp, không ai va vào ai dù không phải ai cũng đang nhìn thẳng, những
bước chân tất tả đan vào nhau, cả một tấm lưới bận rộn khổng lồ.
Rồi buồng thang máy đưa em lên cao quá cả trần sảnh đường,
qua rất nhiều tầng lầu trên đó, những hành lang chạy ngang qua
trước mắt em thưa dần người. Tai em ù đi, và em bắt đầu cảm thấy
chóng mặt. Em lảo đảo và khuỵu xuống trên hai đầu gối trước khi
cánh cửa thang máy bắt đầu mở ra. Em đói, và có lẽ chuyến đi theo

- 275 -
NHẬT PHI

chiều thẳng đứng này đã là quá sức đối với em. Tại sao con người có
thể thực hiện những điều kỳ diệu như tự nâng mình lên xuyên qua
cả những đám mây, nhưng lại không thể đơn giản hiểu được một con
bé đang cần sự giúp đỡ, hả Rei?
Họ mang cho em sữa, và bánh ngọt. Em không nhận ra đó là
sữa đâu nhé. Khi họ đặt trước mặt em một ly sứ đựng một chất lỏng
màu trắng, tất cả những gì em có thể nghĩ đến chỉ là dùng chút sức
lực còn lại để đưa nó lên miệng thôi. Chỉ đến khi dòng sữa trôi thật
êm qua cổ họng, và để lại đó một dư vị ngọt lành, em mới nhận ra thứ
em đã từng uống hàng tối, khi em còn ở bên mẹ. Mẹ luôn nói uống
sữa rất tốt cho tụi trẻ đang lớn như em, sữa sẽ giúp em cao ráo và rắn
rỏi. Và anh biết không, Rei, dẫu cho Thành phố Thủy tinh này cho tới
khi ấy vẫn luôn tỏ ra thật khắc nghiệt với em, em vẫn không có một
chút hồ nghi nào khi ly sữa được đặt trước mặt mình. Họ không hiểu,
nhưng họ cũng không ác, em tin thế. Bánh ngọt thì em nhận ra ngay,
có lẽ vì sữa đang giúp đầu óc em sáng rõ hơn. Một miếng bánh hình
tam giác, với hai lớp trắng và nâu. Vani và chocolate. Rei này, dù cho
em mới học chữ trở lại gần đây thôi, mà hiểu biết của em cũng không
đến nỗi nào đấy chứ?
“Cứ thong thả mà ăn, cô gái”. Có người nói, em nghĩ lúc đó em
đang ăn hùng hổ lắm. Chưa kể việc đã không ăn gì trong cả một ngày,
em không thể biết được đã bao lâu rồi mình chưa được ăn thứ gì khác
ngoài củ cải đỏ và bánh mì đen. Sữa và bánh ngọt còn hơn cả một sự
gợi nhớ. Nếu không vì quá mệt, có khi em đã lại bật khóc rồi.
Vâng, em đáp, mà không ngẩng lên. Em nghe thấy tiếng người
đó, một người đàn ông, kéo ghế ngồi xuống đối diện em. Người đó
hẳn đang ngồi nhìn em ăn. Em cảm thấy thật ấm áp. Là vì bánh ngọt
hay vì ánh mắt dịu dàng của người đó nhỉ?
“Nếu muốn dùng thêm gì thì cứ bảo tôi nhé, cô gái đến từ Thị
trấn Mùa đông”.

- 276 -
Thị trấn mùa đông
Em có tên mà. Em đáp. Em là Makoto.
Đó là cuộc gặp đầu tiên giữa em và Rhodes, thị trưởng của
Thành phố Thủy tinh. Ngay khi vừa biết tên và địa vị của anh, em
đã lập tức nói về tình trạng của anh, rằng em không thể ở đây mà
ăn ngập họng trong khi anh đang bất tỉnh trong con hẻm vắng nơi
thành phố xa lạ. Rhodes chăm chú lắng nghe em, trông anh ấy có vẻ
quan tâm thực sự. Anh ấy bảo em cứ ngồi lại đó, và anh ấy sẽ lo về
anh. Em nghĩ mình có thể tin Rhodes.
“Makoto, em hãy cứ ở lại đây, trong khi chúng tôi tìm Rei giúp
em”. Rhodes nói khi quay trở vào phòng. Chúng tôi không thể mạo
hiểm để em đi lang thang ở ngoài kia được. Em thấy đó, giữa cư dân
Thành phố Thủy tinh và em có, ừm, Rhodes ngẫm ngợi trong vài
giây, một vấn đề giao tiếp nho nhỏ. Áo vest đen. Quần đen. Giày đen.
Cà vạt xanh.
Còn cả cặp mắt sâu và ấm và giọng nói điềm tĩnh rất đáng tin
cậy nữa, em có nhắc tới mà, nhưng Rhodes đã bỏ qua rồi.
Họ sắp xếp cho em một căn phòng nhỏ đơn giản, một căn
phòng không có tủ gỗ chứa những trang giấy bí mật, một căn phòng
tối giản với nệm để ngủ và nhà tắm. Rhodes nói đó là tất cả những gì
họ có thể sắp xếp cho em, cũng như với những nhân viên hành chính
ở lại trong tòa thị chính.
Vậy em cũng là một nhân viên của tòa thị chính rồi, em nói,
công việc của em là gì?
Em không phải làm gì cả, Rhodes đáp, chúng tôi sẽ cần tới sự
giúp đỡ của em, một điều chỉ em mới có thể làm.
Điều gì mà chỉ em mới có thể làm hả Rei? Em chỉ là một con
bé yếu ớt luôn cần dựa vào một ai đó. Nhưng em không nói điều đó
với Rhodes.
Em sẽ giúp anh khi nào anh cần, Rhodes. Nhưng em cũng

- 277 -
NHẬT PHI

không muốn ở không ở đây. Cho đến khi nào em gặp lại Rei, anh hãy
cho em một công việc gì đó đi, việc gì đó ai cũng có thể làm được ấy.
Em kiên quyết lắm, em muốn có một giá trị nào đó, dù là nhỏ
nhoi. Gặp được thị trưởng Rhodes đã là một duyên lành đối với em
rồi và em không muốn trở thành một gánh nặng. Trừ trẻ con ra, ai
cũng phải làm gì đó để có thức ăn và nơi ở, anh biết mà. Ở Thị trấn
Mùa đông là vậy. Em cũng không còn là trẻ con nữa.
Ở Thị trấn Mùa đông, Rhodes trầm tư, hình như bốn chữ
ấy luôn luôn khua lên một điều gì đó trong anh ấy, thì em làm gì,
Makoto?
Em giúp Ionah lấy củi, làm vườn và thu hoạch củ cải. Đại khái
là những việc đơn giản thôi. Và thế là em bắt đầu làm việc tại tòa thị
chính Thành phố Thủy tinh như một cô tạp vụ, quét tước, lau dọn
tầng lầu cao nhất của tòa nhà. Và chờ tin về anh.
Anh đã ở đâu suốt những ngày qua thế? Em đã rất nóng ruột,
khi mỗi ngày Rhodes đều lắc đầu khi em hỏi, nói rằng họ đã không
tìm thấy anh, không tìm thấy một ai nói một ngôn ngữ khác, chưa kể
tới áo vest đen hay cà vạt xanh. Nhưng một phần trong em vẫn cảm
thấy yên lòng, anh biết không. Vì như thế vẫn còn tốt hơn là tìm thấy
một người mặc áo vest đen và đeo cà vạt xanh, nhưng không nói gì
cả. Em vẫn có thể hy vọng, và em tin, rằng anh cũng đang an toàn ở
một nơi nào đó.
Niềm tin của em đã đúng, dù rằng nó được chứng minh không
thực sự theo cách mà em mong muốn. Rhodes thông báo cho em, dù
em cảm thấy anh ấy không thực sự chia sẻ niềm vui với em. Sau nụ
cười có phần gắng gượng là một thỉnh cầu. Trong khi em rất mừng
khi đã có thể liên lạc với anh cũng như làm một điều gì đó cho thị
trưởng Rhodes, em vẫn cảm thấy lấn cấn với điều mà anh ấy nhờ
em. Một thông điệp gửi tới những người chống đối tòa thị chính

- 278 -
Thị trấn mùa đông
thành phố. Những người mà Rhodes nói là đang ngấm ngầm phá
hoại những gì mà anh ấy và các đồng sự đang nỗ lực gìn giữ. Bỗng
nhiên anh và em lại đang sống trong hai thế lực đối đầu. Nhưng
chúng mình không thuộc về bất cứ bên nào đâu, anh nhỉ? Chúng
mình đến từ Thị trấn Mùa đông mà.
Có nhiều lắm những điều em muốn kể anh nghe về nơi này.
Thành phố Thủy tinh là cả một thế giới lạ lẫm và thú vị đối với em,
dẫu cho em có gặp khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Mà em cũng
đã học được một vài từ trong ngôn ngữ của họ rồi đấy nhé. Nhưng
hết giấy mất rồi. Rhodes nói giấy là một nguồn tài nguyên rất hữu
hạn ở đây. Nên em phải dừng rồi. Giá mà em đã mang được một ít
giấy từ Hành lang Ghi nhớ đến đây. Ôi, em nhớ thị trấn của chúng
mình quá.
Anh hãy an toàn và khỏe mạnh nhé. Mong sớm gặp lại anh.
Makoto

- 279 -
NHẬT PHI

TIN DỮ

T ôi run run gấp lại lá thư của Makoto, năm tờ giấy, mười
mặt kín chữ, miết ngón tay trên mặt nhẵn của tờ giấy ngoài
cùng, rồi cất chúng trở lại vào phong bì, nghe lòng đầy uỷ an khi biết
cô bé vẫn được an toàn và khỏe mạnh. Nhưng cũng như Makoto, tôi
biết mình cũng đang ở một tình thế khó xử. Có vẻ như chúng tôi sẽ
khó lòng gặp lại nhau sớm đến thế.
Tôi quay trở vào trong phòng bệnh xá, nơi đã trở nên tĩnh lặng,
chỉ còn vang tiếng bước chân bồn chồn của Alexandre. Anh ta đang
cầm trên tay lá thư thứ hai, từ xa tôi vẫn nhận ra lá thư ấy cũng được
viết bởi Makoto, hẳn là theo yêu cầu của viên thị trưởng. Gates đã
ngủ. Có thật chính Makoto đã chỉ điểm cho Rhodes tới bắt anh ta
như anh ta đã cáo buộc? Nếu như Makoto biết rằng người đàn ông
này sẽ phải chịu đựng những gì, cô bé chắc chắn đã không làm thế.
Tôi cảm thấy vừa ái ngại vừa biết ơn những ngặt nghèo Gates đã phải
trải qua để mang về đây cho tôi lá thư của cô bé. Nhưng những gì tới
tiếp sau đây mới là điều quan trọng.
Alexandre dừng bước khi nhận ra tôi đã trở vào phòng. Một
thoáng căng thẳng cau có chưa kịp tan đi trên gương mặt anh khi
anh ngước lên, cố gắng mỉm cười với tôi. Bàn tay anh cầm lá thư hạ
xuống, len lén vò nát tờ giấy.
“Vậy là cô bé Makoto bạn anh vẫn ổn, tôi rất mừng”.
“Cảm ơn anh”. Tôi đáp, coi như chỉ nhìn thấy niềm phấn khởi
nơi anh. “Tôi rất tiếc về chuyện của Gates”.

- 280 -
Thị trấn mùa đông
“Đây là chuyện sớm muộn thôi”. Alexandre xua tay, anh nhìn
sang người đàn ông đang ngủ, vẻ bất nhẫn. “Tôi cũng đã quá mạo
hiểm với tính mạng cộng sự của mình”.
Alexandre ra hiệu cho tôi đi ngoài cùng anh ta. Mark đi theo
chúng tôi, gật đầu chào rồi rút đi, anh ta rõ ràng hãy còn chưa hết
bàng hoàng. Netsuko ở lại bệnh xá để chăm sóc Gates, cô lí nhí điều
gì đó khi tiễn chúng tôi, một điều gì đó trong ngôn ngữ của thành
phố này mà tôi không hiểu.
“Alexandre, họ nhắn gì cho anh vậy?”. Tôi hỏi, khi chúng tôi đã
ra khỏi căn nhà hộp.
“Họ muốn anh chọn phe”. Alexandre đáp đơn giản. “Hoặc anh
về với họ, trở thành một người trong tòa thị chính. Hoặc tôi ra đầu
thú và họ sẽ đưa Makoto tới cho anh”.
“Tại sao tôi lại là người được chọn, và phải chọn chứ?”.
“Vì tôi thì chẳng có lựa chọn nào cả”. Người thủ lĩnh bật cười
đắng ngắt. “Họ biết rằng chúng tôi sẽ không thể nào làm được gì
nếu như không có anh. Cả hai phương án đều sẽ dẫn tới thất bại của
phong trào. Chỉ là theo cách nào mà thôi”.
“Tôi quan trọng đến thế sao, Alexandre?”. Tôi chìa tay ra, và
Alexandre chuyền cho tôi một điếu thuốc. “Anh luôn nói rằng tôi là
người mà các anh chờ đợi. Nhưng rốt cuộc tôi cũng chẳng biết vai
trò của mình là gì”.
“Anh là chìa khoá, Rei”. Alexandre châm thuốc cho tôi. “Và có
thể là cả Makoto nữa”.
“Người trăm năm đi tìm chìa khóa.
Cửa muôn đời vẫn mở đấy thôi”.
“Anh nói gì?”.
“Tôi sẽ cho anh câu trả lời về lựa chọn của tôi”. Tôi nói, đặt tay
lên vai Alexandre. “Chừng nào tôi có đầy đủ câu trả lời cho riêng
mình. Và anh sẽ phải lo điều đó đấy”.

- 281 -
NHẬT PHI

“Tôi sẽ làm tất cả trong khả năng”.


Đó là điều tôi hoàn toàn không nghi ngờ. Alexandre đứng lại tự
châm cho mình một điếu thuốc. Trăng đã lặn. Đâu đó sau những tòa
tháp thủy tinh phía xa xa kia. Có thể chính là phía sau tòa thị chính
chọc trời.
“Camus”. Tôi cười, chỉ để cười mà thôi. “Camus, thủ lĩnh à”.

- 282 -
Thị trấn mùa đông

NGƯỜI KỂ CHUYỆN BẰNG NGÔN NGỮ CŨ

N gôn ngữ phổ thông sử dụng trong Thành phố Thủy tinh
được phát triển qua nhiều thời kỳ, từ chính thứ mà ngày
nay những người còn biết tới gọi là ngôn ngữ cũ. Mới đầu đó là những
biến đổi rất vi tế trong việc sử dụng ngôn ngữ, một hình thức hoán
dụ được chấp nhận rộng rãi. Với sự phát triển của công nghệ truyền
dẫn hình ảnh và âm thanh qua màn hình thủy tinh, những ý nghĩa
cũ trong một lớp vỏ ngôn từ mới được lan tỏa khắp nẻo thành phố,
dần dần thay thế hoàn toàn ngôn ngữ cũ. Phép hoán dụ bị lãng quên,
ngôn từ mới và ý nghĩa cũ dần hòa làm một. Gần như chẳng mấy ai
nghĩ tới việc truy tìm ngược về nguồn gốc những từ ngữ họ dùng
hàng ngày. Dẫu sao thì người ta cũng không thể đi tìm một thứ họ
không biết có tồn tại. Không một mỏ neo, không một ngọn hải đăng
hay một kim la bàn, con tàu ngôn ngữ của Thành phố Thủy tinh đã
hạ thuỷ từ khi nào không biết, cứ thế giương buồm về những miền
vô định. Cho đến tận ngày hôm nay.
Ngôn ngữ cũ trở thành cây quyền trượng chuyền tay qua từng
đời thị trưởng của thành phố, như một bảo chứng cho vị trí tối cao
của họ. Việc đầu tiên một viên thị trưởng phải làm khi mới nhậm
chức là học ngôn ngữ cũ từ người tiền nhiệm của mình, đặt bàn tay
lên biểu tượng của thành phố khắc trên cái kẹp cà vạt và tuyên thệ
mình sẽ không lãng quên ngôn ngữ cũ và rằng sẽ truyền lại tất cả cho
người kế nhiệm.

- 283 -
NHẬT PHI

“Vì sao thị trưởng của Thành phố Thủy tinh lại phải học thứ
ngôn ngữ mà không ai khác còn dùng nữa?”.
“Họ tin rằng đó là cách duy nhất để nối lại quan hệ ngoại giao
với Thị trấn Mùa đông”. Alexandre đáp. “Một điều đã mất từ rất lâu
rồi. Giờ đây Thành phố Thủy tinh và Thị trấn Mùa đông không còn
một mối liên kết nào nữa…”.
“Ngoại trừ những cuộc oanh kích”, tôi thì thầm với chính mình.
“Tôi tin rằng Rhodes muốn loại bỏ chúng tôi không chỉ vì niềm
tin ngớ ngẩn của hắn ta rằng chúng tôi đang hủy hoại sự ổn định của
thành phố”, Alexandre gằn giọng, khóe môi anh giật giật, “mà còn
xuất phát từ niềm tự tôn bị xúc phạm khi biết rằng hắn không phải
kẻ duy nhất có thể dùng ngôn ngữ cũ. Và chúng tôi thậm chí còn
dùng được nhiều hơn. Hắn nghĩ ngôn ngữ là một biểu tượng quyền
lực hay sao chứ?”.
Chúng tôi đang đi tới chỗ người đã dạy ngôn ngữ cũ cho
Alexandre, qua một dải cầu thang đá dưới một căn nhà hộp khác,
dẫn xuống một căn hầm khác. Bầu không khí kín bưng lạnh dần
theo mỗi bậc cầu thang đi xuống. Tôi siết lại tấm khăn quàng quanh
cổ mình, phần vì lạnh, phần như muốn giữ chặt nó lại bên mình. Tôi
gần như biết chắc mình sẽ gặp ai. Và kẻ đó không có quyền đòi lại thứ
đã được tặng cho tôi.
Một cánh cửa gỗ bọc da chắn lối chúng tôi nơi bậc thang cuối
cùng. Alexandre gõ lên đó vài lần trước khi đẩy cửa bước vào, một
làn sương trắng mỏng lanh lẹ tuồn ra từ khe cửa. Tôi theo sau anh ta,
thốt nhiên nghe một cơn buốt giá tràn tới bóp nghẹt mình, cái lạnh
trên đường cầu thang đá bỗng nhiên trở nên thật dịu êm biết bao.
Alexandre lấy từ đâu ra hai tấm áo khoác dày, đưa cho tôi một cái và
tự mặc lên một cái. Tôi lờ mờ nghĩ ra đây có thể là một phòng lạnh,
dù không hiểu sao từ đó lại có mặt trong vốn từ của mình. Cơn lạnh

- 284 -
Thị trấn mùa đông
tan đi cùng lúc với làn sương trắng dạt ra khỏi tầm mắt tôi. Và ở đó,
chính giữa căn phòng không lấy gì làm rộng rãi, là một cỗ quan tài
thủy tinh lớn, nơi một người đàn ông đang nằm như say ngủ, hai bàn
tay đan đặt trên bụng.
“Rei, đây là thầy tôi, Sir Nogias”. Alexandre nói. “Thầy ơi, đây là
Rei, người tới từ Thị trấn Mùa đông”.
Kẻ nằm trong quan tài không đáp. Đó không thể là Nogias
trong ký ức của Ionah, nhiều năm hẳn đã trôi qua và trước mặt tôi
là một người đàn ông với mái tóc và hàm râu trắng, gương mặt chưa
đến nỗi già nua hãy còn lưu giữ cặp chân mày hơi chau lại và gì đó
như một nụ cười nửa miệng, như thể ưu tư và hoài nghi vẫn không
rời bỏ người đàn ông này kể cả khi đã chết. Ánh sáng dìu dịu của
ngọn đèn duy nhất lơ lửng trên trần phòng cho tôi biết người đàn ông
này mặc một bộ đồ kaki màu đất và nằm trên một thảm những mảnh
pha lê màu hồng cá hồi.
“Raine à”, Alexandre cất tiếng gọi một ai đó không có mặt trong
phòng, “chị có ở đó không?”.
Tôi nhìn quanh. Căn phòng lạnh có hai cánh cửa trên hai bức
tường đối diện nhau, một trong đó là cánh cửa chúng tôi vừa bước
qua. Một trong hai bức tường còn lại được gắn vào một bàn điều
khiển đặc biệt thấp, đầy nút bấm và cần gạt, tương tự thứ tôi đã thấy
trên chiến hạm, tuy nhiên không có một màn hình nào cả. Mặt tường
cuối cùng là một tấm bảng đen lớn, được lấp đầy bằng một bảng
chữ cái được viết bằng phấn trắng, nét chữ cứng rắn, đậm và mảnh,
tưởng chừng còn nghe rõ tiếng kin kít của phấn miết trên mặt bảng.
Vậy ra đây là nơi Alexandre đã bắt đầu học ngôn ngữ cũ. Còn Nogias,
anh ta đã nằm như thế trong bao lâu rồi?
“Tôi đây, Alex”.
Một người phụ nữ bước ra từ ô cửa đối diện chúng tôi. Chị

- 285 -
NHẬT PHI

bước giật lùi khi đóng lại cánh cửa, và khi quay lại, chị lần lượt mỉm
cười với Alexandre và tôi. Raine hẳn đã bắt đầu tiến vào tuổi trung
niên, căn cứ vào những nếp nhăn rất mỏng nơi đuôi mắt chị. Chị có
mái tóc dài rất thẳng được giữ sát đỉnh đầu bằng một tấm băng đô
trắng và mặc một chiếc áo len dày màu kem với quần jeans xanh xám.
“Tôi còn ở đâu khác được nữa chứ hả Alex?”. Chị cười. “Và đây
hẳn là Rei. Alex đã nói với tôi về anh”.
“Chào chị, Raine”.
“Nogias hẳn là mừng lắm”, Raine nói, âu yếm nhìn người trong
quan tài. “Ông ấy đã luôn chờ đợi một người tới từ Thị trấn Mùa đông”.
Raine bước vòng qua cỗ quan tài để tới trước mặt chúng tôi,
trên tay chị là một cái ấm nhôm cũ, muội đen đã bám kín toàn bộ
mặt đáy. Chúng tôi ngồi uống trà trong ba cái tách sứ ngay bên cạnh
cỗ quan tài, Raine thậm chí còn ngồi tựa vào đó. Nước trà nóng xực
với hương thơm dìu dịu, lan hơi ấm tới từng đầu ngón tay tôi. Trong
một thoáng, tôi liên tưởng tới thứ nước suối đun sôi ở nhà bà Astrid.
Nhưng tôi lại không có một chút ấn tượng gì về mùi vị của trà, có lẽ
vì nước nóng quá.
“Nogias… như thế này đã bao lâu rồi?”. Tôi hỏi, và vẻ mặt của
Alexandre trông như thể anh phải mất một lúc mới hiểu tôi đang
muốn nói về điều gì.
“Thầy đã luôn luôn như thế”, Alexandre cười nhẹ, hắt vào không
khí một làn khói mỏng, “kể từ lần đầu tiên tôi gặp thầy”.
“Nogias đã say ngủ từ rất nhiều năm trước”, Raine nói thêm,
“trước cả khi tôi gặp ông ấy và bắt đầu ở lại đây”.
Tôi không hỏi thêm nữa. Câu trả lời sẽ tự tới vào đúng thời
điểm, không biết tôi đã bao nhiêu lần được nghe và tự nhắc mình
điều này. Chúng tôi im lặng ngồi uống trà trong căn phòng lạnh, như
chờ đợi một mảnh ghép cuối cùng nào rơi vào chỗ của nó. Không ai

- 286 -
Thị trấn mùa đông
nói thêm điều gì với nhau cho tới lúc cạn ấm trà, dường như cả hai
người kia đều nhường cho tôi quyền lên tiếng.
Tôi nhắm mắt, nghe cái lạnh gại lên má, lên mắt, lên môi mình.
Không phải cái lạnh se sắt mời gọi như ở Thị trấn Mùa đông, cái lạnh
nhân tạo này khô khốc và cứng nhắc, một cái lạnh phản quy luật và
đầy chủ đích. Nhưng nghĩ về cái lạnh và Thị trấn Mùa đông chỉ khiến
lòng tôi chộn rộn nôn nao, thay vào đó, tôi cố gắng hướng tâm trí
mình ra bên ngoài, lắng nghe khối không gian lạnh căm này và tái
hiện nó trong hình dung của mình. Alexandre đang ngồi cạnh tôi,
ánh mắt anh hướng về phía bức tường đen, hồi tưởng lại lần đầu tiên
anh làm quen với những con chữ kia. Còn Raine hẳn đang nhìn tôi,
bằng ánh mắt nào thì tôi không nghĩ được, hai bàn tay chị ấp quanh
tách trà đã vơi. Chị có nước da đặc biệt trắng, màu da của những
người sinh trưởng hay sống lâu năm trong khí hậu lạnh giá. Người
phụ nữ này dường như đã ở đây từ rất lâu rồi, bên một người trong
quan tài. Quá nhiều những ngày hôm qua mà chị đã trải qua, có lẽ
chị cũng chẳng buồn đếm những ngày hôm qua ấy. Thế thì đã bao
nhiêu ngày hôm qua mà tôi đã để lại nơi ấy, cho nàng? Và rốt cuộc
thì làm sao để đếm những ngày hôm qua? Này Rei, anh đã lưu lại Thị
trấn Mùa đông bao lâu rồi, anh có biết không? Ai đó hỏi tôi. Có thể
là con cừu, con cú hoặc con quạ, cũng có thể là con bọ đen, là Rogerg
Asmas, R.B hay Pal. Tôi đã ở Thị trấn Mùa đông bốn ngày oanh kích,
nhưng chỉ có hai kỳ truyện kể.
“Rei, Ionah có khỏe không?”.
“Cô ấy vẫn khỏe”, tôi đáp. “Cả con gái cô ấy nữa. Ionah đặt tên
con là Viena”.
“Viena, một cái tên thật đẹp”.
Tôi mở mắt. Người đang nói với tôi là Raine, vẫn là giọng chị,
nhưng dường như lại không còn là giọng chị. Rồi tôi nhận ra, tại sao

- 287 -
NHẬT PHI

tôi đã không nhận ra sớm hơn, Raine chính là người kể chuyện trên
radio vào những ngày oanh kích. Chị không còn ngồi tựa lưng vào
cỗ quan tài nữa mà đã chuyển sang ngồi quỳ bên bàn điều khiển, với
một cặp tai nghe lớn quàng qua đầu. Đôi mắt chị khép hờ, giọng chị
đều đều, xa xăm.
“Ionah vẫn khỏe”. Tôi hít vào một hơi. “Nhưng bà Astrid… bác
sĩ Lindgren đã mất. Đó là lí do tôi ở đây”.
Raine, không, Nogias im lặng một hồi lâu. Gương mặt Raine
tĩnh tại như mặt hồ lặng sóng, nhưng tôi có cảm giác Nogias trong
chị đang cúi gằm xuống, thở dài xót xa.
“Bà Astrid qua đời đúng vào ngày Viena được sinh ra”, tôi nói,
“bà nói sự ra đời của Viena sẽ thay đổi tất cả. Bà nói khi Viena ra đời,
bà biết rằng mình sẽ phải ra đi. Nhưng chính bà cũng nói phải có ai
đó chấm dứt những ngày oanh kích trên Thị trấn Mùa đông. Và tôi
đã nhận nhiệm vụ đó. Tôi là người thứ hai, sau anh, có phải không?”.
Nogias tiếp tục im lặng. Căn phòng kín, mà tưởng như gió đã
nổi xung quanh tôi. Bên cạnh tôi, Alexandre bắt đầu bồn chồn cựa
mình. Nhìn anh ta, tôi biết rằng anh đã không được nghe về những cái
tên này trước đây. Anh có vẻ muốn nói gì đó, nhưng chừng như ngại
ngần không dám chen vào suy nghĩ của thầy mình. Anh cầm tách trà
đã nguội lên, rồi lại đặt xuống. Tôi đã uống hết phần trà của mình.
“Alex, con có ở đó, phải không?”. Cuối cùng, Nogias nói. Raine
vẫn ngồi bất động, chỉ có bờ môi chuyển động, chỉ có giọng nói cho
thấy sự chú ý của người phát ngôn đã tạm rời khỏi tôi.
“Con đây, thưa thầy”.
“Con để ta và Rei riêng với nhau một lúc, được chứ?”.
“Vâng thưa thầy”. Alexandre đứng dậy ngay lập tức, anh đặt tay
lên vai tôi trong một giây. “Tôi sẽ đợi anh ở bên ngoài”.
Một quãng im lặng khác sau khi Alexandre đã rời khỏi phòng

- 288 -
Thị trấn mùa đông
và đóng cửa lại. Tôi cầm lấy tách trà anh ta để lại và uống cạn. Trà
nguội đắng gắt khiến tôi thốt rùng mình. Nếu kẻ đối diện tôi có thể
nhìn, tôi nghĩ anh ta sẽ bật cười. Hoặc anh ta đã đang bật cười rồi.
“Trước tôi đã từng có ai, tôi không thể nào biết”, Nogias nói.
“Không một tập tin, không một câu truyện kể nào ở Thành phố Thủy
tinh này kể từ tôi biết nhớ. Không ai đọc, không ai viết, tất cả những
gì người ta làm chỉ là xem chương trình giải trí trên màn hình thủy
tinh và trao đổi với nhau mấy từ ngữ rời rạc. Và chẳng ai buồn nhớ
gì về những điều đã từng trôi qua. Ký ức là một điều xa xỉ, chỉ được
truyền miệng qua từng đời thị trưởng, những người luôn biết rằng
vẫn đang có điều gì đó rất sai ở thành phố này, nhưng họ không thể
biết, hoặc không thể nhớ, là gì.
“Tôi nhận nhiệm vụ đi tới Thị trấn Mùa đông để tìm câu trả lời,
để cứu thành phố khỏi một mối hiểm họa vô hình và vô danh. Sấm
sét, họ nói với tôi như thế cái ngày tôi lên đường, có nghĩa là hãy nỗ
lực và tỉnh táo. Tôi đi mà không thực sự biết nhiệm vụ của mình là
gì. Tôi học đọc và viết ngôn ngữ của Thị trấn Mùa đông trên đường
đi, học cả những truyện kể, rồi tôi tới được thị trấn, và sống cùng với
Ionah. Chắc hẳn Ionah đã kể cho anh nghe rồi. Tôi không biết mình
đã ở đó bao lâu, bầu không khí trong lành tinh khiết, củ cải đỏ nồng
đượm, bánh mì đen thơm mềm, tất cả như thứ thuốc mê, ru tôi trong
cơn mơ dịu dàng ấm áp nhất đời mình. Có những khi tôi gần như
đã quên mất nhiệm vụ của mình, tôi tự nhắc mình bằng cách nói về
nhiệm vụ của tôi cho Ionah. Và nỗi lo trong đôi mắt cô ấy trở thành
lời nhắc nhớ dành cho tôi. Tôi nửa tỉnh nửa mê, không biết mình
sẽ lên đường khi nào, tới đâu, và để làm gì. Chính tiếng bom rơi đã
đánh thức tôi. Và ngay khi bước ra ngoài sau cuộc oanh kích, tôi đã
biết nhiệm vụ của mình là gì. Tôi đi, để lại Ionah, mong rằng cũng
như cái cách Thị trấn Mùa đông tái lập chính nó sau mỗi đêm tuyết
rơi, tôi cũng sẽ biến mất khỏi ký ức của cô ấy ngay khi rời đi”.

- 289 -
NHẬT PHI

“Ionah đã không quên”, tôi cắt lời Nogias. “Cô ấy luôn đi ra rìa thị
trấn nhìn về phía những đỉnh núi tuyết vào buổi chiều, mỗi ngày. Cô
ấy chưa bao giờ quên anh, ngay cả khi tôi đã đến và đi. Anh rất quan
trọng với cô ấy. Nhưng anh không cần phải nghĩ về điều đó nữa”.
“Nhiệm vụ mới mà tôi tự đặt cho mình”, Nogias nói, sau một
vài giây có lẽ để cân nhắc về câu cuối của tôi và quyết định nghe theo,
“nói đúng hơn, mục đích của tôi, của riêng tôi, cũng chính là điều mà
anh đang nhắm tới. Nhưng rốt cuộc tôi vẫn cứ thất bại”.
“Anh không thất bại đâu”, tôi nói. “Anh thành công, một nửa.
Tôi đã đọc về hồi ký ghi âm của anh. Anh đã làm quá tốt phần mình
rồi. Giờ đến lượt tôi. Đó cũng là mục đích của tôi”.
“Anh đã nhận được chìa khoá?”.
“Phải, tôi có nó ở đây”. Tôi lần tay vào túi áo vest, chiếc chìa
khóa dường như còn lạnh hơn cả căn phòng này. “Tại sao anh không
làm điều đó? Anh đã có chìa khóa, và tất cả sẽ đơn giản hơn nhiều”.
“Cùng một lí do với chính anh thôi”, Nogias đáp. “Tôi chờ một
thời điểm. Tôi có cảm giác những quả tên lửa này vẫn đang đóng một
vai trò gì đó và vẫn còn một ý nghĩa nào đó. Ai đó cần phải trả lời”.
“Anh nghĩ là ai?”.
“Tôi nhận ra một điều, khi ở trên chiến hạm đó, Rei ạ”. Giọng
anh ta, thông qua Raine, đột ngột trầm xuống, nghèn nghẹt. “Ngày ở
trên biển không giống như ngày ở Thành phố Thủy tinh. Nó giống hơn
với những ngày ở Thị trấn Mùa đông. Vòng lặp không thể ngăn cản”.
“Ai đó sẽ phải trả lời về điều này”. Tôi hạ giọng theo, hai hàm
răng nghiến lại. “Có quá nhiều điều đang được giấu kín”.
“Rồi tôi quay trở lại Thành phố Thủy tinh, chỉ để nhận ra đã
quá nhiều năm đã trôi qua trên miền đất này. Người đã giao nhiệm
vụ của tôi đã không còn là thị trưởng của thành phố, thậm chí có thể
đã không còn sống. Những người từng nói với tôi “sấm sét” đã đi đâu

- 290 -
Thị trấn mùa đông
mất cả. Không còn ai nói với tôi về sấm sét nữa. Họ thậm chí còn
không hiểu từ đó nghĩa là gì. Vả chăng cũng chẳng còn ai cần phải nỗ
lực và tỉnh táo nữa.
“Tôi tiếp tục sống, nhận ra mình đang già đi rất nhanh, như để
bù cho thời gian đã ngừng trôi trên tôi khi tôi rời khỏi đây, chỉ để cố
gắng biết về thời gian mình đã bỏ lại nơi này. Ngày và tháng không
còn tên nữa. Chỉ còn lại những ngày mai, một ngày mai hay nhiều
ngày mai sau. Thành phố Thủy tinh này đã trở thành một nơi như
thế, nơi con người đơn giản chỉ nhìn về phía trước và mong đợi phần
tiếp theo của một chương trình giải trí. Tháng hay năm không còn
giá trị nữa và đã bị lãng quên. Nhưng không phải tất cả mọi người
đều quên.
“Chính khi ấy, sau không biết bao nhiêu ngày tháng, tôi đã tìm
ra họ, tổ chức là tiền thân của phong trào phục hồi thành phố ngày
nay. Họ là một nhóm học giả cuối cùng của thành phố, tập hợp nhau
lại với một mục đích duy nhất là đếm ngày, tháng và năm. Một nỗ
lực tuyệt vọng của nhóm bảy người. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, một
người trong số họ sẽ vạch lên hàng rào gỗ con số của ngày đó, kế tiếp
con số của ngày trước. Họ ôm trong mình ký ức về số ngày của mỗi
tháng, số tháng của mỗi năm và mỗi khi có một ai đó nhớ sai, sáu
người còn lại sẽ phải tụ lại và nhắc cho người đó nhớ ra. Hoặc đôi
khi là nhiều hơn một người nhớ sai, và cả bảy người sẽ ngồi lại với
nhau để thảo luận về số ngày cần thiết, về một quy luật vốn dĩ trong
lòng bàn tay. Thứ tự trong họ là tuyệt đối. Sau ngày của Thor là ngày
của Frigg, sau đó là ngày của Saturn, rồi tới ngày của Sun. Bất di bất
dịch. Và cứ thế cứ thế, họ duy trì công việc của mình trong nhiều
năm. Không có ngày của Nogias, nhưng tôi được phép ở lại với họ,
chỉ vì tôi biết rằng mỗi năm lịch đã từng được ghi bằng bốn chữ số.
Bốn mươi năm, đó là thời gian tôi vắng mặt, một nửa đời người.

- 291 -
NHẬT PHI

Hay là một trăm bốn mươi năm, hay thậm chí một ngàn mấy bốn
mươi năm.
“Woden là người đầu tiên không hoàn thành nhiệm vụ. Cô ra
đi trong đêm, với những đốm đen trên cơ thể không biết đã xuất
hiện từ bao giờ. Là người phụ nữ duy nhất trong nhóm, cô có xu
hướng thu mình lại trong phòng riêng thay vì lượn lờ quanh phòng
sinh hoạt chung với đám đàn ông, đó là lí do không ai thắc mắc về
sự vắng mặt của cô trong ngày hôm đó, ngày của Woden. Như một
phản ứng dây chuyền, công trình của họ bắt đầu sụp đổ. Thor mắc
lỗi, không ai trách được, nhưng rồi khi họ nhận ra Woden đã mất, họ
mới giật mình ngộ ra rằng bất kì ai trong số bảy người cũng có thể
bỏ quên công việc, như cái cách người phụ nữ đã bỏ quên đời, ai mà
biết được. Không phải cái chết của Woden mà chính sự rạn vỡ nơi
niềm tin tuyệt đối giữa những người đồng sự mới chính là nguyên
nhân sự sụp đổ của công trình. Ngày tan rã của nhóm, Tyr, người
cuối cùng ở lại, lần đầu tiên lấy ra giấy và bút, thứ mà ông coi như
kho tàng lớn nhất đời, và nhờ tôi viết lại: Ngày của Tyr, 25 tháng 4
năm 17. Không ai dám chắc đó đúng là ngày hôm đó, nhưng với tôi,
đó là ngày 25 tháng 4 năm 17, của riêng tôi. Và điều đó cũng chẳng
còn quan trọng”.
“Họ đã có thể làm tốt hơn thế”, tôi nói, nghe lòng trĩu nặng nỗi
niềm không phải của mình. “Ở Thị trấn Mùa đông cũng vậy, chỉ có
những ngày hôm qua, xen vào là những ngày oanh kích”.
“Tôi cho rằng đó là một điều tốt”, Nogias nói, rồi lập tức bổ
sung. “Cho Ionah. Cô ấy sẽ không phải chờ quá lâu để được nghe
truyện kể, thứ duy nhất tôi còn có thể làm được cho cô ấy. Tôi đã mất
tới hai năm từ khi quay trở lại đây để dựng nên hệ thống phát thanh
này. Tới khi đó, tôi cũng biết rằng thời gian của mình không còn
nhiều. Và tôi quyết định chỉ sống khi nào cần thiết. Kết quả là những
gì anh thấy đây, trong căn phòng này”.

- 292 -
Thị trấn mùa đông
“Ấy thế mà vẫn có ngày oanh kích anh quên không kể chuyện”.
“Thời gian của tôi còn quá ít”. Nogias nói, và một giọt long
lanh chợt tràn qua đôi mắt khép hờ của Raine. “Tôi đã bắt đầu đếm
ngược rồi”.
“Vậy điều gì sẽ chờ đợi nhân vật người hùng ấy? Nhiệm vụ của
anh ta rốt cuộc là gì?”.
“Anh biết mà, Rei”. Nogias nói, và đôi vai Raine bắt đầu rung
lên. “Sau cùng, anh chính là người viết tiếp câu chuyện kể đó”.
Cơn rung động trên vai Raine thu về thành một cái giật mạnh
lan khắp thân thể chị. Và rồi chị từ từ mở mắt.
“Ông ấy lại ngủ rồi”, chị nói trong lúc tháo tai nghe ra khỏi đầu.
“Anh đừng lo, rồi ông ấy sẽ trở lại”.

- 293 -
NHẬT PHI

PHÒNG TRÀ

M àu xanh nửa đêm bao phủ hầu như toàn bộ không gian
phòng trà, những bóng đèn trắng rất nhỏ buông xuống
từ trần phòng khiến tôi có cảm giác mình đang bước vào giữa mênh
mông một bầu trời sao. Phòng trà không rộng lắm, ấy là nếu so với
những quảng trường quanh những tòa cao ốc ngoài kia, được lấp kín
bằng những bộ bàn tròn kèm cặp ghế gỗ. Trên mỗi bàn có thắp một
cây nến nhỏ, ánh sáng leo lét vừa đủ để dẫn người ta tới bên chúng.
Phía bên kia căn phòng là một sân khấu nhỏ, chỉ cao hơn mặt sàn
độ hai gang tay. Tôi lần tới một bàn trống cách đó hai dãy bàn. Một
người phục vụ ra cúi chào và trình ra trước mặt tôi một màn hình
thủy tinh nhỏ vừa bằng hai bàn tay, trên đó hiển thị tầm hai chục
hình ảnh những ly thủy tinh chứa những chất lỏng đủ màu. Hồng
đào, xanh biển, vàng chanh, trắng muối hay đỏ rượu vang. Màu
sắc là tất cả những gì tôi có thể nói về chúng, và tôi biết rằng người
phục vụ cũng sẽ không cho tôi biết thêm được gì nếu như tôi có
hỏi. Cuối cùng, tôi gõ lên hình ly nước màu hổ phách nằm ở góc
dưới bên trái của màn hình, nhận lại cái gật đầu kèm nụ cười công
nghiệp từ anh ta.
Khi mới tới, tôi đếm được ba bàn đã có người ngồi và căn
phòng vẫn không ngừng dày người lên trong khi tôi chờ đồ uống
được mang ra. Rất nhiều áo vest và váy đầm, rất nhiều những gương
mặt rải rác đủ độ tuổi từ thanh niên cho tới cuối trung niên, râm ran

- 294 -
Thị trấn mùa đông
những câu chuyện gì mà tôi không thể hiểu. Không có điều gì nói lên
rằng đây không phải là những con người tôi đã lướt qua trên những
quảng trường. Từ những màn hình thủy tinh tới một phòng trà dưới
lòng đất, tôi mơ hồ hình dung họ đơn thuần đang tìm kiếm những
màn giải trí khác mà thôi. Không ai trong số họ biết rằng phòng trà
nhạc sống này là một trong số những địa điểm hoạt động của phong
trào phục hồi Thành phố Thủy tinh. “Anh sẽ sớm biết chúng tôi làm
thế nào”, Alexandre đã nói với tôi như vậy.
Thứ đồ uống màu hổ phách mang hương vị gần như trùng khớp
với thứ nước giải khát tôi đã uống trong văn phòng của Alexandre
ngày đầu tiên, cộng thêm một chút cay nồng gần giống với thứ rượu
của Gin. Một sự pha trộn thú vị và mang tính kích động. Tôi gần như
có thể uống cạn ly nước của mình trong ba hớp, nhưng kìm lại để tận
hưởng nó được lâu hơn. Dẫu vậy, ở nơi này, đồ uống chừng như chỉ
là một cái cớ.
Dàn đèn phụt tắt, chỉ để lại ánh nến trên bàn và một ngọn đèn
lớn hơn rọi xuống nơi hẳn là tâm điểm của sân khấu. Và từ trong
bóng tối hậu đài, Miku bước vào vùng sáng ấy, trong một bộ trang
phục lạ lẫm, váy ngắn xanh lá và áo thun cộc trắng. Nụ cười như thể
làm bằng nhựa dẻo khiến tôi suýt chút nữa đã không nhận ra cô. Và
không chỉ nụ cười, toàn bộ cơ thể và thần thái của cô gần như đang
toát ra một thứ mùi mẽ khô đắng, vô hồn. Và nhạc, và nhún nhảy, và
lắc lư của đám đông thính giả. Trước mặt tôi, Miku của phong trào
phục hồi Thành phố Thủy tinh đang diễn lại chính màn ca múa tôi đã
từng thấy trên một trong số những màn hình thủy tinh. Những bài
hát với nhát gừng những cá hồi, táo, dây leo, Camus…
Phần trình diễn của Miku kéo dài nhiều phút đồng hồ, và trong
khi đám đông quanh tôi hãy còn đang tỏ ra hưng phấn, tôi đã cảm
thấy nhức óc và mong muốn rời khỏi phòng trà này ngay lập tức.

- 295 -
NHẬT PHI

Ngay khi tôi mới dợm đẩy ghế đứng dậy, một bàn tay đã đặt lên vai
tôi, mấy ngón tay bấm nhẹ vào da tôi. Kế đó, Alexandre kéo ghế trống
bên cạnh tôi, nhẹ nhàng ngồi xuống. Anh gật đầu với tôi, ý chừng bảo
tôi hãy kiên nhẫn. Tiếng nhạc xập xình không cho phép chúng tôi nói
gì với nhau, chỉ có ánh nến cho tôi thấy cái nhếch môi ngao ngán của
anh. Tôi ngồi nán lại, cho tới khi Miku cúi gập mình chào thính giả
của cô. Đám đông vỗ tay rần rần, đâu đó vang lên đôi ba tiếng huýt
sáo chói lói, hẳn là vì một thoáng khe ngực của cô gái lộ ra qua cổ
áo thun khoét sâu. Miku lùi lại, không quên vẫy tay và tặng cho đám
đông một cái hôn gió. Rồi ánh đèn sân khấu cũng chầm chậm lặng
xuống. Trong một thoáng, chỉ còn ánh nến phản chiếu trên những
ánh mắt ngơ ngác hẫng hụt tìm nhau.
Thế rồi, khi sân khấu được chiếu sáng trở lại, tôi thấy trên đó
một dàn nhạc gồm ba tay vĩ cầm và một tay sáo kim, hai chàng trai
và hai cô gái mà tôi đều đã từng đi ngang qua trong khu nhà trụ sở
vào một lúc nào đó. Ba tay vĩ cầm ở bên phải, cô gái chơi sáo kim ở
bên trái, tất cả đều trong những bộ đồ trang trọng mà giản dị. Ở giữa
họ là một ghế trống. Và rồi một làn khói nhè nhẹ lướt vào giữa miền
sáng của sân khấu, đậu xuống chiếc ghế ấy. Đó là Netsuko, trong
chiếc áo sơ mi trắng và quần âu trắng kẻ caro, mái tóc cô búi cao trên
đỉnh đầu. Bằng những chuyển động hết sức tự nhiên, cô ngồi xuống
ghế, vắt tréo chân rồi với lấy chiếc guitar vỏ đen dựng bên ghế và gác
lên đùi mình. Một cái cúi chào đơn giản, một nụ cười nhẹ bẫng và
tấm mạng phủ trên khuôn mặt cô ngày nào đã hoàn toàn tan biến.
Trước mắt tôi giờ đây là một Netsuko man mác buồn buồn mà lại
hiền đến mỏng manh.
Netsuko dạo một vài nốt trên cây guitar của cô và cất tiếng
hát. Vẫn chất giọng mỏng như sương như khói ấy, tưởng chừng như
thanh âm không vượt qua được đôi tai từng người nghe, tưởng chừng

- 296 -
Thị trấn mùa đông
như giọng hát sẽ tan đi ngay vào trong bầu không gian tĩnh lặng này
mỗi khi được nghe. Giờ đây, khi lời hát đã được cất lên bằng ngôn
ngữ cũ, tôi vẫn không thể nói gì về ca từ ấy. Tiếng hát của Netsuko
như vang thẳng vào cõi lòng tôi, đó là một cảm giác khó tả. Trong
một thoáng, tôi cảm giác như mình đang đứng giữa một cánh đồng
xanh ngát, nghe xôn xao gió ru. Một quãng nhạc dạo rất dài, réo rắt vĩ
cầm, lụa là sáo kim, như để dành thời gian cho Netsuko dồn nén nội
lực và xúc cảm. Giọng hát của cô gái lại cất lên, mãnh liệt hơn, thực
thể hơn, như muốn dồn dập gõ nhịp thay những trái tim người. Tôi
bất giác nghe sống mũi mình cay cay. Tôi ghi lại đây những lời hát ấy,
từ trí nhớ của mình.
“Không ai khóc mùa xuân chim én bay lạc rơi xuống thiên thu
không ngừng
Không ai hát lời ca chưa biết yêu, hát đến quên mình đi
Không ai tiếc tình yêu chưa thắm duyên sâu, chưa nắng lên màu
an bình
Không ai thoát niềm đau thương thế nhân, thoát bóng đêm triền
miên…”.
Tôi không biết ý nghĩa nào ẩn bên dưới ngôn từ này hay dòng
cảm xúc nào đang len lỏi trong giọng ca thật đẹp và hiền kia, tôi chỉ
nghe lòng mình lay động. Tôi nhìn Netsuko qua đôi mắt đã ngân
ngấn, tự hỏi cô gái mỏng manh này có đang chia sẻ những điều ấy
hay không. Cô đã biết về niềm đau thương, cô đã từng ở trong bóng
đêm, cô đã đóng khép nhận thức của mình với tất cả, để giờ đây,
tiếng hát của cô cho tôi biết rằng người con gái này kỳ thực biết nhiều
lắm, dồn nén nhiều lắm. Những chiêm nghiệm, những phản kháng
rất đỗi bao dung của cô vốn dĩ không cần tới một diễn ngôn nào cả.
Tôi nhắm nghiền mắt, nghe nước mắt chảy rất nhẹ trên má mình,
ngửa cổ trút phần nước màu hổ phách còn lại vào miệng. Dưới đáy

- 297 -
NHẬT PHI

ly, chất rượu nghe nồng hơn, làm tan chảy cơn buồn lo bất tận dường
như không chỉ trong tôi.
Tôi quay sang Alexandre, nhận ra anh ta có lẽ đã nhìn tôi được
một lúc rồi. Chúng tôi gật đầu với nhau, rồi anh ta nghiêng đầu về
phía một góc phòng trà. Tôi nhìn hướng anh chỉ, và chợt nghĩ ra một
điều. Những ngọn nến đặt trên mặt bàn vốn dĩ không phải để chiếu
sáng hay dẫn đường tới bên bàn, vai trò thực sự của chúng là phản
chiếu long lanh trong những cặp mắt người còn rung cảm. Nơi ấy,
trong góc phòng, trầm ngâm một thính giả già trong tấm áo măng
tô đã sờn. Ông ngồi lặng trước một ly nước đã cạn, thở dài hay nấc
nhẹ, đôi mắt hấp háy vì khô hay vì cay, nhưng tôi biết ông cũng giống
mình. Tôi và người đàn ông là hai trong số không nhiều người còn
ngồi lại trong phòng trà. Và là hai kẻ cuối cùng còn ngồi lại sau khi
Netsuko đã cúi đầu chào và rút trở vào trong bóng tối.
Netsuko đi ngang qua tôi, để gia nhập bàn của vị thính giả già,
người đã bắt đầu một câu chuyện nào đó với Alexandre. Cô nháy mắt
với tôi. Trên tay cô là một trái táo đỏ.
Có một điều đẹp đẽ đã được chia sẻ ngày hôm nay, và không
hẳn bằng ngôn từ. Miễn là điều tốt đẹp vẫn còn hiện hữu...

