You are on page 1of 30

NỘI DUNG

I. Phân biệt FDI và ODA. Ý nghĩa đối với việc quản lý và hoạch định
chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam
I.1. Lý thuyết chung về FDI và ODA
I.1.1. Lý thuyết về FDI
a) Khái niệm của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (hay FDI, viết tắt của cụm từ Foreign Direct
Investment), là hoạt động di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó nhà đầu tư
nước này mang vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào sang nước khác để tiến hành
hoạt động đầu tư và trực tiếp nắm quyền quản lý cơ sở kinh doanh tại nước đó.
b) Bản chất của FDI
FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng
hoặc mua phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để trở
thành chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành
hay tham gia quản lý điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Đồng thời, họ cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh
doanh về dự án.
c) Các hình thức của FDI
FDI thường được thực hiện thông qua các hình thức tùy theo quy định của
luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Các hình thức FDI phổ biến trên thế giới
hiện nay là:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Hợp đồng cấp giấy phép công nghệ hay quản lý hợp đồng li xăng
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Hợp đồng phân chia sản phẩm, mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
- Buôn bán đối ứng

I.1.2. Lý thuyết về ODA


a) Khái niệm của ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official
Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp. Gọi là Hỗ
trợ này bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khỏan cho vay không lãi suất
hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Gọi là Phát triển vì mục tiếp danh nghĩa
của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được
đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
b) Bản chất của ODA
ODA là loại hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư không trực tiếp chịu
trách nhiệm về hiệu quả của việc đầu tư. Chủ đầu tư chỉ hưởng lãi suất theo tỷ lệ
đã công bố trước của số vốn mà họ đầu tư thông qua một đối tác nhất định ở nước
khác.
c) Các hình thức của ODA
1
ODA là hình thức hỗ trợ phát triển của Chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ có tính chất song phương hoặc đa phương; bao
gồm các khỏan tiền mà các cơ quan chính phủ viện trợ không hoàn lại hoặc cho
vay theo các điều khoản tài chính ưu đãi.

I.1.3. Phân biệt FDI và ODA:


ODA FDI
Khái - Khoản hỗ trợ không hoàn lại và các - Loại hình đầu tư quốc tế về vốn
niệm khoản tín dụng ưu đãi của các Chính trong đó người chủ sở hữu trực
phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành tiếp quản lý về vốn
cho các nước nhận viện trợ
Đặc - Người chủ sở hữu vốn là hai chủ thể - Người chủ thể vốn 100% là các
điểm khác nhau nhà đầu tư người nước ngoài
- Nguồn vốn lớn từ các chính phủ và
kèm theo các điền kiện ưu đãi
Luật - Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn - Quy định mức góp vốn tối thiểu
đầu tư quyền sử dụng ODA nhưng thông cho nhà đầu tư
thường các danh mục dư án ODA cũng - Quyền điều hành, quản lý doanh
phải có sự thỏa thuận, đồng ý của nước nghiệp phụ thuộc vào mức góp vốn
viện trợ
- Nước nhận ODA có quyền sử dụng
vốn nhưng phải đúng mục tiêu đã đề ra
Nguồn - Các chính phủ - Vốn tư nhân
vốn - Các tổ chức quốc tế - Các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư - Các tổ chức phi chính phủ
Hình - Viện trợ (ODA) - Doanh nghiệp liên doanh
thức - ODA hỗn hợp - Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Cho vay và lãi suất điều kiện ưu đãi- Công ty cổ phần đầu tư nước
ngoài
Tính - Viện trợ, hỗ trợ phát triển chính thức - Tìm kiếm lợi nhuận
chất - Phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa - Theo mục tiêu cơ chế thị trường
các bên thuần túy là chính
Ưu - Quản lý được vốn - Thuận tiện cho việc tiếp nhận
điểm - Sử dụng và bố trí cơ cấu đầu tư khoa học kỹ thuật công nghiệp
- Phân tán rủi ro
Nhược - Nguồn vốn ODA từ các nước giàu - Phụ thuộc vào ý trí của nhà đầu tư
điểm cung cấp cho các nước nghèo cũng nước ngoài
thường gắn với việc mua sản phẩm từ - Quy định mức đóng góp vốn tối
các nước này mà không hoàn toàn phù thiểu
hợp, thậm chí mà không gần thiết đối
với các nước nghèo
Bảng 1: Phân biệt ODA và FDI

2
I.2. Định hướng và chính sách thu hút đầu tư quốc tế vào việt nam
Nguồn vốn ODA có quan hệ mật thiết với nguồn vốn FDI theo hướng thúc
đẩy dòng vốn FDI vào Việt Nam, do tác động lan tỏa của ODA khi tập trung đầu
tư vào cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi thu hút FDI. Những nước đang phát
triển như Việt Nam thường có cơ sở hạ tầng kinh tế yếu kém nên việc thu hút FDI
vào lĩnh vực này thường gặp nhiều khó khăn do hiệu quả kinh tế không cao. Để
nâng cao hiệu quả kinh tế, thu hút nhiều vốn FDI thì ODA phải đi trước để xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư vì việc cải tạo cơ
sở hạ tầng cần nhiều thời gian và vốn đầu tư rất lớn mà vốn đầu tư trong nước quá
ít không thể nhanh chóng cải thiện được còn vốn FDI đòi hỏi hiệu quả nhanh
chóng.
Sau 30 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua
năm 1987, Việt Nam theo đuổi chính sách FDI ở cả 3 cấp độ: thu hút FDI, nâng
cấp FDI, tạo mối liên kết FDI. Tuy nhiên, sử dụng khung hệ thống chính sách về
FDI toàn cầu Việt Nam mới chỉ chủ yếu tập trung triển khai cấp độ chính sách đầu
tiên – cấp độ chính sách thu hút FDI, trong khi các cấp độ chính sách khác chưa
thực sự được quan tâm. Vì vậy, bài nghiên cứu đi sâu vào chính sách thu hút FDI
của Việt Nam qua các thời kỳ.

I.2.1. Chính sách thu hút FDI của Việt Nam


a) Giai đoạn 1987 – 1990
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài  tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi
trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và
chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn
cảnh mới.
Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của
Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo
phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần
thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Đây là giai đoạn khởi đầu của đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư nước
ngoài chưa có tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế -xã hội nước ta. Khi đó, ngoài
việc có được một luật đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn và môi trường kinh doanh tự
do thì các cơ quan nhà nước còn rất hạn chế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong 3 năm này chỉ có 211 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 1.603,5 triệu USD.
Vốn thực hiện hầu như không đáng kể vì các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sau
khi được cấp phép còn phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào
nước ta.
b) Giai đoạn 1990 – 2000
Vào năm 1991, Diễn đàn Đầu tư nước ngoài đầu tiên của Việt Nam với sự
có mặt của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ lúc đó được tổ
chức tại TP.HCM với sự có mặt của khoảng 650 CEO tập đoàn, doanh nghiệp đa
quốc gia, lãnh đạo các tổ chức quốc tế lớn cũng như các đại diện đại sứ quán, lãnh

3
sự quán tại Việt Nam. Diễn đàn này đã tạo nên làn sóng FDI đầu tiên tại Việt
Nam. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về giai đoạn này cũng cho rằng, sự đột phá của
làn sóng FDI giai đoạn đầu là nhờ sự đột phá của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1987 (Luật ĐTNN) và sau đó là hai lần sửa đổi, vào năm 1990 và 1992
đã bổ sung hoàn thiện nên có sức hấp dẫn đối với các đối tác đầu tư. Thêm vào đó
có các bộ luật khác có liên quan như luật đất đai năm 1993, luật thuế, luật lao động
và các cơ chế của nhà nước , của chính quyền các địa phương đã thông thoáng
hơn, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, tình hình kinh
tế khu vực dần ổn định nên các công ty mẹ có đủ các yếu tố cần thiết nhất là vốn,
thị trường, công nghệ để mở rộng thị trường vào Việt Nam. (Đây là làn song FDI
vào Việt Nam lần thứ nhất).
FDI vào Việt Nam giai đoạn 1991 – 1996 đã tăng vượt bậc với 1.409 dự án,
với tổng số vốn đăng ký là 18.379,1 triệu USD. Đây có thể coi là thời kỳ bắt đầu
sự bùng nổ FDI tại Việt Nam. Giai đoạn này môi trường đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư, do chi phí đầu tư – kinh doanh thấp so với
một số nước trong khu vực; lực lượng lao động với giá nhân công rẻ có sẵn; nhiều
thị trường tiềm năng chưa được khai thác.
Bên cạnh đó, các yếu tố bên ngoài cũng đã đóng góp làm gia tăng FDI như:
Làn sóng vốn FDI chảy dồn về các thị trường mới nổi trong đầu những năm 90;
Dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, cũng được hưởng
nhiều lợi thế từ các yếu tố này. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng vốn FDI
hàng năm khá cao, nhiều năm đạt  trên 50%, đặc biệt là năm 1995 thu hút được
415 dự án, với tổng số vốn đăng ký là 7.925,2 triệu USD.
Giai đoạn 1997-2000: FDI có sự sụt giảm cả về số vốn đăng ký lẫn quy mô
dự án. Tốc độ tăng trưởng vốn FDI đăng ký cao nhất giai đoạn này là năm 1996,
tăng 21,58% so với năm 1995. Trong 3 năm tiếp theo (1997-1999), tốc độ thu hút
FDI đều giảm, năm 1997 giảm nhiều nhất 38,19%.
Nguyên nhân chính của sự giảm sút FDI là do tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế khu vực làm suy giảm dòng đầu tư mới vào khu vực và các nhà đầu
tư có một cách nhìn thực tế hơn và làm cho nhiều dự án đã cấp phép nhưng không
thể triển khai được. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư của Việt Nam chậm được cải
thiện, trong khi phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước khác như Trung
Quốc về tài nguyên thiên nhiên và giá thuê nhân công. Luật đầu tư nước ngoài đã
được sửa đổi bổ sung nhưng còn nhiều bất cập, nhiều cơ chế chính sách vẫn chưa
làm yên lòng các nhà đầu tư nước ngoài như giá cho thuê đất cao, chính sách 2 giá
trong nhiều lĩnh vực vừa cao so với các nước trong khu vực vừa mang nặng tính
chất phân biệt đối xử (như giá điện, cước điện thoại, vé máy bay..), cơ sở hạ tầng
kém nhất là đường giao thông, bến cảng, sân bay. Thủ tục hành chính rườm rà.

