You are on page 1of 42

Đề Tài: Tìm hiểu về đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện

nay. Giai cấp công


nhân Việt Nam hiện nay cần phải làm gì để trở thành người lao động chất lượng cao thích ứng với cách
mạng công nghiệp 4.0
Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam
-Theo chủ nghĩa Mác-Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ
công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải
tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện
nay.
-Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam: Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng
đã xác định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
I. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng đã xác định: “Giai cấp công nhân
Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí
óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Ra đời trước giai cấp tư sản, vào đầu thế kỷ XX, là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư ban thực dân
Pháp và bè lũ tay sai của chúng. Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm vì nó sinh ra và lớn lên ở
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
- Trong cuộc đấu tranh chống tư ban thực dân đế quốc và phong kiến để giành độc lập chủ quyền, xóa bỏ
ách bóc lột và thống trị thực dân, giai cấp công nhân đã tự thể hiện mình là lực lượng chính trị tiên
phong để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc , giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc Việt
Nam với đế quốc thực dân và phong kiến thống trị, mở đường cho sự phát triển của dân tộc trong thời
đại cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ thể hiện đặc tính cách mạng của mình ở
ý thức giai cấp và lập trường chính trị mà còn thể hiện tinh thần dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam
gắn bó mật thiết với nhân dân, với dân tộc, có truyền thống yêu nước, đoàn kết và bất khuất chống xâm
lược.
Tuy số lượng giai cấp công nhân Việt Nam khi ra đời còn ít, những đặc tính của công nhân với tư cách là
sản phẩm của đại công nghiệp chưa thật sự đầy đủ, lại sinh trường trong một xã hội nông nghiệp còn
mang nhiều tàn dư của tâm lý tiểu nông những giai cấp công nhân Việt Nam sớm được tôi luyện trong
đấu tranh cách mạng chống thực dân, đế quốc nên đã trưởng thành nhanh chóng về ý thức chính trị giai
cấp, sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tức là giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình,
nhất là từ khi mang ra đời. Lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và của Đảng cũng như
phong trào công nhân Việt Nam do Đảng lãnh đạo gắn liền với lịch sử và truyền thống đấu tranh của dân
tộc, nổi bật ở truyền thống yêu nước và đoàn kết đã cho thấy giai cấp công nhân Việt Nam trung thành
với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng Cộng sản, với lý tưởng, mục trêu cách mạng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam có tinh thần cách mạng triệt để và là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản.
-Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lợi ích của giai
cấp công nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn
liền với đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đại bộ phận công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao động khác, cùng chung lợi
ích, cùng chung nguyện vọng và khát vọng đấu tranh cho độc lập tự do để giải phóng dân tộc và phát
triển đất nước. Hướng đích tới chủ nghĩa xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ tự
nhiên, chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động trong xã hội, đặc điểm này tạo ra thuận
lợi để giai cấp công nhân xây dựng khối liên minh giai cấp với giai cấp nông dân, với đội ngũ trí thức
làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó cũng là có sở xã hội rộng lớn để thực hiện các
nhiệm vụ cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, trước đây cũng như
hiện nay.
Những đặc điểm nêu trên bắt nguồn từ lịch sử hình thành và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam với
cơ sở kinh tế - xã hội và chính trị ở đầu thế kỷ XX.
Ngày nay, nhất là trong 35 năm đổi mới đất nước, những đặc điểm đó của giai cấp công nhân đã có
những biến đổi do tác động của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và những tác động của tình hình
quốc tế và thế giới. Bản thân giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những biến đổi từ cơ cấu xã hội -
nghề nghiệp, trình độ học vấn và tay nghề bậc thợ, đến đời sống, lối sống, tâm lý, ý thức. Đội tiên phong
của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản đã có một quá trình trưởng thành, trở thành Đảng cầm quyền
duy nhất ở Việt Nam, đang nỗ lực tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, làm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ.
Những biến đổi đó thể hiện trên những nét chính sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là giai cấp đi đầu
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên và môi trường.
- Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt trong mọi thành phần
kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước là tiêu biểu, đóng vai trò nòng cốt, chủ
đạo
-Công nhân tri thức nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến và công nhân trẻ được đào tạo nghề theo
chuẩn nghề nghiệp, có học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội là
lực lượng chủ đạo trong cơ cấu giai cấp công nhân, trong lao động và phong trào công đoàn.
Trong môi trường kinh tế xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển và những thách thức nguy cơ trong
phát triển.
- Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, cùng với việc
xây dựng, phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng lãnh đạo, cầm quyền thực sự trong sạch, vững mạnh. Đó là điểm then
chốt để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
II. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định vai trò giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp
công nhân ở nước ta: “ Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn đó, giai cấp công nhân Việt Nam phát huy vai trò của một giai cấp tiên
phong, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng để giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể thuộc nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a) Nội dung kinh tế
Giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng đông đảo, có cơ cấu ngành nghề đa dạng, hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, với chất lượng ngày một nâng cao về kĩ thuật
và công nghệ sẽ là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, định
hướng xã hội chủ nghĩa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực quan trọng, quyết định tăng năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi dôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
thực hiện hài hoà lợi ích cá nhân – tập thể xã hội.
Giai cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước – đây là vấn đề nổi bật nhất đối với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền công nghiệp hiện đại, định hướng xã
hội chủ nghĩa trong một, hai thập kỷ mới, với tầm nhìn đến giữa thế kỷ XXI (2050) đó là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. .Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam phải gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tham gia vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện dại háo đất nước, giai cấp công nhân có điều kiện khách quan thuận lợi để phát triển cả chất lượng
và số lượng, làm cho những phẩm chất của giai cấp công nhân hiện đại được hình thành và phát triển đầy đủ
trong môi trường xã hội hiện đại, với phương thức lao động công nghiệp hiện đại. Đó còn là điều kiện để
giai cấp công nhân Việt Nam khắc phục những nhược điểm, hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và nguồn
gốc xã hội sinh ra ( như tâm lý tiểu nông, lối sống nông dân, thói quen, tập quán lạc hậu từ truyền thống xã
hội nông nghiệp cổ truyền…).
Thực hiện sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế gắn liền với việc phát huy vai trò của
giai cấp công nhân, của công nghiệp, thực hiện khối liên minh công- nông- trí thức để tạo ra những động lực
phát triển nông nghiệp – nông thôn và nông dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hoá, chủ
động hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ tài nguyên và moi trường sinh thái. Như vậy,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại quá là một quá trình tạo ra sự phát triển và trưởng thành không chỉ đối
với giai cấp công nhân mà còn đối với giai cấp nông dân, taọ ra nội dung mới, hình thức để nâng cao chất
lượng, hiệu quả khối liên minh công – nông – trí thức ở nước ta.
b) Nội dung chính trị - xã hội
Cùng với nhiệm vụ giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ “ Giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên “ và “ tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ‘ tự diễn biến “, “
tự chuyển hoá “ trong nội bộ là những nội dung chủ yếu, nổi bật, thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân về phương diện chính trị - xã hội. Thực hiện trọng trách đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai cấp
công nhân phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị - xã
hội quan trọng của Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, bảo vệ Dẩng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân – đó là trọng trách lịch sự thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay.
c) Nội dung văn hoá, tư tưởng
Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công
nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hoá và con người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách – đó
là nội dung trực tiếp về văn hoá tư tưởng thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết là trọng
trách lãnh đạo của Đảng. Giai cấp công nhân còn tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận
để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng của
Đảng, chống lại những quan điểm sai trái, sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định lí tưởng, mục tiêu
và con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện đước sứ mệnh lịch sử này,
giai cấp công nhân Việt Nam phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao động trẻ ở nước
ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa đế quốc, củng cố mối liên hệ mật
thiết giữa giai cấp công nhân với dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong thời đại Hồ Chí Minh.
III. Liên hệ: Để trở thành người lao động chất lượng cao thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0 ,
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay cần phải làm gì ?
Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp với các bước phát triển nhảy vọt về khoa học, công
nghệ và hiện nay đang bước vào cách mạng công nghiệp 4.0. Muốn giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
trở thành người lao động chất lượng cao thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0 thì:
-Thứ nhất, giai cấp công nhân phải có trình độ và kĩ năng lao động cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 trong khi trình độ lao động, thói quen xấu, kỉ luật lao động và khả năng làm việc
nhóm của không ít người dân Việt Nam còn ở trình độ thấp.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong Cách mạng công nghiệp 4.0, nó sẽ làm thay đổi bản chất
của công việc một cách đáng kể đối với tất cả các ngành, nghề. Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao
động đặt lên hàng đầu để thích ứng với máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại, đi kèm với đó là mức độ
chuyên môn hóa ngày càng cao, đòi hỏi khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm, ý thức kỉ
luật lao động. Trong khi chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, con
người Việt Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu như cơ hội chủ nghĩa,
bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao,... Đây là
những yếu điểm, đồng thời là những thách thức khiến chúng ta đánh mất các cơ hội do cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 đem lại, dẫn đến tụt hậu so với các nước khác.
-Thứ hai, sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới do Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại, đòi hỏi khả năng thích
ứng của con người Việt Nam.
Sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ hiện đại từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mà
tâm điểm là việc hình thành các nhà máy thông minh, nhà máy số - nơi mà máy móc, thiết bị sẽ được kết
nối, tự động ra quyết định toàn bộ hoạt động của nhà máy từ khâu thu thập, phân tích yêu cầu, xây dựng kế
hoạch sản xuất. Do đó, lao động máy móc và tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay, một mặt nó đòi hỏi
về chất lượng con người, nhưng mặt khác, nó cũng thay đổi phương thức lao động của con người, khiến
nhiều ngành nghề truyền thống sẽ mất đi, nhiều lĩnh vực lao động mới xuất hiện, thời gian xuất hiện và mất
đi có khi diễn ra rất ngắn. Điều này đòi hỏi con người phải có đủ phẩm chất và năng lực để thích nghi. Trong
khi đó, không ít người Việt Nam vừa có trình độ lao động thấp, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, sẽ khó có khả năng thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của phương thức lao động mới này.
-Thứ ba, khả năng thực hành, khả năng ngoại ngữ và khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh công
nghiệp của con người Việt Nam.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 làm cho thế giới ngày càng “phẳng” hơn, nghĩa là các quốc gia, dân tộc
xích lại gần nhau hơn, mức độ liên kết chặt chẽ hơn, do đó, đòi hỏi các cá nhân phải thông hiểu ngoại ngữ để
trao đổi, liên kết trong công việc. Bên cạnh đó, năng lực thực hành đòi hỏi hiện hữu và trực tiếp nhất đối với
người lao động, trong cuộc cách Cách mạng công nghiệp 4.0, cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước ngày
càng khốc liệt hơn, do chính nhân tố kinh tế quy định. Trong khi đó khả năng ngoại ngữ của chúng ta còn
khá thấp, công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp về cả số lượng và chất lượng. Đào tạo cao đẳng và đại học
vẫn chiếm tỉ lệ lớn, đây là nguyên nhân dẫn đến việc thừa thầy thiếu thợ. Phương thức giảng dạy vẫn còn lạc
hậu, chưa áp dụng các công nghệ hiện đại mới. Trong công tác xây dựng chương trình giảng dạy còn thiếu
các chương trình thực tế, dẫn đến thiếu cơ hội cho người học áp dụng những kiến thức được học trong nhà
trường vào các vấn đề cụ thể của xã hội. Với tâm lí bằng cấp, hầu hết người học đều lựa chọn học đại học
hoặc sau đại học mà không chú trọng đến nhu cầu nhân lực cũng như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng
thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng người lao động có bằng đại học nhưng chấp nhận làm những công
việc không cần chuyên môn kĩ thuật,...
-Thứ tư, yêu cầu về sự hoàn thiện giá trị con người Việt Nam với sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa
giữa các thế hệ do mặt trái của Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông
tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí;… mang
lại những thông tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện, dễ dàng; khả năng chia
sẻ, kết nối cao,… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngôn ngữ
tiếng lóng, ngôn từ kí hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng của tiếng Việt,... khiến mỗi cá nhân là một
không gian khép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội
và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Những rạn nứt trong cung cách ứng xử, lối sống giữa
các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp, nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa. Bạo hành gia
đình giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái; tranh giành tài sản đất đai,… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm
giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp .
Ví dụ phần liên hệ
• Quá trình công nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra nhiều đặc điểm mới cho giai cấp công
nhân.
-Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp công nhân ngày càng tiếp tục
nâng cao
- Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của giai cấp công nhân. Chế độ Xã hội chủ nghĩa đã
tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho công nghiệp hóa.
-Nhận thức mới về vai trò của kinh tế thị trường là tạo ra một không gian rộng mở hơn cho sự phát triển về
nhiều mặt của giai cấp công nhân với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia quá trình công nghiệp hóa.
•Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn.
•Thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ chức xã hội có nhiệm vụ
đào tạo cơ bản ban đầu.
•Các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân buộc có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật
kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.
Ví dụ về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
-Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay ngày càng phát triển theo hướng chất lượng cao, tăng cường kiến
thức, giao tiếp quốc tế nhằm hội nhập với giai cấp công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân Việt Nam đã ngày
càng đứng vững trước những âm mưu xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, góp phần giữ gìn, xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Ví dụ về đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: “Là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư ban thực dân
Pháp và bè lũ tay sai của chúng”, “Là lực lượng chính trị tiên phong để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc”.
VD1: Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1992
Từ năm 1858 thực dân Pháp đã xâm lược nước ta. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng
thành, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháo liên tục nổ ra đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh
thần yêu nước của toàn thể nhân dân ta.
VD2: Đầu năm 1930: Sự thành lập Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Dựa vào sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, dựa vào sức mạnh khối đoàn kết dân toàn quân ta. Cách mạng t8/1945 thành công khai
sinh ra nước việt nam dân chủ cộng hoà.
VD3: Tháng 8/1925, cuộc bãi công của thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn. Cuộc bãi công của thợ máy
Ba son đòi tăng lương 20%, phải cho những công nhân bị thải hồi được trở lại làm việc, đánh dấu bước tiến
mới của phong trào công nhân.
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu, đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khái quát
những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong giai đoạn hiện nay. Từ đó nhận thức trách nhiệm của sinh
viên góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
BÀI LÀM
I. Tính tất yếu, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
1. Tính tất yếu khách quan:
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: lịch sử xã hội đã trải qua 5
hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. So với các hình thái kinh tế - xã hội đã xuất hiện trong lịch sử, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa có sự khác biệt về chất, trong đó không có giai cấp đối kháng, con người từng bước trở thành
người tự do... Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu
phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. C. Mác khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nên chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản”. V.I. Lênin trong điều kiện nước Nga Xô viết cũng khẳng định: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất
định”.
Mong muốn có ngay một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp để thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa bất
công, tàn ác, là khát vọng chính đáng.
Khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng
phân biệt có hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản:
a. Quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước đã trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển.
b. Quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những nước chưa trải qua
chủ nghĩa tư bản phát triển.
Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen trong điều kiện mới, sau Cách mạng
Tháng Mười, V.I. Lênin khẳng định: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc
hậu có thể tiến tới chế độ xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản,
không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.”
Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời đại ngày
nay, chúng ta có thể khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công
nghiệp lần tứ tư, các nước lạc hậu, sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2. Đặc điểm:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của
nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang
tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển
trên cơ sở của chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ này là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ thuật và đời
sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Có thể khái quát
những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế: về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có
thành phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, VI.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì?
Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song
không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội
khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào?. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó” và
VI.Lênin cũng cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế gia trưởng; kinh tế hàng hóa
nhỏ; kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã hội chủ nghĩa.
o Ví dụ: Doanh nghiệp Nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh nghiệp cả
nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh nghiệp trên thị trường và 30%
GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai trò điều tiết, ổn định thị trường khi có bất ổn,
góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập
đoàn Dệt may Việt Nam... đang phát triển lớn mạnh không chỉ ở Việt Nam mà đã vươn ra thế giới.
- Trên lĩnh vực chính trị: là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản mà thực chất của nó là việc
giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một
xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân để bảo vệ giai cấp mới và
chuyên chính những thế lực thù địch chống lại nhân dân ; là tiếp tục cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản mà trong đó giai cấp vô sản toàn thắng còn giai cấp tư sản thất bại nhưng chưa hoàn
toàn. Giai cấp công nhân lên nắm quyền, cơ bản là hoà bình tổ chức xây dựng đất nước.
o Ví dụ: Hiện nay, tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta
có khoảng 24,5 triệu người, trong đó công nhân, lao động trong các doanh nghiệp chiếm khoảng 60%,
chiếm tỉ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực lượng lao động xã hội. Trình độ học vấn và trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri
thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến đã tăng lên. Hình thành lớp công nhân trẻ có trình độ
học vấn, văn hóa, được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất
hiện đại, phương pháp làm việc ngày càng tiên tiến.
- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư
sản. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn
hóa vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
o Ví dụ: Thành tựu xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã được thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ hộ đói,
nghèo đã giảm liên tục từ 30% năm 1992 xuống còn 8,3% năm 2004. Đến năm 2000, cơ bản xóa xong
tình trạng đói kinh niên. Giai đoạn 2010-2020, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống
còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3%
năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
- Trên lĩnh vực xã hội: còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa giai cấp và tầng lớp xã hội
tầng, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn
tại sự khác biệt giữa nông thôn, thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bởi vậy, thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp
bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên
cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
o Ví dụ: Ở Việt Nam nhờ áp dụng các chính sách tuyên truyền khuyên ngănvaf phòng chống tệ nạn xã
hội mà nhiều địa phương đã giảm về phạm vi, quy mô, xóa được nhiều tụ điểm tệ nạn xã hội phức tạp,
hạn chế được các hoạt động tệ nạn trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, giảm các đường dây,
các vụ có quy mô lớn, kịp thời xử lý, không để hình thành các tụ điểm nóng, giảm số xã, phường trọng
điểm về tệ nạn mại dâm, ma túy, cờ bạc v.v..
II. Thực tiễn thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên
chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930,
trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa". Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã
bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm
vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục
khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI
của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".
- Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự
nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất
nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế
độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế
chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị
văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là mỗi chính sách kinh tế đều phải
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc
những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để
đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Việc cần thực hiện:
- Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn
nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng
trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
- Chúng ta phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động để tiếp thu,
bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng
và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh
lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
III. Khái quát những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được hiện nay trong giai đoạn hiện nay:
1. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh.
- Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. GDP bình quân đã tăng
gấp đôi, đạt 8,2%/năm;Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích lũy-tiêu dùng, tiết kiệm-đầu tư, năng
lượng, lương thực, lao động-việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng
kinh tế vĩ mô.
- Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ
đồng.
- Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm
các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới DỊCH COVID-19 đã làm cho hoạt động thương mại và
đầu tư thế giới suy giảm, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1%
so với năm 2019.
- Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế
vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế..Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều
có bước phát triển mạnh mẽ.
2. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
- Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng
lên, số hộ nghèo giảm, Số dân lao động có việc làm ngày càng tăng cao
- Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên.
- Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền
làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập,......
- Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng, phong trào xóa
đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng.
3. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
- Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều
kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
- Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới,
- Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn.
- Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân được củng cố.
- Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.
4. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
- Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng
bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội;
- Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động,
đạt hiệu quả thiết thực hơn.
5. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời
sống cộng đồng quốc tế.
- Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với nhiều nước; phát triển quan hệ với
các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; từng bước đổi mới quan hệ với
Liên bang Nga….
- Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong
trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm
quyền ở một số nước.
- Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước.
- Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hòa bình, phá thế bị bao
vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
6. Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao.
- 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.
- Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt
Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-
Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc…
- Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại
dịch COVID-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ… song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba
trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
- Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu
quả, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng. Đây chính là
tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, niềm tin vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước
trong tương lai.
IV. Nhận thức trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước
ta:
Với vai trò là những đoàn viên, thanh niên – “người chủ tương lai của nước nhà” cần phải ra sức học
tập, rèn luyện đạo đức, cùng nhau đoàn kết, kiên trì đổi mới, tiếp bước vực dậy để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Đầu tiên, sinh viên cần phải nhận thức rõ và khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn và con đường quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Hai là, cần phải hiểu rõ hơn về bối cảnh, cách thức Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ba là, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị.
- Bốn là, thanh niên phải là lực lượng xung kích, thông qua những hành động cụ thể kiên quyết bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng.
- Năm là, lớp sinh viên Việt Nam phải đoàn kết chặt chẽ, ra sức học tập, rèn luyện.
- Sáu là, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ.
- Bảy là, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội;
biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá – đạo đức
truyền thống của dân tộc.
- Tám là, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ, phát
triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội.
- Đặc biệt, ở mỗi sinh viên hiện nay cần trang bị cho bản thân mình năng lực bản lĩnh, kiến thức, trình độ
ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời
phải hiểu biết tình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới.
Bác đã từng nói: “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy
bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”. Thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, do
đó, cần ra sức rèn đức luyện tài, cố gắng phấn đấu và học tập, tu dưỡng đạo đức, tiên phong trong công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Chúng ta tin rằng với lòng nhiệt huyết cùng với ý chí, khát vọng
cống hiến cho đời, thế hệ thanh niên Việt Nam sẽ xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh
phúc.