- 298 -
Thị trấn mùa đông

HEO VÒI

R ei à,
Em đã có một giấc mơ kỳ lạ. Những giấc mơ đã bắt đầu
chập chờn đến với em ở Thành phố Thủy tinh này. Em không nhớ
được một giấc mơ nào mình đã có ngày còn ở với mẹ, và những giấc
ngủ của em ở Thị trấn Mùa đông thì hoàn toàn không mộng mị. Thế
mà giờ đây em đã bắt đầu mơ. Mới đầu là những tái hiện đứt đoạn
hành trình của chúng mình, từ Hành lang Ghi nhớ. Những giấc mơ
như thế sẽ luôn kết thúc tại điểm cuối của đường cống ngầm, khi
chúng ta bắt gặp cửa thoát trên trần vòm cống. Nhưng trong giấc mơ
của em thì không có một sợi dây nào thòng xuống cả, và anh sẽ biến
thành một con quạ rồi bay lên qua đó. Thế rồi miệng lỗ bỗng nhiên
thu nhỏ dần lại, nhỏ mãi rồi bít hẳn, cuối cùng chỉ còn lại em với
bóng tối. Em choàng tỉnh dậy khi bóng tối ấy như đang đè nghiến lên
ngực em, khiến em không thở được nữa. Đêm vẫn chưa tan, nhưng
em cũng không ngủ lại được nữa. Em ngồi co chân trên giường, chờ
nắng lên lấp loáng trên những tòa nhà kính. Em không khóc, cũng
không sợ hãi, em chỉ thấy ngẩn ngơ trống rỗng.
Nhưng giấc mơ đêm hôm qua của em thì lại khác. Có một con
thú, thân mình to như con bò ấy, lông khoang trắng và đen, với bốn
cái chân móng guốc. Đáng chú ý nhất ở con vật này là nó có một cái
mũi dài, giống như một cái vòi ngắn vậy. Từ trong tiềm thức, em biết
nó là một con heo vòi, và em biết nó cũng biết điều đó. Em trông thấy

- 299 -
NHẬT PHI

con heo vòi trong mơ, hay trong mơ em chính là con heo vòi, em
cũng không biết được. Điểm đặt mắt của em thay đổi giữa nhìn vào
nó và nhìn từ nó. Cùng một lúc, em vừa là nhân vật, vừa là khán giả
đối với chính giấc mơ của mình.
Em được biết rằng heo vòi sống một mình trong làng, một cộng
đồng động vật mà nó là con heo vòi duy nhất. Trong làng lúc nào
cũng thừa mứa thức ăn, khắp nơi là trái ngon cỏ ngọt cho những
loài ăn cỏ, rồi những thân cây mọc ra những tảng thịt, dải sườn cho
những loài ăn thịt. Heo vòi sống một cuộc đời vô ưu vô tư. Không
mơ hồ, không hoài nghi.
Cho đến một ngày, cái ngày của giấc mơ ấy, em gặp một đàn thú
khác đang uống nước bên bờ suối. Những thân hình đồ sộ đen trũi,
những cái vòi dài buông xuống mặt nước và những đôi tai rất rộng.
Em gần như ngay lập tức dấy lên một niềm ngưỡng vọng với loài vật
này, mà em biết rằng đó là một đàn voi. Heo vòi soi bóng mình dưới
nước, thầm hổ thẹn về khuôn mặt dài thuỗn, cái vòi ngắn chẳng ra
đâu vào đâu của mình. Heo thì không có vòi, còn vòi voi thì dài hơn
như thế này. Niềm ngưỡng vọng với loài voi và nỗi thất vọng với sự
nửa vời của chính mình gieo vào trong đầu em cái hạt mầm hoài nghi
đầu tiên: Rốt cuộc, nó là heo hay là voi? Một con heo dị biệt với cái
mõm dài quá khổ hay một con voi chưa lớn đủ để có một cái vòi dài?
Heo vòi quyết định đi hỏi những thành viên khác trong làng.
Đầu tiên, em tìm đến cừu. Cừu là một kẻ biếng nhác và nguyên tắc.
Nó chỉ tin vào những thứ kẻ khác nói cho nó biết, và một khi nó đã
coi điều gì là đúng, gần như không có cơ hội chứng minh với nó điều
ngược lại. Em biết thế, nhưng em vẫn hỏi nó.
“Cậu là heo”, cừu nói. Rõ ràng là vậy rồi, trước giờ tất cả mọi
người đều gọi cậu là heo, heo vòi.
“Nhưng nếu là heo thì tại sao tớ lại có vòi? Các bạn heo khác
không có vòi”. Heo vòi nói.

- 300 -
Thị trấn mùa đông
“Cũng phải”, cừu nói. “Nhưng một khi cậu đã là heo rồi thì cậu
không thể có vòi được. Đó không phải là vòi, chỉ là cái mõm cậu dài
quá thôi. Cậu có thể tìm cách cắt nó đi”.
“Cắt cái vòi đi, và trở thành một con heo đúng nghĩa. Không
phải một lựa chọn tồi”, heo vòi nghĩ. Ít ra như thế đàn heo sẽ chấp
nhận nó nhập bọn và nó sẽ không còn phải hoài nghi nữa. “Nhưng
em lại sợ đau, với cả việc cắt vòi ở trong một ngôi làng động vật nghe
không khả thi chút nào. Em sẽ để phương án đó lại”.
Cú đậu trên một cành cây cao vừa, đủ để nghe thấy tiếng heo
vòi gọi. Nó nghiêng đầu sang bên khi nghe em kể về vấn đề của mình,
nghiêng đến nỗi em tự hỏi sao nó còn đứng vững được trên cành cây.
Vẻ mặt tự nhiên của cú vốn dĩ đã đầy hoài nghi, có lúc em nghĩ tìm
đến nó đã là một sai lầm. Một kẻ hoài nghi thì có tháo gỡ được mối
hoài nghi của kẻ khác không nhỉ? Em biết rằng cú cũng là một kẻ
nguyên tắc, nhưng là kiểu nguyên tắc đầy chủ động. Nó tin vào nhận
định của nó hơn hết thảy. Ngay lúc này, nó cũng đang nhìn rất sâu
vào heo vòi. Có lẽ nó đang nhìn vào cái vòi.
“Heo thì không có vòi”, cuối cùng cú nói. “Nói gì thì nói cậu
cũng giống với voi hơn. Ừ phải, cậu là voi, không phải là heo”.
“Vậy thì tại sao trước giờ mọi người luôn gọi tớ là heo?”.
“Chúng ta vẫn thường nhầm lẫn”. Cú đáp. “Một sự nhầm lẫn
được lặp đi lặp lại sẽ lấn át sự thật và trở thành sự thật. Nhưng vẫn
cứ là nhầm lẫn”.
“Vậy phải làm sao để tớ được nhìn nhận là voi chứ không phải
là heo?”.
“Cậu cần phải gặp người đầu tiên gọi cậu là heo, và bắt đầu cải
chính từ đó. Một công cuộc gian nan đấy, nhưng đừng có nản. Chỉ
tới khi cậu xóa sạch được cái định kiến rằng mình là heo trong tất cả
mọi người, cậu mới có thể bắt đầu sống như một con voi”.

- 301 -
NHẬT PHI

Giờ thì em lại là một con voi, nhưng với điều kiện không ai
được nghĩ em là con heo nữa. Cắt bỏ một cái vòi hay xóa bỏ một
định kiến, điều gì khó khăn hơn đây? Heo vòi càng lúc càng cảm thấy
hoang mang hơn. Cần quá nhiều điều kiện để nó biết được nó là ai.
Thế rồi, chẳng biết làm sao mà em thấy mình đang ở trong một
căn phòng trông giống như một quán rượu, với ánh sáng lờ nhờ và
một dãy ghế không tựa chạy dọc theo một dải bàn cao. Đứng sau bàn
quầy là con quạ, đang nhẩn nha lau mấy cái ly thủy tinh và sắp lên
giá treo.
“Xin chào”, quạ nói mà không ngẩng lên. “Ngồi đi, và nói tôi
nghe điều gì đưa cậu tới đây”.
Quạ im lặng lắng nghe câu chuyện của em mà không bày tỏ
thái độ gì. Khi heo vòi đã kể xong, quạ mới chậm rãi đặt lên bàn một
tách sứ trắng chứa một chất lỏng đen đặc.
“Uống đi, tôi mời”. Quạ nói.
“Thực ra cậu là heo hay là voi, điều đó cũng chẳng quan trọng.
Cậu có thể là cả hai, hoặc là cái này hay cái kia khi nào cậu cần”.
Giọng nó rành rọt, nghiêm trang, nhưng em có cảm giác nó có thể
phá lên cười bất cứ lúc nào. “Khi nào muốn làm heo thì cậu là con
heo vòi, như mọi người vẫn biết. Và khi nào muốn làm voi thì cậu sẽ
là con voi hèo. Không có gì khó khăn cả. Cậu chính là thứ cậu muốn,
vậy thôi”.
Heo vòi nhấp một ngụm nước đen ấy. Vị đắng đột ngột thắt lấy
lưỡi nó, trước khi chầm chậm trôi qua cổ họng. Có gì đó như là sự
đốn ngộ trong khoảnh khắc em ý thức được đầy đủ vị đắng ấy. Không
chỉ là những điều con quạ nói. Em nhận ra, Rei ạ, cừu thì không lắng
nghe, cú thì không nhận định và quạ thì không pha rượu.
Thế rồi em nhận ra kẻ đang ngồi bên bàn, với tách sứ trắng
trên tay, không phải là con heo vòi nào cả, mà chính là em, Makoto.

- 302 -
Thị trấn mùa đông
Em nhìn quanh quất, qua đôi mắt của chính em, một điều gì đó có
thể gợi nhắc em về hiện thực và sự nhận thức. Đứng đối diện với em
qua mặt bàn quầy không phải là con quạ đen, mà chính là Thị trưởng
Rhodes. Anh ấy đang mỉm cười.
Em bị đánh thức bởi tiếng quạ, một tiếng quạ thực. Em bật
mình dậy trên giường, và nhận ra qua ô cửa sổ một hình thù vừa lướt
qua, giống như một con quạ đen.

- 303 -
NHẬT PHI

NETSUKO

L à tiếng nhạc rất mỏng kéo tôi về phía ấy, nơi cô gái đang
ngồi, trên bậc cửa sau một căn nhà tôn. Cô ngồi kéo sát hai
chân về thân người, hai bàn tay úp trên mặt, như thể cô muốn thu
bé nhất có thể phần không gian mình chiếm lấy trong trời đất. Trước
mặt cô là đồng cỏ hoe vàng, sau lưng cô là căn nhà hộp lừng lững khô
ran. Tiếng nhạc lan ra khắp không gian, lướt trên những ngọn cỏ cao,
mênh mênh mang mang, như chưa bắt đầu, như không kết thúc. Âm
thanh ấy như thể bị cán dẹt nhưng vẫn không ngừng căng mình lên,
trầm rồi bổng, thống thiết như nỗi niềm hoang mang vô định.
Phải mất một lúc tôi mới nhận ra đó không phải là nhạc ngoài
cảnh. Âm thanh ấy có một trung tâm, một nguồn phát, mặc dầu sự
lan tỏa của nó hiền hòa tới độ đó như một điệu nhạc của trời mà chĩa
thẳng vào tai từng người. Netsuko là người ban phát giai điệu ấy, từ
chính đôi môi đang giấu sau đôi bàn tay gầy kia. Tôi bước về phía cô,
thật chậm, thật nhẹ, để không làm gián đoạn khúc phiêu bồng mong
manh ấy, thậm chí, nếu có thể, tôi hẳn sẽ nín thở.
Ánh mắt của Netsuko hãy còn mơ hồ khi cô gái dừng chơi
nhạc, như thể cô chưa kịp trở lại Thành phố Thủy tinh từ một miền
miên viễn nào. Tôi nhận ra trên tay cô là một nhạc cụ nhỏ trông
giống như hai miếng kim loại được gắn vào nhau qua một bộ khung
dọc, làm nên một loạt những ô vuông bằng đầu ngón tay, nơi hơi thở
của người chơi trở thành âm nhạc. Thu cả hai bàn tay lên miệng là

- 304 -
Thị trấn mùa đông
cách duy nhất để chơi thứ nhạc cụ này, tôi ngẫm, và vô tình điều đó
lại khiến người nhạc sĩ trông thật nhỏ bé và cô đơn.
“Có chuyến đi dài hơn đất trời…”
Tôi bất giác nhìn theo hướng mắt của Netsuko, nhìn hoài như
chẳng thế tới nơi. Khi quay lại, tôi nhận ra cô gái cũng đang nhìn
mình. Cô mỉm cười, không còn tấm mạng nào ngăn giữa tôi với
gương mặt cô nữa.
“Giai điệu đẹp quá”, tôi nói, “là em viết hả?”.
“Không, không phải em”, Netsuko lắc đầu. “Cả bài hát lần trước
anh nghe ở phòng trà cũng thế. Không phải của em”.
Ngừng một chút, rồi cô nói thêm.
“Em chỉ là người hát lại bài hát đó bằng ngôn ngữ cũ thôi”.
“Em đã học những bài hát này ở đâu vậy?”. Tôi hỏi. “Tôi chưa
từng được nghe điều gì như thế ở Thành phố Thủy tinh này”.
“Đôi lúc em cũng nghĩ chị ấy không phải người ở đây”, Netsuko
khúc khích vẻ đồng lõa. “Chị ấy luôn nói về việc tìm nơi để quay về”.
“Ai kia?”.
“Anh lên đây ngồi đi”, cô gái ngồi xích qua một bên, chừa chỗ
cho tôi trên bậc tam cấp.
Tôi làm theo lời cô. Bậc tam cấp khá hẹp, và chúng tôi phải nép
vào nhau mà ngồi. Netsuko mặc một chiếc áo sơ mi ngắn tay nhạt
màu in nhiều cặp cá vảy xanh làm họa tiết và quần jeans có vẻ quá
rộng so với cặp chân cô, còn tôi đã bỏ áo vest và cà vạt lại trong phòng
vì trời nóng. Vai chúng tôi áp vào nhau, tôi gần như cảm nhận rõ
từng chuyển động của những thớ cơ trên cánh tay cô gái khi cô xoay
món nhạc cụ nhỏ bé trên tay.
“Cái này gọi là kèn harmonica, anh có biết không?”.
“Em nói tới thì hình như tôi đã từng biết rồi”, tôi đáp. “Có những
điều hình như cứ thế nằm trong đầu tôi, và khi cần thì tôi sẽ nhớ ra”.

- 305 -
NHẬT PHI

“Anh biết nhiều thật đấy. Em thì lúc nào cũng cần ai đó nói cho
thì mới biết”.
“Không, Netsuko ạ. Khi nghe em hát đêm đó, tôi mới chợt nghĩ
ra là mình thực ra chẳng biết gì cả”. Tôi lại hỏi. “Người chị mà em nói
tới có phải chính là người đã dạy em chơi harmonica không?”.
“Em gặp Juri ở chỗ đó, giữa bốn bức tường rào kẽm. Em không
biết vì sao chị ấy lại ở trong đó, nhưng hình như chị ấy đã ở đó khá
lâu rồi. Ngay cả khi tất cả đều mặc cùng một bộ quần áo xám, Juri
vẫn có gì đó riêng biệt so với tất cả. Chị ấy là một cái nhọt. À, xin lỗi
anh, em lại đang nói thế này nữa rồi, Miku vẫn nhắc em suốt. Nhọt
tức là…”. Netsuko gõ gõ ngón tay lên trán. “Tức là cái gì đó mà trông
khác hẳn với những cái khác xung quanh ấy, như là bỗng nhiên bị
lạc vào ấy.
“Nhưng em thì muốn gọi chị ấy là một cái kẹo hơn”. Cô gái mỉm
cười, đôi mắt híp lại, âu yếm, mơ màng. “Vì chị ấy bé như cái kẹo.
Và ngọt ngào nữa. Juri rất tốt với em, ngay từ ngày đầu em vào đó.
Chị ấy nói đã luôn muốn có một đứa em gái như em. Em không biết
mình có điều gì để chị ấy quý mến đến thế. Có lẽ vì em cũng là một
cái nhọt. Vì màu tóc của em. Ôi, em có nói nhiều quá không?”.
“Không đâu”, tôi chân thành đáp, vỗ nhè nhẹ lên đầu gối cô
gái, tự hỏi những dây leo lần trước của cô bị cuốn đi đâu mất rồi.
“Tôi rất muốn nghe. Em tả thêm một chút về Juri đi. Cô ấy trông
như thế nào?”.
“A, tóc chị ấy cắt rất ngắn, đó là điều em nhớ nhất. Có khi ngắn
hơn cả tóc anh nữa”. Netsuko quay sang tôi khi nói điều đó, hơi thở
cô lướt qua cổ tôi trong vài giây. “Em từng muốn cắt tóc thật ngắn
cho giống chị ấy, nhưng Juri bảo em hãy giữ mái tóc dài, vì chị ấy rất
thích tóc em như thế. Chị ấy nói tóc em giống như một đám mây
trước khi trời mưa, và chị ấy thì rất thích mưa.

- 306 -
Thị trấn mùa đông
“Ngoài điều đó ra thì em đã làm mọi thứ giống như chị ấy. Em
muốn thực sự giống như một người em gái của chị ấy. Em tập nói giống
giọng chị, tập đi đứng giống chị, và khi thấy chị ấy thổi harmonica thì
em cũng nằng nặc đòi học. Juri vui vẻ dạy em harmonica, nhưng mới
đầu thì chị ấy không thích việc em cứ cố gắng làm mọi thứ giống chị
ấy như thế. “Mình phải Camus chứ”, Netsuko, chị ấy hay bảo em thế.”
Camus, tôi biết từ này.
“Dần dần chị ấy không còn nói với em thế nữa. Không, không
phải dần dần, đúng ra là sau chỉ một đêm thôi, chị ấy bắt đầu chấp
nhận, mà gần như là khuyến khích việc em trở nên giống chị ấy. Đó
cũng là khi chị ấy bắt đầu dạy em hát, dạy em những bài hát của chị
ấy. Sau này, khi Juri qua đời, em mới đoán được sự thay đổi ấy khởi
đầu khi chị ấy lần đầu phát hiện ra những đốm đen trên cơ thể mình”.
“Buổi tối, lúc tất cả tập trung ở phòng lớn để xem chiếu bóng,
Juri và em sẽ trốn vào trong phòng ngủ hay nhà kho để học hát.
Trong căn phòng thường xuyên tối om, tụi em đang trốn mà, Juri sẽ
thổi harmonica thật khẽ để chỉ mình em nghe được, rồi chị sẽ đưa
kèn cho em, bảo em chơi lại, vội vàng suỵt em mỗi khi em lỡ dùng
nhiều hơi quá. Dấm dúi học, lúc nào cũng nơm nớp bị phát hiện,
nhưng đó là quãng thời gian hạnh phúc hiếm hoi của em, ít nhất là vì
khi đó em chưa biết Juri không còn lại đủ thời gian.
“Trong lúc làm vườn hay chăn bò, Juri sẽ tranh thủ nói với em
điều chị ấy muốn truyền tải trong những bài hát ấy. Chị ấy than phiền
về việc ngôn ngữ của Thành phố Thủy tinh không đủ để khớp vừa
với những giai điệu của chị, những nỗi niềm của chị. Em nhớ tất cả
những điều ấy”.
Giọng Netsuko như rạn ra khi cô nói câu sau cùng. Làn không
khí bao quanh chúng tôi thoắt lạnh toát, như vừa mới đón một cơn
gió từ miền ký ức nào. Mây xám bắt đầu tụ lại phía chân trời. Màu
mây như màu tóc cô gái đang ngồi cạnh tôi đây.

- 307 -
NHẬT PHI

“Điều khiến em day dứt nhất là tận đến ngày cuối cùng, em
vẫn không hề biết nơi Juri muốn quay về là nơi nào. Em đã từng hỏi,
nhưng chị ấy chỉ cười và nói rằng chính chị cũng không biết, rằng
chị cũng vẫn đang tìm. Hơn cả một mong muốn, em nghĩ đó là một
ám ảnh. Những bài hát của chị ấy cũng luôn mang nặng nỗi niềm”.
“Em nói rằng khi nào được ra khỏi nơi đó, em sẽ cùng đi tìm
với chị ấy. Em không thực sự có một mong muốn nào trong đời, và
giống như em đang bám vào mong muốn của chị, vào ước mơ của chị
mà sống vậy. Mãi sau này em mới nhận ra điều đó. Một con bé như
em, chỉ như một thứ công cụ cho cha và anh trai cho tới cái ngày đó,
em tự do, cùng lúc mất tự do, nhưng hình như với em, tự do chẳng có
ý nghĩa gì cả. Em chỉ đi từ sự trống rỗng này sang sự trống rỗng khác.
Em chỉ có cách bám víu vào ước mơ của những người khác. Trước
là Juri, giờ là Alexandre. Anh có nghĩ em là đứa không ra gì không?”.
Đồng cỏ trước mặt chúng tôi như đang nở lớn, trải rộng thêm
nhiều lần khi mây xám bắt đầu phủ dày hơn trên nền trời. Chúng tôi
nhỏ bé khôn cùng trước cơn mưa sắp tới. Điều gì đang chờ đợi tôi?
Tôi đang tìm kiếm điều gì? Chính tôi cũng không biết, tôi đâu thể
nào phán xét một người như Netsuko chứ. Tôi châm một điếu thuốc,
chẳng vì gì cả, thổi khói lên nền trời vốn đã xám khói.
“Tất cả chúng ta đều đang đi tìm một điều gì đó, Netsuko ạ”. Tôi
nói. “Đối với riêng tôi, em đã làm được những điều đẹp đẽ. Đó có thể
không phải giai điệu của em, không thực sự là ca từ của em. Nhưng
chính em đã khiến cho nó trở nên kỳ diệu đến thế”.
“Cảm ơn anh”, Netsuko đáp thật nhẹ, rồi chừng như sau một
chút ngập ngừng, cô chầm chậm dựa đầu lên vai tôi. Hơi thuốc ứ
lại trong họng tôi, một cảm giác nào vừa trở dậy, quẫy đạp mãnh
liệt trong lồng ngực tôi. Tôi hút một hơi thuốc dài khác, cốt để át đi
mùi hương tóc cô gái đang len vào khứu giác, nhưng không thể nào

- 308 -
Thị trấn mùa đông
ngăn được cái lạo xạo dịu êm của những lọn tóc áp lên vai tôi, cổ tôi.
Netsuko nói tiếp, như không biết đến những gì đang diễn ra trong
tôi. “Khi em biết về ngôn ngữ cũ, em đã quyết định rằng mình sẽ viết
lại những bài hát của Juri sang ngôn ngữ này. Em tin rằng chị ấy cũng
sẽ muốn thế, nếu chị ấy cũng được biết về ngôn ngữ cũ. Nó đủ đầy và
vừa vặn với những giai điệu hơn. Alexandre bảo em hãy hát lên cho
nhiều người nghe hơn, như cách để nuôi giữ những ký ức về Juri và
lan tỏa những tình cảm của chị. Em đã làm như thế, hình như cũng
khá lâu rồi”.
“Anh có muốn nghe không, Rei?”.
Tôi gật đầu, và Netsuko bắt đầu hát, thật khẽ. Đó là giai điệu
cô đã chơi trên harmonica khi tôi mới đi tới. Lời hát hòa vào hơi thở
trôi thật êm vào tai tôi. Tôi cảm nhận được cả những đợt rung nơi cổ
họng cô gái, tôi đang nghe không chỉ bằng tai mình.
“Có trái tim tựa như tiếng đàn, làm tôi yêu xiết bao
Có bước chân dài hơn những con đường, về nơi tâm vắng lặng…”.
Bàn tay tôi tìm lên mặt Netsuko. Có chút hơi ấm ươn ướt trên gò
má mềm mại. Hơi ấm tan đi khi ngón tay tôi chạm tới. Trong bóng tối
mới đổ sụp xuống Thành phố Thủy tinh này, chúng tôi lần mò một tia
sáng. Rất nhiều chữ có, và cùng lúc, rất nhiều những cái không.
“Có tiếng kêu là im lắng im lìm, là không thể hát về…”.
Khẽ khàng, tôi kéo khuôn mặt thật xinh, thật hiền, thật mơ
màng ấy lại gần mình. Giữa những có và không, chúng tôi chia nhau
một cái hôn rất nhẹ. Và mưa bắt đầu rơi trên cõi hoang đường này.

- 309 -
NHẬT PHI

MAKOTO BÀN VỀ CÁI CHẾT

R ei này, cái chết có đáng sợ lắm không anh? Bây giờ nhìn
lại, em mới nhận ra em chưa từng nghĩ về điều gì như thế.
Anh biết mà, em là một con bé ở cùng với mẹ trong nhiều năm, em
sống trong tình yêu thương lớn lao đến nỗi mối lo lắng lớn nhất của
em là bọn người xám sẽ mang mẹ em đi mất. Rồi em đến Thị trấn
Mùa đông, khi những ngày oanh kích chỉ còn có nghĩa là em sẽ được
đến nhà Ionah để nghe truyện kể. Hình như nỗi sợ cái chết đã từng
hiện hữu ở Thị trấn Mùa đông, nhưng không còn nữa khi em ở đó.
Cũng không ai nói với em về cái chết, không ai lo lắng, không ai sợ
hãi nữa. Tất cả mọi người đều có đủ việc để làm cho một ngày, rồi
ngày sau, ngày sau nữa. Ai cũng biết ngày hôm sau sẽ tới, với tất cả
mọi người, phải không anh? Khi bà Astrid mất đi, em tin rằng cũng
như em, mọi người bắt đầu được gợi nhắc về những điều không được
coi là hiển nhiên. Nhưng em có cảm giác mọi người rồi cũng sẽ sớm
quên. Vì Thị trấn Mùa đông là như thế.
Anh có nhớ không, Rei? Em đã gặp lại bà Astrid ở Thung lũng
Táo. Bà nói bà đã trở về nơi ấy. Vậy thì cái chết giống như một hành
trình, phải không anh? Thế thì nó có đáng sợ không? Em không biết
nữa, nhưng em nghĩ em sẽ buồn. Em sẽ phải tới một nơi xa lạ, và chờ
mẹ, chờ Ionah, chờ anh đến cùng với em. Chỉ thế thôi, em đã không
nghĩ gì nhiều hơn về cái chết. Như thế có phải là em chưa từng thực
sự sống không, hả anh?

- 310 -
Thị trấn mùa đông
Nhưng ở Thành phố Thủy tinh thì không phải như thế, Rei ạ.
Thị trưởng Rhodes đã nói với em. Mọi người ở Thành phố Thủy tinh
sợ cái chết hơn hết thảy. Họ nhìn thấy cái chết ở khắp mọi nơi, và
họ tránh né tất cả những gì họ không biết, những điều họ cho rằng
có thể dẫn đến cái chết. Em nghĩ vì thế mà họ đã tránh né em, vì em
đã nói thứ tiếng họ không biết. Đương nhiên là họ vẫn già đi và chết
một cách tự nhiên, điều này người đến từ Thị trấn Mùa đông như
mình nói thì nghe kì thật đấy, anh nhỉ? Rhodes nói chính vì nỗi sợ
tuổi già và cái chết mà mọi người ở Thành phố Thủy tinh đều bận
rộn. Họ bận rộn để quên đi nỗi sợ, hoặc họ tin rằng bận rộn sẽ giúp
họ trì hoãn được tuổi già và cái chết. Họ bận rộn làm việc, và khi
không còn việc gì để làm trong ngày nữa thì họ bận rộn tìm vui.
Anh đã thấy cảnh hàng ngàn người đứng quanh các tòa nhà
để xem các chương trình giải trí chiếu trên tường chưa? Nếu chưa
thì anh phải thử ngay đi. Với em thì đó là một cảnh tượng rất kỳ thú.
Nhưng nói thật với anh là các chương trình giải trí của họ mau chóng
làm em cảm thấy nhàm chán, rồi thì chẳng mấy chốc em bắt đầu
thấy mệt với bầy người ấy. Em nhớ những kỳ truyện kể trên đài hơn
là mong đợi mỗi ngày một màn giật gân nào đó. Mọi người thì có vẻ
hào hứng lắm, ngay cả những người làm việc ở tòa thị chính. Em đã
thấy cảnh sau giờ làm việc, tất cả mọi người đều hối hả thu dọn, trở
về nhà, tắm rửa, ăn tối để ra quảng trường kịp giờ giải trí.
“Mọi người thích chương trình nào nhất hả anh?”. Em hỏi
Rhodes như thế, và anh ấy đáp ngay, “mọi chương trình đều được
yêu thích ngang nhau, không có thiên kiến, so sánh hay xếp hạng gì
cả. Bởi vì, cô gái ạ”, anh ấy nói thêm, “mọi người chỉ cần được giải
trí thôi. Nói cho ngay, họ sẽ ra khỏi nhà vào chập tối, đi bộ hay chạy
xe tùy hứng và dừng lại ở bất kỳ một màn hình nào họ thấy hứng
thú ngay tại lúc đó. Thậm chí, mục tiêu của bộ phận giải trí là tạo ra

- 311 -
NHẬT PHI

những chương trình luôn luôn có thể thu hút được sự chú ý nhất thời
mà không phải là mối quan tâm lâu dài, những chương trình người
ta có thể dừng lại để xem bất cứ lúc nào, để rồi quên ngay và lại theo
dõi một chương trình khác vào ngày hôm sau”.
“Tại sao vậy anh?”. Em hỏi.
“Bởi vì con người ở Thành phố Thủy tinh không cần, không
muốn và không nên yêu thích một cái gì quá”. Rhodes đáp. “Điều đó
không tốt cho họ. Chúng tôi biết vậy. Họ biết vậy”.
Ở Thành phố Thủy tinh tồn tại một nỗi ám ảnh, gọi là bệnh
bọ đen. Rhodes nói trong quá khứ, nó là nguyên nhân chính dẫn tới
những cái chết ngoài tự nhiên của cư dân thành phố. Tất cả những
gì họ biết là bệnh bọ đen gắn liền với những điều như là ham muốn,
khát khao, ước mơ, và mắc bệnh đồng nghĩa với cái chết treo lơ lửng
trên đầu. Họ sợ cái chết, nên họ sợ bệnh bọ đen, dẫn tới sợ luôn cả ý
niệm về ham muốn, một nỗi sợ hãi được truyền qua nhiều thế hệ, dù
rằng không phải ai cũng từng được chứng kiến một ca bệnh. Những
nỗi sợ ấy phủ lên toàn bộ Thành phố Thủy tinh, và chính nó, chứ
không phải tòa thị chính, mới là kẻ đang vận hành thành phố này.
Những tia vằn đỏ hiện lên trên đôi mắt Rhodes khi anh ấy nói những
điều ấy. Anh cười, vẻ cay đắng. “Makoto ạ, nhiều khi tôi nghĩ nhà
chức trách của thành phố này chỉ là một đại diện, một kẻ thừa hành
của nỗi ám ảnh bọ đen, bị nó thao túng cho tới tận lõi. Chúng tôi làm
tất cả chỉ để ngăn căn bệnh ấy chạm tới người dân”.
“Công việc hay giải trí thì cũng chỉ nhằm duy trì một Thành
phố Thủy tinh dung chứa được sự tồn tại của con người, và đẩy cái
chết ra xa khỏi họ mà thôi. Em hiểu không, Makoto? Chúng tôi làm
tất cả để giữ, để người dân của chúng tôi được sống viên mãn ở hiện
tại. Ấy vậy mà lại có những kẻ như bọn Alexandre, nhân danh sự
phục hồi, không ngừng làm loạn thành phố này, phá bỏ những điều

- 312 -
Thị trấn mùa đông
chúng tôi đang cố gắng gìn giữ, nhằm kéo về một quá khứ huy hoàng
mà chính chúng còn không biết tới”.
“Nghe như vậy thì cả hai người đều đang vì thành phố mà làm
việc, phải không ạ? Tại sao hai người không làm cùng với nhau?”, em
rụt rè lên tiếng.
“Em không hiểu rồi”. Rhodes đáp, em có thể thấy anh ấy đã tức
giận với ý tưởng làm việc chung với người kia. “Alexandre nhân danh
phục hồi thành phố, nhưng hắn không quan tâm tới con người. Hắn
gieo rắc mầm mống sự chết nơi mọi người, trong khi chúng tôi bảo
vệ họ khỏi điều đó. Hắn khiến những người dân lương thiện và tri
túc của tôi bắt đầu nghi hoặc và hoài cố. Hắn lôi kéo họ, trong khi
họ không hề biết, ra khỏi vùng an toàn mà tòa thị chính tạo ra. Em
không biết tỉ lệ bệnh bọ đen đã tăng lên như thế nào từ khi tồn tại cái
gọi là phong trào phục hồi thành phố đâu. Theo tôi thấy, hắn chẳng
phục hồi được gì mà chỉ phá hoại thôi”.
Em không nói gì. Em không thể hiểu hết những gì đang diễn
ra nơi mạch ngầm của thành phố này, nhưng em cảm nhận được nỗi
niềm của thị trưởng Rhodes. Vậy nên em để anh ấy nói tiếp.
“Alexandre cần phải bị ngăn cản, và trừng phạt thích đáng. Hắn
thậm chí còn đang lừa dối cả những người làm việc cho hắn. Và đó là
điều khiến tôi khinh miệt. Một kẻ giả trá hai mặt. Khi nhận ra điều
đó, tôi không còn chút lưỡng lự nào nữa. Tôi sẽ săn lùng và trừng
phạt hắn bằng mọi giá”.
“Sao anh biết người đó đang lừa dối cả đồng sự?”.
“Tôi biết chứ. Nhờ em đấy, Makoto. Khi em phát hiện ra tên
đặc vụ của Alexandre ở đây, tôi đã nghĩ phải làm thế nào để ép hắn
khai ra tất cả. Chẳng dễ dàng gì nếu như kẻ phản loạn đó có một đội
ngũ trung thành. Nhưng không, hắn tuôn ra tất cả, như em đã biết,
ngay khi tôi đưa hắn vào phòng tra khảo được một lúc”.

- 313 -
NHẬT PHI

Em nhớ điều đó, và em vẫn còn hối hận vô cùng vì đã làm


thế, Rei ạ. Em chỉ nghĩ rằng thật là vui khi có một ai đó khác ngoài
Rhodes ở tòa thị chính có thể đọc và viết như chúng ta. Em không
quên được sự căm phẫn của Rhodes khi biết điều đó, và gương mặt
kinh hãi đến mất hết sắc khí của người kia khi bước ra từ căn phòng
đó. Em đã làm một điều thật kinh khủng với con người ấy, em càng
cảm thấy tệ hơn khi Rhodes cảm ơn và khen ngợi em vì điều đó.
“Trong căn phòng đó là gì, hả anh?”.
“Chẳng có gì ghê gớm đến vậy cả”. Rhodes cười, em nghĩ anh
ấy hiểu cảm giác của em và đang cố gắng uỷ an. “Chúng tôi không
làm hắn ta đau. Nỗi sợ ấy hoàn toàn là từ bản thân hắn mà thôi. Dù
rằng tôi hoàn toàn hiểu, nếu được chọn, tôi sẽ không bao giờ chui
đầu vào đó”.
Rhodes nói tất cả chỉ là một cuốn băng, được dành riêng để tra
khảo phạm nhân, hình thức tra khảo tàn nhẫn nhất ở Thành phố Thủy
tinh, được truyền lại từ những đời thị trưởng trước. Bản thân anh ấy
chưa bao giờ xem nó, cũng như chẳng bao giờ người ta cầm dao tự
cắt cổ mình cả. Anh ấy được nghe nói, từ thị trưởng tiền nhiệm, rằng
cuốn băng ấy chứa tất cả những hình ảnh thôi thúc những ước muốn,
kích động những khát khao, phong phú và sống động đến độ chắc
chắn sẽ khiến người xem mắc bệnh bọ đen sau một đêm.
Người bị tra khảo rõ ràng đã rất sợ hãi, nhưng chẳng hiểu sao
khi nghe thế, em lại muốn xem cuốn băng đó một lần. Một cuốn
băng có thể khiến em biết ước muốn và khát khao. Biết đâu em lại
thấy mẹ ở trong đó, anh nhỉ? Dĩ nhiên, em không nói điều này với
Rhodes.
Em cũng không nói với Rhodes rằng được sống chẳng phải
cũng là một khát khao hay sao, và chính anh ấy cũng đang ham muốn
giữ an toàn cho người dân thành phố và có thôi thúc mãnh liệt đi tìm

- 314 -
Thị trấn mùa đông
bắt người tên Alexandre kia đó thôi. Rốt cuộc thì bệnh bọ đen mà cả
thành phố này e sợ thực sự phản ứng với điều gì? Hay tất cả bọn họ
đều đang nhầm lẫn hả anh? Em chẳng biết gì cả, em chỉ là một đứa
trẻ con. Em muốn lớn lên. Anh từng nói lớn lên đòi hỏi những nỗi
đau. Người dân Thành phố Thủy tinh có lớn lên không, khi mà họ
luôn có một người thị trưởng giữ cho họ được an toàn? Em có đang
lớn lên không, hả anh? Vì em đang đau buồn lắm.
Đọc xong thư anh hãy nói với người chuyển thư là em rất tiếc
về những điều đã xảy ra với anh ấy. Em không muốn thế. Em xin lỗi.
Rhodes nói anh ấy đang chờ anh. Em cũng muốn gặp anh,
nhưng chỉ khi anh cảm thấy điều đó là cần thiết thôi. Em biết chúng
ta ở đây để hoàn thành một nhiệm vụ mà. Anh sẽ biết khi nào phải
làm gì, phải không Rei?

- 315 -
NHẬT PHI

NGƯỜI VẼ CHÂN DUNG

C ha tôi là người vẽ chân dung trên phố. Ông có vẻ ngoài


điển hình của một họa sĩ đường phố với thân hình gầy
guộc, râu tóc muối tiêu dài và khoác một tấm áo măng tô xanh rêu
cũ mèm, đến mức không thể phân biệt được đó là màu áo hay thực sự
rêu đã bám két lên vải nữa. Mỗi lần tôi gặp đều thấy ông đang ngồi,
xếp bằng hai chân bên vệ đường, gác một tấm bảng vẽ trên đùi, thành
thử tôi không bao giờ thấy được nhiều hơn nơi ông. Còn ông có lẽ đã
luôn thấy tôi rất rõ, qua đôi mắt đùng đục.
Những con phố của Thành phố Thủy tinh đang ở lúc vắng nhất
trong ngày khi tôi gặp ông lần đầu tiên. Về mặt này thì thành phố
cũng giống với Thị trấn Mùa đông, tới một lúc nào đó, tất cả mọi
người đang hối hả đi lại trên đường sẽ nhất loạt tản ra, trôi vào trong
những khung cửa tầng trệt của một tòa cao ốc hay căn nhà nào đó.
Tôi hiểu rằng họ cũng đang trở về nhà sau một ngày làm việc, chỉ
để chuẩn bị tiếp tục lao ra ngoài cho những chương trình giải trí
một khi đêm rớt xuống. Khi ấy, tôi đang đi dạo trên phố, dù rằng đó
không phải là một cuốc đi dạo đơn thuần. Tôi đang đi với một mục
đích, một cuộc tìm kiếm.
“Tôi hiểu anh cần phải tìm kiếm câu trả lời cho mình”, Alexandre
nói, “tôi cũng sẽ không hỏi anh đang tìm kiếm điều gì đâu. Có điều,
anh có thể nào không đi một mình sao?”.
“Nếu như anh đi cùng với tôi, thủ lĩnh thân mến”, tôi đáp, “thì

- 316 -
Thị trấn mùa đông
dù không hỏi, anh cũng sẽ biết tôi đang tìm thứ gì. Nhưng chính anh
cũng không muốn thế, phải không?”.
Về phần mình, tôi hẳn nhiên không muốn anh ta biết. Không
phải vì điều đó sẽ ảnh hưởng tới quá trình tìm kiếm của tôi, mà chính
bởi thứ mà tôi tìm kiếm dường như chẳng có chút nào liên quan tới
lý tưởng của anh ta. Thậm chí nó có thể cũng chẳng mang lại câu trả
lời cho câu hỏi vô hình của mình. Đó là ý muốn của riêng tôi, có thể
coi là nỗi ham biết thuần tuý.
“Tôi sẽ đưa anh vào thành phố”, Alexandre đề nghị, rồi cảnh
báo. “Thành phố Thủy tinh là một chốn nguy hiểm với một người
như anh. Chúng ta không biết Rhodes đang toan tính điều gì, nhưng
tôi tin chẳng có gì tiện lợi cho hắn hơn là bắt gặp chính anh đang vơ
vẩn trong trung tâm thành phố. Vậy nên đừng bắt chuyện với ai cả,
đừng để ai biết anh đang nói ngôn ngữ cũ. Hãy hành xử như mọi
người khác, đừng gây chú ý, chỉ cần như vậy thì sẽ không có ai nói gì
với anh hết. Tôi sẽ đón anh ở chỗ cũ khi màn chiếu bóng kết thúc”.
Và thế là tôi ở đây, ngay trung tâm Thành phố Thủy tinh, sải
những bước chân gấp gáp như tất cả mọi người, trong khi chốc chốc
lại ngoảnh sang hai phía để tìm kiếm. Để bớt gây chú ý, Alexandre
thậm chí còn mua cho tôi một cốc giấy chứa thứ nước uống màu đỏ
quạch. Tôi cầm nó trên tay khi đi trên phố, mà không uống, tới cuối
buổi thì đổ xuống cống. Tôi làm theo đúng lời dặn của Alexandre
trong hai ngày đầu, đóng khép mọi giao tiếp với tha nhân và tập
trung vào việc của mình. Mỗi ngày tôi chọn cho mình một cung
đường khác nhau, bắt đầu từ cuối giờ chiều, cố gắng để lộ trình của
mình vẽ ra một đa giác khép kín, để đảm bảo rằng tôi có thể quay
lại điểm xuất phát vào quãng nửa đêm, nơi Alexandre đang chờ sẵn.
“Anh có tìm thấy gì không?”. Anh ta bồn chồn hỏi.
“Không thấy gì cả”, tôi đáp, khi ấy đã mệt nhoài, rồi mở cửa leo
vào xe.

- 317 -
NHẬT PHI

Chuyện bắt đầu khác đi ở ngày thứ ba, cái ngày tôi đi ngang qua
cha mình trên một quãng phố vắng.
“Này, Camus”, ông gọi. Tôi giật mình quay sang, nhận ra người
đàn ông đang ngồi bên vệ đường, dưới một cột đèn chưa sáng. Không
có ai bắt chuyện với tôi trong suốt hai ngày qua, vậy nên thoạt đầu tôi
không cho rằng người đàn ông đang nói với mình. Tôi dợm bước tiếp
thì ông lại cất tiếng. “Này, Camus, anh không thể nào cứ “dây leo”
như vậy khi người lớn gọi anh được. Hay anh đang muốn cá hồi?”.
Tôi dừng sững lại, gần như chắc chắn ông đang nói với mình.
Hay đúng hơn, ông đang chủ động cho thấy ông biết tôi. Tôi tần ngần
trong một giây, nghĩ về lời cảnh báo của Alexandre trong khi hai
chân chỉ chực tiến tới ngồi xuống tiếp chuyện người đàn ông bí ẩn.
“Đừng lo”, người đàn ông nói, hình như ông đang nhìn vào đầu
gối tôi, “không có gì nguy hiểm cho anh đâu”.
“Ông là ai?”. Tôi hỏi.
“Anh thấy đấy”, ông đáp, đẩy về phía tôi một chiếc ghế gỗ thấp
ba chân, “ta vẽ chân dung. Sao anh không ngồi xuống và để ta vẽ tặng
anh một tấm, anh bạn?”.
Tôi làm theo lời ông, ngồi xuống trong khi ông bắt đầu lấy từ
một hộp thiếc những cọ lông và bảng màu. Ông thoăn thoắt trộn bột,
pha màu, miệng lẩm nhẩm điều gì đó, trước khi dựng tấm bảng vẽ
lên trước mặt và lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi nói khi cây
cọ trên tay ông bắt đầu chuyển động.
“Ông vẽ chân dung, nhưng điều đó vẫn không nói lên ông là ai”.
“Vậy anh nghĩ ta là ai?”.
“Không nhiều người nói ngôn ngữ cũ”, tôi đi tới kết luận ngay
tức khắc. “Ông là Thị trưởng tiền nhiệm”.
“Sai rồi”.
“Vậy ít nhất ông là người của Tòa thị chính?”.

