Professional Documents
Culture Documents
Bai 3
Bai 3
Giám đốc
1
American Productivity and Quality Center (APQC)
Tên quá trình
Loại quá trình Nội dung của quá trình
bộ phận
- Marketing sản phẩm/dịch vụ ở thị trường mục
Marketing bán
tiêu
hàng
- Xử lý các đơn hàng của khách hàng
- Lên kế hoạch mua các nguyên phụ liệu
- Sản xuất
Sản xuất - Phân phối sản phẩm
- Kiểm soát quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm
- Lên kế hoạch các nguồn lực cần thiết
- Đảm bảo đội ngũ nhân viên có các kỹ năng cần
- Cung cấp dịch
thiết
vụ
- Cung cấp dịch vụ cho khách hàng
- Kiểm soát chất lượng của dịch vụ
Thực hiện dịch - Cung cấp dịch vụ sau bán
vụ sau bán - Giải quyết các yêu cầu phát sinh của khách hàng
- Xây dựng chiến lược và kế hoạch quản trị nhân
lực
- Tuyển dụng, đào tạo và phát triển nhân viên,
Quản trị Nguồn
kết quả làm việc, khen thưởng và công nhận, sự
nhân lực
hài lòng, sự tham gia, mối quan hệ người quản
lý và nhân viên
- Phát triển hệ thống thông tin nguồn nhân lực
- Xây dựng kế hoạch quản trị nguồn nhân lực
Quản trị Thông
- Phát triển hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp
tin và công nghệ
CÁC QUÁ - Triển khai và kiểm soát tính bảo mật của hệ
trong doanh
TRÌNH QUẢN thống
nghiệp
TRỊ VÀ HỖ TRỢ - Quản trị việc lưu trữ thông tin
- Quản trị nguồn tài chính, xử lý các giao dịch kế
Quản trị Tài
toán tài chính, báo cáo, kiểm toán nội bộ, vấn đề
chính và các về thuế
nguồn lực khác
- Quản trị các nguồn lực hữu hình khác
Quản trị các vấn - Xây dựng chiến lược quản lý môi trường
đề về môi - Tuân thủ pháp luật và các quy định
trường, sức khỏe - Đào tạo nhân viên về sự an toàn trong công việc
và sự an toàn - Thực thi các chương trình ngăn ngừa ô nhiễm
Tên quá trình
Loại quá trình Nội dung của quá trình
bộ phận
-Cung cấp các điều kiện làm việc đảm bảo sức
khỏe và sự an toàn cho các thành viên trong
doanh nghiệp.
- Đào tạo nhân viên về cách thức làm việc an toàn
Quản trị các mối - Xây dựng mối quan hệ với các bên hữu quan
quan hệ bên - Xây dựng mối quan hệ với cộng đồng
ngoài - Quan tâm đến các vấn đề pháp luật về đạo đức
- Đo lường năng lực của doanh nghiệp
Quản trị Sự thay - Đánh giá chất lượng, so sánh với các tổ chức
đổi và cải tiến khác
- Cải tiến các quá trình và hệ thống
Nguồn: Trung tâm năng suất và chất lượng Mỹ
Theo mô hình của Trung tâm năng suất và chất lượng Mỹ đề xuất thì một doanh
nghiệp thường có tối thiểu 13 quá trình được chia làm hai loại là các quá trình tác nghiệp
và các quá trình quản trị và hỗ trợ. Các quá trình tác nghiệp bao gồm những quá trình có
liên quan trực tiếp đến việc tạo ra và cung cấp sản phẩm hay dịch vụ cho khách hàng. Các
quá trình quản trị và hỗ trợ bao gồm 6 quá trình có liên quan đến những công việc hỗ trợ
việc thực hiện các quá trình chính. Đối với một doanh nghiệp cụ thể nào đó thì không nhất
thiết là mỗi quá trình đề xuất đều phải đề cập đến những công việc này mà có thể số lượng
các công việc nhiều hơn hoặc ít hơn tùy thuộc.
