You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TIỂU LUẬN LUẬT SO SÁNH

NHÓM 9

Trương Tuấn Anh 2336963002


Nguyễn Hoàng Long 2326963021

NHÓM 9
Ngành Luật Thương Mại Quốc Tế

Giảng viên hướng dẫn TS. Đặng Thị Minh Ngọc


Bộ môn Luật So Sánh Chữ ký của GVHD
Lớp F7A-LTMQT

Hà Nội tháng 1 năm 2024


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................3
lOMoARcPSD|31834491

1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
5. Bố cục đề tài...........................................................................................................5
NỘI DUNG.....................................................................................................................6
I. Nguồn luật của các nước civil law............................................................................6
1.1. Nguồn gốc của hệ thống pháp luật civil law..................................................6
1.2. Nguồn luật của hệ thống luật Civil Law........................................................7
1.3. Nguồn luật sơ cấp và nguồn luật thứ cấp......................................................8
1.3.1. Nguồn luật sơ cấp......................................................................................8
1.3.2. Nguồn luật thứ cấp..................................................................................10
II. Nguồn luật của một vài nước civil law tiêu biểu..................................................11
1. Nguồn luật ở Pháp.............................................................................................11
1.1. Pháp luật thành văn..........................................................................................11
1.1.1. Pháp luật thành văn quốc tế......................................................................11
1.1.2. Pháp luật thành văn quốc gia................................................................12
2. Nguồn luật ở Đức.................................................................................................17
2.1. Pháp luật thành văn.........................................................................................17
2.1.1. Pháp luật thành văn quốc tế.....................................................................17
2.1.2. Pháp luật thành văn quốc gia...................................................................18
III. So sánh pháp luật thành văn của hai quốc gia Pháp và Đức............................22
3.1. Giống nhau........................................................................................................22
3.2. Khác nhau.........................................................................................................22
3.3. Ưu và nhược điểm.............................................................................................23
3.4. Đúc kết và đóng góp.........................................................................................23
KẾT LUẬN..................................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................24

2
lOMoARcPSD|31834491

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Pháp và Đức không chỉ là hai quốc gia châu Âu quan trọng với lịch sử lâu
đời và sâu sắc, mà còn là những đại diện nổi bật cho hai truyền thống pháp lý
khác nhau: hệ thống pháp lý Romano-Germanic và hệ thống pháp lý
Napoleonic. Sự khác biệt này không chỉ định hình pháp luật của hai quốc gia
này mà còn ảnh hưởng đến cách thức xây dựng và thực thi pháp luật ở nhiều
quốc gia khác trên thế giới.
Ngoài ra, nghiên cứu đề tài cung cấp một cơ hội tuyệt vời để nghiên cứu và
phân tích sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hệ thống pháp luật, cũng
như vai trò của các yếu tố lịch sử, văn hóa và xã hội trong việc hình thành và
phát triển nguồn luật. Việc nghiên cứu này không chỉ hữu ích cho việc học tập
và nghiên cứu pháp luật, mà còn có giá trị áp dụng trong việc hoạch định chính
sách pháp lý và quản lý pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế.
Nghiên cứu mở ra cánh cửa cho việc so sánh và đánh giá các phương thức
khác nhau trong việc xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật, qua đó đóng
góp vào việc tìm kiếm những giải pháp tối ưu và hiệu quả cho việc xây dựng và
cải cách pháp luật ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn luật trong hệ thống pháp luật của Pháp và Đức: Đây là trọng tâm
chính của đề tài, bao gồm việc phân tích và so sánh nguồn luật chính trong hai
hệ thống pháp luật này, từ văn bản pháp luật, tập quán, tiền lệ pháp, đến các
quyết định của tòa án.
Lịch sử pháp luật và sự phát triển của hệ thống pháp luật Pháp và Đức:
Nghiên cứu sâu về lịch sử pháp lý và các sự kiện, tác động lịch sử đã hình thành
và định hình pháp luật của hai quốc gia này.
So sánh hệ thống pháp luật: Phân tích và so sánh các đặc điểm, cấu trúc,
cũng như phương pháp tiếp cận pháp luật giữa hai quốc gia, từ đó đưa ra cái
nhìn tổng quan về cách thức tổ chức và vận hành hệ thống pháp luật.
Ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Pháp và Đức đối với hệ thống pháp luật
quốc tế và khu vực: Xem xét sự ảnh hưởng và tầm quan trọng của hai hệ thống

3
lOMoARcPSD|31834491

pháp luật này đối với pháp luật quốc tế và các hệ thống pháp luật khác trên thế
giới.
Yếu tố văn hóa, xã hội và chính trị trong phát triển pháp luật: Đánh giá tác
động của các yếu tố văn hóa, xã hội và chính trị đến việc hình thành và thay đổi
nguồn luật trong hai hệ thống pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là:
Cung cấp cái nhìn chi tiết và toàn diện về nguồn gốc, cấu trúc, và các
nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Pháp và Đức, từ đó tăng cường kiến
thức chuyên môn và hiểu biết sâu rộng trong lĩnh vực pháp lý.
Phân tích, so sánh và đánh giá sự khác biệt và tương đồng giữa hai hệ thống
pháp luật, nhằm hiểu rõ ưu điểm và nhược điểm của mỗi hệ thống.
Khám phá và nhận diện ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Pháp và Đức đối
với pháp luật quốc tế và các hệ thống pháp luật khác, cũng như những đóng góp
của chúng tới sự phát triển pháp luật toàn cầu.
Xác định những bài học và kinh nghiệm có thể áp dụng hoặc tham khảo cho
sự phát triển và cải cách pháp luật tại Việt Nam, cũng như trong bối cảnh quốc
tế.
Mục tiêu cuối cùng là đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu pháp luật, bằng
cách cung cấp thông tin, phân tích, và hiểu biết mới mẻ về hai hệ thống pháp
luật có ảnh hưởng lớn này.
Mục đích nghiên cứu này không chỉ hướng tới việc mở rộng kiến thức cá
nhân và học thuật, mà còn tìm cách áp dụng những hiểu biết này vào thực tiễn
pháp lý, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển hệ thống pháp luật ở Việt
Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu (Documentary Research): Phân tích và tổng hợp thông
tin từ các nguồn tài liệu có liên quan bao gồm sách, báo cáo, nghiên cứu học
thuật, và các văn bản pháp luật. Đây sẽ là nguồn cung cấp thông tin cơ bản và
toàn diện nhất về hệ thống pháp luật của cả hai quốc gia.
Phân tích so sánh (Comparative Analysis): So sánh sự giống và khác nhau
giữa hệ thống pháp luật Pháp và Đức. Điều này giúp nhận diện rõ ràng ưu điểm

4
lOMoARcPSD|31834491

và nhược điểm của mỗi hệ thống, cũng như hiểu rõ tác động của chúng đối với
các hệ thống pháp luật khác.
Phương pháp pháp lý so sánh (Comparative Legal Method): Nghiên cứu và
so sánh các nguyên tắc pháp lý, cách thức tổ chức và áp dụng luật ở cả hai quốc
gia, đặc biệt là những khía cạnh liên quan đến nguồn luật và quy trình lập pháp.
Nghiên cứu lịch sử pháp lý (Historical Legal Research): Tìm hiểu về lịch sử
phát triển của nguồn luật và hệ thống pháp luật ở cả Pháp và Đức. Điều này
giúp hiểu rõ nguồn gốc, sự tiến hóa và ảnh hưởng của các hệ thống pháp luật
này.
Các phương pháp nghiên cứu này không chỉ đảm bảo tính toàn diện và sâu
sắc của nghiên cứu, mà còn giúp chúng em tìm hiểu những hiểu biết thực tế và
áp dụng được vào lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là trong việc học tập của cá nhân
cũng như góp phần cải thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam.
5. Bố cục đề tài.
Bài viết bao gồm 3 nội dung chính:
* Chương I: Nguồn luật của các nước civil law.Nguồn luật của một vài nước
civil law tiêu biểu.Bài nghiên cứu của chúng em tuy vẫn còn nhiều thiếu sót do
hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, song chúng em đã cố gắng hết sức để
hoàn thành tiểu luận này một cách tốt nhất. Trong quá trình này, nhóm chúng
em cũng đã có những hiểu biết thêm những kiến thức về dòng họ pháp luật
Civil Law và nguồn luật tại hai quốc gia tiêu biểu của dòng họ pháp luật Civil
Law cũng như các vấn đề về nguồn luật và làm luật tại Việt Nam hiện nay.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn cô Đặng Thị Minh Ngọc đã hướng dẫn và
giúp đỡ tận tình để chúng em có thể hoàn thành bài tiểu luận của mình. Chúng
em cũng mong sẽ nhận được những góp ý, nhận xét từ cô để tiểu luận này
được hoàn thiện hơn nữa.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Nguồn luật của các nước civil law
I.1. Nguồn gốc của hệ thống pháp luật civil law

