Professional Documents
Culture Documents
- Tuy nhiên, dòng vốn ngoại này vào TTCK lại là dòng vốn chứa đựng nhiều
rủi ro hơn các nguồn vốn khác như FDI, ODA. Dòng vốn FPI đổ vào Việt
Nam ngày càng nhiều bên cạnh những cơ hội mang lại, cũng chứa đựng
không ít những thách thức cho các cơ quan quản lý, cho thị trường tài chính
Việt Nam. Vì vậy, cần xây dựng một chính sách thu hút và kiểm soát vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài trên TTCK Việt Nam theo hướng chiến lược lâu
dài để phát triển bền vững TTCK Việt Nam.
3. Hạn chế:
- Do hạn chế về thời gian, trình độ và kinh nghiệm, nên không hoàn toàn
tham vọng có thể sẽ tìm hiểu, khảo sát và phân tích hết thực trạng FPI cũng
như tác động của nó trên TTCK Việt Nam.
B. NỘI DUNG:
1. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trải qua một năm đầy biến động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến
nhiều kỷ lục ấn tượng. Theo đó, Câu lạc bộ Nhà báo chứng khoán vừa công bố 10
sự kiện chứng khoán nổi bật năm 2018.
1. Lần đầu tiên chỉ số chứng khoán lạc nhịp sau 5 năm liên tiếp tăng trưởng
cao
Thị trường chứng khoán 2018 chứng kiến tình trạng biến động mạnh nhất trong 10
năm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Đây là năm đầu tiên thị trường
chứng khoán suy giảm, sau 5 năm liên tiếp trước đó chỉ số chứng khoán song hành
với đà tăng trưởng của nền kinh tế, đạt mức tăng trưởng cao, có năm lên đến 47%
(năm 2017).
Trong năm 2018, chỉ số Vn-Index từng lập đỉnh cao mới trong lịch sử ở mức 1.211
điểm (ngày 10/4/2018), nhưng sau đó lại có quá trình sụt giảm mạnh 27% xuống
đáy 888 điểm (ngày 30/10/2018). Thị trường chứng khoán “lạc nhịp” trong bối
cảnh nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất 10 năm xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khách quan như tình trạng căng thẳng thương mại giữa Mỹ và
Trung Quốc, cũng như xu hướng tăng tốc bình thường hóa lãi suất của các ngân
hàng trung ương trên toàn cầu.
Trong nước, nền kinh tế giữ đà tăng trưởng cao và nội lực các doanh nghiệp niêm
yết tiếp tục được củng cố khi khối doanh nghiệp này dự kiến sẽ tăng trưởng trên
20% năm 2018. Đây là những yếu tố nền tảng để kỳ vọng năm 2019, thị trường
chứng khoán sẽ trở lại nhịp tăng trưởng song hành cùng nền kinh tế Việt Nam.
2. Thị trường chứng khoán phái sinh bùng nổ sau một năm vận hành
Thị trường chứng khoán phái sinh bắt đầu giao dịch ngày 10/8/2017 và chỉ sau hơn
1 năm đã đạt mức tăng trưởng vượt bậc về quy mô. Kết thúc năm 2017, giá trị giao
dịch danh nghĩa của thị trường phái sinh chỉ ghi nhận mức kỷ lục 2.500 tỷ
đồng/phiên nhưng đến tháng 10/2018 đã đạt kỷ lục gần 17.000 tỷ đồng/phiên. Số
lượng tài khoản giao dịch phái sinh tăng gấp 3,2 lần so với cuối năm 2017.
Năm 2018 chứng kiến các thương vụ bán vốn cổ phần đặc biệt lớn. Khởi đầu là
thương vụ bán hơn 164 triệu cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
(Techcombank), tương đương 14% vốn điều lệ ngân hàng cho các nhà đầu tư tổ
chức nước ngoài, trị giá 922 triệu USD.
Thương vụ tỷ USD lớn nhất được nhắc tới trong năm 2018 là thương vụ của
Vinhomes. Ngay sau khi cổ phiếu VHM của Vinhomes chào sàn hôm 17/5, các
nhà đầu tư nước ngoài đã chi 1,35 tỷ USD để nắm giữ cổ phiếu VHM, tạo nên
phiên giao dịch có trị giá trên 1 tỷ USD đầu tiên trong gần 20 năm phát triển của
thị trường chứng khoán.