ĐỀTÀI: Tìm hiểu về cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Thực tiễn cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Nhận thức về trách nhiệm của sinh viên góp phần củng cố khối liên minh giai cấp, tầng lớp và
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
I. Tìm hiểu về cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1.1 Khái niệm và vị trí cơ cấu xã hội- giai cấp trong cơ cấu xã hội
a. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp
+Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau
của các cộng đồng đó tạo nên. Là cơ sở cho sự phát triển các mối quan hệ xã hội và tồn tại các quan hệ xã
hội. Phân loại cơ cấu xã hội:

 Cơ cấu xã hội- giai cấp (cơ sở nghiên cứu liên minh)


 Cơ cấu xã hội-dân số
 Cơ cấu xã hội-dân tộc
 Cơ cấu xã hội-tôn giáo
 Cơ cấu xã hội-nghề nghiệp

+Cơ cấu xã hội-giai cấp: là tổng thể các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan trong một chế độ xã hội
nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất về tổ chức quản lí quá trình sản xuất, về
địa vị chính trị xã hội...giữa các giai cấp tầng lớp đó.
b. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội – giai cấp có vị trí quan trọng chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Sự chi phối của
xã hội – giai cấp

 Cơ cấu xã hội giai cấp tồn tại nhằm bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
 Cơ cấu xã hội giai cấp quy định tính chất và bản chất của các quan hệ của xã hội.
 Cơ cấu xã hội giai cấp còn liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị
 Cơ cấu xã hội giai cấp còn là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau giữa xã hội này với xã hội khác.
=> Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ảnh hưởng đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội. Vì
vậy, việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể
phải dựa vào cơ cấu xã hội - giai cấp
1.2 Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kì quá độ lên CNXH
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tất yếu ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ cấu xã hội khác và tác
động đến toàn bộ cơ cấu xã hội; sự biến đổi của nó tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội → cơ cấu
xã hội - giai cấp là căn cứ để xây dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi giai đoạn. Cơ
cấu xã hội- giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên biến đổi mang tính quy luật sau:
+ Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế.
 Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn đến cơ cấu XH giai cấp đa dạng và phức tạp.
Ví dụ: Trước đây nền kinh tế chưa phát triển, các phương tiện giao thông còn hạn chế; ngày nay nền
kinh tế phát triển, các loại hình giao thông đa dạng và phổ biến rộng rãi. Hoặc là hiện nay có nhiều
loại hình dịch vụ mới ở nước ta như: chứng khoán, nhà đất, bảo hiểm, tư vấn du học, tư vấn tâm lí…
 Nền KT phát triển mạnh với tính cạnh tranh cao cùng xu thế hội nhập sâu rộng khiến các giai cấp,
tầng lớp năng động và có khả năng thích ứng nhanh, chủ động sáng tạo hơn.
Ví dụ: Lĩnh vực chăn nuôi đã có sự chuyển biến rõ nét về tổ chức sản xuất, chăn nuôi trang trại, tập
trung theo chuỗi khép kín, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao; nhiều mô hình chăn
nuôi hữu cơ đã hình thành và đang được phổ biến, nhân rộng. Công nghệ chế biến thủy sản ngày
càng được đầu tư hiện đại để đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế.
+Cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, xuất hiện tầng lớp xã hội mới. Ngoài giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, giai cấp tư sản, đã xuất hiện về sự tồn tại phát triển các tầng lớp
xã hội mới như: tầng lớp doanh nhân, tiểu chủ, tầng lớp những người giàu có và trung lưu trong xã hội... =>
Do cơ cấu kinh tế của thời kì quá độ có nhiều sự biến đổi.
+Cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh vừa liên minh, từng bước xóa bỏ bất
bình đẳng xã hội dẫn đến xích lại gần nhau.

 Về mặt nhận thức, trình độ: rút ngắn khoảng cách nhận thức của các giai cấp về dân trí và tri thức
Ví dụ: Nông dân hiện nay biết áp dụng khoa học công nghệ tốt đáp ứng được tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Thành quả của nhận thức khoa học công nghệ vào sản xuất.
 Về mặt thu nhập, kinh tế, điều kiện làm việc: rút ngắn khoảng cách về thu nhập

Ví dụ: Công nhân với nông dân khoảng cách thu nhập không quá xa. Nhiều đội ngũ tri thức về quê hương
tạo ra những cây giống, sản phẩm mới cho quê hương.

