You are on page 1of 5

VĂN HỌC PHẬT GIÁO

BÀI 3: THỊ TỊCH


BÀI 1. QUỐC TỘ ( TS VẠN HẠNH)
( THIỀN SƯ PHÁP THUẬN)
Quốc tộ như đằng lạc, Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Nam thiên lý thái bình. Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Vô vi cư điện các, Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Xứ xứ tức đao binh. Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch: Dịch:
Vận nước như mây quấn, Thân như bóng chớp có rồi không,
Trời Nam mở thái bình. Cây cỏ xuân tươi, thu héo vàng.
Vô vi trên điện các, Theo vận thịnh suy không sơ hãi,
Chốn chốn dứt đao binh. Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương phơi.

BÀI 2: NGỌC LANG QUY BÀI 4 : HỮU KHÔNG


( TS KHUÔNG VIỆT) (TS TỪ ĐẠO HẠNH)
Tác hữu trần sa hữu
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương Vi không nhất thiết không
Thần tiên phục đế hương Hữu không như thủy nguyệt
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương Vật trước hữu không không.
Cửu thiên quy lộ trường. Dịch:
Tình thảm thiết Nói có muôn việc có
Đối ly trường Nói không vạn sự không
Phan luyến sứ tinh lang. Có, không trăng in nước
Nguyện tương thâm ý vị biên cương Đừng dính có và không.
Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch: BÀI 5: THẤT CHÂU
Trời trong gió đẹp gấm buồm giương (TS TỪ ĐẠO HẠNH)
Thần tiên về đế hương Nhật nguyệt xuất nham đầu
Muôn trùng non nước biển mênh mông Nhơn nhơn tận thất châu
Trời xa bao dặm trùng. Phú nhơn hữu câu tử
Tình quyến luyến Bộ hành bất kỵ câu.
Chén đau lòng Dịch:
Tiễn người bao vấn vương. Nhật nguyệt trên đầu núi
Nguyện cùng thâm ý giữ biên cương Người người mất ngọc châu
Tấu trình lên Thượng hoàng. Phú nhơn có ngựa quý
Không cỡi đi bộ sầu.
BÀI 6:THỊ TỊCH
( TS TỪ ĐẠO HẠNH) BÀI 8 NGÔN HOÀI
( TS KHÔNG LỘ)
Thu lai bất báo nhạn lai quy Trạch đắc long xà địa khả cư,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh,
Cổ sư kỷ độ tác kim sư. Trường khiếu nhất thinh hàn thái hư.
Dịch: Dịch:
Thu về chẳng báo, nhạn cũng bay Kiểu đất long xà chọn được nơi,
Cười nhạt người đời thấy thương thay Tình quê nào chán suốt ngày vui.
Nay bảo các con thôi lưu luyến Có khi đỉnh núi trèo lên thắng,
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay. Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.

BÀI 7 THỊ TỊCH


(TS NI DIỆU NHÂN) BÀI 9 NGƯ NHÀN
“Sinh, lão, bệnh, tử, (TS KHÔNG LỘ)
Tự cổ thường nhiên. Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Dục cầu xuất ly, Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Giải phược thiêm triền. Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền .
Mê chi cầu Phật, Dịch
Hoặc chi cầu thiền. Muôn dặm sông dài muôn dặm trời,
Thiền, Phật bất cầu, Một làng dâu giá, một làng hơi.
Uổng khẩu vô ngôn.” Ông chài mê ngủ, không người gọi,
Dịch: Tỉnh giấc quá trưa, tuyết đầy thuyền.
Sanh, già, bệnh, chết,
Từ xưa thường vậy.
Muốn tìm thoát ra, BÀI 10 CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Mở trói thêm buộc. (TS MÃN GIÁC)
Xuân khứ bách hoa lạc,
Mê mới tìm Phật, Xuân đáo bách hoa khai.
Lầm mới tìm thiền. Sự trục nhãn tiền quá,
Thiền, Phật chẳng tìm, Lão tùng đầu thượng lai.
Ngậm miệng không nói. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền, tạc dạ, nhất chi mai.
Dịch
Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
BÀI 11 : KIẾN GIẢI BÀI 13 : ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN
( TRẦN NHÂN TÔNG )
( TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ ) Ðịa tịch đài du cổ
Kiến giải trình kiến giải Thời lai xuân vị thâm
Tự niết mục tác quái. Vân sơn tương viễn cận
Niết mục tác quái liễu Hoa kính bán tình âm.
Minh minh thường tự tại. Vạn sự thuỷ lưu thuỷ
Dịch : Bách niên tâm ngữ tâm
Kiến giải trình kiến giải Ỷ lan hoành ngọc địch
Tợ dụi mắt thấy quái. Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dụi mắt thấy quái rồi Dịch:
Rõ ràng luôn tự tại. Đất vắng đài thêm cổ,
Ngày qua xuân chưa nồng.
BÀI 12 : SỐNG CHẾT NHÀN THÔI . Gần xa mây núi ngất,
( TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ ) Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước,
Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt Tựa lan, nâng ống sáo,
Sanh tử xưa nay vốn tánh không Đầy ngực ánh trăng lồng.
Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.

Phiền não bồ-đề bỗng mất tiêu BÀI 14 : SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt ( TRẦN NHÂN TÔNG )
Chảo dầu lò lửa chợt mát liền I.
Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết. Thùy phược cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Bồ tát nói pháp ta nói thiệt Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Sanh dối sanh chết dối chết II.
Bốn đại vốn không nương đâu đây. Thị phi niệm tục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Chớ như hươu khát đuổi bóng nắng Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nắm đông bắt tây không ngớt chạy Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Pháp thân không lại cũng không qua Dịch :
Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy. PHÒNG NÚI KHỞI HỨNG
I.
Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi Ái trói lại mong cầu giải thoát
Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên
Kẻ ngu sống chết mãi lo âu Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão
Người trí rõ không nhàn thôi vậy. Như cũ vân trang một chõng thiền.
II.
Phải quấy niệm rơi hoa buổi sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.
BÀI 15 : BÀI KỆ ĐỀ Ở CHÙA LÀNG CỔ BÀI 18 : TĂNG SĨ ĐỒ TỬ ĐỆ
CHÂU. ( HUYỀN QUANG )
( TRẦN NHÂN TÔNG ) Phú quý phù vân trì vị đáo
Quang âm lưu thủy cấp tương thôi
Thế số nhất tức mặc Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ
Thời tình lưỡng hải ngân Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
Ma cung hồn quản thậm DỊCH:
Phật quốc bất thắng xuân . TẶNG CON EM LÀM QUAN
DỊCH : Giàu sang mây nổi đến dần dà
Số đời một hơi thở Ngày tháng trôi nhanh chẳng đợi mà
Lòng người hai biển vàng Chi bằng tiểu ẩn nơi rừng suối
Cung ma dồn quá lắm Một giường gió mát, một chung trà.
Cõi Phật vui nào hơn.
BÀI 19 : CÚC HOA (1)
BÀI 16 : CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ ( HUYỀN QUANG )
( TRẦN NHÂN TÔNG ) Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Hội thứ nhất : Phần hương độc tọa tự vong ưu
Mình ngồi thành thị; Nết dùng sơn lâm. Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Muôn nghiệp lặng an nhàn Thể tánh; Nửa ngày rồi tự tại Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
thân tâm. DỊCH :
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí, Người ở trên lầu hoa dưới sân
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người Một đoá hoa vàng chợt nở tung.
đắc ý;
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm. BÀI 20 : CÚC HOA (2 )
… ( HUYỀN QUANG )
Sách dễ xem chơi, yêu tánh sáng hơn yêu châu báu, Vong thân, vong thế, dĩ đô vong
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
BÀI 17 : THẠCH THẤT Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
( HUYỀN QUANG ) DỊCH :
Bán gian thạch thất hòa vân trụ Bẵng quên thân thế chẳng hề vương,
Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn Lặng lẽ ngồi lâu lạnh thấu giường.
Tăng tại thiền sàng kinh tại án Năm hết trong non không sẵn lịch,
Lô tàn cốt đột nhật tam can. Nhìn xem cúc nở tiết trùng dương.
Dịch :
Nửa gian cốc đá lẫn trong mây
Một mảnh áo lông trải tháng ngày
Tăng ở trên giường thiền, kinh tại án
Lò hương tàn lụn mặt trời lên.
BÀI 21 : THỊ TỊCH
( PHÁP LOA)
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
Trân trọng chư nhơn hưu tá vấn
Na biên phong nguyệt cánh man khoan .
DỊCH :
Muôn duyên đoạn dứt một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

BÀI 22 : CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ


( TRẦN NHÂN TÔNG )
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
DỊCH :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

You might also like