Professional Documents
Culture Documents
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chấtvà ngược
lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc họctập và rèn luyện
của sinh viên như sau: để có thể tốt nghiệp, chúng ta phải tích luỹ đủsố lượng các tín chỉ môn
học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ sốlượng tiết của các môn học. Có
thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểmnút và điểm số đạt yêu cầu là bước
nhảy, bởi kết quả thi (bước nhảy) tốt là sự kết thúcmôt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá
trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vìvậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật
khác, sinh viên phải từng bước tíchluỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập
(chất) theo quy luật.
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Saukhi học
những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới cóthể tiếp tục
nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học thìphải hoàn thành việc
học ở 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.Việc tiếp thu kiến thức từ cơ
bản đến nâng cao là phương pháp học tập khoa học mọingười đều biết nhưng không phải ai
cũng thực hiện đúng quy trình. Một số trường hợpsinh viên không tập trung học, bị xao nhãng
bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnhhưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên khi đến gần giai
đoạn thi mới bắt đầu học lại từđầu, nhưng thời gian ôn thi là để sinh viên ôn lại kiến thức họ
đã học chứ không phảitiếp thu thêm cái mới, vì vậy cho dù sinh viên chăm học trong thời gian
đó thì cũng không thể đảm bảo được lượng kiến thức để vượt qua được kì thi. Ngoài ra, có
nhiềusinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng
mộtnăm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không cómôn
học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tómlại, muốn tiếp
thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viênphải học dần mỗi ngày,
từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượngsẽ dẫn đến sự biến đổi về chất
theo hướng tích cực.
5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủquan
:Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mìnhtừ những
điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiếnthức to lớn, thành
tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trảiqua hơn 12 năm học tập
là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy.Không những thế, chúng ta vẫn phải
tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống maisau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập
ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổivề lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được
thể hiện ở việc sinh viên tíchluỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục
phấn đấu học tập, tìmkiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ.
Từ đó, làmbiến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực
ấy.Trên quan niệm triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được minh chứngkhi
sinh viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng viên, lượng sẽ được đổimới theo
nhịp điệu của chất đã được tạo ra bởi thế hệ trước và truyền lại cho thế hệsau.
Ở trường Đại học Tôn Đức Thắng, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tựtìm tòi,
nghiên cứu ở thư viện, tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu chomai sau. Được tự
do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viênluôn đạt được những thứ
“chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… vàtự tin bước ra đời. Cứ như vậy,
quá trình chuyển đổi giữa chất-lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển,
liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên,giúp họ tự tin vững bước trong hành trang
cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinhviên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu
và ứng dụng vào thực tiễn và tiếptục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư
tưởng bảo thủ và chủ quannghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Các tính chất chung của MĐL:
+ Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất. VC tồntại khách
quan nên mâu thuẫn cũng tồn tại khách quan. Nó là cái vốn có trong SV,không lệ thuộc vào ý
thức con người và các lực lượng siêu nhiên.
+ Tính phổ biến: trong bất kể SVHT nào, ở bất cứ địa điểm, thời gian nào cũng tồntại những
MĐL.
+ Tính đa dạng, phong phú: thế giới vật chất có vô vàn các dạng, không gian, thờigian, mối
liên hệ khác nhau nên chúng có những mâu thuẫn khác nhau, không có dạngmâu thuẫn nào
trùng lặp với dạng mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong TN, trong XH,trong tư duy, mâu thuẫn
bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản..VD: thốngtrị >< bị trị, sản xuất >< tiêu thụ,
hít vào >< thở ra, tiếp nhận dinh dưỡng >< thải ra,thành công >< thất bại, lực hấp dẫn >< lực
li tâm, VC >< phản VC.
- Mâu thuẫn là 1 chỉnh thể, trong đó 2 MĐL vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Thốngnhất dùng để chỉ sự liên hệ ràng buộc không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các
MĐL,mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và ngược lại. Sự thống nhất của các MĐL bao
hàmcả sự thống nhất của các mặt đó. VD: GCVSản và sự giàu có là 2 MĐL, chúng hợp thành
1chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy
trìvĩnh viễn ngay cả khi sự tồn tại của MĐL của nó là GCVSản. Do có sự “đồng nhất” của
cácMĐL mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến 1 lúc nào đó, các MĐL có thể chuyển hóa
lẫnnhau. Các MĐL không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đó là sự tác
độngqua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh
củacác MĐL hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối liên hệ qua lại giữa
cácMĐL và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
- Sự phát triển của SVHT gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâuthuẫn.
