You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


VIỆN NGÂN HÀNG -TÀI CHÍNH
BỘ MÔN THUẾ QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI: ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ CHÍNH SÁCH THUẾ

GV hướng dẫn : Th.sĩ Nguyễn Thị Kim Dung

Sinh viên thực hiện : Nhóm BOT

Lớp : Tài chính quốc tế 51B

Tháng 11 năm 2012


Danh sách nhóm sinh viên ( Nhóm BOT )

Nguyễn Thị Kiều Oanh CQ 513799

Nguyễn Thị Minh Thúy CQ

Lang Văn Thành CQ515293

Trương Thị Bé CQ515249

Vũ Thị Thùy CQ515300


Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và
chính sách thuế
Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới,
chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng của dòng vốn đầu tư trực tiếp và không trực tiếp nước
ngoài (FDI & FII), dòng vốn viện trợ(ODA). Gắn liền với dòng vốn FDI, FII, ODA là sự
xuất hiện hoạt động kinh doanh của các nhà thầu nước ngoài (NTNN). Nhằm đảm bảo
việc thực hiện quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh tại Việt Nam của các nha đầu
tư nước ngoài, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thuế trong lĩnh vực này.
Số thuế thu từ các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã góp phần không nhỏ trong tổng số thu
ngân sách Nhà nước tại các địa phương nói riêng cũng nhưtrong tổng thu ngân sách Nhà
nước toàn quốc nói chung.
Chính sách thuế đối với nhà thầu nước ngoài về cơ bản cũng dựa trên các quy định
chung của Pháp luật thuế như đối với doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, do hoạt động
của các nhà đầu tư nước ngoài không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có nhiều
điểm đặc thù, khác biệt với các doanh nghiệp hoạt động theo nội luật, cần có nghiên cứu
xây dựng chính sách thuế cho phù hợp với đối tượng này. Mặt khác, ngành thuế Việt
Nam đang trong lộ trình cải cách hệ thống thuế từ năm 2011 - 2020. Chính sách thuế với
nhà đầu tư nước ngoài được xây dựng từ năm 1991, tới nay cũng đã bộc lộ một số hạn
chế. Do vậy cũng cần nghiên cứu những hạn chế trong chính sách thuế với nhà đầu tư
nước ngoài, tìm ra những giải pháp để hoàn thiện hơn chính sách thuế đối với đối tượng
này, phù hợp với lộ trình cải cách chung của ngành thuế, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế
trong giai đoạn hiện nay. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
và chính sách thuế”.
Đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Tổng quan về đầu tư nước ngoài và chính sách thuế
Phần 2: Chính sách thuế của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài
Phần 3: Hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài
Phần 1: Tổng quan về đầu tư nước ngoài
1. Khái niệm
Đầu tư được hiểu theo nghĩa chung nhất là hy sinh những lợi ích trước mắt nhằm kỳ vọng
thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai.

Dưới góc độ kinh tế, đầu tư là việc sử dụng một khối lượng giá trị các nguồn lực vào
những hoạt động nhất định nào đó nhằm kỳ vọng thu được thu được lượng giá trị lớn
trong tương lai. Lượng giá trị của các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư có
thể là bằng tiền ( một số tiền), hoặc giá trị của các nguồn lực khác ( máy móc, vật tư,
nguyên liệu, đất đai,...) được quy thành tiền. Phần giá trị lớn hơn thu được từ hoạt động
đầu tư so với lượng giá trị bỏ ra ban đầu đó là số lợi nhuận từ đầu tư mang lại.

Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ
hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả xã hội. Nghĩa là có sự di chuyển
vốn qua khỏi biên giới một quốc gia.

Trước đây, đầu tư nước ngoài được hiểu như đồng nhất với đầu tư nước ngoài. Tuy vậy,
ngày nay, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và quá trình toàn
cầu hóa, việc xác định chính xác là không hề đơn giản.