5
lOMoARcPSD|31834491

Hệ thống pháp luật Common Law và Civil Law đại diện cho hai trường
phái tư duy pháp lý cơ bản. Hệ thống Common Law, bắt nguồn từ Anh, nặng về
việc sử dụng án lệ làm nguồn luật chủ yếu. Án lệ, những quyết định pháp lý
trong quá khứ của các tòa án, trở thành kim chỉ nam hướng dẫn các quyết định
tương lai, tạo ra một hệ thống pháp luật linh hoạt, có khả năng thích ứng với
những thách thức và tình huống mới mẻ.
Ngược lại, hệ thống Civil Law, với nguồn gốc từ La Mã cổ đại, dựa trên các
văn bản pháp luật cụ thể như bộ luật và luật lệ. Đây là một hệ thống pháp luật
có cấu trúc chặt chẽ, trong đó các tòa án tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định
đã được viết ra, đảm bảo sự ổn định và dự đoán được trong việc áp dụng pháp
luật. Mặc dù mỗi hệ thống có những đặc điểm và ưu điểm riêng biệt, nhưng cả
hai đều đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền tảng pháp lý cho các
quốc gia khác nhau trên khắp thế giới, phản ánh sự đa dạng và phức tạp của lĩnh
vực pháp luật.
Civil Law, một trong những hệ thống pháp luật lâu đời nhất thế giới, được
định hình và phát triển chủ yếu dựa trên ảnh hưởng sâu rộng của luật La Mã.
Khởi nguồn từ các tập quán Latinh và luật pháp Hy Lạp cổ đại, luật La Mã
được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật 12 Bảng vào năm 449 TCN. Dù chưa
hoàn chỉnh, Luật 12 Bảng được coi là nền tảng đầu tiên cho luật La Mã. Đến
năm 528, hoàng đế Justinian I đã tiến hành một bước ngoặt lớn bằng việc hệ
thống hóa và điển chế hóa luật La Mã thông qua Corpus Juris Civilis, một công
trình pháp lý quan trọng.
Trong giai đoạn đầu, pháp luật tập quán phát triển từ các tập quán địa
phương, mang tính biệt lập và phân tán. Corpus Juris Civilis, gồm bốn phần
quan trọng - Code, Digest, Institutes và Novels, đã đóng góp đáng kể vào việc
hình thành pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trong khoảng thế kỷ V đến X, pháp luật
còn mang tính đơn giản và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tôn giáo.
Từ thế kỷ XIII, với sự phát triển của các thành phố Châu Âu và hoạt động
thương mại, đã nảy sinh nhu cầu phân biệt giữa tôn giáo, đạo đức và pháp luật.
Điều này cùng với sự khởi đầu của thời kỳ Phục Hưng đã thúc đẩy sự phát triển
của luật dân sự. Sự ra đời của các trường đại học tại Châu Âu, như Đại học
Bologna ở Italia, đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao vai trò của pháp

6
lOMoARcPSD|31834491

luật. Các trường phái luật gia như Glossator, Post-Glossato, Humanists, Usus
Modernus Pandectarium và The Natural Laws School đã từng bước đổi mới và
phát triển hệ thống pháp luật, đặt nền móng cho pháp điển hóa.
Giai đoạn pháp điển hóa và phát triển ngoài lục địa Châu Âu, đánh dấu bằng
sự xuất hiện của các văn bản pháp luật quan trọng như Bản tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 và Bộ luật Dân sự Pháp (Bộ luật
Napoleon) năm 1804. Bộ luật này, dung hòa giữa các yếu tố của luật La Mã và
pháp luật phong kiến, đã trở thành mô hình cho các nước Civil Law. Ngày nay,
Civil Law không chỉ phổ biến ở Châu Âu mà còn được áp dụng rộng rãi trên thế
giới, nhờ vào việc mở rộng thuộc địa và sự học hỏi văn minh pháp lý từ phương
Tây.
I.2. Nguồn luật của hệ thống luật Civil Law
Nguồn chính của hệ thống pháp luật Civil Law chủ yếu là luật thành văn,
trong đó các quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng. Đặc trưng của hệ
thống này là phương pháp tư duy duy lý, từng bước diễn dịch từ các khái niệm
chung, phổ quát đến các trường hợp cụ thể. Điều này xuất phát từ quá trình
pháp điển hóa, nhằm khái quát hóa các tình huống trong cuộc sống vào hệ
thống pháp luật, tạo nên một hệ thống pháp luật chặt chẽ nhưng kém linh hoạt,
hạn chế khả năng sáng tạo của thẩm phán trong việc áp dụng luật.
Các quy phạm pháp luật trong hệ thống Civil Law có các đặc điểm sau:
- Chúng thường được hệ thống hóa trong các văn bản pháp luật và do cơ
quan lập pháp có thẩm quyền ban hành. Thẩm phán chỉ đóng vai trò áp dụng
các quy phạm pháp luật mà không được tự tạo ra chúng.
- Nguyên tắc sự thống trị của luật (règle de droit) được áp dụng, với mong
muốn các quy phạm pháp luật được xây dựng một cách khái quát và chính xác
nhất.
- Tuy nhiên, do không thể khái quát hóa toàn bộ cuộc sống, các nhà lập pháp
thường gặp khó khăn trong việc áp dụng trực tiếp một quy phạm pháp luật vào
trường hợp cụ thể, dẫn đến sự mâu thuẫn trong các quy phạm pháp luật của các
lĩnh vực khác nhau.
- Các quy phạm pháp luật ở các nước Civil Law thường cần sự trợ giúp của
các quy phạm pháp luật phụ trợ để có thể cụ thể hóa các quy phạm pháp luật đó

7
lOMoARcPSD|31834491

giúp cho việc đi vào thực tiễn cuộc sống dễ dàng hơn vì nội dung của các quy
phạm pháp luật mang tính khái quát cao.
Ngoài ra, hệ thống Civil Law còn sử dụng các nguồn luật khác như tập quán
pháp (dù ít quan trọng), các học thuyết pháp luật và các nguyên tắc căn bản như
bình đẳng giới, không phân biệt đối xử. Án lệ cũng ngày càng được sử dụng
nhiều hơn do tính linh hoạt và thực tiễn của nó.