4
Lĩnh Luật sửa đổi từ 1996 đến hết
Luật sửa đổi từ 1992 đến 1995
vực 1999
Trình - Dự án FDI được nhận giấy phép đầu - DN FDI được lựa chọn loại hình
tự tư trong vòng 45 ngày thức đầu tư, tỷ lệ góp vốn, địa
đăng - Sau khi có giấy phép DN vẫn phải điểm, đối tác đầu tư
ký xin đăng ký hoạt động - DN xuất khẩu sản phẩm trên
80% được ưu tiên nhận giấy phép
sớm
Lĩnh - Khuyến khích các dự án liên doanh - Khuyến khích DN FDI đầu tư
vực với DN trong nước, hạn chế dự án vào lĩnh vực định hướng xuất
đầu tư 100% vốn nước ngoài khẩu, công nghệ cao
Đất đai - Phía Việt Nam chịu đền bù giải - UBND tạo điều kiện mặt bằng
phóng mặt bằng cho các dự án có vốn kinh doanh khi dự án được phê
FDI duyệt; DN thanh toán tiền GPMB
- Dự án FDI được thuê đất để hoạt cho UBND
động nhưng không được cho DN khác - Được quyền cho thuê lại đất đã
thuê lại thuê ở các khu CN, khu chế xuất
Tỷ giá - Các dự án FDI đầu tư hạ tầng và - Dự án phải đảm bảo cân đối
ngoại thay thế nhật khẩu được nhà nước ngoại tệ cho hoạt động của mình
tệ đảm bảo cân đối ngoại tệ - Áp dụng khung tỷ lệ kết hối
- Các dự án FDI thuộc lĩn vực khác ngoại tệ do tác động của khủng
phải tự lo cân đối hoảng tài chính khu vực (80%),
sau nới dần tỷ lệ này
- DN có thể mua ngoại tệ với sự
cho phép của NHNN
XNK - DN phải đảm bảo tỷ lệ XK ghi trong - Bãi bỏ hoàn toàn việc duyệt kế
giấy phép đầu tư hoạch XNK của DN FDI
- Sản phẩm của DN FDI không được - Cải tiến thủ tục XNK hàng hóa
bán ở Việt Nam qua đại lý đối với xét xuất xứ XNK
- DN FDI không được làm đại lý
XNK
Thuế - Áp dụng thuế ưu đãi cho các dự án - Miễn thuế nhập khẩu đối với
đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt ưu thiết bị , máy móc, vận tải chuyên
tiên với mức thuế thu nhập 10% dung, nguyên liệu vật tư
trong vòng 15 năm kể từ khi hoạt - Miễn thuế nhập khẩu cho DN
động đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên,

5
Lĩnh Luật sửa đổi từ 1996 đến hết
Luật sửa đổi từ 1992 đến 1995
vực 1999
- Mức thuế thu nhập của DN 100% địa bàn ưu tiên trong 5 năm đầu
vốn FDI không bao gồm phần bù trừ hoạt động
lợi nhuận của năm sau để bù lỗ cho - DN XK được miễn thuế nhập
các năm trước khẩu nguyên liệu sản xuất sản
- Không tính vào chi phí sản xuất một phẩm
số khoản chi nhất định - DN cung ứng nguyên liệu đầu
- Thuế nhập khẩu được áp dụng ở vào cho DN XK cũng được miễn
mức thấp theo khung giá của Bộ Tài thuế nhập khẩu nguyên vật liệu
chính trung gian với tỷ lệ tương ứng
Bảng 2: Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI thời kỳ
1990 – 1999 của Luật ĐTNN ở Việt Nam
c) Giai đoạn 2000 – 2005
Giai đoạn này là thời kỳ thu hút FDI găp nhiều khó khăn do tác động từ bối
cảnh quốc tế, nhiều quốc gia trong khu vực đặc biệt là Trung Quốc cải thiện môi
trường đầu tư đã tác động ít nhiều đến quá trình thu hút FDI của Việt Nam. Trong
khi đó môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài nhưng có lợi thế về ổn định kinh tế vĩ mô và tình hình chính trị, nên dòng
vốn FDI vẫn duy trì nhưng không bằng giai đoạn trước.
d) Từ năm 2005 – 2015
 Định hướng chính sách của chính phủ trong thu hút FDI giai đoạn 2005-
2015
Xu hướng thay đổi chủ đạo trong các chính sách FDI chung giai đoạn này
là nới rộng quyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư và thu hẹp sự
khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Những thay đổi này thể
hiện sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện, tạo môi trường đầu tư theo xu
hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam. Những thay đổi này xuất phát từ ba yếu tố
chính:
(1) Thay đổi về nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu
vực FDI
(2) Thay đổi trong chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực và
trên thế giới, tạp nên áp lực cạnh tranh đối với dòng vốn FDI vào Việt Nam
(3) Thay đổi trong những cam kết quốc tế của Việt Nam về đầu tư nước
ngoài
* Việt Nam gia nhập WTO năm 2006
Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức kết nạp là thành viên mới của
WTO; các cam kết của Việt Nam với WTO chính thức có hiệu lực từ ngày
11/01/2007. Sau khi là thành viên của WTO đã mang lại một số lợi ích tích cực
cho việc thu hút FDI vào Việt Nam

6
(1) Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương, và các cam kết mở
cửa thị trường, không phân biệt đối xử giữa các đối tác, tạo môi trường thuận lợi
để thu hút vốn đầu tư nước ngoài,…
(2) Việc cắt giảm thuế quan nhập khẩu sẽ làm giảm chi phí sản xuất và giá
mặt bằng chung ở Việt Nam, do đó làm tăng mức hấp dẫn của Việt Nam là nơi để
các DN FDI sản xuất theo hướng xuất khẩu.
(3) Tác động thông qua các cam kết tự do hóa thị trường dịch vụ của Việt
Nam. Đây là một trong những cam kết mang tính cải cách lớn nhất. Trước hết,
nhiều trong số các ngành dịch vụ bị đóng cửa/hạn chế chặt chẽ từ trước đến nay
với đầu tư nước ngoài (như phân phối, vận tải, viễn thông, tài chính…) nay được
mở rộng (mặc dù còn một số điều kiện hạn chế và một thời gian chuyển đổi,
thường là năm năm), đây là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư FDI.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nên làn sóng FDI thứ 2 từ Hàn
Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản đồng loạt rót vốn vào Việt Nam trong năm 2008 khi thu
hút được 1.171 dự án với tổng vốn đăng ký lên đến 71,7 tỷ USD. Đến năm 2009
và 2010, do ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng vốn FDI vào Việt
Nam cũng bị sụt giảm đáng kể. 
* Ngày 07/4/2009, Chính phủ ra nghị quyết số 13/NQ-CP về định hướng,
giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tiếp
theo, cụ thể:
(1) Thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh
vực quan trọng: công nghệ cao; công nghiệp phụ trợ; phát triển cơ sở hạ tầng và
phát triển nguồn nhân lực; chế biến nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông
nghiệp và nông thôn; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng
lượng; các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; các ngành có tỷ trọng xuất khẩu
lớn; các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội (khám chữa bệnh, công nghiệp dược
và vac-xin, sinh phẩm), bảo đảm môi trường và an ninh quốc gia…
(2) Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đất đai, xây
dựng, kinh doanh và các văn bản pháp luật chuyên ngành tạo môi trường pháp lý
công khai, minh bạch
(3) Hạn chế tình trạng mất cân đối, cấp phép tràn lan, gây dư thừa, lãng phí,
hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân
cấp về các địa phương.
(4) Các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở tới hoạt động ĐTNN
cần được tập trung giải quyết như: hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, hệ thống
cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển; sự ổn định về cung cấp năng lượng,
công tác giải phóng mặt bằng,…
(5) Tập trung giải quyết các khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ cho các
dự án ĐTNN có quy mô lớn, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua
đào tạo; sự lạc hậu trong chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo,
trường nghề; phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp lao động nhằm hạn chế các
cuộc đình công có thể xảy ra.