- 318 -
Thị trấn mùa đông
“Không, ngược lại thì đúng hơn”.
“Vậy ông là người của phong trào phục hồi thành phố ư?”.
“Không, ta không giữ, cũng không xây”.
“Ít ra hãy cho tôi biết tên ông”, tôi nói, và lần đầu tiên tôi đưa
cốc giấy của mình lên miệng, thứ nước màu đỏ có vị ngọt rất gắt, đến
khé cổ. Giọng tôi hơi nghẹn đi, như thể thứ nước kia đã quánh lại nơi
vòm họng tôi. “Như thế ít ra tôi còn có thể ghi ông lại trong trí nhớ
một cách ngắn gọn. Tôi không thể cứ phải tự nhắc lại cho mình về
người đàn ông vẽ chân dung trên phố được”.
“Vậy anh nghĩ cái tên sẽ cho anh biết một con người thực sự là
ai sao?”. Ông ngước lên khỏi tấm bảng vẽ, hấp háy đôi mắt vẻ châm
biếm. “Vậy tên anh là gì?”.
“Tôi là Rei”, bị dội ngược, tôi lúng túng đáp. “Thực ra đó là tên
mà Thị trấn Mùa đông gọi tôi…”.
“Không, anh không phải…”.
“Sao kia?”.
“Ta nói anh không thể là ‘Rây’ được”.
“Tại sao chứ?”.
“Vì ‘Rây’ đã là ta rồi. Tên ta là ‘Rây’”.
“Tên ông cũng là Rei?”.
“Không phải cũng là. Mà chính là”.
Hoạ sĩ già giương một cái cười nửa miệng đa nghĩa. Rồi ông đặt
cọ xuống, lấy từ trong túi áo măng tô ra một bao thuốc lá, rút một
điếu rồi châm lửa bằng diêm. Ông chuyền cho tôi một điếu khác, và
cả điếu thuốc đã châm của ông, ý chừng tôi hãy châm thuốc bằng
đốm lửa trên đó. Tôi làm theo, rít một hơi dài để lấy lửa rồi đưa điếu
thuốc trả lại ông. Thứ mang lại những đốn ngộ kỳ vĩ.
Trời đã sụp tối chung quanh chúng tôi, ánh sáng của ngọn đèn
đường lơ lửng trên đầu người đàn ông đã thay thế ánh nắng chiều

- 319 -
NHẬT PHI

nhập nhoạng. Thốt nhiên, tôi có cảm giác ánh sáng trắng ấy đang bao
lấy chúng tôi, phân tách chúng tôi ra khỏi thành phố. Hai kẻ cùng
tên, một già một trẻ, trong một miền riêng. Không ngẩng lên để nhìn
ra xung quanh, tôi hình dung bên ngoài chúng tôi chỉ là màn đêm
đen đặc, như thể ngoài quầng sáng này, không khí cũng được cấu
thành từ một chất liệu khác. Tiếng cười sang sảng của người đàn ông
đối diện tôi tựu hình thành một đám khói, hoài chẳng tan đi.
“Bọn trẻ các anh sẽ nói thế nào nhỉ? ‘Táo’ à? Cách nói ấy chưa
xuất hiện ở thời của ta. Nhưng đúng vậy, ta có câu trả lời cho anh,
‘Rây’ thân mến”.
“Ông là ai, hỡi ‘Rây’ của Thành phố Thủy tinh?”.
“Ta là cha của anh, con trai ta, kẻ lưu lạc tới Thị trấn Mùa đông.
Chúng ta là cha con, vậy nên chúng ta mới cùng tên. Nói ngược lại
thì cũng đúng”.
“Con xin chào cha. Thật mừng khi thấy cha vẫn khỏe”.
“Ồ, ta còn mừng hơn ấy chứ. Anh đã lớn đến như thế này,
và còn vượt đường xa tới đây để ta được gặp anh nữa. Thế nào? Đi
đường xa có vất vả lắm không?”.
“Không, thưa cha. Đó là một hành trình kỳ thú”.
“Nói ta nghe, điều gì đã đưa anh trở lại Thành phố Thủy tinh này?”.
“Chẳng giấu gì cha, con khởi hành là vì Thị trấn Mùa đông, với
mong muốn chấm dứt một điều đã lặp đi lặp lại nơi ấy. Nhưng rồi
trên đường đi, con đã nhận ra không thể cứ thế kết thúc một điều gì
mà không mang lại một điều gì khác. Và hơn thế nữa, con muốn làm
điều gì đó cho tất cả, cả Thị trấn Mùa đông, cả Thành phố Thủy tinh.
Những người con gặp trên đường đã khiến con hiểu ra điều đó”.
“Ở đây, bị chia cắt với người bạn đồng hành, con nhận ra nhiệm
vụ của mình đang bị cuốn giữa hai vòng xoáy ngược chiều, rất có thể
sẽ bị nghiền nát nếu như con không tìm ra một hướng đi cho nó. Họ

- 320 -
Thị trấn mùa đông
cho rằng con đóng một vai trò đặc biệt trong sứ mệnh của họ, và rằng
con chỉ đang thư thả trong việc hé lộ dần những hiểu biết bí mật của
mình, nhưng kỳ thực con đang rất bối rối. Con biết quá ít. Vậy nên
con tiếp tục đi tìm”.
“Bằng cách lang thang vô hướng ngày này qua ngày khác trên
những con phố này ư?”.
“Con có một đích đến, thưa cha, không, một manh mối. Nhưng
những con phố luôn dừng lại quá sớm. Chúng thậm chí không có
tên, lấy đâu ra một con số”.
“Những con số đã bị tẩy trắng mất rồi. Từ thời của ta”.
“Đó là thời như thế nào, thưa cha?”.
“Anh muốn biết ư? Vậy ta sẽ kể anh nghe. Nhưng này, ở đây
cũng bắt đầu ồn ào rồi đấy. Mà ta thì không thích những nơi ồn ào.
Hẹn anh một ngày khác nhé”.
“Con có thể tìm thấy cha ở đâu, thưa cha?”.
“Ta sẽ lại gặp anh, miễn là anh vẫn đi tìm thứ anh đang tìm
lúc này”.
“Vâng thưa cha. Con xin ghi nhớ”.
Chúng tôi tạm biệt nhau. Tôi chào ông, bước ra khỏi miền sáng
của ngọn đèn đường, bước vào một miền sáng khác. Thành phố Thủy
tinh đã trở lại là một chốn náo hoạt, với những màn hình khổng lồ nơi
những tòa cao ốc, với niềm phấn khích rổn rảng trên những gương
mặt người. Khi tôi quay đầu lại, hình dáng mỏng gầy của người họa
sĩ già đã chìm khuất trong khối háo hức của bầy người. Điếu thuốc
trên tay đã tắt tự bao giờ. Tôi ném đầu lọc vào thùng rác đầu tiên bắt
gặp trên phố. Alexandre vẫn sẽ chỉ nhận lại một cái lắc đầu.

Luôn luôn là buổi chạng vạng, tại một góc phố vắng nào đó, tôi
gặp ông. Tới một lúc, tôi nhận ra, câu chuyện không phải là ở đâu, mà

- 321 -
NHẬT PHI

là bao giờ. Ông luôn luôn đang vẽ, điềm nhiên ngẩng lên nhìn tôi rồi
lại cúi xuống bảng vẽ, như thể tôi vẫn cứ ngồi đó làm mẫu cho ông.
Khi tôi ngồi xuống, cha tôi sẽ mời tôi một điếu thuốc trước khi ông
bắt đầu nói. Câu chuyện của chúng tôi luôn chỉ gói gọn trong một
điếu thuốc.
“Ta đã thấy tất cả”, ông nói, “ta biết Thành phố Thủy tinh đã
thay đổi như thế nào. Ta đã thấy những thứ đã từng tồn tại không còn
tồn tại nữa. Ta đã thấy những thứ chưa từng có xuất hiện ở khắp mọi
nơi. Ở vào thời của ta… Không, nói đúng ra thì chẳng có thời nào
hết, con trai ta, chỉ có những trạng thái thôi. Thành phố này chỉ đi
từ trạng thái này sang trạng thái khác mà thôi. Ta hay anh cũng vậy,
cùng một lúc chúng ta có thể sống ở thời này hay thời khác, nhưng
chúng ta phải xác định đúng trạng thái của mình”.
“Anh hỏi đó là trạng thái như thế nào ấy hả? Trạng thái mà
thành phố này từng trải qua? Đó là khi cái chết là một điều tự nhiên
và được con người bình thản đón nhận. Thành phố Thủy tinh khi ấy
tồn tại đúng với mục đích của nó, nơi dung chứa sự chết”.
“Ta sẽ vô cùng thất vọng về anh đấy, nếu như anh định hỏi làm
sao một thành phố có thể tồn tại với mục đích dung chứa cái chết
được. Anh đã đi xa lâu tới độ quên đi hết những điều hiển nhiên đến
thế rồi hay sao? Ta nói anh hay, chỉ khi có thể dung chứa sự chết,
thành phố này mới thực sự sống. Từng lớp người tuần tự được sinh
ra, lớn lên và tịnh tiến tới cái chết với trái tim còn đập, bàn tay ấm
nóng và nụ cười vội vã, đó là dòng máu không ngừng chảy trong
thành phố. Con người sinh ra rồi chết đi, nhưng ký ức được thành
phố lưu lại, không có điều gì bị lãng quên cả, như một vòng xoáy
vươn lên cao mãi. Ngày ấy, người ta sống ngắn hơn, nhưng nhiều
hơn bây giờ. Bây giờ, khi người ta tẩy đi những con số, chỉ để tự
thuyết phục mình rằng thời gian của họ còn rất dài”.

- 322 -
Thị trấn mùa đông
“Cái thời ấy, ý con là cái trạng thái ấy”, tôi hỏi, “đã kết thúc vào
năm 1953, phải không, thưa cha?”.
“Anh hiểu biết hơn ta tưởng đấy”. Cha tôi tỏ vẻ hài lòng. “Thành
phố này quyết định không dung chứa sự chết nữa, mà cố gắng trục
xuất nó. Những kẻ còn sống muốn tiếp tục sống, dù chỉ để sống mà
thôi. Cái chết bắt đầu hứng chịu nỗi sợ hãi, mối căm ghét của thành
phố này. Và thế là, từ một cô gái dịu dàng, bao dung, nó trở thành
một mụ phù thuỷ xảo quyệt, tàn độc. Để trả thù, ả rù quến người
tình mới của thành phố, sự sống, và chẳng mấy chốc tha hóa chàng.
Thoạt nhìn, chàng dường như mạnh mẽ hơn, sinh động hơn, nhưng
kỳ thực, sự sống đã mục ruỗng rồi”.
“Điều gì đã dẫn tới quyết định đó, thưa cha?”.
“Một điều gì đó đã bị thất lạc. Một ký ức. Bị đánh cắp, hay bị
mang ra trao đổi, ta không biết, con trai. Ký ức đó là gì, ta cũng không
biết. Nói cho cùng, ta cũng chỉ là một con người”.
“Con mừng vì điều đó, thưa cha”.
“Anh mừng vì ta là một con người ư?”.
“Vâng, thưa cha”.
“Vậy thì anh mừng hơi sớm đấy”. Ông cười mỉm. “Cùng lúc, ta
cũng có thể là một cái gì đó khác. Cũng như chính anh vậy”.
“Con cũng có thể là một cái gì đó khác ư?”.
“Đúng vậy”.
“Con sẽ không ‘cá hồi’, thưa cha”. Tôi nói. “Nhưng con còn một
câu hỏi nữa”.
“Nói đi, con trai”.
“Alexandre và thị trưởng Rhodes có biết những điều cha biết
không, thưa cha? Rằng có điều gì đó đã mất và cần được tìm lại”.
“Ồ, ta tin là họ biết. Họ chỉ không biết đó là gì và phải tìm ở đâu”.
“Thành phố Thủy tinh sẽ được gìn giữ hay phục hồi nếu như
người ta tìm lại được điều đó chứ, thưa cha?”.

- 323 -
NHẬT PHI

“Ồ, ta nghĩ đó không phải là câu hỏi”.


“Cái gì mới là câu hỏi, thưa cha?”.
“Tồn tại hay không tồn tại, đó là câu hỏi”.

Bao nhiêu điếu thuốc đã cháy lên rồi lụi đi giữa những chuyến
tìm kiếm của tôi. Bao nhiêu buổi chạng vạng để người họa sĩ già hoàn
tất bức chân dung của tôi. Không phải tôi không thể đếm, mà là tôi
đã chọn đếm một thứ khác. Những gợi ý từ cha tôi đã cho tôi biết
điều mình đang tìm kiếm chính là điều mình cần tìm kiếm. Bắt đầu
lại từ nơi đã kết thúc, tôi nghĩ.
Tôi đón lấy bức chân dung được cuộn lại từ tay người họa sĩ già
mà không mở ra ngay. Tôi chào ông, cảm nhận rõ ràng rằng chúng
tôi sẽ không gặp lại nhau nữa. Những gì còn lại nằm trong bức tranh
này, tôi tin vậy và giấu nó trong vạt áo vest khi gặp lại Alexander.
Tôi mở bức chân dung được coi là của mình ra khi chỉ còn lại
một mình trong phòng. Nhìn lại tôi trong tranh là một gương mặt
nửa xám ngoét nửa đỏ lựng, với cái mũi khoằm, cặp sừng cụt trên
đỉnh đầu và một đường gấp khúc thể hiện bờ môi mím chặt, nửa giận
dữ, nửa đăm chiêu. Một gương mặt nửa người nửa quỷ. Và đó là tôi,
cùng lúc lại là một bản thể nào đó khác, còn sống hay đã chết.
Góc dưới bức vẽ là chữ kí viết tắt của người hoạ sĩ - R.B.

- 324 -
Thị trấn mùa đông

NẾU THỰC SỰ PHẢI NHƯ THẾ

Đ ôi lần, tôi thấy mình trở lại Thị trấn Mùa đông. Không,
nói đúng ra là Thị trấn Mùa đông trở lại trong tôi. Tôi
thấy mình thức dậy dưới mái nhà tôi đã từng quen thuộc, trên tấm
ga giường xanh, phủ lên mình tấm chăn con công. Bầu không khí ấm
sực với mùi thơm của xúp củ cải đỏ, để cho mùi hương nồng đượm
lấp đầy khứu giác, tôi nghe sống mũi cay cay. Đây là nơi tôi đã từng
quen thuộc, hầu như tất cả mọi thứ vẫn đang ở đúng vị trí của chúng
khi tôi rời khỏi đây. Tưởng như tôi chỉ vừa mới tỉnh dậy sau một giấc
mơ dài, tưởng như cái đêm trắng ấy chưa bao giờ diễn ra, tưởng như
hơi ấm chúng tôi đã chia nhau chỉ là ảo giác trong một giấc mơ khác.
Tưởng như chốc lát nữa tôi, Ionah của tôi sẽ lại mở cửa bước vào với
giỏ bánh mì đen, thanh thoát, dịu dàng trong làn áo váy tím. Nhưng
tôi biết nàng sẽ không thể nào, bởi vì bộ váy tím ấy lại đang được treo
trên bức tường ngay cạnh giường tôi lúc này. Tôi chạm tay vào đó, làn
vải tím mềm mại nhưng lạnh ngắt. Rồi tôi nhận ra tất cả đã đổi khác
rồi, rằng đây không phải một ngày hôm qua khác nữa.
Vẫn cứ là mùi xúp củ cải sực nức từ cái nồi đang liu riu sôi
trên bếp lửa, nhưng giờ đây tôi nhận ra bầu không khí đã không còn
giống với khi tôi sống ở đây nữa. Sự thay đổi hầu khắp được xắt nhỏ
tới nỗi trở nên vi tế tới mức gần như không tạo nên một ấn tượng
nào cả. Chúng cô lại nơi một trong bốn chiếc ghế bên bàn ăn, nay đã
được đôn cao lên, đủ để một đứa trẻ có thể ngồi ăn thoải mái. Ở một

- 325 -
NHẬT PHI

góc phòng xuất hiện một cái rương không có trong trí nhớ của tôi,
bên trong chất đầy quần áo trẻ con đủ kích cỡ. Dựa vào những bộ đồ
lớn nhất, tôi biết được đứa trẻ trong nhà đã tới năm hay sáu tuổi. Vậy
là hơn năm năm đã trôi qua. Viena…
Bao nhiêu ngày hôm qua đã trôi qua rồi trở lại trên Thị trấn
Mùa đông, tôi không biết nữa. Năm năm đã trôi qua với riêng Viena,
nhưng những quy luật chưa bao giờ rời bỏ thị trấn nơi con lớn lên.
Vết dấu của điều ấy in hằn những nếp nhăn nơi đuôi mắt, nơi làn
da dường đang héo đi trên gương mặt Ionah. Nàng đã già đi, đã trở
thành một người phụ nữ trung niên, dù rằng nàng vẫn đẹp theo cách
riêng của mình. Tưởng như mỗi ngày lớn lên của Viena phải đánh
đổi bằng nhiều ngày già đi của nàng. Khoác lên mình tấm áo chùng
vàng nhạt, giữ nguyên một nụ cười ấm áp bình thản, nàng dường
đang nói với tôi về những bất biến, những tiền định, những lẽ công
bình của Thị trấn Mùa đông. Bánh mì đen và củ cải đỏ vốn dĩ không
phải để nuôi lớn một đứa trẻ, và nếu như những nỗi đau là cần thiết
để Viena lớn lên thì chính nàng đang nhận lấy nó thay con. Nàng hẳn
đã chuẩn bị cho điều này từ lâu lắm.
Trong khi Ionah múc xúp ra đĩa, Viena lanh lẹ phụ nàng lau
dọn bàn ăn, nhón đôi chân nhỏ xíu, nhoài hết thân mình bé bỏng
trên mặt bàn gỗ. Trong bữa ăn, Viena ríu rít kể cho chúng tôi nghe
về một chú chim mà con mới kết bạn vào buổi chiều. Một chú chim
có khoang tím trên cái cổ xanh mập ú. Nó đã chậm chân hơn chúng
bạn nên đành chịu chầu rìa khi cả bầy đang tụ lại nơi một khoảnh
vườn. Nhân lúc mẹ không để ý, con đã nhón một củ cải trong giỏ và
chia cho chú chim đặc biệt ấy. Nó đón nhận món quà một cách nhiệt
thành, không ngẩng đầu lên cho tới lúc củ cải đỏ đã hoàn toàn biến
mất vào trong cái mỏ ngắn ngủn. Rồi nó ngẩng lên, nghiêng nghiêng
đầu như tri ân trước khi cùng cả đàn chim cất cánh về phía khu rừng.

- 326 -
Thị trấn mùa đông
Ionah quở yêu con gái, như thể nàng đã phát hiện ra sự vắng mặt của
củ cải đó. Nàng cười hiền từ, Viena cười lanh lảnh. Niềm vui trong
trẻo mà không bom đạn nào át được, còn hay không còn những ngày
oanh kích.
Tới phiên mình, tôi lấy từ trong túi áo ra chiếc hộp nhạc, đặt
lên bàn, tận hưởng ánh mắt hiếu kỳ nơi con gái mình. Khi ấy, tôi đã
giả như không nhìn ra chớp ưu tư vừa lướt qua khóe mắt nàng. Như
một nhà ảo thuật chuẩn bị hé lộ màn diễn, tôi nhặt hộp nhạc lên, đặt
ngón tay lên môi ra dấu im lặng, rồi nhẹ nhàng xoay tay cầm màu
bạc. Giây lát, một giai điệu vừa lạ vừa quen ngân lên trong căn nhà
nhỏ. Viena mở to mắt ngạc nhiên thích thú, mái tóc đen ngắn lắc lư
theo nhịp nhạc. Khi tôi xoay tới vòng thứ hai, con đã bắt đầu ngâm
nga theo giai điệu ấy. Ionah đưa tay xoa đầu con gái, nàng như đang
nửa tỉnh nửa mê, một dòng nước mắt chảy trên má nàng.
“Dì Makoto có dạy con hát không, Viena?”.
Tôi dừng tay quay, lên tiếng hỏi để đánh thức nàng. Đáp lại tôi,
vẻ thắc thỏm hiện lên không chỉ nơi Viena, mà còn ở cả Ionah.
“Makoto?”. Nàng hỏi thay con. “Đó là ai vậy anh?”.
Và rồi trong khoảnh khắc, cô bé con đang ngồi đối diện tôi
kia bỗng nhiên trông giống đến lạ lùng một phiên bản bé hơn của
Makoto.
Đêm xuống, và như mọi đứa trẻ, Viena được cho đi ngủ sớm.
Khi chắc chắn rằng con đã ngủ, Ionah khẽ khàng thả thêm củi vào lò
sưởi rồi ngồi xuống bên tôi. Chúng tôi cùng ngồi uống trà và ngắm
thiên thần nhỏ của chúng tôi hồn nhiên cựa mình trong giấc ngủ
êm. Chúng tôi đã bao giờ cùng uống trà bên lò sưởi trước đây? Trong
những lần ấy, thứ trà của chúng tôi luôn mang hương vị ngòn ngọt
mà sống sượng của nước suối.
“Viena đã bắt đầu hỏi em về thế giới bên ngoài”, nàng nói, giọng

- 327 -
NHẬT PHI

nàng nghèn nghẹt như những suy tư bị kìm nén. “Con bé biết bầy
chim phải tới từ một nơi nào đó và phải đi về một nơi nào đó.
“Rồi sẽ tới một lúc nào đó, Thị trấn Mùa đông là không đủ với
con, em biết điều đó. Em có cảm giác rằng khi con đủ lớn, nó sẽ tìm
cách rời khỏi nơi này, dù em có chấp thuận hay không. Vì vốn dĩ
Viena không thuộc về nơi này. Cũng như cha của nó”.
“Không ai quyết định con bé thuộc về nơi nào ngoại trừ chính
nó cả”, tôi đáp khô khốc, không thực sự tin vào điều mình đang nói.
“Viena có quyền biết tất cả, để rồi lựa chọn, để rồi quyết định. Và một
khi con đã quyết định, chúng ta sẽ tôn trọng điều đó”.
“Làm sao để con có thể biết và quyết định đây, hả Rei?”. Nàng
hỏi lại. “Khi mà chính anh còn chưa thể?”.
Tôi thấy mình đứng ngoài trời, dưới cơn mưa tuyết, giữa màn
đêm trắng bạc. Thị trấn Mùa đông đang ngủ, như đã định. Tôi rẽ
tuyết mà bước đi, lặp lại lộ trình mà tôi đã đi trước đó, vào ngày đầu
tiên, và vào một đêm trắng khác. Không để đuổi theo điều gì, không
để tìm kiếm vật gì, không phải vì có ai đang đợi mình, tôi đi như thể
đó là điều tự nhiên nhất mình có thể làm, như thể nơi kia là một đích
đến được định sẵn. Tôi đi qua những mái nhà, những khoảnh vườn
tuyết phủ trắng xóa. Tôi không thấy lạnh, những bước chân tôi cũng
không bị nền tuyết ngáng trở, nhưng hình như tôi vẫn cứ phải đi lâu
thật lâu, mải miết. Trước mặt tôi, xuyên qua những căn nhà nhỏ, chỉ
là đường chân trời bàng bạc. Đích đến không lọt vào tầm mắt tôi, cho
tới khi tôi tới trước nó.
Và ở nơi đó, nơi tòa thị chính của thị trấn đã từng đón biết bao
nhiêu kẻ lưu lạc chờ được gọi tên, giờ chỉ là một bãi đất trống trơn
với độc một cây dương cao chót vót như đã hàng trăm tuổi. Tôi lại
gần, đặt tay lên lớp vỏ cây xù xì, ẩm ướt, lạnh ngắt. Trên một cành cây
thấp, con cú màu hung đang nhìn xuống tôi. Tôi không hỏi, nhưng

- 328 -
Thị trấn mùa đông
đôi mắt con cú chừng như đang trả lời. Ánh mắt nửa hoài cố, nửa
cam chịu. Hình như nó đang muốn nói điều gì đó như là, ừ, nếu thực
sự phải như thế.
Như thế, là như thế nào?
Tôi nằm một mình trong căn nhà tôn, chờ nghe một tiếng quạ.
Nhưng Thành phố Thủy tinh không đáp.

- 329 -
NHẬT PHI

PHÚT CUỐI CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN


BẰNG NGÔN NGỮ CŨ

T ĩnh lặng, ấy là gương mặt của người đàn ông trong quan
tài lẫn người phụ nữ bên bàn điều khiển. Trước mặt người
phụ nữ là một tấm mặt nạ đỏ rực với cái mũi khoằm và hai mấu nhỏ
trên trán đã từng là hai cái sừng, tấm mặt nạ Quỷ vương, bên cạnh
đó là khẩu súng lục bạc ổ xoay. “Đó là dành cho anh”, Nogias đã nói,
qua miệng của Raine, “nhưng trước hết ta hãy nghe chuyện của anh
đã. Điều gì đã đưa anh tới đây vậy, Rei?”.
“Sao anh biết tôi sẽ đến vào hôm nay?”.
“Tôi không biết, Rei ạ”. Nogias đáp. “Hoặc ít ra tôi không biết là
ngày nào. Tôi tin anh sẽ đến. Tôi đã đợi anh, chuẩn bị để nói hết những
gì tôi biết. Vì đây sẽ là lần cuối cùng. Thời gian của tôi đã cạn rồi”.
“Anh còn bao lâu?”.
“Đủ để nói với anh tất cả những gì tôi biết”.
Tuyên bố của Nogias cho tôi cảm giác mình đang cùng một lúc
gặp lại cả con cừu, con cú và con quạ, những kẻ luôn hiện ra từ thinh
không và ném cho tôi những câu trả lời, đôi khi cho điều mà tôi chưa
kịp hỏi. Vả chăng, đều là nhờ những sự dẫn dắt vừa như ngẫu nhiên,
vừa như tiền định như thế mà tôi mới đi được tới lúc này. Tôi im
lặng, mặc dù điều này khiến tôi phần nào bồn chồn. Raine đã không
pha trà mời tôi như lần trước, dường như kể từ sau cuộc gặp trước,
tất cả những gì chị, và Nogias, làm trong gian phòng lạnh này chỉ là

- 330 -
Thị trấn mùa đông
chờ đợi lần ghé thăm tiếp theo của tôi. Tôi bắt đầu nhìn những mảnh
pha lê màu cá hồi trong quan tài, cố gắng ghép từng nhóm ba mảnh
thành một hình thù cụ thể trong đầu.
“Quay trở lại Hành lang Ghi nhớ từ Thị trấn Mùa đông, điều
đầu tiên tôi làm là đi tìm Chiến hạm. Cũng chẳng khó khăn gì lắm,
khi mà tôi đã dành rất nhiều thời gian để khám phá hành lang ấy
trước đó. Nhưng khi đứng trước bàn điều khiển trên Chiến hạm,
tôi lại đột nhiên chùn tay. Tôi tự hỏi mình có đang làm điều đúng
đắn hay không. Những thế hệ trước tôi ở Thành phố Thủy tinh đã
mong muốn điều gì khi tạo ra những ngày oanh kích? Vì lẽ nào mà
sau ngần ấy những ngày đau thương, Thị trấn Mùa đông vẫn tiếp
tục đứng vững, không nhượng bộ, không thỏ hiệp, không đáp ứng
những điều mà thành phố yêu cầu? Họ không muốn, hay không thể?
Tôi run lên trước màn hình xanh, trước cần gạt và trước ổ khóa. Tôi
không nghĩ mình đang đặt nhiệm vụ lên trên tình yêu hay ngược lại.
Đơn giản tôi muốn làm một điều gì đó đúng đắn, một điều sẽ tốt cho
tất cả.
“Tôi dành nhiều thời gian trên Chiến hạm để nghiên cứu màn
hình điều khiển. Tôi nhận ra rằng chừng nào không khóa hệ thống
tên lửa lại hoàn toàn, chúng sẽ tiếp tục oanh kích, đích đến gói gọn
trong Thị trấn Mùa đông, chỉ là chúng sẽ rơi xuống điểm nào trong
đó mà thôi. Những điểm bắn phá được lập trình thành những biểu
đồ, như anh đã biết. Thoạt nhìn, những điểm oanh kích được sắp xếp
như thể ngẫu nhiên, nhưng sau một hồi nghiên cứu, tôi đếm được
cả thảy chín trăm mười một biểu đồ. Rất nhiều, nhưng hữu hạn. Và
đây là điều quan trọng nhất tôi đã phát hiện ra và tôi tin rằng anh cần
biết. Toàn bộ chín trăm mười một biểu đồ oanh kích đó có một điểm
chung. Một khoảng trống không nhỏ ở một góc thị trấn”.
Nogias ngừng nói trong một giây, và gần như ngay lập tức, tôi

- 331 -
NHẬT PHI

nhận ra khoảng trống mà anh ta nói tới là gì. Tôi nghe hai hàm răng
mình nghiến chặt lại.
“Phải rồi…”.
“Đúng vậy. Điều gì xảy ra nếu như tên lửa được rải xuống đó?
Và vì sao khu vực đó lại được chừa lại? Tôi không thể nghĩ được, vậy
nên tôi quyết định sẽ tôn trọng quy tắc đó khi lập trình cho Chiến
hạm một biểu đồ oanh kích mới. Tôi trở vào hành lang, và bắt đầu
làm việc trong một căn phòng, nơi có sẵn bảng đen, bút và giấy. Rõ
ràng tôi không phải là người đầu tiên làm một công việc tính toán ở
đó. Thậm chí tôi không phải người đầu tiên tính toán về quỹ đạo của
những quả tên lửa. Tôi ngay lập tức nhận ra điều đó khi nhìn những
phép tính, những biểu đồ đã được lập. Những người đến đây trước
tôi hẳn là những người đã lập trình nên những điểm bắt phá. Những
tính toán của họ đã giúp tôi rất nhiều trong việc tạo nên một biểu
đồ mới, mà tôi đã lập trình để nó trở thành quỹ đạo duy nhất cho hệ
thống tên lửa. Nhưng đó là những điều anh đã biết rồi”.
“Điều tôi chưa biết là gì?”. Tôi hỏi, người đã từng vào căn phòng
tính toán ấy là Makoto, chứ không phải là tôi.
“Một phép tính khác, mà tôi tin không thuộc về sự lập trình
quỹ đạo tên lửa. Một công thức”.
“Và anh cho rằng nó quan trọng?”.
“Tôi tin vậy”, Nogias đáp. “Không có gì là không quan trọng cả.
Hãy ghi nhớ lấy nó, Rei”.
Trừ ba mươi hai, rồi chia chín, nhân năm.
Trừ ba mươi hai, rồi chia chín, nhân năm.
Một công thức, tôi ngẫm nghĩ, thì để làm gì? Khi mà những con
số không tồn tại ở cả Thị trấn Mùa đông lẫn Thành phố Thủy tinh?
Một nơi chỉ có những ngày hôm qua, và một nơi chỉ là những buổi
tối với các chương trình giải trí liên tục bất tận. Những con số, phải

- 332 -
Thị trấn mùa đông
chăng chính là thứ Thị trấn Mùa đông đã từ bỏ còn Thành phố Thủy
tinh đã đánh mất? Không, sẽ phải là một thứ gì đó khác, một thứ
mà cả tôi lẫn Nogias đều không thể mang từ Hành lang Ghi nhớ tới
thành phố này hay thị trấn kia.
Tôi ngước nhìn lên bảng chữ cái trên tấm bảng đen, bảng chữ
cái của một thứ khác đã mất đi ở nơi này. Thứ mà những kẻ còn biết
đến gọi là ngôn ngữ cũ. Chúng vẫn ở đó, nhưng dưới một hình thức
khác, len lỏi trong bộ từ vựng của Thành phố Thủy tinh. Phổ cập trở
lại ngôn ngữ cũ là một phần của công cuộc phục hồi thành phố của
Alexandre, và dường như là điều mà tòa thị chính của thị trưởng
Rhodes đang cố ngăn chặn bằng mọi giá. Cá hồi và bệnh bọ đen
dường như có một mối liên hệ nào đó.
“Bà Astrid đã qua đời”. Tôi nhận ra mình bắt đầu nói lớn lên
những nghĩ suy. “Ông Gingawa chỉ có thể ở lại Hành lang Ghi nhớ.
Kahn thuộc về Thị trấn Mùa đông. Và chúng ta không có bất kỳ
manh mối nào về người tên Pal cả. Những người có thể có một câu
trả lời. Những người đầu tiên. Nhưng họ không phải những người
duy nhất”.
Tôi nhìn Raine, nhìn vào đôi mắt nhắm nghiền của chị, lắng
nghe hơi thở đều của chị, chỉ để chắc chắn người kia vẫn đang lắng
nghe mình.
“Bà Astrid từng nói với tôi điều này. Lí do Thành phố Thủy
tinh tấn công Thị trấn Mùa đông là vì Tháp cổ. Anh có biết điều này
không?”.
“Chưa ai nói với tôi về Tháp cổ”. Nogias đáp. “Thật tiếc vì tôi
chưa có dịp nói chuyện riêng với bác sĩ Lindgren. Dù tôi có cảm giác
bà luôn nhìn thấu tôi”.
“Chắc chắn ở Tháp cổ sẽ có câu trả lời”. Điều này hiển nhiên
đến độ trong giây lát tôi không hiểu sao tới giờ mình mới nói đến nó.

- 333 -
NHẬT PHI

“Nếu như anh đã không biết, tức là Alexandre cũng không biết. Và
thị trưởng Rhodes cũng không biết”.
“Nhưng này, Nogias, nếu như không phải là để tìm đường sang
Tháp cổ, thì nhiệm vụ mà Thành phố Thủy tinh giao cho anh là gì vậy?
Nogias…
Nogias…”
“Rei, tất cả trông cậy vào anh”, giọng người kể chuyện thoắt trở
nên lặng lẽ, đôi chân mày của Raine giật giật, chừng như chị đang trở
lại là chính mình khi Nogias đang trôi dần khỏi tâm trí chị. “Một điều
cuối thôi, hãy tìm Kant, Kant sẽ chỉ đường cho anh. Hãy nhớ cái tên
này, Rei. K.A.N.T”.
“Kant?”. Tôi cuống quýt. “Đó là ai?”.
Và rồi tĩnh lặng. Tôi chới với như đuổi theo một kẻ đã biến mất
trong rừng thẳm. Kant? Tại sao đến lúc này tôi mới được trao cho
một đầu mối lạ lẫm đến vậy? Cho tới tận phút cuối này. Tôi thở hắt
ra, cúi đầu như mặc niệm. Tôi biết mình vừa từ biệt thêm một người
kể chuyện nữa. Những truyện kể không được ghi lại.
“Ông ấy cũng không biết đâu”, khi có tiếng nói trở lại trong gian
phòng lạnh băng, đó là giọng của Raine. “Không phải là ông ấy cố ý
giấu anh, mà là chỉ mới gần đây ông ấy mới biết”.
“Làm thế nào…?”.
“Cũng giống như anh thôi, Rei”. Raine đáp, giọng chị điềm tĩnh
như đã chuẩn bị cho giờ phút này từ lâu. “Nhưng giờ thì ông ấy sẽ
không cho anh biết thêm được gì nữa. Anh sẽ đi tiếp với nhiệm vụ
này chứ?”.
“Chắc chắn”. Tôi đáp. “Dù chị hay Nogias có yêu cầu hay không”.
“Vậy thì việc của tôi ở đây cũng hoàn thành rồi”. Raine tỏ vẻ hài
lòng. Rồi chị đưa cho tôi chiếc mặt nạ và khẩu súng.

- 334 -
Thị trấn mùa đông

KHÔNG MỘT AI

T ừ Thị trấn Mùa đông, qua Hành lang Ghi nhớ rồi một
đường cống ngầm, tôi đôi khi tưởng rằng mình đã tìm lại
được một từ, một khái niệm, một tính chất khi đặt chân tới Thành
phố Thủy tinh này. Nó đã luôn ở đó, nơi tầng đáy khối tri thức của
tôi, chỉ là mãi tới gần đây tôi mới có thể gọi được nó lên. Mới đầu, đó
chỉ là cảm giác gợn lên trong đầu tôi, như một điều từng thân thuộc
nay đã bị lãng quên. Vả chăng, tôi nghĩ, khái niệm này có lẽ sẽ tiếp
tục ngủ say ngay ở Thành phố Thủy tinh nếu như không phải là tôi đã
tới đây từ một chốn như Thị trấn Mùa đông. Những gì tôi đã trải qua
ở thị trấn giống như một cột mốc cho sự đối chiếu, nhưng bản thân
khái niệm trái nghĩa để mô tả bản thân cột mốc ấy thì tôi lại không
thể nhớ ra. Tôi chỉ có thể nói rằng, so với núi tuyết, so với thị trấn và
hành lang, Thành phố Thủy tinh này thật là “biện chứng” biết bao.
Biện chứng tương đối.
Tôi đứng trước màn gương của bức vách thủy tinh, rờ rẫm đặt
tay lên đầu, lên cổ, lên tai, lên mũi mình và lặp lại từ ấy một cách thận
trọng, như thể sợ rằng nó sẽ rơi xuống đất và vỡ tan đi cùng với hiện
thực này. Biện chứng. Thành phố Thủy tinh là một nơi biện chứng.
Nhưng rốt cuộc thì, tôi vỡ ra vào buổi sáng ấy, đó vẫn chỉ là một
nhận định vội vàng, một ngộ nhận. Tuy nhiên, chính sự bình tĩnh
của mình khi ấy mới là điều khiến tôi ngỡ ngàng hơn cả.
Tôi bị đánh thức bởi tiếng rào rạo vụn vỡ của mưa rơi trên

- 335 -
NHẬT PHI

những mái tôn. Không có một bữa ăn nào được dọn sẵn trên bàn, tôi
bình tĩnh mặc quần áo rồi bước ra ngoài, vừa khi tiếng mưa dứt hẳn,
trả tĩnh lặng lại cho khối không gian này. Tôi bình tĩnh đi dọc hành
lang trống trơn, nơi mọi cánh cửa đều đang khóa chặt. Một hành
lang, rồi một hành lang khác nữa. Tôi bình tĩnh, ngay cả khi ý thức
được đây là một điều bất thường. Tôi bước ra bên ngoài, và nhận
thấy con đường chạy ngang qua trước dãy nhà cũng im ắng lạ lùng
trong buổi sáng ấy, chỉ có màu nhựa đen bóng lên sau cuộc gột rửa
đầu ngày. Không người, không xe, chỉ có đám thân cỏ đu đưa oằn oài
dưới sức nặng của những hạt nước đọng trên lá. Bầu không khí đột
ngột oi bức sau cơn mưa, dẫu rằng mặt trời hãy còn chưa kịp lên cao.
Tôi thử gọi, nhưng đáp lại tôi chỉ là chuỗi âm thanh âm u vô nghĩa
miên man, mặt trời kia cũng đang thở dài đấy ư? Chí ít thì mặt trời
vẫn mọc, tôi bình tĩnh nghiệm khi buông mình xuống bậc cửa trước
một trong mấy căn nhà tôn. Tôi ngồi đó hồi lâu, không thực sự biết
mình đang chờ đợi ai hay điều gì. Hay là kì thực Thành phố Thủy tinh
mới là kẻ đang trông vào hành động của tôi để quyết định số phận
của nó? Tồn tại, hay không tồn tại?.
Tôi bắt đầu xem xét khẩu súng lục mà Nogias đã trao cho mình.
Chỉ có bốn viên đạn được nạp trong ổ xoay, trên tổng số sáu ổ đạn.
Có nghĩa là thiếu mất hai viên đạn. Tôi gần như không nghi ngờ gì
việc đây chính là khẩu súng mà người hùng đã sử dụng trong nhiệm
vụ của mình, thậm chí cả tính nguyên trạng của nó sau nhiệm vụ
đó. Một viên đạn đã bắn Quỷ vương, vậy thì một viên nữa đâu? Tôi
có nghĩ tới chuyện người hùng, sau khi rời khỏi Jigokuhen, bỏ lại đó
một Quỷ vương không mặt nạ, đã tiếp tục hành trình và nhắm bắn
một ai đó khác như một phần của nhiệm vụ. Nhưng tôi cảm thấy thật
khó mà hình dung được điều đó. Nhiệm vụ của anh ta có thể là bất kỳ
điều gì, ngoài sát nhân. Đó cũng có thể là một phát súng tự vệ trong
một bối cảnh khác, trên đường trở về cố hương sau nhiệm vụ. Hoặc

- 336 -
Thị trấn mùa đông
như một phát đạn súng săn trong điều kiện khốn khó về lương thực.
Có rất nhiều nguyên cớ để người ta có thể siết cò súng, quá nhiều, đôi
khi là quá dễ dàng. Nhưng tôi không nghĩ nhân vật người hùng là kẻ
có thể dễ dàng tìm thấy một động cơ để nâng súng lên trong những
hoàn cảnh đó. Nếu như anh ta thực sự nghĩ giống tôi như lời Makoto
nhận xét. Tôi hãy còn giả thiết rằng thực ra đó là một pha cướp cò. Ý
nghĩ này khiến tôi cười lớn.
Bóng những căn nhà dần thu ngắn lại, và khi mặt trời gần lên
tới đỉnh đầu, tôi quyết định đã tới lúc mình phải đứng dậy và làm
điều gì đó. Thoạt tiên tôi kiểm tra một lần nữa các cánh cửa trong
khu nhà, với rất ít hy vọng. Cánh cửa dẫn xuống căn hầm nơi Nogias
ngủ đông cũng không hề nhúc nhích, một điều thậm chí còn có vẻ
hiển nhiên. Tôi thoáng nghĩ về Raine. Giờ đây, khi Nogias đã đi tới
tận cùng thời gian của anh ta, chị có còn lí do nào để ở lại căn hầm
đó nữa, khi mà chị đã hoàn thành hết trách nhiệm của mình với nơi
ấy rồi? Rồi tôi lại tự nhủ trách nhiệm không phải là thứ duy nhất
giữ chân người ta lại một nơi chốn. Lề thói, quy luật, tiền định, hay
chính bản thân sự tồn tại. Bước ra khỏi căn hầm lạnh căm ấy, Raine
sẽ không còn là người phụ nữ mà tôi từng gặp nữa. Ở lại đó, và chị sẽ
tiếp tục là chị, Raine của căn hầm lạnh. Tôi hình dung bên kia cánh
cửa, Raine đang tiếp tục pha trà, rồi nhẩn nha ngồi uống bên cỗ quan
tài, trò chuyện với người đàn ông giờ đã không còn đáp lại chị nữa.
Hoặc giả chị vẫn đang ngồi bên bàn điều khiển, đeo tai nghe trên đầu
và tiếp tục thả lên sóng radio những truyện kể giờ là của riêng chị.
Chị sẽ kể câu chuyện gì, tôi không biết được, và tôi thậm chí đã quên
mất hương vị thứ nước trà của chị mất rồi.

Tôi đeo tấm mặt nạ Quỷ vương lên mặt. Tấm mặt nạ vừa khít
vào mặt tôi, hai hốc mắt nằm đúng chỗ chúng cần nằm và lớn đúng

- 337 -
NHẬT PHI

mức chúng cần lớn, cái mũi khoằm rộng hơn sống mũi tôi một chút,
đủ cho tôi hít thở một cách bình thường. Khi tiếp xúc thật gần với
tấm mặt nạ như thế này, tôi mới để ý thấy nó được làm bằng gỗ, mặt
ngoài sơn đỏ và mùi sơn hăng hắc sẽ hiện lên mỗi khi tôi nghĩ tới nó.
Nhưng chỉ một chốc lát, khi bề mặt gỗ đã ấm lên cùng thân nhiệt từ
tôi và mùi hắc của sơn chìm vào hậu cảnh của khứu giác, tôi bắt đầu
quen với tấm mặt nạ tới mức cảm giác nó đã trở thành một phần của
gương mặt mình, như thể tôi đã luôn đeo nó kể từ khi biết nhớ. Tôi
biết điều đó không khiến tôi trở thành một Quỷ vương, mà dù sao
thì Quỷ vương cũng đã chết rồi. Tôi lần tay khắp người để kiểm tra
một lần chót - tấm mặt nạ quỷ trên mặt, chiếc chìa khóa trong một
túi áo và khẩu súng lục trong túi bên kia. Rồi tôi xoay chìa khóa, nổ
máy, vào số và nhấn ga. Cỗ xe mui trần cũ kỹ giật lên một cái rồi lầm
lũi tiến về phía trước.
Cánh cửa dẫn xuống hầm để xe của Alexandre là cánh cửa
không khóa duy nhất tôi tìm thấy. Nó thậm chí còn không có lấy
một ổ khóa. Tôi phát hiện ra cánh cửa sập bên vệ đường, trên lối vào
thành phố. Cánh cửa không đóng kín, mà he hé như một cái miệng
đang chực bật ra lời nào đó. Đưa tay qua khe cửa, tôi nhấc nó lên
không khó khăn, cố định bằng hai thanh chống kim loại. Con đường
dốc thoải dẫn tôi xuống nơi chiếc xe đang đợi, bằng một cách nào
đó, hướng đầu về phía tôi. Căn hầm không sáng đèn, nhưng một
chút ánh sáng lọt xuống từ ô cửa phía trên cho tôi biết chìa khóa xe
vẫn đang cắm trong ổ. Ngồi vào ghế lái, chỗ vốn thuộc về Alexandre,
tôi nhận ra mình hoàn toàn có thể điều khiển được nó, theo nghĩa
chủ quan hẳn hoi. Đây không phải lần đầu tiên tôi biết một thứ gì đó
mình chưa từng trải qua từ khi rơi xuống Thị trấn Mùa đông, và tôi
vẫn luôn chấp nhận chúng như một phần nội tại của bản thân mình.
Và tôi đi vào Thành phố Thủy tinh.

- 338 -
Thị trấn mùa đông
Làn không khí ban trưa tĩnh tại trở thành cơn gió ngược chiều
lùa vào mắt tôi khi cỗ xe đã trở lên tới đường lớn. Tôi bất giác mỉm
cười, không phải chỉ bởi cái cảm thức nắm được tốc độ và sự chuyển
động trong tay mình. Có gì đó thật sự kích thích trong bối cảnh
không người này, khi thức dậy và nhận ra mình là người duy nhất
còn lại trên cả cõi đời. Ấy là một điều gì đó phân biệt thế giới của
ngày hôm qua và thế giới của ngày hôm nay, một điều gì đó ghê gớm
tới độ người ta phải tự hỏi mình có đang trong một cơn mơ hoang
đường không. Việc đầu tiên khi thức dậy và nhận ra mình là người
duy nhất còn lại là gì, ai đó sẽ hỏi. Là xác nhận điều đó. Cũng tức là
hãy cứ đi và đi và đi, chỉ để tìm ra một bóng đồng loại. Tôi đang làm
như thế, giữ chân ga ở mức vừa đủ để đảm bảo sẽ không bỏ lỡ điều
gì, đưa mắt khắp phía và dỏng tai đón đợi. Nhưng chỉ có thênh thang
con đường, hàng rào mắt cáo, những trang trại, tiếng máy nổ và gió
rít và nước bắn tung sau đuôi xe tôi. Cũng chẳng phải là tôi mong đợi
gì nhiều hơn thế.
Tôi sẽ vào thành phố, tìm một ai đó, bất cứ ai. Tôi hy vọng
sẽ tìm thấy Makoto trước tiên, rồi sau đó sẽ cùng cô bé tìm thêm
những người khác. Có thể là thị trưởng Rhodes, có thể là Alexandre
hay Miku. Rồi sau đó… Sau đó… Nếu như… Nếu như… Không, tôi
nghĩ, đầu óc mình chỉ nên tập trung vào mỗi bước phía trước, như
trong đêm, ánh đèn xe chỉ rọi sáng vài thước trước mũi xe, dẫu cho
hành trình có dài tới đâu.
Nắng xiên góc, hắt ngược lên qua những vũng nước đọng trên
mặt đường, loang loáng chói chang khi tôi chạy xe chầm chậm qua
những con phố không người của thành phố. Tới một lúc, tôi dừng xe
lại bên đường, cởi áo vest ra vắt lên ghế bên, bởi lẽ cái oi ả trong ngày
đang lên tới cực điểm. Cái nóng như đang buộc thành phố này thu
mình vào một giấc ngủ trưa. Máy xe đã tắt, gió đã lặng, chuỗi râm

- 339 -
NHẬT PHI

ran trong tai tôi lập tức quay trở lại rõ mồn một. Hình như chính thứ
thanh âm vô danh ấy mới đang rót thủ thỉ sự hoang mang vào tâm trí
tôi. Tôi nổ máy đi tiếp, cốt để lùa nó đi.
Tôi đi nhiều vòng quanh thành phố, trên những tuyến đường
khác nhau. Mặt trời càng xuống thấp, sự phấn kích trong tôi, nếu
tôi có thể gọi nó như vậy, càng lụi đi, và rồi tôi không còn tiếp tục át
được những rì rầm của nỗi hoang mang trong mình nữa. Nó cứ lớn
dần trong tôi đến mức mỗi khi tiến lọt vào trong bóng của một tòa
nhà, tôi lại ngỡ như màn đêm vừa úp thẳng xuống đầu mình, choáng
váng. Vẫn không một ai.
Tôi nhận ra mình bắt đầu đói và khát, mệt và nản. Tôi nhớ ra
mình chỉ là một con người, một kẻ không thuộc về nơi này, và có thể
là không thuộc về nơi nào cả. Tôi chỉ có một mình, với không một
bữa ăn nào dọn sẵn trên bàn, không bánh mì đen được phát vào buổi
sáng, không củ cải đỏ chỉ cần ra vườn nhổ lên là có. Phải chăng chỉ
khi nào trải qua nỗi bất an của ngày hôm nay, người ta mới biết trân
quý cái bất biến của ngày hôm qua? Người ta thức dậy vào mỗi sáng,
đặt tay lên ngực biết mình còn sống, phải chăng biết rằng mình vẫn
đang được những tiền định bảo vệ? Thành phố này đã từng dung
chứa sự chết…
Lần đầu tiên sau nhiều ngày, tôi nhớ ra mình có một cảm xúc
gọi là sợ hãi.
“Alexandre?”. Tôi gọi. “Miku? Netsuko? Có ai không?”.
“Rhodes?”. Tôi hoảng loạn. “Gates? Makoto?”.
“Nogias?”. Tôi tuyệt vọng. “R.B.? Pal?”.
Tôi gục xuống tay lái, nghe lồng ngực thắt lại. Tấm mặt nạ áp
lên mặt tôi chừng như đang siết lại, cứng ngắc các thớ cơ, ngăn chặn
những cảm xúc tràn lên đó. Tôi đấm tay nhiều lần lên bàn điều khiển,
miệng rền rĩ mọi cái tên tôi có thể nhớ tới như một kẻ mất hồn.
Không ai đáp lời tôi. Không một ai. Ngoại trừ…

- 340 -
Thị trấn mùa đông
“Kant”. Tôi gọi lớn, cái tên xa lạ vang vọng qua những mặt kính.
“Đúng vậy, tôi đang sợ hãi đây, tôi đang tuyệt vọng đây. Tôi lạc mất
rồi. Nếu như quả thật ông là người sẽ chỉ đường cho tôi, thì giờ là lúc
ông nên xuất hiện đấy, dù cho ông là ai. Làm ơn, Kant…”.
Và chính khi ấy, tiếng quạ đã im lắng từ lâu đột ngột vang lên
trở lại. Không phải trong lồng ngực, không phải ngay trên đầu tôi.
Mà là từ đâu đó chênh chếch xa xa. Giữa những tòa cao ốc.

