You are on page 1of 7

Câu hỏi 1: Tóm tắt toàn bộ nội dung bản án

Trong vụ án tranh chấp đất giữa bà Nguyễn Thị Kim P và bà Phạm


Thị Hồng L, bản án phúc thẩm đã được đưa ra sau quá trình xem xét chi tiết.
Ban đầu, UBND thành phố Đông Hà cấp đất cho bà Phạm Thị Hồng L vào
năm 2004, nhưng sau đó bà Hồng L tặng một phần đất cho ông Lê Quang
M1 và bà Võ Thị T2. Thửa đất này sau đó được chia thành hai phần và
chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim P.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/7/2018 đã được
kí và công chứng, tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm đã đánh giá rằng hợp đồng này
vi phạm quy định về hình thức giao dịch dân sự.
Bà Nguyễn Thị Kim P đã kháng cáo, nhưng Tòa án sơ thẩm sau đó
không chấp nhận yêu cầu của bà và vô hiệu hóa hợp đồng chuyển nhượng,
quyết định này được duy trì bởi Tòa án phúc thẩm. Bà Nguyễn Thị Kim P
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được đối trừ số tiền tạm ứng đã
nộp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án và duy trì
quyết định sơ thẩm về vô hiệu hóa hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
19/7/2018. Bản án tập trung chủ yếu vào xác định tính hiệu lực của hợp
đồng chuyển nhượng và từ chối yêu cầu đòi lại nhà và đất của bà Nguyễn
Thị Kim P do vi phạm quy định hình thức giao dịch dân sự.
Câu hỏi 2: Nêu ra tất cả các vấn đề pháp lý được nêu ra trong bản
án và cách nhận định của Toà về các vấn đề pháp lý đó. Nếu có vấn đề
pháp lý toà chưa nêu thì ghi ra kèm luôn
Cơ sở pháp lý:
- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất.
Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết[2]. Như
vậy tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận tức là Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, hiện nay là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác trên đất hoặc các loại giấy từ quy định
tại điều 100 Luật Đất đai 2013 (như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm
thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng
ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15/10/1993; Giấy tờ hợp pháp về thừa
kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; …) và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất (đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thì thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân. Thủ tục giải quyết là thủ tục tố tụng dân sự
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai
2013.
Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai
2013 thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết
tranh chấp sau:
- Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền;
- Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy đối với tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định
tại Điều 100 của Luật Đất đai 2013 thì đương sự chỉ được lựa chon một
trong hai hình thức giải quyết như trên. Cũng theo quy định trên thì Tòa án
nhân dân vẫn có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với
tranh chấp đất đai nói trên nếu được đương sự lựa chọn khởi kiện tại Tòa án
nhân dân có thẩm quyền.
Trường hợp tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng
nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của
Luật Đất đai 2013 mà đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực
hiện như sau:
- Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của
pháp luật về tố tụng hành chính.
- Các vấn đề pháp lý được nêu ra trong bản án:
Bản án phúc thẩm trong vụ tranh chấp đất giữa bà Nguyễn Thị Kim P
và bà Phạm Thị Hồng L tại thành phố Đông Hà đã đưa ra nhiều vấn đề pháp
lý quan trọng, được xem xét và nhận định một cách tỉ mỉ.
Quá trình chuyển nhượng đất:
Thửa đất ban đầu được cấp cho bà Phạm Thị Hồng L bởi UBND
thành phố Đông Hà.
Bà Hồng L tặng một phần đất cho ông Lê Quang M1 và bà Võ Thị T2.
Thửa đất sau đó được chia thành hai phần và chuyển nhượng cho bà
Nguyễn Thị Kim P.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/7/2018 đã được
kí và công chứng.
Tòa án sơ thẩm đánh giá rằng hợp đồng này vi phạm quy định về hình
thức giao dịch dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim P:
Bà Kim P đã kháng cáo, nhưng Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu của bà và vô hiệu hóa hợp đồng chuyển nhượng.
Quyết định của Tòa án phúc thẩm:
Bản án phúc thẩm giữ nguyên quyết định sơ thẩm về vô hiệu hóa hợp
đồng chuyển nhượng đất ngày 19/7/2018.
Bà Nguyễn Thị Kim P phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được
đối trừ số tiền tạm ứng đã nộp.
Hiệu lực pháp luật của bản án:
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án và duy trì
quyết định sơ thẩm về vô hiệu hóa hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
19/7/2018.
Tập trung vào hình thức giao dịch dân sự:
Quyết định của Tòa án chủ yếu tập trung vào xác định tính hiệu lực
của hợp đồng chuyển nhượng và từ chối yêu cầu đòi lại nhà và đất của bà