 Về mặt tiêu dùng và hưởng thụ:

Ví dụ: Mặt tiêu dùng tùy theo nhu cầu sử dụng mà có những sản phẩm mới ra đời như: Laptop, Điện thoại
thông minh
Ví dụ: Mặt hưởng thụ nông dân có thể đi xem những trận đá bóng của đội tuyển quốc gia trên sân vận động
Mỹ Đình.
2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu của liên minh giai
cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

+Khái niệm liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp: Liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và Đội
ngũ tri thức là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong một chỉnh thể thống nhất,
nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển. Mỗi thành tố có vị trí, vai trò đặc thù do bản chất, vai trò của mỗi giai cấp
và tầng lớp trong cách mạng và xã hội quy định. Sức mạnh và chất lượng của khối liên minh phụ thuộc vào
chất lượng của từng thành. => tất cả đều vì một lợi ích chung
Dưới góc độ kinh tế
+Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội liên minh này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan
của quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa → Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển khi gắn bó chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau → Hình thành khối liên minh này xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích của họ.
+ Liên minh công – nông – trí xuất phát từ tính tất yếu về kinh tế - kỹ thuật, là sự gắn kết hữu cơ giữa công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ với khoa học.
Dưới góc độ chính trị
+ Tổng kết phong trào đấu tranh của công nhân Châu Âu, Mác và Ăngghen xây dựng nên lý luận về liên
minh công – nông và các tầng lớp lao động khác
+ Trong đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, giai cấp công nhân phải liên minh với
các giai cấp lao động khác để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho thắng lợi của cách mạng.
+ Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị - xã hội to lớn → Làm tốt liên minh xây
dựng cơ sở kinh tế, chế độ chính trị ngày càng được củng cố.
=> Thực hiện các mối quan hệ công nghiệp-nông nghiệp-khoa học công nghệ, dịch vụ; thành thị với nông
thôn…nhằm xây dựng Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
II. Thực tiễn cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

-Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang tính đặc thù của xã hội
Việt Nam.
+Tính qui luật phổ biến: Vận động, biến đổi theo quy luật và bị chi phối bởi những biến động kinh tế
+Tính đặc thù của xã hội: Cơ cấu xã hội giai cấp đa dạng thay cho cơ cấu xã hội giai cấp đơn giản.
Ví dụ Cơ cấu xã hội giai cấp đa dạng như giai cấp công nhân hiện nay đã có sự phân tầng, phân mức,
có những người thu nhập rất cao có người thu nhập trung bình, có người thu nhập thấp. Còn cơ cấu
xã hội giai cấp đơn giản trước kia thì mức sống của công nhân không có nhiều sự chênh lệch, mức
sống chỉ ngang nhau
=> Sự biến đổi này đã tác động đến nền kinh tế làm cho đất nước trở nên năng động hơn, đa dạng hơn và
động lực hơn góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội
-Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội ngày càng
được khẳng định bao gồm
+ Giai cấp công nhân Việt Nam: là giai cấp có vai trò quan trọng đặt biệt, là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vị trí
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước Giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng và
khẳng định, phát huy vai trò, địa vị của mình trong phát triển kinh tế- xã hội.
Ví dụ Hiện nay, tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta
có khoảng 24,5 triệu người, trong đó công nhân, lao động trong các doanh nghiệp chiếm khoảng
60%, chiếm tỷ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực lượng lao động xã hội.
+ Giai cấp nông dân có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là cơ
sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; là chủ thể của
quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển
đô thị theo quy hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp…
Ví dụ ÔngCao Phát Triển sáng chế ra Hệ thống phun thuốc và tưới tự động điều khiển bằng điện thoại
Ông Nguyễn Hồng Chương sáng chế ra Máy rửa, phân loại, lau khô nước và đánh bóng trên trái cà chua
Ông Nguyễn Cao Thượng sáng chế ra Máy phun thuốc trừ sâu kết hợp sạ lúa
+ Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là lực lượng trong khối liên minh. Xây dựng đội ngũ trí thức vững
mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Ðảng. Xây dựng đội ngũ tri thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ dân tộc, sức mạnh của đất nước,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị.
Ví dụ Lực lượng trí thức trẻ ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số đội ngũ trí thức cả nước. Tính
đến năm 2013, Việt Nam có 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 24.300 tiến
sĩ, 101 nghìn thạc sĩ; độ tuổi bình quân là 38,5. Tuy nhiên, hơn 60% tiến sĩ đã ở độ tuổi trên 50; trên 21% ở
độ tuổi 40-49; độ tuổi 30-39 là 16% và 2,8% là độ tuổi 20-29. Tỷ lệ nữ có trình độ đại học trên toàn quốc
chiếm 36,24%; thạc sĩ: 33,95%, tiến sĩ: 25,69%. Từ 1980 tới 2016, sau 25 đợt xét, cả nước hiện có 10.774
GS, PGS trong đó có 1.715 GS và 9.059 PGS. Độ tuổi trung bình của GS là 57,13; của PGS là 50,88. Tỷ lệ
GS, PGS là nam chiếm đa số tới 83,5%, nữ giới chiếm 16,5%.
+ Đội ngũ doanh nhân đang phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô. Đây là tầng lớp xã hội đặc biệt
được Đảng ta chủ trương xây dựng thành một đội ngũ vững mạnh từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau, có
năng lực, trình độ, phẩm chất, uy tín cao cùng góp phần tích cực vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động
và tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
Ví dụ Ông Phạm Nhật Vượng - Chủ tịch Tập đoàn Vingroup
Ông Đoàn Nguyên Đức - Chủ tịch Hoàng Anh Gia Lai
Bà Nguyễn Thị Phương Thảo – Tổng giám đốc hãng hàng không Vietjet
+Phụ nữ là một lực lượng quan trọng và đông đảo những người lao động tạo dựng nền xã hội và đóng góp
phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Phụ nữ thể hiện vai trò quan trọng của mình trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và trong gia đình. Ở bất cứ thời đại nào, quốc gia, dân tộc nào, phụ nữ cũng phấn
đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức vươn lên đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, duy trì ảnh
hưởng của mình trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ví dụ Hai Bà Trưng là Nữ vương đầu tiên trong lịch sử
Bà Sương Nguyệt Ánh là Nữ Tổng biên tập đầu tiên
Bà Nguyễn Thị Chiên là Nữ Anh hùng đầu tiên của quân đội hiện đại
+ Đội ngũ thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm
cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối
sống văn hóa, ý thức công dân cho thanh niên, nhất là học sinh, sinh viên để hình thành thế hệ thanh niên có
phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, có trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ví dụ Vũ Văn Bình, gương mặt trẻ tiêu biểu trong lĩnh vực Lao động- sản xuất đang công tác tại Tập đoàn
Công nghiệp viễn thông Quân đội đã có thành tích nghiên cứu lựa chọn thành công công nghệ cung cấp
Internet băng rộng giúp Tập đoàn xây dựng một dịch vụ có chất lượng tốt, tạo ra ưu thế cạnh tranh lớn, trở
thành nền tảng chính cung cấp dịch vụ Internet cho Tập đoàn.
2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1 Nội dung liên minh giai cấp
-Nội dung kinh tế của liên minh
+ thứ nhất Nội dung kinh tế xuyên suốt của thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là thực hiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ
nghĩa -> Tăng cường sự hợp tác trong khối liên minh và các lực lượng khác để xây dựng nền kinh tế hiện
đại.
Ví dụ: Để minh chứng cho điều này thì có thể kể đến Grab – đơn vị đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự
trong ngành vận tải ở quy mô thế giới và Việt Nam về sự thuận tiện, chi phí thấp. Với cách thức đặt xe hiện
đại, 100% việc quản lý các cuốc xe được thực hiện qua phần mềm có thể hỗ trợ tài xế và hành khách mọi lúc
mọi nơi. Điều này góp phần giải quyết nhu cầu di chuyển nhanh, an toàn và văn minh. Nhờ đó, Grab đã trở
thành một trong những đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải công nghệ hàng đầu trên thế giới, dần thay thế vị trí
của các hãng taxi truyền thống.
+ thứ 2 Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội,
trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm
bảo lợi ích của các bên và tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí. Xác định đúng cơ cấu kinh tế của cả
nước, của ngành, địa phương, cơ sở sản xuất… từ đó́ , các địa phương, cơ sở, vận dụng linh hoạt và phù hợp
vào địa phương mình, ngành mình để xác định cơ cấu kinh tế cho đúng.
Ví dụ: Hiện nay ở nước ta có nhiều chương trình dự án được thực rất tốt và thành công, mục đích cuối cùng
là đều nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận
nhỏ các cán bộ suy thoái đạo đức, tệ nạn tham ô tham nhũng... dẫn tới đầu tư một cách lãng phí không trọng
tâm trọng điểm
+ thứ 3 Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp - nông nghiệp - khoa học
và công nghệ - dịch vụ…; giữa các ngành kinh tế; các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế; giữa trong nước
và quốc tế… để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn
xã hội
Ví dụ: Liên kết giữa ngành Công nghệ Thông tin với các địa phương, các trường học, các cơ quan... nối
mạng Internet về nông thôn; Liên kết giữa ngành Bưu chính Viễn thông với các địa phương phát triển hệ
thống các Nhà Bưu điện văn hóa xã, mà đến nay đã có hàng vạn đơn vị đi vào vận hành có hiệu quả...
-Nội dung chính trị của liên minh
+ thứ 1 Giữ lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đối với khối liên minh, đối với toàn bộ xã hội để xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị,
kiên định mục tiêu con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ví dụ: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng, phát huy vai trò của
giai cấp công nhân trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn 90 năm ra định hướng lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại và phát triển,
Đảng ta đã phấn đấu cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, không ngừng đấu tranh giành từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, đưa sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc và nhân dân ta tiến lên, tiếp tục
công cuộc đổi mới toàn diện xây dựng và phát triển đất nước ta giàu mạnh, văn minh, hiện đại, nhân dân ta
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
+ thứ 2 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm bảo
các lợi ích chính trị, các quyền dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ, quyền con người của công nhân,
nông dân, trí thức và của nhân dân lao động, từ đó từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ví dụ: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược
trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển chính trị. Việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của
sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
+thứ 3 Động viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu chấp hành đường lối chính trị của Đảng;
pháp luật và chính sách của nhà nước; sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch và phản động.
-Nội dung văn hóa xã hội của liên minh
+thứ 1 Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội
Ví dụ: Đảng ta ngoài việc tiếp tục khẳng định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế phải gắn với nâng cao chất
lượng sống của nhân dân, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cản bổ sung thêm nhiệm
vụ bảo vệ môi trường trong quá trình giải quyết mối quan hệ này: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
+ thứ 2 Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu những tinh hoa, giá trị văn hóa của
nhân loại và thời đại.
Ví dụ: Cả nước hiện có 127 bảo tàng; có hơn 4 vạn di tích đã được kiểm kê; 11 di sản được UNESCO vinh
danh là di sản thế giới (trong đó có 6 di sản văn hoá vật thể và 5 di sản văn hoá phi vật thể).
Lĩnh vực văn hoá các dân tộc thiểu số, văn học nghệ thuật, giao lưu và hợp tác văn hóa quốc tế, xây dựng
thể chế văn hóa, các lĩnh vực gắn bó mật thiết với văn hóa như giáo dục, khoa học, công nghệ, thông tin đại
chúng... đều đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những
giá trị tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu.
+thứ 3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện xoá đói giảm nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã
hội đối với công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân; chăm sóc sức khoẻ và nâng cao chất
lượng sống cho nhân dân; nâng cao dân trí, thực hiện tốt an sinh xã hội
Ví dụ: Thực hiện các chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy, những các cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các sở ban, ngành trong toàn tỉnh đã xác định đây là nhiệm vụ trọng
tâm nên đã tích cực vận động các tầng lớp nhân dân tham gia với quyết tâm vươn lên thoát nghèo, góp phần
hồn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững đã đề ra. Từ đó, các cấp, ngành đã chú trọng tập trung phát triển
sản xuất, ngành nghề, chuyển giao khoa học, công nghệ, hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, vay vốn, xuất khẩu
lao động. Ưu tiên đầu tư nguồn lực cho công tác giảm nghèo ở các xã còn khó khan chỉ đạo, hướng dẫn, tổ
chức tập huấn về nông - lâm - ngư nghiệp, ngành nghề nhằm tạo sinh kế ổn định, bền vững cho người nghèo
2.2 Phương hướng cơ bản XD cơ cấu XH-GC và tăng cường liên minh giai cấp, tầng lớp
- Đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy biến đoi cơ cấu xã hội - giai cấp
theo hướng tích cực
- Xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội tổng thể nhằm tác động tạo sự biến đổi tích cực cơ cấu
xã hội, nhất là các chính sách liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp
- Tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất giữa các lực lượng trong khối liên minh và
toàn xã hội.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của các chủ thể trong khối liên minh
- Đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tăng cường khối liên minh và
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
III. Nhận thức về trách nhiệm của sinh viên góp phần củng cố khối liên minh giai cấp, tầng lớp và
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