I.3. Nguồn luật sơ cấp và nguồn luật thứ cấp


Trong hệ thống pháp luật của các nước Civil Law, nguồn luật có thể được
chia thành hai loại chính: nguồn luật sơ cấp và nguồn luật thứ cấp. Mỗi loại
nguồn luật này có những đặc điểm và tầm quan trọng khác nhau trong việc
hình thành và áp dụng pháp luật.
I.3.1.Nguồn luật sơ cấp
Nguồn luật sơ cấp bao gồm các quy phạm pháp luật có giá trị ràng buộc trực
tiếp. Các nguồn luật sơ cấp chủ yếu bao gồm:
a. Pháp luật thành văn
- Hiến pháp:
Là văn bản hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định những vấn đề cơ bản nhất về
chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, xã hội; quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước.
- Bộ Luật và Luật:
Bao gồm các luật do cơ quan lập pháp ban hành (thông thường là Nghị Viện
– cơ quan dân cử tối cao; hoặc một số nước thẩm quyền đó được chia sẻ với
Chính Phủ) và có hiệu lực pháp lý rộng rãi.
Bộ Luật khác với Luật về cấu trúc. Do cấu trúc hết sức đồ sộ (với hàng
nghìn điều khoản) nên Bộ Luật thường có bố cục bao gồm rất nhiều quyển
trong khi Luật thì thường có dung lượng ít hơn, vì vậy bố cục cũng ít phân
tầng hơn, gọn hơn.
- Nghị định và Quyết định hành chính:

8
lOMoARcPSD|31834491

Là các văn bản pháp luật do chính phủ hoặc các cơ quan hành chính ban
hành nhằm hướng dẫn thực hiện luật; chi tiết hóa và cụ thể hóa các quy phạm
pháp luật để có thể áp dụng trong thực tiễn cuộc sống
Sự khác biệt căn bản giữa nghị định và chỉ thị hành chính là ở chỗ, Nghị
định chứa đựng các QPPL trong khi Quyết định hành chính đơn giản chỉ đưa
ra cách thức mà Chính phủ hiểu về một đạo luật nào đó và dự định áp dụng
luật đó như thế nào.
b. Tập quán pháp
Tập quán pháp là một tập hợp các thói quen khác nhau trong cộng đồng lớn
hoặc nhỏ về các quyền và nghĩa vụ truyền thống gắn với một xã hội hay một
nền văn hóa cụ thể, tồn tại dưới hình thức truyền miệng, được sử dụng để giải
quết những tranh chấp cụ thể
Tập quán pháp đóng vai trò quan trọng trong tất cả các hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên ngày nay vai trò của tập quán pháp hết sức mờ nhạt, ít còn giá trị
thực tiễn; ở một số các quốc gia như Pháp, tập quán pháp chỉ được sử đụn để
hỗ trợ, mà không thể hủy bỏ hoặc thay thế pháp luật thành văn.
c. Các nguyên tắc chung của pháp luật
Các nguyên tắc chung của pháp luật là chuẩn mực hoặc tập hợp các chuẩn
mực xử sự phổ biến trong một xã hội nào đó hoặc trong toàn thể loài người; là
quy phạm cơ bản làm nền tảng xây dựng các quy phạm khác.
Nguyên tắc chung của pháp luật nảy sinh từ những quy phạm pháp luật thực
định hoặc từ sự tồn tại của bản thân trật tự pháp lý; có thể rút ra từ pháp luật
thành văn hoặc nằm ngoài pháp luật thành văn.
Đối với những vụ án pháp luật không quy định hoặc có quy đinhhj nhưng
còn mâu thuẫn, mơ hồ… thì nguyên tắc chung của pháp luật là nguồn luật duy
nhất, hữu ích nhất để thẩm phán giải quyết vụ việc được đem đến tòa.
I.3.2. Nguồn luật thứ cấp
Nguồn luật thứ cấp bao gồm các quy phạm pháp luật có giá trị thuyết phục
và không ràng buộc một cách trực tiếp. Các nguồn luật thứ cấp thường bao
gồm:
a. Án lệ

9
lOMoARcPSD|31834491

Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể và được cơ quan có thẩm quyền
lựa chọn, công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Thuật ngữ “án lệ” được sử dụng để nói về những phán quyết của tòa án
được chọn lọc và xuất bản ở các nước Civil Law cần phải được hiểu rằng
chúng không đồng nghĩa với “án lệ” ở các nước Common Law, không có giá
trị ràng buộc người thẩm phán xử các vụ việc trong tương lai, bởi lẽ các nước
Civil Law không thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp. Tuy nhiên các quyết định
tòa án không tạo thành “án lệ” nhưng cũng có giá trị pháp lý quan trọng trong
quá trình giải thích, áp dụng pháp luật vào giải quyết các vụ án.
b. Tác phẩm của các học giả pháp lý
Học thuyết Pháp luật (Legal Doctrine) là các luận văn, bài báo, và tác phẩm
nghiên cứu pháp luật viết bởi các học giả, chuyên gia pháp lý tương tự như án
lệ, được xem như nguồn tài liệu đáng tin cậy ở các nước Civil Law để cung cấp
nguồn luật bổ trợ cho công tác xét xử.
Các tác phẩm luật học còn ảnh hưởng đặc biệt mạng và trực tiếp tới phán
quyết của tòa án bởi vì người thẩm phán ở các nước Civil Law thường tìm đến
ý kiến và quan điểm của các nhà khoa học pháp lý để có được giải đáp.
c. Các nguồn luật khác
Ngoài những nguồn luật vừa nêu trên, chúng em có tìm hiểu và xin nêu ra
thêm một số nguồn luật khác mà chúng em đánh giá đây là nguồn luật sơ cấp tại
các nước Civil Law như:
- Quyết định của các tổ chức quốc tế: Bao gồm các phán quyết và hướng
dẫn của các tòa án quốc tế hoặc các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc.
- Ý kiến của các chuyên gia: Bao gồm các bình luận và phân tích pháp lý
của các chuyên gia, luật sư, hoặc tổ chức nghiên cứu.
Như vậy, có thể thấy rằng nguồn luật thứ cấp thường được sử dụng để hỗ trợ
và giải thích nguồn luật sơ cấp, đồng thời cung cấp ngữ cảnh và hướng dẫn cho
việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp cụ thể. Trong khi nguồn luật sơ cấp
có giá trị ràng buộc và là cơ sở pháp lý chính thức, nguồn luật thứ cấp đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành ý thức pháp lý và hỗ trợ quyết định pháp
lý.

10
lOMoARcPSD|31834491

II. Nguồn luật của một vài nước civil law tiêu biểu
1. Nguồn luật ở Pháp
1.1. Pháp luật thành văn
1.1.1. Pháp luật thành văn quốc tế
Pháp luật Pháp không chỉ bao gồm các quy định nội địa mà còn gồm cả các
hiệp định và quy định quốc tế mà Pháp là một phần tham gia. Các thỏa thuận và
hiệp ước này có thể là dạng song phương giữa Pháp và các quốc gia khác, hoặc
là hiệp ước đa phương trong khuôn khổ của tổ chức như Liên minh Châu Âu
hoặc Liên Hợp Quốc. Khi Pháp ký kết và phê chuẩn những hiệp định này,
chúng trở thành một phần không thể tách rời của hệ thống pháp luật quốc gia
Pháp và có giá trị pháp lý ngang bằng với luật nội địa.
Cụ thể, Pháp tham gia và chấp nhận các hiệp ước như Covenants of the
League of Nations1, Covenants of the United Nations 2, Statute of the
International Court of Justice3, cũng như các hiệp ước về nhân quyền, hòa bình,
và các vấn đề quốc tế khác.
Luật quốc tế bao gồm hai nhóm:
- Các Điều ước Quốc tế
- Luật của EU
Những hiệp định quốc tế này không chỉ định hình mối quan hệ quốc tế của
Pháp mà còn góp phần vào việc xác lập các chuẩn mực pháp lý trong nhiều lĩnh
vực như thương mại, môi trường, nhân quyền và luật hình sự. Trong hệ thống
pháp luật Pháp, tuân thủ và áp dụng một số quy định quốc tế không chỉ là một
trách nhiệm pháp lý mà còn là một cam kết với cộng đồng quốc tế, thể hiện sự
tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế cũng như các nguyên tắc toàn cầu.
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật quốc tế trong hệ thống pháp luật nội địa
của Pháp vẫn cần phải thông qua các quá trình chuyển đổi và thích nghi, việc
thực hiện và tích hợp các nguyên tắc quốc tế vào pháp luật nội địa phải thông
qua việc Nghị viện phê chuẩn sẽ có giá trị pháp lý cao hơn luật trong nước
(Điều 55 Hiến pháp năm 1958 4).
1.1.2. Pháp luật thành văn quốc gia
1
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_Qu%E1%BB%91c_Li%C3%AAn
2
https://www.un.org/en/about-us/member-states
3
https://www.icj-cij.org/index.php/all-members
4
https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/03/Hien-phap-CH-Phap-1958.pdf