7
* Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ về định hướng,
giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tiếp
theo, cụ thể:
(1) Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về thu hút ĐTNN theo hướng chọn lọc
các dự án có chất lượng, có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ hiện đại, thân
thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học phục vụ nông nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ hiện đại...
(2) Tăng cường thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm có tính cạnh tranh
cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, từ đó xây
dựng, phát triển hệ thống các ngành, doanh nghiệp phụ trợ; khuyến khích các dự
án công nghiệp chuyển dần từ gia công sang sản xuất; lựa chọn các nhà đầu tư lớn,
có uy tín đầu tư phát triển thị trường tài chính; đồng thời, chú trọng đến các dự án
có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa phương.
(3) Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường sự liên kết giữa các doanh
nghiệp ĐTNN với nhau và với các doanh nghiệp trong nước.
(4) Quy hoạch thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi
thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương,
từng vùng, phù hợp với quy hoạch chung, đảm bảo lợi ích tổng thể quốc gia và tái
cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới.
* Sửa đổi Luật Đầu tư năm 2014
Năm 2014, Luật đầu tư được sửa đổi và bổ sung, tạo sự minh bạch và dễ dàng hơn
đối với các thủ tục đầu tư và tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư.
Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần đăng ký để được nhận giấy đăng ký kinh doanh
thay vì phải xin phép đầu tư như trước.
Luật đầu tư (2000) Luật đầu tư (2005) Luật đầu tư (2014)
Phạm Đầu tư trực tiếp Đầu tư trong nước và Đầu tư trong nước và
vi điều nước ngoài vào Việt ngoài nước vào Việt ngoài nước vào Việt Nam
chỉnh Nam Nam
Thủ + Xóa bỏ lệ phí đăng + Quy mô vốn dưới + Tách bạch giữa nội dung
tục ký 300 tỷ, thời gian 15 đăng ký dự án đầu tư là
+ Ban hành danh ngày; cấp theo Giấy chứng nhận
sách các doanh + Quy mô vốn lớn hơn đăng ký đầu tư. Sau khi
nghiệp FDI được là 30 ngày; được cấp Giấy chứng nhận
phép làm đăng ký + Không quá 45 ngày đầu tư, DN sẽ đăng ký
kinh doanh mà cho các trường hợp kinh doanh theo quy định
không cần giấy phép đặc biệt của Luật DN điều chỉnh
đầu tư + Dự án hoặc doanh
nghiệp FDI góp vốn 51%
vốn điều lệ mới phải xin
Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư.
+ Thời gian cấp giấy

8
Luật đầu tư (2000) Luật đầu tư (2005) Luật đầu tư (2014)
chứng nhận là 15 ngày
Hình + Hợp đồng hợp tác + Hợp đồng hợp tác + Hợp đồng hợp tác kinh
thức kinh doanh; kinh doanh; doanh;
+ 100% vốn nước + 100% vốn nước + 100% vốn nước ngoài
ngoài; ngoài; + Đầu tư góp vốn
+ Liên doanh; + Liên doanh; + M&A
+ BOT, BTO, BT; + BOT, BTO, BT; + Mua cổ phần
+ M&A + M&A + Các hình thức khác
+ Công ty Cổ phần;
+ Các hình thức khác
Bảng 3: Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI của
Luật Đầu tư ở Việt Nam qua các năm 2000 - 2014
* Năm 2016 Hiệp định thương mại tự do FTA có hiệu lực
Năm 2016, với việc hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu
lực nguồn vốn đầu tư FDI đã bắt đầu tăng lên. Tính chung tổng vốn đăng ký của
các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ
phần trong năm 2016 đạt hơn 24,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2015. Điểm
đáng lưu ý là vốn FDI thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9% so
với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn FDI cao nhất từ trước đến nay.

Biểu 01: Diễn biến FDI qua các năm từ 2005 - Q2 2016
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê)
 Các kết quả đạt được trong giai đoạn 2005 - 2015 của khu vực FDI:
Khu vực FDI đã góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho lao động
Việt Nam. Bên cạnh đó khu vực FDI đào tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng
tốt, tay nghề cao. Rất nhiều lao động của Việt Nam đã từng làm việc tại các doanh
nghiệp FDI, sau một thời gian tích lũy kinh nghiệm đã đứng ra thành lập doanh
nghiệp riêng và trở thành đối tác lớn của doanh nghiệp FDI. Người lao động làm
việc trong các công ty FDI thường có thu nhập cao hơn doanh nghiệp trong nước.

9
Biểu 02: Số lượng lao động của khu vực FDI giai đoạn 2005 - 2015
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê)
Trong giai đoạn đầu của quá trình thu hút ĐTNN, dòng vốn FDI hướng vào
những ngành công nghiệp khai thác và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, xu hướng
này đã thay đổi kể từ năm 2000 đến nay. Theo đó, các dự án FDI vào ngành công
nghiệp chế biến và định hướng xuất khẩu đã tăng nhanh, góp phần tăng tổng kim
ngạch xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Qua các
thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng tuy có
thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến
khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí
chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử...   Đây
cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế
so sánh khi thu hút ĐTNN.

Biểu 03: FDI được cấp giấy phép theo ngành kinh tế giai đoạn 1988 - 2016
(lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2016)
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê)
Điểm đáng nói nữa là sự xuất hiện của FDI và phát triển của khu vực này
cũng làm xuất hiện nhiều sản phẩm công nghiệp và dịch vụ mới có đóng góp trực
tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu, ví dụ các sản

10
phẩm thiết bị điện, điện tử, linh kiện. Đây là những mặt hàng xuất hiện cùng với
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và đóng góp nhiều cho xuất khẩu.  
Trong các ngành chế biến, chế tạo (chiếm tỷ trọng lớn trong thu hút FDI), 2
lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, máy vi tính, thiết bị ngoại vi có mức tăng vốn,
doanh thu lớn trong những năm gần đây, do những năm vừa qua, một số dự án mở
rộng, tăng quy mô vốn đầu tư, đặc biệt là các dự án của Samsung. Các lĩnh vực
chế biến xăng dầu, nhiên liệu khí, sản phẩm hoá dầu suy giảm về quy mô sản xuất,
vốn và tài sản, do thị trường dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ sụt giảm mạnh về
giá, nguồn cung dư thừa, khiến các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực này gặp khó
khăn, không mở rộng, thậm chí thu hẹp quy mô sản xuất - kinh doanh.
Trong các ngành dịch vụ thì vốn FDI vẫn chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực bất
động sản, các lĩnh vực nhiều tiềm năng khác như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm,
bán buôn bán lẻ, hành chính và dịch vụ hỗ trợ vẫn chưa nhận được nhiều sự quan
tâm của các nhà đầu tư nước ngoài so với tiềm năng phát triển.
Lĩnh vực phân phối, sửa chữa ô tô, xe máy có mức tăng vốn, doanh thu lớn
trong những năm gần đây. Nguyên nhân là do các nhà đầu tư nắm bắt lộ trình
giảm thuế thực hiện cam kết theo các hiệp định thương mại tự do (FTA) đối với
các dòng ô tô (gần nhất là lộ trình cắt giảm thuế khu vực mậu dịch tự do ASEAN),
và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ô tô trong nước, từ đó tiến hành đầu tư mở rộng quy
mô hệ thống đại lý phân phối. Một số lĩnh vực như dịch vụ tư vấn, hành chính và
khoa học có sự giảm tỷ trọng về doanh thu, vốn.

Biểu 04: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước giai đoạn 2005 - Q2 2016
(Nguồn số liệu: Tổng cục Hải quan)
Có thể thấy được giá trị kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng xuất khẩu của khu
vực FDI đang có xu hướng tăng dần qua các năm. Tăng trưởng tỷ trọng xuất khẩu
của khu vực FDI giai đoạn này chủ yếu là nhờ các sản phẩm máy móc, thiết bị, sản
phẩm công nghệ cao như máy tính, sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện. Đến
nay, xuất khẩu các mặt hàng kỹ thật cao như điện thoại, máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện đã chiếm đến trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam và chủ yếu đến từ các doanh nghiệp FDI (trên 99%). Như vậy, có thể thấy xu

11
hướng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang các mặt hàng công nghệ cao của nước ta
hoàn toàn phụ thuộc vào khối các doanh nghiệp FDI. Ngay cả xuất khẩu các sản
phẩm công nghiệp còn lại, các doanh nghiệp FDI cũng chiếm ưu thế.
Một ví dụ cụ thể: Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng dần qua
các năm và còn tăng lên trong các năm tới. Xuất khẩu sản phẩm điện thoại và linh
kiện năm 2013 đạt 21,09 tỷ USD, nhưng chỉ 2 năm sau đã tăng lên mức 30,09 tỷ
USD. Điều đáng nói là con số này chủ yếu đến từ một doanh nghiệp là Samsung.
Doanh nghiệp này hiện có 3 nhà máy tại Bắc Ninh và Thái Nguyên, tuy mới đưa
vào hoạt động 2 nhà máy nhưng đã chiếm gần 20% giá trị xuất khẩu của Việt
Nam. Như vậy, trong tương lai, nhiều khả năng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày
càng phụ thuộc vào Samsung.
e) Đánh giá chung về định hướng thu hút đầu tư FDI ở Việt Nam trong
30 năm 1987 - 2017
Sau 30 năm thực hiện thu hút FDI vào Việt Nam, có thể đánh giá, tổng kết
một số những chính sách của Chính phủ như sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện và cải tiến thủ tục hành chính theo
hướng thông thoáng và hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Kể từ khi ra đời năm
1987, Luật Đầu tư nước ngoài đã trải qua 6 lần sửa đổi và bổ sung vào năm 1990,
1992, 1996, 2000, 2005, 2014 nhằm điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh kinh tế,
tạo nhiều thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, giảm sự khác biệt giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Hạn chế: việc điều chỉnh, sửa đổi và
bổ sung văn bản pháp luật liên quan đến FDI tạo tâm lý e ngại của nhà đầu tư về
môi trường đầu tư không ổn định của Việt Nam. Bên cạnh đó, sự không rõ ràng
trong một số khái niệm, cụm từ giữa các văn bản luật khiến các nhà đầu tư lúng
túng trong việc thực hiện. Về thời gian thực hiện thủ tục hành chính, mặc dù đã có
nhiều cải thiện, nhưng các nhà đầu tư vẫn cho rằng việc giải quyết thủ tục hành
chính liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh của Việt Nam còn khá chậm
chạp so với các quốc gia khác trong khu vực.
Thứ hai, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp FDI, góp phần tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài, nhưng còn dàn trải nên hiệu quả chưa cao. Trong nhiều năm qua, Việt
Nam đã duy trì mức đầu tư hạ tầng khoảng 10% GDP, cao hơn so với mức trung
bình 7% của các nền kinh tế Đông Nam Á. Mức đầu tư này đã góp phần nhanh
chóng mở rộng nguồn cung cơ sở hạ tầng và cải thiện khả năng tiếp cận sử dụng.
Thứ ba, chính sách liên quan đến xây dựng lực lượng lao động có trình độ
và có quan hệ lao động tốt ở Việt Nam hiện nay đã tương đối hoàn thiện nhưng
mới chủ yếu tập trung ở chiều rộng. Chính sách phát triển giáo dục đã được thể
chế bằng Luật Giáo dục 2005 và sửa đổi năm 2009, Luật Lao động 2012. Hạn chế:
hiệu quả chính sách phát triển nguồn nhân lực này vẫn bị đánh giá là vẫn không
đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới và phát triển: chất lượng giáo dục thấp,
hiệu quả giáo dục thấp, mất cân bằng,…