-Nhận thức được nội dung của liên minh diễn ra toàn diện => Mỗi sinh viên phải chủ động, tích cực học tập,
nghiên cứu để làm tốt nội dung văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế của liên minh bằng các hoạt động cụ thể
như hoạt động tình nguyện hè, thực tập, thiện nguyện, cứu trợ… đến các vùng khó khăn, nông thôn để hỗ
trợ, giúp đỡ, xóa đói giảm nghèo đối với nông dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, nâng cao đời sống…
-Mỗi sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của khối liên minh ở Việt Nam, nhờ khối liên minh Công -
Nông - Trí giải phóng dân tộc, hiện nay khối liên minh này là Nhà nước pháp quyền XHCN và của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc… Qua đó, mỗi sinh viên phải kiên quyết đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch và phản động phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc…
-Trong nội dung của liên minh, nội dung kinh tế có vai trò quan trọng nhất nên mỗi sinh viên phải chủ động
và có khát vọng làm giàu, trực tiếp tham gia phong trào khởi nghiệp trong sinh viên phải xác định học đại
học không phải là để đi xin việc làm mà là để tạo việc làm, học để trở thành ông chủ… tạo công ăn việc làm;
góp phần làm giàu quê hương đất nước.
-Bản thân ta là một sinh viên thì phải có trách nhiệm sáng suốt trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản
thân sa lầy vào những hội phản động, lôi kéo lối sống thực dụng. Sống chính trực, trung thực, dám đứng lên
làm chứng, bảo vệ cho những điều đúng đắn, bảo vệ đường lối chính sách, quan niệm của Đảng Cộng Sản.
Là một sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, bản thân nhận thấy rằng phải có
một trách nhiệm và nghĩa vụ to lớn lớn để góp phần củng cố khối liên minh giai cấp, tầng lớp và xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân qua những hành động sau:
- Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, kỹ năng là quyền lợi
và cũng là trách nhiệm của thanh niên với đất nước
- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng đến quá trình
đi lên của nền kinh tế đất nước.
- Đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng các thành tựu của KH-CN hiện đại, những thành tựu mới của
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong tất cả các ngành, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ…làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế thống nhất.
- Nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Phát huy vai trò
của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Có thể thấy việc sinh viên có trách nhiệm trong việc củng cố và góp phần khối đại đoàn kết dân
tộc là việc ý nghĩa hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Đây cũng được coi là tư
tưởng cơ bản trong việc chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, hình thành sức mạnh vững chắc.
ĐỀ TÀI: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.Thực tiễn xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhận thức trách nhiệm của sinh
viên trong góp phần xây dựng chế độ dân chủ ở nước ta hiện nay.
I. Khái niệm về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
- Dân chủ được hiểu là quyền lực thuộc về nhân dân.
- Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: dân chủ là sản phẩm và là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho
những giá trị tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, là một trong
những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Tóm lại: Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính
trị gắn với các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình
ra đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa: Là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở
đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống
nhất biện chứng được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản.
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Dân chủ: Từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra những
quan niệm cơ bản về dân chủ như sau:
+ Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là
quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh giữa những giá trị nhân văn là kết quả của cuộc đấu tranh
lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất công.
+ Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm
quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp” và “dân chủ chung chung”.
+ Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và cộng
đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp
luật và cụm từ khi xã hội có giai cấp, dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới - hình thức nhà nước với
tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.
Bước chuyển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội chiếm hữu nô lệ đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng
của dân chủ. Từ đây dân chủ được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, bằng pháp luật của giai cấp thống trị
chủ nô và được thực hiện chủ yếu bằng cưỡng chế. Nền dân chủ hay chế độ dân chủ đầu tiên trong lịch sử
của xã hội có giai cấp xuất hiện.
V.I.Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước.
Cho nên, cũng như mọi nhà nước chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức có hệ thống cực sự cưỡng bức
đối với người ta”. Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản
chất giai cấp của giai cấp thống trị.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa
+ Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Tất yếu xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay
còn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được khôi phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và công xã Paris năm
1871, tuy nhiên chỉ đến khi cách mạng tháng mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới năm 1917, nên dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập.
+ Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Bản chất chính trị:Đều thực hiện quyền lực của nhân dân,thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền
làm con người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
Ví dụ:
 Thực hiện quyền làm chủ của công dân đối với tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó làm chủ quá trình quản
lí sản xuất và phân phối sản phẩm.
 Biểu hiện của quyền làm chủ về kinh tế ở nước ta hiện nay là chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Mọi công dân cũng như các thành phần kinh tế đều bình đảng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp
luật, làm chủ trực tiếp quá trình sản xuất, kinh doanh, phân phối sản phẩm của mình và làm nghĩa vụ đối
với đất nước.
 Quyền dân chủ của công dân có nghĩa là công dân vừa được hưởng quyền và vừa phải làm tròn nghĩa
vụ đối với nhà nước và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn
có nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật,…
Bản chất kinh tế: khác với nền dân chủ tư sản bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là
chủ yếu.
Ví dụ:
 Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của Nhà nước và
địa phương.
 Quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
 Ngoài ra dân chủ trong chính trị còn được thể hiện ở quyền giám sát các hoạt động của các cơ quan
nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo,.. của công dân.
Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội: Nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới.Đồng thời nó
kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa, văn
minh, tiến bộ xã hội ... Mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...
Ví dụ: Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa.
 Quyền được sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật.
 Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa còn thể hiện ở việc giải phóng con người khỏi những thiên kiến lạc
hậu, loại bỏ mọi sự áp bức về tinh thần và đưa văn hóa đến cho mọi người.
 Quyền được hưởng an toàn xã hội và bảo hiểm xã hội.
 Quyền được bảo đảm vệ mặt vật chất và tinh thần khi không có khả năng lao động.
 Quyền bình đảng về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống hiến và hưởng thụ của các thành viên trong xã
hội.
Với những bản chất nêu trên, Dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được thực hiện bằng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là đảm bảo vai trò lãnh đạo
duy nhất của đảng Cộng sản .
III. Thực tiễn xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Khái quát nền dân chủ ở Việt Nam
Chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta được sác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đến năm 1967, tên
nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng trong các văn kiện Đảng hầu như chưa sử
dụng cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà thường nêu quan điểm “xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa” gắn với “nắm vững chuyên chính vô sản”.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó nhấn mạng phát huy
dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước. Đại hội khẳng định “ trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”; bài học “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” bao giờ cũng quan trọng. Thực tiễn cách mạng chứng minh rằng: ở đâu, nhân dân lao động có ý thức
làm chủ và được làm chủ thật sự, thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng”.
Trước hết, Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng cùa chù nghĩa xã hội Việt Nam là do nhân dân
làm chủ. Dân chủ đã được đưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bạn chất của chế độ ta, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm...”
Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là dựa vào Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân
dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã hội với tư cách công dân, tư cách của người
làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân là tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân làm
chủ.
Dân chủ gắn liền với kỷ cương và phải thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm,... Nội dung này
được hiểu:
+Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh )
+Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ( do nhân dân làm chủ, quyền lực thuộc về nhân dân )
+Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội ( phát huy sức mạnh của nhân dân, của toàn dân tộc )
+Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương )
+Dân chủ phải được thực hiện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội về
kĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội )
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và
dân chủ trực tiếp:
 Hình thức dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, được thực hiện do nhân dân “ủy quyền”,
giao quyền lực của mình cho tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ cho nhân
dân.
Ví dụ: Các Đại biểu quốc hội là người đại diện cho các nhân dân, được sự ủy thác của nhân dân, thay
mặt cho nhân dân tham gia để xây dựng các luật lệ để quản lí xã hội.
 Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức thông qua đó, nhân dân bằng hành động trực tiếp của mình
thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội.
Ví dụ: tham gia bầu cử của nhân dân các cấp.
Các quy chế dân chủ từ cơ sở đến Trung ương và trong các tổ chức chính trị - xã hội đề thực hiện theo
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
IV. Để góp phần xây dựng chế độ dân chủ ở nước ta hiện nay, nhận thức trách nhiệm của sinh viên là:
- Nhận thức được sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình, là sự khác biệt về
bản chất so với các nền dân chủ khác, muốn có nền dân chủ đó phải trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, sự
hy sinh của quần chúng nhân dân.
- Mỗi sinh viên phải nghiên cứu, chọn lựa, tích cực tham gia đóng góp công việc của nhà nước, bầu được
các đại biểu khi nhà nước trưng cầu dân ý, xin ý kiến về các luật,..
- Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của mình trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của các thế hệ thanh niên.
- Sinh viên phải là lực lượng xung kích, thông qua những hành động cụ thể kiên quyết bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng.
- Mỗi sinh viên cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ tỉnh táo để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn và những
hành động chống phá của các thế lực thù địch trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống.
- Phê phán các quan điểm phản động như Những hành động xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách,
chống phá sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đều ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, sự phát triển kinh tế
và đời sống đang tiếp tục ấm no, hạnh phúc và dần tốt đẹp hơn của Nhân dân. Vì vậy, đấu tranh chống các
quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho chúng ta hôm nay và mai sau.
- Sinh viên cần nhận thức đúng, hành động đúng đối với sự cần thiết phải học lý luận chính trị, tu dưỡng đạo
đức cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng. Sinh viên cần nhận thức rằng không ai khác, chính mình là
những chủ nhân tương lai của đất nước, đất nước đang trông chờ rất nhiều ở việc học tập và rèn luyện của
sinh viên. Việc học tập các môn chuyên ngành là điều cần thiết, song nếu chỉ có kiến thức chuyên ngành
sinh viên sẽ bị lạc hậu về mặt lý luận, vì vậy việc học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giúp sinh viên nắm bắt được những kiến thức cơ bản, kết hợp với việc liên hệ thực tiễn, từ đó có tư
duy độc lập, đúng đắn, hành động phù hợp trong cuộc sống. Qua đó sinh viên có được phương pháp tiếp
cận, nắm bắt thông tin, kiến thức một cách hiệu quả nhất. Học lý luận chính trị là học phương pháp luận tiên
tiến, là trang bị nền tảng tư tưởng cách mạng, tư duy đúng về thế giới, biết hành động có ích cho xã hội. -
+Sinh viên cần tự giác chăm chỉ học tập, nghiên cứu sáng tạo, có mục đích, động cơ học tập đúng đắn , rèn
luyện bản thân của sinh viên để góp phần nâng cao trình độ mọi mặt để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới để hội nhập và phát triển đất nước.
+ Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội( cờ bạc,
nghiện ma tuý, nghiện rượu, đua xe trái phép); biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực
dụng, xa rời các giá trị văn hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc. +tích cực tham gia góp phần xây dựng
quê hương bằng những việc làm thiết thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phòng
chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên + Có trách nhiệm
giám sát các hoạt động của cơ quan Nhà nước, phát hiện và dũng cảm tố giác các hành vi vi phạm pháp luật,
tham ô, tham nhũng. Tìm hiểu và chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước, nhất là pháp luật về tư tưởng chính
trị. + Tham gia đăng kí tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên đường làm
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. +Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. +Chấp hành nghiêm những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nội quy, kỷ luật của nhà
trường. Sinh viên nên tích cực tham gia các phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp thanh niên Việt Nam, phong trào bảo vệ an ninh trật tự trong trường học và nơi cư trú.. + Sinh
viên có khát vọng, ý chí vươn lên, đoàn kết, chia sẻ, tương thân, tương ái, vì cộng đồng và lợi ích quốc gia;
tham gia xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa
.ĐỀ TÀI: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc. Liên hệ với quan điểm
của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Nhận thức trách nhiệm của sinh
viên trong phòng, chống âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.

1) Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc.

a. Khái niệm dân tộc

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người,
trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi
của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.

Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập thay thế
phương thức sản xuất phong kiến. Ở phương Đông, dân tộc được hình thành trên cơ sở một nền văn hóa,
một tâm lý dân tộc đã phát triển tương đối chín muổi và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức
độ nhất định, song nhìn chung còn kém phát triển và ở trạng thái phân tán. Dân tộc được hiểu theo hai
nghĩa rộng và nghĩa hẹp:

Theo nghĩa rộng, dân tộc (Nation) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình. gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền
thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái
niệm dân tộc dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước. Ví dụ, dân tộc Ấn Độ,
dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam, v.v..

Theo nghĩa hẹp, dân tộc (Ethnie) là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng tộc người được hình thành
trong lịch sử, có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngôn ngữ và văn
hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người
của các cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận hay thành phần của quốc gia. Chẳng hạn,
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54 cộng đồng tộc người. Sự khác nhau giữa các cộng đồng tộc
người ấy biểu hiện chủ yếu ở đặc trưng văn hóa, lối sống, tâm lý, ý thức tộc người.

Thực chất, hai cách hiểu trên về khái niệm dân tộc tuy không đồng nhất nhưng lại gắn bó mật thiết với
nhau, không tách rời nhau. Dân tộc quốc gia bao hàm dân tộc tộc người; dân tộc tộc người là bộ phận
hình thành dân tộc quốc gia. Dân tộc tộc người ra đời trong những quốc gia nhất định và thông thường
những nhân tố hình thành dân tộc tộc người không tách rời với những nhân tố hình thành quốc gia. Đó là
lý do khi nói đến dân tộc Việt Nam thì không thể bỏ qua 54 cộng đồng tộc người, trái lại, khi nói đến 54
cộng đồng tộc người ở Việt Nam phải gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam.

b) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp; kết hợp phân tích hai
xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới
và thực tiễn cách mạng Nga trong việc giải quyết vấn đề dân tộc những năm đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh dân
tộc của V.I. Lênin đã khái quát: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên
hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”.

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt
dân tộc lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang
nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế,
chính trị, văn hóa.

Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc
lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ
sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn là phải được thực hiện trên thực tế. Để thực hiện được quyền bình đẳng
dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc;
phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan
hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.

Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của
dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.

Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời có
quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.

Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải xuất phát từ thực tiễn - cụ thể và phải đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai
cấp công nhân. V.I. Lênin đặc biệt chú trọng quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức, các dân tộc phụ
thuộc.

Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các tộc người thiểu số trong một quốc gia đa
tộc người, nhất là việc phân lập thành quốc gia độc lập. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động, thù địch lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc
nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi ly khai dân tộc.
Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất
giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.

Đoàn kết, liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao
động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu, vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của
Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể.

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các Đảng Cộng sản vận
dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

* Liên hệ với quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

* Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam:

Thứ nhất: Có thể thấy Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc. Đại gia đình dân tộc Việt Nam thống nhất
hiện có 54 dân tộc anh em, dân số giữa các dân tộc không đều nhau. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, còn
lại là dân tộc ít người phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn
người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100
ngàn người, 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn
người (Cống, Sila, Pupéo, Rơmăm, Ơ đu, Brâu). Cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay là kết quả của một
quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử.

Thứ hai: Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết. Không cả già trẻ gái, trai, hay dân tộc nào
miễn là người dân Việt Nam thì các anh em dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết keo sơn gắn bó một lòng một
dạ. Trước khi thời chiến các dân tộc đồng lòng chống dịch, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay thời bình các dân tộc
cùng nhau xây dựng và bảo vệ nền hòa bình dân tộc. Tính cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc trong một cộng
đồng thống nhất đã trở thành truyền thống của dân tộc ta.

Thứ ba: Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau. Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ở Việt Nam
ngày càng gia tăng. Các dân tộc không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng. Và sự thống nhất giữa
các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.

Thứ tư: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không đều nhau. Do điều kiện tự
nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên sự chênh lệch trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư thể hiện rõ rệt.

Thứ năm: Dân tộc Việt Nam có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Văn hoá Việt Nam là sự thống nhất
trong đa dạng. Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt lại có đời
sồng văn hóa mang bản sắc riêng, góp phần làm phong phú thêm nên văn hóa của cộng đồng. Rất nhiều bản
sắc văn hóa tạo thành nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc nước nhà.

Thứ sáu: Tuy chiếm số ít nhưng các dân tộc thiểu số lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày,
Thái , Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H’Mông, Dao, Người Jrai (Gia Rai), Ê Đê, Ba Na, Chăm, Sán Dìu, Ra
Glai… Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và
đồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người. Vị trí
của các dân tộc thiểu số là cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.

* Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc:

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã thực hiện nhất quán những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn coi trọng vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Trong
mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có
tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc và đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn
trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ
rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số...

Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc”.

Tập trung lại, quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở các nội dung sau:

- “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề
cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển,
cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân
tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc;
quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn
và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.

- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát
triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng
vùng, đi đối với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng
bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương
trong cả nước.

- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị”.

* Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam:

+ Về chính trị: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc.
Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng
bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu
chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
VD: Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào dân tộc thiểu số” - Điều 5, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật, luật như Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia
đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,… đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam.

+ Về kinh tế: Nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng
bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế
thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.

VD: Chương trình 143 (Chương trình xóa đói, giảm nghèo và tạo việc làm giai đoạn 2001 - 2005,
được phê duyệt theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg, ngày 27-9-2001, của Thủ tướng Chính phủ); Chương
trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng
xa, được phê duyệt theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31-7-1998, của Thủ tướng Chính phủ);
Chương trình 134 (một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004, của Thủ
tướng Chính phủ); Chương trình phân bổ đất rừng và trồng rừng; các chính sách về giáo dục, y tế,...

+ Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao
trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa
phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với
các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình” trên
mặt trận tư tưởng văn hóa nước ta hiện nay.
- VD: Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng
về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền liên quan, công nghiệp
văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với 12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực
hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp
tục phát triển sâu rộng.
+ Về xã hội: Thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát
huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.

VD: Công tác giáo dục có nhiều tiến bộ: 99,5% số xã có trường tiểu học; 93,2% số xã có trường trung
học cơ sở; 12,9% số xã có trường trung học phổ thông và 96,6% số xã có trường mẫu giáo/mầm non; 100%
số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.

Bên cạnh đó, mạng lưới y tế phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã được quan tâm
đầu tư, có 99,39% số xã có trạm y tế, 77,8% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Năm 2013, có 88% số thôn,
bản trong cả nước có nhân viên y tế hoạt động. Mạng lưới thông tin, văn hóa, thể thao nông thôn có sự phát
triển nhanh, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào.

+ Về an ninh - quốc phòng: Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị,
thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự – an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn.
Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
VD: Từ năm 2001 đến 2006, toàn quân đã cử trên 17.000 lượt cán bộ tăng cường cơ sở, trên 24.000
lượt tổ (đội) công tác, trên 80 vạn lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân dã ngoại làm công tác dân vận ở các cơ sở
vùng sâu, vùng xa giúp đồng bào phát triển sản xuất; tiến hành trên 19 vạn buổi tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho trên 22 triệu lượt đồng bào các dân tộc.

Thực hiện Chỉ thị 58/TTg (nay là Chỉ thị 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ) "về xây dựng cơ
sở vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng-an ninh trong tình hình mới", Nghị quyết
TW5 (khoá IX) về nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống chính trị ở cơ cở và chương trình hành động của
Bộ Quốc phòng thực hiện Nghị quyết TW5 và Nghị quyết TW7 (khoá IX) "về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh",... các đơn vị đã chủ
động làm tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền các địa phương củng cố hàng chục ngàn lượt cơ sở và tổ chức
chính trị-xã hội vững mạnh. Thực hiện Chỉ thị 123/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về củng cố, kiện
toàn các tổ (đội) công tác xây dựng cơ sở, toàn quân đã cử 224 đội công tác với hơn 1 nghìn cán bộ tăng
cường cơ sở về các xã xung yếu trên các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Quân
khu 4.

Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển toàn diện về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng các địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, rừng núi, hải đảo
của Tổ quốc.

Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn diện, tổng hợp, bao trùm
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng
đồng quốc gia. Phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân
tộc. Do vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn
mang tính nhân văn sâu sắc, không bỏ sót bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ
dân tộc nào; đồng thời phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc
anh em trong cả nước.

Liên hệ:

Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra một loạt các chương
trình, mục tiêu đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị
quyết về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh đối với các tỉnh Tây
Nguyên, các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ
và Duyên hải Trung Bộ. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương nhất quán để
phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này được thể hiện trong Kết luận số 65-KL/TW
ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân tộc trong tình hình mới. Nhờ vào những chính sách trên
cuộc sống của người dân tộc thiểu số đã có những thay đổi rõ rệt và không ai bỏ lại phía sau. Đời sống vật
chất và tinh thần của người dân tộc thiểu số được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm, cơ sở hạ tầng
được xây dựng ngày càng hiện đại và khang trang hơn. Về giáo dục thì trẻ em được đến trường, được đảm
bảo môi trường học tập và nâng cao chất lượng y tế tại các địa bàn khó khăn. Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã chỉ đạo các ban của Đảng, Ban cán sự đảng của các bộ, ngành liên quan và cấp ủy các địa phương tiến
hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc và đã ra nhiều kết
luận quan trọng liên quan đến công tác chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng,
an ninh đối với các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Từ thực trạng đời sống vật chất của đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn hơn mặt bằng chung,
Đảng ta chủ trương thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm nhất là khu
vực đồng bào dân tộc thiểu số, mà trước hết cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -2030

Chính sách dân tộc ở Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế mà còn hướng tới giải quyết các
vấn đề xã hội phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào
dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công
bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Để đồng bào được hưởng thụ công bằng các thành quả của sự phát triển thì
phải công bằng trong tiếp cận các nguồn lực

Ngoài ra, Đảng và nhà nước còn tăng cường cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số: công tác cán bộ nữ,
cán bộ người dân tộc thiểu số đã có những bước tiến vượt bậc, ngày càng được nâng cao cả về số lượng và
chất lượng

Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc, trong
những năm qua, tình hình kinh tế-xã hội vùng dân tộc đã có những chuyển biến quan trọng, quyền bình đẳng
giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống.

*Nhận thức trách nhiệm của sinh viên trong phòng, chống âm mưu của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.

Thực tế cho thấy, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu chia rẽ dân tộc Việt Nam hòng làm
yếu đi sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta. Các hoạt động chống phá được chúng tiến hành ngày càng tinh vi,
đa dạng và hậu quả khó lường. Do vậy đòi hỏi các chiến dịch đấu tranh chống lại các mưu đồ xấu xa ấy phải
được tiến hành thường xuyên, triệt để. Với tư cách là sinh viên, mầm móng tương lai của đất nước, chúng ta
không thể làm ngơ trước những âm mưu đen tối ấy mà cần phải có trách nhiệm cùng đất nước tiêu diệt xóa
bỏ những thành phần không nên có. Để làm được việc đó, trước mắt và cơ bản nhất mỗi sinh viên cần:

- Tự trang bị nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc và khối đại đoàn kết dân tộc; đây chính là một
trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay.

- Chủ động tham gia vào các chiến dịch nhằm đẩy mạnh tuyên truyền để mọi người cùng hiểu và thực
hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, đại đoàn kết dân tộc, an sinh xã hội.

- Tuyệt đối không nghe theo, tin theo những thông tin độc xấu hay những luận điệu sai trái nhằm chia
rẽ đồng bào dân tộc ta.

- Phát giác và lên án tố cáo khi nhận thấy có dấu hiệu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi
dụng vấn đề dân tộc chia rẽ đồng bào dân tộc Việt Nam.

Đế hoàn thành tốt những trách nhiệm và mục tiêu đó , sinh viên cần: tích cực học tập, bồi dưỡng nâng
cao trình độ mọi mặt, nhất là việc bồi dưỡng, học tiếng nói, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc là
một trong những yêu cầu bắt buộc, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc giữ gìn khối đại đoàn
kết dân tộc.

Đối với bản thân mỗi người sinh viên phải tự đặt mình vào vị trí của người khác, làm việc gì cũng phải
nghĩ đến hậu quả và pháp luật. Đề cao ý thức trong công cuộc xây dựng đất nước, không chia bè chia phái
lôi kéo người khác làm những việc trái pháp luật. Thực hiện tốt nhiệm vụ trường lớp đề ra. Noi gương phấn
đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh.

Là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường luôn phải phấn đấu và trở nên gương mẫu trong các
hoạt động xã hội, vận dụng sáng tạo để đất nước ngày càng phát triển. Giữ chuẩn mực đạo đức, noi gương
theo chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Luôn cảnh giác với những thế lực thù địch chống phá Việt Nam, bạo loạn
lật đổ của các thế lực thù địch ; trung thành tuyệt đối với Đảng và nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hiện nay,
bản thân là một sinh viên thì phải có trách nhiệm sáng suốt trong việc chọn lọc thông tin. Không để bản thân
sa lầy vào những hội phản động, lôi kéo sống thực dụng.