Số lượng quá trình tùy thuộc vào quyết định của doanh nghiệp. Bảng 5.1 cho thấy
một doanh nghiệp có thể có nhiều quá trình hơn là con số 13 như Trung tâm năng suất và
chất lượng Mỹ đề xuất. Chẳng hạn, đối với việc tìm hiểu khách hàng và thị trường, một
doanh nghiệp có thể có nhiều quá trình bao gồm quá trình tổ chức một cuộc điều tra tìm
hiểu nhu cầu của khách hàng, quá trình xử lý dữ liệu khách hàng phàn nàn, quá trình tổ
chức một cuộc điều tra đo lường sự thỏa mãn của khách hàng, quá trình thu thập thông tin
về các nhà cung cấp trên thị trường,…
Bên cạnh việc lấy tính trọn vẹn của quá trình làm cơ sở để tổ chức các hoạt động
quản trị kinh doanh thương mại, mô hình quản trị kinh doanh thương mại theo quá trình
còn nhấn mạnh vào việc thống nhất các quá trình. Nếu như với mô hình quản trị kinh
doanh theo chức năng điểm hạn chế của xu hướng này là tập trung vào chuyên môn hóa do
đó không nhìn nhận được tính thông suốt của các quá trình, hay nói một cách khác đi, là
chia cắt quá trình thì mô hình quản trị kinh doanh thương mại theo quá trình nhấn mạnh
vào việc xác định các mối quan hệ tương tác giữa các quá trình. Theo xu hướng này, một
vị trí, bộ phận, phòng ban không chỉ thực hiện các công việc theo chiều dọc nghĩa là
chuyển thông tin lên cấp cao hơn hoặc thấp hơn mà còn phải quan tâm đến các mối quan
hệ tương tác đối với các vị trí, bộ phận, phòng ban khác. Một công đoạn trong một quá
trình hoặc một quá trình có thể liên kết sang một hoặc nhiều công đoạn hoặc quá trình khác
trong doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các vị trí, bộ phận, phòng ban không chỉ nắm vững
chuyên môn nghiệp vụ của mình mà
còn phải hiểu biết về công việc có liên quan ở một mức độ nhất định để có thể xử lý được
các công việc phát sinh.
Sản xuất và
phân phối
CÁC QUÁ TRÌNH TÁC
sản phẩm
Tìm hiểu Xây dựng Thiết kế Marketing Dịch vụ
khách tầm nhìn sản phẩm và bán sau bán
hàng và và chiến và dịch vụ hàng
Cung cấp
thị trường lược
dịch vụ
Xu hướng quản trị kinh doanh thương mại theo quá trình có nhiều ưu điểm, trong đó
đáng đề cập đến nhất là tăng cường tính hiệu quả của việc tạo ra các giá trị. Thông qua việc
kiểm soát theo quá trình và nhấn mạnh vào sự tương tác giữa các quá trình mọi hoạt động
trong doanh nghiệp được nhìn nhận rõ hơn, thực hiện đồng bộ hơn, mang lại hiệu quả cao
hơn, dẫn đến việc thực hiện các mục tiêu tốt hơn. Tuy nhiên, điểm hạn chế của mô hình
quản
trị kinh doanh theo xu hướng này là không dễ thực hiện, trong đó, điều không dễ thực hiện
nhất chính là việc chuẩn hóa các quá trình trong doanh nghiệp và việc trao đổi thông tin
giữa các chủ thể thực hiện hoạt động là các vị trí, bộ phận, phòng ban. Đây cũng chính là
lý do cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của hệ thống mạng máy tính nội bộ (LAN2), hệ
thống email nội bộ và hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP 3) trong thời gian
gần đây. Những công cụ này đều nhằm mục đích làm sáng tỏ những kết nối thông tin giữa
các vị trí, bộ phận, phòng ban của doanh nghiệp.
5.3.SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
5.3.1. Khái quát chung về Sở Giao dịch hàng hóa
a. Khái niệm Sở giao dịch hàng hóa
Vào những năm mất mùa, người nông dân trữ hàng làm giá tăng cao, điều này gây
khó khăn cho giới thương nhân. Ngược lại, khi bội thu, giới thương nhân lại dìm giá
xuống, gây khó khăn cho người nông dân. Để tránh tình trạng đó, thương nhân và nông
dân đã gặp nhau trước mỗi vụ mùa để thỏa thuận giá cả trước... Ban đầu các hoạt động trên
đây giữa người mua và người bán diễn ra một cách tự phát, đơn lẻ, về sau các hoạt động
này đã trở thành phổ biến do tính ưu việt của nó trong tiêu thụ và lưu thông nông sản. Một
thị trường mới xuất hiện, đó là thị trường mà ở đó người mua và người bán gặp nhau để
thỏa thuận, cam kết với nhau về việc mua bán hàng hóa với giá ở thời điểm hiện tại, giao
hàng và nhận tiền tại một thời điểm trong tương lai - thị trường hàng hóa tương lai
(commodity futures market).