11
lOMoARcPSD|31834491

Là một quốc gia điển hình trong hệ thống pháp luật các nước Civil Law
khác, luật quốc gia Pháp do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương
và địa phương ban hành, bao gồm: Hiến pháp, bộ luật/luật và văn bản dưới luật
a. Hiến pháp
Lịch sử hiến pháp Pháp bắt đầu vào năm 1789, khi nổ ra Cách mạng Pháp.
Tới nay, trải qua hơn hai thế kỷ, nước Pháp có khoảng 15 bản hiến Pháp dưới
một số chế độ tạm thời, 2 hoàng đế, 4 vua và 22 tổng thống của 5 nền cộng hòa.
Điểm khác nhau chính của các chế độ này là tìm ra một sự cân bằng giữa lập
pháp và hành pháp sau khi đã chọn thể chế cộng hòa. Có thế nhận thấy hai thời
kỳ lớn của lịch sử hiến pháp Pháp. Thời kỳ đầu tiên thừa kế từ chế độ cũ và kéo
dài cho tới sự thành lập nên cộng hòa thứ 3 vào năm 1875. Thời kỳ này kéo dài
gần một thế kỷ với các chế độ phần lớn là chuyên chế nối tiếp nhau. Năm 1875
đánh dấu một bước ngoặt, ghi nhận sự bén rễ của cộng hòa và dân chủ. Nền
cộng hòa thứ ba và thứ tư chưa phải là một hình ảnh hoàn thiện của dân chủ, và
cả hai đã kết thúc trong những bối cảnh khủng hoảng khác nhau5.
Với bề dày lịch sử lâu đời của Pháp đã có rất nhiều bản Hiến pháp được các
nhà cách mạng tạo ra cũng nhưng quy lại chúng em nhận thấy chỉ có 2 bản Hiến
pháp vẫn giữ được giá trị cốt lõi và được sử dụng cho đến nay bao gồm:
- Hiến pháp ngày 3 tháng 9 năm 1791: Dựa theo Bản tuyên ngôn về quyền
con người và công dân được thông qua vào ngày 26 tháng 8 năm 1789, bản hiến
pháp bao gồm cả lời mở đầu của bản tuyên ngôn đó. Nó công nhận lần đầu tiên
một số quyền cá nhân, gồm ba điểm chính: tự do, bình đẳng và sử hữu. Bản
tuyên ngôn về quyền con người và công dân khẳng định nguyên tắc chính phủ
đại diện tối cao của pháp luật và sự phân chia quyền lực. Hiến pháp thiết lập
một nền quân chủ lập hiến.
- Hiến pháp ngày 04/10/1958 (La Constitution du 4 octobre 1958)6
b. Bộ luật và luật
Là những quy định những vấn đề chung, những vấn đề có tính nguyên tắc
mà không thể đi sâu quy định quá cụ thể và chi tiết về các lĩnh vực quan hệ xã

5
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Ph
%C3%A1p#:~:text=Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20ng%C3%A0y%203%20th%C3%A1ng,b%C3%ACnh
%20%C4%91%E1%BA%B3ng%20v%C3%A0%20s%E1%BB%AD%20h%E1%BB%AFu.
6
https://phapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/03/Hien-phap-CH-Phap-1958.pdf , Tọa đàm “Chế
định Chính phủ trong Hiến pháp”

12
lOMoARcPSD|31834491

hội cần điều chỉnh vì làm như vậy nội dung của đạo luật sẽ trở nên quá phức tạo
và đời sống pháp lý của đạo luật sẽ bị rút ngắn do sự vận động không ngừng
của các quan hệ xã hội làm cho các quy định trong đạo luật nhanh chóng trở
nên lạc hậu.
Theo Hiến pháp năm 1958, luật của Pháp được chia thành ba nhóm
(1) Luật do Nghị viện ban hành trong những lĩnh vực quy định cụ thể tại Điều
34
(2) Quy chế (regulation) do Chính phủ ban hành theo Điều 37 (trong những lĩnh
vực còn lại, không thuộc thẩm quyền ban hành luật của Nghị viện liệt kê tại
Điều 34)
(3) Sắc lệnh (ordinance) do Chính phủ ban hành trên cơ sở uy quyền của Nghị
viện theo Điều 38
Do nội dung có hạn, nhóm chúng em sẽ chỉ tập chung phân tích chính về Bộ
luật Dân sự Pháp - được coi là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của luật tư, còn
được gọi là “Hiến pháp dân sự” của Pháp.
Lịch sử ra đời
Bộ Luật Dân sự Pháp, còn được biết đến với tên gọi Code civil des Français,
bắt đầu có hiệu lực từ năm 1804, đã trải qua nhiều lần sửa đổi để phản ánh sự
phát triển của xã hội. Trước khi Bộ luật được ban hành, pháp luật ở miền Nam
Pháp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ luật La Mã, trong khi miền Bắc lại tuân theo
các quy tắc truyền thống. Để thống nhất hệ thống pháp luật đa dạng này, vào
năm 1790, quốc gia này đã quyết định xây dựng một bộ luật dân sự duy nhất.
Sau ba dự thảo không thành công từ 1790 đến 1804, cuối cùng, dưới sự chỉ đạo
của Hoàng đế Napoleon, một nhóm soạn thảo bao gồm các luật gia từ cả hai
miền đã hoàn thành Bộ Luật Dân sự năm 1804 với 2281 điều khoản, chia thành
các phần về quyền con người, tài sản và sở hữu. Các luật khác như luật thủ tục
tố tụng và luật thương mại cũng được phát triển sau đó.
Với sự phát triển của công nghiệp, Bộ Luật Dân sự Pháp đã phải đối mặt với
những hạn chế như việc tập trung vào các hợp đồng liên quan đến lao động và
thuê gia súc, mà lại thiếu điều khoản về hợp đồng lao động cụ thể. Bộ luật này
chú trọng nhiều hơn vào bất động sản so với động sản và có ít quy định về
quyền sở hữu và tự do ký kết hợp đồng. Từ năm 1880 trở đi, những thay đổi

13
lOMoARcPSD|31834491

trong xã hội đã yêu cầu sự điều chỉnh pháp luật, như bổ sung các quy định về
trách nhiệm dân sự không cần lỗi, hoặc hạn chế quyền sở hữu tuyệt đối để bảo
vệ người thuê nhà. Các quy định về gia đình cũng đã được cải tổ, bao gồm luật
ly hôn và quyền của con cái ngoài giá thú.
Sau năm 1945, Pháp bắt đầu cải cách Bộ Luật Dân sự với những thay đổi
quan trọng vào năm 1964 liên quan đến luật gia đình và sau đó là luật ly hôn
năm 1975. Từ năm 2000 trở đi, Pháp tiếp tục cải cách Bộ Luật Dân sự, đặc biệt
là những vấn đề liên quan đến việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, hợp đồng, tài
sản và trách nhiệm dân sự.
Nhân dịp kỷ niệm 200 năm Bộ Luật Dân sự vào năm 2004, Pháp đã thực
hiện các cải cách quan trọng, bắt đầu từ việc sửa đổi phần về trái quyền. Các cải
cách quan trọng khác liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm việc
phân loại bảo đảm thành hai loại: động sản và bất động sản, cũng như tích hợp
các án lệ vào luật. Sự thay đổi trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự cũng đang
được thảo luận để hợp thức hóa các nguyên tắc từ án lệ và hòa nhập với luật
Châu Âu.
Trách nhiệm dân sự đang được cải tổ để trở nên hiện đại và tiếp cận hơn, từ
việc mở rộng trách nhiệm dân sự của các tổ chức và cá nhân cho đến việc gây
thiệt hại cho cộng đồng và môi trường. Các vấn đề liên quan đến sở hữu cũng
đang được xem xét để cập nhật, bao gồm cả việc cho phép phân chia quyền sở
hữu và ủy thác quản lý tài sản, phản ánh sự phát triển của xã hội và nhu cầu của
thế kỷ 21.
Cấu trúc (Bộ luật nên được chia thành nhiều quyển)
+ Giai đoạn đầu khi mới được ban hành, BLDS Pháp bao gồm 3 quyển:
* Quyển một “Về người”: chứa đựng những quy định về việc hưởng thụ
quyền dân sự; quan hệ giữa cha mẹ và con cái (con trong và ngoài giá thú, con
nuôi; giám hộ trách nhiệm của người giám hộ); kết hôn, quan hệ vợ chồng và ly
hôn. Tr.241
* Quyển hai “Về vật”: quy định về vât (tức tài sản, có phân biệt giữa
đọng sản với bất động sản và các tài sản gắn liền với bất động sản); về quyền sở
hữu tài sản, hoa lợi và quyền hưởng hoa lợi và nhà ở ….

