You are on page 1of 22

Vấn đề cơ bản của triết học? Đáp.

Câu trả lời gồm ba ý lớn


1) Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học. Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học nào đều là vấn đề về mối quan hệ
giữa tư duy với tồn tại; giữa cái tinh thần với cái vật chất; giữa cái chủ quan với cái khách quan.
Vấn đề cơ bản của triết học có đặc điểm a) Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải quyết
những vấn đề khác. b) Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn đề khác, ít chung hơn
của triết học. c) Giải quyết vấn đề này như thế nào thể hiện thế giới quan của các nhà triết học và thế giới quan đó là cơ sở tạo
ra phương hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
2) Định nghĩa. Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa tư duy và tồn tại”.
3) Hai nội dung (hai mặt) vấn đề cơ bản của triết học.
a) Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý thức với vật chất. Cái gì sinh ra
và quy định cái gì- thế giới vật chất sinh ra và quy định thế giới tinh thần; hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và quy định
thế giới vật chất- đó là mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học. Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học như thế
nào là cơ sở duy nhất phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối lập nhau là chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm triết học; phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành triết học nhất nguyên (còn gọi
là nhất nguyên luận) và triết học nhị nguyên (còn gọi là nhị nguyên luận).
b) Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa khách thể với chủ thể nhận thức,
tức trả lời câu hỏi liệu con người có khả năng nhận thức được thế giới (hiện thực khách quan) hay không? Giải quyết mặt thứ
hai vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành phái khả tri (có
thể biết về thế giới), bất khả tri (không thể biết về thế giới) và hoài nghi luận (hoài nghi bản chất nhận thức của con người về
thế giới).
Vai trò của sản xuất vật chất và PTSX đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát
triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Xuất phát từ nhân tố “con người hiện thực” C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và đó là việc:
“con người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử”. Muốn vậy con người cần có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo... những thứ đó chỉ có thể được tạo ra từ sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản
xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, đó là hoạt động cơ bản của con người, là cái để phân biệt hoạt động của
con người với con vật. Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải có không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà phải có quan hệ
với nhau và trên cơ sở những quan hệ sản xuất này mà phát sinh các quan hệ khác như: chính trị, đạo đức, pháp luật...Vì vậy,
trong quá trình sản xuất vật chất con người không những làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội đồng thời làm biến đổi cả bản
thân mình. Do đó, sản xuất vật chất không ngừng phát triển tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát triển.
Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển của
xã hội suy cho cùng có nguyên nhân từ sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết các vấn đề của
đời sống xã hội thì phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Suy cho cùng cái để phân biệt
các thời đại kinh tế không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là nó được tiến hành bằng cách nào và với công cụ gì. Quan
điểm về vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của sản xuất và xã hội là cơ sở để giải thích sự
phát triển của lịch sử nhân loại, đó chính là lịch sử phát triển thay thế của phương thức sản xuất.
Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội
loài người từ trình độ thấp đến trình độ cao. Sự thay thế của phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác có thể
diễn ra theo quy luật phát triển tuần tự hoặc nhảy vọt, bỏ qua một phương thức sản xuất nào đó trong những điều kiện nhất
định, hoặc có thể có sự đan xen giữa các phương thức sản xuất trong những giai đoạn nhất định tạo nên tính phong phú, đa
dạng về con đường phát triển của các dân tộc trong lịch sử.
Nhận thức được vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó trong nhận thức là cơ sở
giúp cho chúng ta nhận thức được rằng, mọi hoạt động thực tiễn và nhận thức phải dựa trên nền tảng sản xuất vật chất.
Sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi, phát triển của xã hội do đó để thúc đẩy xã hội phát triển cần phải
thúc đẩy sự phát triển của phương thức sản xuất. Quá trình vận động, phát triển, thay thế của phương thức sản xuất trong lịch
sử là quá trình phong phú, đa dạng do đó các dân tộc phải tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể để lựa chọn con đường phát
triển riêng của mình, phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử.
QĐIỂM 2: Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát
sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài
người.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực
lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.

Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức...) và các tư liệu sản xuất (gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động) trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì suy đến cùng các tư liệu
sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào
trình độ sử dụng của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân tố công cụ lao động do con người sáng tạo ra phản ánh rõ
nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu của
khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất làm cho các tri thức khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển và chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Quan hệ sản xuất bao
gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.

Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất giữa vai trò quyết định.

Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản
xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất,
còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.

Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phụ
thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Vai trò quyết định của lực lượng
sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ:

- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. - Khi lực lượng sản xuất biến đổi quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến đổi theo. - Lực lượng sản
xuất quyết định cả ba mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức
phân phối sản phẩm.

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp
của quan hệ sản xuất với thực trạng của lực lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động tích cực, thúc đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản
xuất phát triển. - Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành
các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất, tạo nên sự ổn định tương đối,
đảm bảo sự tương thích giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết lập quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản
xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực.
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn gốc và động lực cơ bản của sự
vận động, phát triển các phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ
hiện tượng xã hội và sự biến động trong đời sống chính trị, văn hóa của xã hội.
Phân tích nội dung và kết cấu của LLSX. Tại sao nói trong thời đại hiện nay khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp của
xã hội ?
a. Nội dung và kết cấu của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất: * LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất
(trước hết là công cụ sản xuất) và con người với kinh nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ. + LLSX biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. + LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan. + Kết cấu
của lực lượng sản xuất. + LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm:
+ Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản xuất như những
phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm. + Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con
người tạo ra và được con người sử dụng trong quá trình sản xuất. - Yếu tố con người: Đó chính là người lao động với kinh
nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà quan hệ hữu cơ với
nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực
lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là
khoa học. b) Khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp vì: Không thể phát triển sản xuất nếu thiếu sự tham gia của khoa học.
Những sáng chế phát minh trong khoa học được áp dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất và trở thành một mắt khâu của quá
trình sản xuất. - Khoa học được kết tinh vào mọi nhân tố của quá trình sản xuất (vào đối tượng lao động, vào tư liệu lao động
vào phương pháp công nghệ và cả trong tri thức của người lao động). - Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi
to lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới kết hợp khoa học với kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những
phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao sản xuất

Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa này, Định nghĩa này khắc phục những
vấn đề triết học trước Mác? Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất
của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và
siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”
* Phân tích: Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…” - “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng
nhất của lý luận nhận thức. + Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới góc độ của
các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái
niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định
nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua
cái đối lập với nó). Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, Lênin đã bỏ qua những
thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở
tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”,
tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không
phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung nhất của mọi khách thể vật chất xét trong
quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó
giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác. Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau
đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực cụ thể cảm tính của phạm trù vật
chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật,
hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan.
Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan. Tức là Lênin đã
giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật và biện chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác và những
biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng nên nó đã có
tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho
tàng tri thức của nhân loại. Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo về phạm trù vật chất; đã khắc phục được tính chất
siêu hình, cơ giới, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác; chống lại quan điểm của chủ nghĩa
duy vật tầm thường, là đồng nhất vật chất với ý thức; có ý nghĩa trong việc chống lại thuyết không thể; đã liên kết chủ nghĩa
duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một thể thống nhất; đã mở đường cho các nhà khoa học đi sâu nghiên
cứu và khám phá những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất
Định nghĩa này khắc phục những vấn đề triết học trước Mác
Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại
Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể vật chất đầu tiên là cơ sở thế giới. Họ quy vật
chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm vật chất của các nhà duy vật cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật
chất nói chung với những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Quan điểm của các nhà duy vật thời cận
đại
Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không
phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với một thuộc tính nào đó của vật
chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng. Nhận xét của Lênin về cuộc khủng hoảng và cách giải quyết
Trong tác phẩm “ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin đã phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ
rõ:
Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Không phải “vật chất tiêu tan”
mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất là tiêu tan. Nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của
sự nhận thức về vật chất.Theo V.I.

Lênin những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên không hề bác bỏ vật chất mà chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chế của
con người về vật chất. Giới hạn tri thức của chúng ta hôm qua về vật chất còn là nguyên tử thì hôm nay đã là các hạt cơ bản và
ngày mai chính cái giới hạn đó sẽ mất đi. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu vào vật chất, phát hiện ra những kết cấu
mới của nó.

Tình hình mới của lịch sử và thời đại đặt ra là phải chống lại chủ nghĩa duy tâm các loại, khắc phục những hạn chế của chủ
nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về vật chất. Muốn vậy, phải có một quan niệm đúng đắn, đầy đủ và chính xác về vật
chất. Lênin đã hoàn thành nhiệm vụ đó.

PHÂN TÍCH PHƯƠNG TÍCH TỒN TẠI VẬT CHẤT?


Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ
thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận động “là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của
vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn
liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ học,
vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học, vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các
hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc
trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có. Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức
vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này
vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức. Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc
tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ
nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và
thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ;
đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động. Đứng im
là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay
một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.Đứng im là trạng thái đặc
biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình
dạng, kết cấu của sự vật.
Nhân tố nào là nhân tố cơ bản nhất của ý thức? tại sao? cho ví dụ tương ứng?
Tri Thức đóng vai trò là Phương thức tồn tại của ý thức. Trong kết cấu ý thức, nhân tố Tri Thức là nhân tố chi phối mạnh mẽ
các nhân tố Tình Cảm, Ý Chí của con người, của xã hội; là nhân tố thể hiện tiêu biểu và tập trung các đặc trưng bản chất của ý
thức; là nhân tố đặc biệt quan trọng trong sự phân biệt giữa phản ánh sáng tạo của ý thức với các hình thức phản ánh khác của
vật chất trong giới tự nhiên; là nhân tố cơ bản làm tiền đề cho những sáng tạo của hoạt động thực tiễn.
Nguồn gốc xã hội quyết định sự ra đời của ý thức, vai trò của lao động?
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là
sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý
thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng 2 tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý
nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc chế tạo ra công cụ
lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận
động của mình qua những hiện tượng nhất định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên những cảm giác,
tri giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không phải là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan
vào bộ óc con người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con người cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao
giờ cũng là ý thức của con người hoạt động xã hội. Quá trình lao động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức
không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về những thuộc tính mới của sự vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu t-
ượng của con người dần dần hình thành và phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng
được củng cố và phát triển đến mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó", tức là ph ương
tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Đó là ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội
dung ý thức. Theo Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng; không có ngôn ngữ thì con
người không thể có ý thức.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công cụ sản xuất tác động vào các đối tượng của tự
nhiên để sản xuất ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy
luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng ấy tác động vào óc người hình thành dần những
tri thức về tự nhiên và xã hội. Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con người được hoàn
thiện trong quá trình phản ánh thế giới xung quanh. Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần
kinh phát triển.
Tại sao nói quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập nêu nguồn gốc, động lực vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng? Đáp. Câu trả lời có ba ý lớn

1) Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật. Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận
động, phát triển. Nắm vững được nội dung của quy luật này tạo cơ sở cho việc nhận thức các phạm trù và quy luật khác của
phép biện chứng duy vật; đồng thời giúp hình thành phương pháp tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của sự vật, hiện
tượng và giải quyết mâu thuẫn nảy sinh.
2) Nội dung quy luật.
a) Các khái niệm của quy luật. Mặt đối lập… Sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng và
mâu thuẫn biện chứng quy định sự biến đổi của các mặt đối lập nói riêng và của sự vật, hiện tượng nói chung. Thống nhất
giữa các mặt đối lập…. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập còn gọi là sự đồng nhất giữa chúng do trong các mặt đối lập còn
tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất giữa các mặt đối lập, nên trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện
và hoạt động, trong những điều kiện nào đó, tạo sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Đồng nhất không tách rời với
sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với chính bản thân nó; trong đồng nhất đã
bao hàm sự khác nhau, đối lập. Các mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau;
người ta gọi đó là đấu tranh giữa các mặt đối lập và sự đấu tranh đó không tách rời với sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất
giữa chúng trong một mâu thuẫn.
b) Vai trò của mâu thuẫn biện chứng đối với sự vận động và phát triển. Theo Ph. Ăngghen, nguyên nhân chính và cũng là
nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng là sự tác động lẫn nhau giữa
chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác động lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo
nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai loại tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên
mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
c) Một số loại mâu thuẫn. +) Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong- là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập, là mâu thuẫn nằm ngay
trong bản thân sự vật, hiện tượng, đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau có ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
+) Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn cơ bản- là
mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện tượng, quy định sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong tất cả các giai đoạn, từ
lúc hình thành cho đến lúc kết thúc và mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn
không cơ bản chỉ là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, hiện tượng, chịu sự chi phối của mâu thuẫn
cơ bản; là mâu thuẫn chỉ quy định sự vận động, phát triển của một hoặc vài mặt nào đó của sự vật, hiện tượng.
+) Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong một giai đoạn nhất
định,người ta phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn chủ yếu- là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật, hiện tượng; có tác dụng quy định những mâu thuẫn khác trong cùng một giai đoạn của quá trình phát triển của sự
vật, hiện tượng. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết những mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. Sự phát
triển, chuyển hoá của sự vật, hiện tượng sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn thứ
yếu là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh
giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương đối, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể; có những mâu thuẫn trong điều kiện
này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại.
+) Căn cứ vào tính chất của các lợi ích cơ bản là đối lập nhau của các giai cấp, ở một giai đoạn nhất định, người ta phân mâu
thuẫn xã hội thành mâu thuẫn đối kháng- là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, giữa những xu hướng xã
hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc
lột; giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những giai
cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Các mâu thuẫn đó là cục bộ, tạm
thời.
c) Kết luận. Nội dung quy luật nói lên rằng, mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân; giải
quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển; sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân. Quá
trình từ khác nhau, thống nhất qua mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là mâu thuẫn giữa chúng được
giải quyết; xuất hiện sự thống nhất mới cùng với sự hình thành mâu thuẫn mới trong một sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất
thường trải qua ba giai đoạn chính, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của mình.
+) Giai đoạn một (giai đoạn khác nhau)- khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác
nhau giữa các mặt đối lập.
+) Giai đoạn hai (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành mâu thuẫn)- trong quá trình vận động, phát triển của các mặt có
khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và bài trừ, phủ định lẫn nhau ở giai đoạn một; sự khác nhau chuyển thành mâu
thuẫn.
+) Giai đoạn ba (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn)- khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, nếu có điều kiện thì hai mặt
đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu nhau; hoặc cả hai mặt đó đều bị triệt tiêu; sự vật, hiện tượng chuyển sang chất
mới. Mâu thuẫn được giải quyết với kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất giữa hai mặt mới được hình thành
cùng với sự hình thành của mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết làm cho
sự vật, hiện tượng mới luôn xuất hiện thay thế sự vật, hiện tượng cũ. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho sự vật, hiện
tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu thuẫn biện chứng với sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, trong đó mâu thuẫn giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực bên trong của
sự vận động và phát triển.
+) Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, nghĩa là sự thống nhất đó tồn
tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật, hiện tượng.
+) Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện
tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển
diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
3) Từ nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
a) Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương
hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con đường đi sâu nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện
tượng. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần phải tìm ra thể thống nhất của những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau,
tức là tìm ra những mặt đối lập và những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó trong sự vật, hiện
tượng.
b) Quy luật mâu thuẫn giúp khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét
vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mặt mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng
mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu đúng sự vật,
hiểu đúng xu hướng vận động để giải quyết mâu thuẫn.
c) Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức được rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội hay
bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.
Tại sao nói quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại nêu cách thức, tính chất
phát triển của sự vật, hiện tượng?
Đáp.Câu trả lời có ba ý lớn
1) Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật. Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật về sự chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng đổi-chất
đổi) chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích
lũy được những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn- đến độ. Quy luật lượng đổi-chất đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát
triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện
tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
2) Nội dung quy luật.
a) Các khái niệm của quy luật. Chất là ... Chất có đặc điểm cơ bản +) biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng,
nghĩa là khi sự vật, hiện tượng này chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật,
hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn, sự vật, hiện tượng lại có chất riêng
ở giai đoạn đó. Như vậy, +) mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất. Lượng là … Lượng có đặc
điểm cơ bản +) tính khách quan vì nó là một dạng của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong
một thời gian nhất định. +) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu tố quy định bên trong,
có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng
cũng phức tạp theo. +) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và tư duy lại có những
lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy trừu tượng. Sự phân biệt giữa chất
và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất. Có cái là lượng ở
trong mối quan hệ này, lại có thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng là +) một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau
ở một độ nhất định. +) cũng trong phạm vi độ đó chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dần biến đổi
bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức
dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Chỉ khi lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự
thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả của sự thay đổi đó là sự vật, hiện tượng
cũ mất đi; sự vật, hiện tượng mới ra đời.
c) Khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy. Độ dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất và lượng; là
giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng khác. Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới- thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy-
được gọi là điểm nút. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới. Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá
cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra; là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về
lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng; là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện
tượng. Trong sự vật, hiện tượng mới, lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động
của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho
sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ. Quy luật lượng đổi - chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn
đến chất đổi mà còn có chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự
thống nhất mới giữa chất và lượng.
Một số hình thức của bước nhảy. Việc thừa nhận có bước nhảy hay không cũng là cơ sở để phân biệt quan điểm biện chứng và
quan điểm siêu hình. (tài liệu có - 2 đoạn)
d) Kết luận. Nội dung quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng-chất là quan hệ biện chứng; thể hiện ở +) những thay đổi về lượng
chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. +) lượng biến
đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ chất cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một mức
độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. +) quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên con đường
vận động liên tục, từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới nhảy vọt về chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho
bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
3) Từ nội dung quy luật lượng đổi-chất đổi của phép biện chứng duy vật, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. a) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thực hiện
bước nhảy để chuyển hoá về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải biết từng bước tích lũy về
lượng để làm biến đổi về chất.
b) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp được rằng, mặc dù cũng mang tính khách quan, nhưng quy luật xã hội lại diễn ra thông
qua các hoạt động có ý thức của con người; do đó khi đã tích lũy đầy đủ về lượng phải quyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp
thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang thay đổi
mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi sự
phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.
c) Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó.
Tại sao nói quy luật phủ định của phủ định nêu khuynh hướng và kết quả phát triển của sự vật, hiện tượng?
Đáp. Câu trả lời có ba ý lớn
1) Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật. Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
quy luật phủ định của phủ định (quy luật phủ định) chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển của sự vật, hiện
tượng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ
sự vật, hiện tượng cũ và phát triển theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn; trong sự xuất hiện của cái mới có lặp lại tương đối một số đặc tính của cái cũ và kết quả là trong cái mới tồn tại một
số đặc tính của cái cũ đã được cải tạo cho phù hợp.
2) Nội dung của quy luật
a) Các khái niệm của quy luật
Phủ định biện chứng là sự thay thế hình thức tồn tại này bằng hình thức tồn tại khác của một sự vật, hiện tượng nào đó trong
quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và diệt vong của nó. Nói cách khác, phủ định biện chứng là tiền đề, điều kiện cho sự
phát triển; cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với
sự vật, hiện tượng mới; là quá trình tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là mắt xích trong sợi xích dẫn tới sự ra
đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ. Phủ định biện chứng có +) Tính khách quan. Sự vật,
hiện tượng tự phủ định mình do các mâu thuẫn bên trong chúng gây ra. +) Tính kế thừa. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự
vật, hiện tượng cũ nên kế thừa biện chứng là duy trì những yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng lọc
bỏ, những yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định được cải tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá
trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của những yếu tố tích cực (phù hợp) được kế thừa. Việc giữ lại những
yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định là tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện sự vật, hiện tượng mới.
Đường xoáy ốc. Vì còn những nội dung mang tính kế thừa nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng không thể phát triển theo
đường thẳng mà diễn ra theo đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng là tính kế thừa, tính lặp lại, nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển dường như
lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định. Mỗi vòng mới của
đường xoáy ốc thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển và sự nối tiếp nhau của các vòng của đường xoáy ốc thể hiện tính vô
tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
b) Nội dung của quy luật
+)Quy luật phủ định của phủ định thể hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng quy định.
Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá giữa những mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Phủ định lần
thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó. Phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời
của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định, nhưng cũng mang nhiều nội
dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời do kết quả của sự phủ định lần
thứ hai) sẽ lại trở thành sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào); nhưng về nội dung, không phải trở lại sự vật,
hiện tượng xuất phát nguyên như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
+) Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển bởi chỉ thông qua phủ định của phủ định mới dẫn đến
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời
lại là điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo.
+) Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ tuỳ theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể; nhưng ít nhất cũng phải qua
hai lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển. Sau một số lần phủ
định, sự vật, hiện tượng phát triển theo đường xoáy ốc. Thực chất của sự phát triển đó là sự biến đổi, mà giai đoạn sau còn
bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Đó là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng. Với đặc điểm như
vậy, phủ định biện chứng không chỉ là yếu tố khắc phục sự vật, hiện tượng cũ, mà còn gắn sự vật, hiện tượng cũ với sự vật,
hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng khẳng định với sự vật, hiện tượng phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng là vòng khâu tất
yếu của sự liên hệ và sự phát triển.
+) Kết luận. *) Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Phủ định biện chứng là sự thống
nhất của yếu tố bị loại bỏ với yếu tố được kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện xong sẽ mang lại
những yếu tố tích cực mới. Do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển
không ngừng của sự vật, hiện tượng. *) Quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật, hiện tượng
bị phủ định với sự vật, hiện tượng phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phủ định sạch trơn, loại bỏ tất cả
các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự
vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có tính
tiến lên theo đường xoáy ốc.
3) Từ nội dung quy luật phủ định của phủ định của phép biện chứng duy vật, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
a) Nắm được khuynh hướng tiến lên của sự vận động của các sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa các tính chất tiến bộ và
kế thừa của sự phát triển. Sau khi đã trải qua các mắt xích của sự chuyển hoá, chúng ta đã có thể xác định được kết quả cuối
cùng của sự phát triển.
b) Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đúng đắn về xu hướng của sự phát triển là quá trình phát triển của sự vật,
hiện tượng không diễn ra một cách thẳng tắp, ngược lại, quá trình đó diễn ra quanh co, phức tạp.
c) Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đầy đủ hơn về cái mới. Cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát
triển của sự vật, hiện tượng; nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong giới tự nhiên, sự xuất hiện
cái mới diễn ra một cách tự phát; nhưng trong lĩnh vực xã hội, cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý
thức của con người. Tuy cái mới chiến thắng cái cũ, nhưng trong một thời gian nào đó, cái cũ còn mạnh hơn cái mới; vì vậy,
quan điểm chung là ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố
tích cực và hợp lý của cái cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của cái mới.
Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Đáp. Câu trả lời có ba ý lớn
Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng con người tự làm ra mình và lịch sử của mình bằng hoạt động thực tiễn (thực
tiễn). Đó là cách hiểu về vai trò của thực tiễn với tư cách là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử và cũng là điểm
xuất phát của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
1) Thực tiễn là gì.
a) Định nghĩa. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối
tượng đó thay đổi theo mục đích của mình. Là hoạt động đặc trưng của bản chất con người, thực tiễn không ngừng phát triển
bởi các thế hệ của loài người qua các quá trình lịch sử.
b) Các hình thức của thực tiễn. Thực tiễn bao gồm những hình thức hoạt động khác nhau của xã hội như a) Hoạt động sản
xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn; là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người;
là hoạt động đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người; là hoạt động đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung. b) Hoạt động cải tạo xã hội là hoạt động nhằm cải tạo hiện thực xã
hội, cải biến những quan hệ xã hội nên hoạt động cải tạo xã hội có tác dụng trực tiếp đối với sự phát triển xã hội. c) Thực
nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực
nghiệm xã hội v.v được tiến hành trong điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để dựa trên cơ
sở đó nhận thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức. d) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục,
pháp luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã hội.
c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
+) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối
quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã
được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính
nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của
mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau
giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của
thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
+) Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thỏa mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động,
phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải
quyết.
+) Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các
giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản
ánh của con người đối với
tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thường
xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã
đạt được, đồng thời thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức
Như vậy, thực tiễn vừa là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận
thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vì thế, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức,
vừa là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức.
3) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
a) việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. b) việc nghiên cứu
lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu;
ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Con đường biện chứng của nhận thức chân lý?
Đáp. Câu trả lời có ba ý lớn
1) Quan điểm của V.I.Lênin Về con đường biện chứng của nhận thức chân lý.“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”.
Như vậy, nhận thức là sự phản ánh thế giới được thực hiện trên cơ sở thực tiễn và con đường biện chứng của nhận thức gồm
hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau.
2)Các giai đoạn của quá trình nhận thức
a) Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn
này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu
tượng.
Những thành phần của nhận thức cảm tính
+) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con người. Cảm
giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác
là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+) Tri giác là sự tổng hợp (sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo
nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của các
yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai
đoạn nhận thức cảm tính; là hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người
và do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính. Trong biểu tượng đã có
những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu
thuẫn nhưng chưa nắm được sự chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà
đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các
nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện
tượng.
b) Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính
phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức.
Những thành phần của nhận thức lý tính
+) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan khi phản
ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát
biện chứng những thông tin đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Các thông tin, tài liệu đó càng nhiều, càng đa dạng thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và giữa chúng có các mối liên hệ
qua lại với nhau trong sự vận động, phát triển không ngừng dẫn đến sự hình thành những khái niệm mới, phản ánh sâu sắc
hơn về bản chất của sự vật, hiện tượng.
+) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc
tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào
ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan. Có ba loại
phán đoán cơ bản là phán đoán đơn nhất; phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến, trong đó phán đoán phổ biến là hình thức
diễn đạt tương đối đầy đủ các quy luật.
+) Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới theo phương pháp phán
đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán
đoán mới). Suy luận có vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã
biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Có thể nói rằng, đa số các ngành khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và
nhờ đó, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Tuỳ thuộc vào tính chất của mối liên
hệ giữa các phán đoán tiên đề với phán đoán kết luận mà suy luận có thể là suy luận quy nạp hoặc suy luận diễn dịch. Trong
các suy luận quy nạp, tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến; trong các suy luận diễn dịch tư duy đi từ
cái chung đến cái ít chung hơn và đến cái đơn nhất. Cũng như khái niệm và phán đoán, các loại suy luận đều biến đổi, có liên
hệ qua lại với nhau theo tiến trình phát triển của nhận thức.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng và khái quát hoá các thông tin, tài
liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn;
phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia quá trình nhận thức như trên chỉ là sự trừu tượng quá trình vận động của nhận thức; còn trên thực tế, nhận thức
cảm tính, nhận thức lý tính và các nấc thang của chúng luôn đan xen nhau và thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận
thức đó.
3) Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức
a) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy có những sự khác biệt về mức
độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trên thực tế, nhận thức lý tính
không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại. Nhận thức cảm tính là cơ sở tất yếu của tư duy trừu
tượng và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
b) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới khách quan đều là kết quả của cả
trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh
động là điểm khởi đầu, tư duy trừu tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và
thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó chính là con đường biện chứng của nhận
thức.
c) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn cảm tính gắn liền với thực tiễn, gắn liền với
sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức lên các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính đã thoát
khỏi sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức để có thể bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này
nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ trở thành ảo tưởng, viển vông, không thực tế. Đó
là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
d) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong
đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự
khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho
nhận thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động
biến đổi thế giới.
e) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi
lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn. Quá trình giải quyết
mâu thuẫn của nhận thức cũng là quá trình loại bỏ dần những nhận thức sai lầm đã phạm phải. Kết quả của quá trình đó là
hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, có nội dung khách quan hơn và cụ thể hơn. Trong quá trình đó
không ngừng nảy sinh, vận động và giải quyết các mâu thuẫn của nhận thức để tạo ra các khái niệm, phạm trù, quy luật nhằm
phản ánh đúng bản chất của thế giới vật chất đang vận động, chuyển hoá và phát triển không ngừng.
Phủ định biện chứng và phủ định siêu hình giống và khác nhau như thế nào? cho ví dụ?
Giống nhau : phủ định biện chứng và phủ định siêu hình đều xóa bỏ , phủ nhận sự tồn tại cua một sự vật hiện tượng nào đó .
Khác nhau :
* Phủ định siêu hình : cản trở xóa bỏ sạch trơn , tận gốc sự tồn tại của sự vật hiện tượng VD : sử dụng thuốc trừ sâu để diệt
sâu bệnh .
* Phủ định biện chứng : cũng là phủ nhận sự tồn tại của dự vật hiện tượng nhưng không xóa bỏ , phủ , nhận sạch trơn . Phủ
định biện chứng chỉ xóa bỏ những cái lạc hậu tiêu cực lỗ thời , có những kế thừa nhưng yếu tố tích cực để cho sự vật hiện
tượng phát triển không ngừng .
VD : trong phong tục cưới hỏi của dân tộc thời xưa , có những cái tiêu cực là cướp dâu , cưỡng hôn . Những thời đại bây giờ
đã xóa bỏ những tập tục lạc hậu đó nhưng vẫn giữ nguyên và kế thừa những truyền thống tốt đẹp như : hỏi xin cưới , lễ vật
bằng rượu trầu cánh phượng v.v....
Vận dụng tư tưởng phủ định biện chứng vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thế giới, các sự vật, hiện tượng sinh ra tồn tại phát triển rồi mất đi, được
thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật, hiện
tượng trong quá trình vận động phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
Phủ định biện chứng không bao hàm mọi sự phủ định nói chung mà nó chỉ bao hàm những phủ định là kết quả của việc giải
quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền để, điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời
thay thế cái cũ.
Trong sự vận động vĩnh viễn của vật chất, sợi dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái
cũ, nhưng rồi cái mới này trở nên cũ và bị cái cũ sau phủ định. Sự phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định như thế,
tạo ra một khuynh hướng phát triển tất yếu là đi từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoáy ốc. Trong những chu kì của
sự phát triển, sau một số lần phủ định sự vật dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
phủ định biện chứng có một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Tính khách quan: Nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu
thuẫn bên trong sự vật. Do đó, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.
+ Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết quả của việc tự giải quyết mâu thuẫn bên trong của bản thân sự vật và của quá
trình tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, cho nên cái mới ra đời không thể là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà là sự
phủ định có kế thừa. Cái mới ra đơì trên cơ sở cái cũ, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, mà có chọn lọc, giữ lại và cải
tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ. Với tính kế thừa ấy phủ định biện chứng đồng thời cũng là khằng định.
Văn hóa là một di sản cực kỳ quý báu được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày hôm nay, văn hóa xuất hiện trên hầu
hết các lĩnh vực của cuộc sống: văn hóa tình cảm, văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh, văn hóa tranh luận, phê bình... văn
hóa là hành trang của đất nước trên con đường hội nhập quốc tế.
văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có những quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân
tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hóa trong điều kiện dân tộc đã hình
thành. Nội lực của dân tộc, một mặt, chính là nguồn nhân lực to lớn, mặt khác, là truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được
kết tinh và hiện đại hóa.
Hiện nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và những biến thể của nó đang là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm ở
Việt Nam. Nỗi ám ảnh về bản sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngôn chính trị như "xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện
đại, đậm đà bản sắc dân tộc", "hội nhập nhưng không hòa tan" cho đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội như xây dựng
thương hiệu Việt, tự kiểm điểm tính cách dân tộc hay phê bình văn học nghệ thuật. Không thể phủ định, đây là một định
hướng đúng đắn, một mối quan tâm lành mạnh của toàn xã hội khi Việt Nam ngày càng tham gia một cách toàn diện hơn vào
quá trình toàn cầu hóa nhưng tự bản thân những khát vọng bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc cũng đặt ra những câu hỏi hóc
búa đối với toàn xã hội, trước hết là trong việc xác định bản sắc văn hóa dân tộc và sau đó là việc ứng xử với bản sắc văn hóa
đó.
Bản» là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật; «Sắc» là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam. Nói những hạt nhân giá
trị hạt nhân tức là không phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính
dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực như: văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc,
trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người Việt Nam.
Những giá trị hạt nhân đó không phải tự nhiên mà có, nó được tạo thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử
xây dựng, củng cố và phát triển của nhà nước Việt Nam. Những giá trị đó không phải là không thay đổi trong quá trình lịch
sử. Có những giá trị cũ, lỗi thời bị xóa bỏ, và có những giá trị mới, tiến bộ được bổ sung vào. Có những giá trị tiếp tục phát
huy tác dụng, dưới những hình thức mới. Dân tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm nghiệm
những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Không nên có tư tưởng tĩnh và siêu hình đối với những giá trị hạt nhân đó, thậm chí đối với những giá trị mà chúng ta vốn cho
là thiêng liêng nhất. Nếu dân tộc không có ý thức giữ gìn, bồi dưỡng, tái tạo để trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì
chúng cũng bị mai một và tàn lụi đi theo năm tháng.
Có người hỏi có thể có những giá trị bản sắc là tiêu cực, hay là đã nói bản sắc là nói cái gì tiến bộ, tích cực, xứng đáng được
trao truyền và thừa kế. Không nên có cái nhìn tĩnh tại và siêu hình đối với bản sắc dân tộc. Cái gì sống đều thay đổi và phải
thay đổi. Bản sắc dân tộc cũng vậy. Giai cấp lãnh đạo phải sáng suốt và chủ động đối với quá trình diễn biến của bản sắc dân
tộc. Những giá trị nào lỗi thời phải xóa bỏ, những giá trị mới nào cần bổ sung thêm vào, những giá trị nào cần kế thừa, nhưng
dưới một hình thức mới, và hình thức mới đó thêm ra sao? Trong những bước chuyển cách mạng, những sự kiện đổi đời của
dân tộc ta như cuộc cách mạng Tháng tám, chiến thắng của Ngô Quyền kết thúc đêm dài mười thế kỷ Bắc thuộc, sự kiện Tây
Sơn...,
Nói tóm lại, cái lỗi thời nhưng không được cải tiến, cái tốt nhưng lại bị cường điệu, cái tốt ngoại lai nhưng không được bản
địa hóa nhuần nhuyễn đều có thể biến thành tiêu cực và tạo trở ngại cho sự phát triển bình thường của nền văn hóa dân tộc. Vì
vậy, mà chúng tôi khẳng định, những giá trị bản sắc của dân tộc Việt Nam, của nền văn hóa Việt Nam cần phải được bộ phận
lãnh đạo của dân tộc thường xuyên kiểm nghiệm, theo dõi, gìn giữ, cải tiến, bổ sung, gạt bỏ những cái lỗi thời, đổi mới những
hình thức không còn thích hợp, tiếp thu và bản địa hóa mọi tinh hoa của văn hóa nước ngoài... khiến cho những giá trị gọi là
bản sắc văn hóa của dân tộc ta phát huy tới mức cao nhất của hai tác dụng xúc tác và hội tụ, đối với sự phát triển toàn diện và
mọi mặt của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác dụng xúc tác là tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển. Tác dụng hội tụ là tác
dụng gắn bó, kết hợp với mặt, các yếu tố thành một hệ thống nhất.
Quá trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng xích lại gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống
chung, đồng thời tạo điều kiện cho mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá trình này cũng sẽ tạo điều kiện
cho thế giới luôn tồn tại
trong sự thống nhất chung của tất cả những cái riêng, cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái riêng làm
tiền đề cho nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiến bộ.
Vận dụng tư tưởng phủ định biện chứng, ta không thể bảo vệ thụ động bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới
xuất hiện và chói sáng. Từ Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ dân gian, tuồng chèo, nhã nhạc Cung Đình Huế, Quan
Họ hay Ca trù... chứa đựng bản sắc dân tộc vì từng là sự giao thoa, cọ sát, khai thác lẫn nhau của các dòng văn nghệ, văn hóa
khác nhau. Gần đây thì chiếc áo dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu từ thời Đông Dương tới Đổi Mới, Thơ Mới, tiểu
thuyết, kiến trúc "Đông Dương", cải lương... đều là những suối nguồn, và "kho chứa" của bản sắc dân tộc. Nó trừu tượng song
không chung chung mà nằm ở các tác phẩm cụ thể của các tác giả cụ thể. Nếu có những nghiên cứu nhận dạng được những
nét chung nào đó của các tác phẩm, tác giả đó thì ta có thể gọi tên "bản sắc dân tộc" ta.
Giữ gìn bản sắc không co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ giao lưu văn hoá. Trên thế giới này không có một nền
văn hoá nào có tính thuần nhất bản địa. Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì cả hai địa bàn
đều chững lại trong phát triển. Đây là phép biện chứng của nhân tố ngoại sinh trong sự phát triển nội sinh. Tuy nhiên sự hội
nhập các giá trị văn hóa khác với sự tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép vào cơ thể những gien lạ
hoắc, gây nên sự biến dị , thậm chí những quái thai.
Tại sao nói phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội ?
Thứ1: QHSX được hình thành và phát triển đã ảnh hưởng đến lực lượng sản xuất LLSX là yếu tố luôn vận động và biến đổi
trong quá trình lịch sử. Sự phát triển từ LLSX bao giờ cũng được bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động,
của quá trình phân công lao động. Những giai đoạn khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức
khác nhau của sở hữu về TLSX.
+ Sự biến đổi của LLSX và QHSX sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi của QHSX.
+ Mâu thuẫn của LLSX và QHSX tất yếu sẽ dẫn đến phải xóa bỏ "Xiềng xích trói buộc" LLSX để xác lập QHSX mới phù
hợp với yêu cầu phát triển của LLSX (Trong xã hội có giai cấp đối kháng, LLSX và QHSX thường dẫn đến đấu tranh giai cấp
mà đỉnh cao của nó là CMXH
*Thứ 2: QHSX tác động trở lại TLSX (QHSX được hình thành, biến đổi theo yêu cầu phát triển của LLSX song nó có tính
độc lập tương đối) sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX diễn ra theo 2 xu hướng:
+ Nếu QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.
+ Nếu QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX, với hai nền sản xuất
có LLSX tương đương (Cơ khí, đại công nghiệp...) song tính chất của QHSX khác nhau sẽ dẫn đến mục đích của sản xuất
năng xuất lao động khác nhau.
Chú ý: QHSX có thể tác động mở đường cùng với sự phát triển của LLSX tác dụng đó có giới hạn của nó. Bao giờ QHSX
cũng bị LLSX quyết định. Như vậy có thể nói, sự liên hệ tác động qua lại biện chứng giữa LLSX và QHSX trong một phương
thức SX đã hình thành nên quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử xã hội loài người: quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính
chất và trình độ của LLSX quy luật này chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại nó làm cho lịch sử là một dòng chảy liên
tục xong máng tính gián đoạn. Trong từng giai đoạn lịch sử, quy luật này có những biểu hiện đặc thù của nó.
Ý nghĩa: Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX nói lên rằng nền sản xuất của xã hội chỉ có thể được
phát triển trên cơ sở QHSX phải phù hợp với LLSX, cho nên hiểu và vận dụng đúng quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển sản xuất. Trước đây ta đã chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật này thể hiện xây dựng QHSX quá
cao quá xa
so với tính chất và trình độ của LLSX chưa quan tâm chú ý đầy đủ đến các mặt QHSX. Nước ta hiện nay đang ở thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội nên LLSX vẫn còn ở trình độ thấp tính chất của công cụ sản xuất là thủ công và nửa cơ khí, nên
kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ nên Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới (Nhận thức và vận dụng đúng quy luật này).
Chúng ta khẳng định:
+ Đa dạng hóa các hình thức sở hữu. + Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo hiệu quả lao động theo tài sản và vốn đóng góp...
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với những việc làm trên chúng đã tạo ra sự phù hợp của QHSX với tính chất và
trình độ của LLSX trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vai trò của phương thức sản xuất đối với quá trình
phát triển xã hội: Vai trò của phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội 1. Phương thức sản xuất là gì?
– Sản xuất vật chất được tiến hành trong những điều kiện tất yếu nhất định: + Điều kiện địa lý + Điều kiện dân số + Phương
thức sản xuất
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
– Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn nhất định của lịch sử.
2. Phương thức sản xuất và nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động, phát triển của xã hội.
– Trong mỗi xã hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ xã hội như thế ấy; kết cấu giai cấp và
tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v.., đều
do phương thức sản xuất quyết định.
– Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử. Khi một phương thức sản
xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ
kết cấu kinh tê đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ chức xã hội. Lịch sử xã hội loài
người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nó có năm xã hội cụ thể: cộng sản
nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp). Do đó, lịch
sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển.
Việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới diễn ra không đơn giản, dễ dàng. Đó là quá trình cải
biến cách mạng. Phương thức sản xuất mới muốn trở thành phương thức sản xuất thống trị thì phải trải qua cách mạng xã hội
và gắn liền với chế độ chính trị.
Từ đó có thể rút ra kết luận: Cái chìa khoá để nghiên cứu những quy luật của lịch sử xã hội không phải tìm thấy ở trong óc
người, trong tư tưởng và ý niệm của xã hội, mà là ở phướng thức sản xuất của xã hội, trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch
sử.
Phân tích nội dung và kết cấu của LLSX. Tại sao nói trong thời đại hiện nay khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp
của xã hội ?
a) Nội dung và kết cấu của lực lượng sản xuất. (Vẽ sơ đồ),(phân tích thêm………)
Lực lượng sản xuất:
* LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con người với kinh nghiệm, kỹ năng
tri thức lao động của họ.
+ LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
+ LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan.
+ Kết cấu của lực lượng sản xuất.
+ LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm:
+ Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản xuất như những
phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
+ Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra và được con người sử dụng
trong quá trình sản xuất.
- Yếu tố con người: Đó chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực
lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà quan hệ hữ cơ với nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất
giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản
xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học.
b) Khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp vì:
Không thể phát triển sản xuất nếu thiếu sự tham gia của khoa học. Những sáng chế phát minh trong khoa học được áp dụng
trực tiếp vào quá trình sản xuất và trở thành một mắt khâu của quá trình sản xuất.
- Khoa học được kết tinh vào mọi nhân tố của quá trình sản xuất (vào đối tượng lao động, vào tư liệu lao động vào phương
pháp công nghệ và cả trong tri thức của người lao động).
- Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản xuất mới kết hợp khoa
học với kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao sản xuất
Bởi tri thức khoa học khi được con người ứng dụng, sử dụng trong sản xuất, được "chuyển hoá" , vật chất hoá thành máy móc,
công cụ sản xuất thì nó trở thành lực lượng sản xuất. Ngày nay, khi mà quá trình ứng dụng khoa học vào sản xuất diễn ra một
cách mau chóng, kịp thời thì rõ ràng là khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói Mác không dự báo khoa học
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là đúng vì như trên đã dẫn chứng, điều đó đã được Mác khẳng định, chứ không phải mới
chỉ được ông dự báo. Và như vậy, ý kiến cho rằng, nếu nhận định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ gây
ra những tác hại, là không có sức thuyết phục. Rõ ràng, ngày nay khoa học ngày càng đóng vai trò to lớn trong nền sản xuất
xã hội nói riêng, trong đời sống nhân loại nói chung. Nói đúng về một sự thật hiển nhiên về vai trò, tác dụng tích cực, to lớn
của khoa học và kỹ thuật. Nhận định khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nhận định đúng đắn, dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng
khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích". Qua đoạn
nghị luận không dài đó, chúng ta thấy, để vận dụng được khoa học vào sản xuất trực tiếp, tức là để khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp thì phải có phát minh, sáng tạo, phải có sự phát triển của hệ thống máy móc. Hơn nữa, C.Mác còn chỉ
rõ: "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản có được không mất khoản chi phí nào, đó là sức mạnh của khoa học... Nhưng
tư bản chỉ có thể chiếm hữu được sức mạnh ấy của khoa học bằng cách sử dụng máy móc (phần nào cả trong quá trình hoá
học). Sự tăng dân số là một lực lượng sản xuất mà tư bản có được không phải chi phí gì cả... Nhưng vì để có thể được sử dụng
trong quá trình sản xuất trực tiếp, bản thân những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo ra, nghĩa là tồn tại dưới
dạng lao động vật hoá". Như vậy, theo C.Mác, khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi tồn tại dưới dạng lao
động được vật hoá thành máy móc. Như thế, chỉ trong bản sơ thảo đầu tiên của bộ tư bản, chúng ta đã thấy nhiều lần Mác bàn
về vai trò của khoa học dối với sụ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. C Mác còn bàn luận rất nhiều về bản chất và vai trò của khoa học trong tác phẩm được viết rất công phu, mang tựa đề
Các học thuyết về giá trị thặng dư.trong tác phẩm trên,"Khoa học tự nhiên dạy cho người ta không nhờ vào máy móc, hay chỉ
nhờ vào máy móc như trước kia.Về bản chất, vai trò của khoa học, Mác còn viết: "Tư bản có tính chất sản xuất... với tư cách
là một lực lượng thu hút và chiếm hữu các sức sản xuất của lao động xã hội... và lực lượng sản xuất xả hội chung, như khoa
học chẳng hạn. Trong luận điểm này, Mác khẳng định khoa học là một lực lượng trong lực lượng sản xuất.Như vậy, ngay từ
những năm giữa thế kỷ XIX. C.Mác - vị lãnh tụ vĩ đại nhất của nhân dân lao động toàn thế giới, đã khẳng định khoa học có
vai trò cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, và nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi được "chuyển
hoá"', ứng dụng ở một mức độ nhất định nào đó.Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt
động của người lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác nói khoa học
không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.Ngày nay, muốn xây dựng và phát triển kinh
tế tri thức với những đặc trưng cơ bản, quan trọng và quyết định nhất hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám kết tinh rất nhiều
ở sản phẩm lao động thì phải ra sức đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào sản xuất một cách triệt để hơn,
trực tiếp hơn so với các nền kinh tế trước đó.
Tại sao trong thời đại ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội? Giải thích và c/m?
Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử, sự phát triển của
lực lượng sản xuất là quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ
người lao động, là quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có tính chất cá
nhân lên lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế, quá trình chuyển biến
đó ngày một rõ ràng hơn.
Bởi tri thức khoa học khi được con người ứng dụng, sử dụng trong sản xuất, được "chuyển hoá" , vật chất hoá thành máy móc,
công cụ sản xuất thì nó trở thành lực lượng sản xuất. Ngày nay, khi mà quá trình ứng dụng khoa học vào sản xuất diễn ra một
cách mau chóng, kịp thời thì rõ ràng là khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói Mác không dự báo khoa học
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là đúng vì như trên đã dẫn chứng, điều đó đã được Mác khẳng định, chứ không phải mới
chỉ được ông dự báo. Và như vậy, ý kiến cho rằng, nếu nhận định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ gây
ra những tác hại, là không có sức thuyết phục. Rõ ràng, ngày nay khoa học ngày càng đóng vai trò to lớn trong nền sản xuất
xã hội nói riêng, trong đời sống nhân loại nói chung. Nói đúng về một sự thật hiển nhiên về vai trò, tác dụng tích cực, to lớn
của khoa học và kỹ thuật. Nhận định khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nhận định đúng đắn, dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng
khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích". Qua đoạn
nghị luận không dài đó, chúng ta thấy, để vận dụng được khoa học vào sản xuất trực tiếp, tức là để khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp thì phải có phát minh, sáng tạo, phải có sự phát triển của hệ thống máy móc. Hơn nữa, C.Mác còn chỉ
rõ: "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản có được không mất khoản chi phí nào, đó là sức mạnh của khoa học... Nhưng
tư bản chỉ có thể chiếm hữu được sức mạnh ấy của khoa học bằng cách sử dụng máy móc (phần nào cả trong quá trình hoá
học). Sự tăng dân số là một lực lượng sản xuất mà tư bản có được không phải chi phí gì cả... Nhưng vì để có thể được sử dụng
trong quá trình sản xuất trực tiếp, bản thân những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo ra, nghĩa là tồn tại dưới
dạng lao động vật hoá". Như vậy, theo C.Mác, khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi tồn tại dưới dạng lao
động được vật hoá thành máy móc. Như thế, chỉ trong bản sơ thảo đầu tiên của bộ tư bản, chúng ta đã thấy nhiều lần Mác bàn
về vai trò của khoa học dối với sụ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. C Mác còn bàn luận rất nhiều về bản chất và vai trò của khoa học trong tác phẩm được viết rất công phu, mang tựa đề
Các học thuyết về giá trị thặng dư.trong tác phẩm trên,"Khoa học tự nhiên dạy cho người ta không nhờ vào máy móc, hay chỉ
nhờ vào máy móc như trước kia.Về bản chất, vai trò của khoa học, Mác còn viết: "Tư bản có tính chất sản xuất... với tư cách
là một lực lượng thu hút và chiếm hữu các sức sản xuất của lao động xã hội... và lực lượng sản xuất xả hội chung, như khoa
học chẳng hạn. Trong luận điểm này, Mác khẳng định khoa học là một lực lượng trong lực lượng sản xuất.Như vậy, ngay từ
những năm giữa thế kỷ XIX. C.Mác - vị lãnh tụ vĩ đại nhất của nhân dân lao động toàn thế giới, đã khẳng định khoa học có
vai trò cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, và nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi được "chuyển
hoá"', ứng dụng ở một mức độ nhất định nào đó.Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt
động của người lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác nói khoa học
không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.Ngày nay, muốn xây dựng và phát triển kinh
tế tri thức với những đặc trưng cơ bản, quan trọng và quyết định nhất hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám kết tinh rất nhiều
ở sản phẩm lao động thì phải ra sức đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào sản xuất một cách triệt đế hơn,
trực tiếp hơn so với các nền kinh tế trước đó.
Vì sao LLSX quyết định QHSX, cái nào động nhất:

- LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình sản xuất, còn QHSX là yếu tố phụ thuộc vào
LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển
của LLSX.
- LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của LLSX với QHSX là
động lực làm cho LLSX phát triển.
- Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với LLSX.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã
hội.
Vì sao công cụ lao động là yếu tố động nhất và cách mạng nhất?
vì công cụ sản xuất không bao giờ "đứng yên", nó luôn luôn được con người cải tiến, chế tạo, thay đổi liên tục trong quá trình
sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng lợi nhuận...nên nó động nhất, cách mạng nhất (cách mạng thực ra là sự
phá bỏ, cải tạo cái cũ xây dựng cái mới tiến bộ hơn, ưu việt hơn).
Vì sao người lao động là yếu tố quan trọng nhất?
Vì con người là một thực thể sinh học - xã hội, trong con người có các yếu tố như tri thức, kỹ năng, sức khỏe, đạo đức,... Khi
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên (người lao động) đã không ngừng sáng tạo ra công cụ lao động
và dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động: tự nhiên... Nói cách khác con người là yếu tố chính làm thay
đổi LLSX, PTSX...
- Người lao động là chủ thể đóng vai trò quyết định quá trình sản xuất, người lao động vừa là động lực vừa là mục đích cuối
cùng của phát triển KT-XH :
+lợi ích của người lao động là động lực phát triển lực lượng sản xuất
+ kỹ năng kỹ, tay nghề, kinh nghiệm của người lao động là nguồn vốn quan trọng nhất của sản xuất
+ Trình động của người lao động là điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.nếu chỉ có tư liệu sản xuất thôi mà không có sự tham gia của
người lao động thì sẽ không sản xuất được vật chất.Vì vậy trong các nhân tố cấu thành nên lực lượng sản xuất nhân tố người
lao động giữ vai trò quan trọng nhất.
Quy luật chi phối kinh tế chính trị là cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng. Giai cấp nào nắm trong tay tư liệu sản xuất
thì thống trị về chính trị. Cơ sở lý luận là gì? (Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng)
PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI? TẠI SAO NÓI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN? Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế-
xã hội

Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội.


Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp.Vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế -
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Theo khái niệm trên thì kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm:lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như
vậy đã đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết
sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát
triển của nó như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Xã hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế - xã hội tương ứng với 5
phương thức sản xuất: Hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái
kinh tế - xã hội phong kiến,hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa .
*Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành các xã hội
cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm
trù hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế
- xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với
nhau. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất
cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất
là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. . Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ
sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngoài các mặt cơ bản đã nêu
trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó
chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất
Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội trong xã hội có giai cấp?Rút ra ý nghĩa thực tiễn? Đấu tranh giai cấp là
một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp . Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách
mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra
đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn
bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu
tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội.
Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp
nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến
trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách
rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là
cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở
hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế,
đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và
hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết "Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được".
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức
đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân;
tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, đảm bảo tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ
người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy, trong khi khẳng định rằng "đấu tranh
giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản", C. Mác cũng chỉ rõ: "bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới
Vai trò của CMXH: Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có cách mạng xã hội mới thay
thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được
hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong
đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hóa - tư tưởng. Trong các thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần
chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ, như C.Mác đã nói: cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử. Lịch sử nhân loại
đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của cách mạng xã hội qua bốn cuộc cách mạng xã hội đưa nhân loại trải qua 5 hình
thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau là: Cuộc cách mạng xã hội thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỷ
lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng chuyển chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư
sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản, xác lập chế độ
xã hội chủ nghĩa và tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội mới về chất. Nếu tất cả
các cuộc cách mạng xã hội trước chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức người bóc lột
người, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng triệt để con người. Đó là sự chuyển
biến sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại.
Trình bày những phương hướng và giải pháp cơ bản mà Đảng ta đã đưa ra nhằm đểphát huy nguồn lực con người
Việt Nam hiện nay?
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế đất nước. - Vừa nâng cao mức sống nhân dân, vừa đặt ra yêu cầu,
thách thức đối với người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn thải loại ra khỏi dây chuyền sản xuất - Như
vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, còn con người là yếu
tố quyết định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Xây dựng từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách
xã hội phù hợp. - Chính sách xã hội là một bộ phận hợp thành chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm đảm bảo những nhu
cầu vật chất và tinh thần của con người. - Đó là những chính sách điều chỉnh các mối QHXH và là
một trong những động lực trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh xã hội. Chính sách xã hội dưới cnxh phải hướng tới con
người và vì con người
- Thực hiện tốt chính sách là tạo điều kiện cho học lập, lao động phấn đấu vươn lên, cống hiến hết sức mình cho xã hội góp
một phần to lớn phát triển kinh tế của đất nước - HCM chỉ rõ: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Mục
tiêu giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. 3. Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ
chế quản lý xhcn - Cơ chế quản lý của một xã hội là toàn bộ những thiết kế, những quy định về mối quan hệ trách nhiệm,
quyền hạn giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng
nhất định của giai cấp cầm quyền. - Chế Độ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Do vậy, xã hội phải tạo ra
những điều kiện cho con người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước thông qua đó để
góp tài năng, trí tuệ của mình cho xã hội. - Tóm lại, những phương hướng nói trên nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực nước ta
ngày càng có tri thức, có trình độ, có sức khỏe … đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người trong sự nghiệp
xây dựng một xã hội “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”
- Nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sx, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản
xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tê
Vì sao nói cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân? Thực tiễn?
khi có xã hội loài người tới nay, lịch sử xã hội là do bản thân quần chúng xây dựng nên và chính quần chúng là động lực thúc
đẩy lịch sử tiến lên không ngừng. Mọi sự kiện lớn lao, mọi thay đổi cách mạng xảy ra trong xã hội nếu không được quần
chúng tích cực tham gia, ủng hộ thì không thể thành công được.
Nhưng không phải ngay từ đầu, người ta đã nhận thức được vai trò quyết định ấy của quần chúng. Các giai cấp bóc lột vì lợi
ích giai cấp của mình đã xóa nhòa, làm lu mờ vai trò của quần chúng trong lịch sử. Chúng coi quần chúng chỉ là một bầy ngu
dại. Cả những nhà hiền triết trước kia, với quan điểm giai cấp của bản thân họ và bị điều kiện lịch sử hạn chế, cũng không
thấy được đúng vai trò của quần chúng. Theo họ, quần chúng chỉ là những người tiêu cực, bị động, chịu sự sai khiến của
những nhân tài lỗi lạc. Do quan điểm sai lầm ấy, nên lịch sử cũ chỉ miêu tả hoạt động của cá nhân, anh hùng hào kiệt, hoặc
vua quan, danh tướng nào đó, còn vai trò của quần chúng thì bị bỏ quên, không nói tới.
Phải trải qua một thời gian dài mấy nghìn năm tới khi chủ nghĩa Mác ra đời thì chân lý "quần chúng sáng tạo ra lịch sử" mới
được nêu lên. Phát hiện ấy là cống hiến quan trọng của Mác, nhưng cũng do toàn bộ quá trình phát triển lịch sử khách quan
cho phép. Trong quá trình lịch sử ấy, vai trò của quần chúng ngày càng nổi bật lên. Giai cấp tư sản lúc làm cách mạng chống
phong kiến buộc phải kêu gọi quần chúng tham gia, cho nên trong cách mạng tư sản, quần chúng đã bắt đầu có ý thức về lực
lượng của mình và ý thức đấu tranh chính trị; sau cách mạng tư sản, quần chúng cũng giành được một phần những quyền lợi
dân chủ dưới nhiều hình thức, điều đó làm cho người ta không thể không chú ý tới vai trò của họ.
Cùng với nền đại sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển, giai cấp công nhân cũng ra đời và ngày càng lớn
mạnh. Lao động tập trung và cuộc đấu tranh để bảo vệ quyền lợi hằng ngày, tính tổ chức, kỷ luật và tính đoàn kết chiến đấu
được đời sống trong nhà máy rèn luyện, dần dần làm cho giai cấp công nhân nhận thức được sức mạnh vĩ đại của bản thân
mình và do đó cũng nhận thức được vai trò của quần chúng. Mặt khác, xã hội tư bản càng phát triển, mâu thuẫn bộc lộ càng
gay gắt; chủ nghĩa tư bản phải đi đến diệt vong và chủ nghĩa xã hội nhất định thắng lợi là điều không tránh khỏi, càng làm cho
giai cấp công nhân có ý thức về vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, tích cực hành động để thúc đẩy sự tiến hóa tất yếu của
lịch sử.
Chính giai cấp công nhân là giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người, đã nhìn thấy một cách đúng đắn lực lượng vĩ đại của
quần chúng, và chỉ có lý luận của chủ nghĩa Mác, lý luận của giai cấp công nhân, mới nói lên được một cách khoa học vai
trò sáng tạo lịch sử của quần chúng.
Từ khi có được nhận thức đúng về vai trò của quần chúng và nhận thức ấy được ăn sâu vào hàng trăm triệu con người thì lịch
sử biến chuyển nhanh chóng lạ thường, tính tích cực và tính sáng tạo cách mạng của quần chúng được biểu lộ vô cùng mạnh
mẽ, thời gian phát triển lịch sử được rút ngắn, nhất là trong những thời kỳ cách mạng, một ngày bằng hai mươi năm bình
thường trước kia.
Tục ngữ Việt nam có câu: "Dân như nước,nước có thể đẩy thuyền đi,nhưng nước cũng có thể làm chìm thuyền".
- Bác Hồ nói: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu,khó vạn lần dân liệu cũng xong". Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc,nhân dân là người che chở bảo vệ Đảng,bảo vệ cách mạng. Sức mạnh tinh thần đấu tranh của nhân dân (cả vũ trang và
chính trị) không kẻ thù nào khuất phục được,tình đoàn kết quân dân,sự đoàn kết giữa Đảng và quần chúng đã làm nên thắng
lợi vẻ vang của cách mạng Việt nam.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng XHCN ở thời kỳ đổi mới,thời kỳ hội nhập toàn cầu lòng tin của dân đối với Đảng (có dân
là có tất cả) là động lực chính để tồn tại và phát triển chế độ XHCN ở Việt nam.Thân ái chào bạn.
Thực tiễn: Cách mạng Tháng Tám 1945 với sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh
dưới sự lãnh đạo của Đảng và được vũ trang thô sơ đã tiến lên hoàn thành sự nghiệp giành độc lập rất vẻ vang. Bài học lớn ở
đây chính là đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy cao độ tinh thần yêu nước của cả dân tộc, cuộc cách mạng đã đi tới thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu, có thể
nói là trọn vẹn. Lần đầu tiên một nước thuộc địa giành được độc lập, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đánh đổ cả chế độ thuộc địa của Pháp, Nhật, đánh đổ cả chế độ quân chủ phong kiến để xây dựng một chính thể cộng
hòa dân chủ Việt Nam sau này thành nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên, vì lợi ích của nhân dân. Nhà
nước đó không phải để cai trị dân, mà để phục vụ lợi ích của nhân dân.
Trong nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng lao động trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động đang nỗ lực thi đua sản
xuất, công tác để hoàn thành kế hoạch nhà nước, góp sức mình vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, và đã đạt được nhiều thành tích rực rỡ.
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lê Nin? Vì sao nói vật chất quyết định ý thức? Cho ví dụ minh họa.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lenin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ảnh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lenin bao hàm các nội dung cơ bản sau:
– Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học
Vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên
hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể
đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
– Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
Vật chất là thực tại khách quan - cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức. “Tồn tại khách quan” là
thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận
thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
– Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của
con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lenin:
- Giải quyết một cách đúng đắn và triệt để cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
- Triệt để khắc phục hạn chế của CNDV cũ, bác bỏ CNDT, bất khả tri
- Khắc phục được khủng hoảng, đem lại niềm tin trong khoa học tự nhiên
- Tạo tiền đề xây dựng quan điểm duy vật về xã hội, và lịch sử loài người
- Là cơ sở để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự liên minh ngày càng chặt chẽ giữa triết học duy vật biện chứng với khoa
học.
Theo quan điểm triết học của Mác – Lenin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức,
còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất “sinh ra” ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới
tự nhiên, của thế giới vật chất.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội
– lịch sử cả loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người là cơ sở hình
thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa là phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong
phản ánh.
- Vật chất quyết định sự vận động và phát triển của ý thức: Con người ngày càng phát triển cả về thể chất và tinh thần, thì dĩ
nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và ý thức.
Vậy nói vật chất quyết định ý thức (về nguồn gốc, nội dung, bản chất, sự vận động và phát triển) vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối
quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản
phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên;
nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Ví dụ: Khi chúng ta nhìn một cái cây to thì cái cây to là vật chất (một thứ khách quan) thì hình ảnh cái cây to đó phản ánh lại
vào bộ não của chúng ta thì ý thức của chúng ta xuất hiện cái cây to đó vì ý thức là sự phản ánh của vật chất nên ý thức là cái
có sau dựa vào vật mẫu (là cái cây to) để phản ánh lại vào não. Vậy rõ ràng vật chất là cái có trước và quyết định ý thức.
Câu 2: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển? Tại sao trong cuộc sống, chúng ta
phải có quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển? Cho ví dụ cụ thể.
2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
2.1.1 Khái niệm:
Liên hệ: là quan hệ giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
Mối liên hệ: dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối
tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau
Ví dụ: Con người và môi trường có mối liên hệ với nhau.
Mối liên hệ phổ biến: khi phạm vi bao quát của mối liên hệ không chỉ giới hạn ở các đối tượng vật chất, mà được mở rộng
sang cả liên hệ giữa các đối tượng tinh thần và giữa chúng với đối tượng vật chất sinh ra chúng
Ví dụ: Muốn trồng 1 cái cây thì ta cần hạt giống, đất , nước, môi trường để quang hợp từ đó phát triển thành 1 cái cây thì các
yếu tố trên có các mối liên hệ nhất định với nhau.
2.1.2 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm biện chứng: Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa liên hệ, quy định và chuyển hóa
lẫn nhau.
Tính chất của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
1. Tính khách quan
- Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng của thế giới là cái vốn có, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức của con người,
con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ
Ví dụ: mối liên hệ giữa lực hút và lực đẩy giữa các vật thể
2. Tính phổ biến của các mối liên hệ
- Không có sự vật, hiện tượng, quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập
- Sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng là một hệ thống mở, có mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn
nhau
Ví dụ: Mối liên hệ giữa tri thức cũ và tri thức mới
3. Tính đa dạng, phong phú có mối liên hệ
- Mối liên hệ được chia thành nhiều dạng:
+ MLHPB trực tiếp và gián tiếp, bản chất và hiện tượng, chủ yếu và thứ yếu, tất nhiên và ngẫu nhiên
Ví dụ: ở nhà là cha con, ở cơ quan thì con là sếp của cha
Ý nghĩa của nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Khi xem xét bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào thì chúng ta phải có quan điểm
toàn diện, đặt SVHT trong mqh với SV, HT khác. Phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển của nó,
từ đó có cái nhìn đa chiều, nhận thức đúng đắn về SV, HT và xử lý hiệu quả các vấn đề trong cuộc sống tránh sự phiến diện
siêu hình và ngụy biện.
Ví dụ: Khi chúng ta làm bài tập môn Toán, chúng ta cũng phải vận dụng kiến thức của môn Ngữ Văn để hiểu đề; làm bài môn
Văn cũng phải vận dụng kiến thức logic, tư duy của môn Toán để dễ dàng triển khai ý tưởng.
Áp dụng vào đời sống: Khi người nông dân trồng lúa, sẽ có sâu hại làm hư lúa. Người trồng biết rằng là phun thuốc trừ sâu sẽ
hết sâu nhưng nếu chỉ nhìn việc phun thuốc trừ sâu ở hướng phiến diện thì NND sẽ chỉ thấy sâu nó chết và mùa màng bội thu
thôi vì vậy sẽ phun càng nhiều càng tốt mà không quan tâm gì hết, không quan tâm đến những cái xung quanh, dẫn đến những
sự việc xấu như giết chết tôm cá; thuốc trừ sâu dư thừa sẽ làm ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước; lúa khi thu hoạch sẽ nhiễm
thuốc trừ sâu ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Như vậy nếu chúng ta không áp dụng NL MLHPB thì sẽ có cái nhìn
phiến diện dẫn đến những quyết định kém hiệu quả; ngược lại chúng ta sẽ biết điều chỉnh lượng thuốc trừ sâu phù hợp, hạn chế
những tác hại xuống còn thấp nhất.
Kết luận: Nguyên lý về các mối liên hệ phổ biến là các SVHT luôn tồn tại trong các mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,
tương tác lẫn nhau, không có một sự vật hiện tượng nào đứng thực sự biệt lập và chúng ta phải nhìn sự vật, hiện tượng một
cách đa diện, và có mối liên hệ để xử lý hiệu quả các vấn đề trong cuộc sống.

2.2 Nguyên lý về sự phát triển:


Nguyên lý về sự phát triển: Khi xem xét sự vật, hiện tượng thì phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn vận động và phát triển.
Khái niệm về sự phát triển: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh
hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Sự phát triển không diễn ra
theo đường thẳng mà quanh co phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi
Ví dụ: Tôi muốn học nấu ăn, thì tôi phải học và thực hành. Nhưng đâu phải là tôi cứ học và thực hành thì tôi sẽ giỏi nấu ăn. Nó
phải có quá trình. Tôi học một thời gian, sau đó tôi thực hành nấu nướng nhiều lần, cũng có rất nhiều lần nấu dở thì tôi mới
thích lũy được kinh nghiệm để đến một lúc nào đó tôi mới nấu ngon được
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: Tất các các SVHT trong cuộc sống luôn vận động, phát triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của
con người Ví dụ: dù ý thức có mong muốn hay không thì nó vẫn tồn tại thôi
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật, hiện tượng, mọi quá trình và giai đoạn của chúng và kết
quả là cái mới xuất hiện.
- Tính kế thừa: Sự phát triển tạo ra cái mới trên cơ sở chọn lọc, kế thừa và giữ lại những gì hợp lý đồng thời cũng đào thải, loại
bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu của cái cũ.Ví dụ: khi thăng chức là đã phát triển lên tầm cao mới nhưng không có nghĩa là bỏ lại
hết kiến thức, kinh nghiệm cũ, phải chọn lọc những cái tốt để giữ lại
- Tính phong phú, đa dạng: Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ biểu hiện ra bên ngoài theo nhiều loại hình khác nhau. Ví dụ:
Trong giới hữu cơ: Sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường. Sự phát triển ở
tư duy, xã hội, giới hữu cơ.
Ý nghĩa: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển. Ta phải biết là SVHT nó không
mãi là bây giờ đâu, ta phải biết là nó có khuynh hướng phát triển trong tương lai thì từ đó ta có những dự đoán để có thể đón
đầu xu hướng nó. Không được dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển và chủ động thúc đẩy sự phát triển.
Các SVHT cũng phát triển theo những quá trình khá là phức tạp và cần nhiều thời gian, do vậy ta phải công nhận tính quanh
co phức tạp của sự phát triển như một sự đương nhiên, đừng bi quan vì sự thụt lùi tương đối mà hãy kiên nhẫn chờ đợi, đồng
thời cũng chủ động tìm ra những phương pháp thúc đẩy sự phát triển của SVHT
Áp dụng vào cuộc sống: Có một người đang bị bệnh, chỉ là hơi mệt mệt thôi, nhưng nếu người đó không áp dụng NLSPT,
không xem xét nó trong sự phát triển không ngừng tức là bệnh đó sẽ phát triển âm ỉ thành bệnh nặng hơn mà họ không nhận ra
để khám chữa bệnh. Nhưng nếu người đó áp dụng NL SPT vào thì người đó nhận ra bệnh này có thể phát triển mạnh hơn và
nhanh chóng đi khám chữa bệnh sẽ tốt hơn
Tại sao trong cuộc sống, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển?
Quan điểm toàn diện: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của
nó.
Chúng ta phải có quan điểm toàn diện vì khi thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến
diện, siêu hình, máy móc, một chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn, nhờ đó tạo ra
khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.
Tránh mắc sai lầm là phiến diện, chiết trung, ngụy biện.
Ví dụ: khi đánh giá một con người, chúng ta không thể nào đánh giá họ chỉ qua trang phục họ mặc hay chỉ qua lời nói của một
người nào đó. Khi đánh giá cần có thời gian cho quá trình quan sát tổng thể từ những phản ánh trong bản chất con người; các
mối quan hệ của người này với người khác; cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện tại. Những nhìn nhận và đánh
giá trên từng khía cạnh và kết hợp với nhau sẽ tạo ra những quan điểm toàn diện từ đó mà cách nhìn nhận một người được
thực hiện hiệu quả với các căn cứ rõ ràng; chứ không phải chỉ là phù phiếm, giả định của nhận định.
Quan điểm lịch sử cụ thể: Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối quan hệ và tình huống xác
định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định.
Chúng ta phải có quan điểm lịch sự cụ thể vì chúng ta quán triệt quan điểm này trong nhận thức, hành động của ta để có thể
dẫn tới thành công, phát triển. Quan điểm này sẽ giúp chúng ta khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn tránh quan
niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, ngụy biện.
Ví dụ: Khi nghiên cứu và phân tích bất kể một đối tượng người tiêu dùng nào, tất cả chúng ta cũng cần vận dụng vào mạng
lưới hệ thống, nghĩa là xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu tố, bộ phận nào với mối quan hệ ràng buộc và tương tác
nào, từ đó hoàn toàn có thể phát hiện ra thuộc tính chung của mạng lưới hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố.
Quan điểm phát triển: Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay đổi về chất
ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định
Chúng ta phải có quan điểm phát triển vì nhờ đó giúp cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng
phát triển của nó. Cũng từ đó có thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó. Tránh hiện tượng bảo
thủ, trì trệ định kiến. Vì khi chúng ta đánh giá sự vật như vậy chúng ta thấy được sự quanh co của sự phát triển, ta dự đoán
được sự phát triển. Nếu dự đoán đúng, ta sẽ thành công. Dự đoán sai sẽ dẫn đến thất bại nhưng cũng tránh sự bi quan, chán
chường trong cuộc sống.
Ví dụ, C. Mác đã đứng trên quan điểm phát triển đế phân tích sự phát triển của xã hội loài người qua các hình thái tổ chức kinh
tế - xã hội hoặc ông đã đứng trên quan điểm đó để phân tích lịch sử phát triển của các hình thái giá trị: từ hình thái trao đổi
ngẫu nhiên đến hình thái cao nhất của nó là hình thái tiền tệ,...
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
- Trong các yếu tố làm nên LLSX thì con người là yếu tố cơ bản, quyết định và quan trọng nhất. Vì con người không chỉ sáng
tạo ra CCLĐ và PTLĐ, đề ra kế hoạch, lựa chọn phương pháp lao động mà còn trực tiếp sử dụng công cụ và phương tiện lao
động để sáng tạo ra sản phẩm
- CCLĐ là yếu tố động nhất của LLSX, biểu hiện năng lực thực tiễn của con người ngày một phát triển
- Trong sự phát triển của LLSX, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng, dần trở thành nguyên nhân trực tiếp biến đổi cả sản
xuất và đời sống. Và khoa học công nghệ có thể được coi là đặc trưng của LLSX hiện đại

You might also like