Professional Documents
Culture Documents
Là một đất nước với diện tích khoảng 700 km2 và dân số khoảng 5 triệu
người , Singapore hiện đang là một trong các trung tâm thương mại, tài
chính lớn của thế giới và đồng thời cũng là một trong những cảng chung
chuyển bận rộn nhất thế giới. Sau khi tách khỏi Malaysia, Singapore đã phát
triển nhanh chóng và trở thành một trong bốn con rồng châu Á. Với vị trí địa
lý đặc biệt, môi trường đầu tư không có tham nhũng, lực lượng lao động có
chất lượng và cơ sở hạ tầng phát triển Singapore là một địa điểm hấp dẫn thu
hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bên cạnh đó, Singapore
cũng là một nước có lượng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn với tổng
số vốn FDI tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ
cấu vốn đầu tư ra nước ngoài của Singapore. Có thể nói, việc chú trọng đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đã mang lại những lợi ích to lớn cho Singapore
không chỉ vể mặt kinh tế mà còn về ngoại giao, khai thác được các lợi thế so
sánh của Singapore một cách hiệu quả.
Việt Nam là một trong những thị trường đầu tư lớn của Singapore. Cụ thể là,
Singapore hiện là quốc gia của ASEAN có lượng vốn đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam lớn nhất và đồng thời là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ ba trên
tổng số 101 quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Có thể thấy, Việt Nam và
Singapore trên cơ sở cùng là thành viên của ASEAN đã thiết lập được một
mối quan hệ đối tác chặt chẽ về thương mại, đầu tư từ đó mang lại những lợi
ích to lớn cho cả hai bên.
PHẦN 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) là hoạt động di chuyển vốn giữa các
quốc gia, trong đó nhà đầu tư nước ngoài này mang vốn bằng tiền hoặc
bất kì tài sản nào sang nước khác để tiến hành hoạt động đầu tư và trực
tiếp nắm quyềnquản lý cơ sở kinh doanh tại nước đó.
Thực chất, FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, mà chủ đầu tư bỏ vốn để
xây dựng hoặc mua phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở
nước ngoài để trở thành chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và
trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động
của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ cũng chịu trách nhiệm
theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
FDI được thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn tư nhân, vốn của các công ty
nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai hoạt động
sản xuất ở nước ngoài.
2.1. Các chính sách đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Singapore
Trong số những lí do cho việc tăng đầu tư FDI ra nước ngoài bởi thị
trường nội địa ở Singapore khá là nhỏ bé thì chi phí cao cho nhân công
và thuê đất đai văn phòng cũng là những nguyên nhân chủ chốt thúc đẩy
Singapore tìm kiếm môi trường đầu tư vào các thị trường mới nổi. Thêm
vào đó, chính sách của chính phủ nhằm thúc đẩy xây dựng “động cơ bên
ngoài” cho Singapore.
Dẫn lời Thủ tướng Goh Chok Tong, những chính sách đầu tư nước ngoài
của Singapore gồm:
Ngoài các nước Châu Á, vốn đầu tư trực tiếp của Singapore đã lan
tỏa sang các nước khác ở Nam Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và Châu
Âu. Bên cạnh Châu Á, Nam và Trung Mỹ và vùng Caribean cũng
chiếm hơn 25% của đầu tư trực tiếp của Singapore.
Với đòn bẩy tài chính và sự tích lũy cho đầu tư trong nước hiện
cao hơn nhu cầu đầu tư nên hướng tập trung đầu tư ban đâu vào
các ngành công nghiệp chế biến cần nhiều lao động như sản xuất
đồ điện, đồ điện tử, công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn như hóa
chất, cao su, lọc dầu; ngày nay các nhà đầu tư chú trọng hơn vào
dịch vụ tài chính, du lịch và xuất nhập khẩu. Singapore cũng chú
trọng đầu tư vào các ngành dịch vụ sản xuất, tài chính và bảo hiểm
và thông tin truyền thông.
Ngoài ra Singapore còn vươn tới đầu tư ở một số nước trong thị
trường bất động sản, nhà hàng, khách sạn và các khu nghĩ dưỡng.
Đặc biệt ở Ấn Độ, Singapore có các dự án đầu tư vào xây dựng
chuỗi nhà nghỉ và nhà ở chung cư tại đây.
Quy mô tổng vốn FDI của Singapore rất lớn, năm 2013 đạt 503,529.6 triệu
S$.