Liên quan đến hoạt động bán vốn Nhà nước, trong năm 2018 có những thương vụ
thoái vốn ấn tượng nhất là bán 78,99% vốn điều lệ tại Vinaconex (SCIC bán
57,71% và Viettel bán 21,28%) diễn ra chiều ngày 22/11 tại Sở GDCK Hà Nội
(HNX). Với việc đấu giá thành công này, Nhà nước (thông qua 2 đại diện chủ sở
hữu là SCIC và Viettel) đã thu về hơn 9.369 tỷ đồng. Trước đó, đầu năm 2018 có
các thương vụ IPO Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) trị giá 5.500 tỷ đồng,
Tổng công ty Dầu Việt Nam (PVOil) 4.100 nghìn tỷ đồng, Tổng công ty Điện lực
dầu khí Việt Nam (PV Power) 7.000 tỷ đồng.
4. Thị trường chứng khoán Việt Nam lọt vào danh sách theo dõi nâng hạng
của FTSE
Năm 2018, một dấu ấn vui của thị trường chứng khoán Việt Nam là Tổ chức tính
toán chỉ số chứng khoán toàn cầu (FTSE) đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi
nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi, do Việt Nam đã thỏa mãn
8 trong 9 điều kiện tiên quyết để được nâng hạng lên thị trường mới nổi hạng 2 và
chỉ còn 1 điều kiện duy nhất còn chưa được thỏa mãn là thanh toán bù trừ.
6. Sức hút của doanh nghiệp tỷ USD níu chân dòng vốn ngoại
HDB, VHM, TCB, TPB đã làm dài thêm danh sách 30 doanh nghiệp niêm yết có
vốn hoá đạt mức tỷ USD. Vốn hóa thị trường cổ phiếu đã tăng lên mức cao nhất từ
trước tới nay, đạt 3,98 triệu tỷ đồng, tăng 13,5% so với cuối năm 2017, tương
đương 79,6% GDP, vượt chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển thị trường
chứng khoán đến năm 2020.
Việc xuất hiện của những cổ phiếu lớn trên sàn chứng khoán đã nhận được sự
hưởng ứng của các nhà đầu tư ngoại với giá trị vào ròng 2018 đạt 2,89 tỷ USD,
tăng 0,59 tỷ USD (trong vòng 4 tháng), xấp xỉ bằng mức vào ròng của cả năm
2017 (2,92 tỷ USD).
Thống kê của Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho thấy, tính từ đầu
năm đến hết ngày 14/12, dòng vốn vào ròng ước đạt hơn 2,8 tỷ USD, xấp xỉ bằng
mức vào ròng của cả năm 2017 (2,92 tỷ USD).
Trong năm 2018, UBCKNN tiếp tục tăng cường trong xử phạt các vi phạm liên
quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Năm 2018 cũng là năm kỷ lục
về xử phạt hành chính về thao túng giá chứng khoán, 09 cá nhân bị phạt với mức
phạt mỗi vụ là 550 triệu đồng, tổng số tiền phạt 5,1 tỷ đồng, chiếm hơn 25% tổng
tiền phạt của cả năm 2018 (20 tỷ đồng).
2.2. Giai đoạn 2: 2019-2022
1. Năm 2019
TTCK Việt Nam năm 2019 được đánh giá là có nhiều động lực tích cực hỗ trợ phát
triển nhờ các yếu tố như: Các cân đối vĩ mô được đảm bảo; chính sách tài khóa ổn
định và chính sách tiền tệ được điều hành theo hướng nới lỏng.
Năm 2019, tình hình kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định tạo điều kiện cho tăng trưởng
kinh tế. Tăng trưởng GDP quý III tăng 7,31% đưa tốc độ tăng trưởng GDP 3 quý
đầu năm 2019 đạt 6,98
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn
đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt
gần 31,8 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2018, tỷ giá tương đối ổn định.
Trên TTCK cơ sở, trong 6 tháng đầu năm, mặc dù có những tháng sôi động, song
nhìn chung thị trường chỉ phục hồi nhẹ khi VN -Index ngày 30/6 dừng ở mức
949,94 điểm, tăng 6,4% so với cuối năm 2018. Tuy nhiên, 6 tháng cuối năm, diễn
biến của thị trường đã có chuyển biến tương đối rõ rệt, VN-Index có những thời
điểm vượt mức 1.000 điểm và đạt đỉnh 1024,91 điểm vào ngày 6/11.