Vào năm 1848, tại Mỹ một Sở giao dịch hàng hóa Chicago (The Chicago Board of
Trade, viết tắt là CBOT) đã được thành lập. CBOT là Sở giao dịch hàng hóa đầu tiên trên
thế giới, sự ra đời của nó đã đánh dấu bước ngoặt cho hoạt động mua bán hàng hóa tương
lai, hình thành nên thị trường mua bán hàng hóa tương lai có tổ chức được biết đến là mua
bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Tại Sở giao dịch hàng hóa, người ta mua và bán
những hàng hóa theo những hợp đồng đã được chuẩn hóa về số lượng, chất lượng... và
theo các quy tắc của Sở giao dịch.
Thị trường mua bán hàng hóa tương lai trong Sở giao dịch hàng hóa diễn ra hết sức
sôi động và ngày càng phát triển. Cho tới nay, trên thế giới đã có hơn 40 Sở giao dịch hàng
hóa được nối mạng giao dịch toàn cầu để thực hiện phương thức mua bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa. Trên thế giới, Mỹ và Anh là hai nước dẫn đầu thế giới về sự phát triển
của Sở giao dịch hàng hóa. Trong khu vực Châu Á Nhật, Trung Quốc, Singapore, Hàn
Quốc, Malaysia... đều đã có những Sở giao dịch hàng hóa phát triển.
Như vậy có thể hiểu: Sở giao dịch hàng hóa là một tổ chức có tư cách pháp nhân,
cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể, có tổ chức với cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết
để giao dịch, mua bán hàng hóa được tiêu chuẩn hóa tuân theo những quy tắc giao dịch của
Sở giao dịch hàng hóa.
Trong thị trường hàng hóa tương lai, Sở giao dịch hàng hóa có vị trí chủ thể tổ chức
và điều hành hoạt động mua bán hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa tồn tại ở các nước rất đa
dạng về hình thức tổ chức và cơ chế vận hành, tuy vậy bản chất chung của Sở giao dịch
hàng hóa là “một tổ chức nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, hoạt động theo nguyên tắc
độc lập”.
2
LAN: Local Area Network
3
ERP: Enterprise Resource Planing
Sở giao dịch hàng hóa là nơi thỏa thuận và ký kết những hợp đồng đã được tiêu chuẩn hóa
để thực hiện việc mua bán hàng hóa giao ngay hoặc không trực tiếp giao ngay (cam kết
việc mua hàng hóa với mức giá ở thời điểm hiện tại còn việc giao hàng và nhận tiền sẽ
được thực hiện trong tương lai) và là nơi thỏa thuận việc mua bán quyền chọn bán và
quyền chọn mua hàng hóa.
So với giao dịch mua bán hàng hóa tương lai trên thị trường tự do thì mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có rất nhiều ưu điểm, thể hiện qua vai trò của Sở giao dịch
hàng hóa như sau:
- Cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể, có tổ chức với cơ sở vật chất kỹ thuật
cần thiết để giao dịch mua bán hàng hóa.
- Đưa ra các quy tắc giao dịch tại Sở giao dịch hàng hóa , giám sát và thực thi những
tiêu chuẩn đạo đức và tài chính đối với thương nhân hoạt động kinh doanh ở Sở giao dịch
hàng hóa ; kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các thành viên và các giao dịch nhằm đảm bảo
cho các giao dịch được vận hành lành mạnh và hiệu quả. Nhờ đó khắc phục được những
bất cập trên thị trường tự do như việc không giữ đúng cam kết, không thực hiện hợp đồng
của các bên mua và bán khi thấy việc thực hiện hợp đồng gây bất lợi cho mình.
- Niêm yết các mức giá cụ thể hình thành trên thị trường giao dịch tại từng thời điểm
giúp các nhà đầu tư đưa ra được quyết định của mình. Tránh hiện tượng đồng thổi giá trên
thị trường.
b. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch hàng hóa
Sở giao dịch hàng hóa là một tổ chức nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân giữ vai trò tổ
chức và điều hành hoạt động mua bán hàng hóa trong thị trường hàng hóa tương lai có tổ
chức. Để phục vụ cho việc mua bán hàng hóa, các Sở giao dịch trên thế giới đều có các bộ
phận chính sau đây:
4
Xem: Điều 63, khoản 1, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005.