Con số này có sự tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2009 – 2013. Năm
2009 tổng vốn FDI là 369,988.6 triệu S$, và con số này đã được tăng lên đến
năm 2013 là 503,529.6 triệu S
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-1: Tổng vốn FDI của Singapore giai đoạn 2009 - 2013
Theo báo cáo của Bộ Thương mại & Công nghiệp Cục Thống kê, trong ba
thành phần của đầu tư quốc tế của Singapore đó là đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đầu tư theo danh mục đầu tư và các tài sản nước ngoài khác thì đầu tư
trực tiếp chiếm tỷ trọng cao nhất. Cụ thể, năm 2010 đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của Singapore chiếm 51%. Năm 2011 chiếm 50.3%. Năm 2012 chiếm
52.4%, chiếm tỷ trọng rất cao và tăng đều qua các năm.
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-2: Tỷ trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapore
năm 2010– 2012
Singapore là nước nổi tiếng về lĩnh vực tài chính và phát triển dịch vụ.
Singapore đã đầu tư rất nhiều cho lĩnh vực này. Nguồn vốn FDI của
Singapore chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tài chính và bảo hiểm, tiếp
theo là đầu tư trong lĩnh vực sản xuất. Trong năm 2011: dịch vụ tài chính và
bảo hiểm là $205 tỷ, cho sản xuất là $93.7 tỷ. Năm 2012: dịch vụ tài chính
và bảo hiểm là $207.7 tỷ, đầu tư trong lĩnh vực sản xuất là $98.9 tỷ.
Đơn vị: tỷ $
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-3: Cơ cấu vốn đầu tư FDI của Singapore theo ngành trong
giai đoạn 2009 – 2012
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-4: Tỷ trọng các lĩnh vực đầu tư của FDI của Singapore năm
2011 – 2012.
Tỷ trọng của các lĩnh vực đầu tư của Singapore có sự thay đổi nhẹ trong 2
năm 2011 và 2012. Dịch vụ tài chính và bảo hiểm có sự giảm từ 51.12%
năm 2011 xuống 50% năm 2013. Mặc dù vậy lĩnh vưc này vẫn chiểm tỷ
trọng cao. Tỷ trọng lĩnh vực đầu tư trong tổng vốn FDI tăng không đáng kể
từ 23.35% năm 2011 lên 23.8% năm 2012. Tỷ trọng các lĩnh vực khác cũng
thay đổi không mấy đáng kể, do tình hình kinh tế của Singapore trong 2 năm
2011 – 2012 khá ổn định, không chịu nhiều tác động.
Singapore đầu tư trực tiếp vào hầu hết các quốc gia trên thế giới, tập trung
nhiều ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ.
Biểu đồ 2-5: Tỷ trọng FDI của Singapore theo vùng năm 2012
Chiếm 56,7% lượng vốn FDI, châu Á là châu lục được Singapore đầu tư
trực tiếp nhiều nhất tại thời điểm cuối năm 2012. Ngoài ra, Châu Âu (chiếm
14,7%) và Nam & Trung Mỹ và vùng Caribbean (chiếm 13,1%) cũng là
những vùng tiếp nhận vốn FDI chính từ Singapore.
Châu Á:
Đầu tư trực tiếp tại châu Á tăng 1,4 % đến 262.5 tỷ $ tại thời điểm cuối
năm2012. Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Malaysia và Thái Lan
là cácquốc gia mà Singapore chủ yếu đầu tư trực tiếp ở Châu Á.
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-6: Các điểm nhận vốn đầu tư trực tiếp của Singapore ở Châu
Á năm 2011 và 2012 (số liệu tính vào cuối năm)
Năm 2012, Trung Quốc đứng đầu khu vực, nhận được 90,5 tỷ $ vốn đầu
tưtrực tiếp từ Singapore. Mặc dù Singapore đầu tư trực tiếp vào Trung
Quốcvề rất nhiều lĩnh vực, song chú trọng đặc biệt hơn vào lĩnh vực
sản xuất (43.9 tỷ $, chiếm 48,5% tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp vào Trung
Quốc) và lĩnh vực bất động sản (20,2 tỷ $ chiếm 22,3%) .
Đầu tư trực tiếp của Singapore tại Hồng Kông đã tăng nhẹ, từ 38,9 tỷ $
cuốinăm 2011 lên đến 39,2 tỷ $ cuối năm 2012. Đầu tư trực tiếp của
Singapore tại Hồng Kông chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ tài chính & bảo hiểm
(chiếm 67% trên tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào Hồng Kông năm 2012)
Indonesia và Malaysia là hai điểm đến đầu tư lớn khác ở châu Á, với lượng
vốn đầu tư 37,3 tỷ $ và 32,3 tỷ $ tương ứng tại thời điểm cuối năm 2012.