Năm 2019, tổng mức huy động vốn trên TTCK cơ sở ước đạt 302,6 nghìn tỷ đồng,
tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt là, trong năm 2019, các thương vụ
bán vốn lớn thành công như Techcomnbank (0,9 tỷ USD), Vinhomes (1,35 tỷ
USD), VinGroup (1 tỷ USD) cũng đã thu hút sự tham gia của nhiều nhà đầu tư
nước ngoài, giúp duy trì dòng vốn ngoại đầu tư vào thị trường Việt Nam. Những
nhân tố trên giúp TTCK năm 2019 vẫn là điểm đến tích cực của nhà đầu tư nước
ngoài. Tính đến ngày 6/12/2019, nhà đầu tư nước ngoài đã mua ròng 7.983 tỷ đồng
cổ phiếu và mua ròng 13.034 tỷ đồng trái phiếu.
Trên TTCK phái sinh, năm 2019 có sự gia tăng thêm nguồn cung mạnh mẽ khi đón
nhận thêm sản phẩm hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ (TPCP) dành chủ yếu
cho các nhà đầu tư tổ chức.
2. Năm 2020
Năm 2020, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10
thị trường chứng khoán có sức chống chịu với đại dịch Covid-19 và phục hồi tốt
nhất thế giới.
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, năm 2020, chỉ số VN-Index vượt 1.100
điểm, đạt 1.103,87 điểm, tăng mạnh tới 67% so với thời điểm thấp nhất của năm
2020, tăng 14,9% so với thời điểm cuối năm 2019; chỉ số HNX-Index tăng gần
119% so với thời điểm cuối quý I/2020 và tăng 98,1% so với cuối năm 2019. Nhờ
đó, TTCK Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 thị trường chứng khoán có sức
chống chịu với đại dịch và phục hồi tốt nhất thế giới.
Một điểm ấn tượng khác là thanh khoản của thị trường tăng mạnh lên mức cao kỷ
lục. Điều này phần nào cho thấy sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam dù chịu ảnh
hưởng của dịch Covid-19. Cụ thể, giá trị giao dịch bình quân năm 2020 đạt trên
7.420 tỷ đồng/phiên, tăng 59,3% so với bình quân năm 2019. Thanh khoản trên thị
trường trái phiếu tiếp tục tăng trưởng mạnh, bình quân đạt trên 10.393 tỷ
đồng/phiên, tăng 13% so với năm 2019.
TTCK phái sinh tiếp tục đóng vai trò phòng vệ rủi ro hiệu quả, có tác dụng ổn định
tâm lý nhà đầu tư. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 156.852 hợp đồng/phiên,
tăng 77% so với bình quân năm 2019. Tính tại thời điểm 31/12/2020, khối lượng
mở OI toàn thị trường đạt 40.339 hợp đồng, tăng 143% so với cuối năm 2019.
Bất chấp đại dịch Covid-19 bùng phát đã ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp, song nhiều doanh nghiệp niêm
yết/đăng kí giao dịch vẫn có kết quả kinh doanh khả quan. Số lượng doanh nghiệp
báo cáo có lãi vẫn chiếm 84% tổng số công ty đã thực hiện báo cáo trong quý
III/2020, điều này thể hiện doanh nghiệp đã có sức chịu đựng khá tốt dù trải qua
dịch Covid-19.
Điểm nhấn dòng tiền
Năm 2020 mở đầu với thanh khoản cạn kiệt nhưng rồi dòng tiền ào ạt chảy vào thị
trường những ngày cuối năm. Chính cơn sóng thanh khoản này đã đưa VN-
Index vào đà tăng.
Top 10 phiên có thanh khoản cao nhất hai sàn niêm yết
Lớp nhà đầu tư mới (F0) được cho là nhân tố thúc đẩy thanh khoản trên thị trường.
Trong năm 2020, lượng tài khoản mở mới cũng liên tiếp tăng kỷ lục. Tới tháng 11,
có hơn 40 ngàn tài khoản mở mới trên thị trường được lập ra. Cả năm 2020 lượng
tài khoản mở mới đạt trên 300 ngàn tài khoản, gần gấp đôi so với năm trước.
3. Năm 2021
2021 là năm thị trường chứng khoán Việt Nam lập những kỷ lục chưa từng
có. Chứng khoán thực sự là một kênh huy động vốn hữu hiệu. Đây là một tín
hiệu vui cho nền kinh tế.
- VN-Index dồn dập lập đỉnh lịch sử
Thị trường chứng khoán Việt Nam ghi nhận một năm 2021 tăng trưởng bùng nổ về
mọi phương diện, từ chỉ số cho tới thanh khoản, số lượng người tham gia. Các
ngưỡng 1.200-1.300-1.400-.1.500 điểm lần lượt được chinh phục và mang đến
niềm tin cho nhiều người.