14
lOMoARcPSD|31834491

* Quyền ba “Về cách thức tiếp nhận quyền tài sản”: là quyển đồ sộ nhất,
quy định về những cách tiếp nhận quyền sở hữu tài sản với những điều khoản
điều chỉnh quan hệ hình thành trong lĩnh vực thừa kế (một hình thức đặc biệt để
tiếp nhận quyền sở hữu), tặng cho, hôn sản; các quy định về hợp đồng (gồm
năng lực giao kết hợp đồng, giải thích hợp đồng, chế tài vi phạm hợp đồng….);
về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng; về làm giàu bất chính, còn được coi là
quan hệ bán hợp đồng đặc biệt; và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quân sự….. Tự
do hợp đồng mặc dù không được quy định riêng thành một điều khoản nhưng là
nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt nhiều quy định của Bộ Luật.
Việc phân chia Bộ luật thành ba quyển theo tiêu chí mà ban soạn thảo
lựa chọn có thể đáp ứng được yêu cầu điểu chỉnh các quan hệ dân sinh thời đó,
nhưng đã vô hình chung chia cắt chế định ra làm hai mảng: những quan hệ phi
tài sản được điều chỉnh bởi quyển một trong khi những quy định gắn với tài sản
được điều chỉnh bởi quyển ba. Trong tư duy của các luật gia thời nay, dường
như cấu trúc đó thiếu logic.
+ Ngày nay, sau nhiều lần chỉnh sửa, BLDS Pháp đã có cấu thúc đồ sộ
hơn và được bổ sung hai quyển mới:
* Quyển bốn “Biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, gồm:
(1) Các biện pháp bảo đảm với tư cách cá nhân như: trách nhiệm của
người đứng ra bảo đảm (suretyship), bảo lãnh độc lập và thư dự định (letter of
intent)
(2) Các biện pháp bảo đảm bằng tài sản của các nhanh hoặc của công ty.
* Quyển năm “Các điều khoản có thể áp dụng ở Mayotte”7. Ngoài ra, tên
của quyển năm còn được sửa thành “Hàng hóa và những thay đổi về quyền sở
hữu”.
Bộ Luật Dân sự Pháp bao gồm các chế định cơ bản như trách nhiệm dân
sự và trách nhiệm chứng minh lỗi, trách nhiệm bảo trợ và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Trong hệ thống pháp luật Pháp, nguyên đơn phải chứng minh
rằng họ đã bị thiệt hại. Tại tòa sơ thẩm, quy trình đòi hỏi việc thu thập chứng
cứ, còn tại tòa phá án, các chứng cứ và tình tiết sẽ được đánh giá để xác định
trách nhiệm pháp lý, ý định cố ý hoặc sự bất cẩn, cũng như xác định trách
nhiệm của các bên liên quan.
7
Một lãnh thổ ở nước ngoài của Pháp nàm giữa châu Phi và Madagascar

15
lOMoARcPSD|31834491

Với trách nhiệm bảo trợ, Điều 1384 của Bộ Luật Dân sự quy định rằng
người có trách nhiệm bảo trợ chỉ được miễn trách nhiệm nếu họ chứng minh
được rằng thiệt hại là do nguyên nhân bất khả kháng. Tiêu chí này bao gồm
nguyên nhân từ bên ngoài, không thể lường trước và không thể chống lại được.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn liên quan đến việc khắc phục và bồi
thường như thế nào cho các thiệt hại xảy ra. Luật Pháp đề cập đến trách nhiệm
của cá nhân và công ty bảo hiểm trong việc bồi thường thiệt hại từ các vụ việc
như tai nạn giao thông. Trong trường hợp tai nạn, pháp luật xem xét ai là người
gây ra và vật gây ra tai nạn để xác định trách nhiệm.
Về các quy định liên quan đến sở hữu và tài sản, Điều 544 của Bộ Luật Dân
sự xác định quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách
tuyệt đối, miễn là không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, quyền sở hữu không
phải là tuyệt đối và có thể bị hạn chế bởi các quy định khác.
Quyền địa dịch trong luật Pháp được phân chia thành hai loại: địa dịch theo
quy định của luật và địa dịch dựa trên sự thỏa thuận. Các hạn chế đối với quyền
sở hữu bao gồm việc ngăn chặn lạm dụng tài sản của mình một cách không phù
hợp, gây hại cho người khác, cũng như tuân thủ các quy định liên quan đến
quyền địa dịch.
Tại Pháp, không có giấy chứng nhận sở hữu rõ ràng như ở một số quốc gia
khác. Tuy nhiên, người dân có thể đăng ký sở hữu tài sản mà họ đã chiếm hữu
trong một thời gian nhất định - 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với
động sản - thông qua thủ tục tại phòng công chứng.
Các cải cách trong luật về tài sản và quyền sở hữu tại Pháp được thúc đẩy
bởi sự phát triển của xã hội và nền kinh tế, cũng như sự xuất hiện của các hình
thức tài sản mới. Một ủy ban cải cách đã được thành lập để xem xét và đề xuất
các thay đổi nhằm cập nhật và đơn giản hóa các quy định hiện hành, bao gồm
cả việc thêm quy định mới về tài sản vô hình và quyền liên quan đến tài sản.
Bộ Luật Dân sự Pháp đề cập đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,
hợp đồng ủy thác quản lý tài sản và bảo đảm tài sản. Trong vòng 5 năm qua,
luật về giao dịch bảo đảm đã được phát triển để tăng cường sự truy cập và hiểu
biết về các văn bản pháp lý liên quan. Các biện pháp bảo đảm này được chia
thành hai loại chính: bảo đảm cá nhân và bảo đảm tài sản.