Do đó sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) chỉ là tương đối, cònđấu
tranh là tuyệt đối. VD: Trong XHCXNThủy, con người phải đấu tranh với TN, trình độLĐ rất
sơ khai. Để tồn tại, loài người phát minh ra nhiều công cụ: rìu đá, lao, chăn nuôi…tứclà giải
quyết mâu thuẫn giữa sống và chết đói. Nhờ công cụ cải tiến, của cải làm ra nhiều hơnmức
tiêu thụ, dẫn đến của cải dư thừa tập trung vào 1 số người, hình thành mâu thuẫn mớigiữa
người có của cải và không có của cải. Loài người bước sang XH phân biệt GC (chiếmhữu nô
lệ, PK, TBản). Khi GC bị áp bức tiêu diệt GC áp bức (những người không có của cảitiêu diệt
người có của cải) loài người bước sang XH mới: XHCN
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của SV và là khách
quantrong bản thân SV nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của SV bằng cách phân tích SV
đểtìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn
nhaugiữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể 1 mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và tìm cách
giảiquyết cụ thể, phù hợp với trình độ phát triển của từng mâu thuẫn. Không được điều hòa
mâuthuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi
điềukiện đã chín muồi.
Vận dụng:
Rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật, xác định trọng tâm, nắm vững nội dungvà
phương pháp học tập, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên tự kiểm
tradưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống để nâng cao năng lực tư duy.
Không biết thì phải học. Nhiệm vụ ngày càng lớn nhưng đầu tư chưa theo kịp. Số lượng
ngàycàng tăng gây nguy cơ cao giảm chất lượng. Điều kiện dạy và học: thấp kém; trong khi
nhiệm vụ cứ nặng lên. (3 nhiệm vụ trước đó: bản thân ngành GD không thể tự giải quyết, đólà
trách nhiệm của nhà nước và toàn XH, nên chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả nhất ngân
khoảnkhiêm tốn được cấp và số tiền đóng góp chắt chiu của XH, dè sẻn minh bạch, không
tham ô, thay đổi mục tiêu, chương trình, cách học, cách dạy để phù hợp nhưng vẫn đạt hiệu
quả nhấtđối với nguồn lực eo hẹp hiện có). Sự mất cân đối nặng nề giữa nguồn lực (ít ỏi) với
nhiệmvụ (nặng nể) khiến người ta không biết nên coi đâu là những điểm nút để tập trung tháo
gỡ. Ấn tượng chung là càng gỡ, càng rối. Dạy cụ thể có xu hướng tăng lên, khiến dễ lơ là
dạyphương pháp. Sự nhồi nhét khiến người học mất năng lực tự học, trở thành thụ động.
Khoahọc tiến nhanh nhưng năng lực thầy có hạn, không kịp cập nhật. Nội dung cần học:
ngàycàng nhiều, nhưng khoá học không thể kéo dài. Chương trình muốn toàn diện, nhưng trò
đãquá tải. Sức ỳ giáo dục lớn, trong khu xã hội cứ phát triển nhanh. Học ở trường thì
“mộtđường”; nhưng thực tế khi ra trường lại... “một nẻo”. Riêng với Việt nam, liệu có nên
kểthêm một mâu thuẫn: Nhiều thứ buộc phải học nhưng không có ích khi ra đời, và càng
vôdụng khi hoà nhập. (ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả GD, phải giải quyết
thỏađáng, không để chúng trở nên gay gắt, gây lo lắng và bức xúc chung, cải cách, đồng bộ
“toàndiện, triệt để”, dự trù ngân sách “tạm đủ”, “liệu cơm gắp mắm”, tránh sự lãng phí không
cầnthiết, chống bệnh thành tích, dạy nhồi nhét cho HS, quá tải, thay đổi cách giảng dạy,
nhóm,tranh ảnh trực quan, thuyết trình, đọc trước bài ở nhà, kiểm tra bài học bằng thí nghiệm,
đặtcâu hỏi tại sao cho những hiện tượng thường gặp, học đủ, hệ thống nhưng không thừa,
khôngnhồi nhét.