Trong tuần cuối tháng 11, chứng khoán Việt Nam xác lập kỷ lục mới khi chỉ số
VN-Index lần đầu tiên vượt qua mốc 1.500 điểm bất chấp tâm lý tiêu cực trước
thông tin về đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, trong đó có biến chủng nguy
hiểm mới Omicron lây lan ở nhiều nước.
Trong năm 2020, TTCK Việt Nam được đánh giá là một trong 10 thị trường có sức
chống chịu và phục hồi tốt nhất thế giới trong đại dịch.
Trong năm 2021, thị trường cũng chứng kiến nhiều phiên giảm mạnh, mất 40-60
điểm như những phiên hồi cuối tháng 8 hay giữa tháng 7, thổi bay nhiều tỷ USD và
khiến thị trường chao đảo trước các ngưỡng quan trọng như 1.300 điểm.
Tại Việt Nam, sự kỳ vọng với TTCK còn khá lớn. Đại diện PYN Elite thậm chí
cho rằng, gói phục hồi kinh tế 800.000 tỷ đồng giai đoạn 2022-2024 sẽ đẩy Vn-
Index lên 2.500 điểm vào cuối năm 2024.
Trong năm 2021, thị trường cũng ghi nhận những phiên giảm mạnh, có phiên giảm
tới 73 điểm và nhiều phiên giảm 40-50 điểm.
- Thanh khoản lập kỷ lục, những phiên tỷ USD không còn là giấc mơ
Chỉ khoảng hai năm trước đây, mốc 10.000 tỷ đồng giao dịch mỗi phiên đã là điều
mơ ước. Một số dự báo mạnh dạn đề cập tới mốc này. Tuy nhiên, giờ đây giá trị
giao dịch mỗi ngày gấp nhiều lần con số này.
TTCK cũng chứng kiến thanh khoản tăng kỷ lục trong năm 2021. Phiên 20/11 thị
trường ghi nhận phiên giao dịch kỷ lục với 56,3 nghìn tỷ đồng (2,4 tỷ USD) giá trị
cổ phiếu được chuyển nhượng.
Thanh khoản tăng mạnh trong bối cảnh chứng khoán trở thành một kênh đầu tư
hấp dẫn trong khi dòng tiền nhàn rỗi trong dân lớn. Bên cạnh đó, cú giải cứu thành
công vụ tắc nghẽn sàn HOSE là cơ sở để thanh khaorn bứt phá.
Trong 11 tháng đầu năm, tổng cộng có hơn 1,3 triệu tài khoản chứng khoán được
mở mới, bằng tổng số 3 năm trước đó cộng lại. Ước mơ 10% dân số đầu tư chứng
khoán không còn xa vời. Mục tiêu 5% dân số đầu tư chứng khoán vào năm 2025
của Chính phủ có thể sớm đạt được với tốc độ gia nhập thị trường như hiện nay.
Hiện, tổng số tài khoản giao dịch trong nước đạt hơn 3,8 triệu.
Riêng trong tháng 11, có gần 221 nghìn tài khoản chứng khoán được mở mới. Đây
là con số lớn nhất trong lịch sử 21 năm thành lập thị trường.
Số lượng nhà đầu tư F0 tham gia thị trường đông kỷ lục và với lượng tiền dồi dào
đã giúp cân bằng áp lực bán ròng của các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư cá
nhân mua ròng hơn 84 nghìn tỷ đồng trong 11 tháng đầu năm 2021.
- Nhiều doanh nghiệp vốn hóa vượt 10 tỷ USD
Thị trường cũng ghi nhận vốn hóa lên đỉnh cao mới. Sàn HOSE ghi nhận 4 doanh
nghiệp có vốn hóa vượt 10 tỷ USD là Vingroup, Vietcombank, Vinhomes và Hòa
Phát.
Vốn hoá thị trường chứng khoán tăng kỷ lục và đạt trên ngưỡng 330 tỷ USD.
Trong đó, vốn hóa HOSE đạt gần 5,8 triệu tỷ đồng, tăng 41%.
Trong năm 2021, vốn huy động qua thị trường cổ phiếu ước đạt gần 80 nghìn tỷ
đồng, gấp 4 lần năm trước và tương đương con số kỷ lục năm 2019.
- Khối ngoại bán ròng hơn 60 nghìn tỷ đồng
Trong năm 2021, khối ngoại đã bán ròng gần 62 nghìn tỷ đồng. Đây là con số kỷ
lục và cao hơn 4 lần lượng bán ròng của khối này trong cả năm 2020. Khối ngoại
bán ròng từ đầu 2020 khi mà dịch Covid-19 xuất hiện. Đây cũng là xu hướng
chung trên khắp thị trường châu Á. Khối ngoại đã bán ròng hàng chục tỷ USD tại
Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan...