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa còn mang những đặc thù riêng:
Thứ nhất, các quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa được thực hiện
thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán. Hợp đồng này được giao kết và thực
hiện thông qua Sở giao dịch hàng hóa. Các hợp đồng mua bán hàng hóa đã được tiêu chuẩn
hóa về số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm giao hàng, các bên chỉ cần thỏa thuận về
giá cả. Một trong những căn cứ để các bên xác định giá cho hợp đồng mua bán hàng hóa là
giá cả hàng hóa niêm yết tại Sở giao dịch hàng hóa
Thứ hai, hàng hóa được trao đổi giữa bên mua và bên bán phải là những hàng hóa
được tiêu chuẩn hóa một cách cụ thể và được thực hiện theo những nguyên tắc, trình tự,
thủ tục chặt chẽ. Hơn nữa những hàng hóa này thường chưa hiện hữu tại thời điểm các bên
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Hàng hóa tương lai mua bán qua Sở giao dịch hàng
hóa, trên thực tế thường là những hàng có cung và cầu lớn và thường xuyên biến động.
Thứ ba, việc thực hiện nghĩa vụ của các bên thường không được thực hiện vào thời
điểm ký kết hợp đồng mà được thực hiện vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
Trong hợp đồng tương lai (futures contract) bên bán có nghĩa vụ giao một khối lượng hàng
xác định cho bên mua và có quyền nhận tiền vào một thời điểm trong tương lai ở mức giá
thỏa thuận lúc giao kết hợp đồng; bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo như thỏa thuận
trong hợp đồng và cũng có quyền nhận hàng vào một thời điểm trong tương lai. Trong hợp
đồng quyền chọn (option contract) bên mua quyền được mua hoặc quyền được bán có
nghĩa vụ trả một khoản tiền nhất định và có quyền chọn mua hoặc chọn bán hàng hóa tại
thời điểm trong tương lai theo thỏa thuận; bên bán quyền có quyền nhận tiền và phải thực
hiện nghĩa vụ mà mình cam kết. Phần lớn những giao dịch ở Sở giao dịch đều là giao dịch
khống, sự chênh lệch giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm giao
hàng được các bên thanh toán bù trừ trên cơ sở biến động giá.
Thứ tư, việc mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa được thực hiện theo các
tiêu chuẩn, nguyên tắc và thủ tục của Sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch đóng vai trò
trung gian, kết nối các bên mua và bán hình thành hợp đồng và bảo đảm thực hiện hợp
đồng. Nhờ đó, việc mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch giúp các nhà đầu tư có điều kiện dễ
dàng và thuận lợi để lựa chọn đối tác của mình. Cơ chế giám sát trong Sở giao dịch hàng
hóa là điều kiện quan trọng đảm bảo hợp đồng được thực hiện hiệu quả. Điều này là một
trong những đặc điểm giúp cho việc phân biệt giữa mua bán hàng hóa qua sở giao dịch với
các giao địch kỳ hạn được thực hiện ngoài Sở giao dịch.
c. Vai trò của mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa đóng vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế như vai trò chia sẻ rủi ro giúp những người tự bảo hiểm tránh được những rủi ro về
giá hay vai trò định hướng sản xuất... Bên cạnh những vai trò quan trọng đối với nền kinh
tế, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa còn đóng góp vai trò to lớn đối với quản
lý Nhà nước cũng như đối với xã hội.
Đối với nền kinh tế
Đối với nền kinh tế, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa giúp cho nền kinh
tế được vận hành trơn tru hơn và phát triển bền vững nhờ những vai trò như chia sẻ rủi ro,
định hướng sản xuất, bảo vệ nhà đầu tư và điều chỉnh giá cả trên thị trường:
- Chia sẻ rủi ro được thể hiện rất rõ trong việc các thương nhân sử dụng các hợp đồng
tương lai và hợp đồng quyền chọn nhằm mục đích tự bảo hiểm cho thương vụ thực tế của
mình. Giao dịch tại Sở giao dịch có cơ chế phát hiện giá khá mạnh, những thay đổi giá cả ở
Sở giao dịch hàng hóa chịu ảnh hưởng của cung cầu hàng hóa cho nên những thương nhân
giao dịch hàng hóa thực tế như đơn vị kinh doanh, đơn vị sản xuất, ... đều tận dụng mọi
khả năng lợi dụng thị trường Sở giao dịch hàng hóa để chuyển dịch những rủi ro về giá cả
trong giao dịch thực tế, tránh hoặc giảm được những tổn thất do biến động giá gây nên.