“Này Kant”, tôi hỏi, thì thầm với chính mình, chờ đợi một tiếng
nói từ trong chính tôi đáp lời, “cậu có phải chính là cậu không? Vẫn
luôn là cậu, có phải không?”.
Con quạ không đáp, cũng không có tiếng nói nào vang lên
trong đầu tôi.
“Nếu đúng như vậy thì chúng ta đã gặp nhau nhiều lần đấy nhỉ?
Chúng ta thậm chí đã nói chuyện với nhau một vài lần. Cậu đã luôn
luôn xuất hiện khi tôi cần, ngay ở nơi tôi cần. Nhưng lần này thì cậu
tới có hơi muộn đấy, và xa nữa, tôi lại đang phải đi tới chỗ cậu đây”.
Con quạ không đáp, cũng không còn cất tiếng kêu nữa. Nó đơn
giản đang bay nhiều vòng giữa mấy tòa nhà. Như một hoa tiêu, như
một chỉ dấu.
“Chúng ta đâu có lạ gì nhau, phải không? Nhưng tôi nghĩ lần
này nếu không phải là tôi gọi thì dễ chừng cậu cũng không xuất hiện
đâu nhỉ? Tại sao à? Vì không có gì là thừa cả, tôi muốn tin thế, nhất
là khi đó còn là lời chỉ dẫn cuối cùng của ông ấy nữa. Raine nói ông
ấy cũng không biết về cậu, rằng mãi tới gần đây ông ấy mới được
nghe nói về sự tồn tại và vai trò của cậu. Bởi ai? Hẳn là bởi cùng
những nhân vật vẫn thường xuất hiện trong giấc mơ của tôi, mà
ông ấy thì chẳng phải là có dư thời gian để mà lần tìm trong những
giấc mơ đó sao”.

- 341 -
NHẬT PHI

Tôi đánh lái qua một khúc quanh, mắt dõi về phía con quạ đang
chao liệng. Qua khóe mắt, tôi biết con đường tôi đi vẫn không một
bóng người. Chỉ có cảnh vật na ná nhau lừ đừ trôi về phía sau.
“Lần này thì cậu sẽ dẫn tôi tới đâu đây? Lần đầu tiên chúng ta
gặp nhau, chính cậu đã đẩy tôi xuống Thị trấn Mùa đông, có phải để
dẫn tôi vào nhiệm vụ này, để giờ chúng ta lại gặp nhau ở Thành phố
Thủy tinh? Cả Alexandre và Rhodes đều tin rằng tôi là chìa khóa cho
công cuộc của họ. Điều đó có phải đã được quyết định từ cái ngày
chúng ta gặp nhau trên đỉnh núi tuyết?”. Bỗng nhiên tôi muốn nổi
giận, hay ít nhất, tỏ ra giận dữ. “Cậu nghĩ cậu là ai mà có thể quyết
định một điều như thế chứ hả? Cậu nhầm rồi, Kant. Tôi chỉ là một
con người thôi. Hoặc một con quỷ…”.
Mồ hôi bám nhớp nháp trên da mặt nhắc cho tôi về tấm mặt nạ,
về nhân dạng của mình lúc này. Quỷ vương và người hùng không lẽ
nào cùng lúc tồn tại trong một bản thể. Tôi những muốn nói lớn điều
đó lên với con quạ, tôi muốn oán trách nó, muốn căm ghét vận mệnh
mà tôi chưa từng lựa chọn. Nhưng rồi tôi cũng không nói, phần vì tự
trong lòng, tôi vẫn âm thầm cảm kích con quạ vì những điều mình
đã có, đã trải qua, phần khác, quan trọng hơn, Kant không phải là kẻ
chịu trách nhiệm cho những điều đó. Con quạ gáy xám mới là kẻ tôi
cần truy vấn, còn Kant, tôi nhận ra khi đã tới đủ gần để nhìn rõ, là
một con quạ khác, với lớp lông vũ đen tuyền.
Nó cất tiếng kêu, hình như trầm hơn tiếng quạ đã từng vang
lên trong đầu tôi trước đó, rồi đậu xuống góc một tòa nhà thấp hơn.
Nó đang chờ.

- 342 -
Thị trấn mùa đông

GẶP LẠI MAKOTO

S ao anh lại đeo mặt nạ? Anh biết lái xe từ khi nào vậy? Anh
có nhận được hết thư của em không? Sao anh không viết
thư cho em? Anh ở chỗ đó có ổn không? Anh có tìm hiểu thêm được
gì không? Chỗ anh bị đánh còn đau không?
Makoto ném cho tôi quá nhiều câu hỏi, bất kỳ điều gì nháng lên
trong đầu cô bé vào lúc ấy. Giọng cô bé run rẩy và kích động. Tôi hiểu
rằng cô bé cũng đã trải qua một chuỗi hỗn độn những cảm giác giống
như tôi trong ngày hôm ấy. Rồi sau cùng cũng tới…
“Thế này là… thế nào hả anh?”. Makoto thút thít. “Lúc em thức
dậy thì cả tòa thị chính đã chẳng có ai cả. Cửa nào cửa nấy đều đóng
chặt. Em gọi cũng không ai thưa. Em nghĩ mọi người đã dậy sớm để
tập trung ở đâu đó, giống như mọi người ở thị trấn đi lấy bánh mì ấy.
Thế mà khi em ra tới ngoài này thì… Tại sao lại thế hả anh?”.
“Anh cũng đang tự hỏi điều đó”. Tôi lắc đầu, rồi đưa tay xoa đầu
Makoto, như tôi đã làm nhiều lần trước đây. “Nhưng ít ra thì chúng
ta đã gặp lại nhau rồi. Sau bao lâu ấy nhỉ? Anh không còn đếm được
thời gian ở đây nữa”.

Nơi Kant đậu lại, cũng là nơi tôi gặp lại Makoto, rốt cuộc chính
là con hẻm nơi tôi và cô bé đã ở vào cái đêm chúng tôi lên tới Thành
phố Thủy tinh từ dưới đường cống ngầm, cũng là nơi chúng tôi bị
tách khỏi nhau, nhiều ngày trước. Tôi nhận ra con hẻm chỉ bởi vì

- 343 -
NHẬT PHI

Makoto đã có mặt ở đó, lưng tựa vào góc tường, mặt úp vào hai đầu
gối. Nỗi cô độc dường đang dồn ép cô bé, khủng khiếp hơn bất cứ
mối hiểm họa nào.
“Em đi quanh thành phố hết cả buổi sáng, mình em, không
một ai”, Makoto giải thích. “Rồi khi đi ngang qua đây, ý tưởng trốn
chạy chợt xuất hiện trong đầu em. Em sợ lắm, đến mức em nghĩ rằng
mình sẽ chui xuống đường cống ngầm, đi ngược lại về Hành lang Ghi
nhớ, rồi về lại thị trấn. Nhưng em không thể. Em tin rằng anh vẫn
còn ở đây, em không thể chạy trốn một mình được.
“Mà dù em có muốn chạy trốn đi chăng nữa thì em cũng không
làm được”, cô bé khoát tay dọc con hẻm. “Anh thấy đấy, không còn
đường đi nữa rồi”.
Makoto nói đúng, không còn bất kỳ dấu vết nào của miệng hố
đã từng mở lối cho chúng tôi dấn mình vào Thành phố Thủy tinh.
Con đường phẳng lì thậm chí không có lấy một mảng màu dị biệt.
Nhưng cũng như Makoto, tôi đinh ninh đây chính là con hẻm đó.
Đâu đó trên mặt đường ẩm ướt, dưới bóng cây, tưởng như hãy còn
thấy dư ảnh đỏ tai tái của vệt máu chim.
Chúng ta vẫn thường hay nhầm lẫn, tôi bật cười. Điều quan
trọng là tôi đã gặp lại Makoto. Với người bạn đồng hành một lần nữa
ở cạnh bên, lần đầu tiên sau nhiều ngày, tôi mới lại có cảm giác an
tâm đến thế. Mắt tôi ngước lên tìm Kant, con quạ vẫn đang đậu trên
nóc nhà, nhìn chúng tôi chờ đợi.
“Này Kant”, tôi nói với nó, có gì đó như là thách thức, “giờ thì tôi
đã sẵn sàng rồi đây. Bất cứ nơi nào, bất cứ điều gì. Dẫn đường đi, Kant”.
“Kan?”. Makoto nhìn theo tôi. “Giống tên thị trưởng Kahn
hả anh?”.
“Không đâu”, tôi đáp, dùng ngón tay viết ra hai cái tên trong
không khí. “Nó được viết thế này, đọc giống như là Kan-to hơn”.

- 344 -
Thị trấn mùa đông
“Sao anh biết tên nó hả Rei?”.
“Vì đó là tên của người dẫn đường, Makoto ạ, mà anh thì đã
được báo trước về sự xuất hiện của kẻ đó rồi”.
“Anh biết nhiều thật đấy”, cô bé mỉm cười thích thú, hình như
đã lâu lắm rồi tôi mới lại được thấy nụ cười này.
“Cháy, cháy, cháy… Cá hồi, rồi hết cháy…”.
“Táo, táo, táo… Cá hồi, rồi đến táo…” .
Ngồi cạnh tôi trên ghế hành khách của cỗ xe mui trần, Makoto
líu lo hát như thế.
“Em chỉ nhớ được mỗi bài này”, cô bé nói như phân trần. “Họ
còn hát nhiều bài nữa trên mấy chương trình giải trí, nhưng em chỉ
nhớ được mỗi bài này. Ít ra em thấy nó dễ hiểu. Mà thực ra thì em có
hiểu gì ngôn ngữ của Thành phố Thủy tinh đâu. Em không thể bảo
Rhodes dạy cho em được, anh ấy là thị trưởng kia mà. Những người
khác thì ai cũng bận rộn cả”.
“Khi đối diện với nghịch cảnh thì hãy vượt qua nó”, tôi đáp, “khi
đó chúng ta sẽ nhận ra được điều gì đó. Anh nghĩ họ muốn nói thế”.
Tôi ngước lên để đảm bảo rằng cái bóng đen tuyền của Kant
hãy còn trong tầm mắt, tự nhủ ngay lúc này đây, chúng tôi vẫn đang
“cá hồi”. Sau cơn mưa là một đám cháy, vậy đấy. Và sau cùng thì có
bao nhiêu những con người nơi đây thực sự “cá hồi” để rồi có được
táo kia chứ? Với họ, cuộc sống hàng ngày vốn dĩ đã chẳng có một
đám cháy nào.
“Người dẫn đường của mình là một con quạ”, Makoto nói,
không có vẻ gì ngạc nhiên hay thắc mắc. “Anh có nghĩ đó chính là
con quạ em từng gặp không? Con quạ đã đánh thức em trong đêm ấy.
Mà anh có nhận được thư em kể về giấc mơ của em không? Em thấy
mình là con heo vòi…”.
“Anh có nhận được”. Tôi đáp, mặc dù trong một tình huống thư

- 345 -
NHẬT PHI

thả hơn, hẳn tôi sẽ rất sẵn lòng nghe chính giọng Makoto kể lại giấc
mơ ấy một lần nữa.
“Có thể lắm. Anh chưa từng thấy một con quạ nào khác ở
Thành phố Thủy Tinh này”. Ngay cả trong những giấc mơ, tôi nghĩ.
“Đây cũng không phải lần đầu anh được dẫn đường bởi một con quạ”.
Nhưng có thực là con quạ đang dẫn đường cho chúng tôi
không? Tôi nghĩ, sau một khúc cua, khi con đường trước mặt đang
dẫn chúng tôi thẳng tới tòa nhà thủy tinh cao hơn hết thảy, tòa thị
chính thành phố. Và chính Kant cũng đã bắt đầu lượn nhiều vòng
quanh đó, trước khi đậu xuống gờ tường trên một tầng cao. Con hẻm
nơi chúng tôi đã chui lên từ đường cống ngầm, giờ là tòa thị chính
thành phố, dẫu cho không có người dẫn đường, tôi sớm muộn cũng
sẽ tìm đến những nơi đó. Không có bản đồ, nhưng chắc chắn tôi đã
có dự định về những đích đến, vậy thì một kẻ dẫn đường có cần thiết
không? Hay kỳ thực nhiệm vụ của kẻ ấy vẫn còn chưa bắt đầu?
Hình khối thủy tinh của tòa thị chính phình dần ra trong tầm
mắt, chẳng mấy chốc đã choán hết khung cảnh tôi thu được. Nhìn
gần, tòa tháp gây một ấn tượng choáng ngợp đến độ chỉ riêng hình
dung về nó thôi cũng đã đủ để đè bẹp người ta rồi. Không có một
màn mây thấp nào khuất lấp, cảm giác như tòa nhà này còn kỳ vĩ
hơn cả những đỉnh núi tuyết. Ý nghĩ rằng tâm trí mình đang bị nhấn
chìm bởi một tạo vật của Thành phố Thủy tinh kích động tôi tới mức
trong một giây, tôi những muốn cứ thế nhấn sâu chân ga mà lao
thẳng vào đó, xuyên qua lớp cửa kính và để lại sau lưng vô vàn vụn
vỡ. Nhưng tôi kìm lại được kịp, nghiến răng đạp phanh vừa đủ để cỗ
xe khựng lại trước đó vài thước, kéo theo buốt óc tiếng bánh xe miết
trên mặt đường trơn láng.
“Em quên chưa nói với anh”, bên cạnh tôi, Makoto bật cười vẻ tiêu
khiển, “riêng cửa tòa thị chính thì em đã mở được từ phía trong rồi”.

- 346 -
Thị trấn mùa đông
“Đi nào”. Tôi nói, và mở cửa xe. Kant vẫn đang đậu trên tầng
cao của tòa tháp, nó không nhìn chúng tôi. Qua khóe mắt, tôi thấy nó
đang lách chách nhảy quanh, rồi khuất dạng. Có vẻ nó đã chui tọt vào
tòa nhà qua một ô cửa sổ mở mà chúng tôi không thấy được.
Một trong hai cánh cửa, khung cửa rộng đủ cho nhiều hơn một
cỗ xe như của chúng tôi chui vừa, êm ái mở vào trong khi tôi đẩy nhẹ,
dẫn chúng tôi vào sảnh đường tòa thị chính. Đúng như Makoto đã
nói trong thư, sảnh đường rộng đến nỗi tôi tưởng như sẽ lại trông rõ
bầu trời khi ngửa mặt lên. Và vẫn không một ai. Gian phòng khổng lồ
trĩu nặng hư không, bốn bức tường trắng trơn, nhẵn mịn, chấp chới
các giác quan nơi tôi. Tôi không dám lên tiếng gọi, sợ rằng khối vọng
âm được trả lại sẽ ép chúng tôi đến ná thở. Từng hơi thở đã nghe dài
mãi dài mãi ra. Makoto níu tay áo tôi giật giật, ý chừng dò hỏi. Tôi gật
đầu rồi tiến về phía lồng thang máy. Chỉ tới khi cánh cửa kính nhẹ
nhàng trượt đóng lại, trả lại tôi cảm thức về hữu hạn, tôi mới dám thở
hắt ra một hơi thõng thượt.
“Kant không chỉ dẫn chúng ta tới tòa thị chính”, tôi nhận định.
“Nó muốn chúng ta lên một tầng lầu nào đó. Không, nó muốn chúng
ta vào đúng căn phòng đó”.
“Phòng nào, tầng nào hả anh?”. Makoto hỏi, bàn tay cô bé đã
đặt lên vách buồng thang máy, trước một rãnh trượt dựng dọc có
chia vạch. Nút trượt đang nằm ở dưới đáy rãnh, vạch thấp nhất. “Anh
biết mắt em không tốt lắm mà”.
“Em biết mà, Makoto”, tôi nói, như phó mặc. Makoto kỳ thực
nhìn rõ mọi sự hơn tôi nhiều lắm.
Makoto nhíu mày một thoáng, rồi bằng vẻ quả quyết, cô bé gạt
nút lên gần như kịch trần. Một cái trở mình như nấc cụt, rồi buồng
thang máy bắt đầu chuyển động lên cao dần. Khi trần sảnh đường hạ
xuống ngang tầm mắt, tôi mới nhận ra đây là lần đầu tiên mình đi lên

- 347 -
NHẬT PHI

khỏi mặt đất. Đã từng rơi, đã từng bị cuốn trôi, đã từng hụt hơi đuổi
bắt và trốn chạy, tôi ngỡ ngàng thấy một điều hoang đường như nâng
mình lên khỏi mặt đất cớ sao lại có vẻ dễ dàng đến vậy.
“Anh có nhớ Thị trấn Mùa đông không, Rei?”. Makoto đột ngột
hỏi, đâu đó ở giữa hành trình thẳng đứng của chúng tôi.
“Anh nhớ chứ”, tôi đáp, “Ionah và Viena, những người rất quan
trọng đối với anh. Có những đêm anh nghe lòng mình cháy lên khao
khát được quay về đó, gặp lại Ionah và nhìn xem Viena đã lớn đến
như thế nào. Cả bánh mì đen và củ cải đỏ nữa, đôi khi…”.
“Em cũng nhớ họ”, cô bé nói, giọng ngùi ngùi. “Ionah, anh, và
cả bé Viena nữa. Ba người là gia đình của em. Anh biết không, Rei,
bây giờ nghĩ lại, em thấy là mình đã có quá ít kỷ niệm ở thị trấn. Phần
lớn là những truyện kể, rồi sự chăm sóc của anh chị. Em đã ở thị trấn
rất lâu, và em biết là em nhớ nơi ấy, nhưng trong những đêm nằm
một mình trong phòng ở đây, em gọi về được quá ít kỷ niệm. Em đã
lớn lên tới ngần này, chỉ để không quên câu chuyện mà bà Astrid đã
kể ngày hôm trước”.
“Đó không phải là lỗi của em, Makoto. Đơn giản đó là cách
thị trấn của chúng ta tồn tại. Họ không từ bỏ ngày hôm qua, như cái
cách Thành phố Thủy tinh đã từ bỏ cái chết”.
“Em biết chứ, về thị trấn ấy mà”. Makoto héo hắt cười. “Thị
trưởng Rhodes nói với em rất nhiều về cái chết…”.
“Và điều đó càng chứng tỏ họ đã từ chối nó, mong muốn phủ
nhận nó. Cũng như họ đã phủ nhận rất nhiều điều khác…”.
“Quỷ vương…”.
Makoto tần ngần, và khi nói điều đó, cô bé nhìn vào tôi.
“Phải”, tôi đưa tay chỉnh lại tấm mặt nạ của mình, nâng nó lên
trong một giây, “anh muốn nhắc cho họ nhớ lại những điều đó”.
Một thoáng im lặng, ánh đèn nhỏ nhấp nháy dọc theo rãnh

- 348 -
Thị trấn mùa đông
thước cho tôi biết chúng tôi chỉ còn cách đích đến một vài tầng lầu
nữa, rồi Makoto đột ngột hỏi.
“Nếu được chọn thì anh muốn sống ở đâu hả Rei? Thị trấn Mùa
đông hay Thành phố Thủy tinh?”.
“Anh không biết nữa”. Tôi thành thật. “Nơi nào có Ionah, có
lẽ thế”.
“Em cũng nghĩ thế”. Makoto gật đầu. “Và em cũng thế. Nhưng
nếu chỉ là riêng em, nói thật với anh, có những lúc em nghĩ sẽ chọn
nơi này.
“Không biết anh có để ý không, nhưng từ khi đến đây, tóc em
đã dài ra”. Cô bé lắc mái tóc, và tới lúc đó tôi mới nhận ra, đuôi tóc
của Makoto thực sự đã dài ra ở mức có thể nhìn thấy được. “Em nghĩ
nếu em ở lâu hơn nữa, em sẽ thấy mình cao lên. Thế có nghĩa là em
đang lớn lên, phải không anh? Em muốn thấy mình lớn lên lắm, lớn
lên, và xinh đẹp như Ionah. Liệu lớn lên em có xinh đẹp được như
chị ấy không anh nhỉ?”.
“Chắc chắn em sẽ lớn lên, và xinh đẹp”, tôi xoa đầu cô bé. “Xinh
đẹp theo cách riêng của em”.
Và rồi buồng thang máy dừng khựng lại, đột ngột như khi bắt
đầu chuyển động. Cánh cửa trượt sang, mở ra trước chúng tôi một
dải hành lang dài không người. Với một cánh cửa mở sẵn.

- 349 -
NHẬT PHI

ALEXANDRE VÀ RHODES

“C ó một tín điều được lưu truyền qua rất nhiều thế hệ
người dân Thành phố Thủy tinh” người đàn ông nói,
“ấy là khi được đánh thức dậy bằng một cơn mưa sáng sớm, đừng mở
cửa, đừng bước ra ngoài cho tới khi mặt trời khuất bóng”.
Căn phòng không rộng, mà trống trải kỳ lạ. Ngoại trừ một bộ
bàn gỗ lớn trống trơn tựa vào cửa sổ, nơi người đàn ông đang ngồi,
day lưng lại với chúng tôi, trong phòng gần như không còn đồ đạc gì
khác. Vật trang trí duy nhất là một bức tranh trên tường, vẽ lại toàn
cảnh thành phố nhìn từ trên cao. Người đàn ông ngồi trên một chiếc
ghế tựa bọc da, toàn bộ thân người khuất sau lưng ghế, một phần bàn
tay vươn ra từ đó đang cầm một ly sứ trắng. Hắn đưa ly lên miệng,
thở dài một tiếng.
“Họ nói rằng những cơn mưa sáng sớm mang theo mầm bệnh
bọ đen, lan tỏa nó vào không khí, rằng bất kỳ ai mở cửa hay bước
ra ngoài và hít ngửi bầu không khí của ngày đó sẽ ngay lập tức mắc
bệnh bọ đen”, giọng nói điềm đạm, không già không trẻ, tôi cảm giác
đã từng nghe giọng nói này ở đâu đó rồi. “Người ta nói mầm bệnh
bọ đen ấy sẽ chỉ lây lan dưới ánh nắng. Nó sẽ tan đi khi đêm xuống”.
Tôi trông thấy Kant, con quạ đen đang đứng trên bệ cửa sổ
trước mặt người đàn ông. Nó không nhìn chúng tôi, cũng không
nhìn kẻ đó. Cả bốn sinh thể trong căn phòng đều đang nhìn về cùng
một hướng, dù vô định. Một hớp nước nữa, và một hơi thở dài nữa.

- 350 -
Thị trấn mùa đông
“Tôi không có ý định giấu các bạn về điều này”, kẻ kia nói, bằng
một giọng hơi khác, trầm hơn, “đơn giản là tôi chưa có dịp. Các bạn
thấy đấy, tôi không phải là nhà tiên tri. Nhưng điều đó lại vô tình đưa
cả hai bạn tới đây, điều tôi đã luôn trông đợi”.
Bên cạnh tôi, Makoto bung ra một tiếng kêu khó tả, nửa như
bối rối, nửa như vui mừng. Tôi cũng đang ở một trạng thái tương tự.
Những lời này giải thích cho sự trống không của thành phố trong
suốt cả ngày nay, nhưng người đàn ông này có nhiều hơn thế để mà
trả lời.
“Khi nhận ra nó”, bàn tay cầm ly sứ mở ra một ngón về phía con
quạ, “tôi biết rằng mình cần phải mở cửa để đón các bạn. Nó đã bay
tới đây, gõ vào cửa phòng tôi cho tới khi tôi chịu đi theo nó, vào ngày
đầu tiên anh tới đây, Rei ạ. Chính nó đã dẫn tôi tới chỗ anh”.
Và ngay khi tôi nghĩ mình đã nhận ra giọng nói thứ nhất, kẻ mà
tôi ngỡ rằng quen thuộc đó đã chuyển sang giọng thứ hai.
“Tôi ở trong phòng khi em gõ cửa, Makoto thân mến, nhưng
linh tính mách bảo tôi hãy cứ tuân theo lời dạy truyền đời ở thành
phố. Từ đây, tôi đã thấy em mở cửa lớn và lao ra ngoài. Tôi rất tiếc đã
để em phải chịu đựng sáng nay. Nhưng điều đó rốt cuộc tốt cho tất
cả chúng ta”.
“Makoto này”, tôi cao giọng, bàn tay lần vào túi áo, nắm lấy báng
súng lạnh ngắt, “em có nhớ ngày đầu tiên em tới Thị trấn Mùa đông
không? Ngày mà em phải tới tòa thị chính để được đặt tên ấy. Có phải
tất cả mọi tòa thị chính trên đời đều nực cười như vậy không? Ở đó,
anh đã gặp hai kẻ nói cùng một giọng. Còn ở đây, chúng ta có một kẻ
nói hai giọng”.
“Có phải là anh không?”. Makoto hỏi kẻ đó. “Cuối cùng thì anh
là ai vậy?”.
“Tôi vẫn là tôi thôi, Makoto”. Lưng ghế chầm chậm quay lại,

- 351 -
NHẬT PHI

giọng người đàn ông chuyển nhanh như một con lắc đồng hồ. “Và
tôi vẫn là tôi, Rei”.
Là anh ta, và cùng lúc, không giống như anh ta. Tôi bất giác rút
súng, chĩa vào mặt kẻ vừa xoay trọn nửa vòng về phía chúng tôi. Đôi
mắt xanh lơ, mái tóc nâu rối. Những đặc điểm còn lại thuộc về một
kẻ khác, kẻ mà Makoto đã gọi tên ngay khi ấy, cặp mắt kính gọng
sừng màu hổ phách, bộ vest và cà vạt trắng bóng bẩy với một cái kẹp
vàng đặc biệt nổi bật. Trên tay anh ta là cái mũ trái dưa cùng bộ. Hiệu
ứng mà ngần ấy gam màu sáng mang lại át đi phần lớn hình ảnh quen
thuộc của anh ta trong tôi. Đối diện với nòng súng của tôi, anh ta bật
ra một tiếng kêu bất ngờ bộ tịch.
“Giờ thì tôi phải gọi anh là gì đây, thủ lĩnh?”.
“Chào Rei, chào Makoto”, anh ta cúi đầu nhè nhẹ, bằng một
cái hắng giọng, hai giọng nói khi nãy đã nhập làm một. “Tôi là Thị
trưởng của Thành phố Thủy tinh, và thủ lĩnh phong trào phục hồi
thành phố. Alexandre de Rhodes”.

“Em hẳn là mệt lắm rồi, phải không Makoto?”.


Makoto lắc đầu. Cô bé có vẻ chưa vượt qua được chấn động từ
lời giới thiệu của viên thị trưởng. Alexandre de Rhodes quay sang tôi.
“Rei này, tấm mặt nạ đó không hợp với anh đâu”.
“Tôi không nghĩ người ở Thành phố Thủy tinh có một cảm
thức về những gì gọi là hợp với cái gì đâu, Rhodes à”, tôi châm biếm,
dường như tôi chẳng thể nói được điều gì tốt đẹp hơn với một viên
thị trưởng. “Tôi thấy là anh đã gặp Kant rồi đấy?”.
“Kant? Anh nói về ai vậy?”. Anh ta tỏ vẻ ngạc nhiên chân thành,
và tôi chỉ về phía con quạ. “Anh bạn này sao? Anh biết tên nó? Tôi thì
vẫn đang cố gắng đặt cho nó một cái tên đấy. Như tôi đã nói, tôi mới
chỉ gặp nó từ ngày anh tới đây. Đây là lần thứ hai”.

- 352 -
Thị trấn mùa đông
“Nogias đã nói cho tôi biết”. Tôi đáp. “Nếu như tôi hiểu đúng ý
anh ta”.
“Vậy là thầy đã đặt tên cho nó, nói với anh và không nói với tôi”.
Alexandre trầm ngâm. “Anh thấy đấy, thầy cũng tin rằng anh, chứ
không phải tôi, là kẻ sẽ giúp phục hồi thành phố này”.
“Nhưng anh có muốn phục hồi thành phố thật không, Rhodes?”.
Makoto đột ngột lên tiếng. “Em đã tưởng rằng duy trì nguyên trạng
thành phố là ưu tiên hàng đầu của anh”.
“Với tư cách thị trưởng thành phố, đúng”. Rhodes đáp. “Tôi đã
chẳng nói với em rồi sao, Makoto, Alexandre là một kẻ giả trá hai
mặt. Và cần bị trừng phạt”.
Khi nói điều đó, Alexandre nhìn vào họng súng trên tay tôi. Và
tôi, thay vì siết cò, lại hình dung tới việc anh ta bị hút ngược vào nòng
súng, bị nén chặt lại thành một viên đạn bạc. Có tới hai ô trống trong
ổ đạn, mỗi ô cho một nhân dạng của con người này.
“Rei, Makoto”, anh ta nói rành rọt, ánh mắt nghiêm trang
chuyển từ Makoto sang tôi, “hai người có thể trách tôi vì đã lừa dối
các bạn, trong nỗ lực làm tròn từng vai trò của mình. Tôi không phủ
nhận điều đó, theo một cách nào đó thì tôi đã lừa dối tất cả những
đồng sự của mình. Sẽ tới lúc tôi phải trả giá cho điều đó. Nhưng
không phải lúc này…”.
“Phải”, tôi đáp, nòng súng vẫn không rời Alexandre, “giờ là lúc
tôi muốn nghe từ anh một vài điều, ngài thị trưởng”.
Tôi liếc mắt qua vai anh ta, nhận ra con quạ vẫn cứ vô tư lự
đứng nhìn bâng quơ ra nền trời xanh ngắt. Tôi sẽ hỏi tới nó sau.
“Xin hãy cứ gọi tôi là Alex, như anh đã biết. Và đúng vậy, tôi sẽ
nói tất cả những gì mình biết”.
“Tôi đã từng không nghi ngờ điều đó”, tôi bật cười đắng ngắt.
“Alexandre đã không nói dối anh”, anh ta đáp. “Và giờ Rhodes

- 353 -
NHẬT PHI

cũng sẽ không giấu anh điều gì cả. Đây là lúc tất cả chúng ta thành
thật với nhau”.
Cùng một lúc, cả tôi và Alexandre bắt đầu chuyển động. Chậm
rãi, với một điểm nào đó trên cạnh bàn làm tâm, chúng tôi mỗi người
men theo một nửa đường tròn mà ánh mắt của anh ta và nòng súng
của tôi hợp thành đường kính. Makoto đứng bên ngoài vòng tròn đó,
hoang mang nhìn từ tôi sang người kia. Giờ thì chúng tôi đã đổi chỗ
cho nhau, tôi bên ô cửa sổ, Alexandre bên Makoto. Kant liếc về phía
tôi trong một giây, rồi tung mình sang bệ cửa sổ kế bên, như một kẻ
tế nhị nhường chỗ cho người đến sau.
Khung tranh treo trên tường không chút nào có thể so sánh
được với những gì tôi đang thu vào tầm mắt lúc này. Từ vị trí của tôi,
ngay cả những tán cây cao nhất cũng chỉ giống như mấy chấm xanh
trên màn hình địa đồ. Những con đường không người mảnh như
những sợi chỉ xám màu đan vào nhau, chia thành phố thành từng ô
vuông như mắt lưới. Một vài tòa cao ốc thủy tinh vươn trội lên so với
phần còn lại, như những cột măng đá gầy guộc, ngước về phía tôi với
vẻ tị hiềm. Ánh nắng chiều xiên xiên nhảy nhót từ nóc nhà này qua
nóc nhà khác, chừng như nôn nóng được ra về. Và những cái cổ gật
gù dõi theo mặt trời từ nóc mấy tòa nhà khác. Chúng đang chờ mặt
trời lặn xuống để cất cánh lên đấy ư? Hay chúng đang nín thở cầu
nguyện cho đợt tên lửa kế tiếp sẽ không bao giờ đến? Xa nữa, xa nữa,
qua khỏi cả vùng ven thành phố, tôi thấy một màn sương mờ như
màn sương đã bao phủ những đỉnh núi tuyết, khuất lấp đâu đó một
vài thoáng thăm thẳm xanh.
“Đây là lúc chúng ta thành thật với nhau”, tôi lặp lại, “nên tôi sẽ
cho anh biết tôi đã từng tìm kiếm thứ gì trong những đêm một mình
lang thang trong thành phố này. Alexandre, Rhodes, tôi tìm kiếm
một con số. Một số nhà”.

- 354 -
Thị trấn mùa đông
Khi nhìn xuống những dãy phố dưới kia, tôi gần như chắc chắn
những khối vuông lặng lẽ xếp dọc theo từng con đường sẽ chẳng thể
nào đạt được tới con số ấy - 451.
“Những con số từ lâu đã biến mất khỏi Thành phố Thủy tinh
rồi, Rei à”.
“Nói điều gì tôi chưa biết đi!”. Tôi gằn giọng.
“Tôi từng được nghe nói rằng từ rất nhiều năm trước, rất nhiều
đời thị trưởng trước, Thành phố Thủy tinh đã trải qua một cuộc cải
tổ hành chính cực lớn”. Rhodes nói. “Nhiều cụm nhà nhỏ được gom
lại thành lô lớn hơn, và một số khu nhà ở vùng ven bị giải tỏa, dân cư
ở đó được dồn vào trung tâm thành phố.
“Đó là trước khi những con số bị xóa bỏ hoàn toàn khỏi những
con phố”, anh ta nói thêm. “Nhưng là thị trưởng thành phố, tôi có thể
đảm bảo với anh mỗi con phố của chúng tôi ngày nay không vượt
quá hai trăm lô nhà, đừng nói là tới số 451”.
“Vậy tức là nó phải nằm ở vùng dân cư đã bị giải tỏa”, tôi nói
lớn lên những suy nghĩ đang lướt rất nhanh qua đầu mình. “Gom lại,
và cắt đi…”.
“Số 233, Alexandre”, tôi cao giọng, nhận ra một mảnh ghép nữa
lại vừa rơi vào đúng chỗ. “Đó là số 233”.
“Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những con đường của
thành phố có chạy tới con số đó, vắt sang vùng giải tỏa”, Rhodes trầm
ngâm. “Nhưng sao anh biết con số đó?”.
“Alexandre này”, tôi quay lại, mỉm cười với anh ta, “anh đã từng
được nghe truyện kể về người anh hùng trên đường làm nhiệm vụ
chưa?”.
“Truyện kể của thầy tôi, Sir Nogias. Raine từng nói với tôi về
nó”. Anh ta đáp. “Nhưng không, tôi chưa từng được nghe kể”.
“Thế đấy, Alexandre”. Tôi thu khẩu súng vào túi áo, và rời khỏi

- 355 -
NHẬT PHI

đường tròn. “Tôi đã ở đó từ trước khi anh trở thành thủ lĩnh và thị
trưởng. Tôi đã được nghe kể về tấm mặt nạ và khẩu súng này. Tôi
từng được nhắc nhớ về những điều anh đã quên. Vậy thì có gì để hỏi
đâu khi tôi biết một điều mà anh không biết?”.
Qua khóe mặt, tôi nhận ra con quạ đã xuất hiện trở lại nơi bệ
cửa sổ, gật gù tán thưởng. Tôi không thể nói như thế về Alexandre de
Rhodes được.

- 356 -
Bản đồ Thành phố Thủy tinh
NHẬT PHI

CĂN HỘ 451F

C on quạ vẫn ở đó, trên bệ cửa sổ của tòa thị chính, khi
chúng tôi tiến ra xe. Lần này, Alexandre có thể lái cỗ xe
yêu quý của mình. Anh ta trải ra một tấm bản đồ khi tôi vừa ngồi
xuống cạnh anh trên ghế bên, như rất nhiều lần trước đó. Trên bản
đồ, Thành phố Thủy tinh vươn lên và tỏa ra về một phía giống như
một lá phong khổng lồ mà tôi đã vẽ lại dưới đây theo trí nhớ. Các
vùng phụ cận được khoanh tròn và đặt tên theo các chữ cái, từ A tới
E, một điều tôi cho là Rhodes vừa mới thực hiện ít phút trước. Anh
rà tay trên một vạch xanh nhạt biểu thị một con đường.
“233… Tính cả các cao ốc thì con số này không lớn hơn nhiều
so với số lô nhà trên những tuyến đường dài nhất của thành phố. Và
ở đây chúng ta có một điều mà tôi e rằng mình là người còn sống
duy nhất có thể khẳng định”. Cái cười của Alexandre không giấu vẻ
tự hào. “Nếu lô nhà số 233 có thể tồn tại đâu đó trong thành phố, thì
nó chỉ có thể ở đây”.
Anh ta gõ một vài nhịp lên vòng tròn được định danh là C, rồi
đảo sang vòng E, tặc lưỡi.
“Nhân tiện, trụ sở phong trào phục hồi thành phố nằm ở đây”.
Đàn chim bay ngược hướng mặt trời được hình thành từ từng
nhóm nhỏ cất cánh lên khỏi tán cây của chúng, như một dòng chảy
đón lấy những mạch nước nhỏ hơn, làm thành một con sông lớn đổ
ra biển. Có điều biển ở phía ngược lại.

- 358 -
Thị trấn mùa đông
Đàn chim khuất dạng sau những rặng núi tuyết cũng là lúc
chúng tôi tiến ra vùng rìa thành phố. Khi ngoái lại đằng sau, tôi thấy
những ngọn đèn đường đã được thắp lên, và một vài cư dân thiếu
kiên nhẫn đã bắt đầu lang thang trên phố. Thành phố Thủy tinh được
trả lại cho con người, như mọi đêm trước đó. Chỉ có chúng tôi đi về
phía không ai.
Khu C của vùng giải tỏa gồm nhiều những tòa nhà gạch cũ
bàng bạc đỏ với những ô cửa sổ kín bụi, thứ có vẻ như đã từng là
những khu căn hộ nhiều phòng. Đèn đường ngọn được ngọn mất hắt
vẻ trầm mặc xuống khu phố buổi chạng vạng. Tới một lúc, cảm giác
về một không gian khác chiếm trọn lấy tôi, khiến tôi nhớ tới những
buổi ngồi trước người họa sĩ già.
“Có ai sống ở đây không hả anh?”. Makoto thì thầm hỏi từ băng
ghế sau.
“Đã từng có thời đây là nơi cư trú của những kẻ vô gia cư”,
Rhodes đáp. “Nhưng tòa thị chính đã đi được tới chỗ đảm bảo một
mái nhà tử tế trong thành phố cho tất cả mọi người từ nhiều năm
trước rồi”.
“Ý anh là bao gồm cả khu E?”. Tôi bật cười.
“Đó cũng là một đóng góp không nhỏ của phong trào phục hồi
thành phố”. Alexandre nghiêm trang đáp.
“Nhưng tại sao lại có cuộc cải tổ hành chính đó hả anh?”.
Makoto tiếp tục.
“Đó là chuyện của rất nhiều đời thị trưởng trước mà chính tôi
cũng không biết được, Makoto ạ”.
Chẳng phải tất cả những viên thị trưởng trên đời đều có xu
hướng giữ lại một vài bí mật cho riêng mình hay sao? Tôi nghĩ, nhưng
không nói ra. Tôi có cảm giác khu phố bỏ không này kỳ thực không
hoang phế đến thế. Những dấu hiệu của sự hư hại, xuống cấp vẫn

- 359 -
NHẬT PHI

xuất hiện đâu đó trên những bức tường rêu, những mái ngói nứt vỡ
hay một nửa cánh cửa nham nhở đu đưa. Những dấu vết ấy xuất hiện
một cách vừa hệ thống, vừa ngẫu nhiên, đến mức gợi ý cho tôi về một
bàn tay sắp đặt. Tôi liếc nhìn Makoto và đôi chân mày muốn xoắn
vào nhau của cô bé giúp tôi tin tưởng hơn vào nhận định của mình.
Alexandre dừng xe lại trước một trong những tòa căn hộ ba
tầng có mái ngói tím thẫm, tuyên bố chắc nịch rằng nếu có bất kỳ
một lô nhà số 233 nào ở cả Thành phố Thủy tinh này thì đó chỉ có thể
là đây. Bàn tay anh ta đặt lên cái kẹp cà vạt khi nói điều đó.
“Rei, nói tôi nghe, vì sao lại là số 451?”. Alexandre hỏi khi tôi
mới dợm bước ra khỏi xe, anh ta không nhìn tôi.
“Trên đường tới đây, tôi đã nhận được một lời nhắn”. Tôi đáp.
“Tôi đã không nói với anh điều này vì khi đó tôi không chắc chắn về
điều đó, về tính chất của thông điệp mình đã nhận được. Nhưng ít
nhất tôi biết rằng nơi đây, số nhà 451 này, người ta đã từng nỗ lực vì
một điều gì đó, từ cái thời mà người ta vẫn còn biết sống nhiều hơn”.
“Sống nhiều hơn…”. Lời tôi nói hình như đã tác động tới
Makoto. “Sống nhiều hơn là thế nào hả anh?”.
“Makoto, em đi cùng Alexandre đi, anh ta sẽ cho em được một
vài ví dụ”. Tôi đặt tay lên vai Alexandre, rồi bước xuống xe. “Chăm
sóc Makoto giúp tôi nhé, thủ lĩnh. Tôi sẽ quay lại tìm hai người sớm”.
“Nhưng em…”. Makoto ngập ngừng, rồi im lặng, những lọn tóc
mái đã dài ra che khuất tôi khỏi ánh mắt của cô bé.
“Anh sẽ cần thứ này”, Alexandre chuyền cho tôi một cây đèn
pin lớn có quai.
“Cảm ơn anh, thủ lĩnh”.
Tôi vẫy tay tạm biệt Makoto và Alexandre mà không ngoái lại
nhìn họ, rồi tiến tới, đẩy cánh cửa gỗ không khóa của căn hộ số 233.
Cánh cửa không ngừng đu đưa cả khi tôi đã dấn mình vào tiền sảnh
tối đen. Kẽo kẹt, kẽo kẹt…

- 360 -
Thị trấn mùa đông

Sàn nhà được lát một thứ gạch men xám lạnh ngắt, chốc chốc,
chân tôi giẫm lên một viên gạch đã bong ra khỏi lớp vữa, ken két,
chông chênh. Hành lang dài và tối, mốc meo và bụi bặm. Chỉ có
những tấm mạng nhện vô chủ hiện ra trong vòng tròn ánh sáng trắng
từ ngọn đèn trên tay tôi. Những cánh cửa gỗ tay nắm tròn dọc hành
lang cũng chỉ mở ra những không gian trống trơn tương tự. Tôi kiểm
tra hết một dọc tầng trệt rồi theo một cầu thang gỗ lên tầng thứ hai,
rồi tầng thứ ba. Khi cánh cửa căn phòng cuối cùng trên tầng thứ ba
mở ra, tôi gần như muốn khuỵu xuống hai đầu gối. Đáp lại tôi tất cả
chỉ có trống trơn.
Thế nhưng đến khi quay trở ra cửa, buông mình xuống bậc
thềm đá, phớt lờ nỗi lo âu của Makoto và sự thất vọng của Alexandre,
những người đã tiếp tục ở lại đó mặc cho yêu cầu của tôi, tôi lại nhận
thấy mình bình tĩnh một cách kỳ lạ. Cả hai người đều im lặng đứng
bên cỗ xe đã thiếp ngủ, con đường tĩnh lặng không có lấy một tiếng
lá rơi. Chỉ mảnh trăng non ba ngày nghiêng trên chúng tôi, cong veo
như một cái nhếch mép giễu cợt. Này Trăng, người nhầm rồi, tôi
chưa từ bỏ đâu. Tôi đã được dẫn tới đây, bởi Pal, bởi R.B., bởi Nogias,
và cả Alexandre de Rhodes, họ không đưa tôi tới sai chỗ đâu. Và này,
tôi có cảm giác cho dù tôi bước vào căn nhà nào trên con phố bỏ
hoang này thì cũng thế thôi. Không phải là tìm ở đâu, mà là tìm như
thế nào. Tôi khép mắt, thu mặt vào hai cánh tay, lẩm nhẩm những
điều đó với chính mình.
Rồi tôi nghe tiếng bước chân chậm rãi, ngẩng lên, tôi thấy
Alexandre đã tới trước mặt mình. Gương mặt anh ta phẳng lặng, anh
đặt vào tay tôi một gói thuốc và cái hộp quẹt bạc rồi vỗ lên vai tôi mấy
cái vẻ khích lệ. Rồi anh quay trở lại xe, với Makoto trên băng ghế sau,
nổ máy, đánh lái một vòng trở lại trong thành phố. Thinh lặng nhanh

- 361 -
NHẬT PHI

chóng hấp thụ dư âm tiếng ồn còn lại, rồi chỉ còn lại tôi trước hiên
căn hộ số 233. Tôi châm một điếu thuốc, phả khói lên trời và nhìn
theo cột khói cuộn xoáy lên tới làn mái ngói đua ra. Khi điếu thuốc
cháy được một nửa, tôi dụi tắt xuống nền đá và đặt xuống bên cạnh.
Tôi quay trở vào trong tòa nhà, chầm chậm đưa ngọn đèn pin ra
chung quanh. Căn hộ này hẳn đã từng rất đẹp và sang trọng vào thời
hoàng kim của nó. Hành lang đã từng được chiếu sáng bằng những
chùm đèn diêm dúa thả xuống từ trần nhà. Bờ tường hành lang được
trang trí bằng hai dải gỗ ép chạy song song ở sát trần và sàn, chạm
những đường lượn sóng mềm mại, chấp chới chìm nổi trên lớp gạch
lát xô vênh. Sự cộc lệch của màu gạch lát nền mà tôi mới nhận ra gợi
ý rằng chúng là thứ mới được chắp vá vào trong tổng thể hài hòa này.
Loạt cửa gỗ có màu tối hơn một chút so với dải gỗ trang trí, như giấu
xuống dòng cho một bài thơ toàn vần bằng. Tôi bắt đầu mở lại từng
cánh cửa, từ cái đầu tiên.
Lần này, tôi nhận ra rằng không phải sự trống không nào cũng
giống nhau. Có những mùi ẩm mốc khác với những mùi ẩm mốc
khác, có những lớp bụi khác với những lớp bụi khác. Tôi lờ mờ hình
dung căn phòng này đã từng được dùng để làm bếp, căn phòng khác
đã từng là nhà ăn, rồi phòng khách, rồi phòng ngủ, tuy rằng dường
như về những năm cuối cùng còn được dùng tới, tất cả mọi căn
phòng đều được cào bằng về một công dụng nào đó. Một vài căn
phòng giống như được ngăn ra từ một phòng lớn hơn, căn cứ vào sự
phân bố các nhà tắm trong phòng. Ai đã làm vậy và để làm gì thì tôi
không biết được. Nhà tắm khô ráo và ngăn nắp, không có lấy một vết
ố, như thể người ta đã cẩn thận lau dọn trước khi rời đi, tuy cũng chịu
chung số phận bụi bặm và đóng mạng nhện như toàn bộ căn nhà, với
bồn rửa và bồn cầu sứ đã từng trắng muốt. Tôi thử mở vòi nước, van
xoay cứng ngắc dưới tay tôi và sau một âm thanh ken két ngoan cố,
không có gì chảy ra cả.

- 362 -
Thị trấn mùa đông
Tới tầng thứ ba, tôi bắt đầu phát hiện ra một vài điểm khác
biệt. Đầu tiên là những vệt keo dính còn bám trên mặt cửa gỗ mà
nếu không nhìn kỹ thì hầu như không thể nhận ra do lớp bụi bám
trên hai bề mặt đã hòa vào nhau. Lần tay lên đó, tôi phỏng đoán lớp
keo này từng được dùng để gắn một tấm biển hình chữ nhật lên mỗi
cánh cửa. Những cánh cửa này đã từng có tên. Dĩ nhiên tôi không
biết gì về những cái tên đó. Thứ làm cho dãy phòng của tầng thứ ba
khác với hai tầng dưới ấy là chúng chỉ có đúng một nhà vệ sinh cho
cả dãy hành lang, những căn phòng trống trơn còn không có lấy một
cánh cửa phụ.
Tôi kiểm nghiệm giả thiết của mình bằng cách chui vào nhà vệ
sinh đó và quan sát. Đó là một nhà vệ sinh rất nhỏ, với khoảng không
gian chỉ đủ cho một người đứng bên cạnh bồn rửa và bồn cầu. Tôi
xoay van, và tuy vẫn không có dòng nước nào chảy ra, tôi vẫn cảm
nhận được nó ngoan ngoãn hơn nhiều những van nước ở hai tầng
dưới. Hít vào một hơi, tôi thận trọng bước lên nắp bồn cầu, rồi leo
lên nắp bể nước xả. Đầu tôi chỉ còn cách trần nhà có vài phân. Tôi
vươn tay lên trần nhà, lấy sức đẩy. Và đúng như tôi dự liệu, cánh tay
tôi xuyên lên khỏi trần phòng, mở ra một cửa sập hình vuông, mỗi
chiều bằng một cánh tay. Tôi đã giải được câu đố đầu tiên của căn hộ
số 233, hay đúng hơn, căn hộ số 451F.