Câu 5: Quy luật phủ định của phủ định
-YNPPL: Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức mộtcách đúng đắn về
xu hướng vận động, phát triển của SVHT. QT đó không diễn ra theođường thằng, mà là con
đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều QTkhác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng
và phức tạp của QT phát triển chỉ là sự biểu hiệncủa khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến
lên theo quy luật. Cần phải nắm đượcđặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của SVHT để tác
động đến sự phát triển, phù hợpvới yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của TGQ KH và
nhân sinh quan CM trongmọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin
vào xu hướng tấtyếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của TGQ KH và
nhân sinhquan CM. Theo quy luật phủ định của phủ định, trong TGKQ, cái mới tất yếu ra
đờiđể thay thế cái cũ. Trong TN, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật khách quan.Trong
ĐSXH, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, YT tự giác và sáng tạocủa con người.
Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạtđộng, có niềm tin vào
sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cáimới thắng lợi. Do đó, cần khắc
phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sựphát triển của cái mới, làm trái với quy
luật phủ định của phủ định. Quan điểm BC vềsự phát triển đòi hỏi trong QT phủ định cái cũ
phải theo nguyên tắc kế thừa có phêphán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt
qua, cải tạo cái tiêu cực, tráiquy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ
Vận dụng:
Cái mới ra đời là tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa trênnền tảng cái cũ, tránh phủ
định sạch trơn cái cũ hoặc không đón nhận sự ra đời của cáimới. Nghề GV có mâu thuẫn
(được tôn trọng và không), vậy nên SV phải học tập, đổimới, tự phát triển mình, trau dồi
chuyên môn thực tế…nhận thức đúng đắn và cóhướng giải quyết hiệu quả SVHT bằng những
cái mới nhưng có chọn lọc, cái sau phảitiến bộ và có hiệu quả hơn cái trước, nâng cao tính
tích cực, lạc quan, ủng hộ và đấutranh cho cái mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo
điều, kìm hãm sự pháttriển, kế thừa phải có phê phán, lọc bỏ những cái tiêu cực trái quy luật.
Đội ngũ GV,SV tiếp cận các phương pháp dạy học mới, CNTT, nghiên cứu KH, thí nghiệm
bàihọc, giảng dạy bằng tranh vẽ của HS, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, thể lực, trauchuốt văn
thể mỹ, trau đồi kinh nghiệm, cải tiến các cơ sở GD, trường học theophương thức hiện đại,
tiện nghi, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của HS
Là một học sinh năm nhất, khi đến với môi trường học tập mới ở đại học, em được
tiếp xúc với kiến thức mới, thầy cô mới, phương pháp giảng dạy mới. Ở đại học, đòi hỏi sinh
viên phải tự học, tự tìm tòi tham khảo tài liệu và hoạt động nhóm. Trước những điềumới ấy,
phương pháp học của một học sinh cấp 3 đã trở nên không phù hợp. Đó cũngchính là lúc em xây
dựng nên phương pháp học tập mới cho bản thân.Thay vì giữ phương pháp học tập cũ thụ động:
đợi giáo viên đọc kiến thức để chép vào vở, học lí thuyết suông, thụ động trong việc phản biện,
không tìm tòi thêm kiến thứcngoài,... Em đã áp dụng phương pháp học mới phù hợp hơn: Chủ
động ghi lại ý chính của bài giảng, phát triển tư duy phản biện, chủ động đọc thêm tài liệu
ngoài,...Phương pháp học tập mới ra đời, thay thế phương pháp học tập cũ. Hay nói cách khác,
Phương pháp học tập mới phủ định phương pháp học tập cũ . Đó là kết quả củaviệc giải quyết
mâu thuẫn giữa phương pháp học tập cũ và môi trường học tập mới. Tuy nhiên, phương pháp
học tập mới không phủ định hoàn toàn phương pháp họctập cũ. Cụ thể phương pháp học tập mới
gạt bỏ những yếu tố thụ động của pp học tập cũ như: đợi giáo viên đọc bài cho chép vào vở, ..