- Định hướng sản xuất:nhờ giao dịch tại Sở là giao dịch tập trung và công khai sẽ
giúp các nhà sản xuất, các đơn vị kinh doanh thấy rõ hơn diễn biến của quan hệ cung cầu,
giá cả, có nguồn thông tin giúp họ định hướng sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, các tiêu
chuẩn về chất lượng hàng hóa ở Sở giao dịch hàng hóabuộc những người sản xuất phải
không ngừng tìm tòi sáng tạo để cải tiến quy trình, công nghệ sản xuất,... đáp ứng được
những đòi hòi của thị trường về chất lượng, phẩm cấp của hàng hóa.
- Bảo vệ nhà đầu tư: với việc sử dụng các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền
chọn được niêm yết trong Sở giao dịch hàng hóa giúp kiểm soát rủi ro trong thanh toán,
đảm bảo thực hiện hợp đồng tạo ra môi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư. Trong
các giao dịch ở Sở giao dịch hàng hóa cả bên mua và bên bán không hề biết ai là phía đối
tác. Công ty thanh toán bù trừ sẽ thực hiện chức năng trung gian trong tất cả các giao dịch.
Việc thực hiện các hợp đồng trong Sở giao dịch sẽ được đảm bảo bằng sự công bằng và uy
tín của các Sở giao dịch và công ty thanh toán bù trừ. Đối với các bên trong hợp đồng
tương lai, những thay đổi về giá trị tài khoản của các bên tham gia hợp đồng được điều
chỉnh hàng ngày theo mức giá thị trường và được ghi nhận. Bên cạnh đó các hợp đồng này
còn yêu cầu ký quỹ. Sự kết hợp giữa việc thanh toán hàng ngày và yêu cầu ký quỹ sẽ giúp
cho công ty thanh toán bù trừ phòng ngừa được rủi ro cho các hợp đồng.
- Điều chỉnh giá cả trên thị trường: việc các bên mua bán hàng hóa với giá cả dự
kiến trong tương lai giúp cho thị trường tự điều chỉnh giá. Nếu có một tin xấu (chẳng hạn
như thời tiết khó khăn có thể gây mất mùa) hoặc tin tốt (được mùa) sẽ xảy ra trong tương
lai thì giá cả của mặt hàng đó sẽ tự động điều chỉnh trong một thời gian trên thị trường Sở
giao dịch hàng hóa trước khi có sự thay đổi giá thực sự trên thị trường tự do. Nhờ biết
trước được giá cả dự kiến trong tương lai nên những người cần bảo hộ có thể điều tiết sản
xuất, tự động cân bằng cung cầu. Hơn thế nữa, việc niêm yết giá cả công khai trên thị
trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh không lo việc mua bán không đúng giá, ép giá. Giá
cả được niêm yết công khai không chỉ lợi cho những người giao dịch trên Sở giao dịch mà
nó còn là căn cứ đề các nhà kinh doanh trong nước, khu vực hoặc thế giới thực hiện việc
mua bán cua mình.
Đối với quản lý nhà nước
Thị trường mua bán hàng hóa trong Sở giao dịch hàng hóa là một phong vũ biểu cho
nền kinh tế trong tương lai và nó gần như chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các diễn biến giá cả
hàng hóa trên thế giới trong tương lai gần. Do đó, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch trở
thành một công cụ để Nhà nước quản lý, quan sát sự biến chuyển trên thị trường trong sở
nhằm đưa ra các chiến lược quan trọng để điều tiết và phát triển kinh tế. Những vai trò của
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa trong quản lý kinh tế của Nhà nước được kể
đến như:
- Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa sẽ giúp cho các thành phần tham gia
thị trường cũng như nhà nước nắm được quan hệ cung cầu và giá cả. Sự giao dịch tập trung
giúp cho diễn tiến giá trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu, đặc biệt hơn ở chỗ
là giá cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai gần. Những người tự bảo hiểm sẽ không lo
bị ép giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên thị
trường. Còn nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản xuất,
thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô của mình.
- Việc tiêu chuẩn hóa trên Sở giao dịch hàng hóa là một dịp thuận tiện để Nhà nước
tiêu chuẩn hóa và thống nhất chất lượng hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế,
đồng thời nâng cao quy mô sản xuất để tiến tới một nền sản xuất chuyên nghiệp, có định
hướng hơn, tránh sự sản xuất thiếu tập trung.