16
lOMoARcPSD|31834491

Bảo đảm cá nhân bao gồm bảo lãnh, bảo lãnh độc lập và thư bảo trợ. Bảo
đảm tài sản được phân loại thành bảo đảm bằng động sản và bảo đảm bằng bất
động sản. Hợp đồng ủy thác quản lý tài sản được thiết kế để đảm bảo sự cân
bằng và hiệu quả, cho phép người đi vay sử dụng tài sản mà không cần chuyển
giao nó cho người cho vay.
Các biện pháp bảo đảm bằng bất động sản không cho phép người nhận bảo
đảm sử dụng tài sản đó, nhưng họ có quyền thu hồi nó nếu người vay không trả
nợ. Có sự mở rộng danh sách các tài sản có thể được sử dụng làm bảo đảm, bao
gồm cả tài sản hình thành trong tương lai. Pháp luật Pháp cũng đã cải thiện để
bảo vệ cả người vay và người cho vay, với các yêu cầu về sự rõ ràng và chính
thức trong bảo lãnh.
Về luật hợp đồng, Pháp phân biệt giữa hợp đồng dân sự và thương mại, với
các quy định riêng biệt cho mỗi loại. Quy định về hợp đồng tiêu dùng được
thiết kế để bảo vệ người tiêu dùng, yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin
đầy đủ về sản phẩm và dịch vụ. Quy trình ký kết hợp đồng yêu cầu sự thể hiện
rõ ràng ý chí của các bên và sau khi ký kết, mối quan hệ pháp lý giữa các bên
được thiết lập rõ ràng, với quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể.
c. Các văn bản dưới luật:
Cũng giống như các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law, các văn bản
dưới luật là các văn bản bao gồm các Nghị định của Tổng thống hay của thủ
tướng; lệnh của liên bộ hoặc của bộ; quyết định hành chính của thị trưởng
hoặc quận trưởng…. nhằm hướng dẫn thực hiện luật; chi tiết hóa và cụ thể
hóa các quy phạm pháp luật để có thể áp dụng trong thực tiễn cuộc sống
2. Nguồn luật ở Đức
Về lý thuyết Đức chỉ có hai nguồn luật chính thức là pháp luật thành văn và
tập quán pháp. Ngày nay trên thực tế, phán quyết của tòa án cũng đã được phát
triển thành án lệ. Tương tự với Pháp, Đức cũng là thành viên của EU vì vậy
phải tuân thủ án lệ của ECJ. Tuy nhiên, phần dưới đây chúng em chỉ đi sâu tập
trung đi sâu vào nguồn luật là pháp luật thành văn.

17
lOMoARcPSD|31834491

2.1. Pháp luật thành văn


2.1.1. Pháp luật thành văn quốc tế
Pháp luật thành văn quốc tế bao gồm các điều ước quốc tế mà Đức ký kết
hoặc tham gia và Luật EU. Với cách tiếp cận theo thuyết nhị nguyên, điều ước
quốc tế (bao gồm cả các điều ước của Liên hiệp quốc) mà Đức ký kết hoặc
tham gia chỉ có hiệu lực khi được cơ quan lập pháp thể chế hóa thành nội luật
(Điều 59 HPLB)
Hiến pháp Liên bang Đức quy định rõ nguyên tắc chung của luật quốc tế là
một phần không thể thiếu của luật liên bang và có giá trị hiệu lực thấp hơn Hiến
pháp nhưng cao hơn luật của liên bang và các bang (Điều 25). Tương tự như ở
các nước thành viên khác của EU, ở Đức, luật của EU sẽ có giá trị cao hơn luật
quốc gia, nếu luật quốc gia không tương thích với luật của EU, toàn án Đức
phải ưu tiên sử dụng luật của EU.

2.1.2. Pháp luật thành văn quốc gia


a. Pháp luật thành văn quốc gia nói chung
Pháp luật quốc gia được định nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật
có mối liên hệ nội tại thống nhất, được chia thành các chế định pháp luật và các
ngành luật. Đây là những quy định được nhà nước ban hành theo trình tự và
hình thức nhất định. Bao gồm cả các quy phạm pháp lý thành văn lẫn không
thành văn, pháp luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ pháp lý nội bộ của quốc
gia và thường có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia đó.
Nguồn gốc của pháp luật quốc gia đa dạng, từ các điều ước quốc tế, văn bản
quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp, đến các bản án và quyết định
của tòa án hay trọng tài quốc tế.
Về sự hình thành pháp luật quốc gia, có hai con đường chính: Nhà nước đặt
ra các quy tắc mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội không hiệu quả qua các
quy tắc khác, hoặc Nhà nước thừa nhận và nâng các quy tắc xử sự có sẵn trong
xã hội lên thành luật.
Pháp luật quốc gia thể hiện ý chí của nhà nước, tức ý chí của giai cấp cầm
quyền hoặc liên minh giai cấp cầm quyền. Phạm vi điều chỉnh của nó bao gồm
các quan hệ xã hội phát sinh trong mỗi quốc gia. Chủ thể của pháp luật quốc gia

18
lOMoARcPSD|31834491

gồm các tổ chức và cá nhân như cá nhân, pháp nhân, tổ chức và nhà nước.
Phương thức thực hiện của pháp luật quốc gia bảo đảm bởi các thiết chế riêng
của mỗi quốc gia như Quân đội, Cảnh sát, Tòa án.
Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia phản ánh sự tác
động qua lại, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai hệ thống này. Sự tác động của
pháp luật quốc gia lên pháp luật quốc tế thể hiện qua việc đưa ý chí quốc gia
vào nội dung của luật quốc tế thông qua các thỏa thuận. Ngược lại, pháp luật
quốc tế cũng tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật
quốc gia, đặc biệt trong các lĩnh vực như nhân quyền, phát triển kinh tế, môi
trường. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia cùng phát triển trong mối quan
hệ biện chứng, phản ánh sự thống nhất giữa chức năng đối nội và đối ngoại
trong hoạt động của nhà nước.
Nói về pháp luật thành văn của Đức là nói tới Hiến pháp liên bang; Bộ luật,
luật do Nghị viện ban hành; và các văn bản dưới luật
- Hiến pháp là Đạo luật Cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức, quy định cấu
trúc cơ bản và những nguyên tắc tổ chức thiết yếu của Nhà nước và các cơ quan
nhà nước cao nhất. Trong hệ thông quy phạm pháp luật quốc gia, quy định của
Hiến pháp là đứng vị trí cao nhất và Hiến pháp được cao là đạo luật gốc, vì vậy
mọi quy phạm pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp về cả hình thức và nội
dung.
Được phê chuẩn ngày 8 tháng 5 năm 1949 tại Bonn với chữ ký của 3 quốc
gia Anh, Pháp, Hoa Kỳ phe đồng minh phương Tây ngày 12 tháng 5 năm 1949
và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 5 năm 1949, được sửa đổi vào ngày 20 tháng 12
năm 1993
- Bộ luât, luật do Nghị viện Đức ban hành có giá trị thấp hơn Hiến pháp
Liên bang và cao hơn các quy chế, quyết định của các cơ quan chính quyền nhà
nước ở trung ương và địa phương.
Đức là một nhà nước liên bang do 16 bang hợp thành, vì vậy luật liên bang
áp dụng trên toàn quốc; còn luật của bang chỉ hiệu lực trong từng bang.
- Các văn bản dưới luật là các văn bản do các cơ quan chính quyền nhà
nước ở trung ương và địa phương ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện luật;

19
lOMoARcPSD|31834491

chi tiết hóa và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật để có thể áp dụng trong thực
tiễn cuộc sống
b. Bộ luật Dân sự Đức
Bộ luật Dân sự Đức, một thành tựu nổi bật của pháp luật Châu Âu lục địa,
có nguồn gốc từ luật La Mã cổ và phát triển theo học thuyết Pandekten. Cấu
trúc của Bộ luật này bao gồm những nguyên tắc chung, vật quyền, trái quyền,
luật về gia đình và luật thừa kế. Bộ luật này được hoàn thiện vào ngày
18/8/1896 và có hiệu lực từ 01/01/1900, đặc trưng bởi sự chi tiết và tính chất
trừu tượng cao.
Lịch sử ra đời
Trước cải cách
(1) Năm 1874, một ủy ban (Ủy ban thứ nhất) gồm mười một thành viên
(sáu thẩm phán, ba quan chức và hai giáo sư) được chỉ định soạn thảo BLDS
Đức. Ủy ban làm việc độc lập, hoàn toàn không tham khảo ý kiến của đại diện
ngành, các nhóm xã hội và công bố dự thảo lần thứ nhất vào năm 1887.
Kết quả: Gặp phải làn sóng chỉ trích vì
* Bị cho là có cấu trúc quá kinh viện (Scholastic)
* Có các khái niệm quá trừu tượng, mang hơi thở của trường phái thực
chứng
* Có quá nhiều biệt ngữ pháp lý được sử dụng ở tất cả những nơi “thích
hợp”
* Có độ chính xác tới mức “hy sinh” cả tính rõ ràng và dễ hiểu của dự
luật.
* Có hệ thống tham khảo chéo hết sức phức tạp
Vì vậy dự thảo đã thất bại mặc dù những phê phán nói trên không có
nhiều hệ quả thực tiễn.
(2) Năm 1890, Ủy ban thứ hai được thành lập, gồm những người không có
chuyên môn về luật (một giám đốc ngân hàng; một giác đốc kiểm lâm; một giáo
sư kinh tế quốc dân; và không dưới ba địa chủ nhỏ) để tiếp tục hoàn thiện dự
thảo lần một.
Kết quả: Tuy cách làm việc của họ cởi mở hơn so với Ủy ban thứ nhất
nhưng cũng chỉ dừng lại ở những sửa đổi ngôn ngữ thuần túy trong dự thảo lần