- 363 -
NHẬT PHI

TẦNG ÁP MÁI

T ôi đặt đèn pin lên sàn tầng áp mái rồi đu mình trèo lên.
Chẳng dễ dàng gì, hai chân tôi khua khoắng chơi vơi, đế
giày trượt trên mặt tường nhà vệ sinh mà chẳng có lấy một điểm tựa,
nhưng cuối cùng tôi cũng lên được tới nơi. Khi cả hai chân đã đặt
được chắc chắn trên sàn, tôi mới nhặt đèn pin lên và đứng thẳng dậy.
Ngay khi mắt tôi ghi nhận được những hình ảnh đầu tiên của căn
phòng áp mái, tôi đã biết chắc mình tới đúng nơi rồi.
Ngay cả trong một tòa nhà đã từng bề thế khang trang, căn
phòng áp mái này vẫn mang lại cho tôi một cảm giác về sự sống hơn
cả. Gói trong chỉ một vòng sáng của ngọn đèn pin đã là quá nhiều
hình ảnh đối với tôi. Trần phòng thoai thoải theo sườn mái ngói,
chụp lên một không gian không quá rộng, nhưng ấm cúng tiện nghi.
Không cửa sổ, nhưng có một vài khe thông gió sát trần, khiến căn
phòng cũng không đến nỗi ngột ngạt. Ngoại trừ một vài bước cuối
về phía sát tường, còn đâu căn phòng đủ cao để tôi có thể đi đứng
thẳng lưng. Tôi thấy trong góc phòng một tấm nệm, phủ ga và chăn
màu xanh rất nhã, bên cạnh là một bàn xếp thấp, chừng như để chủ
nhân ngồi xếp bằng trên nệm mà làm việc. Từng xấp giấy chất dày
hàng tấc, buộc lại bằng dây dù ở một góc khác. Tôi nhận ra đó là hàng
chồng báo cũ, cùng chất giấy với mẩu giấy báo gói ly tôi gặp ở Hành
lang Ghi nhớ. Tôi tháo dây của một trong những xấp báo đó, nhặt tờ
đầu tiên lên. Nhưng đó không thực sự là một tờ báo. Đó là rất nhiều

- 364 -
Thị trấn mùa đông
những bài báo được cắt ra từ nhiều số báo khác nhau, dán lên những
trang giấy trắng, một mặt nhẵn một mặt sần, và đóng thành từng
quyển. Trong khoảng trắng giữa các bài báo là ghi chú bằng mực
đen của người sưu tập. Các bài báo được cắt lấy đúng phần nội dung,
ngoài ra tôi không tìm được một thông tin nào khác, ngay cả tên tờ
báo cũng không. Tôi mở đại một trang, và bắt đầu đọc bài báo dưới
ánh sáng đèn pin.

Bài báo thứ nhất, không có hình, không có tựa.

“Đó là điều kỳ diệu nhất mà tôi từng được thấy”. Rogerg hào
hứng kể. Là một người bạn lâu năm của anh, tôi cũng hiếm khi nào
thấy anh hưng phấn đến thế. “Giá mà anh cũng ở đó để chứng kiến.
Sáng hôm đó tôi thức dậy sớm hơn bình thường một chút, thấy nước
vẫn còn đọng dày trên mặt kính cửa sổ. Thì ra cơn mưa sáng sớm đã
đánh thức tôi. Tôi nhìn đồng hồ, định bụng sẽ nằm xuống ngủ thêm
một chút. Nhưng ngày hôm đó không hiểu do mặt trời lên sớm hay
gì mà nắng mới lại sáng rỡ hơn mọi ngày, khiến tôi chẳng thể ngủ lại
được nữa. Tôi rửa mặt rồi quyết định sẽ đi dạo một vòng trước khi ăn
sáng. Tôi không gặp ai trong ký túc xá, mà cũng không muốn đánh
thức ai nên tôi rời Tòa thị chính một mình. Đêm hôm trước đó là
lễ hội rượu vang, anh biết đấy, nên cũng chẳng có gì bất ngờ khi cả
thành phố dậy trễ hơn thường lệ.
“Tôi vẫn còn nhớ như in, ra khỏi cửa Tòa thị chính, tôi rẽ trái,
rồi đi qua ba giao lộ tới công viên Lindgren. Trời trong đến kỳ lạ,
nước mưa đọng trên lá long lanh như ngọc vậy. Bỗng dưng tôi có
cảm giác muốn nghịch ngợm như trẻ con. Tôi đứng dưới tán cây…
cây gì ấy nhỉ?”.
“Cây lộc vừng”, tôi nhắc, đó là loại cây được trồng chính ở công

- 365 -
NHẬT PHI

viên Lindgren.
“Ừ phải, cây lộc vừng. Tôi rung thân cây, để nước mưa rớt
xuống đầu mình. Thật là thích thú. Rồi tôi trèo lên cầu trượt, không
phải mấy cây cầu trượt nhỏ dành cho tụi nhỏ đâu. À mà cầu trượt
nào chẳng dành cho tụi nhỏ nhỉ? Ý tôi là cây cầu trượt đá lớn mà mấy
đứa nhóc lớn lớn chút vẫn chơi được ấy. Tôi leo lên đó, rồi nằm ngửa
ra, thả mình trượt xuống hố cát. Tôi chắc đã làm bẩn từ gót giày tới
lưng áo khi tiếp đất, nhưng khi đó thì tôi không còn để tâm nữa. Tôi
nằm ngửa trên nền cát, gối đầu lên rãnh trượt mà ngắm trời. Đó là
lúc tôi thấy nó…”.
Rogerg hạ giọng, và tôi bất giác chỉnh lại tư thế ngồi cho ngay
ngắn, chờ nghe anh.
“Đó là, tôi phải nói sao nhỉ, một đường cong. Giống như một
cây cầu cong cong vắt ngang qua nền trời. Nó có ba, hoặc là năm,
cũng có thể là bảy màu. Cho là bảy đi. Bảy dải màu song song làm
thành một đường cong hoàn mỹ trên nền trời. Anh phải thấy mới
được”.
Anh nhặt hộp bút sáp màu đã chuẩn bị trước trên bàn, lúi húi
vẽ lại cây cầu màu nhiệm của mình trên giấy. Anh tỏ vẻ bối rối với các
màu, chốc chốc lại thả một cây bút màu xuống để rồi nhặt nó lại vài
giây sau. “Không phải, hình như là đây, vẫn không giống…”. Anh thì
thầm với chính mình, như thể quên mất sự hiện diện của tôi. Cuối
cùng anh vò nát tờ giấy vẽ, ngả lưng ra ghế, ha hả cười.
“Không, không có màu sắc nhân tạo nào có thể mang lại cảm
giác như tôi đã có được. Anh phải ở đó để nhìn thấy nó mới được”.
Tôi có thể thấy Rogerg đã hoàn toàn bị dải cầu bảy màu đó
quyến rũ rồi. Anh ngả đầu lên ghế, mơ màng.
“Nó tan đi sau chừng vài phút, khi mặt trời lên cao hơn. Đến
lúc có ai đó đi ra đường thì nó chỉ còn mờ mờ gần như không thấy

- 366 -
Thị trấn mùa đông
được nữa. Tôi chạy lại chỗ anh công nhân vệ sinh đi quét đường buổi
sáng ở gần đó, chỉ cho anh ta thấy, nhưng tới lúc đó thì nó đã biến
mất hẳn rồi. Anh ta ngơ ngác nhìn tôi như một người dở hơi, cho tới
lúc anh ta nhận ra tôi là ai thì anh ta lại tỏ vẻ lo lắng. Anh có nghĩ anh
ta lo cho tương lai của Thành phố Thủy tinh không?”.
Rogerg lại phá lên cười, và tôi cười theo anh sau một vài giây.
Tôi biết mình sẽ không phải lo về tương lai của thành phố chừng nào
Rogerg còn ngồi trong văn phòng ở Tòa thị chính. Rogerg nói muốn
nhờ tôi tìm kiếm trong kho lưu trữ của tòa soạn những ghi chép về
dải bảy sắc trên nền trời. Anh muốn tìm hiểu về nó, mặc dù tôi ngờ
rằng thực ra anh muốn ngấm ngầm tận hưởng cảm giác là người đầu
tiên trong thành phố được chiêm ngưỡng một điều như thế. Rogerg
đôi khi có thể rất trẻ con, tôi biết mà. Anh ngẫu hứng đọc mấy câu
thơ, trong khi tôi cố nín cười, dù rằng tôi cũng đang hết sức ngưỡng
mộ anh.
“Những điều đẹp đẽ hiện lên sau cơn mưa ban sớm
Khi ta trót đem lòng yêu bầu trời
Không có cái giá nào là quá đắt nữa…”.

Ghi chú bên cạnh bài báo

Rogerg Asmas ngóng chờ dải cầu bảy sắc của ông, luôn luôn
bật dậy đi ra ngoài sau mỗi cơn mưa sớm. Nói cách khác, những cơn
mưa sáng sớm luôn đánh động niềm ham thích của ông. Sau này, khi
đã nghỉ hưu và chữa bệnh, ông vẫn luôn đòi người nhà cho ra ngoài
sau mỗi cơn mưa như thế, thứ chỉ đến một vài ngày trong năm. Ông
không bao giờ khỏi bệnh.

Tôi ở lại căn phòng tầng áp mái rất lâu, đọc hết trang này tới

- 367 -
NHẬT PHI

trang khác, xấp này đến xấp khác những bài báo và ghi chép của chủ
nhân chúng. Vào ban ngày, tôi sẽ ngồi tựa vào góc tường và đọc dưới
ánh nắng mảnh xuyên qua khe thông gió. Nắng tắt, tôi lại mở đèn
pin, đặt lên bàn xếp và tiếp tục đọc. Nếu thấy mệt, tôi sẽ ngả lưng
xuống nệm mà thiếp đi. Khi trở dậy, bao giờ cũng có một khay thức
ăn đặt ngay ngắn trên bàn, cá hồi hun khói, dưa chuột muối, khoai
tây nghiền rưới sốt thịt và bánh mì trắng, tráng miệng bằng nước
quả. Tôi ăn một nửa những gì được dọn ra là đã đẫy bụng, rồi tôi đặt
khay thức ăn xuống sàn, dọn chỗ trên bàn để tiếp tục đọc. Khay thức
ăn đã được dọn đi và thay bằng một bữa ăn nóng hổi mới khi tôi thức
dậy lần kế tiếp.
Các bài báo hầu hết rơi vào thời Rogerg Asmas làm thị trưởng,
có một số bài có nhắc tới tên một vài viên thị trưởng tiền nhiệm.
Có những vụ án, cướp giật, giết người, hiếp dâm, có những cuộc
thăm viếng, những chuyến thanh tra. Những ghi chú bên lề hầu hết
là những bình luận vô thưởng vô phạt, một vài bổ sung về những
điều xảy ra sau sự kiện của bài báo, tuy rằng thỉnh thoảng người viết
cũng đưa ra một nhận định đã được hiện tại này chứng minh.
Một trong những kết luận đó xuất hiện bên một loạt bài báo
về một vụ xử án diễn ra vào năm 1942. Loạt bài được viết bởi một
ký giả ký tên Camus, trong đó, một người đàn ông tên M. bị kết tội
giết người bằng súng lục. Tại tòa, M. nhanh chóng thừa nhận tội giết
người, nhưng vì một lẽ nào đó, tay công tố viên của tòa án thành phố
kiên quyết cho rằng đó không phải là tất cả tội lỗi của M., rằng con
người vốn dĩ mang nhiều tội lỗi hơn là những hành vi khả kiến. Rất
nhiều nhân chứng là những người quen biết M. được mời tới tòa, họ
kể về những biểu hiện của M., thứ mà công tố viên coi là những biểu
hiện của một tâm hồn tội lỗi, trong khi M. tuyệt vọng kháng cáo rằng
những điều đó vốn không có liên hệ gì tới hành vi phạm tội đang

- 368 -
Thị trấn mùa đông
được xét xử của hắn. Cuối cùng, M. bị kết án tử hình vì mang trong
mình một tâm hồn tội lỗi. Diễn biến phiên tòa được chia làm ba kỳ,
mỗi kỳ chiếm trọn một trang báo với một tấm hình của người đàn
ông tên M. lần lượt khi đứng ở tòa, đi dạo trên phố khi còn tự do và
khi được dẫn về trại giam. Bên cạnh ba trang báo, nhà sưu tập viết:
“Camus không trả lời được câu hỏi phiên tòa này được diễn ra
chính xác ở đâu và khi nào, cũng như động cơ của ông khi viết loạt
bài báo này. Về cuối đời, Camus thừa nhận mình đã bịa ra toàn bộ
câu chuyện về phiên tòa của người đàn ông tên M., song tuyên bố
một diễn biến giả tưởng như thế hoàn toàn không xa với hiện thực
của chúng ta. Tòa báo đã phải đính chính về loạt bài báo này ngay ở
số báo sau đó, đồng thời tổng biên tập thời đó đã bị cách chức và sa
thải. Không ai giải thích được vì lẽ nào một ký giả lại có thể viết ra
một sự kiện không có thực, và Camus trở thành đại diện của những
kẻ lập dị, lạ đời. Nhiều ký giả về sau này đã dùng từ ‘kiểu Camus’ khi
nói về một thông tin đáng ngờ hay phi lý. Rất có thể nhiều năm về sau
nữa, cả khi Camus và vụ án của M. đã bị thành phố lãng quên, người
ta vẫn sẽ nhắc tới cái tên này, bởi lẽ Thành phố Thủy tinh chẳng bao
giờ thiếu những điều phi lí”.

Tới một lúc, chừng như để tránh lãng phí thức ăn, một ai đó bắt
đầu xuất hiện ngồi ăn cùng với tôi. Mới đầu, tôi lờ mờ nhận ra đó là
R.B., chủ biên cuối cùng của tòa báo. Phần lớn thời gian, chúng tôi
ngồi ăn trong im lặng và R.B. sẽ thu dọn khay thức ăn rồi lùi vào bóng
tối để tôi tiếp tục đọc. Thỉnh thoảng, R.B. sẽ lên tiếng từng đoạn rời
rạc, dù cho tôi không hỏi.
“Sống ở đây cũng không tệ, phải không? Duy chỉ có một điều
bất tiện là tôi không thể hút thuốc được. Hút thuốc là lộ ngay”.
“Các cộng sự cũ của tôi ở dưới, ban ngày chịu sự quản thúc của

- 369 -
NHẬT PHI

tòa thị chính, đến đêm thì sẽ có người mang đồ ăn và thông tin cho
tôi. Trong lúc đó thì tôi tranh thủ xuống dưới để giải quyết nhu cầu
vệ sinh. Ngay bên dưới là nhà vệ sinh nên cũng tiện”.
“Thông tin thực ra rất hạn chế, vì đâu còn tòa báo nữa. Càng về
sau càng khó khăn hơn đối với tôi, không phải vì hạn chế về nguồn
lực, mà chính bởi các cộng sự của tôi đã dần trở thành thứ mà tòa thị
chính mong muốn. Tôi nhìn thấy sự thương hại trong mắt họ mỗi khi
đến đây, rồi dần dà điều đó trở thành sự miễn cưỡng”.
“Người bạn thân nhất của tôi, người bạn duy nhất tôi còn lại,
chính là người đã khuyên tôi ra đầu thú. Anh ta nói thành phố đã
trở thành một nơi tốt đẹp hơn với đường lối mới, con người trở nên
thiện lương và chân phương, đã nhiều tháng rồi thành phố không ghi
nhận một ca bệnh bọ đen nào mới. Anh ta nói ngài thị trưởng sẽ đảm
bảo cho tôi một cuộc sống sung túc ngay khi tôi quyết định về với tòa
thị chính, cùng ông ấy xây dựng thành phố mới”.
“Lần cuối đến đây, bạn tôi nói thời gian cải tạo đã kết thúc, kể
từ giờ căn hộ 451F này, giờ là số 233, sẽ chính thức thuộc về vùng rìa
thành phố, không còn được cấp điện và nước nữa. Anh ta sẽ không
thể tới đây nữa và anh ta không đảm bảo sẽ tiếp tục bao che tôi khỏi
tòa thị chính thêm bao lâu nữa, vì chính quyền lợi của tôi”.
“Tôi quyết định làm theo lời anh ta, với điều kiện căn phòng
này phải được giữ nguyên trạng sau khi chúng tôi rời khỏi đây. Anh
bạn tôi đồng ý, và chúng tôi cùng đến tòa thị chính. Thế là đủ. Sau
cùng thì tòa thị chính cũng không có hứng thú gì với những bí mật,
đường lối mới của họ không khuyến khích người ta nghĩ về những
bí mật”.
Tôi mời ông một điếu thuốc, nhưng ông từ chối, nói rằng ông
đã có đủ phần mình những phút đốn ngộ rồi. Vả chăng tôi cũng
không tìm thấy gói thuốc của Alexandre đâu trong căn phòng áp mái.

- 370 -
Thị trấn mùa đông

Tôi tỉnh dậy, lần này trên sàn nhà rắn câng, một nguồn sáng
lơ lửng trên đầu khiến mất một lúc tôi mới mở mắt ra được. Con bọ
đen khổng lồ đang ngồi trên bàn, một bộ bàn ghế cao, trước mặt nó
đặt nhiều xấp giấy báo. Xung quanh chúng tôi nghe nhộn nhạo tiếng
người và một chuỗi âm thanh cơ khí rền rĩ đều đặn.
“Ở đây đang bận lắm”, con bọ nói bằng một thứ giọng trầm.
“Anh ngồi tránh qua một bên đi”.
Tôi làm theo lời nó, nhận ra mình đang ở giữa một nơi giống
một phòng làm việc lớn. Có một cỗ máy rất lớn ở gần đó, là nguồn
phát của chuỗi âm thanh kia, với một đầu cuốn vào hàng tảng giấy
trắng và đầu kia cho ra từng trang báo kín chữ. Một vài người đứng
ở hai đầu máy, đưa giấy vào và đón ra những trang báo, sắp thứ tự và
đóng quyển ở một máy khác. Ở phía bên kia của căn phòng, một vài
người khác ngồi bên những bàn giấy giống như con bọ đen, chú mục
vào một trang giấy hay lạch xạch máy đánh chữ. Không ai để ý gì đến
tôi hay con bọ khổng lồ, như thể chúng tôi là hai kẻ trong đoàn tham
quan đã thành lệ.
“Ông là chủ biên?”. Tôi hỏi, từ một góc phòng chất đầy những
tờ báo đã đóng chờ được chuyển đi.
“Có thể”, con gián đáp. “Tôi đã từng bảo anh rồi đó thôi. Tôi có
thể là rất nhiều người. Cùng một lúc”.
“R.B. là chủ biên cuối cùng của toà báo. Còn ông?”.
“Người kế nhiệm”, con gián đáp rồi bật ra một âm thanh như
tiếng cười cao chói lói.
“Ông không thể kế nhiệm người cuối cùng được”. Tôi thốt lên.
“Cậu lại đang ‘cá hồi’ đấy”.
Nói rồi nó ra hiệu cho tôi về phía cỗ máy bằng một cẳng chân
khẳng khiu lông lá, tiếng máy chạy đã tắt ngấm từ bao giờ. Phía đó,

- 371 -
NHẬT PHI

nhóm người sắp giấy in đã được thay thế bằng một nhóm người
khác, những người đàn ông lực lưỡng trong đồ bảo hộ màu xám. Họ
ngồi xổm xung quanh cỗ máy in, rồi một người đếm lớn mấy tiếng,
cả cỗ máy khổng lồ bị những cánh tay xám bứng lên khỏi mặt đất.
Họ đang chuyển nó đi.
“Họ sẽ mang nó tới đâu?”.
“Anh biết mà, Rei”.
Phải, tôi biết. Nhưng không phải tất cả.
“Họ sẽ tới đó bằng cách nào?”.
Thế rồi thoắt một cái, tôi thấy mình đang đứng ở đâu đó ngoài
trời, nhìn về phía tòa thị chính. Mặt trời đã xuống tới đáy, cháy lên
gay gắt cho phút đợi chết dưới chân tòa tháp thủy tinh. Thế nhưng
thay vì sừng sững huy hoàng, tòa tháp lại như một khối u ám cô
đặc, bức tường thủy tinh như ám khói từ phía trong. Trên đỉnh tháp,
những con chim đen tuyền nửa đậu nửa bay, như tựu hình của điềm
báo gở đang thì thầm khắp thành phố. Hay chính là nguyên nhân?
Hay chỉ là phản ảnh? Khi cảnh vật đột nhiên xao động, đàn quạ nhất
loạt tung cánh, tan tác bay tản ra, thảng thốt thét gào. Một cái bóng
khổng lồ tràn qua những con phố không người, rồi hiện lên thân
hình đen bóng đầy lông gớm ghiếc của con bọ đen. Nó đứng thẳng
lên, cao gần ngang tòa tháp thủy tinh, đẩy một cơn lợm giọng lên tới
cổ họng tôi. Bốn cái chân khớp vươn ra, ôm trọn lấy tòa thị chính.
Rồi chỉ bằng một cái trở mình, con gián đẩy đổ cả tòa tháp, tới tận
gốc. Thoắt một cái nữa, tôi thấy mình đang nhìn xuống cái bề mặt
ngổn ngang của nơi từng là chân tháp, chỉ để thấy lố nhố một đám
người xám tin hin, bu quanh một cái hộp vẫn đang đều đặn gõ nhịp
bằng một thứ âm thanh như có ai gẩy thìa vào mép bàn.
Một cơn lợm giọng nữa tràn lên, và không ngừng lại khi lên tới
tận miệng con bọ đen khổng lồ. Tôi quặn mình, cố gắng đẩy ra cái

- 372 -
Thị trấn mùa đông
thứ đang quẫy dữ dội nơi vòm họng. Tôi ói ra chính mình. Và tôi rơi
ra từ miệng chính mình.
Xuống đất.
Xuống mặt sàn lát gỗ của căn phòng áp mái.

- 373 -
NHẬT PHI

TẠM BIỆT, THÀNH PHỐ THỦY TINH

L ộp độp, lộp độp. Những hạt mưa vỡ tan trên mái ngói, rung
chuyển cả căn phòng nhỏ đóng kín. Tôi lê mình lại gần khe
thông gió, ghé mắt nhìn ra một không gian leo lét xanh, rồi từ xanh
chuyển dần sang hồng. Mưa bắt đầu ngớt khi tia sáng đầu tiên len
qua khe thông gió rớt xuống bàn tay tôi đặt trên sàn, ngay kế bên là
gói thuốc của Alexandre. Tôi châm thuốc, và bật cười khi thấy khói
thuốc không bốc lên mà lặng lẽ rớt xuống, chảy tràn là là trên mặt
sàn. Khói ơi, mày cũng đang “cá hồi” đấy ư? “Cá hồi” là “cá hồi” bởi
vì nó bay lên trên, tôi nghĩ, còn khói “cá hồi” khi nó lắng xuống dưới,
điều này nghe giống như một nghịch lí. Nhưng lên hay xuống chẳng
phải chỉ là một phạm trù tương đối hay sao? Đôi khi, ngồi một chỗ
thôi cũng đã là một hành động mang tính “cá hồi” rồi. Nghĩ tới đó, tôi
trở dậy, leo xuống khỏi tầng áp mái, rồi cứ thế đi xuống, ra cửa, trở lại
con phố thực tại của vùng giải tỏa.
Ở đó, Alexandre de Rhodes và Makoto đang đợi tôi ở xe. Gương
mặt họ trắng xác, hai cặp môi muốn nứt ra khi họ cố gắng mỉm cười
với tôi. Giọt mưa cuối cùng hình như vừa đáp xuống bàn tay tôi.
Alexandre lúng búng nói gì đó về việc Makoto nằng nặc đòi tới đây,
dù trời đang mưa và xe của anh ta thì không có mái che. Tôi xua tay
mà không đáp, mở cửa xe ngồi xuống ghế bên. Sau lưng tôi, hình như
Makoto đang bật khóc.
“Anh muốn về đâu?”. Alexandre khởi động máy, cỗ xe gầm gừ
vài tiếng nghèn nghẹt như dỗi dằn trước khi rung lên để sẵn sàng.

- 374 -
Thị trấn mùa đông
“Tòa thị chính”, tôi đáp.
Nắng bắt đầu lên trên những con phố không người, hong khô
nỗi lo sợ không lời chung khắp, hong khô hai người bạn đồng hành
của tôi. Trời trong và không khí mát rượi dễ chịu, trái ngược với buổi
sáng ngày hôm trước. Đó đã là bao nhiêu ngày trước rồi? Tôi muốn
biết, nhưng không dám hỏi. Câu trả lời có thể là quá ngắn hoặc quá
dài so với hình dung của tôi, và tôi thì không biết được mình sợ điều
gì hơn. Rất nhiều sự kiện có thể tới trong chỉ một cái chớp mắt dài.

“Makoto, cảm ơn em”, tôi nói, khi cả ba người chúng tôi đã ngồi
trong phòng làm việc của thị trưởng Rhodes ở tòa thị chính. Kant đã
ở đó, trên bệ cửa sổ văn phòng khi chúng tôi bước vào. Ánh mắt nó
như là hài lòng, như là khích lệ khi nhìn vào tôi, hoặc là tôi tưởng
tượng ra thế. Rồi nó vỗ cánh bay đi. Tôi đã đi trọn một đường vòng,
chỉ để tới được đúng nơi Kant dẫn tôi tới. Nhưng cũng đáng.
“Sao anh lại cảm ơn em?”. Makoto ngước lên khỏi ly sữa nóng
của cô bé, tròn mắt. “Em có làm được gì đâu”.
“Chính những ghi chép của em ở Hành lang Ghi nhớ đã gợi ý
cho anh”, tôi mỉm cười, rồi quay sang viên thị trưởng còn đang bối rối.
“Hành trình từ Thành phố Thủy tinh tới Thị trấn Mùa đông
và ngược lại, thông qua Hành lang Ghi nhớ, của cả chúng tôi và cả
Nogias đều đi qua những đường hầm”. Tôi nói. “Con đường chúng tôi
đã đi qua không giống một lối đi chuẩn tắc. Nó lạ lùng, tăm tối và đầy
ngẫu nhiên. Khi ở Hành lang Ghi nhớ, chúng tôi đã bắt gặp những
thứ tới từ cả Thị trấn Mùa đông và Thành phố Thủy tinh, khó mà
nghĩ được những thứ ấy đã tới đó trên cùng một lộ trình như chúng
tôi. Chính từ đó tôi đã nghi ngờ về một con đường khác, chính thống
hơn. Và nếu như con đường đó có tồn tại, tôi tin chắc rằng nó sẽ dẫn
chúng ta tới địa điểm thứ tư, nơi có câu trả lời.

- 375 -
NHẬT PHI

“Cha tôi, à không, R.B., tổng biên tập cuối cùng của tòa báo
thành phố, đã gợi ý cho tôi rằng những thay đổi lớn nhất của Thành
phố Thủy tinh tới cùng thời điểm với việc đóng cửa tòa báo. Đó là
lí do tôi tìm kiếm căn hộ số 451, nhưng chính tôi cũng không tin
rằng điều đó sẽ dẫn chúng ta tới đâu, nên tôi đã không nói anh biết.
Nhưng rốt cuộc thì tôi vẫn có được điều mình mong đợi.
“Thị trưởng Rhodes”, tôi cao giọng, trước vẻ thán phục của
Alexandre và cả Makoto, “lối vào con đường nối liền các địa điểm
nằm chính ở đây, ở ngay tòa thị chính này”.

Bảy ngày sau đó, tôi thấy mình đang đứng một mình trong
buồng thang máy, gặm một trái táo đỏ do Netsuko mang tới, gạt lên
gạt xuống nút điều khiển thang máy và dừng ở một tầng bất kỳ. Luôn
luôn là một bầy người hối hả nháo nhác mỗi khi cánh cửa thang máy
mở ra. Nhưng lần này, ít ra là họ biết mình đang làm gì.
“Tôi muốn không một cánh cửa nào ở tòa thị chính này không
được mở ra. Hãy phá khóa nếu cần thiết”. Đó là mệnh lệnh mà thị
trưởng Rhodes ban ra cho tất cả nhân viên của tòa thị chính, Miku
đã dịch lại sang ngôn ngữ cũ cho tôi. Suốt bảy ngày sau đó, tòa thị
chính trở thành một công trường khổng lồ, nơi không còn một thứ gì
được ở đúng vị trí của nó. Đội ngũ nhân viên đủ thành phần của tòa
thị chính đã xới tung tất cả lên đúng nghĩa. Họ kéo tới đây cả những
máy dò kim loại, máy cắt, máy khoan và cả chó nghiệp vụ, lâu lâu tôi
còn nhận ra một vài người tôi đã từng gặp ở trụ sở phong trào phục
hồi thành phố, và thậm chí là cả vị thính giả già tôi đã thoáng thấy
trong phòng trà - Alexandre de Rhodes đang huy động tất cả những
nguồn lực mà anh ta có.
Họ xê dịch những bàn, những tủ, tháo dỡ nhiều máy móc, để
đảm bảo không một bề mặt nào còn bị che khuất. Họ đo đạc từng

- 376 -
Thị trấn mùa đông
phân chiều dài, chiều cao, trong và ngoài tòa nhà, để đảm bảo không
có một bức tường hay lớp sàn nào quá dày so với mức nó phải làm.
Nhưng họ còn không tìm được một cánh cửa nào chưa được biết tới,
nói chi tới khóa hay không.
Tới một lúc, buồng thang máy được gọi tới một tầng lưng
chừng nọ, rồi Rhodes bước vào, mệt mỏi bơ phờ. Anh ta đứng tựa
vào tường, hổn hển thở trong khi xua tay từ chối trái táo tôi mời.
“Người trăm năm đi tìm chìa khóa.
Cửa muôn đời vẫn mở đấy thôi”.
“Anh nói gì?”.
“Đó là điều anh đã từng nói với tôi, khi chúng ta ở trụ sở phong
trào, anh có nhớ không? Giờ lại tới lượt anh hỏi ngược lại tôi đấy”.
“Tôi nhớ chứ. Không ngờ là anh vẫn nhớ đấy, thủ lĩnh”.
“Thế mà lần này chúng ta lại đi tìm một cánh cửa. Anh có nghĩ
nếu nó tồn tại thì nó có đang mở không?”.
“Tôi tin là có”. Tôi đáp. “Chúng ta chỉ cần đi đúng”.
Một hồi im lặng, rồi Alexandre rút từ trong túi ra một trái táo
khác. Anh cắn một miếng nhỏ.
“Tôi mới nhớ ra một điều nữa, nhưng không biết có quan trọng
không”.
“Nói đi, ngài thị trưởng”.
“Anh biết không, khi tiếp quản vị trí thị trưởng từ người tiền
nhiệm, chúng tôi cần phải học hai điều. Điều thứ nhất là ngôn ngữ
cũ. Và điều thứ hai là lược sử về sự phát triển của thành phố. Một lần
nữa, hiểu biết về quá khứ của Thành phố Thủy tinh gần như là một
đặc quyền của các đời thị trưởng. Không có mốc thời gian, không có
giấy mực nào làm bằng, chúng tôi học và dạy lại bằng trí nhớ, và bằng
niềm tin vào trí nhớ của người tiền nhiệm. Quá khứ của thành phố
về cơ bản là những lần mở rộng hay thu hẹp địa giới hành chính, một

- 377 -
NHẬT PHI

vài lưu ý về quan hệ với Thị trấn Mùa đông. Trong đó bao gồm cả sự
phát triển của bản thân tòa thị chính”.
“Vậy điều mà anh mới nghĩ ra là gì?”.
“Rei, tòa thị chính đã từng được xây mới một lần, có thể nói
là đập đi xây lại. Theo ngài thị trưởng tiền nhiệm của tôi, sự kiện đó
diễn ra cùng lúc với cuộc cải tổ hành chính và tạo ra những vùng ven
của thành phố”.
Đập đi xây lại, bốn chữ này ngay lập tức gợi tôi nhớ lại hình ảnh
con bọ đen khổng lồ đẩy đổ hoàn toàn tòa tháp thủy tinh. Và cái cách
nó tìm ra những người xám kia, trên mặt đất tầng đáy tháp. Không,
không ai nói đó chính là tầng trệt của sảnh đường lớn bây giờ.
“Rhodes này”, tôi nói, bàn tay vân vê nút trượt điều khiển thang
máy, “anh nghĩ vì sao điều khiển thang máy này lại là một rãnh trượt
mà không phải những nút bấm?”.
“Vì Thành phố Thủy tinh đã từ bỏ những con số”, anh ta đáp.
“Có lẽ thế”, tôi nói, “nhưng có thể những người đã thiết kế lại
tháp tòa thị chính này còn có dụng ý khác. Cũng như cái cách tòa thị
chính biến căn hộ 451 trở thành một căn nhà trong vùng giải tỏa bỏ
hoang, nhưng lại không phá sập nó”.
“Ý anh là…”.
“Thủ lĩnh, anh giúp tôi một việc được không?”. Tôi mỉm cười,
đặt vào tay anh ta cái lõi táo. “Xử lí nó giùm tôi”.
Và khi Alexandre bước ra khỏi buồng thang máy, cánh cửa
đang từ từ trượt đóng lại.
“Nói với Makoto, và cả Netsuko, rằng tôi sẽ quay lại sớm thôi”.
“Anh đi đâu vậy? Anh đã tìm ra được điều gì ư?”.
“Alex”, tôi cười, khi cửa thang máy đã gần đóng kín lại, chỉ còn
thấy một nửa con mắt của viên thị trưởng. “Tạm biệt”.
Cửa đã đóng, và giờ chỉ còn mình tôi. Tôi những muốn có

- 378 -
Thị trấn mùa đông
nhiều thời gian hơn cho một cuộc chia tay, muốn gặp chính những
người mình muốn gặp lần cuối. Nhưng tôi có cảm giác nếu làm thế,
tôi sẽ khó lòng có thể đi tiếp phần cuối hành trình của mình, một
mình. Tôi hít vào một hơi dài, thả lỏng trong vài giây. Rồi, bằng hết
sức bình sinh, tôi vung tay đập lên nút trượt trên thành tường thang
máy, đẩy nó rớt xuống, xuống nữa, xuống sâu hơn cả mức thấp nhất
được cho phép. Qua lớp tường kính của buồng thang máy, tôi thấy
mình đang đi xuống, tới sảnh đường. Xuống nữa, xuống nữa, rơi vào
một vùng sâu vô định.
Lại là đen thẳm.
Không, không phải! Tôi thấy ánh sáng rồi!

- 379 -
3

Tháp cổ
“Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…”
NHẬT PHI

ĐOÀN TÀU KHÔNG SỐ

H ai dải đèn chạy song song giữa vùng thinh không tối đen,
như một cây cầu ánh sáng lơ lửng trong bầu hư vô nào
đó. Và tôi thì đang nhìn xuống đó từ một điểm lơ lửng khác đang
chầm chậm sa xuống. Nếu đó là một cây cầu, một phần nào đó trong
tôi nghĩ, thì đó hẳn là cây cầu của hy vọng, dù chỉ là niềm hy vọng mơ
hồ như chính bầu không gian này. Không còn là một buồng thang
máy chạy dọc theo một cột trụ nữa, trong màn đen này, chỉ có tôi và
con đường ánh sáng kia. Thế giới vật chất, hoặc thứ mà tôi đã tưởng
là thế, dường tan biến, tôi như một linh hồn non nớt vừa rời cõi tạm,
lang thang, nhìn vào một hư ảnh mà không biết đó là nơi cần đến hay
nơi phải rời đi.
Thế rồi, sau một hồi đằng đẵng như chính màn đêm, tôi thấy
mình bước vào một hành lang có trần vòm. Chân tôi bước đi trên
mặt đất rắn chắc, tay tôi chạm lên bề mặt sần sùi của những viên
gạch nhám, mắt tôi thâu lấy ánh vàng ấm của hai dải đèn, vẳng vào
tai tôi là tiếng u u bất tận của gió cuộn xoáy dưới mái vòm. Tất cả thật
tường minh, thật hiển hiện, thật thực thể. Thế nhưng tất cả những
điều ấy chỉ khiến tôi thêm chắc chắn rằng mình đã để lại chút biện
chứng cuối cùng ở thành phố trên kia mất rồi. Gì thì gì, tôi biết rằng
giờ không phải là lúc tôi nghĩ về những điều ấy. Tôi hít đầy một hơi
thứ không khí tươi mát khó ngờ của nơi này rồi dấn mình về phía
trước, bỏ lại sau lưng cánh cửa trượt mắt cáo đã thay thế cửa kính

- 382 -
Thị trấn mùa đông
của buồng thang máy.
Hành lang xưa cũ nhưng sạch sẽ, rộng đến mức thành ra thừa
mứa đối với chỉ mình tôi. Từng ô gạch lớn, đều chằn chặn im lìm
nằm chồng lên nhau, hấp thụ toàn bộ âm thanh, tiếng thở, tiếng gọi,
tiếng chân tôi, và trả lại duy nhất chuỗi xao động không hình thù.
Khung cảnh hầu như không thay đổi theo mỗi mặt cắt tôi đi qua,
hầu như thôi, đủ để tôi vẫn biết rằng mình không phải đang đi bộ tại
chỗ. Cánh cửa buồng thang máy xa dần và tiếng gió vẫn đang nghe
lớn dần.
Hành lang thứ nhất bị cắt ngang và chặn lại bởi một hành lang
khác tương tự. Hành lang thứ hai này có trần vòm cao hơn một chút,
và lộng gió. Ở chính giữa hành lang, mặt sàn đột ngột sụt xuống cho
tới sát mặt tường đối diện. Khi tiến lại gần, tôi thấy dưới đó là một
đường ray chạy dọc theo con đường thấp, mất hút ở hai đầu khi hành
lang thứ hai thắt lại gần như vừa bằng chiều rộng đường ray. Gió
cũng lùa theo lối đó, dù tôi không biết từ phía nào. Tới lúc này tôi
nhận ra mình đang ở trong một nhà ga tàu điện ngầm. Dọc theo bức
tường phía trong thậm chí còn bố trí sẵn một vài băng ghế sắt. Tôi
ngồi xuống một trong số đó, như một hành khách đợi tàu và nghĩ về
những con đường tôi đã đi qua. Người duy nhất nói với tôi về một
đường tàu lại là Makoto, liệu đây có phải chính là đoàn tàu đã đuổi
theo cô bé trong cái ngày cô tới Thị trấn Mùa đông? Đường hầm mà
Sofia mở ra chúng tôi, rồi đường cống ngầm dẫn xuống từ Hành lang
Ghi nhớ, và chính bản thân Hành lang Ghi nhớ nữa, có phải tất cả
đều chạy song song với đường tàu này? Và rốt cuộc thì liệu có chuyến
tàu nào đang tới đón tôi hay không? Hay phải chăng đường tàu này
cũng đã bị chối bỏ và lãng quên như rất nhiều những thứ khác của
thành phố trên kia?
Chính khi ấy, như đáp lại lo lắng của tôi, một tiếng còi hụ cất

- 383 -
NHẬT PHI

lên chói lói, theo sau là một giọng khô khan gần như bồn chồn, vang
vọng như thể được phát ra từ chính những viên gạch nhám. “Tàu sắp
vào ga, quý hành khách vui lòng đứng sau vạch vàng”. Rồi một hồi
còi dài nữa, kéo theo một chuỗi ầm ào cơ khí lớn dần. Tàu đang đến.
Đầu tiên là toa đầu tàu, được thiết kế như một đầu máy hơi nước, với
cột ống khói không phả ra gì ngoài tiếng lanh canh vui tai. Rồi tới
đoàn tàu, toa nào toa nấy sơn màu đỏ đun. Đoàn tàu chờ tới, đầu máy
vượt qua mặt tôi, chậm dần rồi hộc lên một cái trước khi dừng hẳn
ở toa thứ tư. Cửa toa bật mở và bước ra từ đó một người đàn ông trẻ
tuổi. Anh ta mặc một bộ đồ kaki kiểu lễ tân trắng, nút cài lên tận cổ,
đầu đội một chiếc mũ canoe trắng viền xanh. Nước da đặc biệt trắng
và gương mặt thì phẳng lặng với một nụ cười công nghiệp.
“Kính chào quý khách”, giọng anh ta có thể nói là dễ nghe, lễ
phép nhưng ít cảm xúc.
“Chào anh”, tôi đáp, “tôi có thể lên tàu không?”.
“Vâng”, anh ta nói, “nếu như quý khách có gì đó để chứng minh”.
“Chứng minh? Giống như là tôi phải mua vé tàu trước ấy hả?
Nhưng tôi không biết cách nào để mua vé cả”.
“Không phải là mua vé”, viên lễ tân mỉm cười nhẫn nại. “Chuyến
tàu của chúng tôi thu phí theo một cách khác. Thứ quý khách cần là
một cái gì đó, xin cứ hiểu là cái gì đó để chứng minh tư cách lên tàu
của quý khách”.
Tôi ngẩn người, cố gắng nghĩ xem mình có thứ gì như vậy
không, hay đúng hơn, tự hỏi mình có cái gọi là tư cách lên tàu không.
Tôi lần tay quanh thân mình, tìm kiếm. Khẩu súng lục ổ xoay, thứ
có vẻ sẽ khiến cho tôi ít có tư cách lên tàu hơn cả lúc này nữa. Chiếc
chìa khóa bạc, nhưng ổ khóa rõ ràng nằm ở một nơi khác. Và cuối
cùng… Tôi chìa cho anh ta tấm mặt nạ Quỷ vương, và nhận lại một
cái nhướn mày, như là khuyến khích. Tôi đeo luôn nó lên mặt, và lần

- 384 -
Thị trấn mùa đông
này anh ta mỉm cười, trước khi đứng tránh sang một bên.
“Ngài luôn có thể lên tàu”, viên lễ tân hơi cúi mình, đưa tay ra
hiệu mời tôi lên tàu. “Xin mời ngồi bất kỳ đâu tuỳ ý”.
Khoang tàu gồm hai dãy ghế đôi bọc nệm ngăn giữa bởi một lối
đi hẹp, mỗi dãy lại gồm nhiều cặp ghế đôi xoay mặt vào nhau với một
bàn nhỏ ở giữa đủ cho từng nhóm bốn người có thể ngồi thoải mái
mà dùng bữa. Toa tàu nhìn chung ấm cúng và dễ chịu, nếu không kể
tới việc tôi là hành khách duy nhất trong khoang, mà có lẽ là trong
cả chuyến tàu. Tôi ngồi xuống một ghế ở chính giữa khoang, ngả
đầu vào cửa kính nhìn về phía hành lang khi nãy. Giờ thì tôi thấy nó
không dài, nhưng vẫn cảm giác mình vừa đi một quãng đường khá
xa để ngồi xuống được băng ghế êm ái này.
“Xin hỏi quý khách muốn tới đâu?”. Viên lễ tân hỏi, anh ta đã
tới bên ghế tôi ngồi sau khi đóng cửa toa tàu.
“Tháp cổ”.
Tôi đáp không chút do dự và viên lễ tân cúi chào một lần nữa
rồi đi dọc dãy ghế về phía toa đầu.
Tàu bắt đầu chuyển bánh, sau một cái cựa mình kiểu cách và
dải hành lang chầm chậm trôi về phía sau. Thoáng chốc, bên ngoài
toa tàu chỉ còn là bóng tối, khi tàu bắt đầu tiến vào đường hầm. Tàu
chạy rất êm, gần như không một tiếng động, ngay cả trong khoảng
không gian hẹp chỉ vừa đủ ôm lấy nó, điều này cho tôi cảm giác đoàn
tàu sẽ không lên tiếng chừng nào nó chưa thấy cần nhắc cho người
ta nhớ rằng nó là một đoàn tàu. Tới một lúc, một nhân viên phục vụ
trên tàu khác tiến lại phía tôi. Đó là một người đàn ông trẻ tuổi khác,
cũng với gương mặt phẳng lặng mang lại ít ấn tượng đến nỗi tôi chỉ
có thể phân biệt anh ta với người lễ tân khi nãy bằng trang phục.
Người này cũng mặc một bộ đồ kaki tương tự, nhưng màu hung, với
một cái mũ rộng vành.
“Ngài có muốn dùng đồ uống gì không ạ?”. Anh ta hỏi sau vài

- 385 -
NHẬT PHI

giây, chừng như để chắc chắn rằng tôi có ý định lắng nghe.
“Tôi có phải trả tiền cho đồ uống không?”. Tôi hỏi.
“Đồ uống đã được tính kèm trong phí đi tàu, thưa quý khách”,
người tiếp viên nhã nhặn đáp. “Chúng tôi có nước quả, nước suối và
cả đồ uống có cồn”.
“Phải rồi”, tôi bật cười, quay lại nhìn chính mình trong tấm
kính cửa sổ nền đen, “tôi đang là Quỷ vương mà. Mà Quỷ vương thì
sẽ uống rượu mạnh, phải không?”.
“Chúng tôi có rất nhiều loại rượu mạnh, không biết ngài muốn
dùng loại nào?”.
“Royal Salute”, tôi đáp, “cho tôi một ly với đá”.
Người tiếp viên cúi đầu xác nhận rồi dợm bước đi, nhưng tôi
chợt nhớ ra một điều.
“Xin cho hỏi”, tôi gọi, và anh ta dừng lại, “đoàn tàu này có tên
không?”.
“Không, tôi nghĩ là không”, anh ta đáp sau vài giây ngẫm nghĩ.
“Vậy có cái gì tương tự như thế không? Một số hiệu chẳng hạn?”.
“Nếu quý khách cần một thứ gì như thế”, anh ta mỉm cười, “thì
tôi nghĩ ngài có thể gọi đây là Đoàn tàu Không số”.

Tôi nghĩ mình đã thiếp đi đâu đó trên đường, và chỉ tỉnh dậy
khi rượu được mang tới, bởi một tiếp viên khác. Lần này là một người
phụ nữ, với áo vest bó và váy jupe đen. Cô đeo mặt nạ mỏ chim cùng
màu quanh mắt, để lộ chiếc cằm chữ V và đôi môi anh đào tô son
đặc biệt đậm. Trắng, hung, rồi đen, tôi đã từng thấy tổ hợp màu này.
“Royal Salute với đá”, cô đặt ly rượu xuống mặt bàn, “xin mời
quý khách”.
“Cảm ơn cô”. Tôi đáp, nhìn thứ chất lỏng màu hổ phách quen
thuộc chao động rất nhẹ trong ly thủy tinh đế dày. “Nếu cô không

- 386 -
Thị trấn mùa đông
phiền tôi có thể hỏi vài câu không?”.
“Vâng, xin ngài cứ hỏi”. Cô đáp êm ái, dù khó có thể nghe ra là
lãnh đạm hay nhiệt tình.
“Trên tàu có bao nhiêu nhân viên vậy? Tôi đã gặp tới người thứ
ba trên cùng một toa rồi”.
“Chỉ có ba người chúng em thôi, một người đón khách và báo
điểm đến, một người nhận yêu cầu và em thì tiếp đồ uống”.
“Tôi có thể hỏi tên cô không?”.
“Xin ngài cứ gọi em cách nào ngài muốn. Cả hai người kia nữa.
Tên chỉ là một cái vỏ, một quy ước, ngài có nghĩ thế không? Thứ thực
sự phân biệt chúng em là vai trò. Chỉ cần ngài nói muốn gặp người
phụ trách việc gì, em sẽ báo họ tới đây”.
“À không, tôi chỉ hỏi vậy thôi”.
Tôi nhấp một ngụm rượu, và ngay lập tức nhận ra vì sao Quỷ
vương lại trân quý thứ rượu này đến thế.
“Tôi còn một câu hỏi nữa”, tôi đặt ly rượu xuống, “nếu như tôi
không thể trả được phí tàu thì sao?”.
“Xin ngài đừng lo lắng về điều đó”, cô đáp, “ngài đã có thể lên
tàu tức là ngài đã có thứ để trả phí tàu rồi. Chúng em có cách tính phí
khác nhau đối với mỗi hành khách, nhưng tất cả đều là thứ họ có và
có thể trả”.
“Ý cô là tàu tới ga đến, tôi sẽ biết mình mất thứ gì, phải không?
Nhưng nếu như tới lúc đó tôi lại không muốn trả thì sao?”.
“Nhưng ngài vẫn đang trả rồi đấy thôi”.
Cô mỉm cười, và xin phép rút đi, nói rằng sẽ có mặt lại ngay khi
tôi gọi. Tôi nhấp một ngụm rượu nữa, thắc thỏm không biết mình
có đang bỏ quên điều gì không. Ngoài cửa sổ toa tàu, màn đêm vẫn
đang trôi về sau.