- Việc ghi sổ, cập nhật các thành phần tham gia, các lĩnh vực được mua bán, sự thay
đổi giá cả, thông tin... trên sở giao dịch hàng hóa có ý nghĩa rất lớn trong việc thống kê
thương mại. Dựa vào số liệu thống kê đó, nhà nước thực hiện việc quản lý kinh tế được
hiệu quả hơn. Và cùng với nguồn dữ liệu thống kê được trong quá khứ sẽ giúp cho nhà
nước có cơ sở đưa ra được những dự đoán trong tương lai, đưa ra các giải pháp phòng ngừa
thích hợp, hạn chế các diễn biến bất lợi cho nền kinh tế, tránh được những cú sốc do thị
trường gây ra tránh rơi vào những tình huống xấu xảy đến bất ngờ.
Đối với xã hội
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có hai vai trò quan trọng đối với xã
hội: giảm chi phí rủi ro đối với xã hội và giúp phân bổ nguồn lực trong xã hội một cách tối
ưu.
- Vai trò giảm chi phí rủi ro đối với xã hội thể hiện trong việc người tự bảo hiểm sử
dụng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa để chuyển rủi ro về giá không mong
muốn sang cho người khác, thường là những nhà đầu cơ, những người sẵn sàng chấp nhận
rủi ro để mong muốn kiếm lời. Nếu không có phương thức mua bán qua Sở giao dịch hàng
hóa thì khó có thể quản lý rủi ro một cách hiệu quả, chí phí rủi ro đối với xã hội sẽ cao hơn
những người nông dân và nhà sản xuất sẽ phải chịu cảnh bấp bênh về giá.
- Vai trò phân bổ nguồn lực trong xã hội một cách tối ưu: Sở giao dịch hàng hóa đưa
đến một thương mại tập trung hóa, do đó dễ xác định được giá quân bình hay là khả năng
thị trường sẽ phát hiện được giá cả cân bằng thực sự. Giá cả chính xác hơn dẫn đến sự
phân bổ nguồn lực xã hội tối ưu vì với các thông tin về giá cả, quan hệ cung cầu là các yếu
tố chính xác nên người tiêu dùng, người sản xuất sẽ có được các quyết định đúng hơn về
hàng hóa được tiêu thụ, được sản xuất, cách sản xuất trong giai đoạn hiện tại so với tương
lai.
Tóm lại, một hoạt động mua bán được coi là mua bán hàng hóa khi đối tượng tham
gia vào giao dịch mua bán trao đổi này là hàng hóa và các chủ thể tham gia giao dịch là
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Để tiến hành mua bán hàng hóa người ta có rất nhiều phương
thức, trong đó có một phương thức mua bán hàng hóa hết sức đặc biệt đó là mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hình
thức mua bán hàng hóa tập trung với sự tham gia của Sở giao dịch hàng hóa. Tại sở giao
dịch hàng hóa, người ta tiến hành mua bán hàng hóa theo những tiêu chuẩn và quy tắc của
Sở giao dịch hàng hóa với giá ở thời điểm hiện tại, giao hàng và thanh toán tại một thời
điểm trong tương lai bằng cách tham gia vào hợp đồng tương lai hay quyền chọn. Mua
bán hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa ngày càng phát triển nhờ những vai trò như giúp cho nền kinh tế vận
hành trơn tru hơn và phát triển bền vững, hay vai trò của nó đối với quản lý nhà nước và
đối với xã hội.