Việc đầu tư tại Indonesia và Malaysia chủ yếu vào dịch vụ tài chính & bảo
hiểm (Indonesia: 29,9%; Malaysia: 49,2%) và sản xuất (Indonesia: 28,7%;
Malaysia: 32,4%).
Singapore đã đầu tư vào Thái Lan 18,5 tỷ $ tại vào cuối năm 2012, cũng chủ
yếu vào các lĩnh vực: dịch vụ tài chính & bảo hiểm (45,8%) và sản xuất
(30,7%).
Châu Âu:
Đầu tư trực tiếp của Singapore tại Châu Âu tăng 10,2% (từ 61,9 tỷ $ cuối
năm 2011 đến 68,2 tỷ $ cuối năm 2012).
Anh là quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nhất châu Âu từ
Singapore, với lượng vốn đầu tư 43,2 tỷ $ (cuối năm 2012), tăng 15,8% so
vớinăm trước, trong đó 29,2 tỷ $ (chiếm 67,6%) dành cho lĩnh vực dịch vụ
tài chính & bảo hiểm của nước này.
Hà Lan với 6,3 tỷ $ và Thụy Sĩ với 3,7 tỷ $ vốn đầu tư trực tiếp cũng là hai
điểm đến lớn cho hoạt động đầu tư trực tiếp của Singapore.
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-7: Các điểm nhận vốn đầu tư trực tiếp của Singapore ở Châu
Âu năm 2011 và 2012 (số liệu tính vào cuối năm)
Hai lĩnh vực dịch vụ tài chính & bảo hiểm (15,4 tỷ $) vàtruyền thông &
thông tin liên lạc (8,4 tỷ $) chiếm 62,2% tổng số vốn đầu tư trực tiếp ở
Australia vào cuối 2012.
Tại New Zealand, hoạt động đầu tư chủ yếu vào 2 lĩnh vực: dịch vụ tài chính
&bảo hiểm (0,5 tỷ $) và sản xuất ( 0,3 tỷ $).
Đơn vị: Tỷ $
45
40 38.3
35.3
35
30
25
20
15
10
5
1.53 1.5
0
2011 2012
Australia New Zealand
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biều đồ 2-8: Các điểm nhận vốn đầu tư trực tiếp của Singapore ở Châu
Đại Dương năm 2011 và 2012 (số liệu tính vào cuối năm)
So với năm 2011, cuối năm 2012, lượng vốn đầu tư trực tiếp từ Singapore
vào Australia tăng 8,3% (từ 35,3 tỷ $ lên 38,3 tỷ $). Trong khi đó, lượng vốn
đầu tư trực tiếp từ Singapore vào New Zealand lại giảm nhẹ 2% (từ 1,53 tỷ $
xuống 1,5 tỷ $).
Bắc Mỹ:
Cuối năm 2012, Hoa Kỳ với 8,8 tỷ $, chiếm 91,3% tổng lượng vốn
củaSingapore dành cho đầu tư trực tiếp ở Bắc Mỹ, chủ yếu vào dịch vụ tài
chính & bảo hiểm - ngành thu hút đầu tư cao nhất tại Hoa Kỳ với 3,3 tỷ $.
Đơn vị: tỷ $
8.8
8.5
8 7.4
7.5
6.5
2011 2012
USA
Nguồn: www.singstat.gov.sg
Biểu đồ 2-9: Lượng vốn đầu tư trực tiếp của Singapore vào Hoa Kỳ
năm 2011 và 2012 (số liệu tính vào cuối năm)
Lượng vốn đầu tư trực tiếp vào Hoa Kỳ của Singapore đã tăng 19,3% từ
cuối năm 2011 (7,4 tỷ $) đến cuối năm 2012 (8,4 tỷ $).
2.3. Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Singapore
2.3.1. Thành tựu
Trong giai đoạn 2010-2012, việc chú trọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã
đem lại nhiều thành tựu lớn cho Singapore:
o Thu được lợi nhuận, sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn: đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Singapore giúp quốc gia này giảm được chi phí sản
xuất như chi phí lao động khi đầu tư vào các nước đnag phát triển như
Việt Nam ( với lợi thể lao động dồi dào, giá rẻ), tận dụng được những
công nghệ lỗi thởi ở Singapore nhưng là mới, hiện đại ở các nước có
trình độ kém hơn.
o Khai thác được lợi thế so sánh của Singapore: Singapore là quốc gia
nổi tiếng phát triển trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và bảo hiểm và
sản xuất nên khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Singapore chủ yếu đầu
tư vào 2 lĩnh vực này.
o Mang lại mối quan hệ ngoại giao vững chắc cho Singapore với các
quốc gia mà nước này đầu tư vào.
o Đầu tư vào các nước phát triển nhằm tận dụng quá trình chuyển giao
công nghệ, tiếp thu công nghệ mới từ các nước tiên tiến.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Singapore còn tồn tại một vài hạn chế:
Quản lý quá trình sản xuất kinh doanh của công ty tại nước tiếp nhận
đầu tư không hiệu quả, khiến công ty thua lỗ hoặc không có lợi nhuận
và không có khả năng phát triển.