Tại Việt Nam, một số cổ phiếu tăng giá mạnh bị bán ròng với khối lượng lớn như
Thép Hòa Phát, Ngân hàng VPBank, Vinamilk, Vingroup, Vietinbank...
Khối ngoại bán ròng khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa được nâng
hạng từ cận biên sang mới nổi.
Thị trường chứng khoán trải qua một năm 2022 đầy biến động, thăng trầm,
lên xuống khó lường với nhiều kỷ lục vui buồn lẫn lộn.
- VN-Index nằm trong top tăng, giảm mạnh nhất thế giới
Sau một năm 2021 thăng hoa, chỉ số VN-Index tiếp tục duy trì ở đỉnh cao lịch sử
trong 3 tháng đầu năm 2022. Tuy nhiên, sau đó, thị trường liên tục đi xuống và
nằm trong top giảm sâu nhất thế giới. Tới ngày 27/12, VN-Index xuống còn
1.004,57 điểm, thấp hơn 34,2% so với mức trên 1.520 điểm hồi đầu tháng 4.
Tổng CTCP Đầu tư Phát triển Xây dựng - DIC Corp (DIG) là một trong số cổ
phiếu thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư trên thị trường trong năm
2022. Từ cuối năm 2020, cổ phiếu này đã trở thành một điểm nóng trên thị trường
khi tăng vọt từ mức dưới 10.000 đồng/cp lên ngưỡng 100.000 đồng/cp hồi đầu
2022.
DIG được xem là một hiện tượng và được đánh giá có thể lên “500.000 đồng/cp”,
khiến không ít người mua ở mức giá 70.000 đồng/cp cảm thấy “rất hời”. Tuy
nhiên, cú sụt giảm của DIG về ngưỡng 10.000 đồng/cp vào đầu tháng 11/2022 gây
sốc cho không ít cá nhân. Vốn hóa của DIG Corp. có lúc mất vài tỷ USD.
Ngoài ra, thị trường ghi nhận hàng loạt mã bất động sản có biến động 'hoang dại',
tăng trần không ai bán và có lúc giảm sàn hàng chục phiên không ai mua.
TTCK hồi đầu tháng 1/2022 ghi nhận kỷ lục 135 triệu cổ phiếu FLC được giao
dịch trong một phiên, tương đương gần 20% lượng cổ phiếu lưu hành và chiếm tới
gần 10% thanh khoản sàn HOSE.
Tuy nhiên, kỷ lục này được phá vỡ hôm 30/11 bởi ‘tay chơi’ bất động sản miền
Bắc. CTCP Đầu tư Hải Phát - Hải Phát Invest (HPX) ghi nhận 165 triệu cổ phần
được chuyển nhượng, tương đương khoảng 54% số lượng cổ phiếu HPX đang
niêm yết trên TTCK, sau khi cổ phiếu HPX giảm sàn cả chục phiên.
Trái với đà bán mạnh của các nhà đầu tư trong nước khiến VN-Index có lúc giảm
xuống 873 điểm hôm 6/11, các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng mạnh trong hai
tháng 11 và 12, tổng lên tới hơn 29 nghìn tỷ đồng. Lũy kế cả năm 2022, khối ngoại
mua ròng khoảng 27 nghìn tỷ đồng.
Đợt mua ròng với tốc độ nhanh và khối lượng lớn kỷ lục trên TTCK Việt Nam
trong vòng 22 năm qua. Việc mua ròng cả chục nghìn tỷ đồng chỉ trong vòng 2
tháng là hiện tượng chưa từng xảy ra trong gần 4 năm lại đây.
Gương mặt nổi bật là các quỹ của Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan, Hàn Quốc,...
Một số quỹ mua nhiều cổ phiếu Việt như Fubon (Đài Loan) , VNM (US), DR
Diamond của Thái, Dragon Capital...
Quỹ ETF Fubon đã được phép huy động thêm khoảng 4.000 tỷ đồng để tiếp tục
đầu tư vào thị trường Việt Nam trong tháng 12 và năm 2023.
Khối
ngoại mua ròng gần 30.500 tỷ đồng trong tháng 11 và tới 27/12/2022.
- Thay đổi về chính sách
Trong năm 2022, TTCK ghi nhận việc rút ngắn chu kỳ thanh toán về ngày T+2.
Đây là một bước trong nỗ lực góp phần vào trong quá trình nâng hạng thị trường.