Nguyễn Thị Kim P do vi phạm quy định hình thức giao dịch dân sự.
Bản án phúc thẩm đã đánh giá và xác định rất chi tiết về các vấn đề
pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng đất, hợp đồng chuyển nhượng, và
hình thức giao dịch dân sự, đồng thời đưa ra quyết định có hiệu lực và minh
chứng đầy đủ cho việc duy trì quyết định sơ thẩm.
Câu hỏi 3 (QUAN TRỌNG): Đánh giá việc vô hiệu giao dịch dân
sự của Toà là đúng hay sai? Đánh giá điểm đúng, điểm chưa đúng trong
quyết định của Toà. Bổ sung của nhóm trong quyết định của toà. Nếu là
quan điểm khác, nhóm nêu rõ quan điểm xử lý của nhóm.
Quyết định về việc vô hiệu hóa giao dịch dân sự trong bản án phúc
thẩm có thể được đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau.
Điểm đúng:
Tòa án đúng khi lấy hình thức giao dịch dân sự làm trọng tâm đánh
giá. Điều này thể hiện sự chặt chẽ trong việc áp dụng quy định của pháp luật
về giao dịch dân sự.
Tòa án đề xuất quan điểm rằng không có chứng cứ chứng minh thỏa
thuận mua bán nhà giữa bà Kim P và bà Hồng L, điều này làm nền tảng cho
quyết định về vô hiệu hóa hợp đồng.
Việc Tòa án chú ý đến việc xuất trình chứng từ và tài liệu pháp lý,
nhưng không tìm thấy bằng chứng nào chứng minh thỏa thuận mua bán nhà,
là một yếu tố quan trọng hỗ trợ quyết định về vô hiệu hóa.
Quyết định của Tòa án về việc chấp nhận yêu cầu phản bác của bà
Hồng L cũng làm tăng tính công bằng và minh bạch trong quy trình xét xử.
Điểm chưa đúng:
Bản án phúc thẩm không đề cập đến các hậu quả pháp lý cụ thể của
việc vô hiệu hóa hợp đồng. Việc này làm cho quyết định của Tòa án trở nên
hơi mơ hồ về khía cạnh pháp lý của giao dịch.
Tòa án không cung cấp đủ thông tin về cơ sở pháp lý chính xác để vô
hiệu hóa hợp đồng. Việc nêu rõ các điều khoản cụ thể của pháp luật được áp
dụng có thể làm cho quyết định trở nên rõ ràng và dễ hiểu hơn.
Tòa án có thể đã chưa đánh giá kỹ về việc xem xét các tài liệu liên
quan đến giao dịch trả góp hàng tháng. Nếu có bất kỳ sự đồng thuận hoặc
thoả thuận nào liên quan đến việc mua bán nhà, điều này có thể tác động đến
quyết định cuối cùng.
Bản án không đề cập đến bất kỳ khía cạnh pháp lý nào khác của vụ
án, chẳng hạn như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu, hoặc các quy định cụ
thể về việc giao dịch đất ở đô thị.
Trong khi Tòa án đã đưa ra quyết định đúng về việc tập trung vào
hình thức giao dịch dân sự và chấp nhận yêu cầu phản bác, nhiều điểm chưa
đúng vẫn tồn tại, nhất là về sự mơ hồ trong hậu quả pháp lý và việc không
đề cập đến cơ sở pháp lý chi tiết hơn. Cần thêm thông tin và phân tích chi
tiết để đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong quyết định của Tòa án.
Bổ sung của nhóm trong quyết định của toà. Nếu là quan điểm
khác, nhóm nêu rõ quan điểm xử lý của nhóm:
Trong quyết định của Tòa án, nhóm chú ý đến nhiều khía cạnh pháp lý
quan trọng. Một số điểm được bổ sung bởi nhóm để tăng tính minh bạch và
công bằng trong quyết định của Tòa án:
Khảo sát chi tiết về hậu quả pháp lý:
Nhóm đề xuất Tòa án cung cấp thông tin chi tiết về hậu quả pháp lý
của việc vô hiệu hóa hợp đồng. Việc này giúp tất cả các bên liên quan hiểu
rõ hơn về tác động và quyền lợi của họ sau quyết định.
Phân tích chi tiết các điều khoản pháp lý áp dụng:
Đề xuất Tòa án nêu rõ các điều khoản pháp lý cụ thể mà họ áp dụng
để vô hiệu hóa giao dịch dân sự. Việc này giúp tạo ra một quyết định chặt
chẽ, dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng.
Xem xét tài liệu đồng thuận trả góp:
Nhóm chủ trương cho việc kỹ thuật xem xét các tài liệu đồng thuận
trả góp hàng tháng. Nếu có bất kỳ điều khoản nào liên quan đến việc mua
bán nhà, quyết định của Tòa án nên đánh giá lại để đảm bảo công bằng và
minh bạch.
Nêu rõ quan điểm về quyền sở hữu và quyền sử dụng đất:
Đề xuất Tòa án xem xét và nêu rõ về các khía cạnh pháp lý khác như
quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Việc này giúp đảm bảo rằng mọi quyền
lợi của các bên liên quan được xem xét toàn diện.
Phản biện với điều khoản điều 117 blds:
Nhóm đề xuất một phần phản biện với quan điểm của Tòa án về việc
áp dụng Điều 117 BLDS. Có thể cần đánh giá xem liệu việc vô hiệu hóa
giao dịch có thực sự là cách duy nhất và chính xác theo quy định của pháp
luật hay không.
Chú ý đến cơ hội chứng minh của bên kháng cáo:
Nhóm nên xem xét một cách tỉ mỉ đến mọi chứng cứ và cơ hội chứng
minh mà bên kháng cáo có thể có. Điều này giúp đảm bảo rằng mọi thông
tin được xem xét đầy đủ và công bằng.
Trong việc bổ sung những yếu tố trên vào quyết định, nhóm hi vọng
rằng sẽ có một quyết định chi tiết, chặt chẽ và đầy đủ pháp lý để đảm bảo sự
công bằng và minh bạch trong quy trình xét xử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khoản 2 điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của HĐTP Tòa án
nhân dân Tối cao.
2. Khoản 2 điều 203 Luật Đất đai 2013.
3. Khoản 3 điều 203 Luật Đất đai 2013.
4. Khoản 4 điều 203 Luật Đất đai 2013.

You might also like