Các quy luật thị trường không được vận dụng một cách hữu hiệu dẫn
đến khả năng kiểm soát rủi ro yếu kém và tình trạng đầu tư không
hiệu quả.
Thiếu cạnh tranh, việc giám sát chưa hiệu quả
Tỷ giá hối đoái còn nhiều biến động.
Sự can thiệp quá nhiều từ phía Nhà nước gây tác động tiêu cực đến sự
phân bổ nguồn vốn: lượng vốn bị đem đi đầu tư một cách thiếu thận
trọng có nguy cơ tăng cao nếu các quyết định cho vay của các tổ chức
tài chính chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các chính sách kinh tế và hệ
thống khuyến khích không hợp lý ( ví dụ như sự can thiệp của Nhà
nước dưới hình thức trợ cấp công nghiệp và các chương trình hỗ trợ
về giá bị sai lệch trong hệ thống thuế , phân biệt đối xử thuế với các
ngành khác nhau).
2.3.3. Giải pháp
Singapore nên khai thá c lợ i thế so sá nh trong việc thự c hiện DIA.
Singapore cầ n tích cự c ký kết cá c hiệp định FTA vớ i cá c nướ c
nhiều hơn. Giả m rà o cả n thương mạ i giữ a cá c thà nh viên FTA sẽ
thú c đẩ y dò ng chả y củ a đầ u và o trung gian qua biên giớ i và do đó
sẽ có xu hướ ng tă ng đầ u tư trự c tiếp thô ng qua cá c cô ng ty đa
quố c.
Singapore cũ ng nên thự c hiện quy trình đầ u tư và kinh doanh thâ n
thiện vớ i mô i trườ ng đả m bả o đầ u tư bền vữ ng
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư của Singapore vào Việt Nam
- Môi trường chính trị và xã hội: Việt Nam có môi trường chính trị - xã
hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm ăn lâu dài của các nhà đầu tư.
Bảng 3-1: Xếp hạng chỉ số hòa bình của Việt Nam 2009 - 2014
- Môi trường kinh tế vĩ mô: Sau 29 năm đổi mới, Việt Nam từng bước
hình thành thể chế kinh tế thị trường và duy trì môi trường kinh tế vĩ
mô ổn định và nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Ngành xuất nhập khẩu ngày càng phát triển
Việt Nam tăng cường tham gia mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
- Môi trường kinh doanh
Bảng 3-2:Sự thuận lợi trong kinh doanh tại các nước năm 2014
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong môi
trường kinh doanh của mình như
+ mở rộng hệ thống thông tin tín dụng từ 2 lên 5 năm về các cá nhân và
tổ chức ;
+ Giảm chi phí cho các doanh nghiệp trong việc trả thuế qua việc giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp tăng và phần thuế phụ phải trả từ việc
chuyển giao quyền sử dụng đất. Về giao thương quốc tế, thông qua việc
thực thi các qui định của WTO về hải quan Việt Nam đã thực hiện giảm
thời gian xuất nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh trong ngành logistic để
giảm thiểu việc trì hoãn
+Thuận lợi hóa trong việc tiến hành kinh doanh tại Việt Nam qua cơ chế
một cửa, giảm chi phí xin cấp giấy phép xây dựng hay cho phép các
doanh nghiệp có thể sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng tự in..
Về chính sách thuế, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, mặc dù mức
thuế suất thu nhập DN là 25% nhưng do không phải nộp thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài đồng thời với chính sách thống nhất và bình đẳng nên
môi trường đầu tư , kinh doanh khá hấp dẫn.
Về chính sách ngoại hối ngân hàng, DN được mua bán ngoại tệ ở các
ngân hàng, đối với các dự án quan trọng, có tính chất quyết định đến việc
phát triển kinh tế, nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp hoạt
động.