- 387 -
NHẬT PHI

Tới một lúc, tôi nhận ra ánh sáng bắt đầu len lén chen vào bóng
tối ngoài kia. Mới đầu, chúng giống như những vụn sao trên bầu trời
đêm không mây, rồi, chúng lớn dần lên thành những ô vuông, những
ô cửa sổ sáng đèn của một thị trấn nhỏ phía xa. Khi những khúc
quanh đường ray đưa tôi tới gần hơn, những ô cửa sổ ấy bắt đầu hiện
lên nhạt nhòa hình ảnh cuộc sống. Thế rồi, đột nhiên, cảm tưởng
như chính những vách nhà đang dựng lên thành hầm, những ô cửa
sổ gần tới mức tôi có thể với tay xuyên qua cửa kính toa tàu mà chạm
tới những con người trong ấy. Những con người rất đỗi quen thuộc.
Tôi thấy Makoto ngồi trên hàng hiên sau của một trong những
căn nhà tôn, đầu tựa vào cánh tay, mái tóc buông dài xuống hông,
bên cạnh cô bé là Netsuko, với chiếc harmonica trên môi. Tôi thấy
Rhodes bồn chồn đi đi lại lại trong văn phòng của anh trong tòa thị
chính, chốc chốc đứng lại để gẩy tàn thuốc vào cái gạt tàn nhôm đặt
trên bàn. Tôi thấy Hikari đứng lên khỏi khung cửi, bước chậm rãi về
phía giỏ củ cải bên bàn bếp. Tôi thấy Sofia ngồi giữa đám trẻ, có vẻ
đang loay hoay với vô số câu hỏi chúng ném vào cô. Tôi thấy Kahn
ngồi một mình trên băng ghế trên cùng trong tòa thị chính, lặng lẽ
gục đầu vào đôi bàn tay đan. Và rồi, tôi thấy nàng, Ionah, đứng cùng
hàng người chờ lấy bánh mì từ lò bánh, một bàn tay bé xíu vươn lên
từ chiếc xe nôi trước mặt nàng. Nàng mỉm cười và cúi xuống hôn lên
bàn tay ấy.
Tôi thấy Viena đang tập đi, lẫm chẫm bước vào vòng tay nàng.
Tôi thấy Viena ngồi trong lòng nàng, nhìn theo bàn tay chỉ của
nàng, mấp máy gọi tên từng đồ vật trong căn phòng bập bùng ánh
lửa lò sưởi.
Tôi thấy Viena chạy quanh bầy chim trên khoảnh vườn nhỏ,
chốc chốc lại vu vơ đá chân vào không khí, đủ để đánh động một vài

- 388 -
Thị trấn mùa đông
con chim gần đó, và nàng dịu dàng quở con gái vì trò nghịch ngợm.
Tôi thấy Viena hớn hở chạy lại nhập bọn với đám trẻ ngồi chờ
nghe chuyện, con đã cao gần bằng đứa thấp nhất trong đám ấy.
Tôi thấy Ionah ngồi một mình trong phòng, gục đầu xuống
bàn, đôi vai nàng khẽ rung lên.
Tôi thiếp đi với một cơn đau thắt ngực. Chuyến tàu này đã dài
hơn đất trời chưa?

- 389 -
NHẬT PHI

NGƯỜI TRÔNG COI THÁP CỔ

L ần kế tiếp tôi bị đánh thức là bởi giọng thông báo khô khốc
kia. Nó nói “Tàu đã vào tới ga cuối… Nhắc lại, tàu đã vào
tới ga cuối… Nhắc lại…”. Tôi tỉnh dậy, nhận thấy tàu đã dừng tự bao
giờ, mọi chuyển động rung lắc đã dằn xuống, con lắc đã trở về điểm
cân bằng, chỉ có giọng nói bồn chồn không ngừng lặp lại. Cửa toa đã
mở, nhìn ra một hành lang mái vòm khác ngắn hơn, với điểm cuối là
một dải cầu thang đá cũ. Tôi đứng dậy, nghe thân mình nặng nhọc.
Tới khi đó, tiếng thông báo mới chịu tắt hẳn.
“Xin chào”, tôi gọi, “mấy người còn ở đây không? Cho tôi thanh
toán phí tàu với”.
Nhưng không ai đáp lời tôi cả. Viên lễ tân cũng không đứng ở
cửa toa để đón khách như lần trước. Là anh ta biết sẽ không có ai lên
tàu, hay ga cuối mà giọng thông báo nhắc tới có ý nghĩa nhiều hơn
là điểm cuối của một tuyến đường sắt? Tôi kiểm tra đồ đạc của mình
trong khi bước ra khỏi toa tàu. Không thiếu một thứ gì cả. Cuối cùng
thì họ đã thu phí tàu bằng cách nào, và cô gái tiếp viên muốn diễn đạt
điều gì khi nói tôi vẫn đang trả phí trong khi ngồi trên tàu? Tôi lắc
đầu, bật cười với chính mình. Chẳng phải tôi đã kết luận rằng mình
đã bỏ lại thế giới của những bí ẩn suy đoán được ở trên kia rồi sao?
Và rồi câu trả lời tới lúc nào đó sẽ tự nó rơi xuống trước mặt tôi, bằng
ý thích và động cơ của riêng nó, tôi tin vậy. Vả chăng, ngay lúc này tôi

- 390 -
Thị trấn mùa đông
cần phải đi tìm những câu trả lời khác. Nghĩ tới đó, tôi bước xuống
khỏi toa tàu, tiến vào hành lang, tự nhủ sẽ không ngoái lại, cho tới
khi nào tôi biết được thêm điều gì đó.
Dải hành lang được dựng bằng thứ vật liệu giống như là đá ong,
với bề mặt nhám màu nâu đỏ, cũ kỹ và ẩm mốc. Có những vũng nước
mỏng đọng trên sàn và những mảng sậm màu hơn trên mặt tường,
xen kẽ nhiều mảng rêu xanh. Đi tới một chút nữa, tôi có thể nghe
thấy tiếng mưa rơi, một cơn mưa không lớn, nhưng dày và bền bỉ. Tôi
nhớ lại lời bà Astrid, “Tháp cổ, nơi mưa không bao giờ ngừng rơi…”.
Tiếng mưa kéo tôi tới trước nhanh hơn, về cuối hành lang. Hơn mười
mấy bậc thang dẫn tôi lên một chốn vừa như một chiếu nghỉ vừa như
một phòng chờ nhỏ, gian phòng hầu như trống trơn với chỉ vài băng
ghế gỗ bụi phủ trắng mờ. Căn phòng này đã đón bao nhiêu lớp người
tới đây, ngồi xuống mấy băng ghế này, chờ đợi thông báo tàu tới, để
rồi lên tàu và đi về Thành phố Thủy tinh hay Thị trấn Mùa đông?
Ngày đó, nếu có, hẳn cũng là từ rất nhiều năm về trước rồi. Đoàn
tàu Không số này, tôi nghĩ mà cố không ngoái lại, phải chăng vẫn cứ
chạy trong ngần ấy năm, với không một hành khách nào như thế? Và
Royal Salute cứ như thể luôn được trữ sẵn để chờ đón một kẻ khách
lạ, trách sao mùi vị của nó lại đặc biệt như vậy. Tôi tiến ra cửa, về phía
cái bóng cao lớn sừng sững sau màn mưa kia. Ít nhất thì đoàn tàu đã
thả tôi xuống đúng ga, ga cuối…
Từ xa, mà có vẻ như cũng không xa đến thế, Tháp cổ buổi chạng
vạng mưa mang một vẻ u hoài trầm mặc mà vẫn bao chứa quá nhiều
dữ dội, như một người đàn ông luống tuổi cúi đầu trước mộ một kẻ
vừa là bằng hữu chí cốt vừa là đối thủ truyền kiếp. Cũng có thể tôi có
cái liên tưởng ấy là vì tôi đang thực sự ở trong một nghĩa trang, giữa
rất nhiều những ngôi mộ, những tấm bia thấp. Đúng là như thế, từ
cửa phòng chờ dẫn tới chân tháp là một con đường mòn xuyên qua

- 391 -
NHẬT PHI

một nghĩa trang giữa rừng, những tấm bia đá hồ như bầy người vừa
vội vàng dạt ra, tránh lối cho một yếu nhân, hay một kẻ đáng tởm đi
qua. Tôi không biết mình thuộc thể loại nào trong hai loại đó, nhưng
trong một giây, tôi cảm giác như tất cả những tấm bia đang đồng loạt
xoay về phía mình, chiếu tướng tôi bằng cái nhìn dò xét. Nhưng vì lẽ
nào đó, tôi không nhìn lại chúng, cố gắng không để những con chữ,
con số trên mặt bia lọt vào ý thức mình. Hình như tôi sợ, sợ rằng
một cái tên, một niên đại nào đó hiện lên có thể đập vỡ hoàn toàn
cảm thức hiện thực của riêng tôi, vốn đang được chống đỡ hết sức
chênh vênh. Tôi giữ ánh nhìn của mình cố định về phía Tháp cổ, và
chỉ Tháp cổ mà thôi trong tầm mắt tôi.
Tháp cổ có cả thảy năm tầng, năm lần mái thoải, uốn cong về
bốn phía, một kiến trúc tôi chưa từng trông thấy suốt dọc hành trình
của mình. Dòng nước mưa rơi xuống rồi được hất ngược lên theo làn
mái cong, tán ra thành vô vàn dòng nhỏ hơn, che lấp phần lớn đường
nét tòa tháp. Hay chính Tháp cổ đã tự buông phủ một tấm mạng của
riêng nó, giữ cho nó không gì hơn là một hình bóng ẩn hiện xa mờ,
dẫu cho kẻ quá khách lại gần thêm bao nhiêu bước. Mưa dừng lại nơi
bậc tam cấp dưới chân tháp, dẫn lên một mặt sàn không cửa. Tầng
trệt của Tháp cổ hoàn toàn trống trơn trên nền gạch đỏ láng nhẵn,
với bốn cột trụ gỗ lớn vừa một vòng tay người lớn ở bốn góc và một
cột trụ ở chính giữa với dải cầu thang gỗ uốn quanh mà nếu không có
nó, công trình này sẽ hoàn toàn chỉ là một khoảng trống có mái che
để trú mưa, một căn chòi để nghỉ chân giữa nghĩa trang. Nước dưới
đế giày tôi in xuống mặt sàn những dấu chân duy nhất.
Tới trước chân cầu thang, tôi tháo tấm mặt nạ, vuốt nước khỏi
mặt, cả mồ hôi lẫn nước mưa, hất ngược tóc mái bết trên trán lên
đỉnh đầu, rồi cúi xuống tháo giày đặt lại dưới sàn trước khi đặt chân
lên bậc thang đầu tiên. Bậc thang cựa mình rất nhẹ khi tôi bước lên,

- 392 -
Thị trấn mùa đông
mà tôi hiểu là thay cho lời chào, sau đó thì tuyệt nhiên không còn
một tiếng động nào nữa. Tôi lần theo cầu thang xoắn lên thẳng đỉnh
tháp. Ba tầng ở giữa được bố trí giống nhau, với diện tích thu nhỏ
dần theo mỗi tầng cao hơn. Hai trong số bốn mặt của gian phòng duy
nhất của mỗi tầng là hai giá sách đối diện nhau, hàng trăm cuốn sách
dựng cao lên tận trần, cảnh trí tương tự điều tôi đã thấy trong đại thư
viện nơi con bọ đen khổng lồ từng ngồi. Hai mặt còn lại là hai hàng
lan can thấp, nhìn ra bên ngoài, nhìn vào màn mưa.
Tháp cổ dễ phải trữ tới cả ngàn cuốn sách, và cho dù chưa dừng
lại để mở ra hay thậm chí là chạm với một gáy sách nào, tôi vẫn nghe
dấy lên một cảm giác gần như là an tâm, gần như là tin tưởng với nơi
này. Giữa ngần ấy sách, một cách thực thể, lẽ nào tôi lại không thể
tìm được cho mình một câu trả lời. Lên tới tầng thứ tư, tôi chợt hiểu
ra ý nghĩa của kiến trúc tòa tháp này. Những người xây nên Tháp cổ
đã chất vào đây chừng ấy sách, chừng ấy truyện kể, và mở ra hai mặt
còn lại như để đón vào những cơn gió cũng mang mùi cổ xưa. Làn
gió mát rượi xuyên qua từng tầng tháp gợi cho tôi cảm giác giống
như khi nghe bài hát của Netsuko. Đó cũng là một câu chuyện khác
đang được kể. Bởi gió.
Và ở tầng cao nhất của Tháp cổ, giữa những sách, những gió và
những mưa, tôi thấy nàng. Nàng ngồi quay nửa lưng về phía tôi khi
tôi vừa lên tới đỉnh tháp, trên một băng ghế tựa vào hàng lan can.
Nàng đang nhìn ra ngoài, một cánh tay vươn ra đón lấy những hạt
mưa nhỏ giọt từ trên mái nhà. Hạt nước không vỡ ra trên tay nàng,
mà êm ả lăn trên đó, dịu dàng uốn quanh cánh tay mảnh mai, luồn
vào tay áo, vào vai, vào cổ nàng. Tôi không thấy mặt nàng, sau làn tóc
đen buông dài chấm lưng, nhưng trong hình dung, tôi gần như ngay
tức khắc gán cho nàng hình ảnh của Ionah. Từ người phụ nữ này tỏa
ra một bầu không khí an nhiên, xanh xao mà cương nghị như tôi đã
thấy ở Ionah từ ngày đầu tiên. Và thậm chí tôi đã bật gọi lên tên nàng.

- 393 -
NHẬT PHI

Ionah.
“Ông đấy ư?”. Nàng lên tiếng, dày và êm như chính cơn mưa
này, rồi chầm chậm quay lại. “Em ở đây bao lâu rồi nhỉ?”.
Nàng không phải là Ionah, tôi biết, nhưng vẫn có gì đó như là
hụt hẫng. Điều đó cũng phản chiếu trong ánh mắt nàng, khi nàng
nhận ra tôi. Nàng thoáng ngạc nhiên, rồi mỉm cười.
“Ồ, em xin lỗi”, nàng nói, “khi thấy ông đi từ ga ra, em cứ ngỡ
ông là một người quen cũ”.
“Em muốn nói tới Gin, Gingawa của Hành lang Ghi nhớ phải
không?”.
Gương mặt nàng rạng lên khi tôi nhắc tới cái tên ấy, nàng
gật đầu.
“Tiếc là không phải ông ấy”, tôi nói. “Tôi là Rei, từ Thị trấn
Mùa đông”.
“Em là Diễm”, nàng đứng dậy khỏi băng ghế, “người trông coi
Tháp cổ”.
Nàng mặc một bộ áo lụa dài tay màu tím, tà áo xẻ dọc từ eo
chảy dài xuống bắp chân, khuất lấp làn quần trắng mềm mại. Tà áo
bó sát, uốn lượn theo đường cong thân thể, hờ hững, kín đáo mà
cũng thật gợi cảm. Nàng mang vẻ đẹp của một người phụ nữ trưởng
thành, đứng đắn, trầm lắng, đôi chút mộng mơ còn vương lại nơi
khóe môi, nơi đuôi mắt nàng. Trong một thoáng, tôi tưởng như nàng
có một chút gì đó từ mỗi người phụ nữ tôi đã từng gặp trên đường.
Diễm mời tôi ngồi xuống băng ghế, bên cạnh nàng. Rồi nàng lại bâng
quơ nhìn ra màn mưa.
“Em là người cuối cùng rời khỏi Hành lang Ghi nhớ”, nàng
nói, như thể không phải là với tôi. “Em không muốn thế. Em không
muốn để Gin ở lại đó một mình, nhất là sau khi cả Pal và Astrid đều
đã rời đi. Nhưng Gin nói em cần phải đi, Hành lang Ghi nhớ chỉ cần

- 394 -
Thị trấn mùa đông
một người ở lại coi giữ thôi, và vì tất cả những gì chúng em xây dựng,
vì niềm tin của chúng em, Tháp cổ cần được dựng nên. Em mang
theo gần như tất cả những gì họ bỏ lại, và tới đây. Em luôn mong một
ngày nào đó Gin sẽ bước ra từ nhà ga và đón em trở lại. Nhưng ông
ấy không bao giờ đến, không ai đến cả, chỉ có đàn chim trở về đây
mỗi đêm bầu bạn với em”.
“Chắc hẳn là em đã cô đơn lắm…”.
“Cô đơn ư?”. Nàng bật cười trớ trêu. “Đã lâu lắm rồi em không
còn nghĩ về điều đó nữa. Em đã quên luôn đó là cảm giác như thế
nào rồi. Lần cuối em biết thế nào là cô đơn là khi ngồi trên tàu để tới
đây. Hình như thế”.
“Gin nói ông không thể nào rời khỏi Hành lang Ghi nhớ, vì nếu
ông làm vậy, tất cả sẽ sụp đổ”.
“Em biết chứ. Ông ấy đã chọn phần nặng nề và khó khăn nhất,
nặng nề và khó khăn hơn tất cả những người khác. Gin luôn là người
lặng lẽ nhất, có lẽ vì thế mà những người kia cảm thấy rằng có để ông
ấy lại thì cũng không sao cả”.
“Những người khác là em, bà Astrid, Pal và Kahn có phải
không?”.
“À, Kahn”, nàng khúc khích, “Pal nói lẽ ra tên ông ấy phải là
Kant mới đúng, vì lúc nào ông cũng nói mọi người không thể làm cái
này hay cái kia”.
Thế rồi lũ chim cũng tới, những đôi cánh trĩu nặng dưới mưa.
Chúng tản ra khắp khu rừng, trú dưới những tán cây, rùng mình rũ
nước khỏi lớp lông vũ. Chúng tôi cùng im lặng nhìn ngắm đàn chim
một hồi lâu. Và chính khi đó tôi thấy, lọt thỏm giữa những bộ lông
xám và những cái cổ xanh rêu, một con quạ đen tuyền đang vùi đầu
dưới đôi cánh, như một kẻ biếng nhác ngủ sớm.
“Diễm này”, tôi nói, “em có phiền cho tôi biết một vài điều

- 395 -
NHẬT PHI

không?”.

TỪ HÀNH LANG GHI NHỚ

“S a mạc nơi con rắn chờ đợi cậu bé đến từ những vì sao
phải không? Em biết, họ gọi đó là sa mạc Sahara, vốn chỉ
có nghĩa là sa mạc thôi. Khi chỉ có một sa mạc thì người ta chẳng cần
phải đặt tên cho nó làm gì cả. Cũng như nó là con rắn duy nhất trên
sa mạc ấy”.
“Giờ thì nó đã có tên rồi”, tôi mỉm cười. “Một người bạn của tôi
quyết định gọi nó là Matsu”.
“Cái tên hợp lí thật”. Nàng nói. “Matsu, con rắn chờ đợi ở sa
mạc có tên là Sa mạc”.
“Những cái tên có quan trọng không?”. Tôi hỏi. “Bởi vì còn một
người nữa mà tôi muốn biết tên. Cô ấy từng được gọi là Nàng Trăng”.
“Tôi lại gần bên, ô! Lạ thường
Nàng Trăng, ô! Chính là Thương Thương”.
“Em biết ư?”.
“Em biết”, nàng gật đầu. “Điều đó được viết trong một cuốn
sách được gửi tới đây từ Thị trấn Mùa đông”.
“Thị trấn Mùa đông gửi sách tới đây sao?”. Tôi kinh ngạc. “Kahn
gửi sách tới đây sao?”.
“Một chương sách cho mỗi một cư dân của thị trấn, đúng!
Không ai ở Thị trấn Mùa đông được biết điều này, ngoại trừ Kahn và
Astrid, đó là điều họ đã thống nhất với nhau”.

- 396 -
Thị trấn mùa đông
“Nhưng em đã nói với tôi…”.
“Đến lượt em”, nàng ngắt lời tôi. “Kể em nghe về Thị trấn Mùa
đông đi. Rồi em sẽ kể ông nghe điều em biết”.
Tôi kể cho Diễm nghe về những ngày cuối cùng tôi còn lưu lại
Thị trấn Mùa đông, về sự ra đi của bà Astrid trong ngày Viena chào
đời, về nhiệm vụ mà tôi đã tự nhận lấy và đã đưa tôi tới đây. Nàng im
lặng lắng nghe, chỉ buông ra một tiếng thở dài khi nghe về người kể
chuyện già.
“Em đã đọc tất cả sách được gửi tới từ Thị trấn Mùa đông, và
em nghĩ em đã hiểu nơi ấy lắm. Em không nghĩ một điều như vậy lại
xảy ra với Astrid”.
“Ông biết không, Astrid chính là người đầu tiên rời khỏi Hành
lang Ghi nhớ”, nàng kể. “Bà ấy nói không muốn để mặc họ như vậy,
bà muốn họ được sống tiếp, một cuộc đời khác, bình yên và êm ấm
hơn những gì họ đã trải qua. Ngay cả khi không ai nghĩ rằng họ có
quyền. Rồi bà đi, qua một cánh cửa giữa hành lang. Pal lắc đầu vẻ
bất nhẫn. Kahn trở nên trầm lặng, và Gin thì bắt đầu uống rượu
nhiều hơn”.
“Đó là những ngày rất nặng nề ở Hành lang Ghi nhớ. Em cảm
nhận rằng trước đó không một ai trong số năm người chúng em có
chút hoài nghi nào về trách nhiệm coi giữ của mình, và Astrid là
người đầu tiên quyết định rằng chúng em còn có thể gây dựng một
thứ gì đó. Phần lớn thời gian không ai nói gì với nhau. Mỗi người
hình như đều theo đuổi ý niệm riêng về sự gây dựng. Kahn và Pal
dành nhiều thời gian sau những cánh cửa riêng mà chỉ họ mới có thể
mở, và em là người duy nhất còn ngồi lại để uống rượu cùng với Gin”.
“Một lần, khi cả bốn người cùng ngồi trong hành lang, Pal bất
chợt lên tiếng. Cô ấy sẽ sớm trở về thôi, ông nói. Em hỏi, sao ông
nghĩ vậy, và ông nói, vì cô ấy quá bao dung, quá dịu dàng và nhân từ

- 397 -
NHẬT PHI

cho bất kỳ thế giới nào mà cô ấy dựng lên. Đừng nói nữa, Pal, Gin
nói, cầm cổ chai rượu trước mặt ông lên và lắc nhẹ. Uống hết chai
này và Astrid sẽ về. Phải đấy, Pal đáp và ngồi xuống, chừng đó tôi sẽ
an ủi cô ấy. Kahn nhếch mép với em rồi quay đi với một cái khịt mũi”.
“Astrid quả thật đã trở lại khi chai rượu của Gin vừa cạn. Pal lật
đật đứng dậy để đón bà, nhưng Kahn đã nhanh hơn, vì ông vẫn cứ
đứng sát bên cánh cửa suốt thời gian đó. Astrid đổ mình vào vòng
tay ông. Bà khóc. Hình như tôi đã sai rồi, Kahn ơi, bà nói, và Kahn
không ngừng vuốt tóc bà vỗ về. Đó không phải điều mà tôi muốn
thấy, không phải thế giới tôi muốn tạo nên. Tôi là người thừa ở đó,
Kahn ơi, tôi đã sai ở đâu chứ?”.
“Cô không sai, Pal nói, ông đã đến bên bà, vươn tay muốn đặt
lên vai bà. Nhưng Kahn đã lên tiếng, trước khi Pal kịp chạm vào
Astrid, chúng ta sẽ làm lại. Làm lại ư? Phải, Kahn đáp, tôi đã nghĩ về
điều này khi em đi, và tôi biết sẽ phải làm như thế nào. Hãy cùng tôi
xây dựng một vùng đất mới, nơi thực sự dành cho những người em
yêu thương. Vâng, bà gật đầu, gạt nước mắt, và Pal đã không còn nói
được gì nữa”.
“Rồi cánh cửa lại bật mở ra, và một cô gái bước vào. Cô tỏ ra
kinh ngạc trước cảnh tượng của Hành lang Ghi nhớ, rồi cô nhận ra
Astrid. Con thấy bà thức dậy, con lo nên đi theo… Cô gái khựng lại
giữa câu nói, đưa tay lên bụm miệng, kinh ngạc hơn cả khi cô mới
bước vào. Đừng sợ, Sofia, Astrid cười hiền từ, ở đây con có thể rồi. Ta
rất cảm kích khi con lo cho ta, nhưng con có thể quay về rồi. Quay về
một mình ấy ạ, Sofia gần như là hoảng hốt, cô lắc đầu nhiều lần, mà
không có bà ư? Phải, thung lũng không cần ta nữa. Không, không, cô
nói át tiếng bà, con sẽ đi theo bà, tới đâu cũng được”.
“Ừ, vậy cũng được, Kahn nói, cả Astrid và Sofia đều ngỡ ngàng.
Cứ để cô ấy đi cùng chúng ta, Astrid à, em sẽ cần một người ở bên

- 398 -
Thị trấn mùa đông
chăm sóc, ông nói nhẹ nhàng, và cô ấy cũng sẽ giúp chúng ta được
nhiều đấy. Astrid gật đầu. Bà tạm biệt em, Gin và Pal, rồi ba người họ
biến mất vào sau một cánh cửa. Đó là lần cuối em thấy cánh cửa ấy
mở ra. Hẳn nó đã được khóa từ phía bên kia”.
“Gin vẫn không nói gì, nhưng ánh mắt ông quạch đỏ, mà em
ngờ là không phải vì rượu. Pal cũng im lặng, và khi ông ấy lên tiếng
thì là một tiếng cười chua xót. Này các bạn, tôi chậm mất rồi, ông nói,
và có lẽ tôi lại phải để các bạn lại đây thôi. Ông đi theo họ ư, em hỏi,
và Pal lắc đầu. Không, họ không cần tôi ở đó đâu, tôi sẽ đến một nơi
khác, xây dựng một xứ sở khác. Ừm, tôi đã nghĩ rất lâu về một cái tên,
giờ thì tôi nghĩ ra rồi, khi thấy Astrid khóc, tôi đã nghĩ ra, ông cầm
lên một chai rượu đầy, nhìn em và Gin qua đó, một thứ trong suốt và
long lanh. Và chất chứa. Tôi tin rằng rồi đây Kahn và Astrid sẽ cần
đến sự giúp đỡ của tôi. Gin, ông hạ chai rượu xuống, đừng bao giờ
uống rượu một mình. Còn lại trông cậy ở hai người đấy. Và Pal cũng
đi, qua cánh cửa ở cuối hành lang. Tại sao ông ấy không nói với em,
không cho em biết em cần phải làm gì hay có vai trò gì? Em đã rất
dằn vặt vì điều đó trong những ngày cuối còn ở Hành lang Ghi nhớ”.
“Cho đến ngày em và Gin nhận được thư từ Astrid. Bà nói bà
đang ở Thị trấn Mùa đông, thị trấn do Kahn xây dựng và đã bắt đầu
đón những cư dân đầu tiên. Mọi thứ đều tốt, bà nói vậy, và hy vọng
tôi sẽ không lặp lại sai lầm như lần trước. Lá thư còn rất dài, rất dài,
nhưng Gin không để em đọc đoạn sau. Ông cuộn tròn xấp giấy lại,
đưa cho em, bảo rằng em hãy đọc trên tàu. Ông nói sao, em run rẩy
đón lấy cuộn giấy, em cũng phải đi ư? Đi đi, Diễm, ông nói, hành lang
này chỉ cần một mình tôi là đủ. Nhưng em phải đi đến đâu, và để làm
gì? Mang theo những gì em muốn, lên tàu và đi tới ga cuối, rồi thư
của Astrid sẽ cho em biết em phải làm gì. Đừng buồn, Astrid sẽ còn
gửi thư cho em. Em hãy giữ lấy chúng, vì Astrid, vì Pal. Tôi tin, cũng

- 399 -
NHẬT PHI

như Pal vậy, rằng sẽ tới lúc Astrid sẽ lại cần tới chúng ta”.
“Nhưng còn ông thì sao? Em không muốn để ông lại đây một
mình, ông cần một ai đó, em biết mà, ông sẽ rất cô đơn. Ngừng một
chút, rồi em nói thêm, em cũng sẽ rất cô đơn. Vậy hãy bỏ lại nỗi cô
đơn khi nào em có thể. Tôi sẽ ở lại đây, chờ tới ngày đó, ít ra tôi vẫn
còn có rượu, cả một kho, vậy nên đừng lo cho tôi. Em vào kho, lấy
cho Gin tất cả số chai rượu em có thể ôm được trong tay, em mong
rằng chừng đó sẽ đủ cho tới khi có ai đó khác đến hành lang. Rồi em
lên tàu, và tới đây, ga cuối”.
Khi Diễm kể xong thì đàn chim đã thức giấc, chúng nhất loạt
tung mình lên và rời khỏi khu rừng, bay về phía rặng núi tuyết. Một
thẻo ánh sáng len qua lớp mây đen, vừa đủ cho chúng tôi biết rằng
ngày đã sang trên Tháp cổ. Một ngày mai cho Thành phố Thủy tinh
và một ngày hôm qua khác nữa cho Thị trấn Mùa đông. Tất cả bắt
đầu từ Hành lang Ghi nhớ, nơi không có ngày qua.

- 400 -
Thị trấn mùa đông

SÁCH Ở TẦNG CAO NHẤT

V ào buổi sáng, ít nhất là buổi sáng ở một nơi nào đó khác,


khi bầy chim đã rời đi hết, chúng tôi bắt đầu lau sàn bốn
tầng trên của Tháp cổ. Diễm nói nàng vẫn làm điều này một mình
trong suốt thời gian qua. Tôi đề nghị được giúp, và nàng đồng ý, giao
cho tôi tấm khăn duy nhất và ngồi xuống băng ghế ở mỗi tầng tháp
tôi lau tới. Sàn nhà sạch sẽ và khô ráo, nhưng Diễm nói rằng cơn mưa
triền miên này sẽ chẳng mấy chốc khiến sàn nhà đâm ra ẩm ướt đến
không thể chịu nổi, nên nàng vẫn cứ lau nhà hàng ngày. Hai bề mặt
khô mịn im lặng chà lên nhau, nếu như có một âm thanh nào được
tạo nên từ sự tiếp xúc đó, tôi hình dung đó sẽ là tiếng một con thú
đang rên rừ rừ khoan khoái khi được chải lông.
“Ba tầng dưới là sách được gửi tới từ Thị trấn Mùa đông”, nàng
nói khi chúng tôi đã lau tới tầng kế cuối. “Ông muốn đọc gì thì cứ
bảo em. Không, đúng ra là ông cần phải bảo em, vì ông không thể tự
lấy sách ở đó xuống được. Kahn nói chỉ em mới được phép lấy sách
từ trên giá xuống ở ba tầng này”.
“Còn sách ở tầng trên cùng thì sao?”.
“Tháp cổ giống như được xây từ trên xuống vậy”, nàng đáp.
“Sách ở tầng cao nhất là những cuốn đã có ở đây từ trước khi em tới.
Ông cứ thoải mái lấy xuống đọc, rồi trả lại đúng chỗ là được”.
Rồi nàng nói thêm. “Phần lớn thời gian em ở trên tầng cao

- 401 -
NHẬT PHI

nhất, vì em thích những cuốn sách đó nhất. Ở cạnh chúng cho em


cảm giác bình yên, và tự do. Ngay cả khi em cứ ở lại như mắc kẹt giữa
cơn mưa này”.
“Em đã đọc tất cả sách ở đây ư?”.
“Tất cả”, nàng đáp. “Và nhiều hơn một lần với nhiều cuốn. Sau
cùng thì em cũng không có việc gì khác để làm”.
“Ở đây có cuốn sách nào được gửi tới từ Thành phố Thủy tinh
không?”. Tôi hỏi khi chúng tôi cuối cùng đã lau xong bốn tầng lầu.
“Em e rằng không”. Nàng lắc đầu.
“Tôi cũng đoán vậy”.
“Ông không biết em đã từng chờ đợi điều ấy như thế nào đâu. Em
muốn biết về Pal và thành phố mà ông ấy xây dựng. Nhưng rốt cuộc thì
em đã không nhận được gì từ Pal cả, một dòng thư cũng không”.
“Pal, thị trưởng đầu tiên của Thành phố Thủy tinh… Tôi nghĩ
tôi đã gặp ông ấy rồi, bằng cách này hay cách khác”.
“Ông đã từng gặp Pal ư? Ông ấy có khỏe không?”.
“Tôi không chắc nữa”, tôi bật cười. “Pal không bao giờ thực sự là
Pal trước mắt tôi. Khi thì ông là một con bọ đen khổng lồ, khi thì ông
lại là một tay họa sĩ già trên đường phố, tự xưng là Rây, ông ấy cũng
có thể là một con thằn lằn trong bóng tối của đường cống ngầm hay
con quạ gáy xám luôn xuất hiện mỗi khi tôi vô hướng. Nhưng nếu có
gì hợp lí nhất để mô tả ông, dù tôi cũng không còn biết thế nào là hợp
lí nữa, thì tôi nghĩ là thứ này”.
Tôi lấy từ trong túi ra tấm mặt nạ Quỷ vương, và Diễm thốt lên
một tiếng kêu không rõ là bất ngờ hay thích thú. Nàng đón lấy tấm
mặt nạ từ tay tôi, ngắm nghía nó hồi lâu.
“Đẹp quá, rất tinh xảo”. Nàng nhận xét. “Nhưng hình như nó
thiếu cái gì đó thì phải…”.
“Cặp sừng”, tôi đáp, lấy ra khẩu súng lục ổ xoay. “Mà tôi tin rằng
do thứ này gây nên”.

- 402 -
Thị trấn mùa đông
Tôi kể vắn tắt cho nàng kỳ truyện kể thứ hai mà tôi được nghe
qua radio ở thị trấn, về cuộc đối đầu sau cuối giữa người hùng và Quỷ
vương tại trang viên Jigokuhen và bức bình phong cùng tên được
miêu tả là “thần diệu”. Diễm lắng nghe chăm chú, cặp mắt nàng sáng
lên khi tôi nói tới bức bình phong. Nàng nở một nụ cười mỏng manh
khi tôi kể xong.
“Giống, giống lắm. Em nghe như chính giọng của Pal trong lời
của Quỷ vương đó vậy”.
“Theo một nghĩa nào đó thì Quỷ vương đã chết”, tôi nói. “Và
theo một nghĩa khác, thực thể hơn, tường minh hơn, tôi nghĩ Pal cũng
không thể còn sống được nữa. Rất nhiều nhiệm kỳ thị trưởng đã trôi
qua trên Thành phố Thủy tinh, nơi đã từng dung chứa sự chết”.
“Em cũng nghĩ vậy”, Diễm thở dài. “Con người luôn phải chọn
một điều gì đó để đánh đổi. Astrid cũng vậy, Kahn cũng vậy, và Pal
cũng vậy”.
Chúng tôi cùng ngồi im lặng một lúc. Hai cái chết được nhắc
đến dường như là quá u ám, ngay cả trong một ngày mưa. Diễm
làm một cử chỉ ra hiệu mượn khẩu súng đang đặt trên mặt ghế giữa
chúng tôi, và tôi gật đầu. Nàng cầm nó lên, xem xét thật kỹ từ trong
ra ngoài. Khi mở ổ đạn ra và nhìn vào trong hai ô trống và bốn viên
đạn được nạp, nàng chau mày trong một giây rồi đóng nó lại.
“Vì sao ông lại kể về bức bình phong?”. Nàng hỏi khi đặt khẩu
súng xuống. “Nó có vẻ chỉ là một chi tiết râu ria trong một câu chuyện
như vậy”.
“Tôi cũng không biết nữa”. Tôi thành thật đáp. “Tôi có cảm giác
đó là một chi tiết quan trọng, vì cái cách nó được kể trên đài. Và như
ông ấy đã nói, Quỷ vương ngự ở chốn địa ngục là một điều hợp lí, vậy
nên tôi không nghĩ có thể nói về cái này mà thiếu cái kia”.
“Ông nói đúng”. Nàng nói, vẻ thông hiểu. “Bức bình phong đã

- 403 -
NHẬT PHI

ở đó từ ngày đầu tiên, em biết đến nó gần như cùng lúc quen biết Pal.
Em nghĩ bức bình phong chính là nguyên nhân ông ấy muốn tự coi
mình là Quỷ vương”.
“Em biết đến bức bình phong ấy ư?”.
Diễm gật đầu rồi đứng dậy tiến về phía giá sách. Nàng lấy xuống
và mở ra một cuốn sách dày, bọc da mềm màu đỏ. Nàng vừa lật trang
rất nhanh, như không cần đọc tới một chữ, vừa quay trở lại chỗ tôi.
Trang sách mà nàng chìa ra cho tôi có dòng tựa chính là tên bức bình
phong, “Jigokuhen” - Địa ngục trước mắt.
Đó là câu chuyện về một vị họa sư làm việc trong phủ lãnh
chúa. Vị lãnh chúa, được miêu tả như một người chủ đáng kính nhất
mực, cảm thấy bị xúc phạm bởi con gái tay họa sư, đã yêu cầu ông
này phải thực hiện một bức họa về cảnh địa ngục với đầy đủ những
kinh hoàng, thống khổ của cõi người. Tay họa sư, với cả nỗi e sợ
thượng quyền lẫn niềm phấn khích của một tác gia, chấp thuận và
lao vào công trình ấy. Những ngày sau đó, người ta thường bắt gặp
các đệ tử của tay họa sư hoảng hốt lao ra từ trong phòng của ông, và
người đàn ông chỉ gật gù thích thú. Cuối cùng, tay họa sư yêu cầu
lãnh chúa chuẩn bị cho ông một cỗ xe ngựa và một cô gái cho điểm
nhấn cuối cùng và vĩ đại nhất trong bức họa của ông. Và bức họa
được hoàn thành, như tôi đã biết qua kỳ truyện kể về Quỷ vương ở
trang viên kia, với đích thực đầy đủ hết những thống khổ hiển hiện
nơi gương mặt mỹ nhân trên cỗ xe ngựa rực lửa, gương mặt người
con gái của chính tay họa sư.
Câu chuyện được kể bằng một giọng bình thản, thậm chí là
thành kính, lại đang khiến tôi chấn động dữ dội. Tôi nghe thân mình
run rẩy. Thoáng chốc, cuốn sách trên tay tôi trở nên giống một cái
miệng đen ngòm đang ngoác ra cười. Bàn tay tôi thoắt tê dại, mắt
nhòe đi.

- 404 -
Thị trấn mùa đông
“Camus…”.
Tôi nuốt khan, ngước lên tìm Diễm. Nàng im lặng mỉm cười
khi nhìn tôi, như khích lệ tôi nói lên gì đó.
“Điều này… là thật ư?”. Và tôi nói. “Không thể nào là thật được”.
“Thật hay không ư?”. Nàng hỏi lại. “Điều đó quan trọng với ông
đến vậy sao? Tại sao tất cả những gì chúng ta biết lại phải là thật chứ?
Em chỉ biết điều này thôi, Rei à, rằng những gì ông đang cảm thấy
lúc này, cũng như em đã trải qua khi lần đầu đọc câu chuyện này, là
thật. Những thán phục, những ghê tởm, những hoài nghi mới trỗi
dậy, những xác tín vừa sụp đổ, hết thảy đều là thật”.
Tôi im lặng.
“Với em, nhiêu đó là đủ. Hơn cả câu hỏi tồn tại hay không tồn
tại”. Nàng nói thêm, rồi đứng dậy. “Còn nếu ông muốn biết những gì
đã thực sự diễn ra, tường minh, chân xác như người ta vẫn biết, thì
em cũng chẳng khó khăn gì mà cho ông. Quan trọng là ông có muốn
biết hay không thôi”.
“Tôi muốn”. Tôi thều thào đáp. “Hãy cho tôi một sự thật”.

- 405 -
NHẬT PHI

SỰ THẬT

“Đ ọc tiếp đi, Rei. Rồi ông sẽ nhận ra”. Diễm nói với tôi
như thế, trước khi một lần nữa đi xuống dưới, để tôi
lại một mình trong tầng mái tháp. Mưa vẫn đang rơi, mây mù vẫn
cứ phủ kín nền trời, nhưng có điều gì đó nơi buổi chạng vạng khôn
cùng này cho tôi biết rằng thời gian vẫn đang chảy trôi. Nhiều hơn là
bóng tối, nhiều hơn là tiếng mưa rơi để trở nên quen thuộc trong tai
tôi. Căn gác được thắp sáng bằng duy nhất một bóng đèn tròn không
chụp trên trần, dường như đóng cả vai trò của một lò sưởi. Nơi này
tĩnh tại và ấm áp, nhưng lòng tôi nổi lên nỗi bão giông. Tôi làm theo
lời nàng, lật sang trang kế tiếp của cuốn sách bọc da, ngón tay tôi chà
lên một mặt nhẵn và một mặt sần của tờ giấy. Chương sách kế tiếp…

“Người đẹp say ngủ


hay Nhật ký của kẻ tỉnh thức”

Em đã thay đổi. Tôi đã luôn ở bên em trong bóng tối, để rồi khi
ánh sáng trở lại với em cũng là lúc tôi đón lấy hết phần bóng tối vào
cuộc đời mình.
“Anh à”, tay em tìm tay tôi, và tôi vội vã lại bên giường đón lấy
bàn tay nhỏ nhắn ấy, “ở đây yên tĩnh quá anh nhỉ?”.
“Ừ, bác sĩ nói tốt nhất em nên tránh xa khói bụi và các mầm
bệnh, nên anh không dám mở cửa sổ”.

- 406 -
Thị trấn mùa đông
“A, phòng này có cửa sổ hả anh?”. Em nói, rồi cười khúc khích.
“Phải rồi, phòng nào mà chẳng phải có cửa sổ. Bên ngoài ấy là gì
hả anh?”.
Tôi ngước lên. Phải, ô cửa sổ kính khung gỗ ở trước mặt tôi, sát
bên giường em, nhìn sang bức tường xám của tòa nhà bên cạnh. Một
khe hở giữa hai bức tường đón lấy một chút ánh sáng và một chút
gió nếu như cửa mở. Nhưng ngoài ra thì không gì cả. Chỉ là một bức
tường xám nham nhở.
“Cảnh bên ngoài đẹp lắm em ạ”, tôi nói, “phòng mình nhìn ra
sân chơi của khu điều dưỡng. Có thảm cỏ này, nhiều cây xanh và đồ
chơi cho tụi nhỏ”.
“Ôi thích quá!”. Em thốt lên. “Có đông bọn trẻ không hả anh?
Anh tả thêm cho em nghe đi”.
“Có cầu trượt, có bập bênh, có cả xích đu nữa. Bọn nhóc cũng
đông lắm, nhưng em biết sao không? Mấy thứ đồ chơi cứ như là ế cả.
Có vẻ bọn nhóc quyết định là chơi cùng nhau các trò của riêng tụi nó
thì sẽ vui hơn là chúi vào mấy thứ đồ chơi nhựa. Có mấy đứa đang
xây lâu đài cát, à ừ, có một hố cát ở giữa sân nữa. Ừ, hai đứa bé gái và
một đứa bé trai. Còn lại thì có năm sáu đứa đang chơi trốn tìm. Một
thằng cu oẳn tù tì thua nên phải đi tìm, nó đang úp mặt vào cây đếm
kìa…”.
“Trên sân rộng thì tụi nhỏ trốn đi đâu được anh nhỉ?”.
“À, anh quên kể, trên sân chơi có nhiều cây bụi lắm, tụi nhỏ có
thể trốn vào đó. Có cả mấy cái nhà ống nhựa nữa, có hai đứa đang
giành chỗ trốn đó kìa. Em nghĩ xem, thằng cu chui vào một bên ống
thì đứa trốn có thể chạy ra từ cửa kia để về đích. Em cứ chờ mà xem.
Thể nào lát nữa thằng cu đi tìm cũng chui vào ống rồi chui ra tay
không cho xem”.
“Vui quá! Lâu lắm rồi em không chơi trốn tìm đấy”.

- 407 -
NHẬT PHI

“Ráng lên em, rồi em cũng sẽ được chơi trốn tìm mà”.
“Người lớn thì có được chơi với tụi nhỏ không nhỉ?”. Em hỏi,
giọng ưu tư. “Ngoài đó có người lớn không anh?”.
“Có chứ em! Có các cô điều dưỡng, với mấy vị phụ huynh. Họ
ngồi trên ghế đá xem tụi nhỏ chơi. À, có một cô kia đang dắt con gái
đi dạo nữa. Đi dạo ở đây sẽ thư giãn lắm. Họ đang nhìn trời ngắm
mây gì đó anh không biết nữa”.
“Em cũng mong có thể sớm ra ngoài ngắm cảnh”.
Em nói, rồi im lặng một hồi lâu. Tôi tưởng rằng em đã ngủ và
định xuống quầy căng tin tồi tàn bên dưới mua nước uống thì em lại
lên tiếng.
“Anh này, anh nghĩ vì sao tụi nhóc lại ở đây nhỉ?”.
“Anh cũng không biết nữa, chắc là học hành căng thẳng quá
phải vào đây để tĩnh dưỡng chăng?”. Tôi vội nói thêm. “À em này, ông
chủ cửa hàng mà mình ký gửi ấy, ông ấy mới gọi anh bảo là rèm bán
chạy lắm. Khách hàng ai cũng ngạc nhiên khi biết là vải dệt tay, lại là
do…”.
Tôi ngừng lại, tôi biết mình đã nói quá nhiều. Em cựa mình, cố
gắng cười với tôi.
“Vâng, thế thì tốt quá rồi”.
“Ông ấy nói rất muốn hợp tác với mình lâu dài. Sau này mình
sẽ không phải lo nữa…”.
“Em không biết nữa”, em hờ hững cắt lời tôi. “Em nghĩ phẫu
thuật xong em sẽ tìm việc khác. Em không muốn dệt nữa”.
“Sao vậy em?”.
“Em cảm thấy mệt mỏi, mệt mỏi với việc phải ngồi một chỗ, lần
mò mấy cuộn chỉ mà em phải chọn theo trí nhớ, mệt mỏi với tiếng
khung cửi đều đều”. Em nói, nhỏ nhẹ nhưng gay gắt hơn bất kỳ điều
gì tôi từng nghe từ em. “Phẫu thuật xong em sẽ lại có thể làm việc

- 408 -
Thị trấn mùa đông
như mọi người rồi. Với cả… anh nghĩ xem. Rèm cửa không phải để
ngăn ánh sáng sao? Em không muốn làm điều gì ngăn em khỏi ánh
sáng nữa”.
“Anh hiểu rồi”, tôi đáp, lòng thoắt chùng xuống, nặng nề. Em
nói đúng, tôi không thể yêu cầu em tiếp tục kéo dài phần đời này nữa,
có điều… “Anh sẽ bảo lại với ông ấy. Em cứ yên tâm nghỉ ngơi đi”.
Tôi mơ hồ cảm thấy em đang ngày một xa tôi, hay đúng hơn,
càng gần tới ngày phẫu thuật, em càng xa dần con người của mình.
Em dường như đang chuẩn bị cho một cuộc đời mới bằng cách lần
lượt chối bỏ những điều đã gắn bó với em nhiều năm qua. Em vẫn
ở đó, bàn tay vẫn ấm nóng mềm mại dưới lớp chăn trắng mỗi khi
tôi lén luồn vào đó nắm tay em. Nhưng trong những cơn mơ của
những ngày này, em dường như đang muốn trôi ra khỏi tôi. Tôi tự
nhủ mình rằng đó chỉ là nỗi bất an trong tưởng tượng của riêng tôi
mà thôi, rằng em là em, chứ không phải là người con gái trong mong
muốn của tôi. Nhưng nỗi bất an cứ lớn dần, quẫy đạp trong ổ bụng
tôi, không cho tôi đi vào giấc ngủ trong đêm.
“Anh à, anh có ở đó không?”.
“Anh đây”, tôi giật mình khỏi cơn gà gật vì thiếu ngủ. “Có
chuyện gì vậy em?”.
“Anh đang làm gì vậy?”.
“Anh đang đọc sách”, tôi nói dối, để cho em an tâm.
“Sách gì vậy anh?”.
“Tiểu thuyết ‘Người đẹp say ngủ’ em à”, tôi bịa đại ra một cái tên
mình từng nghe loáng thoáng đâu đó.
“Tên sách nghe hay quá. Nó nói về gì hả anh?”.
“Truyện này kể về một cô gái đã ngủ say rất lâu, tới vài năm
trời”, tôi vừa nói vừa nghĩ. “Người thân không thể đánh thức cô dậy,
nhưng cũng không dám coi là cô đã chết, nhất là khi cô luôn mỉm

- 409 -
NHẬT PHI

cười khi ngủ. Họ đưa cô đi khám, nhưng không phát hiện được gì.
Các bác sĩ nói cô giống như đang trong một giấc ngủ bình thường.
Cuối cùng họ mời một nhà ngoại cảm trẻ tới để tìm hiểu, như một
giải pháp cuối cùng. Và chàng trai này liền dùng năng lực để đi vào
tiềm thức của cô gái, khám phá giấc mơ của cô…”.
“Ôi hay quá! Anh đọc cho em nghe một đoạn đi”.
Tôi nuốt nước miếng, ngẫm nghĩ mà làm ra bộ đang lật trang.
Rồi tôi đọc, từ hình dung của chính mình về câu chuyện vừa bịa ra.
“Mở mắt ra, tôi thấy mình đang đứng nơi một con phố lạ.
Không đèn đường, con phố được soi sáng từng góc nhỏ bởi những
nguồn sáng không tên. Chúng cứ ở đó khi tôi thử bước đi, như thể
cảnh trí này mới là thứ đang bị cuộn ngược về sau. Một trong số ấy
soi lên riêng tôi, như một đặc quyền trên sân khấu của kép chính.
Nhưng ánh sáng ấy sao mà yếu ớt, le lói, chỉ vừa đủ cái bóng của tôi
mà thôi. Những nguồn sáng khác kể cũng quan trọng hơn, chúng rọi
lên cảnh vật một thứ ánh sáng vàng mịn, làm dày lên những đường
nét đang bao lấy từng mảng màu. Góc phố nhỏ bé cô đơn với những
căn nhà cũng nhỏ tựa vào nhau, những mái ngói đỏ quạch, những
bức tường rêu phong. Bình yên quá, mà cũng u hoài quá! Cảm giác
như người ta sẽ không thể xẵng giọng, không thể cười cợt, không thể
vội vã, không thể vui sướng hay tuyệt vọng trong thế giới này. Chỉ có
thể lê dài những bước bất định, thì thầm lời kinh nguyện, hát khe khẽ
một vài nốt thâm trầm mà ôm trong lòng một nỗi nhớ trong nỗi nhớ,
nhớ một điều chưa từng biết tới, nhớ một điều chưa bao giờ xa. Nỗi
nhớ cứ dài mãi dài mãi ra, sâu hun hút như con đường phía trước. Và
từ màn đêm nơi cuối con đường, nàng bước đến…”.