đồng thời giữ lại những yếu tố tích cựccủa phương pháp cũ dưới dạng lọc bỏ, cải tạo phù hợp cái
mới như trình bày vở sạch đẹp nhưng khoa học và gọn gàng, xúc tích hơn; chăm chỉ đọc sách
nhưng thêm kĩ năng ghichú tài liệu, chọn lọc thông tin,
Việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định có vai trò hết sức quan trọng đốivới con đường
phát triển ở Việt Nam hiện nay. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường pháttriển của Việt Nam không
gì khác là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện thành
công mục tiêu này, chúng ta cần hiểu đúng về con đường của sự phát triển.Con đường của sự
phát triển là con đường quanh co phức tạp, không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy
ốc, có bao gồm cả sự tha hóa, những bước rút ngắn và bỏ qua. Con đường phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam khphải là con đường thẳng, bằng phẳng mà theo đường xoáy ốc quanh co,
phức tạp Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,nhiều
thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta <làmột quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mớinhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trảiqua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinhtế, xã hội đan xen= (6). Theo sự khái quát của
Đảng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội làmột quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới.Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính
chất bản chất, căn bảnvà toàn diện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; và quá trình đó phải
diễn ra lâu dàivới nhiều bước phát triển. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh
nênmọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa qua thời kỳ phát triển tư bản chủnghĩa
nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩaxã hội, hệ thống
chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã và phong trào xã hội chủ nghĩa và côngnhân quốc tế đang ở thời
kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn chốngphá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội. Khi cái mới và cái cũ còn hiện hữu đầy mâuthuẫn, quá trình đấu tranh giữa tiến bộ và lạc
hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng cánhân ích kỷ, hẹp hòi, khi tiềm lực kinh tế còn chưa đủ
mạnh, những tiêu cực trong xã hộivà trong Đảng vẫn còn thì những tồn tại, những khó khăn và
thách thức này dẫn đến mộtcuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo dài. Biểu hiện rõ nhất là sản
xuất trì trệ, lạm pháttăng nhanh, công ăn việc làm thiếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
lòng tin củadân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của Nhà nước giảm sút.
Đâychính là những bước lùi tương đối trong quá trình phát triển cũng như xây dựng xã hộichủ
nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức được những sai lầm và hạn chế trong đường lối, chủtrương của
mình, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước trong Đại hộiVI của Đảng (năm
1986)
Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựngchủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa
nước ta thoát ra khỏi sự khủng hoảng, ngày càng pháttriển. Như vậy, thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, con đường phát triển của Việt Nam làmột con đường dài, với nhiều bước đi, nhiều giai
đoạn, trong đó có cũng cả những bướclùi tương đối.Đến các Đại hội VIII, IX, X của Đảng, mặc
dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh,nhưng nhìn chung, về cơ bản, Đảng ta đều nhất quán với
Cương lĩnh xây dựng đất nướctrong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông
qua. Dù lựa chọn con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng nhìn vào thànhtựu to lớn
sau 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý trong việc lựachọn con đường phát
triển của Đảng ta
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Thứ nhất, VC quyết định nguồn gốc của YT: Không có VC sẽ không có YT (“có thực mới vực
được đạo”, “có bột mới gột nên hồ”, “phú quý sinh lễ nghĩa”…).
YT tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của BNN trong quá trình phản ánh hiện thực KQ.
VD: Người xưa thường có câu "có thực mới vực được đạo" ý là vật chất quyết định nhận thức
của con người. Khi con người không đủ no, không có sức khoẻ thì bộ não của con người sẽ khó
hoạt động. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể nhất.
Bạn A sinh sống ở vùng sâu, vùng xa không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin, việc tiếp
cận còn nhiều hạn chế. Tức là về điều kiện cơ sở hạ tầng không đáp ứng nên bạn A không có
hiểu biết nhiều về các sản phẩm công nghệ thông tin, thậm chí không biết sử dụng. Tuy nhiên,
đối với cá nhân B - sống ở Thủ đô, trung tâm từ nhỏ B đã có cơ hội học tập, tiếp cận với các
công nghệ thông tin hiện đại, vì vậy B sẽ dễ dàng sử dụng và tiếp cận các công nghệ thông tin
hơn.
- Thứ hai, VC quyết định nội dung của YT: Nội dung của YT mang tính KQ, do thế giới KQ quy
định.
Sở dĩ YT có nội dung vì YT phản ánh hiện thực KQ.
-Thứ ba, VC quyết định bản chất của YT: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của YT cũng phải
dựa trên những tiền đề VC nhất định.
Sự phản ánh năng động, sáng tạo của YT xuất phát từ TGKQ, từ hoạt động thực tiễn của CN.
- Thứ tư, VC quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của YT: Tri thức và các yếu tố của ý thức
đều dựa trên sự phản ánh VC.
Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí do VC quyết định. YT là sản phẩm tổng hợp của hoạt động
phản ánh.