Về chính sách lao động, doanh nghiệp được quyền trực tiếp tuyển
dụng lao động và tự thỏa mãn mức lương với người lao động trên cơ sở mức
lương tối thiểu do nhà nước quy định
Thuận lợi về các nguồn lực : nguồn lực tự nhiên, con người, cơ sở hạ
tầng từng bước phát triển...
và một số thoả thuận hợp tác trên một số lĩnh vực như thanh niên (3/1995)
và báo chí (01/1996), văn hoá thông tin (4/1998)...
3.3. Tình hình đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt
3.3.1. Theo qui mô vốn:
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư trong 7 tháng đầu năm 2007, Singapore đã có 44 dự án mới được
cấp giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam, với tổng số vốn trên 1,3 tỷ
USD. Đồng thời có 8 dự án của các nhà đầu tư Singapore được cấp
phép tăng vốn với tổng vốn tăng thêm trên 13,3 triệu USD, đưa
Singapore đứng vị trí thứ hai trong tổng số 79 quốc gia và vùng lãnh
thổ đầu tư vào Việt Nam. Đến năm 2014, Singapore đứng thứ 3 trên
tổng số 101 quốc gia đầu tư vào Việt Nam, sau Hàn Quốc và Nhật
Bản.
Bảng 3-4:Thống kê vốn Singapore đầu tư vào Việt Nam qua các năm
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số vốn 1.72 1.66 2.12 2.84 3.13 2.8 3.26 3.54 3,74
Nguồn:singstat.gov.sin
Trong 3 tháng đầu năm 2011, Singapore đứng thứ nhất với 16 dự án
đầu tư mới tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký 1,078 tỷ USD; 3 dự án FDI tăng
vốn đầu tư, với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 29,5 triệu USD
Thống kê cho thấy, khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư
Singapore đa số lựa chọn hình thức 100% vốn nước ngoài với
(chiếm71% tổng số dự án và 62,7% tổng vốn đăng ký của Singapore tại Việt
Nam). Còn lại là theo hình thức liên doanh, công ty cổ phần, HDHTKD.
Nhìn chung, vốn đầu tư nước ngoài của các nhà đầu tư Singapore vào
Việt Nam không ngừng tăng lên trong những năm gần đây.Các dự án đầu tư
của Singapore hoạt động có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể cho giải quyết
việc làm, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Theo Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng
10/2014, các nhà đầu tư khu vực ASEAN có 2.459 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 52,34 tỷ USD; chiếm trên 21,4% tổng vốn đầu tư nước
ngoài đăng ký tại Việt Nam.
Ước tính quy mô vốn bình quân một dự án của các nhà đầu tư
ASEAN đạt khoảng 21,3 triệu USD/dự án, cao hơn so với mức bình quân
chung một dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (khoảng 14,45 triệu
USD/dự án).
Trong đó, dẫn đầu trong khu vực ASEAN đầu tư vào Việt Nam là
Singapore với 1330 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,6 tỷ USD (chiếm
54% tổng số dự án và 62,3% tổng vốn đầu tư đăng ký). Đứng thứ hai là
Malaysia với 475 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 10,7 tỷ USD (chiếm
19,3% tổng số dự án và 20,5% tổng vốn đầu tư đăng ký).
Tiếp theo đó là Thái Lan với 370 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký là
6,65 tỷ USD (chiếm 15,04% tổng số dự án và 12,7% tổng vốn đầu tư đăng
ký). Còn lại theo thứ tự lần lượt là các nước Brunei, Indonesia, Philippines,
Lào và Campuchia.
4.50%
12.70%
Singapore
Malaysia
20.50% Thái Lan
Khác
62.30%
Singapore dẫn đầu về dòng vốn FDI từ khu vực ASEAN đổ vào Việt
Nam tính đến tháng 10/2014
Theo thống kê, tính đến tháng 9/2014, các nước ASEAN đã đầu tư
vào 18 trên tổng số 21 lĩnh vực kinh doanh tại Việt Nam. Trong đó, lĩnh vực
công nghiệp chế biến chế tạo đứng đầu với 950 dự án; tổng vốn đầu tư đăng
ký đạt 20,07 tỷ USD (chiếm 39,08% tổng số dự án và chiếm 38,72% tổng
vốn đầu tư).
Tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 92 dự án và tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt 16,48 tỷ USD (chiếm 3,78% tổng số dự án và
31,81% tổng vốn đầu tư). Lĩnh vực xây dựng có 166 dự án với số vốn đầu tư
đăng ký là 3,03 tỷ USD (chiếm 6,8% tổng số dự án và 5,85% tổng vốn đầu
tư)...