20
lOMoARcPSD|31834491

thứ nhất. Tuy nhiên, sản phẩm dự thảo lần thứ hai đã được thông qua ngày
18/08/1896 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1900.
Sau cải cách
Mặc dù vấp phải rất nhiều chỉ trích và bất cập nhưng BLDS Đức được cho
là hết sức trường tồn, bởi lẽ ngoài luật gia đình, phần còn lại của Bộ luật hầu
như vẫn trụ vững trong suốt 100 năm kể từ khi Bộ luật có hiệu lực, đặc biệt là
Luật nghĩa vụ. Tuy nhiên, người Đức đã sớm nhận thức được nhu cầu cải cách
Bộ luật vì hai lý do chính:
(1) do nhiều bất cập cả về cấu trúc và nội dung của Bộ luật
(2) do phải thực thi pháp luật quốc tế, luật của EC trước đây và EU ngày
nay
Cấu trúc Bộ luật Dân sự Đức
Bộ luật Dân sự Đức cũng được sửa đổi hai lần, vào các năm 1977 và 2003,
để phù hợp hơn với các yêu cầu xã hội và kinh tế. Với sự phân chia cụ thể vào
năm quyển, Bộ luật cung cấp một hệ thống pháp luật chi tiết và toàn diện, phản
ánh rõ ràng các nguyên tắc của luật La Mã cổ đại.
* Quyển một “Quy định chung” cung cấp các định nghĩa về các thuật ngữ
pháp lý được sử dụng trong bốn quyển còn lại của Bộ luật.
* Quyển hai “Luật nghĩa vụ” lần lượt quy định về phạm vi của nghĩa vụ,
nghĩa vụ hợp đồng, chấm dứt nghĩa vụ; chuyển nhượng quyền yêu cầu; gánh
vác nghĩa vụ thay thế cho người khác (assumption of debt); nhiều con nợ và chủ
nợ; những loại nghĩa vụ cụ thể.
* Quyển ba “Luật sở hữu” quy định về chiếm hữu; sở hữu và các quyền tài
sản khác (ví dụ: quyền đối với đất đai, quyền sử dụng tài sản để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ dân sự như thế chấp, cầm cố tài sản ….) và quy định cách thức
chuyển nhượng những quyền này.
* Quyển bốn “Luật gia đình” quy định về kết hôn dân sự (tại các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền); về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, về
giám hộ, người trông coi, người chăm sóc (người vị thành niên); và quy định về
hôn sản.
* Quyển năm “Luật thừa kế” quy định về cách xử lý di sản của người chết
là bất động sản. Cụ thể gồm các quy định về thừa kế; địa vị pháp lý của người

21
lOMoARcPSD|31834491

hưởng thừa kế; di chúc; hợp đồng thừa kế; chia tài sản băts buộc; không có tư
cách thừa kế; từ bỏ quyền thừa kế; chứng nhận quyền thừa kế; và mua quyền
thừa kế.
Bộ luật Dân sự Đức khác biệt với Bộ luật Napoleon của Pháp ở một số
điểm chính. Trong khi Bộ luật Napoleon dựa trên phương thức Institutiones, với
cấu trúc gồm luật về con người, luật về vật, luật di chuyển vật và luật tố tụng,
thì Bộ luật Dân sự Đức dựa trên phương thức Pandekten. Pandekten nâng luật
La Mã cổ thành học thuyết khoa học, với cấu trúc bao gồm nguyên tắc chung,
vật quyền, trái quyền, gia đình và thừa kế.
GS.TS. Morishima Akiko và GS.TS. Matsuo Hiroshi từ Đại học Keio
nhấn mạnh rằng, mặc dù cả hai phương thức Institutiones và Pandekten đều bắt
nguồn từ luật La Mã, chúng phát triển thành hai hướng riêng biệt trong lịch sử
pháp luật.
Điểm đặc biệt của Bộ luật Dân sự Đức là sự tách biệt giữa quy định trái
quyền và vật quyền. Nguyên tắc tách biệt này cho phép sự vô hiệu của một
quan hệ trái quyền không ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch vật quyền. Bên
cạnh đó, Bộ luật còn có những quy định độc đáo về thụ đắc ngay tình, chuyển
dịch quyền sở hữu và quyền cầm giữ.
Bộ luật Dân sự Đức không coi quyền cầm giữ là vật quyền mà chỉ xem
là quyền từ chối giao vật dựa trên trái quyền. Điều này khác biệt so với quan
điểm của một số hệ thống pháp luật khác.
Nhìn chung, Bộ luật Dân sự Đức là một mô hình pháp luật có sự cân
nhắc kỹ lưỡng, tách biệt và chi tiết, phù hợp với những yêu cầu phức tạp của xã
hội hiện đại.
III. So sánh pháp luật thành văn của hai quốc gia Pháp và Đức
3.1. Giống nhau
Cả hai hệ thống pháp luật Pháp và Đức đều có nguồn gốc từ luật La Mã,
với cấu trúc và hệ thống quy định pháp luật chi tiết và toàn diện. Cả hai đều là
các hệ thống pháp luật lục địa tiêu biểu, với sự nhấn mạnh vào các quy định
pháp lý thành văn và học thuyết pháp lý.

22
lOMoARcPSD|31834491

3.2. Khác nhau


Phương pháp lập pháp: Pháp theo phương thức Institutiones, với cấu trúc
đơn giản và dễ hiểu, trong khi Đức theo phương thức Pandekten, với cấu trúc
phức tạp và tính chất trừu tượng cao.
Bộ luật Dân sự Pháp nhấn mạnh đến sự thuận tiện và gần gũi, trong khi
Bộ luật Dân sự Đức tập trung vào tính chất trừu tượng và học thuật.
Bộ luật Dân sự Pháp được thiết kế dựa trên chế định trái quyền và vật
quyền, trong khi Bộ luật Dân sự Đức phân chia rõ ràng giữa trái quyền và vật
quyền, với nhấn mạnh mạnh mẽ vào sự tách biệt giữa chúng.
3.3. Ưu và nhược điểm
Bộ luật Dân sự Pháp dễ tiếp cận và áp dụng cho công chúng rộng rãi
hơn, trong khi Bộ luật Dân sự Đức mang tính học thuật và chuyên môn cao, phù
hợp cho các chuyên gia pháp lý.
Bộ luật Dân sự Đức có ưu điểm trong việc xử lý các vấn đề pháp lý phức
tạp, nhờ vào sự chi tiết và tách biệt trong quy định của mình, trong khi Bộ luật
Dân sự Pháp có thể không đủ chi tiết trong một số trường hợp cụ thể.
3.4. Đúc kết và đóng góp
Bài học cho bản thân:
Cả hai hệ thống pháp luật đều cung cấp các góc nhìn khác nhau trong
việc tiếp cận với pháp luật. Sự hiểu biết về cả hai hệ thống giúp nâng cao kỹ
năng phân tích pháp lý và hiểu biết sâu sắc hơn về sự đa dạng của pháp luật thế
giới.
Đóng góp cho xã hội:
Sự so sánh và hiểu biết về hai hệ thống pháp luật này giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn về cách thức mà các hệ thống pháp lý có thể được cải tiến và tinh
chỉnh để phù hợp hơn với nhu cầu cụ thể của từng quốc gia và văn hóa pháp lý
của mỗi nước.
Cả hai hệ thống pháp luật của Pháp và Đức đều có những ưu điểm và
hạn chế riêng, phản ánh đặc điểm văn hóa và lịch sử pháp lý của mỗi quốc gia.
Việc nghiên cứu và hiểu biết sâu sắc về cả hai hệ thống này có thể cung cấp
những góc nhìn quý giá trong việc phát triển và cải tiến hệ thống pháp luật.