d. Điều kiện phát triển thị trường mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Để phát triển thị trường mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cần có các điều
kiện sau đây:
- Cần xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh cho việc hình thành thị
trường mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa và cơ chế hoạt động mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
- Cần có nền kinh tế thực sự vận hành theo các quy luật thị trường để giá cả hàng hóa
được phản ánh trung thực. Vì trên Sở giao dịch hàng hóa, giá cả luôn bị biến động theo giá
của hàng hóa trên thị trường giao ngay, do đó, giá trên thị trường giao ngay có phản ánh
đúng các quy luật của thị trường thì lúc đó độ chênh lệch, rủi ro về giá của các mặt hàng sẽ
được giảm thiểu đến mức tối đa. Điều này đáp ứng được mục đích chủ đạo của các Sở giao
dịch hàng hóa được thành lập là chia sẻ rủi ro về giá giữa các thành viên tham gia thị
trường này;
- Phải có một số lượng lớn các bên tham gia giao dịch xuất hiện. Vì thị trường phụ
thuộc rất nhiều vào khách hàng, thiếu khách hàng sẽ làm cho lượng giao dịch trên thị
trường giảm, hiệu quả của Sở giao dịch hàng hóa vì thế cũng không đạt được như mong
muốn;
- Hàng hoá được đưa vào giao dịch phải được tiêu chuẩn hoá theo các tiêu chuẩn của
quốc tế về chất lượng, khối lượng, kiểu cách... vì trên thị trường giao dịch, người mua và
người bán không có cơ hội trực tiếp giao dịch với nhau, tất cả đều thông qua vai trò của
các trung gian môi giới. Do đó, để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể
tham gia thị trường, mỗi SGDHH phải đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, khối
lượng, quy cách... của từng loại hàng hoá trước khi đưa vào giao dịch;
- Phải có hệ thống thanh toán hiện đại vì có đến 98% giao dịch qua SGDHH được
thanh lí trước ngày đáo hạn của hợp đồng thông qua trung tâm thanh toán. Hơn nữa, trên
các thị trường, mỗi ngày có hàng triệu các giao dịch liên quan đến việc thanh toán, do đó
đòi hỏi phải có sự quản lí chính xác;
- Mặc dù chỉ có 2% giao dịch được thanh lí vào ngày đáo hạn nhưng muốn xây dựng
được thị trường này, cần phải có một thị trường giao ngay hoạt động có hiệu quả. Vì các
quyết định của nhà đầu tư cũng bị phụ thuộc vào các thông tin liên quan đến giá hàng hoá
từ thị trường giao ngay và ngược lại các thông tin từ Sở giao dịch hàng hóa là cơ sở để các
bên thực hiện giao dịch trên thị trường giao ngay. Do đó, khi xây dựng Sở giao dịch hàng
hóa không thể không tính đến vai trò của thị trường giao ngay;
- Cần phải đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lí nhà nước, vận hành
thị trường. Vì đây là một thị trường có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố thương mại và tài
chính, rất hiện đại, do đó rủi ro trên thị trường có thể đến bất cứ khi nào. Do đó, đòi hỏi khi
xây dựng thị trường này, nhà nước phải có chính sách đào tạo để có được nguồn nhân lực
phục vụ cho công tác quản lí nhà nước, tham gia vận hành Sở giao dịch hàng hóa và đồng
thời còn là những nhà môi giới, tư vấn chuyên nghiệp.
5.3.3. Các hình thức giao dịch và hợp đồng mua bán chủ yếu qua Sở Giao dịch hàng
hóa
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa thường được thực hiện theo các
phương thức: ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa giao ngay; tham gia vào hợp đồng tương
lai hoặc tham gia vào hợp đồng quyền chọn hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
a. Mua bán hàng hóa giao ngay
Mua bán hàng hóa giao ngay đó là những giao dịch mà ngay sau khi ký kết hợp
đồng, bên bán giao ngay hàng hóa cho bên mua và bên mua cũng trả tiền ngay cho bên
bán.
Hợp đồng giao ngay được ký kết trên cơ sở “hợp đồng mẫu của Sở giao dịch”, giữa
người có sẵn hàng muốn giao ngay với người có nhu cầu gấp, cần được giao nay. Vì vậy
hợp đồng giao ngay còn được gọi là hợp đồng hiện vật. Giá cả mua bán ở đây là giá giao
ngay. Giao dịch này chỉ chiếm khoảng 2% trong các giao dịch ở Sở giao dịch.
b. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai hàng hóa thỏa thuận giữa người mua và người bán về một hàng
hóa được giao vào một thời điểm trong tương lai và tại mức giá nhất định. Giao dịch tương
lai có thể yêu cầu giao hàng hóa hoặc nếu không thể giao hàng thì sẽ có quy định về việc
thanh toán tiền thay cho việc giao hàng hóa. Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch tương lai
đều là giao dịch khống chứ không giao nhận hàng thực tế. Để đảm bảo có thanh toán cuối
cùng, các hợp đồng tương lai có yêu cầu tiền bảo chứng và khoản tiền này sẽ được điều
chỉnh hàng ngày.
Trong hợp đồng tương lai, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên luôn đi liền với nhau. Tuy
nhiên những người này không trực tiếp gặp gỡ nhau mà sẽ đặt lệnh mua bán qua Sở giao
dịch, Sở giao dịch là trung gian sẽ tự động tìm đối tác mua bán cho các bên. Ngoài ra giao
dịch tương lai còn là một giao dịch trung hòa, nghĩa là mỗi một đồng tiền mà bên mua hợp
đồng tương lai thu được sẽ là đồng tiền mà bên bán hợp đồng tương lai mất. Số tiền mà
mỗi bên thu được hay mất đi trong một hợp đồng tương lai là bằng nhau và đối ngược
nhau. Rủi ro đối với cả bên mua và bên bán là không có giới hạn, nó phụ thuộc vào độ lớn
và giá cả của hợp đồng.