Theo nhận định chung của giới đầu tư Singapore, Việt Nam có vị trí
địa lý thuận lợi hơn so với các nước trong khu vực, tiềm năng về bất động
sản lớn, thuận lợi cho sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, nhất là lợi thế về biển
để phát triển logistic... Vậy nên, bất chấp những biến động của dòng vốn đầu
tư trực tiếp từ khu vực ASEAN vào Việt Nam những năm qua, Singapore
luôn dẫn đầu với sự gia tăng liên tục cả về số dự án, lượng vốn và quy mô
vốn của từng dự án đầu tư vào Việt Nam.
Bảng 3-5:Tình hình đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt
Nam theo cơ cầu ngành
Có thể thấy, 3 ngành mà Singapore đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam
là: Kinh doanh BĐS, CN chế biến chế tạo và Xây dựng.
Cũng phải nói thêm rằng, Hiệp định Khung về kết nối Singapore -
Việt Nam đang là nền tảng chính giúp củng cố quan hệ hợp tác kinh tế song
phương và thúc đẩy các cơ hội đầu tư và kinh doanh giữa hai nước. Hiệp
định này đã thành công trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều dự án
của các doanh nghiệp trải rộng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu như khi
mới đầu tư vào Việt Nam, các doanh nghiệp Singapore chỉ tập trung vào các
lĩnh vực về hạ tầng đô thị, phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, thì nay,
các công ty Singapore đã mở rộng hoạt động ra nhiều lĩnh vực khác, như
phát triển hệ thống cảng biển, y tế, giáo dục, du lịch, chế biến thực phẩm,
sản xuất hàng tiêu dùng…
3.3.3. Tình hình đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam theo khu
vực
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương thu hút được nhiều nhất dự án
của Singapore với 670 dự án và 8,9 tỷ USD vốn đăng ký (chiếm 49% tổng
số dự án và 27% tổng số vốn đăng ký của Singapore tại Việt Nam). Hà Nội
đứng thứ hai với 219 dự án và 4,1 tỷUSD vốn đăng ký (chiếm 16% tổng số
dự án và 12,6% tổng số vốn đăng ký của Singapore tại Việt Nam). Quảng
Nam đứng thứ ba với 4 dự án và khoảng 4 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư,
chiếm 12,4% tổng số vốn đăng ký của Singapore tại Việt Nam. Ngoài ra,
Bắc Ninh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng tàu, Đông Nai cũng là những tỉnh
thành phố thu hút được nhiều dự án của Singapore.
Bảng 3-6: Đầu tư của Singapore tại tỉnh/thành phố (lũy kế đến
15/12/2014)
Theo số liệu mới cập nhật, đến cuối tháng 9 năm 2014, có hơn 500
doanh nghiệp Singapore đầu tư tại Tp Hồ Chí Minh với tổng vốn đầu tư hơn
7 tỷ USD, cho 693 dự án. Kim ngạch thương mại của Tp Hồ Chí Minh và
Singapore 8 tháng năm 2014 đạt hơn 3 tỷ USD.
Biểu đồ 3-2: Cơ cấu đầu tư theo vùng của Singapore vào
Việt Nam năm 2014
2.38
7.65
2.46 1.56 1.55 Đông Nam Bộ
Đồng bằng Sông Hồng
4.46
Duyên hải Nam Trung Bộ
53.15 Đông Bắc
Đồng bằng Sông Cửu Long
Bắc Trung Bộ
29.6 Tây Nguyên
Tây Bắc
3.4. Đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam
3.4.1. Thành tựu
Từ 1996 đến nay, Singapore luôn là một trong những đối tác thương mại
và đầu tư lớn nhát của Việt Nam. Các số liệu thống kê trên đã chứng
mình rõ ràng rằng Singapore đang ngày càng đầu tư nhiều hơn vào Việt
Nam trên nhiều lĩnh vực, thể hiện một sự hợp tác song phương bền vững
và phát triển giữa hai quốc gia.
Nhìn chung các dự án đầu tư của Singapore hoạt động có hiệu quả cao,
đóng góp đáng kể cho giải quyết việc làm, xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Năm khu công nghiệp Việt Nam – Singapore là minh
chứng rõ nhất cho những thành quả của sự hợp tác chặt chẽ giữa hai
nước. Các khu công nghiệp ở Bình Dương, Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng
Ngãi đã thu hút 500 nhà đầu tư đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt
tổng cộng 4,6 tỷ USD vốn đầu tư và 8 tỷ USD giá trị xuất khẩu, tạo ra
hơn 140 000 việc làm tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp Singapore đầu tư tại Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật Đầu tư tại Việt Nam, hòa nhập với cộng đồng và có thể nói đầu
tư của họ đã thành công ở Việt Nam, đã đóng góp vào phát triển của một
số lĩnh vực như đầu tư kinh doanh bất động sản, dịch vụ lưu trú, ăn uống,
công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng…đây cũng chính là các lĩnh vực
đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp Singapore vào Việt Nam thời gian
qua.