23
lOMoARcPSD|31834491

KẾT LUẬN
Cả hai hệ thống pháp luật này, mặc dù có những điểm tương đồng do
nguồn gốc chung từ luật La Mã, nhưng cũng tồn tại những sự khác biệt rõ ràng,
phản ánh đặc trưng văn hóa và lịch sử pháp lý riêng biệt của mỗi quốc gia.
Hệ thống pháp luật Pháp, được thể hiện rõ qua Bộ luật Dân sự Pháp, nổi
bật với sự đơn giản, dễ hiểu, và tiếp cận được với số đông công chúng. Nó phản
ánh sự cân nhắc về sự tiện lợi và tính bình đẳng trong quản lý pháp lý. Mặt
khác, hệ thống pháp luật Đức, với Bộ luật Dân sự Đức, lại chú trọng vào tính
chất trừu tượng, học thuật và chi tiết, phù hợp với nhu cầu của giới chuyên môn
và giải quyết các vấn đề pháp lý phức tạp.
Nguồn luật của cả hai hệ thống đều bao gồm các văn bản quy phạm pháp
luật, tiền lệ pháp, tập quán, và điều ước quốc tế. Tuy nhiên, cách thức tổ chức
và áp dụng các nguồn luật này lại khác nhau, điều này phản ánh sự đa dạng
trong cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề pháp lý.
Những hiểu biết này không chỉ mở rộng tầm nhìn về pháp luật thế giới
mà còn cung cấp những bài học quý giá về việc làm thế nào để xây dựng và
phát triển hệ thống pháp luật phù hợp với từng văn hóa và bối cảnh xã hội cụ
thể. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc hiểu và tôn trọng sự khác biệt
văn hóa trong xây dựng và thực thi pháp luật, đồng thời cũng mở ra cơ hội cho
sự hợp tác và học hỏi lẫn nhau giữa các hệ thống pháp lý khác nhau trên thế
giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Luật Hà Nội, 2017. Giáo trình Luật so sánh. NXB Công an
Nhân dân, tái bản lần thứ 11 có sửa đổi, bổ sung.
2. Prf. Dr. Helmut Köhler, Dẫn đề cho Bộ luật Dân sự Đức (BGB), xuất
bản lần thứ 63, năm 2009, Nxb. Beck-Texte im dtv.
3. Guy Gavinet, Chánh án Tòa án Tư pháp tối cao Cộng hòa Pháp, Báo cáo
dẫn đề Hội thảo kỷ niệm 200 năm Bộ luật Dân sự Pháp, ngày 03-
05/11/2004, Nhà pháp luật Việt - Pháp.
4. Báo cáo dẫn đề Hội thảo kỷ niệm 200 năm Bộ luật Dân sự Pháp, ngày
03-05/11/2004, Nhà pháp luật Việt - Pháp.

24
lOMoARcPSD|31834491

5. GS.TS. Matsuo Hiroshi, xem trong Báo cáo về chuyến khảo sát tại Nhật
Bản từ ngày 27/02/2012- 10/3/2012 nhằm phục vụ soạn thảo Bộ luật
Dân sự (sửa đổi) do JICA tổ chức.

DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ ĐÁNH GIÁ CHÉO KẾT QUẢ LÀM VIỆC
NHÓM CỦA CÁC THÀNH VIÊN
1. Danh sách thành viên nhóm 13

STT Họ và tên MSSV Vai trò Điểm đánh


giá

1 Trương Tuấn Anh 2336963002 Trưởng Nhóm 10

2 Nguyễn Hoàng Long 2326963021 Thành viên 10

(*): Điểm đánh giá trung bình chung của các thành viên sau khi xem xét Phiếu đánh
giá chéo kết quả làm việc nhóm tại các trang ….

25
lOMoARcPSD|31834491

2. Phiếu Đánh giá chéo kết quả làm việc nhóm của các Thành viên
2.1 Trương Tuấn Anh
PHIẾU ĐÁNH GIÁ CHÉO KẾT QUẢ BÀI TẬP NHÓM 13
MÔN HỌC: LUẬT SO SÁNH
Đề tài: Nguồn luật của hệ thống pháp luật Anh, Mỹ dưới góc độ so sánh

Người đánh giá Trương Tuấn Anh


MSSV 2336963002
Vai trò trong nhóm Trưởng Nhóm
Công việc đảm nhiệm  Phác thảo nội dung
 Phần mở đầu; Nội dung I, II
 Thiết kế bản Word
 Kiểm tra và đánh giá chung tiến độ làm việc
của thành viên trong nhóm.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM CỦA TỪNG THÀNH VIÊN
Các nội dụng được cho điểm theo thang điểm: 6 - chưa đạt, 7 - cần cải thiện, 8 - đáp
ứng cơ bản (vẫn còn nhiều thiếu sót), 9 - đáp ứng đầy đủ và đạt chuẩn yêu cầu, 10 -
hoàn thành xuất sắc các yêu cầu đặt ra.
STT Tiêu chí đánh giá Trương
Tuấn Anh

1 Tham gia họp đầy đủ, tích cực đóng góp ý kiến. 10

26
lOMoARcPSD|31834491

2 Luôn hoàn thành công việc đúng hạn. 10


3 Có ý thức tìm hiểu thêm để công việc đạt kết quả cao, có sản 10
phẩm chất lương.
4 Có thái độ đúng mực, hợp tác với các thành viên trong nhóm 10

Điểm trung bình 10


Hà Nội, ngày 2 tháng 1 năm 2024
Người đánh giá

Nguyễn Hoàng Long


2.2 Nguyễn Hoàng Long
PHIẾU ĐÁNH GIÁ CHÉO KẾT QUẢ BÀI TẬP NHÓM 13
MÔN HỌC: LUẬT SO SÁNH
Đề tài: Nguồn luật của hệ thống pháp luật Anh, Mỹ dưới góc độ so sánh

Người đánh giá Nguyễn Hoàng Long


MSSV 2326963021
Vai trò trong nhóm Thành viên
Công việc đảm nhiệm  Phần Nội dung II, III
 Phần Kết luận
 Tạo mẫu Phiếu đánh giá chéo làm việc
nhóm

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM CỦA TỪNG THÀNH VIÊN
Các nội dụng được cho điểm theo thang điểm: 6 - chưa đạt, 7 - cần cải thiện, 8 - đáp
ứng cơ bản (vẫn còn nhiều thiếu sót), 9 - đáp ứng đầy đủ và đạt chuẩn yêu cầu, 10 -
hoàn thành xuất sắc các yêu cầu đặt ra.
ST Tiêu chí đánh giá Nguyễn Hoàng
T Long

1 Tham gia họp đầy đủ, tích cực đóng góp ý kiến. 10

27
lOMoARcPSD|31834491

2 Luôn hoàn thành công việc đúng hạn. 10


3 Có ý thức tìm hiểu thêm để công việc đạt kết quả cao, có 10
sản phẩm chất lương.
4 Có thái độ đúng mực, hợp tác với các thành viên trong 10
nhóm
Điểm trung bình 10
Hà Nội, ngày 2 tháng 1 năm 2024
Người đánh giá

Trương Tuấn Anh

28

You might also like