Ngày 16/5, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (VSD) đã đổi cách tính giá thanh toán
ngày đáo hạn phái sinh và ngày 15/12 đã thực hiện điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ ban đầu
tối thiểu từ 13% lên 17% nhằm giảm “tính đầu cơ” cũng như sức ảnh hưởng của
phái sinh lên thị trường cơ sở, qua đó góp phần ổn định tâm lý nhà đầu tư.
2. Tháng 6/2023
Thị trường chứng khoán ghi nhận chỉ số VN-Index bật tăng và thanh khoản cải
thiện so với tuần giáp Tết nhờ tín hiệu tích cực từ việc Trung Quốc mở cửa và nỗ
lực đẩy mạnh đầu tư công của Chính phủ Việt Nam.
Thị trường chứng khoán khởi đầu năm mới 2023 khá ấn tượng với chỉ số VN-
Index tăng 4,4%, lên 1.051,4 điểm. Chỉ số HNX-Index tăng 2,6%, lên 210,6 điểm,
trong khi Upcom-Index tăng 1,5%, lên 72,7 điểm.
Thanh khoản bình quân trên 3 sàn tăng 9,3% lên 11.724 tỷ đồng. Khối ngoại tiếp
tục xu hướng mua ròng kéo dài từ đầu tháng 11/2022. Nhóm này mua ròng 1.637
tỷ đồng trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) trong tuần đầu năm
mới.
Nền tảng vĩ mô của Việt Nam duy trì ổn định và định giá về mức hấp dẫn tiếp tục
thu hút dòng tiền của các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong tuần đầu năm mới, nhóm cổ phiếu ngân hàng đóng vai trò quan trọng cho
đợt tăng và là nhóm dẫn dắt thị trường.
Khối ngoại tiếp tục mua ròng vào đầu năm 2023.
Hoạt động mua ròng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng là tín hiệu tích cực với
chứng khoán Việt Nam.
Thống kê cho thấy, từ đầu tháng 11/2022 tới hết 6/1/2023, khối ngoại mua ròng
hơn 33.200 tỷ đồng cổ phiếu Việt. Riêng trong 4 phiên đầu năm 2023, khối ngoại
đã mua ròng hơn 1.726 tỷ đồng. Nhóm các cổ phiếu được mua ròng chủ yếu là bất
động sản, ngân hàng, chứng khoán, tài nguyên cơ bản...
Trong năm 2023, nhóm ngành được cho là hưởng lợi từ những xu hướng vĩ mô lớn
trong năm, gồm: hàng không, du lịch, xuất khẩu thủy sản, cao xu, xi măng (Trung
Quốc mở của trở lại); cổ phiếu xây dựng hạ tầng, vật liệu xây dựng (Việt Nam đẩy
mạnh đầu tư công); điện, khí đốt (phát triển hạ tầng năng lượng).
2.4. Tác động của vốn FPI lên TTCK Việt Nam
3.1. Xây dựng điều kiện cần thiết hấp thụ dòng vốn FPI
Muốn thu hút được dòng vốn FPI thì Việt Nam phải phát triển thị trường
tài chính trong nước bao gồm TTCK. Nói cách khác, NĐTNN chỉ đầu tư
khi TTTC đã phát triển ở mức độ nhất định. Đây là triết lý “con gà và quả
trứng”: muốn TTTC phát triển phải có sự tham gia của NĐTNN nhưng
NĐTNN chỉ tham gia khi TTTC phát triển.
3.1.1.2.2 Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý của nhà
nước
- Tính linh hoạt của tỷ giá sẽ giúp kiềm chế lạm phát, đồng thời làm giảm
nhu cầu dung hoà vốn. Một tỷ giá linh hoạt cũng có thể hạn chế những
tác động gây sụp đổ do sự đảo chiều luồng vốn gây ra bằng cách khuyến
khích các chủ thể kinh tế dự phòng rủi ro tỷ giá tốt hơn và cho phép tỷ
giá đóng vai trò như là một yếu tố hấp thụ sốc.