· Sự vận động, phát triển của YT gắn liền với sự phát triển của quá trình VC.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- YT có sự tác động trở lại với VC vì: YT là YT của con người, gắn liền với tính năng động,
sáng tạo của nhân tố con người, nhân tố chủ quan, YT là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
- Nếu YT phản ánh phù hợp với VC thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình VC phát triển.
- Nếu YT phản ánh không phù hợp với VC thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình VC.
- Tự bản thân YT không thể có sức mạnh để tác động vào VC. Muốn có sức mạnh để tác động
vào VC thì YT phải được xâm nhập vào con người và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
- Như vậy chính YT quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
- Sự phản ánh năng động, sáng tạo của YT cũng phải dựa trên những tiền đề VC nhất định, dựa
vào điều kiện khách quan và năng lực thực tiễn của con người.
VD: Khi ở nhiệt độ 0 độ C thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước đá đã cung
cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá). Đó là
ý thức quyết định vật chất .Con người đã vận dụng những kiến thức của hóa học ,vật lý để có thể
tạo ra sản phẩm cung cấp cho con người.
Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những
chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu
rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm
kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn
luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo
luận.Qua đó tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo
thủ,không chủ quan trước mọi tình huống.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thứ nhất, vì VC quyết định YT nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính KQ;
trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế KQ, tôn trọng và hành động theo các quy
luật KQ.
- Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động
chủ quan, nghĩa là phất huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
- Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí; cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ.
- Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện VC lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện KQ lẫn nhân tố chủ quan.
VẬN DỤNG
Vận dụng 1: Bằng việc đọc thêm các nguồn tài liệu phong phú ngoài giáo trình, em đã không
còn lo lắng về việc bản thân không làm tốt trong các kỳ thi nữa.
Vận dụng 2: Với quyết tâm đạt được điểm A trong các môn học, em đã lên kế hoạch học tập chi
tiết cho từng môn và bắt tay vào thực hiện chúng.
Vận dụng 3: Sau bài thuyết trình, em sẽ lắng nghe những đóng góp của giảng viên và của các
bạn để thay đổi, chỉnh sửa những cái sai, cái chưa hoàn thiện của bản thân.
Vận dụng 4: Khi đăng ký vào câu lạc bộ em phải suy nghĩ kĩ xem về năng lực, năng khiếu của
bản thân có phù hợp với câu lạc bộ đó không, có đủ thời gian để đi họp câu lạc bộ không và có
đủ yêu thích để xây dựng câu lạc bộ ngày một hoàn thiện hơn hay không.
TRONG CUỘC SỐNG
Vận dụng 1 Nhờ vào ứng dụng BusMap, em đã tìm hiểu được các tuyến xe buýt đến trường, thời
gian di chuyển của các xe... Từ đó, em không còn cảm giác sợ hãi khi không biết phải đi xe nào
để đến trường nữa
Vận dụng 2: Ban đầu bản thân em không biết nấu ăn nhưng do mong muốn được ăn uống đúng
sở thích, đảm bảo vệ sinh đồng thời tiết kiệm chi phí nên em đã học nấu ăn thành công.
Vận dụng 3: Trước khi đánh giá một người nào đó, em phải tiếp xúc với người đó đồng thời
lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan
“trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân.
Vận dụng 4: Trong cuộc sống, chúng ta không nên nhìn nhận một cách phiến diện và cho rằng
những người ăn xin là lười biếng, không chịu lao động. Phải nhìn nhận đa chiều, có đôi lúc do
hoàn cảnh gia đình không thể học tập khiến họ không được nhận vào làm việc, do điều kiện sức
khoẻ, do khuyết tật thân thể mà họ không thể lao động
Vận dụng vai trò thực tiễn vào công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở
vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hòa và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là
một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan
giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải
thường xuyên đầu tranh với xu hướng tự phát tưbản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các
thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chủng để cùng phát triển.Sự
nghiệp đối mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt
quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cơ bản và hàng
đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đối mới với tinh chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi
phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ
bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiền. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà
có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa,
thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới
có cơ sở đề khái quát thành lý luận.Vì vậy, quá trình đối mới ở nước ta chính là quá trình vừa
học vừa làm, vừa làm vừa tổngkết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay
trở lại quá trình đối mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể
nghiệm, phảilàm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chở thực tiễn. Ví dụ như văn đò chống
lạm phát vấn đề khoản trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất
nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.Ở đây,
việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng.