Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ 1
Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!”. Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt
xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời.
Cha tôi bảo: “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi
cười: “Cha bình quân! ” Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi
người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi
ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con
gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “Các cháu
có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai
đứa bảo: “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật
bây giờ đọc rất khó vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi: “Có
chuyện gì thế?” Ông bảo: “ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi
bảo: “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ
loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm
chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có
gì đâu…
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều
ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ
đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học
hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi
cứt trâu”. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn
phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố
nó, không tôi cạch cửa!”. Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký
cược. Ông Bổng rất ức, ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông
cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó,
anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đối”. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì”. Cha
tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay
bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comple đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn
cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần
bò, râu ria rất hãi…
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinet đệm rất bậy bạ
sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn
người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn…
(https://vanvn.vn/tuong-ve-huu-truyen-ngan-nguyen-huy-thiep)
Câu 1 (1.0 điểm): Kể tên các nhân vật trong câu chuyện trên.
Câu 2 (1.0 điểm): Xác định người kể chuyện và điểm nhìn trong văn bản trên.
Câu 3 (1.0 điểm): Phân tích hiệu quả của hiện tượng đảo trật từ từ trong đoạn văn sau: “Nói thế thôi, ông Bổng vẫn
sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược”
Câu 4 (1.0 điểm): Phân tích sự kết nối giữa lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản trên.
Câu 5 (1.0 điểm): Nêu nội dung bao quát của văn bản. Nhận xét về cách đặt nhan đề truyện của tác giả.
Câu 6 (1.0 điểm): Qua văn bản trên, anh/chị rút ra bài học gì về cuộc sống?
II. PHẦN VIẾT (4.0 điểm)
Từ bi kịch của một vị tướng đã về hưu khi phải đối diện với sự biến đổi đầy khắc nghiệt của cái xã hội bên
ngoài quân đội sẽ mở ra một thế giới đa diện mà chúng ta có lẽ chưa từng biết đến. Một thế giới mà lòng người đôi
khi còn đáng sợ hơn cả bom đạn, thuốc súng.
Anh/chị Hãy viết một bài văn nghị luận xã hội (từ 1,5 trang đến 2 trang giấy thi) để làm sáng tỏ nhận định
trên
ĐỀ 2
ĐỀ 3
NHỆN VÀ NGƯỜI
Trần Duy Phiên
Tóm lược phần đầu: Chiến một con người lắm tài nhiều tật. Anh có tính cách cực đoan, bản tích lại thích
cô độc nên không ai có thể “chung nhà chung cửa” cùng anh. Trong công việc cũng nhờ tài năng của mình mà Chiến
có thể đứng ở những bộ phận rất cao, nhưng lại không thể thăng tiến. Đổi lại với anh là những chuyến đi công tác
xa nhà. Và dưới đây chính là bối cảnh sau khi anh ấy từ chuyến công tác về đến nhà mình.
Sau một chuyến đi dài ngày, Chiến về lại nhà. Tắm táp xong, anh lao vào giường nằm chờ giấc ngủ nhưng
không chợp mắt được. Bình thường, trong những trường hợp như thế, anh với tay lên đầu giường, kéo xuống một tập
gì đó và đọc. Nhưng hôm nay, những hợp đồng kinh tế, những biên bản hội họp, những báo cáo dài dằng dặc, khiến
anh chán chữ nghĩa. Mặc cho chúng nhắm mở tuỳ thích! – Anh tự nhủ. Nhưng khi nhìn lên trần mùng, mắt anh bắt
gặp một vật lạ. Cái gì thế nhỉ? Một chiếc lá khô lơ lửng giữa mùng màn trắng xoá. Anh chớp mắt. Một chiếc lá khô
từ vườn chui qua hai lớp cửa len vào mùng ta? Không bao giờ! Anh cuộn mình ngồi dậy, lần tới. Không phải lá, một
con nhện rằn to tướng với những chân dài và những khoanh bụng ánh bạc. Nhìn kĩ, nhện ta đang an nhiên toạ thị giữa
cái mạng tơ nõn mỏng manh. Đồ ngu! – Ngắm nghía một lúc, anh rủa thầm, nằm trở lại – Rõ ràng chú mày bủa lưới
săn mồi. Nhưng có gì trong cái mùng này mà săn! Chợt nhớ một bức biếm hoạ vẽ một người câu cá giữa sa mạc, anh
thích chí cười ha hả.