Tôi dừng đọc. Hình như tôi biết chương sách này nói về ai. Bao
nhiêu trong những điều này là thực? Và rốt cuộc thì người ấy nằm ở

- 410 -
Thị trấn mùa đông
hiện thực nào trong đó? Tôi vừa muốn đọc tiếp những chương sách
khác, vừa sợ những gì mình có thể đọc được. Tôi sợ rằng mình, và tất
cả những người khác, đã nhầm lẫn. Một sự nhầm lẫn được lặp đi lặp
lại sẽ lấn át sự thật, và trở thành sự thật. Có ai đã nói với tôi như thế.
Nhưng lẽ tồn tại cũng có thể là một nhầm lẫn ư?.
Tôi bắt chước Diễm, với tay qua lan can, đón lấy những hạt
mưa. Hạt mưa vỡ tan trên tay tôi, và chỉ có cái lạnh thoáng nhói lên
trong lòng bàn tay mới cho tôi biết dòng nước mưa này là thực.

- 411 -
NHẬT PHI

LỜI XƯNG TỘI

T hưa cha, con là kẻ có tội. Tháng sau hôn lễ của con sẽ được
cử hành, không, không phải trong thánh đường này, thưa
cha. Con là kẻ đã quay lưng lại với Thiên Chúa, chỗ dành cho con sau
khi chết là hỏa ngục. Và điều đó cũng không còn quan trọng nữa, vì
tội lỗi của con cũng đã quá đủ để con không thể lên nước Trời.
Nhiều ngày trước, con đã gặp chị ta, đúng hơn là con đã tìm chị
ta. Ngay cả giữa khung cảnh nhốn nháo của buổi chợ chiều, ngay cả
với một bộ đồ ngủ quê kệch, ngay cả với những nếp nhăn quanh đôi
mắt trũng sâu mỏi mệt, con vẫn thấy đó là một người phụ nữ đẹp.
Nhìn chị ta vào lúc này, con vẫn hoàn toàn hiểu được từ đâu mà anh
si mê chị từ thuở thanh niên. Con ngưỡng mộ, nhưng hơn hết, con
ganh tị với chị ta. Con thấy được một phiên bản quá khứ của chị ta,
trẻ trung như con lúc này, nhưng xinh đẹp và thiện lương hơn nhiều
lần. Con thấy được chính mình ở tuổi đó, tàn tạ, xấu xí và cay độc,
khô héo cả thể xác lẫn tâm hồn. Nếu chị ta ý thức được những điều
đã thực sự xảy ra, ý thức được cuộc đời huyễn hoặc mà chị đã sống
suốt mười mấy năm qua, thì liệu chị còn có thể giữ được sức sống ấy
hay không? Con muốn biết, và con quyết định thử.
“Chào chị”, con đến trước mặt chị ta, như một người phụ nữ
tình cờ gặp một người phụ nữ khác trong chợ. “Vâng, chào… cô”. Chị
ta e dè đáp, chừng như hổ thẹn với bộ dạng của chính mình, trước
con, chỉn chu và tươm tất, giày cao gót và mini jupe. Con tự giới

- 412 -
Thị trấn mùa đông
thiệu mình là đồng nghiệp của anh và đã từng cùng một nhóm đồng
nghiệp khác tới dùng bữa ở nhà chị. Đó chỉ là một nửa sự thật. Con
chưa từng xuất hiện trước mặt chị, con không được phép. Chị ta tỏ vẻ
ái ngại chân thành vì không nhận ra con, rối rít xin lỗi. Con xua tay,
cười, nói đó là vì con đơn giản đã chìm khuất trong nhóm người đó.
Mấy câu thăm hỏi khách sáo, rồi con dấn tới.
“Bé nhà mình năm nay chuyển cấp đấy chị nhỉ?”. Con hỏi, và
gương mặt chị ta sững lại trong thoáng chốc, như chưa thể nhớ ra
ngay, hoặc không ngờ có người sẽ nhắc đến con gái trước mặt chị.
“Anh nhà vẫn kể về bé ở công ty”, con nói thêm. Điều đó có vẻ đã
nhấc được bóng tối phủ trên ánh mắt chị.
“Ừ, chị cũng lo lắm. Con bé thích đọc sách hơn là học. Chắc
cho nó vào trường công thôi cô ạ”.
“Đọc sách cũng tốt chứ chị. Nhà mình có điều kiện thì cho
cháu vào trường quốc tế cũng được, em thấy gần đây cũng có trường
tốt mà”.
Chị ta gật gù ghi nhận rồi nói cần phải về trước. Phải rồi, hôm
đó là ngày chị có hẹn với bác sĩ.
Cũng có những ngày chị ra ngoài, vào những buổi chiều không
có hẹn với bác sĩ. Chị đi tới ngôi trường mà con đã nói, đứng đó hồi
lâu, nhìn qua cổng trường, tần ngần như muốn bước vào mà không
dám. Có những thoáng rạng rỡ trên gương mặt ấy, như thể chị đã tìm
ra điều gì đó, đã quyết định điều gì đó. Con nghĩ chị đã nghe theo lời
khuyên của con, và con giật mình thấy mình có gì như là vui vì điều
đó. Dù cũng chẳng để làm gì.
Những buổi trị liệu hàng tuần của chị đã kéo dài hơn mười
năm nay, một nỗ lực thể hiện trách nhiệm to lớn từ anh. Cũng chính
ý thức trách nhiệm ấy đã khiến con bắt đầu nhìn nhận mối quan hệ
với anh nhiều hơn là một cuộc tình vụng trộm chóng vánh nơi công

- 413 -
NHẬT PHI

sở. Con vốn không mơ mộng hay kỳ vọng gì ở một mối quan hệ như
thế, con đủ lớn và tỉnh táo để biết rằng những lời đầu môi chót lưỡi
chỉ là câu chuyện của những phút giây mê mải, chỉ để cảm động nhất
thời mà thôi. Nhưng anh không bao giờ nói những lời như vậy, anh
cuồng nhiệt, nhưng cũng lặng lẽ. Vậy nên con đã ngạc nhiên khi
anh nói rằng muốn chúng con kết hôn. Con hạnh phúc, và cùng lúc
nguyền rủa chính mình vì niềm hạnh phúc ấy. Con đã từng hài lòng
khi chỉ làm một kẻ thứ ba, nhưng giờ đây…
Thưa cha, con đã từng nghĩ hôn nhân là một điều phi lí. Một
người đàn ông và một người phụ nữ cam kết gắn bó cuộc đời với
nhau bằng một lời thề, bằng ý niệm về sự vĩnh cửu. Hình như chẳng
có gì hoang đường hơn thế. Ghép hai bản thể riêng biệt làm một và
coi đó là một điều hiển nhiên. Chẳng khác nào cố gắng biến hai quả
cam thành một bằng cách ép chúng thật mạnh vào nhau vậy, chỉ để
thu lại hai khối nát bấy không hình thù. Con đã từng cười khẩy vào
niềm hạnh phúc ngây thơ của những cô gái trẻ hơn, con ái ngại đến
gần như xót thương những ánh mắt người ta trao nhau trong một bộ
ảnh cưới, con lắc đầu, chép miệng, con an ủi, vỗ về những người bạn
đang bật khóc trước cuộc đổ vỡ, chỉ để giấu đi cái hả hê cay độc trong
mình. Con đã tưởng rằng mình là một kẻ thứ ba kiêu hãnh. Không
chỉ không xứng đáng với Chúa, có lẽ con còn không xứng đáng với
chính mình, theo nghĩa này hay nghĩa khác.
Không phải là trước khi vợ anh khỏi bệnh, anh nói. Anh muốn
làm hết trách nhiệm của một người chồng, một… người cha. Sau đó
cô ấy có thể tự lo cho mình. Con đồng ý, nghĩ rằng điều đó sẽ tốt cho
tất cả. Hoặc là con đã tự thuyết phục mình nghĩ thế.
Anh nói bệnh tình của chị đã có những chuyển biến tốt. Con
hiểu điều đó có nghĩa là chị mất nhiều thời gian hơn để tìm lại vẻ
thanh thản sau mỗi buổi trị liệu. Lần cuối con tìm đến nhà anh chị,

- 414 -
Thị trấn mùa đông
dừng xe ở bên kia đường mà nhìn chị tiễn bác sĩ ra cửa. Chị đứng đó
hồi lâu, ánh mắt thẫn thờ xa xăm, hay đúng hơn, chẳng có ánh mắt
nào nơi đôi mắt đang mở ấy cả. Đôi mắt đùng đục như đeo màng mắt
cá. Ngay cả khi người bác sĩ nhớ ra mình để quên đồ và quay lại, bước
ngang qua mặt chị để vào nhà. Chị vẫn mang đôi mắt như thế khi
tiễn ông ta lần thứ hai, giờ đã khoác lên mình một tấm áo vest xám.
Rồi chị quay trở vào nhà và bắt đầu làm cơm. Chốc chốc, chị dừng
khựng lại, bàn tay cầm dao hay muỗng run lẩy bẩy, chị hốt hoảng
nhìn quanh như tìm kiếm điều gì. Tới đó thì con biết mình không thể
nhìn điều này thêm nữa. Con phóng xe đi, cố gắng xua đi vẻ mặt thất
thần của người phụ nữ mà con đã bắt đầu coi như kẻ ngáng đường.
Càng tiến gần hơn tới tương lai mà anh hứa hẹn, con lại càng
cảm thấy sợ hãi. Không, con yêu anh, con hạnh phúc những khi cùng
anh ngồi bàn về đám cưới và cuộc sống sắp tới. Một gia đình, một
ngôi nhà, từ bao giờ con đã mộng mơ về những điều như thế. Nhưng
những gì anh sẽ bỏ lại sau lưng lại đang ám ảnh ngược lại con. Để
xây, thì phải phá, con tự nhủ mình như thế.
Sẽ thật ngu ngốc nếu nói rằng con đang thông cảm với chị ta.
Thế nhưng theo mỗi lần con nhìn vào gương mặt chị, vào ánh mắt
như thể mờ dần đều với mỗi buổi trị liệu, con lại nghe trong mình
dấy lên điều gì đó như là xót xa, nhưng không phải là cái thương
cảm thường tình mà người ta vẫn thường dành cho kẻ kém may mắn
hơn. Đó là nỗi đau không lời mà con và chị ta chia sẻ với nhau. Nói
theo một cách nào đó, con còn cảm thấy ganh tị với chị ta vì mối gắn
kết lớn lao bền chặt mà chị có được, sau ngần ấy năm chống chọi với
ngần ấy thế lực, cả tự nhiên lẫn cái vẫn được gọi là nhân văn. Còn về
con gái chị, con có thể nói ngay là con yêu cô bé, một thứ tình yêu
chới với, không điểm tựa. Con đã đem lòng yêu thương một người
mình chưa từng gặp, chỉ qua những lời kể của anh và ánh mắt của

- 415 -
NHẬT PHI

chị, một điều phi lí, nhưng chẳng phải chúng ta cũng yêu kính Chúa
bằng cùng một cách đó hay sao? Con biết cô bé sẽ không đời nào
chọn sống cùng cha ở phiên tòa li hôn. Cũng chẳng phải có vị thẩm
phán nào nghe được lời cô bé.
Một lần, con thấy chị ngồi chơi dương cầm, cỗ dương cầm đã
phủ bụi trong suốt nhiều năm, ngay khi chị nhận ra con gái mình
không có hứng thú đến thế với các nhạc cụ. Chị nói nó thích những
bài hát ru, và chỉ thế thôi, anh kể với con vậy, và cười bất nhẫn. Mới
đầu, chị ngồi lệch ở một bên chiếc ghế dài trước cỗ dương cầm, rồi
chừng như nhận ra chiếc ghế này đang nâng đỡ chỉ một người, chị
ngồi xích vào giữa ghế và tiếp tục chơi một hồi lâu. Đó là một ngày
trước buổi trị liệu cuối cùng.
Hôm nay anh sẽ nói chuyện với cô ấy, anh trở dậy trước con và
bắt đầu mặc đồ, có lẽ không phải là ở nhà. Vâng, con đáp, anh nên
đưa chị ấy ra ngoài, như thế sẽ dễ chịu hơn với cả hai người. Con nói
như một cái máy. Vẫn như một cái máy, con đáp lại cái hôn của anh,
lời yêu của anh. Khi con ngước lên, như vừa bừng tỉnh sau cơn mơ,
anh đã ra tới cửa, day tấm lưng trong tấm áo vest xám về phía con.
Con vươn tay ra như muốn níu anh lại, nhưng không một lời nào
thoát ra khỏi cổ họng con. Đó là buổi chiều vụng trộm cuối cùng.
Thưa cha, con là kẻ có tội. Con đã khiến một người đàn ông
quay lưng lại với gia đình, con đã gián tiếp đẩy một người phụ nữ cao
thượng vào bóng tối cô độc. Và hơn hết, con còn không biết điều gì
sẽ xảy ra với cô con gái nhỏ kia. Cô bé ấy giờ đã đi tới đâu rồi?

- 416 -
Thị trấn mùa đông

ĐẾN THỊ TRẤN MÙA ĐÔNG

D iễm à, có phải em đang muốn nói với tôi rằng ở cái thực
tại khác ấy, cái thực tại bên kia ấy, cô con gái nhỏ của
người đàn bà khốn khổ không hề tồn tại? Không, cô bé ấy có tồn tại
chứ, trong tâm tưởng, trong cuộc sống lẽ ra hết sức cô độc của người
mẹ, phải vậy không? Với người mẹ, trong ngần ấy năm chống đỡ với
chính hiện thực, cô con gái nhỏ của bà là thực, là điểm tựa, là tình
yêu thương của bà. Có thể với những con người khác ở thực tại ấy,
cô bé ấy đã không còn tồn tại, cô đã ra đi từ trước khi kịp cất tiếng
khóc đầu tiên, từ trước khi có thể mở mắt đón lấy ánh sáng đầu tiên.
Nhưng cô vẫn sống, vẫn lớn lên và học hỏi trong vòng tay mẹ, và
chừng nào mẹ cô còn tin vào điều đó thì cô bé vẫn ở đó. Thế rồi sau
buổi trị liệu cuối cùng, sau phán quyết của người cha, cô bé đơn giản
là không thể ở lại thực tại đó nữa. Cô phải đi.
Đến Thị trấn Mùa đông.
Cũng như chàng thanh niên tự biến mình thành ngọn đuốc
sống, cũng như cô gái đan rèm trong bóng tối, cũng như nàng
Thương Thương trong những đêm trăng tròn. Họ đã từng tồn tại, đã
từng là hiện thực. Đối với những người dân của miền quê một thời
ngùn ngụt lửa, đối với chính cô gái vẫn ở trong bóng tối ấy, và đối với
chàng thi sĩ không tên kia. Và ngay khi những con người ở thực tại
bên kia ấy quyết định rằng họ không còn tồn tại nữa, không thể tồn
tại nữa, họ sẽ phải đi.

- 417 -
NHẬT PHI

Đến Thị trấn Mùa đông.


Và còn rất nhiều những người khác nữa. Gia đình Nicolas,
những đứa trẻ hau háu nghe chuyện kể, những con người vội vàng
như chẳng kịp vào những buổi chiều tà… Tất cả bọn họ có phải đều
đã từng là một thực tại ở bên kia?
Nói tôi nghe, Diễm à, Thị trấn Mùa đông là một nơi như vậy
có phải không? Một nơi dung chứa những người như họ, một nơi
công bằng và bình đẳng, và bình yên tương đối sau tất cả những gì họ
đã trải qua ở chốn cũ. Những quy luật, những tiền định, những bất
biến, những vòng lặp, và củ cải đỏ và bánh mì đen giữ cho họ được
an toàn, giữ họ ở hiện tại. Để đổi lại, Thị trấn Mùa đông đòi hỏi ở họ
sự cống hiến và tuân thủ, Kahn đã nói với tôi như thế. Không ai hoài
nghi về điều đó, không ai ngoái lại quá lâu. Ký ức vẫn còn ở trong họ,
tôi biết điều đó, nhưng không phải là tất cả. Có những điều họ không
còn được biết nữa, không còn được giữ nữa. Chính là thứ mà Kahn
đã lấy ra từ lồng ngực họ để rồi gửi tới Tháp cổ này đây, phải vậy
không? Cái gọi là vật làm tin ấy, cái phần ý thức bị sỗ sàng xé toạc ra
ấy. Chính là “sự thật”, phải vậy không?
Và chỉ khi tách rời sự thật hay một nửa sự thật, Thị trấn Mùa
đông mới hoàn toàn trở thành đúng nghĩa của nó, theo đúng mục đích
của những người sáng lập. Thị trấn của những ảo tưởng bị chối bỏ.
Sẽ thế nào nếu như tôi mang nửa sự thật này trả về cho họ, hả
em? Nếu như toàn bộ lẽ tồn tại là một nhầm lẫn, thì sự thật sẽ mang
lại điều gì? Tôi phải thú nhận rằng một phần trong tôi muốn làm điều
đó, muốn chỉ vào mặt ngài thị trưởng mà nói rằng ông ta là một kẻ
dối trá, hết lần này tới lần khác, rằng hỡi toàn bộ cư dân của Thị trấn
Mùa đông, thị trấn này là một lời nói dối, và đây, đây là sự thật cho
các người. Nhưng tôi biết rằng khi những mảnh ghép được đặt vào
đúng chỗ, bức tranh toàn cảnh được hoàn tất cũng là lúc một điều

- 418 -
Thị trấn mùa đông
gì đó khác sẽ vỡ vụn. Kahn đã luôn đúng, còn tôi chỉ là một kẻ thách
thức ngông cuồng, một kẻ phá hoại ngay từ khi đặt chân lên thị trấn
của họ. Vậy thì tôi có thể làm gì cho Thị trấn Mùa đông đây? Khi mà
chính tôi còn không có lấy một sự thật nào được lấy ra. Diễm ơi, nói
tôi nghe, tôi không thuộc về nơi đó, phải vậy không? Tôi cũng không
thuộc về Thành phố Thủy tinh, Hành lang Ghi nhớ, cả Tháp cổ này,
có phải không? Có phải tôi cũng giống như Quỷ vương, không được
chào đón ở bất kỳ nơi nào cả?
Vậy thì tại sao tôi lại tới Thị trấn Mùa đông? Để ở cùng Ionah và
làm việc cùng Makoto. Để Viena có thể sinh ra. Phải rồi, có thể tôi đã
không biết mình tới Thị trấn Mùa đông với mục đích gì, nhưng tôi đã
rời khỏi đó với một nhiệm vụ. Có thể đó không phải là nơi tôi thuộc
về, không phải nơi tôi có thể quay lại, nhưng có những người đang
đợi tôi ở đó, và đó là quá đủ lí do để tôi tới đó một lần nữa.
Đến Thị trấn Mùa đông.
Điều đó còn quan trọng hơn cả sự thật của riêng tôi, quan trọng
hơn cả câu hỏi tôi là ai. Bởi vì tôi biết mà không cần em phải nói,
rằng không có một chương sách nào mang tên tôi ở đây cả, rằng bên
trong tôi kỳ thực là trống rỗng, đúng như cái tên tôi vậy. Và tôi phải
tự mình lấp đầy vào đó.
Bây giờ là lúc nào rồi, hả Diễm? Chừng nào thì đàn chim quay
trở lại? Hay ở đó, ngày hôm nay lại là một ngày oanh kích khác?

- 419 -
NHẬT PHI

KHÔNG PHẢI LÀ SỰ THẬT


VÀ KHÔNG PHẢI LÀ TẠM BIỆT

T heo một nghĩa nào đó, tôi có thể nói như thế về những gì
mình đọc được trong những cuốn sách ở tầng tháp cao
nhất. Những câu chuyện miên man như những dòng chảy sống động,
có thể chạy song song với sự thật, băng cắt sự thật, chờm lên sự thật,
nhưng không bao giờ trùng khớp với nó. Tất cả đều Camus, sớm hay
muộn rồi tôi cũng nhận ra, nhưng cùng lúc, lại dội vào tôi một cảm
thức hiện thực lớn lao, một sự thật bao trùm, đứng cao hơn cả những
gì đã diễn ra. Tôi đọc, và cùng lúc cảm giác như chính mình đang bị
đọc, như thể một bóng ma nào đang ngồi kế bên tôi, thì thầm vào
tai tôi, luồn những ngón tay dài với những cái móng đen kịt, nhọn
hoắt qua cổ áo tôi, mổ phanh lồng ngực tôi, lột ngược tôi từ trong ra
ngoài. Và cười khùng khục. Nó ngồi bên tôi từ cuốn này qua cuốn
khác, và tới một lúc nào đó, nó bắt đầu tồn tại như một thực thể mà
tôi coi như một gã bạn cũ, dù rằng mỗi lần ngẩng đầu lên khỏi trang
sách, tôi lại thấy nó mang một gương mặt khác nhau. Những gương
mặt vô danh, sợ hãi, dửng dưng, cay nghiệt, giễu nhại, thống khổ.
Một bộ sưu tập những mặt nạ nhân gian mà anh bạn bóng ma của tôi
cứ điềm nhiêm nhặt lên mà đeo lên với một nhịp điệu của riêng nó.
“Mày là ai?”. Tôi hỏi. “À không, phải nói mày là cái thứ gì mới
đúng”.
“Tôi là ông. Và ông cũng chính là tôi”. Nó đáp, nhăn nhở một
cái cười trắng ởn trên gương mặt đen đặc.

- 420 -
Thị trấn mùa đông
“Ồ không, chúng ta khác nhau chứ”.
“Tôi là không gì cả, và ông cũng vậy. Điều gì có thể phân biệt
giữa hai cái không cơ chứ?”.
“Không, tao tồn tại, còn mày thì không. Mày có thể là không gì
cả, nhưng tao là một cái gì đó khác. Mày bước ra từ những cuốn sách,
còn tao đến từ thành phố bên kia. Người ta nhìn thấy tao, nhưng chỉ
có tao nhìn thấy mày. Và quan trọng hơn hết, chúng ta đang đối thoại
với nhau, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể là một được”.
“Nơi này cũng không khác gì thành phố mà ông đã đi ra cả.
Người ta nhìn thấy ông mà không nhìn thấy tôi chỉ là vì người ta
muốn thế. Tôi là ông và ông là tôi và chúng ta là tất cả mọi người.
Ông nghĩ rằng ông khác họ ư? Ông chỉ đơn giản là kẻ may mắn có
được một lựa chọn mà thôi. Tôi mừng vì ông chọn đối thoại, với tôi,
với chính ông”.
“Mày là không gì cả, còn tao là tất cả. Hay tao là không gì cả và
mày là tất cả. Cũng không có gì khác nhau. Chúng ta là một nửa của
lẫn nhau. Chúng ta đã tìm thấy nhau, mày muốn nói vậy phải không?
Họ đã lạc mất một nửa của họ, họ đã lạc mất mày, còn tao tìm thấy
mày ở đây. Tao đã may mắn hơn họ”.
“Họ sợ hãi, còn tao bình tĩnh. Họ chối bỏ, còn tao đón nhận.
Họ lãng quên, còn tao nhớ. Họ sáng, tao tối. Và họ nghĩ rằng họ đã
có đủ, còn tao biết mình đang khuyết thiếu. Này, tao có ý này, mà
nếu mày chính là tao thì chẳng phải mày cũng đã nghĩ tới điều đó
rồi hay sao?”.
“Phải, tôi cũng vừa nghĩ tới việc đó”. Nó đáp, và cái hình thù
đen ngòm ấy biến trở lại thành một con quạ gáy xám. Con quạ chui
vào lồng ngực tôi, đánh rơi lại một sợi lông vũ màu đen ánh xanh.
“Đi gặp họ nào”.

- 421 -
NHẬT PHI

Một buổi chạng vạng nữa buông xuống trên tầng Tháp cổ, dù
rằng tôi vẫn luôn cảm giác nó chưa bao giờ rời khỏi đó. Đàn chim
đến và đi mỗi ngày, nhưng cơn mưa thì luôn còn lại đó. Không bao
giờ chỉ thuần tuý là ánh sáng hay bóng tối cả. Và giờ đây thì bản thân
tôi cũng đang là một chạng vạng rồi.
“Ông sẽ làm gì, hả Rei?”. Diễm hỏi tôi. “Với Thị trấn Mùa đông,
và với Thành phố Thủy tinh?”.
“Không gì cả”, tôi đáp. “Lựa chọn là ở họ. Tôi chỉ đơn giản cho
họ biết rằng họ có quyền lựa chọn. Rốt cuộc thì tìm lấy một câu hỏi
cũng quan trọng không kém nhặt ra một câu trả lời. Mà câu hỏi chưa
bao giờ chỉ là giữ, xây hay phá cả. Cũng như Alexandre và Rhodes,
cũng như Kahn và Pal, mọi đối lập sau cùng cũng đều lăn về một phía.
Khi thấy được động cơ của từng người, tôi cảm thấy thật khó mà ghét
bỏ bất kỳ ai, tất cả đều là đồng sự. Anh hùng hay Quỷ vương đều thực
hiện cùng một nhiệm vụ, từ hai đầu của hành trình mà thôi”.
“Vậy giờ thì ông là gì?”. Nàng nở nụ cười thông thái, lắc nhẹ tấm
mặt nạ và khẩu súng lục trên mỗi bên tay.
“Tôi là Rei, nghĩa là không gì cả”.
“Ồ, ông không thể nói thế được. Em đâu có để ông ra đi tay
không đâu nào”.
Đó là một cuộc trao đổi giữa tôi và Diễm. Tấm mặt nạ và khẩu
súng lục ổ xoay, đổi lấy bảy trong số những cuốn sách trên tầng cao
nhất. Chúng đã ở đó từ trước khi Diễm tới, và những gì viết trong đó
đều không có thật, nên nàng chấp nhận để tôi mang đi một số trong
đó. “Một số thôi, đủ để ông giữ chắc trên hai tay khi đi tàu”. Nàng
nói. “Hơn nữa, em vẫn muốn có thật nhiều sách ở đây. Đôi khi em
nghĩ những cuốn sách này đang làm cái việc mà Gin vẫn đang làm ở
Hành lang Ghi nhớ. Ở lại, đơn giản là ở lại thôi, và giữ cho ngọn tháp
đứng vững”.

- 422 -
Thị trấn mùa đông
Tôi đồng tình với nàng, chỉ một cuốn thôi có thể đã là quá đủ.
Có điều, bất kỳ con số nào thấp hơn “tất cả” cũng sẽ khiến tôi bối rối
trong việc chọn những gì mình buộc phải bỏ lại. Tôi dừng lại ở cuốn
sách thứ tám, đưa nó cho Diễm để nàng cất trở lại giá.
“Tới đây được rồi”, tôi nói với nàng. “Cuốn này nhắc tôi quá
nhiều về sự thật, nó quá gần sự thật. Nếu Makoto đọc được câu
chuyện này, cô bé sẽ buồn lắm”.
“Sao ông biết vậy?”.
“Bởi vì khi đó cô bé sẽ biết rằng người mà Matsu đợi sẽ không
bao giờ quay lại, mối cảm thông cô bé dành cho những người khác
luôn quá lớn so với sức chịu đựng của chính cô”.
“Em nghĩ con rắn vẫn luôn biết điều đó”, Diễm lắc đầu khe khẽ.
“Và nó chọn tiếp tục. Đợi chờ là toàn bộ sự tồn tại của nó, như chính
cái tên mà cô bé ấy đã đặt cho nó”.
“Ít ra thì giờ nó sẽ biết nó đang chờ đợi ở đâu”.

Tôi cởi áo vest, buộc nó lại thành một cái túi để giữ cho mấy
cuốn sách khỏi ướt mưa. Bảy cuốn sách, nếu có dịp tôi sẽ kể về chúng
đầy đủ hơn. Diễm tiễn tôi xuống tới chân Tháp cổ. Nàng dừng lại ở
bậc thang cuối cùng, cũng là bậc thang đầu tiên tôi đã bước lên ngày
hôm qua. Ngày hôm qua, hay đã là nhiều năm về trước? Tâm trí tôi
mềm nhừ với quá nhiều nhận thức mà thời gian không thôi không
thể nào mang lại được. Tôi nói với nàng tôi muốn lên tàu trước khi
trời tối, một cách nói ít nhiều ước lệ.
“Khi khởi hành từ Thị trấn Mùa đông, tôi tạm biệt Ionah, được
chỉ đường bởi Sofia và có Makoto làm bạn đồng hành”. Tôi nói trong
lúc mang giày. “Từ Hành lang Ghi nhớ, tôi và Makoto nói lời chào
và cảm ơn với Gingawa, khá là dài dòng, nếu em hỏi tôi. Thế rồi ở
Thành phố Thủy tinh, trong khi tất cả mọi người khác vẫn đang tìm
một cánh cửa, tôi chào người duy nhất tình cờ đứng trước tôi khi đó,

- 423 -
NHẬT PHI

ngăn cách bởi chính cánh cửa đó, rồi ra đi gấp gáp như thể trốn chạy
trong khi tôi hoàn toàn có thể tập hợp mọi người lại để nói gì đó tử
tế hơn. Và giờ thì tôi ở đây, dưới chân tòa tháp mà chỉ hơn một ngày
trước thôi tôi còn khát khao tìm đến, chuẩn bị rời đi một lần nữa mà
còn không có nhiều điều để nói. Thật kỳ lạ. Có phải là tôi cũng đang
trở nên vội vàng giống họ không?”.
“Điều đó có nghĩa là ông đã trở nên thông tuệ hơn”, Diễm đáp,
“đủ thông tuệ để hiểu rằng những diễn ngôn không còn quan trọng
nữa. Và rằng chẳng có khoảnh khắc nào là quá đặc biệt cho chúng cả”.
“Ngay cả lúc này ư?”.
“Mọi lúc”.
“Dù sao thì, Diễm ạ, tôi cũng cần cảm ơn em, vì những câu trả
lời, vì những sự thật và không phải sự thật. Và Tháp cổ, cũng đã tới
lúc nói lời tạm biệt”.
“Đừng vội, Rei”, Diễm mỉm cười, đặt một ngón tay lên môi tôi.
“Chúng ta còn chưa biết được ai mới phải nói lời cảm ơn. Và đừng
tạm biệt em. Em tin rằng chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau thôi”.
“Sớm ư? Sớm là khi nào?”.
“Ông biết mà, Rei, thời gian đó có thể không dài hơn một cái
chớp mắt”.
“Phải rồi, tôi đã trải qua chỉ một ngày ở đây mà ngỡ như đã cả
trăm năm qua rồi”.
“Và chẳng có gì đảm bảo thời gian ấy là cái này mà không phải
là cái kia cả. Không phải là mặt trời mọc rồi lặn, không phải là đàn
chim đến rồi đi. Cũng không phải là số trang sách mà ông đã đọc hay
những điều em và ông đã nói với nhau. Ông sẽ tìm thấy một tham
chiếu khác cho riêng mình, bởi vì thời gian ấy là của ông chứ không
của ai khác cả”.
Tôi hiểu nàng muốn nói về điều gì. Và tôi không thể chờ thêm
được.

- 424 -
3.14

Không đâu cả
NHẬT PHI

TRỞ LẠI THỊ TRẤN MÙA ĐÔNG

Đ oàn tàu Không số vẫn ở đó khi tôi quay trở vào ga. Hoặc
giả nó mới trở lại ga cuối sau một hay nhiều chuyến xuyên
tuyến đường sắt này. Lễ tân đợi tôi ở cửa, có gì đó khang khác nơi nụ
cười của anh ta. Nó thật hơn và người hơn, tôi nghĩ vậy. Anh ta cúi
chào tôi và đứng tránh đường mời tôi lên tàu.
“Tôi có cần phải chứng minh tư cách lên tàu của mình nữa
không?”. Tôi hỏi khi đã ngồi xuống ghế, đúng hàng ghế mà tôi đã
ngồi ở chuyến đi trước.
“Không, thưa ngài”, anh ta đáp. “Hôm nay chúng tôi mở cửa tự
do, tất cả mọi người đều có thể lên tàu. Có điều riêng trong ngày này,
chúng tôi xin phép không phục vụ đồ uống, thưa quý khách”.
“Vậy có nghĩa là tôi sẽ không gặp hai người kia trên chuyến tàu
này phải không?”.
“Hai người nào, thưa quý khách?”.
“Ồ, anh biết đấy, anh bạn mặc áo kaki màu hung chuyên nhận
yêu cầu đồ uống và cô tiếp viên mặc váy jupe đen. Họ đã phục vụ tôi
trên chuyến tàu ngày hôm qua”.
“Có lẽ ngài nhầm với một đoàn tàu khác chăng? Bởi vì tôi là
nhân viên phục vụ tàu duy nhất, đã từ nhiều năm rồi”.
Điều này kỳ thực không khiến tôi bất ngờ đến thế. Có quá
nhiều công việc hấp dẫn hơn là phục vụ trên một đoàn tàu vắng
khách, chưa cần biết đãi ngộ. Vả chăng, tôi nghĩ mình biết có thể tìm
họ ở đâu. Gặp họ nhiều hơn một lần cũng đã quá đủ với tôi rồi.

- 426 -
Thị trấn mùa đông
“Vậy xin hỏi quý khách muốn tới đâu?”.
“Lẽ ra tôi cần phải quay trở lại Thành phố Thủy tinh trước”, tôi
nói chậm rãi, mường tượng lại bức địa đồ vẽ trên mặt nước mà tôi
đã được thấy cả trăm năm trước, “nhưng này, tàu sẽ đi qua ga ở Thị
trấn Mùa đông trước khi tới ga cuối là Thành phố Thủy tinh, có
phải không?”.
“Đúng vậy thưa ngài”.
“Vậy hãy cho tôi xuống Thị trấn Mùa đông”.
Anh ta cúi chào rồi đi về phía đầu toa, nhưng tôi chợt nhớ ra
một điều.
“À, khoan đã”. Tôi gọi, và anh ta đứng lại.
“Vâng thưa ngài?”.
“Tên tôi là Rei, còn anh?”.
“Điều đó không quan trọng lắm”, anh ta đáp. “Nhưng quý khách
có thể gọi tôi là Poe”.
“Poe này, tôi nghĩ anh nên tuyển thêm một vài người nữa làm
việc trên tàu. Sắp tới sẽ đông khách lắm đấy”.
“Vâng, cảm ơn ngài, tôi xin tuỳ nghi định liệu”. Một vài bước
nữa, rồi tới lượt anh ta quay lại phía tôi. “Còn một điều nữa, thưa
ngài. Ga cuối phía bên kia không phải là Thành phố Thủy tinh đâu ạ”.
Anh ta cúi chào một lần nữa rồi đi khuất hẳn. Tàu bắt đầu
chuyển bánh.

Lần này bên ngoài cửa sổ tàu chỉ là bóng tối của đường hầm.
Ánh đèn trong toa tàu rọi lên lớp kính thủy tinh, biến nó thành một
tấm gương soi. Và từ trong đó, không còn là Quỷ vương nữa, tôi thấy
chính mình, với hàm râu quai nón và đôi mắt trũng sâu. Tôi không
giật mình, không hoảng hốt, ngay cả khi tôi biết đây đã là một phiên
bản khác của gương mặt mà tôi chưa bao giờ cố gắng ghi nhớ. Thời

- 427 -
NHẬT PHI

gian đích thực đã trôi trên tôi, như thể năm tháng đã quay về đòi lại
tất cả những gì tôi thiếu bấy lâu, kể từ cái ngày tôi trần trụi rớt xuống
Thị trấn Mùa đông. Nhưng điều này sẽ không xảy ra, tôi nghĩ, nếu
như tôi vẫn cứ ở lại thị trấn, sống tiếp những ngày hôm qua như tất
cả mọi người khác. Tôi đã rời khỏi một chốn công bằng để đón nhận
một lẽ công bằng khác, lớn lao hơn. Đơn giản là những ý niệm khác
nhau về lẽ công bằng.
Rồi tôi chợt nghĩ, tôi đã chối bỏ một quy luật để trở thành một
phần của quy luật lớn hơn, với tư cách một kẻ không thuộc về Thị
trấn Mùa đông, nhưng tôi không phải là người duy nhất… Tôi đã già
đi, vậy thì… Liệu Viena đã đủ lớn để biết nép sau lưng mẹ khi lần
đầu gặp cha chưa? Hay con thậm chí còn quá lớn để gượng gạo chào
rồi quay đi? Hay con đã lớn tới mức có thể nghe hết sự thật từ mẹ và
sẽ không thể nào coi ta là cha nữa? Dường như chính mối quan hoài
ấy mới là điều khiến tôi quyết định bắt tàu trở lại Thị trấn Mùa đông
trước hết. Dù chỉ một phút, tôi cũng muốn một lần nữa có thể bế
Viena trên tay, với tư cách là cha bé.

Tôi chong mắt thức trên cả chuyến tàu, chốc chốc lại cầm lên
một trong số bảy cuốn sách, lật ra một trang bất kỳ và đọc cho tới
khúc quanh đường ray kế tiếp. Sau một khoảng thời gian không đếm
được, khi tôi lật lại những trang đầu một cuốn sách và đọc tới lần
thứ bao nhiêu không biết lời tự thú về cuộc đời đầy hổ thẹn của một
người đàn ông nọ, tàu bắt đầu giảm tốc để chuẩn bị vào ga. Tôi cất
cuốn sách đang đọc vào túi và khoác lên vai, tôi đứng dậy ngay khi
ánh đèn ngoài ga đầu tiên lọt qua ô cửa sổ của toa liền trước. Cửa toa
vẫn chưa mở khi cuối cùng tàu cũng vào ga và dừng hẳn.
Qua cửa kính, tôi nhận ra kỳ thực chẳng có một bóng đèn nào
trên hành lang trước mặt cả. Đó thậm chí còn không phải một hành

- 428 -
Thị trấn mùa đông
lang. Quá nhỏ để gọi là một sân ga, với chỉ một cánh cửa toa đã
choán gần hết mặt cắt căn phòng. Từ dải cầu thang xoắn màu đen
kia, người ta chỉ có một lựa chọn duy nhất là bước qua cánh cửa này,
vào chính toa tàu này. Căn phòng trắng, và dải cầu thang đen.
“Xin lỗi quý khách”, Poe xuất hiện, ra dấu mời tôi quay lại ghế,
“chúng ta chưa tới ga Thị trấn Mùa đông”.
Poe mở cửa toa rồi bước xuống căn phòng trắng. Tôi dợm đi
theo anh ta, nhưng rồi dừng lại khi chợt thấy một bóng người đang
đi xuống theo dải cầu thang. Đúng hơn, tôi đã chết sững khi nhận ra
bóng người đó, một người đàn ông trong tấm áo chùng nâu. Sau một
giây, tôi luống cuống quay trở lại chỗ ngồi, bất giác thu mình lại như
một đứa trẻ sắp bị bắt quả tang vừa làm gì sai quấy. Nhưng tôi đang
đâu có ở Thị trấn Mùa đông.
Tôi nghe loáng thoáng thấy Poe chào người đàn ông mà không
hỏi ông ta muốn bắt tàu tới đâu. Rồi họ lên tàu và Poe lại mau mắn
biến mất. Qua khóe mắt, tôi thấy người đàn ông nhìn về phía tôi,
đúng hơn là nhìn vào ghế tôi ngồi, tôi nghĩ ông đã thoáng nhíu mày.
Với một cái tặc lưỡi ra chiều miễn cưỡng, ông ta ngồi xuống ghế
ngang hàng với tôi ở dãy bên kia. Lối đi giữa hai dãy ghế ngăn cách
tôi và ông. Giống như ngày đầu tiên. Một quãng ngắn im lặng, rồi
đoàn tàu bắt đầu trở mình, đánh động những nghĩ suy nơi tôi. Một
mảnh ghép khác lại rơi xuống đúng chỗ, và tôi nói, khi tàu bắt đầu
chuyển bánh.
“Tôi lỡ chiếm mất chỗ ngồi yêu thích của ngài ư, ngài thị
trưởng? Ngài có muốn đổi chỗ lại không?”.
Kahn không đáp mà chỉ hờ hững lắc đầu khi tôi quay sang.
Bề ngoài, ngài thị trưởng có vẻ không đổi khác gì so với cái ngày tôi
quỳ trước ông tại phiên tòa công khai vào ngày tôi tạm biệt thị trấn,
nhưng một phần trong tôi lại mong muốn chứng minh với chính

- 429 -
NHẬT PHI

mình rằng ông cũng đã già đi, da ông đã nhăn, răng ông đã yếu và
xương ông đã giòn. Đương nhiên, tôi chẳng tài nào tìm thấy một dấu
hiệu nào cho điều đó. Kahn không đơn giản là một cư dân, ông là thị
trưởng đầu tiên, là người sáng lập Thị trấn Mùa đông, là người đặt ra
những quy luật và gán cho chúng một ý nghĩa. Trong chừng mực nào
đó, ông đứng cao hơn những lẽ hiển nhiên.
“Ngài vẫn khỏe chứ? Ngài không cần đáp đâu, vì tôi biết mà.
Tôi cũng muốn hỏi ngài về ông Gin nữa, nhưng tôi cũng biết luôn
ông ấy đang thế nào rồi. Tôi đã từng thấy một gia đình chuyên đan
giỏ mây hồi ở thị trấn, khi đó thì tôi chỉ nghĩ đơn thuần đó là công
việc của họ như với những người khác thôi. Nhưng thực tế là Thị
trấn Mùa đông đâu có cần nhiều giỏ mây đến thế. Rốt cuộc thì chỉ có
ngài thị trưởng là người mang chúng đi tới đâu đó và để chúng lại đó.
Giờ thì chúng ở đâu nhỉ? Tôi nghĩ là sau một cánh cửa nào đó mà tôi
chưa bước qua trong hành lang, phải vậy không? Mà chắc ngài cũng
chẳng biết được. Có bao giờ ông ấy ăn hết bánh mì rồi cất giỏ đi cho
ngài thấy đâu, nhỉ?”.
“Nói thật là tôi có chút bất ngờ khi gặp lại ngài ở đây”, tôi cứ thế
nói. “Lần cuối cùng chúng ta đối mặt với nhau không được dễ chịu
lắm, ngài biết đấy. Lần sau đó thì tôi thậm chí còn không kịp thấy mặt
ngài. Nhưng tôi nghĩ giờ chúng ta đã có thể hiểu nhau hơn rồi. Hoặc
ít ra là tôi đã hiểu ngài hơn”.
“Cậu đã hiểu ra điều gì vậy?”. Kahn lên tiếng.
“Tôi đã gặp Diễm”, tôi đáp. “Cô ấy đã kể cho tôi nghe về các vị,
những người từng cùng coi giữ Hành lang Ghi nhớ. Khi nghe những
điều ấy và nghĩ lại những gì tôi đã nói trong ngày đó, tôi phải thừa
nhận là tôi đã không phải. Tôi đã nói quá nhiều trong khi hiểu quá
ít. Ngôn từ có thể chỉ là một cái vỏ, có kẻ đã nói với tôi thế, nhưng
chúng ta không thể nào lường hết được những gì chúng có thể gây ra,

- 430 -
Thị trấn mùa đông
phải không ngài Thị trưởng? Nhưng tôi nghĩ sẽ thật xấc xược nếu cho
rằng ngài có thể bị ảnh hưởng bởi những gì tôi nói. Tôi mong ngài
thứ lỗi vì những lời đó”.
“Điều đó không quan trọng”. Kahn đáp.
“Phải, điều quan trọng là Thị trấn Mùa đông, tôi nói đúng chứ?
Với những quy luật và lề thói của nó. Tất cả những gì thuộc về Thị
trấn Mùa đông đều quan trọng, tất cả những có và những không. Củ
cải đỏ và bánh mì đen, chuyện kể không được ghi nhớ, những đứa
trẻ không bao giờ lớn lên, đàn chim vào những buổi chiều, những
đêm tuyết và cả những ngày oanh kích. Tất cả vì cư dân của thị trấn,
không, nói đúng hơn, tất cả vì lí tưởng của chỉ một người thôi. Và rốt
cuộc thì người ấy cũng đã rời khỏi thị trấn rồi.”
Tưởng như tôi đã chờ đợi để nói những điều này từ cả trăm
năm rồi.
“Cuối cùng, lòng yêu thương cuộc sống cũng không giữ lại được
đời người. Cuối cùng thì tình yêu cũng không giữ lại được người mình
yêu. Vì tình yêu mà chúng ta hành động, vì tình yêu mà chúng ta
sáng tạo và huỷ diệt. Tất cả chúng ta. Ngài và Pal, và cả tôi. Ngài đã
xây dựng Thị trấn Mùa đông, Pal đã xây dựng Thành phố Thủy tinh,
đều là vì bà ấy, phải không? Tôi đã từng nghĩ thị trấn và thành phố
tồn tại như hai mặt của đồng xu, như hai kiến giải của cùng một ý
niệm. Nhưng dường như mới đầu, Pal lập nên Thành phố Thủy tinh
chỉ như một tạo tác phái sinh, để hoàn tất một vòng khép kín mà
ngài và bà Astrid đã vạch trước, một cánh cung cuối cùng. Tôi hiểu
bà Astrid, tôi hiểu ngài, và tôi hiểu Pal. Trong tình yêu đã có sẵn mầm
sống và sự huỷ diệt, chúng ta không thể có được cái này mà thiếu đi
cái kia. Ngài luôn nói về sự bình yên, nhưng chính ngài hiểu rõ hơn
ai hết bình yên tuyệt đối sẽ là cái gì.”
“Cậu muốn nói gì?”

- 431 -
NHẬT PHI

“Ông biết mà, Kahn. Sau cùng thì, điều gì đã khiến Thị trấn
Mùa đông khác biệt với Thung lũng Táo chứ?”
Kahn không đáp. Một hồi lâu cả tôi và ông đều ngồi lặng im,
nhìn ra bóng tối đen đặc bên ngoài cả hai bên cửa sổ. Bóng tối không
nói với chúng tôi điều gì. Có một lúc tôi chợt nghĩ liệu có phải đoàn
tàu này đang chạy trên tuyến đường ray song song với đường hầm
mà Sofia đã mở ra cho chúng tôi, cào bằng đi những trồi sụt, như một
đường thẳng quy chiếu mọi đường uốn lượn hay gấp khúc. Và bỗng
nhiên lên hay xuống không còn đơn giản là tương đối nữa.
“Kahn à, tôi cho là sau tất cả những gì các vị đã làm thì vòng
tròn vẫn chưa khép lại hẳn đâu. Và thậm chí nó có phải là một vòng
tròn không, tôi cũng không biết được. Điểm cuối, nếu có, của những
gì bà Astrid đã bắt đầu hẳn phải nằm ở đâu đó ngoài kia. Đôi khi tôi
nghĩ rằng bà Astrid thực ra đã nhìn thấy trước cái chết của chính
mình, thậm chí bà có thể đã lên kế hoạch cho nó. Bà chọn tôi cho
phút cuối của bà ở Thị trấn Mùa đông, và gián tiếp để câu hỏi lại cho
tôi. Tôi sẽ phải hoàn tất vòng tròn, hoặc phải phá vỡ nó.”
“Cậu đừng nghĩ đến việc phá vỡ những quy luật của Thị trấn
Mùa đông. Họ cần chúng.”
“Tôi sẽ không phá vỡ những quy luật, ngài có thể yên tâm về
điều đó. Nhưng chính những cư dân của thị trấn sẽ quyết định xem
mình có cần chúng hay không.”
“Cậu định làm gì, với nơi mà cậu vốn không thuộc về?”
“Tôi sẽ cho họ biết. Rằng họ có thể lựa chọn và quyết định.”

Tôi đã không thể gặp Viena và Ionah. Dẫu cho tôi có đập, có
kéo, có đẩy, có gào thét, cánh cửa không màu vẫn không hề nhúc
nhích. Nó hẳn đã được khoá từ phía bên kia, bởi người tới trước,
người không muốn tôi quay lại Thị trấn Mùa đông, người đã ra phán

- 432 -
Thị trấn mùa đông
quyết rằng tôi không thuộc về nơi đó. Tôi khuỵu xuống trên hai đầu
gối, siết chặt mười ngón tay mà đấm xuống đất nhiều lần. Cảm giác
không thể tha thứ cho bản thân đè nặng tôi trong bóng tối, thứ bóng
tối mà tôi vừa mới trồi lên được chưa lâu.
Khi Poe đánh thức tôi dậy thì Kahn đã không còn ở trong toa
nữa. Bằng một giọng nhẹ nhàng thoáng chút ưu tư, anh ta thông báo
chúng tôi đã tới ga Thị trấn Mùa đông và hỏi rằng liệu tôi có ổn không.
Thay vì đáp lại anh ta, tôi choàng dậy, đưa mắt tìm Kahn. Viên thị
trưởng đã không còn ở đó nữa. Poe đọc được điều đó nơi tôi, anh nói:
“Ông ấy vừa xuống tàu, thưa quý khách.”
“Cảm ơn, Poe. Hẹn gặp lại.”
Chờ tôi bên ngoài cửa toa là một vùng bóng tối rộng lớn, đặc
quánh, tới mức ánh đèn hắt ra từ trong toa tàu trở nên nhỏ nhoi và
yếu ớt, nhanh chóng bị bóng tối nuốt mất. Tôi tiến ra khỏi miền ánh
sáng sau chỉ ba bước chân, cùng lúc nhận ra mặt đất dưới chân mình
bắt đầu lay động. Đó là một đoạn đường dốc lên, không quá cao
nhưng đủ để người ta nhận ra với trọng lực nghiến lên hai đầu gối
với mỗi bước chân. Tôi biết rằng bóng tối lẫn con dốc nghiêng đều
không thể làm vợi đi niềm quả quyết nơi tôi, ngay cả khi mắt tôi đã
quen với bóng tối để nhận ra con dốc này quả thực rất dài, ngay cả
khi hai chân tôi bắt đầu nhói buốt mỗi khi đặt xuống nền đất cứng,
ngay cả khi tôi là kẻ duy nhất trên con đường này. Nếu như đây là
chuyến hành hương tôi cần phải thực hiện…
“Chúng ta gặp lại hơi sớm, phải không ạ?”
Poe đón tôi ở cửa toa tàu, gọn gàng trong thẻo ánh sáng từ đèn
toa hắt ra. Anh ta nói điều đó với một giọng chân thành và vẻ mặt
không có gì ngoài một chút ngạc nhiên thú vị. Ấy thế mà lời ấy lọt
vào tai tôi nghe không khác gì một lời chế giễu của kẻ đã biết tất cả,
thậm chí, một kẻ đồng phạm. Tôi những muốn đấm vào mặt anh ta,

- 433 -
NHẬT PHI

xốc cổ áo anh ta lên mà tra hỏi, rồi tôi ghìm lại được. Hành trình
ngắn ngủi dễ dàng của con dốc xuống mà tôi vừa trải qua đã giúp tôi
bình tĩnh lại. Tôi sẽ sớm gặp lại họ thôi. Tôi đặt tấm áo vest gói mấy
cuốn sách lên bàn rồi buông mình xuống ghế.
“Poe, cho tôi tới Thành phố Thủy tinh”.

- 434 -
Thị trấn mùa đông

TRỞ LẠI THÀNH PHỐ THỦY TINH

M akoto là người đầu tiên đón tôi khi cánh cửa thang máy
trượt sang hai bên. Cô bé đứng trong bóng tối của sảnh
đường, day lưng về phía buồng thang máy, mái tóc buông dài đến
giữa lưng. Ánh đèn từ buồng thang máy phản chiếu long lanh trong
đôi mắt khi cô bé quay lại, đối diện với tôi. Makoto khựng lại trong
một giây, rồi lao về phía tôi.
“Là anh phải không, Rei? Là anh phải không?” Makoto nức nở
trong vòng tay tôi. “Đúng là anh rồi. Em đã chờ…”
“Anh đây, Makoto.” Tôi nói, vỗ nhè nhẹ lên đầu cô bé. “Trông
hơi khác một chút, nhưng đúng là anh đây.”
Ở Thành phố Thủy tinh đang là nửa đêm, không có ai khác
trong sảnh đường khi đó, vậy nên chúng tôi trở vào trong buồng
thang máy và đi lên những tầng trên. Trong khi buồng thang máy
chầm chậm chuyển động lên trên, tôi và Makoto đứng tựa lưng vào
hai bên vách, im lặng nhìn nhau hồi lâu. Makoto đã lớn lên, và xinh
đẹp đúng như những gì cô bé đã mong muốn. Cô bé vẫn giữ được
vẻ trong trẻo như cái ngày chúng tôi gặp nhau lần đầu trong nhà của
Ionah, thứ mà, giờ tôi mới nhận ra, vẫn luôn tạo cho người đối diện
cảm giác dễ chịu đến sẵn sàng mở lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Đồng thời, có gì đó nơi vành tai hững hờ sau làn tóc giờ đã buông
dài, nơi đôi mắt giờ đã lùi sâu hơn sau cặp mắt kính, nơi đôi môi chốc
chốc run rẩy khẽ khàng, cho tôi biết thời gian đã chảy trôi không chỉ
trên hình hài trước mặt tôi đây.

- 435 -
NHẬT PHI

“Anh biết không, Rei, trong khi chờ anh, thị trưởng Rhodes
đã bắt đầu thay đổi thành phố rồi đấy.” Makoto nói. “Anh ấy đã
cho đánh số từng tầng của toà thị chính, con số lớn hơn em tưởng
nhiều. Anh ấy nói khi nào anh quay lại, anh ấy sẽ cho sửa cả buồng
thang máy nữa.”
Tôi gật đầu.
“Anh ấy cũng đang nghiên cứu để đánh số ngày tháng nữa. Em
cũng đang giúp anh ấy việc đó, bằng kí ức của em. Chẳng hạn như
em nhớ được là cứ bảy ngày thì gọi là một tuần, mỗi tuần em không
phải đến trường một ngày, rồi sau bao nhiêu ngày đó thì gọi là một
tháng, và sau bao nhiêu tháng thì một năm trôi qua. Em vẫn đang cố
nhớ lại để giúp anh ấy, hình như trong một năm có một vài tháng em
không phải đến trường, những ngày trời rất nóng. Có lẽ khi nào trời
thật là nóng ở đây thì em sẽ nhớ ra. Có điều thời tiết của Thành phố
Thủy tinh thì cứ vậy hoài, có những thời gian mưa nhiều hơn, chứ
không khi nào thực sự nóng hay lạnh cả. Lạ thật, em đã không nghĩ
gì về thay đổi thời tiết hồi ở Thị trấn Mùa đông. Em cứ thế chấp nhận
rằng trời sẽ luôn ấm vào ban ngày và có tuyết rơi về đêm.
“Quan trọng nhất là Rhodes đã quyết định thử nghiệm dạy
ngôn ngữ cũ cho mọi người, bắt đầu từ những người làm việc ở toà
thị chính. Rhodes nhờ em dạy một số lớp, ban đầu thì em ngại lắm,
nhưng giờ em đã quen hơn nhiều rồi. Rồi không biết ai đã dạy mà
mọi người bắt đầu gọi em là cô giáo, cô Makoto. Buồn cười thật đấy,
anh ạ. Trước khi đến đây thì em vẫn là một đứa học sinh, thậm chí
em đã từng tưởng rằng em sẽ cứ thế đi học đến hết đời ấy chứ.”
“Anh từng nói rồi mà,” tôi mỉm cười. “Em hiểu biết hơn rất
nhiều người lớn đấy.”
Và quyền năng của em còn lớn hơn thế nhiều, bất kể em đã có
những gì trong kí ức, nhưng tôi không nói với cô bé điều đó.

- 436 -
Thị trấn mùa đông
“Nhưng em lại không thể chơi được harmonica như Netsuko.
Chị ấy đã cố dạy em, nhưng chắc là em không có khiếu rồi. Hình như
em chẳng có chút năng khiếu nào với âm nhạc cả. À, Netsuko cũng
thường nhắc đến anh đấy. Em nghĩ chị ấy muốn gặp lại anh lắm. Anh
có muốn em gọi Netsuko dậy bây giờ không? Hay là để tới mai?”
“Anh không nghĩ anh sẽ ở lại đây lâu, Makoto ạ.” Tôi lặng lẽ
đáp. “Anh vẫn còn việc phải làm. Lúc này, anh chỉ cần gặp em và
Alexandre là đủ.”
“Còn Netsuko?”
“Anh không nên cho mình thêm lí do để nán lại, Makoto ạ.”
Makoto nhìn tôi lo âu, hẳn nhiên cô bé đã nuốt lại rất nhiều
câu hỏi. Thứ duy nhất để tách biệt cô giáo Makoto ra khỏi cô nữ sinh
Makoto là một dải khăn quàng mỏng màu cam trên cổ. Vậy là cô bé
đã tìm được một thứ để thay thế chiếc mũ beret đỏ đã để lại ở Thị
trấn Mùa đông, cho Viena.
“Nhưng tại sao em lại ở đó, ở sảnh đường vào nửa đêm?”
“Kant, ý em là con quạ, đã đánh thức em. Nó gõ vào cửa kính
phòng em, em thức dậy, rồi ngay khi nhìn thấy nó, em tin chắc rằng
anh đã về. Em đã đúng đấy chứ, anh nhỉ?”
“Cảm ơn em, Makoto.”

Kant đã ở đó, trên bệ cửa sổ văn phòng của thị trưởng Rhodes
khi chúng tôi bước vào. Chúng tôi nhìn nhau trong giây lát, rồi tôi
nghĩ đã thấy con quạ đen gật đầu với tôi, nó thậm chí đã có thể
mỉm cười. Tôi gật đầu đáp lại nó, như một sự xác nhận. Con quạ cất
cánh lên khỏi bệ cửa sổ, tung mình vào nền trời đã bắt đầu chuyển
mình sang màu xanh xám. Kant, Pal, R.B., Rogerg Asmas, Nogias,
Quỷ vương… Tôi nghi ngờ việc chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Và rồi
Alexandre de Rhodes bước vào phòng.

- 437 -
NHẬT PHI

“Tôi đã đếm ngày, Rei ạ, từ cái ngày anh biến mất trong thang
máy của chính toà nhà này,” Rhodes nói, sau khi nhìn tôi hồi lâu để
xác nhận. “Nhiều ngày đã trôi qua ở Thành phố Thủy tinh, nhưng có
vẻ anh còn trải qua nhiều ngày hơn thế, rất nhiều.”
Anh ta chìa cho tôi bao thuốc lá, vẫn là gói giấy vuông in hình
trái táo đỏ trên hai mặt, đẩy lên một điếu. Tôi đón lấy và Rhodes
châm thuốc cho tôi bằng cái hộp quẹt bạc hệt như lần cuối. Tưởng
như đã cả trăm năm rồi.
“Tôi mừng là anh vẫn khoẻ, dù cho bao nhiêu ngày đã trôi qua
với cả hai chúng ta.”
“Makoto đã kể cho anh nghe những điều tôi đã làm trong thời
gian anh vắng mặt rồi, phải không?” Rhodes nói. “Thú thực tôi cũng
không biết mình đang làm những điều đó vì điều gì nữa. Gìn giữ,
hay phục hồi? Xây, hay phá? Bằng cách nào đó, tôi nghĩ điều gần nhất
mình có thể làm là ngưng việc đóng cả hai vai và hợp nhất những
gì tôi đã làm suốt bao năm qua. Nhưng chỉ đến vậy mà thôi, chỉ
như một sự mở rộng của phong trào phục hồi và một thoả hiệp của
toà thị chính thành phố. Những chương trình giải trí vẫn được sản
xuất và trình chiếu, có chăng là với nhiều ngôn từ của ngôn ngữ cũ
được cài cắm vào hơn. Mọi người vẫn theo dõi chúng, ơ hờ thích
thú, thỉnh thoảng ghé vào phòng trà của chúng tôi để thay đổi không
khí. Những ca bệnh bọ đen vẫn được ghi nhận, với tỉ lệ không giảm.
Không điều gì tôi làm có thể nhổ được nỗi sợ hãi nó ra khỏi họ. Và
biết làm sao được, khi mà chính tôi cũng sợ hãi? Chúng tôi vẫn thiếu
một thứ gì đó, nhưng tôi không thể nghĩ ra được là gì.”
“Anh không nghĩ ra được đâu, Rhodes.” Tôi đáp, đặt tấm áo vest
xuống bàn và mở nó ra. “Anh không thể nghĩ ra được một thứ chưa
từng hiển hiện trước mặt anh, trong đầu anh. Gìn giữ hay phục hồi,
xây hay phá, không, tôi nói với anh rằng lựa chọn của anh phải là cái
gì đó nằm ngoài cả chúng nữa.”

- 438 -
Thị trấn mùa đông
Tôi kể cho thị trưởng Rhodes và Makoto nghe về Đoàn tàu
Không số, về những nhà ga dưới lòng đất. Và về Tháp cổ, một nửa sự
thật về Tháp cổ, rằng nhà sáng lập Thành phố Thủy tinh và Thị trấn
Mùa đông từng là bạn, dù họ có thừa nhận điều đó hay không, rằng
sự tồn tại của nơi này mang một ý nghĩa đối với nơi kia, rằng tôi có
thể đã tìm ra được thứ Thị trấn Mùa đông đã từ bỏ và Thành phố
Thủy tinh đã đánh mất.
“Đây, hai người đọc đi,” tôi đẩy chồng sách về phía Makoto và
Rhodes. “Bắt đầu từ cuốn nào cũng được.”

Mặt trời chầm chậm leo lên đỉnh tháp, kéo cao dần góc nghiêng
của nắng hắt vào căn phòng qua ô cửa kính, và rồi lên tới nơi khi
thị trưởng Rhodes ngẩng lên khỏi cuốn sách trên tay anh. Rhodes
đã ngừng lại ở phân nửa cuốn sách, với hàng chân mày chau lại như
muốn xoắn vào nhau, trong khi Makoto hãy còn đọc chăm chú, nhập
tâm như bị hút hồn vào đó.
“Nhưng điều này, Rei à, không thể có thật được!” Anh ta thốt
lên. “Không thể nào!”
“Và tại sao nó lại phải có thật, hả ngài thị trưởng?” Tôi cười. “Anh
đã thấy bao nhiêu điều hoang đường trong đời rồi, hả Alexandre?
Thành phố Thủy tinh này cũng đã quá hoang đường so với thời đầu
tiên của nó rồi.”
“Nhưng điều này…” Rhodes bị dội ngược, anh ta có vẻ đang cố
gắng lựa chọn từ ngữ, “thật quá… khó chấp nhận.”
“Đúng vậy, tôi hiểu. Với cư dân của Thành phố Thủy tinh,
những điều này là rất khó chấp nhận. Và đó là điều tôi muốn nói với
anh đấy.”
“Giống như truyện kể của bà Astrid,” Makoto lên tiếng mà
không ngẩng lên. “Giống như truyện kể trên radio nữa. Em cảm thấy
như là có gì đó đang bò trên da em vậy, Rei ạ.”

- 439 -
NHẬT PHI

“Và em thích nó chứ?”


“Vâng,” Makoto đáp. “Không phải tất cả, nhưng em nghĩ em thích.”
“Thế đó, thị trưởng ạ, đó là điều tôi muốn nói với anh. Một
thứ nằm ngoài hiện thực như ta vẫn biết. Những thứ hoang đường,
phi lí này, những thứ rất Camus này, cũng đẹp như những gì anh
đã nhặt nhạnh quanh thành phố, cũng đẹp như những bài hát của
Netsuko vậy.
“Anh không nghĩ ra chúng, như cái cách anh nghĩ về đường
hướng cho thành phố này. Anh tìm ra chúng, ở đằng sau tâm hồn
của anh, ở bên ngoài ý thức của anh, ở nơi chưa có anh và ở nơi anh
đã nằm lại.”
“Nhưng tại sao lại như vậy?” Rhodes chỉ vào một dòng bâng
quơ trên trang sách đang mở. “Tại sao họ lại có thể chấp nhận nó?
Chấp nhận cái chết? Thậm chí là đón nhận nó, tìm kiếm nó? Họ
không sợ ư? Họ không yêu quý sự sống ư?”
“Anh nghĩ là họ không ư?” Tôi đáp. “Tôi thì nghĩ là họ yêu quý
sự sống hơn bất kì ai ở Thành phố Thủy tinh này đấy. Và đừng làm
như anh xa lạ với điều này, Alexandre. Tôi biết, rằng nó vẫn chảy
trong anh, trong Netsuko, trong Miku và tất cả những người khác ở
thành phố này. Anh hiểu, cũng như tôi vậy, rằng có những thứ tồn
tại mà chúng ta không nhìn thấy, có những điều đẹp đẽ ngay cả khi
chúng không có thật. Anh chỉ cần nhắc cho họ thôi, và rồi họ sẽ có
lựa chọn.”
“Vậy còn cái chết? Vậy còn bệnh bọ đen? Chúng vẫn sẽ ở đó, và
người dân của tôi vẫn sẽ…”
“Anh Alexandre này,” Makoto đột ngột gọi, và cả hai chúng tôi
im lặng nhìn cô bé. Phải rồi, tôi chưa từng nghe Makoto gọi anh ta
là gì khác ngoài “thị trưởng Rhodes”. “Tại sao anh lại chưa mắc bệnh
bọ đen nhỉ? Em tin rằng mong muốn bảo vệ tất cả mọi người dân nơi

- 440 -
Thị trấn mùa đông
anh lớn hơn bất kì ham muốn nào khác ở Thành phố Thủy tinh ấy
chứ. Em chưa từng nói với anh điều này, nhưng em đã luôn nghĩ rằng
bệnh bọ đen thực ra phản ứng với một cái gì đó khác kia.”
Ngoài kia, mặt trời đã nhô lên qua khỏi những toà tháp thủy
tinh thấp hơn. Đàn chim đã bắt đầu quay trở lại thành phố, xốn xang
trên những tán cây. Tôi lấy một điếu thuốc khác trong bao thuốc đặt
trên bàn và tự mình châm thuốc. Biết đâu đây lại là điếu thuốc cuối
cùng của tôi. Điều gì đang khiến tôi cảm thấy vội vàng như vậy, vội
vàng như chẳng kịp. Đối diện với tôi, Alexandre im lặng, đôi mắt anh
ta có vẻ xao động dữ dội, trong một thoáng.
“Netsuko nói với em rằng có những lúc chị ấy nghĩ thà mình
mắc bệnh bọ đen, để biết được điều mà mình thực sự mong muốn
trong đời, giống như người mà chị ấy yêu quý. Vậy thì nó có đáng sợ
đến thế không, hả anh?”
“Tôi hiểu rồi, Makoto,” Alexandre de Rhodes đáp, lắc đầu một
vài lần để tìm lại sự bình tĩnh, hoặc, tôi nghĩ, để nhớ ra mình thực sự
là ai, là những ai. “Lẽ ra tôi đã phải mắc bệnh bọ đen rồi.”
Rồi anh ta nhìn thẳng vào tôi.
“Anh gợi ý tôi làm gì, Rei?”
“Ở Hành lang Ghi nhớ,” tôi đáp, “anh có thể bắt tàu tới đó,
ga tàu nằm bên dưới chính toà tháp này, có một căn phòng chứa
những cỗ máy lớn. Những cỗ máy kêu, em biết mà, Makoto. Hãy
mang chúng trở lại Thành phố Thủy tinh, chúng vốn thuộc về nơi
này, hãy dùng chúng, làm ra thật nhiều bản sao của những cuốn sách
này cho mọi người ở thành phố. Mới đầu có thể họ sẽ không quen, gì
thì gì họ sẽ cần phải biết ngôn ngữ cũ để đọc được chúng, họ có thể
sẽ phản ứng hệt như anh vừa rồi, hoài nghi chúng, chối bỏ chúng.
Nhưng rồi tôi tin họ sẽ tiếp nhận chúng, và có những người thậm chí
sẽ bắt đầu muốn làm ra những thứ tương tự. Chúng ta sẽ có những

- 441 -
NHẬT PHI

Camus mới, những Camus được thừa nhận. Một con thuyền khác
sẽ nhổ neo, tiến vào bất định một lần nữa. Mọi chuyện sau đó phụ
thuộc vào anh, thị trưởng ạ. Nhưng ít nhất, Thành phố Thủy tinh sẽ
biết được rằng họ có thể lựa chọn. Rằng ngày hôm nay, hay ngày kế
tiếp, không phải là tất cả những gì họ có. Rằng thực tại không phải
thứ bất biến. Sau cùng, đó mới là mục đích Thành phố Thủy tinh này
được sáng lập ngay từ đầu.”
“Tôi sẽ làm như vậy.” Viên thị trưởng, thủ lĩnh phong trào phục
hồi thành phố, đáp sau một cái rùng mình. “Giống như tôi đang đánh
cược vào những điều hoang đường vậy.”
“Bất biến mới thật là hoang đường, Alex ạ.”
“Và còn điều này nữa,” tôi quay sang Makoto, “chừng nào em
gặp lại Matsu, hãy cho nó biết rằng sa mạc của nó có tên là Sahara, có
nghĩa là Sa mạc.”
Và với nụ cười rạng rỡ của cô bé, tôi biết rằng mình đã làm đủ
những gì cần làm ở toà thị chính này. Tạm biệt.

- 442 -
Thị trấn mùa đông

NGÀY OANH KÍCH CUỐI CÙNG KHÁC

Đ ón tôi ở cửa toa tàu là người tiếp viên mặc đồ kaki hung
với cái mũ rộng vành. Anh ta tự xưng là Doyle, người trực
thế Poe vừa xin nghỉ phép vào ngày hôm đó. Tôi thoáng nghĩ nếu có
thể quay lại bắt một chuyến tàu nữa, có khi tôi lại gặp được cô tiếp
viên mặc váy đen cũng nên.
“Cho tôi xuống ga cuối, ở phía bên này.”
“Ý ngài không phải là Tháp cổ phải không ạ?” Doyle hỏi lại.
“Ngài có biết chắc sẽ tới đâu không ạ?”
“Tôi biết rất rõ, Doyle ạ. Và tôi biết mình có việc gì ở đó nữa.”
“Vâng, xin theo ý quý khách.”
Khi đoàn tàu cựa mình, rung lên những nhịp đầu tiên, tôi cảm
giác như chiếc chìa khoá bạc trong tay mình cũng đang run lên. Hay
chính tôi đang run lên, vì lựa chọn của mình phía trước, ở chương
cuối của hành trình này.

Ga cuối ở phía bên kia là một hành lang dài và hẹp, chạy song
song với đường ray. Hành lang này dài có lẽ gần bằng với Hành lang
Ghi nhớ, với đường ray ở một bên và một bức tường dài không cửa
ở bên đối diện. Đường ray không dừng lại ở đó mà chạy tiếp theo
đường hầm tối, như quăng mình vào một hố đen. Nó sẽ quay đầu
ở đâu đó phía ấy, hay biết đâu sẽ cứ thế đi tiếp, tới Tháp cổ, tới Thị
trấn Mùa đông, biết đâu chẳng có gì gọi là điểm đầu và điểm cuối cả.

- 443 -
NHẬT PHI

Tôi không thấy được gì ở phía ấy, dù rằng hành lang nhà ga rất sáng,
thứ ánh sáng không đèn không chạm được vào bóng đêm của đường
hầm, như thể chúng là hai miền không gian tách biệt, ngăn cách duy
nhất bởi cánh cửa trượt của toa tàu này. Và tôi bước qua đó.
Tôi biết mình đang ở trong một phiên bản của Hành lang Ghi
nhớ. Tôi thậm chí có cảm giác mình đã từng ở đây. Phải, tôi đã từng
ở đây, tôi biết. Len qua một khe nứt trên tường đã được bịt lại, dùng
bữa bên một bàn ăn thịnh soạn đã được dọn đi, và bước qua cánh cửa
ở cuối hành lang phía bên kia, thứ hãy còn ở đó. Tôi tiến về phía cánh
cửa đó, lướt qua hết những loang lổ trên tường.
Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng
Tôi lướt qua.
Người trăm năm đi tìm chìa khoá
Cửa muôn đời vẫn mở đấy thôi
Tôi lướt qua.
Tương tư ai thiếu bao nhiêu lệ
Cứ khóc cho hoàn mộng biệt ly
Tôi lướt qua.
Và đặt tay lên tay nắm cửa.
Ngay khi đặt chân lên boong tàu, tôi nhận ra một ngày khác
đã tới trên Chiến hạm. Không còn là hai sắc thái xanh dương chồng
lên nhau, ngăn cách bởi hờ hững một đường chân trời phẳng lặng
nữa. Nền trời sùm sụp một lớp mạng tối xám xịt, và biển đang không
ngừng vùng vẫy. Sàn tàu chao đảo theo từng đợt sóng. Một điềm báo,
một dự cảm.
Đối với tôi lúc này, biến động thời tiết chỉ là một quan sát lạc
đề. Công việc quan trọng nhất của tôi nằm ở một góc thấp hơn nhiều.
Tôi đến trước bàn điều khiển, và bắt đầu kéo thả những chấm đỏ trên

- 444 -
Thị trấn mùa đông
nền xanh ngang qua màn hình, một màn hình thủy tinh, đến giờ tôi
mới nhận ra. Việc đó đơn giản hơn tôi tưởng, khi mà tôi đã có thể
hiểu được hầu hết ý nghĩa của những nút bấm và cần gạt. Khoảng
trống vuông ở góc màn hình là nơi tôi thả xuống những chấm đỏ
đang nhấp nháy. Nơi đó…
“Chị vẫn ở lại đây,” tôi nói, khi đẩy cửa bước vào căn hầm và
thấy Raine ngồi bên cỗ quan tài giờ đã trống trơn, với một tách trà
trên tay, “ngay cả khi chị nói việc của chị ở đây đã hoàn thành rồi.”
“Tôi có một linh cảm,” Raine đáp, và rót cho tôi một tách trà,
như thể chúng tôi chưa bao giờ cùng nhau lắng nghe lời cuối cùng
của một người quen chung, “và tôi quyết định tiếp tục những buổi
phát thanh vào những ngày đàn chim không bay về phía ấy. Tôi kể
lại từ đầu câu chuyện của ông ấy. Tôi vẫn nhớ tới từng từ, có vẻ như
khi ngôn từ đến với tôi từ bên trong, chúng cũng không thể cứ thế
trôi ra ngoài.”
Trà ấm, và thực ra thì căn phòng cũng không còn lạnh nữa. Nó
đã trở thành một căn phòng hoàn toàn dành cho người đang sống.
“Và anh biết, phải không? Nên anh mới quay lại đây. Rằng ở
phía bên kia, họ vẫn đang nghe tôi. Họ vẫn không ngừng chờ đợi. Tín
hiệu tôi gửi đi chưa bao giờ không được thu lấy.”
“Phải, tôi biết. Bởi vì đã có thêm một người nữa mong muốn
được nghe truyện kể, và không ngại nghe lại từ đầu.”
“Vậy thì anh muốn gửi tới họ điều gì, Rei?”
Tôi ngồi xuống sàn tàu, tựa lưng vào thành bàn điều khiển. Và
chờ đợi. Bàn tay tôi vô thức với tới một tách trà vốn không có ở đó.
“Tới rồi. Họ đang nghe.”
Raine thông báo, và tôi đặt tách trà xuống, không biết đó đã là
tuần trà thứ bao nhiêu rồi. Chị đeo tai nghe lên đầu, chỉnh cho đầu
thu âm sát vào miệng mình và hắng giọng, rồi gạt lên một nút trượt.

- 445 -
NHẬT PHI

“Các bạn đang nghe truyện kể trong ngày oanh kích. Ở số


trước, Người hùng của chúng ta đã trở về sau khi hoàn thành một
phần nhiệm vụ của mình. Điều gì sẽ chờ đợi chàng ở thành phố
mà chàng gọi là nhà ấy? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trong kì truyện
lần này.” Raine nhìn sang tôi, gật đầu. “Nhưng trước khi bắt đầu kể
chuyện, chúng tôi có một thông báo. Dành cho mọi người ở Thị trấn
Mùa đông.”
Chị gạt nút trượt xuống, hơi cúi đầu khi tháo tai nghe ra chuyền
cho tôi.
“Đây là lần đầu tiên tôi gọi tên những người đang nghe mình ở
đầu bên kia,” chị thì thầm. “Dù luôn biết rằng tôi chỉ kể chuyện cho
riêng họ mà thôi.”
Tôi đeo tai nghe lên giống như chị rồi gật đầu ra hiệu đã sẵn
sàng. Raine gạt nút trượt lên trở lại. Tôi hít một hơi đầy căng lồng
ngực, nhắm mắt lại để thấy một dáng hình thân thuộc đang nghiêng
trên tôi, trên máy radio, và một dáng hình khác, nhỏ hơn, đang quay
sang nàng, nhăn mũi nửa hiếu kì nửa phụng phịu.
“Em đang nghe, phải không, Ionah?” Tôi nói. “Và cả con nữa,
Viena. Giá mà tôi có thể nghe thấy giọng hai người, giá mà tôi có thể
nhìn thấy hai người. Ionah à, làm sao nói hết được tôi nhớ em đến
thế nào. Viena của ta, làm sao nói hết được ta mong được gặp con
đến thế nào. Tôi đã từng ở rất gần hai người, nhưng rồi điều ấy lại trở
nên khó khăn dường này. Có rất nhiều điều tôi muốn nói với hai mẹ
con em. Nhưng lúc này, qua đài phát thanh này, tôi chỉ có thể nói một
điều thôi, điều tôi cần phải nói. Ionah, em hãy nghe kĩ nhé.”
Tôi không muốn thế. Tôi những muốn giành lấy kênh phát
thanh này cho riêng mình, để tôi nói hoài, nói mãi cho hết lòng mình.
Tới lúc này tôi mới có cảm giác mình đã lãng phí quá nhiều thời gian,
quá nhiều ngày tháng. Thời gian chừng như chẳng bao giờ là đủ cho
những gì quan trọng nhất.

- 446 -
Thị trấn mùa đông
“Ionah, ngày oanh kích kế tiếp sẽ là lần cuối cùng. Sau ngày đó,
bom sẽ không bao giờ rơi trên Thị trấn Mùa đông nữa. Sau ngày đó,
sẽ có những điều thay đổi với một số người, với những người khác
thì có thể không. Nhưng bản thân Thị trấn Mùa đông sẽ không còn
như trước nữa, không bao giờ nữa. Hãy chuyển điều này tới tất cả
mọi người ở thị trấn, bởi vì có một điều tôi cần tất cả mọi người làm
theo, vào ngày oanh kích cuối cùng ấy. Chỉ một điều thôi…”
Tất cả mọi người, hay thực ra chỉ là một người mà thôi, tôi nghĩ
khi tháo tai nghe ra khỏi đầu, đưa lại nó cho Raine.
“Anh có ở lại nghe thêm một kì truyện kể nữa không, Rei?” Chị
hỏi, bàn tay đặt trên nút trượt, chuẩn bị đẩy nó lên.
“Không, cảm ơn chị,” tôi đáp và đứng dậy. “Tôi cần phải đi
ngay. Tôi muốn chắc chắn ngày oanh kích kế tiếp sẽ thực sự là ngày
cuối cùng.”
“Vậy thì tôi sẽ phải nghĩ về điều mình cần làm sau đó,” chị cười
khi vẫy tay chào tôi. “Sau cùng thì tôi vẫn đang được biết đến là Người
kể chuyện trong ngày oanh kích đó thôi.”
“Khi chàng quay trở lại, không còn một ai ở thành phố biết
chàng là ai…”
Đó là điều cuối cùng tôi nghe được từ Người kể chuyện, với
chất giọng trầm bổng ngân nga của chị, trước khi khép lại sau lưng
cánh cửa vào căn phòng đã từng lạnh băng.

Diễm đã ở đó khi tôi thức dậy, nàng ngồi quỳ trên sàn boong
tàu, tay giữ đầu tôi gối lên đùi nàng. Trời không nắng, đúng hơn là
vẫn cứ âm u như lần cuối tôi thấy, nhưng mắt tôi vẫn nheo lại vì ánh
vàng từ chiếc áo cánh len nàng đã khoác ra ngoài bộ áo dài tím.
“Em chẳng đã với ông rồi đấy sao?” Diễm nói. “Chúng ta sẽ gặp
lại nhau sớm thôi.”

- 447 -
NHẬT PHI

“Nhưng tại sao?” Tôi ngồi dậy. “Tại sao em lại ở đây được? Thế
còn Tháp cổ? Chẳng phải em là người trông coi Tháp cổ hay sao?”
“Đã có một người khác thay em làm việc đó rồi.”
Chúng tôi cùng đứng lên, tới bên bàn điều khiển. Những chấm
đỏ vẫn tụ ở một góc màn hình xanh, bền bỉ chớp tắt. Ngày Oanh kính
kế tiếp có thể đến bất cứ lúc nào, nếu như tôi không chấm dứt nó một
lần sau cuối. Tôi cắm chiếc chìa khoá bạc vào ổ, lần này, con quạ gáy
xám không còn xuất hiện để hoài nghi tôi nữa.
“Cô ấy có mái tóc màu xám khói,” Diễm nói. “Và ánh mắt của
một kẻ chỉ cần duy nhất một câu trả lời trong đời. Cô ấy tin rằng
Tháp cổ là nơi sẽ cho cô ấy được điều đó. Rằng ông đã nói về nơi này
như thế, và cô ấy tin ông. Cô ấy đồng ý thay em làm người trông coi
Tháp cổ, giờ này hẳn cô ấy đang tiếp tục đọc, để tìm kiếm.”
“Một nơi để trở về.” Tôi nói. “Ít nhất bây giờ cô ấy cũng đang
làm một điều cho riêng mình.”
“Và không chỉ mình cô gái ấy và Tháp cổ.”
Diễm lấy ra khẩu súng lục ổ xoay. Nàng kéo chốt mở nòng súng
và chìa ổ xoay ra cho tôi. Chỉ còn hai trên sáu viên đạn trong đó.
“Pal. Astrid. Kahn. Và Gin.” Nàng rà ngón tay trên từng ổ đạn
trống. “Chúng ta vẫn còn ở đây có nghĩa là Hành lang Ghi nhớ đã có
một người trông coi mới. Em không biết người đó là ai, nhưng từ giờ
đó sẽ là người thay chúng em, những người đầu tiên, tiếp tục lưu giữ
tất cả ở Hành lang Ghi nhớ.”
“Nhưng tại sao?” Tôi chết lặng. “Tại sao ông Gin lại có thể… Và
cả Kahn nữa, tôi đã làm tất cả để đảm bảo ông ấy…”
“Đó là lựa chọn của họ. Không gì là tồn tại mãi mãi cả, ông đâu
có xa lạ với điều đó đâu chứ.”
“Vậy còn hai viên đạn này? Diễm, đó là em, phải không?”
“Không chỉ mình em.” Nàng mỉm cười. “Rei à, dường như ông

- 448 -
Thị trấn mùa đông
đã là một trong số chúng em, ngay từ đầu. Chỉ là ông đã tới trễ một
chút thôi.”
“Không, tôi tới đúng lúc đấy.” Đột nhiên tôi hiểu ra tất cả, đây
mới đúng là mảnh ghép cuối cùng. Không phải ai khác, mà là chính
tôi. “Tôi đã tới đúng lúc để hoàn tất vòng tròn này. Và rồi sẽ còn lại
không gì cả. Mọi thứ sẽ được bắt đầu lại, ở một điểm khác trên vòng
xoáy khôn cùng này.”
Tôi xoay chìa, chốt khoá nằm bên dưới bàn điều khiển lẹ làng
rút đi với đôi tiếng lách cách nghe như một tiếng nấc. Bàn tay tôi đặt
lên cần gạt.
“Ông hiểu, phải không? Rằng điều gì sẽ tới sau đây.”
“Tôi hiểu,” tôi đáp.
“Ông sẵn sàng rồi chứ?”
“Tôi sẵn sàng… đủ sẵn sàng cho điều này.”
Và tôi gạt cần. Đóng.
Đây mới thực sự là ngày oanh kích cuối cùng. Và nó phải xảy ra
ở chính ngay xuất phát điểm. Chiến hạm gầm lên tiếng kêu bi tráng sau
chót. Đầu tiên là bệ phóng, rồi tới cabin. Tàu bắt đầu chìm dần từ phía
đuôi, mũi tàu hếch lên như một cái ngước mặt, ngạo nghễ sám hối.
Và rồi, trên đầu chúng tôi, màn đêm đã phủ lấy bầu trời của
biển. Hay đó là một thứ bóng tối khác, chót vót sâu.
Sau cùng, là đen thẳm.

- 449 -
NHẬT PHI

MAKOTO NÓI VỀ NGÀY MAI

G ửi Rei,

Em đang ngồi viết ở Hành lang Ghi nhớ, nơi em lần đầu tiên
viết ra một thứ gì đó, viết cho anh. Ông Gin đã không còn ở đó nữa,
và bỗng nhiên tất cả rượu đã biến mất khỏi căn phòng sau cánh cửa
số chín phía bên trái, thay vào đó là hàng chồng hàng chống giấy.
Hikari dùng giấy đó để vẽ, bằng bút sáp màu. Tranh của chị nằm la
liệt ở chỗ ông Gin từng để mấy chai rượu rỗng. Tranh của chị ấy rất
lạ, Rei ạ, em cảm thấy chúng rất đẹp, nhưng rất lạ, không giống như
bất kì thứ gì mình có thể nhìn thấy. Khi em tới, chị ấy đang dùng bút
đen tô những khoảng trống cuối cùng trên một bức tranh với nhiều
màu khác mà em không thể tả được. Chị ấy nhờ em vào phòng lấy
thêm giấy, và em chợt nghĩ là em sẽ viết gì đó cho anh.
Em bắt đầu từ đâu bây giờ nhỉ? À, phải rồi, em đã gặp lại Matsu,
và chuyển câu trả lời của anh cho bạn ấy. Sahara, có nghĩa là gì, Matsu
hỏi em. Có nghĩa là nơi bắt đầu những mối duyên lành, em đáp. Em
đã không nói sự thật, như anh đã nói với em, nhưng ai mà quan tâm
tới một sự thật như thế chứ, anh nhỉ? Matsu đã ngoác miệng ra, ngửa
lên trời mà rít chói lói. Bạn ấy cười, anh ạ, và là một tiếng cười vui
sướng. Em mong bạn ấy sớm gặp lại cậu bé đến từ những vì sao của
bạn ấy. Giá mà cậu bé ấy có thể đơn giản bắt một chuyến tàu để tới
thăm những người bạn ở xa, như em bây giờ.

- 450 -
Thị trấn mùa đông
Tàu điện ngầm thật là một thứ kì diệu, anh có nghĩ thế không?
Không, em không chỉ nói về tính tiện nghi của nó như một phương
tiện đưa người ta từ nơi này tới nơi khác đâu, em muốn nói về trải
nghiệm với nó. Những cái hộp dài nối nhau chạy trên đường ray,
những khoang tàu ấm cúng, ghế thì thật là mềm. Và nhất là những
rung lắc rất êm, giống như muốn ru em vào một giấc ngủ thật hiền,
để rồi khi thức dậy, em đã ở một nơi khác rồi.
Những người làm việc trên tàu cũng rất tử tế với em. Ngoại trừ
việc Poe luôn luôn tỏ ra như thể gặp em lần đầu tiên. Mới đầu em cho
rằng anh ấy thích đùa giỡn như vậy, nhưng rồi em nhận ra có lẽ anh
ấy có chút vấn đề gì đó với trí nhớ, khi anh ấy còn chẳng nhớ được
tên hai người đồng sự. Nhiệm vụ phụng sự hành khách hình như là
tất cả những gì có trong đầu anh ấy. Doyle thì lại đặc biệt kiệm lời,
anh ấy chỉ hỏi những gì cần biết và trả lời những gì được hỏi, không
hơn, nên em cảm thấy giống như mình đang làm phiền anh ấy khi
nói quá nhiều vậy. Agatha thì luôn luôn bí ẩn. À thực ra thì chị ấy
không xưng tên đâu, nhưng chị ấy khiến em nhớ tới một nhân vật
trong truyện kể về Người hùng, anh cũng biết mà, thế là em quyết
định gọi chị ấy như thế, và chị ấy cũng nhận lấy cái tên ấy, hẳn là để
làm vui lòng em. Chị ấy có lẽ sẽ tiếp tục không xưng tên với những
hành khách khác.
Anh Alexandre đã cho cải tạo đại sảnh của toà thị chính để làm
ga tàu điện, đón những người muốn tới Thành phố Thủy tinh và tiễn
những người muốn rời khỏi đó. Em không biết khi nào sẽ có người
thứ hai quyết định rời khỏi thành phố để tới một nơi nào đó khác,
nhưng em tin rằng sẽ không lâu nữa đâu. Sẽ tới lúc nào đó mọi người
ở đó sẽ nhận ra Thành phố Thủy tinh là không đủ đối với họ. Nhờ
những cuốn sách anh đã mang tới đấy. Khi đi trên phố trong những
ngày bình thường, em đã dần bắt gặp nhiều hơn những nhóm người

- 451 -
NHẬT PHI

vừa đi vừa thảo luận về câu chuyện bên trong và đằng sau những
cuốn sách ấy. Họ đã bắt đầu nghĩ suy nhiều hơn, và muốn biết nhiều
hơn. Một lần em còn bắt gặp trong phòng trà một cô bé ngồi bên một
cuốn sách, đang viết dưới ánh nến nhập nhoạng trên bàn. Em không
thích cái kết của truyện này, cô bé nói với em thế, nên em đang thử
viết lại. Họ yêu nhau mà, họ nên được ở bên nhau. Điều anh dự đoán
đang dần trở thành hiện thực rồi.
Ở chiều ngược lại thì Thành phố Thủy tinh đã đón những người
đầu tiên tới từ Thị trấn Mùa đông. Hai người. Nhưng em không ở đó
để đón họ, vì em đã tiễn họ đi từ đầu bên kia rồi. Em không biết phải
bắt đầu từ đâu. Sofia đã trở thành thị trưởng mới của Thị trấn Mùa
đông, em cũng thấy rằng không ai có thể thích hợp hơn chị ấy. Chị
ấy cũng đã cho xây dựng một nhà ga trên nền toà thị chính cũ và
làm việc ngay tại căn nhà chị ấy đã từng sống cùng bà Astrid. Toà
thị chính cũ bị phá huỷ trong ngày oanh kích cuối cùng, cùng với thị
trưởng Kahn, Ionah kể với em như thế. Trước đó nhiều ngày, Ionah
đã đi quanh thị trấn và cảnh báo với mọi người hãy tránh xa khỏi toà
thị chính vào ngày oanh kích kế tiếp. Viena đi cùng chị, lặp lại lời
chị bằng vẻ mặt nghiêm trọng gấp nhiều lần. Tránh xa toà thị chính.
Chị ấy đặc biệt nhấn mạnh điều đó với thị trưởng Kahn. Chị đã nói
ông ấy có thể tới trú ở nhà ai đó vào ngày đó, nhà Sofia, nhà Nicolas,
nhà Matel, hay nhà mình cũng được, Ionah kể với em, và ông ấy chỉ
đáp đơn giản là tôi biết rồi, bình thản, để rồi ông vẫn cứ ở lại toà thị
chính, và ra đi cùng với nó. Em buồn, nhưng cũng hiểu rằng đó là
lựa chọn của ông. Và giờ thì Thị trấn Mùa đông đã có một thị trưởng
mới rồi.
Viena đã lớn, con bé đã cao gần tới ngực em rồi, lúc nào cũng
hoạt bát, tò mò và đặc biệt thông minh. Em đã dạy Viena học chữ, và
bé học rất nhanh, nhanh hơn khi em học với Matsu nhiều. Hoặc là

- 452 -
Thị trấn mùa đông
vì bé có một người thầy tốt hơn, em thích nghĩ như thế. Con muốn
đọc nữa, Viena nói với em, khi chúng em đã học hết và em đã cho bé
đọc một vài thứ em chép ra. Ừ, dì sẽ mang thêm sách cho con, em
đáp, xoa đầu bé. Không cần đâu, Makoto à, Ionah chợt nói, và em
chợt nghe thót lên trong lòng. Điều chị nói tiếp theo đó đúng là điều
em đã mơ hồ lo sợ, sau tất cả. Chị sẽ đưa Viena đến Thành phố Thủy
tinh, chị ôm bé vào lòng, con bé đúng ra thuộc về nơi đó. Nhưng
Ionah ơi, em nói, bàn tay em những muốn níu lấy Viena, kéo con bé
lại bên mình, nhưng em không thể, chị biết đó là một nơi thế nào mà,
nơi ấy không giống như Thị trấn Mùa đông này đâu. Ở đó, chị sẽ…
Chị biết chứ, Makoto à, Ionah dịu dàng đáp, chị và cả bé Viena không
cần được bảo vệ bởi vòng lặp của thị trấn này thêm nữa. Viena cần
lớn lên, và cả chị nữa, chị đã lẩn tránh lẽ tự nhiên quá lâu ở đây rồi.
Nhưng như thế thì một ngày nào đó, chị, rồi cả Viena nữa… Phải rồi,
Ionah mỉm cười, và điều đó đáng sợ đến thế sao, hả Makoto của chị?
Chị thì không nghĩ thế đâu, mắc kẹt ở những ngày hôm qua này mới
thật đáng sợ. Mình chuyển nhà hả mẹ? Đó là câu hỏi hồn nhiên của
Viena. Phải rồi, con yêu, mình sẽ chuyển đến một thành phố… Ở
đó có nhiều sách không ạ? Nhiều, mà cũng chưa đủ nhiều, biết đâu
con sẽ là người làm ra nhiều hơn nữa cho thành phố ấy. Ở đó còn
có rất nhiều các bạn bằng tuổi con để chơi cùng nữa. Các bạn ấy
lúc nào cũng sẽ bằng tuổi con chứ ạ? Phải rồi, con yêu, luôn luôn.
Vậy rút cục mình sẽ chuyển tới đâu hả mẹ? Rốt cuộc chứ, Viena, em
nghĩ. Mình sẽ chuyển tới nơi có ngày mai, con yêu ạ. Viena nghiêng
đầu ra chiều khó hiểu, và bé nhìn sang em, tìm một lời bổ sung. Dì
ơi, sao dì lại khóc?
Ngày nhà ga chính thức mở cửa, em tiễn Ionah và bé Viena ra
tới đó. Sofia đón chúng em ở cổng ga, chị cúi xuống hôn lên cả hai
má Viena. Chị tỏ ra bình thản, em nghĩ chị đã nhìn thấy trước điều

- 453 -
NHẬT PHI

này, đâu đó xung quanh ngày oanh kích cuối cùng. Chị chỉ tỏ ra bất
ngờ khi em đứng lại trước cửa chốt cuối cùng, trước khi nền nhà ga
sa xuống vào một con dốc. Em đứng lại đó, sau khi ôm cả Ionah và
Viena rất lâu. Ionah nói đúng, em không nên buồn, không có gì đáng
buồn cả. Hai bóng người thân thương nhất đối với em trôi xuống xa
dần theo con dốc. Hai hàng đèn vàng chăng dọc hai bên con đường
xuống điểm đón tàu, nhưng em lại cảm tưởng như bóng tối đang
nuốt dần lấy họ. Không, đó tất cả là bóng tối của cái ích kỉ trong em,
em nhận ra khi Viena quay lại, nhiệt thành vẫy tay chào em. Bé đang
đi tới một nguồn sáng khác, một buổi bình minh khác. Nhưng em
vẫn được quyền ích kỉ một chút chứ, phải không anh? Vì em cũng đã
lớn mấy đâu.
Cô không đi ư, Sofia hỏi. Không, em sẽ ở lại, em thì thầm, có
thể một ngày nào đó em sẽ lại xuống tàu để đi thăm họ, nhưng không
phải là bây giờ. Nếu như đi cùng Ionah lúc này và nán lại đó với chị
ấy, em sẽ không bao giờ quay trở lại đây được nữa mất. Vậy là cô chọn
ở lại với Thị trấn Mùa đông? Vâng, em đáp, em ở lại. Em đã chọn ở
lại thị trấn, Rei ạ. Bà Astrid đã đi, Sofia đã trở thành thị trưởng, Thị
trấn Mùa đông cần một người kể chuyện mới, bọn trẻ cần. Như thế
Thị trấn Mùa đông vẫn sẽ là Thị trấn Mùa đông, toàn vẹn, dù không
còn những ngày oanh kích, dù rằng với em, nơi này sẽ không bao giờ
còn được như ngày hôm qua nữa, vì anh, Ionah và Viena đã không
còn ở đây nữa rồi. Em sẽ thay mọi người kể chuyện cho lũ trẻ, những
truyện kể không còn là vòng lặp, và em mong rằng chúng sẽ nhớ, để
rồi chúng có thể lựa chọn, biết rằng mình có thể lựa chọn, những
lựa chọn mà anh đã mở ra cho thị trấn này. Em sẽ kể chuyện gì ấy à?
Anh biết mà, Rei. Truyện về hành trình đi tìm lại cả ngày hôm qua
lẫn ngày mai. Em nói với bọn trẻ, này các em, khi ấy, trên một đỉnh
núi tuyết trắng xoá…

- 454 -
Thị trấn mùa đông
Nhưng mà, Rei này, em biết phải gửi thư này tới đâu bây giờ?
Anh thấy đấy, sau cùng thì em cũng chẳng biết gì cả. Không gì cả.

Sài Gòn, 21/12/2017

- 455 -
NHẬT PHI

- 456 -

You might also like