Chủ đề 6: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo. Liên hệ với quan điểm
của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Nhận thức trách nhiệm của sinh
viên trong phòng, chống âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo nhằm chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.
TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
I. KHÁI NIỆM TÔN GIÁO.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách
quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên , thần bí. Ph.
Ăngghen cho rằng : “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người
- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
- Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do con người sáng tạo ra. Con
người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của
họ. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng cho rằng, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều
được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo
những thay đổi của cơ sở kinh tế.
II. NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH .
Trong thời quá quá độ lên CNXH, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến đổi trên nhiều mặt, vì vậy, khi
giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
+Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng liêng nào đó mà họ
tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự
do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc
quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ
chức giáo hội… được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo,
đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của
họ.
+ Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm
đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và
hoạt động tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tín
ngưỡng của người dân được Nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.
VD: Trong thực tế, việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người
dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội… được quyền can thiệp
vào
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác- Lê nin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải
thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ
nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là gián tiếp đấu
tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết phải xác lập được một thế giới hiện thực
không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học… cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã hội . Đó là một quá
trình lâu dài, và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
VD: Xoá bỏ dần phương thức sản xuất tiểu nông lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình độ văn hoá để người dân tự
nhận thức được vai trò thực sự của tôn giáo trong đời sống hiện thực của họ.
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo trong
quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo.
+ Hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản
thân mỗi tôn giáo. Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn
đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo
chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về
niềm tin, mức độ tin giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo,..
+ Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính chất
khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Việc phân
biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn
đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
VD: Mâu thuẫn chính trị phản ánh lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc
lột, giữa quần chúng nhân dân lao động và những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phản động được biểu
hiện ở việc một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của
giai cấp công nhân. Mâu thuẫn tư tưởng phản ánh mâu thuẫn nội bộ giữa người có đạo và người không có
đạo, giữa những người theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau được thể hiện ở tín ngưỡng của con người.
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo. Tôn giáo không phải là một hiện
tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều
kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển
nhất định. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn
đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
VD: Trong thời kỳ nguyên thủy, các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản năng của con người
và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích về kinh tế - xã hội. Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà nước,
quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là một nhu cầu tinh thần của quần
chúng mà là một phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị áp bức giai cấp và bóc lột của mình và
thực hiện sự bành trướng, xâm lược, gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa.
III.ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO CỦA VIỆT NAM
- Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Nước ta hiện nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được
công nhận và cấp đăng ký hoạt động với khoảng 57.000 chức sắc, 157.000 chức việc và hơn 29.000 cơ sở
thờ tự. Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác nhau.
- Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hoà bình và không có xung đột, chiến tranh tôn
giáo. Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hoá thế giới. Các tôn giáo ở Việt Nam có sự đa dạng
về nguồn gốc và truyền thống lịch sử. Mỗi tôn giáo có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau,
nên sự gắn bó với dân tộc cũng khác nhau.
VD: Từ đường hướng đồng hành cùng dân tộc, gắn bó với quê hương, đất nước, các tổ chức tôn giáo đã chủ
động tham gia công tác hoạt động từ thiện- xã hội, tham gia cứu trợ thiên tai, phòng, chống dịch bệnh.
Những hoạt động này phát triển mạnh mẽ và lan tỏa rộng khắp sau khi Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định và khuyến khích phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa,
truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Đa
số tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, tôn trọng công lý, gắn bó với dân
tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
VD: Với những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã cụ thể hóa thành những hành
động thiết thực, cứu người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây
dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
- Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có uy tín, ảnh hưởng tới
tín đồ. Về mặt tôn giáo, chức năng của chức sắc tôn giáo là truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lí tổ chức của tôn giá, duy trì, củng cố, phát triển tôn giáo, nguyện chăm lo đến đời sống tâm
linh của tín đồ.
VD: Những năm qua, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tổ chức tôn giáo trên toàn quốc đã cùng nhau
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo, nêu cao tinh thần yêu nước, bằng tinh thần phục
vụ các tôn giáo có nhiều đóng góp trong các lĩnh vực của xã hội, tích cực tham gia xây dựng chính quyền,
xây dựng đoàn thể và tổ chức nhiều hoạt động từ thiện, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục và phát huy giá trị văn
hóa, đạo đức cua các tôn giáo trong đời sống xã hội.
- Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài . Nhìn chung
các tôn giáo ở nước ta, không chỉ các tôn giáo ngoại nhập, mà cả các tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với
các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài hoặc các tổ chức tôn giáo quốc tế.
VD: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Roma hội kiến với Giáo hoàng Benedict XVI và hội đàm với Thủ
tướng Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone; đoàn do ông Đỗ Yên Thi, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ dẫn đầu
đi thăm và làm việc tại Vatican và Pháp
IV. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TÔN
GIÁO
- Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại trong quá
trình xây dụng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khẳng định đó mang tính khoa học và cách
mạng, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận chủ quan, tả khuynh khi cho rằng có thể bằng các biện pháp
hành chính, hay khi trình độ dân trí cao, đời sống vật chất được bảo đảm là có thể làm cho tín ngưỡng,
tôn giáo mất đi; hoặc duy tâm, hữu khuynh khi nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng bất biến, độc
lập, thoát ly với mọi cơ sở kinh tế - xã hội, thể chể chính trị.
VD: Cùng với phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các
hoạt động tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Tính đến tháng 9-2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ, chiếm
27% dân số, 55.710 chức sắc, 145.721 chức việc. Việc ra đời các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan
tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, khẳng
định Việt Nam không phân biệt giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo hay không; không phân biệt hay kỳ thị
bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới
được công nhận.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi
công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
VD: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: "Lương - giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước
một lòng, nhân dân ta nhất định thắng lợi". Ngày nay, trong công cuộc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng bào theo các tôn giáo đã đoàn kết cùng đồng bào cả nước tích cực thực
hiện các phong trào thi đua yêu nước thực hiện ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đoàn kết xây dựng
đất nước, để nước ta "Sánh vai với các cường quốc năm châu".
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác vận động quần
chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống
nhất đất nước. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng báo theo các tôn giáo, nhằm nâng
cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào.
VD: Thường xuyên cung cấp thông tin, truyền đạt, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch của chính quyền địa phương, cơ sở để các chức sắc, nhà tu hành hiểu rõ
và đồng tình, ủng hộ, thông qua họ để tuyên truyền, vận động tín đồ thực hiện. Hướng dẫn, tạo điều kiện cho
tổ chức giáo hội, chức sắc trong các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo; vận động, giới thiệu một số chức
sắc, nhà tu hành tôn giáo tiêu biểu tham gia các cơ quan dân cử: Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc, Ban Chấp hành các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo thuận lợi cho việc triển khai các chủ trương công
tác ở địa phương, động viên chức sắc, tín đồ làm tốt nghĩa vụ công dân; thông qua các quan hệ khác nhau
mà vận động chức sắc, nhà tu hành...
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của hệ thống chính trị. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị do Đảng lãnh đạo. Cần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm
công tác tôn giáo các cấp. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh với
hoạt động lợi dụng tôn giáo gây phương hại đến lợi ích Tổ quốc và dân tộc.
VD: Tại Nam Định, xác định công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, đặc biệt là ở vùng đồng bào tôn giáo. Toàn
tỉnh có 171/229 đảng bộ xã, phường, thị trấn có đảng viên là người có đạo; có 1.578 chi bộ trực thuộc đảng
bộ cơ sở vùng giáo; các thôn, xóm, tổ dân phố vùng đồng bào công giáo tập trung đã có chi bộ đảng lãnh
đạo.
- Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ theo pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn
giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng dụng tôn giáo để tuyên truyền
tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức
tuyên truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định.
VD: Ngày nay, lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta, một số đối tượng đứng đầu các giáo xứ, núp dưới chiêu bài "tự do tôn giáo" đã lái hoạt động tại các
giáo xứ đi ngược với pháp luật và sự phát triển của đất nước. Núp dưới vỏ bọc "tự do tôn giáo" và những lời
rao giảng “vì lợi ích thiết thực của giáo dân”, một số linh mục cực đoan ra sức lôi kéo, xúi giục, thậm chí
gây sức ép để bà con giáo dân chống phá chính quyền, nhằm gây mất ổn định an ninh trật tự trên địa bàn.
Những hành vi nêu trên đều đáng bị lên án và xử lý theo quy định của pháp luật.
 Thành tựu
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, xác
định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, phát huy giá trị tích cực về đạo
đức và văn hóa của tôn giáo; đồng thời, tiếp tục chủ trương đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân để thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Một số thành tựu tiêu biểu là:
- Đến nay, Giáo hội phật giáo Việt Nam đã mở thêm 4 học viện Phật giáo, Công giáo có 10 Đại chủng
viện là nơi đào tạo linh mục. Theo Thống kê của Ban Dân vận Trung ương, hiện cả nước có 56 cơ sở đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, hằng năm đã đào tạo hàng nghìn chức sắc, nhà tu hành cho các tôn giáo trong
phạm vi cả nước.
- Năm 2003, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước giao hơn 51 nghìn m2 đất sử dụng cho xây
dựng cơ sở thờ tự, nhưng đến tháng 12/2017 đã tăng lên hơn 125,5 nghìn m2. Cùng với đó, một số chính
sách quy định việc sửa chữa, nâng cấp, xây mới cơ sở thờ tự quy định trong Luật Xây dựng năm 2014 và
các nghị định hướng dẫn thi hành đã được tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong việc cải tạo các công
trình kiến trúc tôn giáo
- Cho đến nay, Giáo hội đã vận động và mua 10 Máy thở đa năng với tổng trị giá 6,7 tỷ đồng trao tặng cho
thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Long An. Tăng, Ni Phật tử cả nước đã và tiếp tục đóng
góp tiền, nhu yếu phẩm để hỗ trợ người dân. Giáo hội cũng đã có văn bản gửi chính quyền đề nghị sử
dụng một số cơ sở tự viện làm bệnh viện dã chiến, khu cách ly cho tăng ni như tại Trà Vinh, khu cách ly
tập trung số 3 được đặt tại Trường Trung cấp Pali-Khmer để tiếp nhận cách ly y tế tập trung đối với chức
sắc các tôn giáo trên địa bàn tỉnh, Chùa Ích Minh tỉnh Bắc Giang, Chùa Hội Khánh tỉnh Bình Dương…
- Trước diễn biết hết sức phức tạp của dịch bệnh tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 9/7/2021 HĐGMVN
tiếp tục ra văn thư kêu gọi đồng bào Công giáo Việt Nam hướng về tâm dịch với chủ đề “Thương lắm
Sài Gòn ơi”. Hội đồng giám mục Việt Nam cũng đã đóng góp 3 tỷ đồng vào quỹ vaccin phòng chống
dịch của Chính phủ. Hưởng ứng Thư kêu gọi của Hội đồng giám mục Việt Nam nhiều giáo phận đã tổ
chức các hoạt động vận động, quyên góp ủng hộ cho đồng bào bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
- Văn phòng đặc trách tu sĩ giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh có văn thư gửi Bề trên các dòng tu kêu gọi
Thành lập nhóm tu sĩ thiện nguyện để giúp đỡ các nhân viên y tế trong các bệnh viện. Đã có 181 tu sĩ
đến hỗ trợ ở 3 bệnh viện trong Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 23/8 có 87 tu sĩ hoàn thành nhiệm vụ
về cách ly và giáo phận bổ sung tiếp 171 tu sĩ thiện nguyện đến nơi cần hỗ trợ. Giáo phận Đồng Nai có
88 tu sĩ, 4 linh mục và 27 chủng sinh tình nguyện giúp đỡ các nhân viên y tế chống dịch trên địa bàn. Để
tiếp tục duy trì và phát huy hoạt động này, Văn phòng đặc trách Tu sĩ , ngày 20/8/2021 đã ra Thư mời
gọi tham gia chương trình Tu sĩ thiện nguyện…..
Và còn nhiều thành tựu khác nữa.
 Tóm lại, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dân chủ hóa đời sống xã hội, Đảng và Nhà
nước ta cũng từng bước xây dựng hoàn thiện chính sách đổi mới về công tác tôn giáo theo quan điểm
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề về chính sách, pháp luật cũng cần được
bổ sung, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho công tác tôn giáo cũng như phù hợp với tình hình thực tế
cũng như tạo điều kiện cho các tôn giáo tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự ổn định và phát triển đất nước trong điều kiện mới.
V. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN.
Nguyên nhân chủ quan là bản thân mỗi học sinh, sinh viên chưa thật sự xây dựng cho mình ý thức tự
rèn luyện, nâng cao trình độ, học hỏi kỹ năng, không có kiến thức, hiểu biết về những chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Là một sinh viên, với tư cách là một trong những hạt mầm tương lai của đất nước chúng ta cần tự nhận
thấy bản thân có vai trò, trách nhiệm trong vấn đề dân tộc, tôn giáo. Những hành động cụ thể như là:
- Nỗ lực học tập từng môn học, từng học phần phát huy hết năng lực của mình để đạt được kết
quả cao nhất,nghiên cứu, sáng tạo và rèn luyện để trở thành công dân tốt, đảng viên tốt cống hiến
cho đất nước. Quan tâm, nắm rõ tình hình hiện nay của Đất nước cũng như thế giới về nhiều mặt đời
sống - xã hội.
- Ngoài học tập sáng tạo thì ta nên tham gia các hoạt động đoàn hội , công tác xã hội như là hiến
máu nhân đạo, mùa hè xanh…, các hoạt động rèn luyện nhằm góp phần nâng cao đạo đức, kỹ
năng của sinh viên.
- Trong tập thể lớp hay các câu lạc bộ, đội nhóm thì nên sống hòa đồng, không phân biệt vùng
miền, dân tộc, tôn giáo với các bạn cùng trang lứa cũng như mọi người xung quanh, nhằm giúp vững
mạnh khối đoàn kết dân tộc.
- Chủ động phát hiện các bạn trong lớp có những dấu hiệu khác thường, có hoàn cảnh éo le, gặp trắc
trở khó khăn trong học tập, trong tình cảm để có biện pháp động viên giúp đỡ, giúp bạn vượt khó
khăn, không để họ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội. Cảm hóa, động viên các bạn đã mắc lầm lỗi để họ
trở thành người có ích.
- Không có các hành vi mê tín dị đoan hoặc tham gia vào các hủ tục lạc hậu. Phân biệt rõ tự do tín
ngưỡng, lễ hội với mê tín dị đoan, cảnh giác trước các hành vi và âm mưu chống phá cách mạng Việt
Nam của các thế lực phản động.
- Có trách nhiệm phát hiện các đối tượng có hành vi hoạt động tệ nạn xã hội, lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam có dấu hiệu dụ dỗ lôi kéo, cần báo ngay cho công an, chính
quyền địa phương cũng như giáo viên, Đoàn trường, Hội sinh viên, lãnh đạo nhà trường.
Trong thời đại hội nhập, nhiệm vụ phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá cách mạng Việt Nam càng phải được coi trọng và xác định là nhiệm vụ thường xuyên, phức tạp, quyết
liệt và lâu dài.
 Vì thế, sinh viên cần phát huy tinh thần xung kích, chủ động, sáng tạo của thanh niên thế hệ mới trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

7: Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí và chức năng của gia đình trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức về trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng gia đình tiến
bộ, hạnh phúc

I.Khái niệm về gia đình:

Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội
C.Mac và Ăngghen khi đề cập đến gia đình đã cho rằng “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình
phát triển lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người
khác, sinh sôi nẩy nở - đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cơ sở hình thành
gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con
cái…). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa
vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người được quy định bằng pháp lí hoặc đạo lí.

Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lí
cho sự tồn tại của mỗi gia đình.

Trong gia đình ngoài 2 mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái thì
còn có các mối quan hệ khác. Ví dụ: quan hẹ giữa ông bà với cháu chắt, giữa các anh chị em với nhau, giữa
cô dì chú bác…

Các mối quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và thể chế chính trị - xã hội.

Như vậy gia đình là 1 hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành và duy trì, củng cố chủ yếu dựa
trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.

Ví dụ về gia đình:

Gia đình sẽ là một cặp vợ chồng lấy nhau và sinh con thì đó được coi là một gia đình.

Gia đình có thể bao gồm vợ chồng, con cái và cả bố mẹ của cặp vợ chồng ấy

I. CHỨC NĂNG
Gia đình có 4 chức năng cơ bản:

1.Tái sản xuất ra con người

+ Là chức năng đặc thù của gia đình

+ Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm , sinh lí tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì
nòi giống của gia đình, dòng học mà còn đáo ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã
hội.
+ Nội dung: Tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực đảm bảo tái sản xuất nguồn
lao động và sức lao động cho xã hội

+ Việc thực hiện chức năng này diễn ra trong từng gia đình, nhưng nó không chỉ là việc riêng của gia đình
mà là vấn đề xã hội. Bởi lẽ, chức năng này quyết định mật độ dân cư và nguồn lao động của một quốc gia và
quốc tế. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng lao động mà gia đình cung
cấp

2.Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục

+ Là chức năng quan trọng

+ Thể hiện tình cảm thiên liêng , trách nhiệm của cha mẹ với con cái, trách nhiệm của gia đình với xã hội.

+ Thực hiện chức năng này gia đình có ý nghĩa rất quan trọng với sự hình thành nhân cách, đạo đức , lối
sống của mỗi con người.

+ Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung
cấp nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội.

3.Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng, quản lí gia đình:

+ Là chức năng quan trọng

+ Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của các
thành viên trong gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự
giàu có của xã hội.

+ Thực hiện tốt chức năng này , không những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy
con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.

4. Chức năng thõa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

+ Là chức năng thường xuyên của gia đình

+ Bao gồn việc thõa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng
tâm lí, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, nguowid già, trẻ em. Gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn
định và phát triển của xã hội.

II. Các ví dụ
*Ví dụ về chức năng cơ bản của gia đình:
1. Chức năng tái xuất con người: hai đứa trẻ được sinh ra, không cùng huyết thống, lớn lên đến một độ
tuổi nhất định sẽ giao phối với nhau để tạo ra các thể hệ con châu tiếp theo nhằm mục đích duy trì
giống nòi tiếp theo cho loài người.
2. Chức năng nuôi dưỡng giáo dục: Một đứa trẻ được sinh ra đời thì ngoai trách nhiệm chăm sóc thì
người ba mẹ còn phải có trách nhiệm dạy bảo, giáo dục để chúng có đầy đủ nhận thức về thế giới bên
ngoài hơn và hơn hết là trở thành người có ích cho xã hội.
3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: Mỗi hộ gia đình đều phải tự tạo ra thu nhập cho mình thông
qua việc tự kinh doanh nhỏ lẻ hoặc đi làm thuê để duy trì cuộc sống của chính gia đình họ và để xây
dựng và phát triển đất nước.
4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình: Cha mẹ chăm sóc, lo lắng cho
con cái hay con cái chăm nom cho cha mẹ già yếu.
*Ví dụ về gia đình:
- Các thành viên trong một gia đinh cơ bản có các quan hệ với nhau như: Vợ chồng gắn kết với nhau
qua quan hệ hôn nhân, ba mẹ gắn kết với con cái qua quan hệ huyết thống, anh chị em ruột trong nhà
gắn kết với nhau cũng thông qua mối quan hệ ruột thịt.
III. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên CNXH

1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển của lực
lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa.
2. Cơ sở chính trị - xã hội
Sự hoàn thiện của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành công cụ quan trọng trong việc xây
dựng và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Nó cũng đã xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu đè lên vai
những người phụ nữ, xóa bỏ xiềng xích mang tên phân biệt giữa nam và nữ. Hệ thống pháp luật và chính
sách xã hội đó vừa định hướng, vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
3. Cơ sở văn hoá
Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí, kiến
thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến
thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan
hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-Những cải biến cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa nhằm phê phán, loại bỏ những tư tưởng và lối
sống lạc hậu, xây dựng tư tưởng và lối sống mới tiến bộ, nâng cao dân trí, ý thức đạo đức và ý thức pháp
luật của công dân,… là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
-Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân trí, kiến
thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến
thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan
hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

V. CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN TIẾN BỘ

Chế độ hôn nhân tiến bộ gồm ba khía cạnh:

1. Hôn nhân tự nguyện:


“Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ”. Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu
dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ.

Đặc điểm hôn nhân tiến bộ:

- Hôn nhân tự đảm bảo cho nam, nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận
sự áp đặt của cha mẹ. (là hôn nhân ko sự ép buộc từ 2 phía, ko có sự ràng buộc của hôn nhân chính trị
kinh tế, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, hôn nhân môn đăng hộ đối. Cha mẹ chỉ là người chỉ dẫn hướng dẫn
sao cho con cái đi đúng hướng chứ ko còn áp đặt như xưa)
- Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không còn nữa.(như
Ăngghen viết: nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn
nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới hợp đạo đức mà thô,… và nếu tình yêu đã ko hoàn toàn phai
nhạt hoặc bị 1 tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội).
- Hôn nhân tiến bộ không khuyết khích việc ly hôn.(vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho vợ
chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy cần ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích
kỷ hoặc vì mục đích vu lợi).
Theo bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có 3 nguyên tắc:
- Người muốn kết hôn phải có năng lực hành vi.
- Người muốn kết hôn phải đến độ tuổi nhất định.
- Người muốn kết hôn phái chấp nhận kết hoon theo một cách tự nguyện.
2. Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng:
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được nên hôn nhân 1 vợ 1 chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân
xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân 1 vợ 1 chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời
cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lí, tình cảm, đạo đức con người.

Vợ chồng bình đẳng:

- Vợ chồng bình đẳng là vợ chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề cuộc sống
gia đình
- Vợ chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội,
học tập và một số nhu cầu khác. (Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn
đề chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc).
- Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái và
quan hệ giữa anh chị em trong gia đình. (Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương con cái, ngược lại,
con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa
cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch
tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn
đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ).
3. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý:
Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ xã hội.
Tình yêu giữa nam nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa
thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhân của
xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân.

Ý nghĩa của việc “Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân”:

- Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa
nam nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. (Đây cũng là biện pháp ngăn
chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thảo mãn những nhu cầu không
chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình).
- Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính
đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyefn đó một cáchđầy đủ nhất.

VI. Phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải thực hiện xây dựng gia đình mới, hướng tới hình thành con
người mới Việt Nam với những đức tính cao đẹp,xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến. Mục tiêu chung
trong xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam là xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ
ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, cần chú ý một số định hướng
sau:
-Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng và phát triển gia
đình Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến
cơ sở nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của gia đình,coi đây là một trong những động lực quan
trọng quyết định thành công sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam .
-Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế gia đình.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội để góp phần củng cố, ổn định và phát triển
kinh tế hộ gia đình; chính sách ưu tiên hỗ trợ kinh tế gia đình cho các gia đình liệt sỹ, thương binh bệnh
binh, các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, ở vùng sâu, vùng xa
Tích cực khai thác và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình vay vốn ngắn hạn và dài hạn nhằm xoá đói
giảm nghẻo, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, mở rộng phát triển kinh tế.
-Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ của nhân loại về
gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu đời trong lịch sử dân tộc. Bước vào thời kỳ mới gia đình ấy bộc
lộ cả những mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, Nhà nước cũng như
các cơ quan văn hoá cần xác định, duy trì những nét đẹp có ích; đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới
khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay là xây dựng mô hình gia
đình hiện đại, phù hợp với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.Tất cả nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu làm cho gia đình
thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.
-Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự tác động đến nền tảng gia đình với những quy tắc ứng xử
tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam.
Chất lượng cuộc sống gia đình ngày càng được nâng cao.
Do vậy, để phát triển gia đình Việt Nam hiện nay cần tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng xây dựng các mô hình
gia đình văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những giá trị mới tiên tiến cần tiếp thu và
dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới, đề xuất hướng giải quyết những thách thức trong lĩnh
vực gia đình.
Xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, cần có sự tham gia của mọi
đoàn thể, cộng
đồng dân cư
Công tác xây dựng gia đình chỉ đạt hiệu quả cao nếu thực hiện biện pháp giáo dục, tuyên truyền phù hợp
nhằm triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển gia đình, từ
đó tạo ra phong trào thi đua rộng khắp, thiết thực và hiệu quả.
VII. Liên Hệ Thực Tiễn

*Tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí và chức năng của gia đình trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội . Nhận thức về trách nhiệm của sinh viên góp phần xây dựng gia đình tiến bộ , hạnh phúc .

Liên hệ : Giới trẻ có vai trò, trách nhiệm không nhỏ trong việc xây dựng, củng cố và phát huy giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam

Tiếp tục phat triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa Một là : tăng cường nghiên
cứu và tuyên truyền các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, luôn tự hào

Hai là: kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia
đình Việt Nam hiện đại là yêu cầu cần thiết và có ý nghĩa, xây dựng nếp sống văn minh, yêu thương gia đình
và giúp đỡ những người xung quanh, tạo mối quan hệ tốt với hàng xóm , láng giềng ,và bạn bè .

Ba là : con cái phải biết hiếu thảo, kính trọng, nghe lời cha mẹ, giữ vững truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Khi cha mẹ về già, con cái phải yêu thương, chăm sóc phụng dưỡng, báo hiếu cha mẹ , hòa thuận không cãi
vã với những thành viên trong nhà , học tập giỏi và đạt nhiều giải thưởng - thể hiện con ngoan trò giỏi, hãy
sắp xếp dành nhiều thời gian hơn để trò chuyện, tâm sự với nhau qua những bữa ăn tối hay một chuyến du
lịch gia đình,… Mọi người có thể chia sẻ để thêm hiểu và yêu thương nhau nhiều hơn.
Bốn là: thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cần tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa
hiện đại, đồng thời phát huy tinh thần yêu nước niềm tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm, hoặc những âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch, khi thấy các hành vi vi phạm pháp luật , em sẽ báo ngay cho các cơ quan chức năng để kịp
thời giải quyết, Không làm những điều xấu hay hủy hoại uy tín của người thân trong gia đình cũng như xã
hội,tuyệt đối không tham gia các hành vi trái pháp luật.

Năm là : sinh viên nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, sinh viên phải trau dồi các kiến thức , xem nhiều kênh truyền hình như về gia đình ,đời sống ,.....

Cuối cùng : Phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể để phát huy vai trò của sinh viên.

Chủ đề: Tìm hiểu về những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trách nhiệm của sinh viên góp phần khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường tới sự
tiến bộ và hạnh phúc của gia đình.!

Gia đình là môi trường quen thuộc đối với tất cả mọi người khi bất cứ cá nhân nào cũng đều trực tiếp tham
gia vào quá trình tạo lập, xây dựng gia đình. Mỗi một gia đình được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm
nhiều lĩnh vực phong phú nhưng cũng rất phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động. Do đó, gia đình là vấn đề
trọng yếu mà các dân tộc trong mọi thời đại đều dành sự quan tâm sâu sắc đến. Đất nước ta đang trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà thực chất là chuyển
đổi căn bản toàn điện các hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp vụ và quản lý kinh tế xã hội. Và cùng với sự
phát triển về các mặt khác của xã hội, các vấn đề mới cũng đã nảy sinh, trong đó, vấn đề gia đình với nhiều
biến đổi phức tạp, bên cạnh những biến đổi tích cực thì gia đình Việt Nam ngày nay cũng đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề mang tính tiêu cực do chịu sự chi phối lớn từ nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước.
Khái niệm gia đình: Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của
nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng
về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như
để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
*Nội dung về những biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
I: SỰ BIẾN ĐỔI VỀ QUY MÔ, KẾT CẤU GIA ĐÌNH
- Sự biến đổi quy mô gia đình: Gia đình Việt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ” trong
bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại. “Gia đình đơn” (hay
còn gọi là gia đình hạt nhân) đang trở nên rất phổ biến ở các đô thị và ở cả nông thôn, thay thế cho kiểu “gia
đình truyền thống” (gia đình bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau) từng giữ vai trò quan trọng
trước đây. Như vậy, sự giải thể hình thái cũ và hình thành hình thái mới là một điều tất yếu. Quy mô gia
đình ngày nay tồn tại theo xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên trong gia đình trở nên ít đi.
Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba, bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà thì
hiện nay, quy mô gia đình ngày càng được thu nhỏ lại. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ cùng
sống chung; cha mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2
con, còn số ít gia đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Mỗi thành
viên trong gia đình đều muốn được có khoảng không gian riêng, thoải mái để làm những gì mình thích,
không phải bận tâm đến sự nhận xét của người khác. Do có công ăn việc làm ổn định, con cái đến tuổi kết
hôn cũng không phải phụ thuộc kinh tế nhiều vào cha mẹ, khi đầy đủ sẽ nảy sinh ra nhu cầu ở riêng cho
thuận tiện về sinh hoạt. Mặt khác, việc duy trì gia đình truyền thống sẽ kìm hãm sự tự do, làm cho cái tôi, cá
tính riêng, năng lực của con người không có cơ hội phát triển, dẫn đến sự thiếu hụt về lực lượng nhân tài cho
đất nước trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô gia đình Việt Nam ngày cũng được thu nhỏ,
đáp ứng những nhu cầu và điều kiện thời đại mới đặt ra: Sự bình đẳng nam - nữ được đề cao hơn, cuộc sống
riêng tư của con người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống gia đình truyền
thống. Sự biến đổi của quy mô gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực, thay đổi chính bản
thân gia đình và đây là thay đổi hệ thống xã hội, làm cho xã hội trở nên thích nghi và phù hợp hơn với tình
hình mới, thời đại mới.
Ví dụ: Ở Việt Nam đã và đang thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm
bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiện chăm
sóc, dạy bảo các con. Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ so với trước kia, số thành viên
trong gia đình trở nên ít đi. Gia đình Việt Nam hiện đại chỉ có hai thế hệ là cha mẹ và con cái, số con trong
gia đình cũng không nhiều như trước.
- Sự biến đổi kết cấu gia đình:
Gia đình Việt Nam hiện đại có sự thay đổi về kết cấu so với gia đình ở thời kì phong kiến, người đàn ông
làm trụ cột gia đình và có quyền quyết định toàn bộ các công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó,
người phụ nữ phải nghe theo chồng, họ không hề có quyền đưa ra quyết định. Nguyên nhân gây ra là do thời
kì này bị ảnh hưởng bởi Nho giáo, người phụ nữ trong gia đình luôn phải tuân theo “ tam tòng tứ đức".
Trong đó:
“Tam tòng": Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phủ từ tòng từ. Tức là khi ở nhà thì phải theo cha, lấy
chồng thì phải theo chồng, chồng mất thì phải theo con trai. Như vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ
cũng chịu cảnh bị lệ thuộc và không có tiếng nói trong xã hội phong kiến.
“Tứ đức": Tứ đức là các tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ xưa công, dung, ngôn, hạnh. Người phụ nữ
phải biết khéo léo trong công việc, nhan sắc phải xinh đẹp; lời ăn tiếng nói phải biết chừng mực; phải biết
nết na, thùy mị.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu gia đình thay đổi, ở thời kì nảy, sự bình đẳng giới giữa
nam và nữ được nâng lên nhiều so với thời kỳ trước, người phụ nữ được giải phóng khỏi những “xiềng xích
vô hình" của xã hội cũ. Một minh chứng rõ rằng đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng thay vì đàn ông
năm thê bảy thiếp. Vậy nên quyền quyết định trong gia đình sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Họ
ngày càng được đối xử bình đẳng hơn và có nhiều điều kiện để phát triển, nâng cao vị thế xã hội của mình;
vai trò của họ trong cuộc sống, trong sản xuất,... ngày càng trở nên quan trọng hơn, gánh nặng gia đình cũng
dần được chia sẻ từ hai phía. Bình đẳng giới nói riêng và bình đẳng nói chung được tôn trọng làm cho mỗi
người được tự do phát triển mà không phải chịu nhiều ràng buộc bởi các định kiến xã hội truyền thống.
II: SỰ BIẾN ĐỔI TRONG THỰC HIỆN CÁC CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
- Biến đổi chức năng tái sản xuất ra con người:
Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình tiến hành một cách chủ
động, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con. Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, dân số
Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn giá hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền vững
của xã hội, thông điệp mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
Trong gia đình hiện đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh
tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay không có con, có con trai hay không có con trai như gia đình
truyền thống.
Ví dụ: Hiện nay ở Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gia đình theo điểm a, khoản 2, điều 4, Pháp lệnh dân số số
06/2003/PL-UBTVQH11 “Thực hiện kế hoạch hoá gia đình; xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”.
- Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội thì ngày nay, giáo dục
xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo
dục gia đình. Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho giáo
dục con cái tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ nặng về giáo dục đạo đức, ứng xử trong
gia đình, dòng họ,...
Chức năng kinh tế của gia đình ở mỗi chế độ xã hội đều có nội dung khác nhau. Trong xã hội phong kiến,
mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế, còn hiện nay, gia đình không còn là một đơn vị kinh tế nữa, mà chức
năng kinh tế chủ yếu của gia đình là tổ chức đời sống của mọi thành viên trong gia đình, thỏa mãn những
nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình. Với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường thì kinh tế gia đình chiếm một tỉ trọng đáng kể và có vai trò quan trọng đối với
đời sống gia đình. Do vậy, đây cũng là một chức năng chủ yếu của gia đình.
Ví dụ: Mỗi hộ gia đình có thể mở quán ăn, kinh doanh các mặt hàng (như bán tạp hóa,…). Mỗi gia đình phải
luôn có ý thức phấn đấu làm giàu và làm giàu một cách chính đáng, đồng thời biết cách hài hòa giữa đời
sống vật chất và tinh thần.
- Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa):
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội thì ngày nay, giáo dục
xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo
dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hội mới là tiếp tục
nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.
Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho giáo dục con cái
tăng lên. Nội dung giáo dục gia đình hiện nay không chỉ nặng về giáo dục đạo đức, ứng xử trong gia đình,
dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhập
với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế hiện nay, vai trò giáo
dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội và trong nhà trường, làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội
trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Mâu thuẫn
này là một thực tế chưa có lời giải hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay. Những tác động trên đây làm giảm sút
đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua.
Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm… cũng cho thấy phần nào sự bất
lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Ví dụ: Con cái có ý thức tự học hỏi, tìm tòi những kiến thức mới trong học tập và trong môi trường xung
quanh.
Liên hệ thực tiễn: Báo Lao động đã từng đưa tin về một trường hợp của gia đình bà Nguyễn Thị Vân (Trà
Vinh). Bà Vân cho biết tính khí của chị em Thảo và Hiếu (Hai đứa con của bà Vân) khá lạnh lùng và gai
góc, có lẽ phần nào do ảnh hưởng từ cuộc hôn nhân đổ vỡ của bố mẹ. Dù đã rất cố gắng để bù đắp tình
thương cho con nhưng có lẽ không thể bù đắp được sự thiếu hụt của tình cha. Rồi một hôm bà nhận được tin
“sét đánh” khi được lực lượng Công an báo về kết quả điều tra rằng ngoài việc sử dụng Thảo còn là đối
tượng mua bán trái phép chất ma túy. Tòa tuyên án Thảo 5 năm tù giam.
- Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm:
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng lên, do gia đình có xu
hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn vị tình cảm. Việc thực hiện chức năng
này là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự tồn tại, bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc
biệt là việc bảo vệ chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng hiện nay, các gia đình đang đối mặt với rất
nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có một con tăng lên
thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi
tình cảm về anh, chị em trong cuộc sống gia đình. Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới
tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc, làm cho một số hộ gia đình có cơ may mở rộng sản xuất, tích lũy tài
sản, đất đai, tư liệu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phận các gia đình trở thành lao động làm
thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư liệu sản xuất khác, không có khả năng tích
lũy tài sản, mở rộng sản xuất.Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò
của con trai, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc
cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nó đòi hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi
ích giữa các thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội.
Ví dụ: Quan hệ giữa cha mẹ và con cái không còn khoảng cách lớn, cha mẹ có thể hỏi han, tâm sự cùng con
cái về các vấn đề trong học tập và trong đời sống.
III: SỰ BIẾN ĐỔI TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH
- Sự biến đổi quan hệ gia đình:
+ Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng:
Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức, biến đổi lớn. Dưới
tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa… các gia đình phải gánh chịu
nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng – gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỉ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ
tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không kết hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch,
thảm án gia đình, người già neo đơn, trẻ em sống ích kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục… Ví dụ:
Cha đẻ cưỡng bức con ruột có thai. Hệ lụy là giá trị truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, gia đình truyền
thống bị phá vỡ, lung lay và hiện tượng gia tăng dân số hộ gia đình đơn thân, độc thân, sinh con ngoài giá
thú… Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định…) cũng khiến cho hôn
nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã hội. Ví dụ: Có những người bận kiếm tiền đến nỗi không có
suy nghĩ đến việc sẽ lấy vợ, lấy chồng.
Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực trong gia đình đều thuộc về
người đàn ông. Trong gia đình Việt Nam hiện nay, không còn một mô hình duy nhất là đàn ông làm chủ gia
đình. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất hai mô hình khác
cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm
chủ gia đình.
Ví dụ: Người phụ nữ kiếm nhiều tiền hơn, trở thành nguồn thu nhập chính và là trụ cột của gia đình (mô
hình người vợ làm chủ gia đình); Người vợ và người chồng cùng đi làm và có mức thu nhập ngang nhau
(mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình).
+ Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình:
Những biến đổi trong quan hệ gia đình cho thấy, thách thức lớn nhất đặt ra cho gia đình Việt Nam là mâu
thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi cùng chung sống với nhau; Ngày càng xuất hiện nhiều
hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có như: bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử...
Ví dụ: Những người lớn tuổi thường hướng về các giá trị truyền thống, do vậy họ có xu hướng bảo thủ, áp
đặt nhận thức và cách nghĩ của mình đối với những người trẻ. Trong khi đó, lớp trẻ do tiếp cận nhiều hơn
với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các trào lưu văn hóa mới từ nước ngoài nên hướng tới thay đổi về suy
nghĩ và nhận thức, họ trở nên độc lập hơn, cái tôi cá nhân phát triển hơn, họ muốn được tự do nói lên những
suy nghĩ của mình, tiếp thu những giá trị hiện đại. Điều đó dẫn đến sự khó hòa hợp về lối sống, đôi khi có
thể dẫn đến những sự va chạm, bất đồng, khiến cho những người trẻ cảm thấy không thoải mái khi không
thể tự mình quyết định các vấn đề riêng mà phải thông qua ý kiến những người lớn tuổi.
Liên hệ thực tiễn: Một sự việc bạo hành trẻ gây rúng động dư luận ở Bình Phước, Như Lao động đưa tin,
cháu Nguyễn Thành Đ (8 tuổi) thường xuyên bị nhân tình của mẹ, một kẻ nghiện ngập, không có nghề
nghiệp chửi bới và đánh đập. Điều đáng nói, dù biết nhân tình thường xuyên hành hạ con trai mình, người
mẹ vẫn đồng lõa, nhắm mắt làm ngơ. Hậu quả, sáng 27/03/2018, cháu Nguyễn Thanh Đ bị tra tấn đến tím
tái, hôn mê và tử vong. Muốn che giấu cho nhân tình, người mẹ này đã cùng kẻ giết con mình đưa thi thể
cháu về quê để tổ chức tang lễ.
Cái chết của cháu Nguyễn Thanh Đ. thêm một lần nữa gióng hồi chuông cảnh báo về vấn nạn ngược đãi trẻ
em. Đó là nỗi nhức nhối của xã hội.
*Trách nhiệm của sinh viên góp phần khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường tới sự
tiến bộ và hạnh phúc của gia đình.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng và các
thành viên gia đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giúp
các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động phòng chống sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia
đình.
- Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của gia đình và tiếp thu những tiến bộ của
thời đại về gia đình đó là, phải biết "gạn đục khơi trong" gạt bỏ và hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm tạo
sự phát triển của từng gia đình và xã hội, phải dựa trên cơ sở "Hôn nhân tiến bộ" coi tình yêu chân chính là
cơ sở tinh thần chủ yếu. Hôn nhân "một vợ một chồng" đồng thời phải xây dựng mối quan hệ bình đẳng,
thương yêu, có trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.
- Tuyên truyền, nâng cao trình độ giáo dục về sự phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các
giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các khu công
nghiệp...Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các
biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
LỜI KẾT
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan: Sự phát
triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình,… Gia đình Việt Nam đã có sự biến đổi tương đối
toàn diện về quy mô, kết cấu, các chức năng cũng như quan hệ gia đình. Ngược lại, sự biến đổi của gia đình
cũng tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quy mô gia đình Việt Nam ngày nay tồn tại xu
hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên trong gia đình ít đi, đáp ứng nhu cầu và điều kiện mới của
thời đại mới đặt ra. Tuy nhiên, trong quá trình đó cũng gây ra những phản chức năng. Trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chức năng của gia đình có sự biến đổi về các mặt: tái sản xuất ra con người, kinh tế và
tổ chức tiêu dùng, giáo dục (xã hội hoá) và thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm. Bên cạnh đó, các
mối quan hệ trong gia đình cũng có sự biến đổi lớn. Từ những sự thay đổi ấy Đảng và nhà nước ta đã có
những phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.

You might also like