12
Thứ tư, chính sách thương mại của Việt Nam ngày càng được mở rộng với
các cam kết mở cửa sâu về thương mại hàng hóa trong các Hiệp định thương mại
song phương, đa phương. Tiến trình tự do hóa thương mại được thực hiện một
cách thận trọng, và khá giống với tiến trình thực hiện của một số nước khác trong
khu vực ASEAN.
Thứ năm, chính sách chống tham nhũng được xây dựng và hoàn thiện để
tạo môi trường minh bạch thuận lợi cho hoạt động xúc tiến đầu tư và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, tuy nhiên kết quả thực hiện của chính sách này hiện nay còn
chưa rõ ràng.
Nhìn chung, hệ thống chính sách FDI của Việt Nam đã có nhiều cải thiện
đáng kể thể hiện qua các chỉ số FDI tăng lên qua các năm. Trong giai đoạn 2005 –
2015, chỉ số Cơ hội đầu tư toàn cầu của Việt Nam đã tăng từ 4,13 năm 2005 lên
4,79 trong năm 2015. Điều này cho thấy sự cải thiện trong chính sách Việt Nam
đối với việc thu hút FDI. Chỉ số FDI thực hiện của Việt Nam đã được cải thiện
liên tục trong các năm qua. Chỉ số này tăng 0,7952 điểm từ 1.3938 năm 2002 lên
2,1980 điểm năm 2014. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, các chỉ số còn tương
đối thấp, thể hiện sự yếu kém của hệ thống chính sách FDI Việt Nam trong việc
cạnh tranh thu hút FDI.
I.2.2. Chính sách thu hút ODA của Việt Nam
a) Giai đoạn trước năm 1993
- Viện trợ song phương:
Năm 1969 Việt Nam lần đầu tiên được tiếp nhận viện trợ của Thuỵ Điển,
sau đó là Nhật Bản (1975), WB, IMF… Viện trợ song phương chủ yếu từ một số
nước XHCN và một số nước thành viên của Tổ chức OECD. Sau khi Liên  Xô
(cũ) tan rã hai tổ chức viện trợ duy nhất còn lại là UNDP và SIDA Thuỵ Điển với
mức vốn viện trợ hạn chế (1% GDP). Sau năm 1991 nhiều thành viên OECD nối
lại hỗ trợ, mức viện trợ song phương từ 75 triệu USD/năm (1985 – 1990) lên 350
triệu USD/năm năm 1992.
- Viện trợ đa phương:
Năm 1977 Việt Nam có quan hệ chính thức với hệ thống các tổ chức thuộc
Liên Hợp Quốc (UN). Viện trợ đa phương của các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc
cho Việt Nam trên 70 triệu USD mỗi năm.

b) Giai đoạn 1993 - 2006


 Tình hình thực hiện giai đoạn 1993 - 2006
Trong giai đoạn này ODA được đánh giá là nguồn vốn quan trọng của ngân
sách Nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế –
xã hội ưu tiên.
Ngày 9/11/1993, Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đã
khai mạc tại Paris, đây là sự kiện đánh dấu sự hội nhập của Việt Nam với cộng
đồng tài trợ quốc tế. Thông qua 14 Hội nghị CG (Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà
tài trợ dành cho Việt Nam), các nhà tài trợ đã cam kết ODA cho nước ta với tổng

13
lượng đạt 37,011 tỷ USD. Mức cam kết năm sau cao hơn năm trước và đạt đỉnh
điểm trong năm 2006 (4,4 tỷ USD). Trong thời kỳ 1993-2006, tổng giá trị ODA
cam kết là 37,011 tỷ USD; tổng vốn ODA ký kết đạt khoảng 27,810 tỷ USD,
tương đương 75% tổng vốn ODA cam kết; tổng vốn ODA giải ngân đạt xấp xỉ
17,684 tỷ USD, tương đương 63,54% tổng vốn ODA ký kết.
ODA được cung cấp theo dự án hoặc chương trình dưới hình thức viện trợ không
hoàn lại và vay ưu đãi. Khoảng 15 – 20% số vốn ODA cam kết nói trên là viện trợ không
hoàn lại, hầu hết là các dự án hỗ trợ kỹ thuật, còn lại một phần nhỏ là các dự án đầu tư
xây dựng quy mô nhỏ và phi dự án (viện trợ hàng hóa). Các khoản vay ưu đãi tập trung
cho các dự án đầu tư xây dựng, trong đó có các dự án cấp quốc gia với giá trị hàng trăm
triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, còn có các khoản vay theo chương trình gắn với việc thực hiện
khung chính sách, như khoản vay thể chế tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của IMF,
chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo của WB.
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân
1993 1.860,80 816,68 413
1994 1.958,70 2.597,86 725
1995 2.311,50 1.443,53 737
1996 2.430,90 1.597,42 900
1997 2.377,10 1.685,81 1.000
1998 2.192,00 2.444,30 1.242
1999 2.146,00 1.503,15 1.350
2000 2.400,50 1.772,02 1.650
2001 2.399,10 2.427,42 1.500
2002 2.462,00 1.826,17 1.528
2003 2.838,40 1.772,98 1.422
2004 3.440,70 2.569,22 1.650
2005 3.748,00 2.529,11 1.782
2006 4.445,60 2.824,58 1.785
Tổng số 37.011,30 27.810,25 17.684,00

Bảng 4: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2006
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
 Tình hình ký kết vốn ODA cho Việt Nam
Trên cơ sở số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ đa phương và song
phương, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước quốc tế về
ODA (như hiệp định, nghị định thư, dự án, chương trình). Tính từ năm 1993 đến
9/2006, tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết ước đạt khoảng
31,6 tỷ USD. Trong đó, vốn vay là 25,65 tỷ USD với 559 hiệp định; viện trợ
không hoàn lại khoảng 6 tỷ USD.
Phần lớn các hiệp định vay đều có lãi suất rất ưu đãi, thời hạn vay và ân hạn
dài. 48,8% số hiệp định vay đã ký có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay trên 30

14
năm, trong đó có 10 năm ân hạn; 33,9% hiệp định vay đã ký có lãi suất từ 1 –
2,5%/năm; khoảng 17,3% hiệp định vay đã ký có điều kiện vay kém ưu đãi hơn.
Trong năm 2006, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá thông qua việc ký kết các
hiệp định với các nhà tài trợ đạt 2.824,58 tiệu USD, trong đó ODA vốn vay là
2.423,64 triệu USD và ODA viện trợ không hoàn lại 400,94 triệu USD. Nguồn
vốn ODA được ký kết tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như: Công
nghiệp- năng lượng (30,78%); Giao thông vận tải-Bưu chính viễn thông (20,51%);
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (14,31%); Tài chính ngân hàng (13,19%).
 Tình hình giải ngân vốn ODA
Nguồn vốn ODA đã được giải ngân tính cho ngân sách Nhà nước (không
bao gồm phần giải ngân cho các khoản chi tại nước tài trợ, chi cho chuyên gia…)
trong giai đoạn từ năm 1993 đến hết năm 2006 ước đạt khoảng 15,9 tỷ USD, bằng
64,9% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng
khoảng 55,0% tổng lượng ODA đã cam kết trong thời kỳ này.
Tỷ lệ giải ngân thấp này đồng hành với việc tiến độ giải ngân vốn ODA
chậm, chỉ đáp ứng được 70 – 80% yêu cầu giải ngân bình quân một năm của thời
kỳ kế hoạch.
Mức giải ngân ODA khác nhau giữa các nhà tài trợ và giữa các loại hình dự
án. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho
chuyên gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây dựng
thường giải ngân chậm (chi phí nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị như đền bù,
di dân và tái định cư).
  Tổng mức giải ngân năm 2006 đạt trên 1.785 triệu USD, cao hơn kế hoạch
đề ra (1.750 triệu USD), trong đó vốn vay đạt khoảng 1.550 triệu USD, viện trợ
không hoàn lại đạt khoảng 235 triệu USD. trong tổng giá trị giải ngân năm 2006,
vốn vay của 5 ngân hàng phát triển (WB, ADB, JBIC, KFW và AFD) đạt trên
1.400 triệu USD, chiếm 78,5% tổng số vốn ODA giải ngân
 Đánh giá giai đoạn 1993 - 2006
Công tác thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn 1993 - 2006 đã được
Đảng và Nhà nước đánh giá về cơ bản có hiệu quả. Các nhà tài trợ cũng coi Việt
Nam là một trong những quốc gia sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA.
Trên các lĩnh vực cụ thể, ODA đã góp phần:
- Thực hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam: thông qua hợp tác phát
triển với các chương trình và dự án ODA cung cấp cho Việt Nam, Chính phủ và
nhân dân các nước tài trợ cũng như các tổ chức quốc tế đã hiểu và tích cực ủng hộ
chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
- Nguồn vốn ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội: Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu
USD, chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải
thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một
bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như dự án
giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề… Nguồn vốn ODA đã

15
đóng góp cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý nghĩa sâu rộng
như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương
trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm
sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của
nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên
hợp quốc đều được cải thiện hàng năm.
- Phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người, chuyển giao tiến bộ
khoa học, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến: vốn ODA đã hỗ trợ
tài chính và chuyên môn để xây dựng một số luật quan trọng như Luật Doanh
nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh
tranh, Luật Phòng, chống tham nhũng và nhiều văn bản dưới luật; chuyển giao tiến
bộ khoa học và công nghệ; kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Một lực lượng lớn
nguồn nhân lực đã được đào tạo và được đào tạo lại ở trong và ngoài nước, góp
phần đáng kể tăng cường năng lực con người cho các cấp;
- Phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương: vốn ODA đã góp phần phát
triển kinh tế, xã hội và xoá đói, giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát
triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ (cấp nước, đường giao thông, trường học, trạm y
tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,...) và phát triển nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Giá trị ODA bình quân đầu người vùng trung du
và miền núi Bắc Bộ đạt 33,98 USD, vùng đồng bằng sông Hồng đạt 18,42 USD,
vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đạt 52,46 USD, vùng Tây Nguyên
đạt 21,86 USD, vùng Đông Nam Bộ đạt 25,4 USD, vùng đồng bằng sông Cửu
Long đạt 11,19 USD.
 Những hạn chế trong công tác thu hút và sử dụng ODA:
Công tác thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn
chế và bất cập sau đây:
- Chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất của ODA: trong việc thu
hút và sử dụng ODA thời gian qua, có nơi có lúc chưa có những nhận thức đầy đủ
và đúng đắn về ODA, coi đây là nguồn vốn nước ngoài cho không, nếu là vốn vay
thì Chính phủ có trách nhiệm trả nợ. Nhận thức sai lệch như vậy dẫn tới tình trạng
một số chương trình, dự án ODA kém hiệu quả;
- Chậm cụ thể hoá chủ trương, chính sách và định hướng thu hút và sử dụng
ODA: Mặc dù đã có chủ trương, chính sách và những định hướng về thu hút và sử
dụng ODA ở tầm vĩ mô, song một số Bộ, ngành và địa phương còn chậm triển
khai thành các chương trình, dự án cụ thể nên thường bị động và chưa phát huy hết
vai trò làm chủ trong hợp tác với nhà tài trợ.
- Việc phối hợp vốn ODA với các nguồn vốn khác trên phạm vi cả nước
cũng như trên địa bàn lãnh thổ chưa tốt, làm giảm hiệu quả sử dụng ODA.
- Khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng ODA còn nhiều bất cập: Giữa
các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA và các văn bản pháp quy chi
phối nguồn vốn này còn thiếu sự đồng bộ. Quy trình và thủ tục thu hút và sử dụng
ODA chưa rõ ràng và còn thiếu minh bạch. Việc thi hành các văn bản pháp quy

16
liên quan đến quản lý và sử dụng ODA chưa nghiêm.
- Các quy trình thủ tục quản lý ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài
hoà, gây chậm trễ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, làm giảm hiệu
quả đầu tư và tăng chi phí giao dịch.
- Tổ chức quản lý ODA, năng lực đội ngũ cán bộ còn nhiều yếu kém: Cơ
cấu tổ chức và phân cấp trong công tác quản lý và sử dụng ODA chưa đáp ứng
được những yêu cầu của quá trình đổi mới quản lý nguồn lực công. Năng lực cán
bộ tham gia quản lý và thực hiện các chương trình và dự án ODA còn yếu về
nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hợp tác quốc tế và ngoại ngữ.
- Tổ chức và quy chế hoạt động của các Ban quản lý chương trình, dự án
ODA chưa chặt chẽ.
- Công tác theo dõi và đánh giá ODA còn hạn chế: công tác theo dõi và
đánh giá các chương trình, dự án ODA, hoạt động của các Ban quản lý dự án chưa
được quan tâm đúng mức; chế độ báo cáo, thanh quyết toán tài chính chưa được
thực hiện nghiêm túc và thiếu các chế tài cần thiết.

c) Giai đoạn 2006 - 2010


 Chính sách thu hút và sử dụng ODA giai đoạn 2006 – 2010
Trong thời kỳ 2006 - 2010, chủ trương thu hút và sử dụng ODA là tiếp tục
tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA,
bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Chính sách thu hút và quản lý ODA trong giai đoạn 2006 – 2010 là tập
trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký
kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai
đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương và chính sách sử dụng ODA nêu trên, các lĩnh vực
ưu tiên sử dụng nguồn vốn này là:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm
nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói, giảm nghèo;
- Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại;
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số phát triển
và một số lĩnh vực khác);
- Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Nhằm bảo đảm sử dụng ODA có hiệu quả, Chính phủ Việt Nam cam kết
mạnh mẽ hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ thực hiện Tuyên bố Pa-ri và Cam kết
Hà Nội về Hiệu quả viện trợ.
 Tình hình thực hiện giai đoạn 2006 - 2010
Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA trong thời kỳ 2006 - 2010
đã có bước chuyển biến tích cực.

17
- Cam kết vốn ODA
Thông qua 05 Hội nghị thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt
Nam (Hội nghị CG), tổng vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ thời kỳ 2006 -
2010 đạt trên 31,76 tỷ USD, cao hơn 15% so với chỉ tiêu đề ra trong Đề án ODA
2006 - 2010.
- Ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA.
Để hợp thức hóa cam kết vốn ODA bằng các văn kiện pháp lý quốc tế,
Chính phủ và các nhà tài trợ đã ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trên cơ
sở các chương trình và dự án được các bên thông qua. Trong thời kỳ 2006 - 2010,
vốn ODA đã ký kết trong các Điều ước quốc tế cụ thể đạt 20,61 tỷ USD, cao hơn
12,7% so với chỉ tiêu đề ra trong Đề án ODA 2006 - 2010. Đây là sự nỗ lực chung
của các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ trong việc chuẩn bị các chương trình,
dự án và tiến hành các thủ tục đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về
ODA.
- Giải ngân vốn ODA
Với nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính trị,
việc thực hiện nguồn vốn này mới thúc đẩy việc tạo ra các công trình, sản phẩm
kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển chung của đất nước và
của các Bộ, ngành, địa phương. Do vậy, các ngành, các cấp đã có nhiều cố gắng
trong việc thúc đẩy tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA.
Trong thời kỳ 2006 - 2010 tổng vốn ODA giải ngân đạt 13,86 tỷ USD, bằng
67,25% vốn ký kết và cao hơn 11% so với chỉ tiêu đề ra trong Đề án ODA 2006 -
2010. Tuy mức giải ngân vốn ODA đã có những cải thiện nhất định trong những
năm gần đây, song đối với một số nhà tài trợ thì vẫn còn thấp hơn so với mức bình
quân trong khu vực và quốc tế.
 Đánh giá giai đoạn 2006 - 2010
Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA trong 5 năm từ 2006 – 2010 còn tồn tại một số hạn chế và bất cập, đó là:
- Thời gian chuẩn bị chương trình, dự án ODA kéo dài, bao gồm từ khâu đề
xuất ý tưởng dự án cho đến khi ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA thường mất
khoảng từ 2 - 3 năm.
- Chất lượng của một số văn kiện chương trình, dự án ODA chưa đáp ứng
được yêu cầu và chưa phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam, dẫn tới
tình trạng nội dung dự án phải bổ sung và điều chỉnh nhiều lần, thậm chí có trường
hợp phải hủy bỏ dự án.
- Việc thực hiện chương trình, dự án ODA chậm làm cho tình hình giải
ngân vốn ODA chậm được cải thiện.
- Thông tin về nguồn vốn ODA và cách tiếp cận đến nguồn vốn này chưa rõ
ràng và khó khăn cho việc khai thác và sử dụng.

d) Giai đoạn 2011-2015

18
Kinh tế và thương mại thế giới hồi phục chậm chạp sau khủng hoảng và
còn tiềm ẩn nhiều bất ổn, khó lường. Biến động giá năng lượng và các nguồn
nguyên liệu đầu vào tiếp tục diễn biến phức tạp, gây ra nhiều khó khăn cho các
nền kinh tế dựa nhiều vào nhập khẩu như Việt Nam. Nguồn cung ODA thế giới
có khả năng giảm sút do kinh tế một số nước thành viên OECD - DAC gặp khó
khăn bởi tình trạng nợ công cao, trong khi nhu cầu vốn ODA cho các nước đang
phát triển ngày càng gia tăng. Các nhà tài trợ có xu hướng ưu tiên nhiều hơn cho
các nước kém phát triển và cho các nước có nhu cầu ổn định chính trị ở Trung
Đông và Bắc Phi.
Nhờ những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ đạt được trong
thời gian qua, Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước kém phát triển thu nhập thấp, bước
vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, tạo ra những tiền đề
quan trọng cho sự phát triển trong thời kỳ mới. Trong thời kỳ 2011 - 2015, công
tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA cần có những thay đổi về chính
sách, thể chế cho phù hợp với tình hình phát triển mới, nhất là khi Việt Nam đã trở
thành nước thu nhập trung bình thấp.
 Chính sách thu hút và sử dụng ODA giai đoạn 2011-2015:
Trong lĩnh vực hợp tác phát triển, chính sách viện trợ của các đối tác phát
triển cho Việt Nam sẽ có những thay đổi để phù hợp với bối cảnh Việt Nam trở
thành nước thu nhập trung bình thấp, theo đó, tính chất, quy mô và các điều kiện
cung cấp ODA cho Việt Nam sẽ có xu hướng như sau:
- Một số nhà tài trợ song phương chuyển đổi hình thức quan hệ hợp tác phát
triển chính thức với Việt Nam sang hỗ trợ trực tiếp để phát triển quan hệ hợp tác
giữa các đối tác, như quan hệ trực tiếp giữa các trường đại học, các viện hoặc
trung tâm nghiên cứu, hoặc giữa các tổ chức của hai bên…
- Hầu hết các nhà tài trợ điều chỉnh và thay đổi chính sách viện trợ cho Việt
Nam theo đó nguồn vốn ODA có xu hướng giảm, đồng thời vốn vay ưu đãi có
chiều hướng tăng lên. Tình hình đó đòi hỏi Việt Nam phải có cách tiếp cận phù
hợp để thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này nhằm đáp ứng
nhu cầu đầu tư phát triển, đồng thời phải đảm bảo khả năng trả nợ nước ngoài.
- Các cách tiếp cận và mô hình viện trợ phát triển như tiếp cận chương
trình, ngành (PBA), hỗ trợ ngân sách chung (GBS) và hỗ trợ ngân sách có mục
tiêu (TBS) sẽ được áp dụng nhiều hơn; phân công lao động và bổ trợ lẫn nhau trên
cơ sở lợi thế so sánh giữa các đối tác phát triển sẽ được đẩy mạnh.
- Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt
theo hình thức hợp tác công - tư (PPP); thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức phi
chính phủ vào quá trình phát triển,…
- Một số nhà tài trợ cung cấp ODA và vốn vay ưu đãi thông qua các chương
trình toàn cầu (HIV/AIDS, biến đổi khí hậu và nước biển dâng,…), các hoạt động
hợp tác khu vực trong khuôn khổ ASEAN, hợp tác tiểu vùng sông Mê-kông mở

19
rộng (GMS),… Những xu thế này sẽ tiếp tục được tăng cường và mở rộng đối với
Việt Nam trong những năm tới.
Từ những định hướng của nhà viện trợ ODA, Các nhà hoạch định chính
sách đầu tư quốc tế cần xem xét việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi phải
tính đến lợi thế so sánh và tính bổ trợ lẫn nhau giữa các nguồn vốn này và với các
nguồn vốn đầu tư phát triển khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất và
đảm bảo an toàn nợ công.
Hoàn thiện khung thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi để đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan trong nước, hài hòa với các nhà tài trợ và tinh giản hóa quy trình, thủ
tục; tiếp tục thực hiện phân cấp đi đôi với việc tăng cường năng lực thu hút, quản
lý và sử dụng các nguồn vốn này. Tăng cường hệ thống quản lý trong các lĩnh vực
như đầu tư công, mua sắm công, tài chính công,… theo hướng phù hợp với các
chuẩn mực và tập quán quốc tế làm cơ sở để khuyến khích các nhà tài trợ sử dụng
hệ thống của Chính phủ.
Thúc đẩy việc áp dụng các cách tiếp cận và mô hình tài trợ phát triển như
tiếp cận chương trình, ngành (PBA), hỗ trợ ngân sách chung (GBS) và hỗ trợ ngân
sách có mục tiêu (TBS) cho các chương trình và lĩnh vực phù hợp như hỗ trợ thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Đẩy mạnh phân công lao động và bổ trợ
lẫn nhau trên cơ sở lợi thế so sánh giữa các đối tác phát triển.
Tăng cường tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi thông
qua các chương trình toàn cầu (HIV/AIDS, biến đổi khí hậu và nước biển dâng,
…), các hoạt động hợp tác khu vực trong khuôn khổ ASEAN, hợp tác tiểu vùng
sông Mê-kông mở rộng (GMS),…
Hoàn thiện và nâng cao vai trò, tính hiệu lực công tác điều phối tài trợ của
các cơ quan quản lý nhà nước về ODA. Trong bối cảnh phân cấp, cần tăng cường
quyền hạn và trách nhiệm cho các Bộ, ngành và địa phương trên cơ sở bảo đảm tối
đa nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
Hệ thống thể chế, các chế tài cần được hoàn thiện để tăng cường hiệu lực công tác
điều phối, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước về ODA.
Phát huy tối đa tính làm chủ, tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan quản
lý các cấp, các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng: Tính làm chủ phải là yếu tố quyết
định trong tất cả các khâu thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vay ưu
đãi. Việc phát huy vai trò làm chủ ở các cấp sẽ đảm bảo rằng mỗi chương trình, dự
án vốn ODA và vay ưu đãi thực sự giúp các Bộ, ngành và địa phương giải quyết
có hiệu quả các nhu cầu cấp thiết của mình.
Đảm bảo đầy đủ và kịp thời các điều kiện đối ứng trong nước, bao gồm vốn
đối ứng, năng lực con người cần thiết,… để chuẩn bị, thực hiện và đảm bảo tính
bền vững của các chương trình và dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi sau
khi kết thúc.

20
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân được sử dụng nguồn vốn ODA
và vay ưu đãi theo nhiều hình thức khác nhau như sử dụng hạn mức tín dụng, tham
gia thực hiện dự án, đầu tư phát triển hạ tầng theo phương thức PPP,… trên cơ sở
cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa nhà nước và tư nhân.
Đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong sử dụng
và quản lý vốn ODA và vốn vay ưu đãi, hoàn thiện cơ chế giám sát của người dân
và các tổ chức xã hội từ công tác lập quy hoạch, chuẩn bị dự án, bố trí các nguồn
lực và thực hiện các chương trình, dự án tài trợ bằng các nguồn vốn này.
Nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi sẽ được ưu tiên sử dụng trên cơ sở các
nguyên tắc sau:
- Ưu tiên sử dụng cho các chương trình, dự án đầu tư công quan trọng khó
có khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân hoặc sử dụng các nguồn vốn vay
thương mại.
- Sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi như nguồn vốn bổ trợ nhằm
khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua nhiều
mô hình và phương thức khác nhau trong đó có hợp tác công - tư (PPP).
Trên cơ sở các nguyên tắc trên, những ngành và lĩnh vực ưu tiên thu hút và
sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ trong thời kỳ 2011 - 2015
gồm:
- Hỗ trợ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện
đại, Phát triển nhanh hệ thống nguồn điện, hỗ trợ thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả;
- Hỗ trợ đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt; thực hiện các chương trình quốc gia trong lĩnh vực y tế;
- Các dự án, chương trình tập trung vào việc hỗ trợ cải thiện đời sống và
sinh kế của người dân địa phương, hỗ trợ giải quyết các vấn đề bức xúc trong quá
trình đô thị hóa nhanh ở các tỉnh (cấp thoát nước, xử lý rác thải, phát triển giao
thông nội đô, giải quyết nhà ở cho người nghèo…).
 Tình hình thực hiện giai đoạn 2011 – 2015:
- Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ
tiếp tục được tăng cường và phát triển: Ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA
và vốn vay ưu đãi đạt được nhiều tiến bộ, đạt tỷ lệ cao về số lượng dự án hoàn
thành đạt kết quả phát triển và đạt các mục tiêu đề ra, Giải ngân vốn ODA và vốn
vay ưu đãi có bước đột phá

21
Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết thời kỳ 2011-2015
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong đó
Tổng ODA
Tỷ lệ
Ngành, lĩnh vực và vốn vayVốn vay
ưu đãi ODA vàViện trợ (%)
vay ưu đãi
1. Giao thông vận tải 9.913,73 9.565,94 347,79 35,68
2. Môi trường (cấp, thoát nước, đối5.181,26 5.048,76 132,51 18,65
phó với biến đổi khí hậu,...) và phát
triển đô thị
3. Năng lượng và công nghiệp 4.762,50 4.730,15 32,34 17,14
4. Nông nghiệp và Phát triển nông2.632,23 2.514,79 117,44 9,47
thôn - Xóa đói giảm nghèo
5. Y tế - Xã hội 1.292,30 1.073,12 219,18 4,65
6. Giáo dục và đào tạo 930,13 767,85 162,28 3,35
7. Ngành khác (khoa học công nghệ, 3.070,14 2.827,35 242,79 11,05
tăng cường năng lực thể chế,...)
Tổng số 27.782,29 26.527,95 1.254,34 100,00
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 5: ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 2011-2015

22
Các lĩnh vực giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước, ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh,...) và phát triển đô thị, năng lượng và công
nghiệp là những ngành có tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi tương đối cao
trong khi ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm
nghèo, y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, tăng cường năng lực
thể chế,... chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn. Nguyên nhân của tình hình này là tỷ lệ sử
dụng vốn ODA không hoàn lại trong tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các
ngành này thường cao.
 Đánh giá thực hiện giai đoạn 2011 – 2015: Đề án ODA 2011 - 2015 được
Thủ tướng Chính phủ ban hành trong bối cảnh môi trường hợp tác phát triển ở
Việt Nam có những thay đổi căn bản sau khi Việt Nam trở thành quốc gia đang
phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Nhận thức rõ sự thay đổi trên, trong
quá trình thực hiện Đề án ODA 2011 - 2015 các Bộ, ngành và địa phương đã nỗ
lực tận dụng cơ hội để huy động và sử dụng tối đa, có hiệu quả vốn ODA, vốn vay
ưu đãi đồng thời phát huy sáng kiến, chủ động từng bước điều chỉnh phương thức
và quan hệ với các nhà tài trợ cho phù hợp với tình hình mới.
e) Giai đoạn 2016 đến nay
 Chính sách Việt Nam:
Trong lĩnh vực hợp tác phát triển, Việt Nam vẫn tiếp tục nhận được sự đồng
tình và ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế, song đi liền với đó hợp tác phát
triển với các nhà tài trợ sẽ tiếp tục có những thay đổi căn bản, kết thúc giai đoạn
quá độ chuyển đổi từ quan hệ viện trợ phát triển sang quan hệ đối tác. Với những
bước đi cụ thể, các nhà tài trợ tiếp tục có những điều chỉnh chính sách hợp tác phát
triển với Việt Nam theo hướng chuyển dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản
vay với các điều kiện kém ưu đãi hơn, tập trung mạnh vào thương mại, hợp tác
đầu tư hoặc chấm dứt các chương trình hỗ trợ phát triển cho Việt Nam.
Để phù hợp với môi trường hợp tác phát triển thay đổi nêu trên, trong thời
kỳ 2016 - 2020 dự kiến các đối tác phát triển sẽ thay đổi chính sách hợp tác phát
triển với những đường nét chủ yếu được dự báo như sau:
 Các đối tác phát triển đã kết thúc chương trình hỗ trợ phát triển chính thức
dành cho Việt Nam:
Các đối tác phát triển này sẽ tập trung chủ yếu đẩy mạnh phát triển quan hệ
thương mại và hợp tác đầu tư với Việt Nam trong khung khổ các thỏa thuận
thương mại và đầu tư song phương hoặc đa phương, bao gồm các Hiệp định
thương mại tự do. Chính phủ hai bên sẽ đóng vai trò gián tiếp tạo môi trường
thuận lợi và cung cấp những sự hỗ trợ nhất định để các bên trực tiếp phát triển
quan hệ với nhau.
Các đối tác phát triển này cũng có thể cung cấp các khoản hỗ trợ cụ thể cho
các cơ quan và tổ chức Việt Nam thông qua các Quỹ toàn cầu hoặc khu vực, các tổ
chức của Liên hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ của Việt Nam hoặc nước

23
ngoài hoặc các đối tác phát triển song phương và đa phương khác đang hoạt động
tại nước ta.
 Các đối tác phát triển tiếp tục duy trì chương trình hỗ trợ phát triển chính
thức dành cho Việt Nam sẽ điều chỉnh chính sách phù hợp với môi trường mới:
Một số đối tác phát triển song phương sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong các
lĩnh vực truyền thống như xây dựng chính sách và phát triển thể chế, cải thiện
quản trị quốc gia, tăng cường năng lực con người, ứng phó với biến đổi khí hậu và
giảm nhẹ thiên tai, xóa đói, giảm nghèo bền vững, một số dự án đầu tư quy mô
nhỏ trong ngành y tế và giáo dục và đào tạo, hỗ trợ thực hiện các cam kết toàn cầu
như Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (SDGs). Tuy nhiên quy
mô hỗ trợ giảm dần, phạm vi hỗ trợ tập trung hơn và phương thức hỗ trợ sẽ linh
hoạt hơn.
Ủy ban Châu Âu (EC) sẽ tiếp tục chương trình hợp tác phát triển đã hình
thành trong 5 năm qua và sẽ tập trung hỗ trợ nhiều hơn các lĩnh vực liên quan đến
việc thực hiện Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU.
Các Tổ chức thuộc Hệ thống Liên hợp quốc đang trong quá trình hợp tác
với Chính phủ định vị vai trò của Liên hợp quốc ở Việt Nam tập trung hỗ trợ
Chính phủ với tư cách là nhà tư vấn chính sách phát triển thay vì nhà tài trợ; áp
dụng những mô hình hỗ trợ linh hoạt hơn và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Việt
Nam vận động các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ đang tăng lên
trong bối cảnh ngân sách của Liên hợp quốc hạn hẹp.
Nhóm các Ngân hàng phát triển bao gồm ADB, AFD, JICA, KfW, KEXIM
và WB - nguồn cung cấp vốn ODA và vốn vay ưu đãi chủ yếu của Việt Nam, tập
trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội như phát triển đường
bộ, cảng biển, cảng hàng không; xây dựng các nhà máy điện và hệ thống truyền tải
và phân phối,...
Trong 5 năm tới các Ngân hàng Phát triển sẽ tiếp tục cung cấp hỗ trợ phát
triển chính thức cho Việt Nam, song mức độ ưu đãi sẽ giảm dần, trong đó WB sẽ
chấm dứt cung cấp vốn vay ODA (IDA) sau chu kỳ IDA-17 trong năm 2017, còn
ADB sẽ dừng cung cấp vốn vay ODA (ADF) trong một hoặc hai năm sau đó. Tình
hình đó dẫn tới vốn vay sẽ tăng giá đòi hỏi các cơ quan Việt Nam cần phải tính
toán, cân nhắc toàn diện khi quyết định sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng phát
triển nhằm đạt được hiệu quả đầu tư và bảo đảm an toàn nợ công.
Sang thời kỳ 2016 – 2020 tập trung cao độ để hoàn thành các chương trình,
dự án chưa hoàn thiện giai đoạn trước theo đúng tiến độ và thời hạn cam kết, đưa
các công trình vào khai thác, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
f) Đánh giá chung về định hướng thu hút đầu tư ODA ở Việt Nam trong
thời gian qua
Trong giai đoạn đầu, khi Việt Nam thuộc nhóm nước có thu nhập thấp, nền
kinh tế kém phát triển, ODA được cung cấp theo dự án hoặc chương trình dưới

24
hình thức viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi. Đây được đánh giá là nguồn vốn
quan trọng của ngân sách Nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế – xã hội ưu tiên.
Các giai đoạn về sau, Việt Nam tích cực cải thiện thể chế, chính sách; chủ
trương thu hút và sử dụng ODA là tiếp tục tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Khi Việt Nam đã trở thành nước thu
nhập trung bình thấp, công tác thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA cần có
những thay đổi về chính sách, thể chế cho phù hợp với tình hình phát triển mới.
Cụ thể, nguồn vốn ODA có xu hướng giảm, đồng thời vốn vay ưu đãi có chiều
hướng tăng lên. Gây đây nhất, giai đoạn 2016 đến nay, có những điều chỉnh chính
sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng chuyển dần từ việc cung cấp
ODA sang các khoản vay với các điều kiện kém ưu đãi hơn, tập trung mạnh vào
thương mại, hợp tác đầu tư hoặc chấm dứt các chương trình hỗ trợ phát triển cho
Việt Nam.
Hướng đầu tư cũng thay đổi, chuyển sang ngành nghề thiên về chất lượng,
bảo vệ môi trường như ngành giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước,
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh,...) và phát triển đô thị, năng lượng
và công nghiệp. Chính quyền, địa phương đã tích cực đẩy mạnh công tác quản lý,
sử dụng vốn hiệu quả hơn. Hành vi tham nhũng bị xử lý nghiêm ngặt, đảm bảo
công khai minh bạch.

Biểu đồ 6: Cam kết, ký kết, giải ngân ODA từ 1993 – 2015


Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Theo  Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài
trợ quốc tế vào năm 1993 đến tháng 6/2017, Việt Nam đã ký kết các khoản vay và
viện trợ không hoàn lại có giá trị khoảng 82,61 tỷ USD (trong đó vốn vay 74,92 tỷ
USD). Tính đến hết tháng 6/2017, có 810 chương trình, dự án đang triển khai với
số vốn ODA và vốn vay ưu đãi còn lại chưa giải ngân khoảng 21,167 tỷ USD. Số
vốn này sẽ giải ngân theo tiến độ hiệp định từ nay đến hết năm 2026, tuy nhiên, sẽ
tập trung khối lượng lớn vào giai đoạn 2017 – 2020 là 17,485 tỷ USD. Để bảo đảm

25
giải ngân số vốn còn lại đã ký kết, trong giai đoạn này trung bình mỗi năm cần
giải ngân được 4,37 tỷ USD. Năm 2017, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi có khả
năng giải ngân khoảng 4,6 tỷ USD. 

I.3. Ý nghĩa của sự phân biệt giữa FDI và ODA đối với việc quản lý và
hoạch định chính sách đầu tư quốc tế của Việt Nam
Qua sự phân biệt cơ bản giữa ODA và FDI cùng với sự tìm hiểu về những
chính sách thu hút và sử dụng từng nguồn vốn (ODA và FDI) qua từng giai đoạn,
đã thể hiện rõ nét ý nghĩa to lớn đối với việc quản lý và hoạch định chính sách đầu
tư quốc tế của Việt Nam, cụ thể:
- Qua từng thời kỳ khác nhau, Nhà nước có quản lý và hoạch định chính
sách đầu tư quốc tế khác nhau phù hợp với bối cảnh kinh tế và thị trường. Ví dụ,
trong giai đoạn đầu, khi Việt Nam là một nước đang phát triển, có cơ sở hạ tầng
kinh tế yếu kém nên việc thu hút FDI vào lĩnh vực này thường gặp nhiều khó khăn
do hiệu quả kinh tế không cao. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, thu hút nhiều vốn
FDI thì ODA phải đi trước để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao
hiệu quả đầu tư vì việc cải tạo cơ sở hạ tầng cần nhiều thời gian và vốn đầu tư rất
lớn mà vốn đầu tư trong nước quá ít không thể nhanh chóng cải thiện được còn
vốn FDI đòi hỏi hiệu quả nhanh chóng.
- Xác định rõ vai trò và mục đích sử dụng của từng loại vốn mà các nhà
quản lý ra những chính sách, quyết định thu hút từng loại vốn vào các lĩnh vực
ngành nghề khác nhau. Nếu như trước đây nguồn vốn ODA chỉ tập trung để đầu tư
cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo thì gần đây, trong giai đoạn 2011 – 2020, Nhà
nước có những chuyển hướng thu hút và sử dụng vốn về các ngành giao thông vận
tải, môi trường (cấp, thoát nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng
xanh,...) và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp. Đối với FDI trước đây
chỉ hướng vào những ngành công nghiệp khai thác và thay thế nhập khẩu. Tuy
nhiên, xu hướng này đã thay đổi kể từ năm 2000. Các dự án FDI vào ngành công
nghiệp chế biến và định hướng xuất khẩu đã tăng nhanh, đẩy mạnh đầu tư vào các
ngành xuất khẩu điện tử, các mặt hàng công nghệ cao.
- Trong thời kỳ nền kinh tế Việt Nam dần ổn định và tăng trưởng nhanh
hơn, từ nền kinh tế có thu nhập thấp sang nước thu nhập trung bình thấp, Việt
Nam không thể phụ thuộc quá nhiều vào nguồn viện trợ ODA mà cần triển khai
đẩy mạnh nguồn vốn đầu tư FDI từ các tổ chức kinh tế, các công ty đa quốc gia
nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Từ đó có những chính sách phù hợp, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài có thể thuận tiện hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam.
- Đầu tư nước ngoài không chỉ đem lại lợi ích cho Việt Nam mà còn gắn
liền với các nguy cơ tiềm ẩn, việc xuất hiện những dự án khai thác khoáng sản ồ
ạt, tàn phá môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên làm ảnh hưởng đến
nhiều thị trường khác, nhất là dịch vụ du lịch…. Do đó, Việt Nam có những hướng
đi mới, chú trọng vào việc thu hút, quản lý FDI sạch, có cơ chế chính sách khuyến
khích đầu tư FDI sạch.

26
II. Giải pháp thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
II.1. Giải pháp chung
Thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách phù
hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi, để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả trong và
ngoài nước cho đầu tư phát triển. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các
loại thị trường (bất động sản, vốn, dịch vụ, lao động, khoa học công nghệ)...
Thứ hai, tiếp tục cải cách hành chính hơn nữa theo cơ chế một cửa trong
giải quyết thủ tục đầu tư. Xử lý kịp thời vướng mắc trong vấn đề cấp phép điều
chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức
nhằm dảm bảo thực hiện theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân
cấp quản lý đầu tư vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, tập trung các nguồn lực để đầu tư nâng cấp hệ thống kết cấu hạ
tầng, nhất là giao thông, cảng biển… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Thứ tư, Nhà nước cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của các doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự công bằng
cho các doanh nghiệp trong nước và giữ vững mối quan hệ thân thiện với các nước
đầu tư. Đặc biệt, cần tạo được một hành lang pháp lý thống nhất, đảm bảo việc
quản lý có hiệu quả đối với mọi thành phần doanh nghiệp...
II.2. Giải pháp riêng
2.2.1. Giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả FDI
 Điều chỉnh cấp độ chính sách thu hút FDI cho phù hợp với vị trí vốn
có của nguồn vốn
Để tiếp tục phát huy hiệu quả đồng thời khắc phục những hạn chế của các
chính sách thu hút FDI, Việt Nam cần cải tiến hệ thống chính sách thu hút FDI
trênnhững mặt sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh
doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ và thiếu nhất quán.
Thứ hai, cần có những điều chỉnh luật và chính sách ưu đãi đầu tư cho phù
hợp với bối cảnh kinh tế hiện nay của Việt Nam.
Thứ ba, trong các văn bản pháp luật cần bổ sung các quy định và định
hướng ưu đãi áp dụng chung cho tất cả các địa phương.
Thứ tư, cần cải thiện lợi thế so sánh đang mất dần về lao động của VN
Thứ năm, nhà nước cần tiết giảm sự kiểm soát của mình trong quá trình tư
nhân hóa.
Thứ sáu, hoạt động xúc tiến đầu tư cần đổi mới về phương thức, quan trọng
nhất là sự đồng bộ và chuyên nghiệp về cả hình thức lẫn nội dung
 Xây dựng và hoàn thiện cấp độ chính sách nâng cấp FDI
Thứ nhất, Việt Nam cần rà soát lại các dự án đã cấp phép và mạnh tay thu
hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án không phù hợp.
Thứ hai, cần thiết kế chính sách riêng biệt thu hút nhà đầu tư chiến lược

27
Thứ ba, cần nâng cao khả năng chuyển giao công nghệ của các doanh
nghiệp FDI vào Việt Nam:
Thứ tư, tận dụng FDI để nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng.
Thứ năm, cần hoàn thiện chính sách bảo vệ môi trường
Thứ sáu, hoàn thiện chính sách chống chuyển giá
 Đẩy mạnh liên kết doanh nghiệp trong và ngoài nước
Thứ nhất, cần có biện pháp nuôi dưỡng các doanh nghiệp thông qua hệ
thống vườn ươm doanh nghiệp
Thứ hai, xúc tiến các chương trình liên kết về nghiên cứu, đào tạo, hợp tác
giữa viện nghiên cứu, các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, cần đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp phụ trợ để tập trung
các doanh nghiệp cung ứng
Thứ tư, cần có một chính sách cạnh tranh toàn diện hơn để tạo một nền kinh
tế lành mạnh, ngăn chặn sự liên kết bất chính lũng đoạn thị trường, đồng thời cũng
tránh các doanh nghiệp FDI chèn lấn các doanh nghiệp trong nước.
 Xây dựng quy hoạch phát triển ngành hợp lý
Thứ nhất, Việt Nam cần có một quy hoạch ngành tổng thể rõ ràng và phải
cụ thể hóa bằng văn bản luật.
Thứ hai, trên cơ sở phân loại các ngành được ưu tiên, cần có chính sách ưu
tiên kèm theo ưu đãi tài chính có điều kiện.
Thứ ba, cần tiến hành kiểm tra, đánh giá lại ngành có khả năng trở thành
mũi nhọn, từ đó có những hỗ trợ kịp thời và hiệu quả.
Thứ tư, cần có chiến lược phát triển các cụm ngành công nhiệp.
 Xây dựng quy hoạch phát triển vùng kinh tế
Để phát triển đồng đều và bền vững các khu vực và thành phần kinh tế,
Việt Nam cần xây dựng một quy hoạch tổng thể cho phát triển kinh tế vùng và liên
kết vùng, có tính đến các yếu tố về dân cư, vị trí địa lý trong nước và khu vực, môi
trường tự nhiên, bối cảnh mới của cạnh tranh và hội nhập quốc tế...
 Xây dựng và phát triển đặc khu kinh tế để tập trung nguồn lực xã hội
Thứ nhất, Việt Nam nên xây dựng thí điểm một số đặc khu kinh tế tại một
số vị trí trọng yếu.
Thứ hai, Việt Nam cần sớm hoàn thiện các văn bản pháp lý quy định riêng
đối với đặc khu (như Luật Đặc khu kinh tế) làm cơ sở cho mọi hoạt động đầu t ư
kinh doanh tại đặc khu.
Thứ ba, nên giao cho ban quản lý đặc khu toàn quyền quyết định về thể
chế,chính sách dựa trên nguyên tắc đảm bảo phát triển đặc khu và chỉ thu hút
nguồn vốn có chất lượng cao.
Thứ tư, hệ thống cơ sở hạ tầng cần đ ược xây dựng hiện đại, đồng bộ và
phù hợp với các ngành, lĩnh vực mà khu vực ưu tiên, khuyến khích nhằm tập
trung nguồn lực.
Thứ năm, cần có chính sách khuyến khích đặc biệt đối với các doanh
nghiệptrong nước có năng lực tốt tham gia tại các đặc khu kinh tế

28
Thứ sáu, cần nâng cao năng lực bảo đảm an ninh chính trị, an ninh xã hội
song song với quá trình xây dựng đặc khu.
 Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân cấp FDI
Thứ nhất, cần đơn giản hóa và rút ngắn các thủ tục hành chính liên quan
đến cấp phép kinh doanh, giấy phép lao động, quản lý thị thực, thủ tục hải quan,
thuế...
Thứ hai, mô hình quản lý nhà n ước đối với hoạt động FDI cần đ ược điều
chỉnh theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả.
Thứ ba, cần tăng cường liên kết giữa các địa ph ương trong quản lý FDI và
thực hiện các chính sách FDI để đảm bảo tính thống nhất và vì lợi ích tổng thể của
nền kinh tế.
 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Các giải pháp nâng cao chất l ượng nguồn nhân lực có thể đ ược chia làm
hai nhóm:
(1) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm thu hút FDI nói chung;
(2) Nâng cấp nguồn nhân lực nhằm thu hút FDI vào ngành công nghệ cao
2.2.2. Giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả ODA
Thứ một, cần nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA: ODA
nên được coi là nguồn lực có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực
trong nước đối với mọi cấp độ thụ hưởng. Một điều quan trọng nữa là cần nâng
cao quyền tự chủ trong huy động và sử dụng ODA để đáp ứng sự phát triển kinh tế
- xã hội của quốc gia, ngành và địa phương, và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
ODA
Thứ hai, sử dụng ODA có chọn lọc, phù hợp và kết hợp hài hòa với các
nguồn vốn đầu tư khác.
Thứ ba, cần đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA. Các cơ quan quản lý nhà
nước về ODA cần tiếp tục hoàn thiện thể chế và quy trình thủ tục để rút ngắn thời
gian trình, duyệt của phía Việt Nam.
Thứ bốn, tối đa hóa hiệu quả và tác động lan tỏa của ODA. Việc huy động
và sử dụng ODA phải dựa trên sự đánh giá tương quan giữa chi phí và lợi ích của
các chương trình và dự án để đảm bảo rằng các chương trình và dự án này có hiệu
quả cao, tạo ra tác động lan tỏa tối đa và đóng góp vào phát triển kinh tế.
Thứ năm, mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện
các chương trình và dự án phục vụ các lợi ích công cộng.
Thứ sáu, xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA. Phân cấp quản
lý và sử dụng ODA là tiến trình không thể đảo ngược trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.
Thứ bảy, tăng cường theo dõi và quản lý ODA, bao gồm giải pháp sau:
(i) Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, rõ ràng, đơn giản, minh bạch của hệ
thống pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng ODA;
(ii) Tăng cường nỗ lực chống tham nhũng của Chính phủ;
(iii) Đẩy nhanh cải cách hành chính và hiệu quả hành chính nhà nước;

29
(iv) Nâng cao đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo lại cán bộ quản lý dự án;
(v) Hoàn thiện chính sách tài chính đối với ODA
(vi) Tăng cường quản lý vốn ODA theo Luật Ngân sách nhà nước.
Thứ tám, xây dựng kế hoạch giảm dần ODA với thời gian trả nợ ngắn và
gắn với điều kiện chặt chẽ.

30

You might also like