Tối đến, sau khi xem xong chương trình truyền hình, Chiến vào giường. Vừa ngã người nhìn lên, anh lại
bắt gặp con nhện với cái mạng tơ bùng nhùng. Vậy là chú mày dám ngang nhiên chung chạ với ta, áp tận đến nơi
nghỉ ngơi. Ngứa mắt, anh muốn bắt giết ngay con nhện. Nhưng chợt nghĩ lại, sá gì một con vật nhỏ nhoi thế kia mà
mình phải nhọc sức. Lại nữa, phải cho nó chết đói dần mòn mới xứng với cái ngu có một không hai! Đợi đấy! Số
mày đã tận, nhưng ta thề chẳng bao giờ động thủ. Anh nằm im và khởi sự chờ đợi con nhện chết. Và mỗi ngày hai
bận, anh chờ đợi như thế suốt cả tuần nay. Nhưng nhện ta vẫn ngang nhiên tồn tại.
Rồi một chuyến công tác lưu động khác, Chiến tấn kĩ bốn phía mùng, chốt chặt các cửa trước khi đi. Tuy
bận rộn nhưng mỗi khi có dịp nghỉ ngơi anh lại nghĩ tới nhện và hong hóng được thấy nó chết. Có lẽ cái ác trong anh
kích thích. Anh nôn nao trên đường về nhà. Chú mày đã trắng mắt ra chưa? Áo thay chưa kịp cài nút, anh háo hức
lao vào giường. Bắt chéo hai tay làm gối, anh hả hê căng mắt nhìn lên. Tuy có gầy đi nhưng nhện ta vẫn lì lợm sống!
Thay vào phần hao hớt, một bọc trắng tròn trịa bằng cái nắp chai lủng lẳng trước mặt. Thì ra một quý bà! Nhưng sao
đã không chết lại còn đẻ a?
Chiến quỳ thẳng người lên, muốn bứt tung màng tơ, bóp nát cái bọc trứng. Nhưng trời ạ, ngay trước mắt
anh, bên kia cái màng tơ, một lỗ thủng – chỗ hợp ba góc của mỗi vuông vải. Với đôi mắt tinh và sáng như sao, Chiến
nhận ra một đàn muỗi đang vo ve bên ngoài rồi lần lượt từng con chui qua cái lỗ ấy và dính ngay vào mạng. Đúng là
một cái bẫy – một cái bẫy rất hiệu nghiệm! Vô vàn cánh muỗi lấp lánh. Nhưng mồi đâu mà nhử? – Anh hỏi rồi nhìn
xuống người mình. Hèn gì! – Chiến giật mình.
Từ ấy, Trần Việt Chiến hết muốn làm con ngựa chiến.
Câu 1: (1.0 điểm): Xác định tình huống trong câu chuyện trên.
Câu 2: (1.0 điểm):Xác định người kể chuyện và điểm nhìn trong văn bản trên.
Câu 3 (1.0 điểm): Phân tích hiệu quả của hiện tượng đảo trật từ từ trong đoạn văn sau: Vậy là chú mày dám ngang
nhiên chung chạ với ta, áp tận đến nơi nghỉ ngơi. Ngứa mắt, anh muốn bắt giết ngay con nhện.
Câu 4 (1.0 điểm): Theo văn bản, sự thay đổi thái độ đối với tự nhiên của nhân vật Trần Việt Chiến đã diễn ra như thế
nào?
Câu 5 (1.0 điểm): Nêu nội dung bao quát của văn bản. Nhận xét về cách đặt nhan đề truyện của tác giả.
Câu 6 (1.0 điểm): Qua văn bản trên, anh/chị rút ra bài học gì về cuộc sống?
PHẦN 2: VIẾT (4.0 điểm)
Từ câu chuyện “Nhện và người” của Trần Duy Phiên đã gợi ra cho chúng ta bài học: “Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên,
bạn sẽ thấy mọi thứ rõ ràng hơn” (Albert Einstein)
Anh/chị Hãy viết một bài văn nghị luận xã hội (từ 1,5 trang đến 2 trang giấy thi) về thông điệp trên.
ĐỀ 4