Đầu tư quốc tế được hiểu một cách chung nhất là những hoạt động đầu tư được thực hiện
ngoài không gian kinh tế quốc gia của nhà đầu tư. Đó là một quá trình trong đó có sự di
chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa
lại lợi ích cho các bên tham gia. Nghĩa là có sư di chuyển vốn qua khỏi biên giới các
quốc gia

Đứng trên góc độ của một quốc gia để xem xét hoạt động đầu tư từ quốc gia này sang
quốc gia khác thì ta có thuật ngữ “đầu tư nước ngoài”, nhưng nếu xét trên phương diện
tổng thể nền kinh tế thế giới thì tất cả các hoạt động đó được gọi là “đầu tư quốc tế”

2.Phân loại.
Có nhiều cách để phân loại đầu tư nước ngoài, nhưng chủ yếu được phân theo 3 hình
thức: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và các loại đầu tư nước ngoài khác.
2.1.Đầu tư trực tiếp

2.1.1 Khái niệm

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI). Đó là việc nhà đầu tư
đưa tiền và các nguồn lực cần thiết tư một quốc gia sang một quốc gia khác và chuyển
hóa chúng thành vốn để tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận
tối đa.

2.1.2. Đặc điểm

Trong đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư trực tiếp tham gia vào tổ chức điều hành, quản lý và sử
dụng vốn đầu tư. Các hoạt động đầu tư này chủ yếu được diễn ra trong các lĩnh vực kinh
doanh của nền kinh tế bao gồm cả sản xuất, thương mại và dịch vụ.

2.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp

- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:

 nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức 100% vốn để thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan
 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đ thnh lập tại Việt Nam được hợp tác
với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài mới.

- Thành lập tổ chức kinh tế dưới hình thức liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà
đầu tư Việt Nam:

 Nhà đầu tư nước ngoài được liên doanh với nhà đầu tư trong nước để đầu tư thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty
hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan;
 Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức nêu trên được phép liên doanh với
nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài để thành lập một tổ chức kinh
tế mới.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh do doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với
nhà đầu tư tại Việt Nam:

 Trường hợp đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc
nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây
gọi tắt là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có
quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
hợp doanh;
 Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận thành
lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều phối
không phải là cơ quan lnh đạo của các bên hợp doanh;
 Văn phịng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài
khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh
trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp
đồng hợp tác kinh doanh.

2.2. Đầu tư gián tiếp

2.2.1 Khái niệm

Đầu tư gián tiếp nước ngoài(FPI - Foreign Portfolio Investment) là hoạt động đầu tư
được diễn ra giữa các quốc gia, nhưng nhà đầu tư không trực tiếp tham gia vào tổ chức
điều hành, sử dụng vốn đầu tư, mà công việc được giao cho những chủ thể khác.

Theo điều 3, luật đầu tư của Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 2005 xác định: “
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các
giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”

2.2.2.Đặc điểm

Thứ nhất, nhà đầu tư trực tiếp tham gia, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn. Trên thực tế, sự
phân biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp nước ngoài không phải lúc
nào cũng rạch ròi và thống nhất.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính
quốc tế. Nhà đầu tư thực hiện đầu tư vốn không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật
chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như đầu tư trực tiếp nước
ngoài( FDI).

2.2.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp

Đầu tư theo hình thức gốp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, theo đó:

 Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp để
tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp
luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác;
 Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt
Nam phải: thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các quy
định về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về
doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực đầu tư có điều kiện.

2.3. Các loại đầu tư nước ngoài khác


Bên cạnh hai loại hình đầu tư nước ngoài chủ yếu kể trên, còn có các loại đầu tư nước
ngoài khác mang tính chất mua đi bán lại hoặc đầu cơ quốc tế, như đầu tư vào BĐS quốc
tế ( không phải những dự án FDI đầu tư vào BĐS), đầu tư vào vàng, tiền tệ quốc tế,...
Thực chất của những hoạt động đầu tư này là thực hiện mua đi bán lại các loại hàng hóa
trên để kiếm lời hoặc sau khi mua với khối lượng lớn thì găm giữ chúng lại, tạo ra sự
khan hiếm giả tạo( đầu cơ), chờ giá lên bán đi để hưởng sự chênh lệch giá, coi đó là
những khoản lời của đầu tư.
Phần 2: Chính sách Thuế của Việt Nam đối với
hoạt động đầu tư nước ngoài
I. Quá Trình Hình Thành Hệ Thống Pháp Luật Về Đầu Tư Nước Ngoài Tại VN
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) 20 năm
qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, ĐTNN thực sự
trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển.
Nhìn lại 20 năm trước, trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế
giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi
chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước
đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành
khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước
nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát
triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới
trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng
thiếu vốn trầm trọng.

Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội,
Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện,
trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở
cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp ĐỔI MỚI
trong chặng đường vừa qua.

Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý
cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh
vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban hành Luật Đầu tư
nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của Đảng, mở đầu cho việc
thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với
các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000; cùng với các văn bản dưới
Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ
bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan
đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN
tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương
và đa phương liên quan đến ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với
việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng
lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện,
các nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà không
có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền thống.

Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất
trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng
cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban
hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời
sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong
từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập,
nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc
ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích
cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay.

Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường pháp lý cho
ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt thu hút vốn
ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy”
quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc
thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội
đất nước ta vừa qua.

Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý
Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban
quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và
giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp
thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa
có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện
theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do
UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT.

Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực
hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua,
đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm
quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho
UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập
trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát.

Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các địa phương có
nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý, đã được đơn giản hóa,
…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới, góp phần cải thiện môi
trường đầu tư-kinh doanh của địa phương.

Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực
hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp GCNĐT đến hỗ trợ tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức
hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành
văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa
phương đi vào nề nếp. Mô hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà
đầu tư” tiếp tục xuất hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần
nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.

Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản lý là các yếu
tố và động lực góp phần đưa lại kết quả đáng khích lệ của hoạt động ĐTNN tại Việt
Nam, góp phần xác định vai trò quan trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong sự
nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước ta.

II. Chính sách thuế của Việt Nam hiện nay đối với các nhà đầu tư nước ngoài

Có thể tìm hiểu chính sách thuế của Việt Nam hiện nay đối với các nhà đầu tư nước ngoài
qua luật đầu tư nước ngoài ( điều 38->> điều 49 luật đầu tư nước ngoài) như sau:

Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước
ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh nộp thuế lợi tức 25% lợi nhuận thu được;
trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế lợi tức là 20% lợi nhuận thu được;
trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư, thì mức thuế lợi tức là 15% lợi
nhuận thu được; trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi
nhuận thu được.

Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyên quý hiếm khác thì mức thuế lợi tức theo
quy định của Luật dầu khí và pháp luật có liên quan.
Điều 39

Tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư quy định tại Điều 3 của Luật này, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh có thể được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm, kể từ khi bắt đầu
kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp
theo.

Trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh thực hiện dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư, thì
được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 4 năm, kể từ khi bắt đầu kinh doanh
có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 4 năm tiếp theo.

Đối với những trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư, thời gian miễn thuế lợi tức tối đa
là 8 năm.

Điều 40

Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh được chuyển khoản lỗ của bất kỳ
năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm
tiếp theo, nhưng không được quá 5 năm.

Điều 41

Sau khi nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp liên doanh trích 5% lợi nhuận còn lại để lập quỹ
dự phòng. Quỹ dự phòng được giới hạn ở mức 10% vốn pháp định của doanh nghiệp. Tỷ
lệ lợi nhuận dành ra để lập quỹ phúc lợi và các quỹ khác do các bên thoả thuận và ghi
trong điều lệ của doanh nghiệp.

Điều 42

Trường hợp tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư sẽ được hoàn lại một phần hoặc
toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư. Chính phủ quy định tỷ lệ hoàn
thuế tuỳ thuộc vào lĩnh vực, địa bàn, hình thức và thời hạn tái đầu tư.

Về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hoặc về nước


Điều 43

Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là
5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhà
đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc
vốn thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Điều 44

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của Luật này được
giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế
lợi tức là 10%; được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% số lợi nhuận
chuyển ra nước ngoài.

Điều 45

Căn cứ vào quy định của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
quyết định áp dụng thuế suất thuế lợi tức, thời hạn miễn, giảm thuế lợi tức và thuế suất
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo quy định tại các Điều 38, 39, 43 và 44 của Luật
này. Thuế suất, thời hạn miễn, giảm thuế được ghi trong Giấy phép đầu tư.

Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nếu có thay đổi về điều kiện đầu tư thì việc miễn,
giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh do Bộ Tài chính quyết định.

Điều 46

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê; trong trường hợp khai thác
tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên theo quy định của pháp luật.

Chính phủ quy định việc miễn hoặc giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển đối với các dự
án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng -
chuyển giao; dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn.

Về thuế xuất khẩu, nhập khẩu

Điều 47

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được
áp dụng theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ
nhập khẩu vào Việt Nam để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc mở rộng
quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân
được miễn thuế nhập khẩu.

Chính phủ quy định việc miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá
đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác.

Điều 48

Doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá từ
Khu chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu vào Khu chế xuất.

Doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong Khu công nghiệp
được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến khích, đặc biệt khuyến khích
đầu tư theo quy định tại các Điều 38, 39, 43 và 44 của Luật này. Chính phủ quy định cụ
thể mức thuế ưu đãi đối với từng loại doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trong Khu công nghiệp.

Điều 49

Ngoài các loại thuế quy định tại Luật này, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên
nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải nộp các loại thuế khác theo quy
định của pháp luật.

Ngoài ra có thể tham khảo thêm ở các văn bản luật khác như : Công văn 12501/BTC-
CST về chính sách thuế đối với hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong các công ty cổ
phần do Bộ Tài chính ban hành, của Thông tư 100/2004/TT-BTC…….

2.2 Tác động của chính sách thuế đối với đầu tư nước ngoài trong thời gian qua

Trong 6 tháng đầu năm nay, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài đã sụt giảm rất mạnh.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là sự nản chí của các nhà đầu tư
nước ngoài trước các chính sách thuế đang làm gia tăng chi phí kinh doanh, đầu tư tại
Việt Nam

- Nhiều nhà đầu tư nước ngoài kiến nghị lên tổng cục thuế vừa qua đều phản anha
hiện đang có sự khắt khe và vô lý trong việc khấu trừ các chi phí khi tính thuế thu
nhập doanh nghiệp( TNDN). Thuế suất thuế tndn ở việt nam không cao hơn so với
các nước trong khu vực. tuy nhiên, cách tính thu nhập chịu thuế mà dn phải nộp là
rất cao, vì nhiều chi phí hợplý và hợp lệ không được khấu trừ. Thuế đánh trên
thặng dư vốn 25% là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tỷ lệ hoàn
vốn cho nhà đầu tư tại việt nam. Việc giữu mức thuế này sẽ khiến các nhà đầu tư
nước cổ phần riêng lẻ nước ngoài quan ngại và sẽ có ít quỹ vốn cổ phần riêng lẻ
đến với việt nam hơn. Diều này sẽ là thiệt thòi cho các công ty tư nhân của việt
nam so với các công ty tư nhân ở các nước khác trong khu vực (trung quốc, ấn
độ….)
- Mặt khác theo Công văn 12501 qui định: Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào
công ty đại chúng thì chịu thuế chuyển nhượng là 0,1% trên giá trị bán chứng
khoán nhưng khi đầu tư vào công ty không đại chúng thì chịu mức thuế khoán là
25% trên chênh lệch giữa giá trị mua và giá trị bán (chi phí được phép tính không
đáng kể)

Cùng là hoạt động đầu tư chứng khoán nhưng lại áp dụng 2 phương pháp tính thuế khoán
khác nhau và có khoảng cách rất lớn về nghĩa vụ nộp thuế. Nhà đầu tư cá nhân trong
nước khi đầu tư vào công ty đại chúng thì chịu mức thuế khoán là 0,1% nhưng khi đầu tư
vào công ty không đại chúng thì chịu mức thuế khoán là 25% trên chênh lệch giữa giá trị
mua và giá trị bán

Khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu A và sau đó bán cổ phiếu A (cổ phiếu A thuộc
cổ phiếu chưa đại chúng) thì theo Công văn 12501 , số thuế phải nộp được tính theo công
thức:

Thuế phải nộp = (giá trị chứng khoán khi mua – giá trị chứng khoán khi bán – chi phí liên
quan) x 25%.

Chi phí liên quan mà cơ quan thuế thực tế chấp nhận chỉ là chi phí pháp lý (thuê luật sư
soạn thảo hợp đồng mua bán – đây là khoản chi phí hết sức nhỏ bé). Khoản chi phí phản
ánh chênh lệch tỷ giá không được xem xét vì cơ quan thuế cho rằng không có cơ sở pháp
lý. Ví dụ khoản đầu tư mua cổ phiếu A cách đây 7 năm với tỷ giá 16.000 đồng/USD, khi
bán với tỷ giá 21.000 đồng/USD, nếu đưa khoản chênh lệch tỷ giá này vào thì thương vụ
mua bán cổ phiếu A ít có lãi hơn hoặc có khi lỗ nhưng vẫn phải đóng thuế.

- Các khoản chi phí cho việc thuê tư vấn, nghiên cứu khảo sát doanh nghiệp, chi phí
đi lại, chi phí tiền lương cho nhân viên hay chi phí quản lý quỹ không được phân
bổ để đưa vào công thức tính. Các quỹ đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt
Nam, thông thuờng đầu tư vào nhiều doanh nghiệp ở nhiều thời điểm khác nhau và
khi bán chứng khoán cũng tại nhiều thời điểm khác nhau, có cổ phiếu có lãi, có cổ
phiếu thua lỗ nhưng với bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam thì đa phần
các thương vụ đều thua lỗ nhưng khi bán cổ phiếu có lãi thì toàn bộ những khoản
đầu tư thua lỗ không thể được trích lập dự phòng để đưa vào chi phí như các tổ
chức đầu tư trong nước.

Nếu hạch toán theo phương pháp 25% như tổ chức trong nước (được kê khai hạch toán
đầy đủ tất cả chi phí), thì nhiều quỹ đầu tư nước ngoài khi kinh doanh thua lỗ đáng ra
không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng họ vẫn phải nộp thuế khoán rất cao
với một số thương vụ có lãi.

Nếu quỹ đầu tư nào kinh doanh hiệu quả và có lãi thì họ phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp ở mức từ 50% - 80%, chứ không phải là 25%. Như vậy, cách tính thuế 25% như
Công văn 12501 không phải là tính theo thu nhập chịu thuế mà bản chất là thuế khoán
theo chênh lệch giá trị bán trừ giá trị mua và đây là phương pháp bất hợp lý, cao hơn so
với phương pháp tính thuế khoán theo giá bán thực tế với thuế xuất 0,1%.

- Tại tiết 2.2, Điểm 2, Mục III của Thông tư 100/2004/TT-BTC ngày 20/10/2004
(thông tư đầu tiên về thuế trong lĩnh vực chứng khoán) qui định: “Đối với nhà đầu
tư nước ngoài được thành lập theo pháp luật nước ngòai khi đầu tư vào chứng
khoán (không phân biệt chứng khoán niêm yết hay chưa niêm yết) thì thực hiện
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo phương thức thuế khoán, số thuế phải nộp
được xác định bằng 0,1% tổng giá trị chứng khoán bán ra của từng giao dịch
chuyển nhượng".

Các nhà đầu tư nước ngoài, công ty quản lý quỹ nước ngoài căn cứ vào qui định trên để
nói với các nhà đầu tư nước ngoài (đối tượng cần kêu gọi vốn) về chính sách thuế đó khi
gọi vốn thành lập quỹ, nhưng sau quá trình đầu tư lâu dài, đến thời hạn đóng quỹ thì họ
lại phải đóng rất nhiều thuế cao hơn rất nhiều so với dự tính ban đầu, hệ quả là đã lỗ thì
càng lỗ thêm do có thêm thuế hoặc nếu có lợi nhuận thì cũng bị giảm đi nhiều do chính
sách đã thay đổi. Điều này làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài chán nản và bỏ đi hay
từ bỏ ý định lập quỹ để đầu tư vào cổ phiếu OTC.
Đầu tư vào cổ phiếu công ty không đại chúng thường thuộc đối tượng doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp gia đình hay là doanh nghiệp nhỏ và vừa - đây là lĩnh vực đầu tư hết
sức mạo hiểm, mạo hiểm hơn nhiều so với đầu tư vào công ty đại chúng và đa phần các
nhà đầu tư nước ngoài đều thất bại khi đầu tư vào nhóm cổ phiếu này. Đa phần nhà đầu
tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào cổ phiếu công ty đại chúng vì ít chịu rủi
ro hơn.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, dịch vụ
thương mại thường khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng vì ít có tài sản thế chấp, tuy
nhiên đã có hàng trăm doanh nghiệp loại này tiếp cận được nguồn vốn đầu tư từ các quỹ
mạo hiểm nước ngoài và họ đã có cơ hội tồn tại và phát triển, có một số doanh nghiệp đã
phát triển thành doanh nghiệp vừa và lớn.

2.3. Ưu điểm và hạn chế của chính sách thuế hiện nay

2.3.1 Ưu điểm

- Thuế suất đối với các nhà đầu tư nước ngoài tương đối thấp so với các nước

- Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài áp dụng kế toán đơn giản, khấu trừ và
hoàn thuế GTGT

- Các quy định về hiệp định phù hợp với thông lệ quốc tế

- Thủ tục về thuế đã được cải cách theo hướng đơn giản hóa

- Đảm bảo được cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước

2.3.2 Hạn chế

Thứ nhất: Thuế TNDN còn cao, ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư nước ngoài

Công văn 12501/BTC-CST do Bộ Tài chính ban hành ngày 20/9/2010 tổng hợp các quy
định về mức thuế đối với việc chuyển nhượng phần vốn trong công ty chưa niêm yết
Theo so sánh trên Bảng 1 có thể thấy, nhà đầu tư tổ chức nước ngoài đầu tư vốn vào công
ty chưa niêm yết phải đóng mức thuế cao nhất trong số các nhà đầu tư.
Tác động của thuế thặng dư vốn 25% đối với huy động vốn đầu tư nước ngoài
Một điểm quan trọng mà các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang quan ngại khi chọn các
nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, để đầu tư là các khoản đầu tư tại các nước
Đông Nam Á có tỷ lệ hoàn vốn thấp hơn nhiều so với đầu tư tại Trung Quốc và Ấn Độ.
Nghiên cứu của Mekong Capital cho kết quả như sau (xem Bảng 2).

Thuế đánh trên thặng dư vốn 25% là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tỷ
lệ hoàn vốn cho nhà đầu tư tại Việt Nam. Việc giữ mức thuế này sẽ khiến các nhà đầu tư
cổ phần riêng lẻ nước ngoài quan ngại và sẽ có ít quỹ vốn cổ phần riêng lẻ đến với Việt
Nam hơn. Điều này sẽ là thiệt thòi cho các công ty tư nhân của Việt Nam so với các công
ty tư nhân ở Trung Quốc, Ấn Độ.
- Việc thay thế, bổ sung nhiều thông tư, văn bản luật về thuế gây khó khăn cho các nhà
đầu tư trong việc tham khảo tất cả các văn bản pháp luật về thuế để biết nghĩa vụ về thuế
của mình khi hoạt động kinh doanh tại việt nam, đồng thời gây ra sự chồng chéo, hướng
dẫn không rõ ràng đối với chế độ kế toán và kê khai thuế của các nhà đầu tư. Mặt khác
sựu mâu thuẫn giữa các chính sách thuế cũng là một vấn đề gây tranh cãi. Văn bản pháp
quy hướng dẫn còn chưa rõ ràng, dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa cơ quan thuế và người
nộp thuế, thậm chí giữa cơ quan thuế các địa phương đôi khi có cách hiểu khác nhau về
cùng một vấn đề, gây khó khăn cho NĐTNN

- Việc áp dụng nhiều phương pháp nộp thuế sẽ dẫn tới gánh nặng kiểm tra thuế GTGT
lên cơ quan thuế.Thủ tục về thuế chưa thuận lợi cho nhà đầu tư.

- Chính sách không nhất quán, còn nhiều thay đổi dẫn đến các nhà đầu tư nước ngoài e
ngại khi hoạt động tại Việt Nam.

- Mặc dù đã có Thông tư về thuế NTNN, nhà đầu tư vẫn phải tham khảo các văn bản
pháp quy khác quy định các loại thuế phải nộp: TNCN, môn bài, thủ tục kê khai... Điều
này là do Thông tư về thuế NTNN hiện nay chỉ quy định về 2 loại thuế GTGT và TNDN.
Các loại thuế khác NTNN thực hiện theo các quy định liên quan.
Phần 3: Đề xuất, kiến nghị, giải pháp hoàn thiện chính
sách thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam

I. Giải pháp vĩ mô

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp trong tất các mặt của lĩnh vực
thuế và cải cách hệ thống thuế

Thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Tuy nhiên ngành thuế không thể một mình hoàn
thành nhiệm vụ chính trị được giao. Cũng như mọi cơ quan nhà nước khác, cơ quan thuế
các cấp nằm dưới dự lãnh đạo của cấp ủy đảng tương ứng, luật thuế được quốc hội thông
qua. Nhờ đó, với sự lãnh đạo trực tiếp của đảng, Quốc hội, Chính phủ các bộ, ngành và
chính quyền địa phương các cấp trong tất cả các lĩnh vực thuế và cải cách hệ thống thuế
là yêu cầu bắt buộc đảm bảo sự thành công trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành thuế

- Hoàn thiện cải cách đồng bộ các cơ chế, chính sách quản lý về đất đai, đăng kí kinh
doanh, xuất nhập khẩu, nhập cảnh… tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế,
hệ thống thuế.