Đến nay trên khắp vùng miền đất nước, từ Nam ra Bắc, các VSIP không
những chỉ là những khu công nghiệp cao cấp, thịnh vượng mà còn là các
khu phức hợp đô thị, khu dân cư và dịch vụ kiểu mẫu như VSIP III tỉnh
Bắc Ninh, VSIP IV ở Hải Phòng, VSIP V đang xây dựng ở tỉnh Quảng
Ngãi và một VSIP thứ VI đang được cân nhắc, tính toán tại tỉnh Nghệ
An.
Bên cạnh những thành công đạt được trong việc đầu tư trực tiếp của
Singapore vào Việt Nam thì vẫn còn một số hạn chế tồn tại.
Thứ nhất, các nhà đầu tư Singapore tuy có đánh giá cao môi trường đầu
tư tại Việt Nam nhưng đó là chỉ môi trường về tài nguyên, địa lý còn
phần vốn và nhân lực thì còn hạn chế và còn kém hấp dẫn, khiến các nhà
đầu tư còn ngần ngại
Thứ hai, tác động kinh tế - xã hội và môi trường tổng hợp của các dự án
FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp
và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc
biệt, các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng,vùng đất màu mỡ và
những dự án “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài
rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai.
Thứ ba, các nhà đầu tư Singapore nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài
nói chung rất quan tâm đến việc phát triển khu công nghiệp tại Việt Nam,
nhưng nguồn nhân lực tại các khu công nghiệp trình độ còn kém so với
các nước và khu vực khác.
Thứ tư, các doanh nghiệp có vốn FDI chủ yếu tập trung vào đầu tư tại các
khu vực đô thị lớn mà chưa phân bổ đều giữa các địa phương trong cả
nước, điều này cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng
khoảng cách phát triển giữa vùng đô thị và vùng nông thôn, giữa miền
ngược và miền xuôi. Hơn nữa, FDI tập trung quá nhiều tại các thành phố
lớn sẽ càng gia tăng sức ép cho các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.
Cũng như các nhà đầu tư khác, các dự án đầu tư của Singapore tập trung
phần lớn tại các địa phương có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối phát
triển như Hà Nội (chiếm 9,7% tổng vốn đăng kí), thành phố Hồ Chí Minh
(chiếm 22,2% tổng vốn đăng kí), Bình Dương (9,7% tổng vốn đăng kí)
3.5. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn FDI từ Singapore vào
Việt Nam trong thời gian tới:
Xác định Singapore là một trong những thị trường trọng điểm, trong
những năm qua, hoạt động xúc tiến đầu tư nói riêng, ngoại giao kinh tế
với quốc đảo này nói chung đã được Cơ quan đại diện Việt Nam tại Cộng
hòa Singapore tích cực thực hiện. Để tiếp tục thu hút đầu tư của
Singapore vào Việt Nam trong những năm tới, hoạt động Cộng hòa
Singapore sẽ chú ý nhiều hơn cho lĩnh vực hợp tác đầu tư với 5 ưu tiên
chính. Đó là tập trung thu hút các dựa án có công nghệ hiện đại, thân
thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết giữa các khu vực; xúc tiến
đầu tư vào các ngành, lĩnh vực đào tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu, như công nghệ cao, cơ khí, công nghệ thông tin và truyền thông,
dược, công nghệ sinh học; công nghiệp môi trường và các ngành sử dụng
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật liệu mới…
Trên cơ sở những định hường ưu tiên này, Cơ quan đại diện Việt Nam tại
Singapore sẽ phối hợp với các bộ, ngành hữu quan, các cơ quan đầu mối
về hợp tác kinh tế giữa hai nước để rà soát việc thực hiện cac thỏa thuận,
hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định Kết nối Việt Nam – Singapore tại 6
lĩnh vực: tài chính – ngân hàng, giáo dục – đào tạo, đầu tư, công nghệ
thông tin, thương mại - dịch vụ, giao thông – vận tải để đưa ra các
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác.
Tại Việt Nam,trong thời gian tới, để tiếp tục duy trì về lượng và nâng cao
hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Singapore nói chung
và các quốc gia khác nói riêng, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút, sử dụng
FDI khoa học, hợp lý.
- Tiếp tục thu hút các nhà đầu tư vừa và nhỏ phù hợp với từng lĩnh vực.
từng địa phương; đồng thời, chú ý thu hút và chăm sóc những nhà đầu
tư lớn, có sử dụng công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường.
- Có kế hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong triển
khai dự án sau khi đã được cấp phép, đem lại hiệu quả tốt cho đôi bên
- Định hướng phát triển các khu công nghiệp chuyên ngành, hạn chế
phát triển các khu công nghiệp đa ngành như hiện nay.
- Giảm bớt các quy hoạch không cần thiết, tạo một quy hoạch thống
nhất, dễ thực hiện, đạt hiệu quả cao. Đồng thời, phải có kế hoạch định
hướng thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ hoặc lĩnh vực công nghệ
chuyển dần sang những ngành có giá trị gia tăng cao như công nghiệp
phụ trợ, công nghiệp sản xuất, phát triển hạ tầng và thị trường tài
chính.
Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho FDI
- Đảm bảo ổn định về kinh tế, chính trị cho hoạt động kinh doanh của
các nhà đầu tư nước ngoài.
- Giảm tối thiểu các thủ tục hành chính, bỏ những thủ tục không cần
thiết, rút ngắn thời gian cấp phép, giúp doanh nghiệp triển khai dự án
nhanh chóng.
Thứ ba, thúc đẩy xúc tiến đầu tư phù hợp, khoa học và hợp lý.
- Không nên hình thức kiểu phong trào, phải thực sự xúc tiến đầu tư có
trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả thực sự. Trong xúc tiến phải tránh
cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương.
- Cần tổ chức thực hiện xúc tiến đầu tư một cách đa dạng, phong phú
như: thông qua các chuyến viếng thăm của các nguyên thủ quốc gia,
tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư trong nước và quốc tế.
Thứ tư, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các nhà đầu tư tùy theo từng lĩnh
vực trong từng thời kì
- Cần có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập, thuế sử dụng đất đai, thuế,
hải quan cho các nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực như:
các dự án phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao, phát triển hạ
tầng, thị trường tài chính.
- Chính quyền các cấp cần sát cánh với các nhà đầu tư nước ngoài giải
quyết những khó khăn về thủ tục hành chính cùng những khó khăn
khác phát sinh trong tiến trình hoạt động kinh doanh.
Thứ năm, tích cực đào tạo nguồn nhân lực trong các khu công nghiệp,
nhà máy để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư quốc tế. Giá nhân công
rẻ, nguồn nhân lực dồi dào là một lợi thế so sánh của Việt Nam khi thu
hút FDI. Nhưng lợi thế này sẽ dần mất đi khi nền kinh tế phát triển.
Chính vì vậy, lợi thế nguồn nhân lực sẽ được khai thác ở khía cạnh nhân
lực có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao, có kinh nghiệm quản lý, sẵn sáng
đáp ứng được với trình độ công nghệ mới và hiện đại.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp
FDI. Cần tập trung kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các doanh nghiệp
FDI gây ô nhiễm môi trường, cố tình sử dụng những công nghệ lạc hậu,
bắt tay với nhau để làm giá, chuyển giá, trốn lậu thuế, đối xử hà khắc với
công nhân nước sở tại, bỏ trốn, xù nợ…Muốn vây, cần phải đào tạo, xây
dựng đội ngũ kiểm tra, kiểm soát đủ trình độ, năng lực và phẩm chất,
trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để phát hiện những
sai phạm, tạo cơ sở để xử lý nghiêm minh những doanh nghiệp FDI vi
phạm pháp luật Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Singapore đã mang lại cho
quốc gia này những lợi ích to lớn như nguồn vốn được sử dụng một cách
hiệu quả hơn, các lợi thế so sánh của Singapore được khai thác một cách
tích cực hay mang lại cho Singapore những mối quan hệ ngoại giao vững
chắc. Bên cạnh đó, quá trình đầu tư ra nước ngoài của Singapore cũng
gặp phải những hạn chế cần được khắc phục qua các giải pháp vi mô và
vĩ mô.
Là một đối tác quan trọng của Singapore trên nhiều lĩnh vực, Việt Nam
hàng năm thu hút được một lượng lớn vốn FDI từ Singapore. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong quá trình sử dụng
nguồn vốn của Singpore thì vẫn còn tồn tại những hạn chế. Vì vậy, trong
tương lai Việt Nam cần tích cực cải cách môi trường đầu tư, khung pháp
lý cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể sử dụng có
hiệu quả hơn nguồn vốn FDI từ Singapore nói riêng cũng như từ các nhà
đầu tư trên thế giới nói chung.