- Thực tiễn thế giới cho thấy chế độ tỷ giá cố định cứng nhắc, kéo dài
theo hướng định giá quá cao đồng bản tệ là không phù hợp, không có lợi
cho quốc gia chủ nhà trong bối cảnh có sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài (mặc dù điều này không hoàn toàn đúng đối với dòng
FDI). Do dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là rất linh hoạt, mang tính
động cao, chủ yếu là có tính ngắn hạn, nên sự chuyển hoá sở hữu dòng
vốn này giữa các nhà đầu tư diễn ra liên tục, rất nhanh và có thể đồng
thời trên quy mô lớn, kéo theo nhu cầu chuyển đổi giữa nội tệ - ngoại tệ
diễn ra với cường độ và quy mô tương tự, khiến làm tăng sức ép lên hệ
thống tỷ giá ngoại tệ, nhất là trong điều kiện đồng nội tệ ngày càng có
tính chuyển đổi cao. Kết quả là nếu thiếu tính linh hoạt thị trường trong
chính sách tỷ giá đồng bản tệ, và nếu nguồn cung ngoại tệ mỏng do quỹ
dự trữ ngoại tệ quốc gia có hạn, thì sức ép cầu ngoại tệ, được cộng hưởng
với các thủ đoạn và năng lực khó lường của giới đầu tư quốc tế, sẽ dễ gây
ra các trận “sóng thần” bất ngờ làm đổ vỡ hệ thống tài chính - tiền tệ
quốc gia, như điều đã từng xảy ra ở Thái Lan và châu Á trong cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ những năm cuối thập kỷ trước.
- Như vậy, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia nhằm mở rộng nhu cầu và gia tăng khả năng cung ứng
vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho TTCK
phát triển ổn định và bền vững.
3.1.2.2 Tăng cường hiệu quả của công tác giám sát, quản lý thị
trường
- Bảo vệ NĐT, duy trì thị trường hoạt động công bằng, hiệu quả và minh
bạch, giảm rủi ro hệ thống là một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra
cho các nhà chức trách trong việc tăng cường hoạt động giám sát thị
trường. Do vậy, cần phải:
Thứ nhất, trước những diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác
quản lý, giám sát phải chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại
(phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý giám sát thông qua báo cáo
hoặc nắm tình hình thông thường. Qua đó có thể phát hiện và điều tra
giao dịch nội gián, thao túng và những hành vi gian lận khác trên thị
trường
Thứ hai, phải xây dựng và phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát
hiện được các giao dịch bất thường; phân tích kỹ lưỡng các thông tin về
tổ chức niêm yết và nâng cao khả năng điều tra, kiểm tra phát hiện các
vấn đề phát sinh.
Thứ ba, để các công ty chứng khoán hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi phải
có sự kết hợp hài hoà giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa, luôn kiểm
soát được tính lành mạnh và sự tuân thủ quy định về vốn của các công ty
chứng khoán.
Thứ tư, thắt chặt dần đối với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, xử
lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về chứng khoán và
TTCK, áp dụng tất cả các hình thức xử phạt, từ xử phạt hành chính đến
sử dụng các chế tài dân sự và hình sự.
3.1.2.4 Áp dụng các biện pháp, chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế
TTCK muốn thu hút và giữ chân các NĐT, đặc biệt là các NĐTNN thì
yếu tố trung thực và minh bạch giữ vai trò quan trọng trên TTCK. Bởi
các NĐTNN, do họ không có nhiều điều kiện để theo dõi tình hình của
các công ty niêm yết như các NĐTTN, mà chủ yếu thông qua nguồn
thông tin công bố trên thị trường.
Do đó, cần phải nhanh chóng hoàn thiện chế độ kế toán - kiểm toán theo
quy tắc chuẩn mực quốc tế. Cần hình thành và nâng cao tính độc lập của
các doanh nghiệp kiểm toán, nhất là các doanh nghiệp kiểm toán nhà
nước là một giải pháp quan trọng trong thời gian tới.
Cố gắng tăng cường hệ thống kiểm soát rủi ro, nâng cao tính đạo đức
nghề nghiệp cũng như củng cố thêm mức độ chính xác của thông tin tài
chính, hạn chế sự vi phạm quy tắc kế toán, che dấu các khoản nợ cũng
như việc thổi phồng lợi nhuận....
3.1.2.8 Thực thi chính sách mở cửa thu hút vốn FPI
Phát triển các công ty quản lý quỹ, khuyến khích thành lập các công ty
liên doanh quản lý quỹ, lập văn phòng đại diện và cho phép lập chi nhánh
công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam. Khuyến khích lập các quỹ
đầu tư nước ngoài để huy động vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đa
dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư như quỹ đóng, quỹ mở, quỹ dạng hợp
đồng, quỹ đầu tư là pháp nhân...
Thiết lập các chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí,
lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ tiếp tục thực
hiện bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới mọi
hình thức.
Thiết lập các chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí,
lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ tiếp tục thực
hiện bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới mọi
hình thức.