Chính sách thuế nói chung và đối với các NDDTNN nói riêng nằm trong hệ thống luật
quốc gia. Hoàn thiện, cải cách đồng bộ các cơ chế, chính sách quản lý về đất đai, đăng kí
kinh doanh, xuất nhập khẩu, nhập cảnh… tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý
thuế, hệ thống thuế. Ví dụ, đồng bộ hóa việc cấp giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng, cấp phép hoạt động của cá nhân nước ngoài kinh
doanh tại Việt Nam, hoàn thiện hệ thống kế toán đối với NĐTNN phù hợp với thông lệ
quốc tế, đảm bảo yêu câu quản lý thuế đối với nhà ĐTNN… giảm gian lận thuế.

- Tăng cường trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp với cơ quan thuế
cũng như cung cấp thông tin, điều tra xử lỹ vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các
biện pháp hành chính khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật thuế.

Ủy ban các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan
có liên quan tại địa phương phối hợp với cơ quan quản lý thuế, lập dự toán thu NSNN.
Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thuế, các cơ quan khác có trách nhiệm tuyên truyền
phổ biến về pháp luật thuế. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi quyền
hạn có trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh với những
trường hợp không tuân thủ pháp luật về Thuế hiện hành.
- Khuyến khích, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế nhằm giúp cho
các cá nhân, tổ chức đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài hiểu rõ các quy đinh của
pháp luật thuế, làm tốt công tác kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình.

Để hiểu một cách cặn kẽ và thực hiện đúng đắn các quy định của chính sách thuế là một
vấn đề không phải là đơn giản với các đối tượng nộp thuế, nhất là các NĐTNN, lại theo
cơ chế quản lý thu nộp thuế theo phương thức tự kê khai, tự tính và tự nộp. Do đó, việc
cung cấp các dịch vụ về thuế là vấn đề cấp thiết đối với các đối tượng nộp thuế. Cải cách
hành chính, hiện đại hóa ngành thuế tất yếu đòi hỏi sự phát triển của dịch vụ tư vấn, kế
toán, kiểm toán, đại lý thuế. Các dịch vụ này đã có trên thế giới từ rất lâu nhưng ở Việt
Nam còn rất mới. Đặc biệt, đối với nhà đầu tư nước ngoài, thời gian hoạt động tại Việt
Nam có thể ngắn có thể dài, việc sử dụng các DV về thuế là điều thiết yếu, giảm rủi ro về
khai thuế, giảm bớt áp lực cho cơ quan thuế.

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cán bộ thuế theo hướng
chuyên nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế tiên tiến, hiện đại/

Đẩy mạng công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức thuế nhằm nâng cao
năng lực, trình độ cho cán bộ ngành thuế. Xây sựng mô hình chuẩn về đào tạo cán bộ
thuế, quy định rõ cách thức đào tạo cho từng loại cán bộ công chức. Đào tạo kiến thức cơ
bản cho công chức mới vào ngành, bôi dưỡng chuyên sâu theo từng chức năng quản lý
cho cán bộ thuế nhằm trang bị thành thạo các kĩ năng, kinh nghiệm xử lý vẫn đề trong
thực tiễn. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế bằng việc kết hợp nhiều hình thức,
đào tạo tập trong, đào tạo trực tuyến, mời chuyên gia nước ngoài tổ chức các khóa bồi
dưỡng các chưng năng quản lý thuế cho các chuyên gia, giản vên, cán bộ có năng lực

II. Giải pháp cụ thể

1. Về xây dựng chính sách thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài:

Áp dụng nhất quán ba nguyên tắc:

Thứ nhất, đưa các hướng dẫn về thuế đối với NĐTNN vào từng luật thuế tương ứng

Hiện nay, hệ thống thuế của Việt Nam gồm luật quản lý thuế, luật thuế GTGT, luật thuế
TNDN, thuế TNCN, thuế XNK…Luật đầu tư 2005 chỉ quy định, hướng dẫn về thuế
TNDN với các nhà đầu tư nước ngoài, còn các thuế khác áp dụng luật thuế hiện hành.
Như vậy việc xây dựng một thông tư về thuế đối với NĐTNN hiện nay chưa bao trùm
được các loại thuế áp dụng với các nhà đầu tư nước ngoài và không phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Thứ 2. Xử lý thuế với các NĐTNN theo hai hướng: nhà đầu tư có cơ sở thường trú tại
Việt Nam và nhà đầu tư không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Việc phân định NĐTNN có CSTT và không có CSTT để áp dụng chính sách thuế là phù
hợp với thông lệ quốc tế về thuế và đều được các nước áp dụng, Đối với NĐTNN có
CSTT tại Việt nam, áp dụng các quy định như đối với DN thành lập theo luật pháp Việt
Nam. Các NĐTNN không có CSTT tại Việt Nam xây dựng chính sách phù hợp, đảm bảo
nguyên tắc đơn giản, hiệu quả, minh bạch.

Thứ 3, các quy định về thuế chỉ nên xây dựng trong luật thuế tương ứng.

Quy trình xây dựng chính sách của Việt Nam hiện nay, bao gồm cả xây dựng chính sách
thuế là: Quốc hội ban hành luật thuế, chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn luật thuế,
bộ tài chính ban hành thông tư, hướng dẫn nghị định. Quy trình này có sự khác biệt với
các nước, ở các nước các quy định về thuế chỉ nằm trong luật thuế. Các vấn đề phát sinh
trong quá trình quản lý thuế được giải quyết thông qua văn bản của cơ quan thuế với
người nộp thuế với cơ quan thuế. Tránh việc luật ban hành nhưng chưa được áp dụng vì
chưa có hướng dẫn, tới khi có hướng dẫn lại áp dụng cho cả thời gian trước khi có hướng
dẫn.

2. Về kê khai nộp thuế

- Sửa chữa quy định về khai thuế GTGT tại địa điểm có công trình xây dựng, Trường hợp
nhà ĐTNN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng có tạo thành CSTT tại VN, nhà đầu tư NN
chỉ khai thuế tại nơi có văn phòng điều hành. Trường hợp NĐTNN không có cơ sở
thường trú tại Việt Nam, bên Việt Nam ký hợp đồng chỉ khai thuế tại địa phương mà bên
Việt Nam có trụ sở chính. Điều này giảm thủ tục hành chính cả đối với NĐT và bên Việt
Nam

- Bỏ thuế môn bài đối với NĐTNN không có CSTT tại Việt Nam. Xét về chức năng của
thuế môn bài thì chủ yếu là để kiểm kê, kiểm soát nên việc đưa thuế môn bài vào kiểm
soát các hoạt động kinh doanh công thương nghiệp trong những năm qua đã phát huy
hiệu quả trong việc thống kê, giúp các nhà quản lý trong việc nắm bắt sự phát sinh số
lượng cơ sở sản xuất kinh doanh hành năm thuộc các ngành nghề, giúp công tác lập kế
hoạch thu sát với thực tế của từng địa phương trong điều kiện quản lý chủ yếu bằng các
biện pháp thủ công, thống kê trực tiếp. Tuy nhiên, đối với nhà đầu tư NN việc thu thuế
môn bài trên thực tế do bên VN kí hợp đồng thực hiện với mức 1tr/1 hợp đồng, không
phân biệt có hay không có CSTT tại Việt Nam. Điều này có nghĩ là có thể một cá nhân
nước ngoài cho một doanh nghiệp Việt nam vay, cá nhân nước ngoài mặc dù không có
mặt tại Việt Nam nhưng vẫn phải nộp thuế môn bài
3. Về cấp mã số thuế:

Đảm bảo cấp mã số thuế cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng chỉ
cấp một mã ố thuế niipj hộ cho tất cả các nhà ĐTNN của bên Việt Nam kí hợp đồng, dẫn
tới phải quản lý theo phương pháp thủ công, mất thời gian.

4. Về phương pháp tính thuế:

Đề nghị bỏ trường hợp NĐTNN nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế
TNDN trên cơ sở kê khai doanh thu, chi phí:

Chỉ nên áp dụng hai phương pháp tính thuế:

Đối với NĐTNN có CSTT: áp dụng như đối với doanh nghiệp trong nước

Đối với NĐTNN không có CSTT tại Việt nam: Bên Việt Nam ký hợp đồng nộp thay cho
nhà đầu tư nước ngoài theo các thủ tục đã được quy định tại luật thuế.

III. Giải pháp hỗ trợ

1. Xây dưng chương trình quản lý thuế NĐTNN, hỗ trợ công tác của cán bộ thuế, tăng
tính hiệu quả, giảm thời gian thực hiện các công việc thủ công của cán bộ thuế, có khả
năng kiểm tra hỏa động của NĐTNN trên phạm vi toàn quốc. Chương trình phải có khả
năng thu thập thông tin từ nhiều nguồn để xác định CSTT của các nhà đầu tư nước ngoài,
quản lý đượ tất cả các NĐTNN của từng doanh nghịp VN

2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa,
phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.

You might also like