3.2 Giải pháp kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
TTCK Việt Nam hiện còn non trẻ. Do vậy, để TTCK Việt Nam phát triển
toàn diện thì bên cạnh việc xây dựng những nền tảng cơ bản cho việc hấp
thụ dòng vốn, chúng ta cũng phải thực hiện kiểm soát các dòng vốn khi
cần thiết. Mục tiêu của giải pháp này nhằm hạn chế tỷ lệ vốn đầu tư ngắn
hạn trên vốn dài hạn ở mức thấp nhất vì luồng vốn đầu tư gián tiếp ngắn
hạn rủi ro rất cao
Chính vì vậy, Việt Nam cần có những biện pháp quản lý dòng vốn
ĐTNN vào TTCK trong tầm nhìn tổng thể và dài hạn của nền kinh tế.
Các biện pháp kiểm soát, nếu có, cần phải nghiên cứu kỹ dựa trên những
nguyên tắc kinh tế chứ không dựa vào những công cụ hành chính. Có
nhiều biện pháp kiểm soát, chẳng hạn như giữ vốn lại một thời gian, đăng
ký qua trung gian, đánh một khoản lệ phí trên vốn ngắn hạn...
Điều quan trọng để thực hiện các giải pháp thành công là phải có sự trao
đổi trước, đối thoại với thị trường, tránh đưa ra những chính sách mà
chưa có sự đối thoại sẽ khiến nhà đầu tư bị sốc, tác động không hay đến
thị trường
Theo Điều 41 của Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005, khi xét thấy
cần thiết, để bảo đảm an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia, Chính phủ được
áp dụng các biện pháp như hạn chế việc mua, mang, chuyển, thanh toán
đối với các giao dịch trên tài khoản vãng lai, tài khoản vốn; áp dụng các
quy định về nghĩa vụ bán ngoại tệ của người cư trú là tổ chức; áp dụng
các biện pháp kinh tế, tài chính, tiền tệ và các biện pháp khác.
3.2.1 Đánh thuế vào lợi nhuận đối với vốn đầu tư ngắn hạn
- Xem xét áp dụng biện pháp quản lý để hạn chế luồng vốn đầu tư vào
TTCK mang tính ngắn hạn; khuyến khích các dòng vốn đầu tư dài hạn
thông qua biện pháp thuế đánh vào lợi nhuận từ đầu tư gián tiếp, không
kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên quan đến các giao dịch vãng lai
và các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể là đánh thuế cao đối với
những khoản đầu tư ngắn hạn và miễn thuế đối với những nhà đầu tư dài
hạn.
- Hạn chế luồng vốn ra thông qua biện pháp thuế là giải pháp đơn giản và
linh hoạt nhất bởi mức thuế có thể thay đổi theo thời gian đầu tư; có thể
áp dụng tuỳ tính chất của nhà đầu tư; và có thể cắt giảm điều chỉnh tuỳ
tình huống.
- Bên cạnh đó, cũng cần thúc đẩy để đồng tiền Việt Nam được tự do
chuyển đổi, tạo điều kiện cho nhà ĐTNN rút vốn. Theo các chuyên gia về
ngoại hối, hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã cho áp dụng nhiều nghiệp vụ
về ngoại hối để những nhà đầu tư có thể dễ dàng mua được ngoại tệ, kể
cả mua theo giá thỏa thuận.
3.2.3 Giám sát việc cho vay, cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
thương mại
Giám sát chặt chẽ không để phát sinh tình trạng cho vay, cầm cố chứng
khoán quá lớn tại các ngân hàng thương mại, vì đa số nguồn vốn vay
không đi vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà quay trở ngược lại TTCK.
Do đó, cần chỉ đạo chặt chẽ các ngân hàng thương mại trong việc thực
hiện chế độ kiểm toán, quản trị công ty, báo cáo tình hình tài chính; đồng
thời giám sát chặt chẽ các ngân hàng thương mại trong việc mua bán cổ
phiếu, đầu tư, góp vốn cũng như chuyển nhượng cổ phiếu nhằm đảm bảo
an toàn cho hệ thống ngân hàng.
3.2.5 Tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường.
Tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường và các luồng vốn vào
trong đó có vốn đầu tư gián tiếp. Phát triển hệ thống cảnh báo sớm và chủ
động xây dựng phương án đối phó thích hợp nhằm giám sát và phòng
ngừa hiệu quả các nguy cơ biến động thị trường tài chính tiêu cực do đầu
cơ, tội phạm, độc quyền, lũng đoạn và sự mù quáng thị trường; bên cạnh
đó, phải nhận biết, đo lường được quy mô rủi ro thị trường để phối hợp
Bộ tài chính với UBCKNN áp dụng các giải pháp giám sát, xử lý thích
hợp