Hợp đồng tương lai được sử dụng với hai mục đích là đầu cơ hay tự bảo hiểm. Ban
đầu khi mớira đời thì hợp đồng tương lai được người bán và người mua hàng sử dụng để
kiểm soát rủi ro của mình. Ngày nay, hầu hết các giao dịch tương lai trên Sở giao dịch
hàng hóa đều thể hiện sự đầu cơ trên giá trị hàng hóa chứ không phải là sự cẩn trọng trong
việc tự bảo hiểm rủi ro.
Nghiệp vụ tự bảo hiểm là một kỹ thuật thường được các nhà buôn nguyên liệu, các
nhà sản xuất sử dụng nhằm tránh những rủi ro biến động giá cả làm thiệt hại đến số lãi dự
tính, bằng cách lợi dụng giao dịch khống trong Sở giao dịch. Ví dụ như người nông dân dự
định thu hoạch lúa vào tháng 5, nếu theo giá bình thường hiện nay người này sẽ thu được
một khoản lãi là 5000000$. Nhưng lo sợ đến tháng 5 thi giá lúa sẽ giảm xuống họ sẽ bị lỗ,
nên người nông dân nảy đến ngay Sở giao dịch để bán khống ngay lượng lúa này, với giá ở
thời điểm hiện tại và hẹn giao hàng vào tháng 5. Đến tháng 5 người nông dân đó bán lúa
trên thị trường theo giá của thị trường lúc đó và đồng thời đến Sở giao dịch thanh toán
chênh lệch giá của hợp đồng bán khống. Nếu giá lúa ở tháng 5 hạ hơn thì người này lỗ ở
giao dịch hiện
vật nhưng lãi ở giao dịch khống, ngược lại nếu lúa ở tháng 5 có giá cao hơn thì người nông
dân lãi trong giao dịch hiện vặt và lỗ trong giao dịch khống. Như vậy lãi ở hợp đồng này sẽ
bù cho lỗ ở hợp đồng kia do đó lãi dự tính của người nông dân vẫn là 5000000$. Tuy
nhiên, mức độ biến động giá cả trong giao dịch hiện vật và giao dịch khống không hoàn
toàn giống nhau. Vì vậy các nhà kinh doanh chỉ có thể hạn chế được phần nào những rủi ro
biến động về giá cả, chứ không hoàn toàn tránh được những rủi ro này.
Còn đối với nhà đầu cơ dám chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận thì họ hoàn toàn
sử dụng các giao dịch không trên Sở giao dịch nhằm mục đích thu lợi nhuận do chênh lệch
giá vào thời điểm ký kết hợp đồng với giá lúc đáo hạn hợp đồng. Khi họ dự đoán giá một
mặt hàng sẽ tăng trong tương lai, họ sẽ đến Sở giao dịch và mua hợp đồng tương lai -
người đầu cơ giá lên (bull).
Ngược lại khi họ dự đoán là giá mặt hàng đó sẽ giảm trong tương lai, thì họ sẽ bán
hàng hóa tương lai - người đầu cơ giá xuống là (bear). Ví dụ như khi một thương nhân dự
đoán giá gạo trong tương lai sẽ tăng, thương nhân này đã đến Sở giao dịch và ký hợp đồng
mua gạo với giá 1000S/MT nhận hàng sau 3 tháng. Vào thời điểm đáo hạn hợp đồng giá
gạo tăng lên 1200S/MT, thì người này hưởng chênh lệch 200S/MT.
Trong trường hợp giá cả biến động không đúng như dự đoán của mình, bên dự đoán
không đúng có thể đề nghị đối phương xin trả một khoản tiền bù. Khoản tiền bù mà bên
mua phải bỏ ra là “bù hoãn mua” (Contango). Khoản tiền bù mà bên bán phải bỏ ra là “bù
hoãn bán” (backwardation)5.
c. Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là một thỏa thuận theo đó người mua quyền có quyền được
mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước và phải trả một khoản
tiền nhất định để mua quyền này. Phí quyền chọn được thanh toán khi ký kết hợp đồng.
Một quyền lựa chọn mua được gọi là quyền chọn mua (call option) và một quyền lựa chọn
bán được gọi là quyền chọn bán (put option).
Hợp đồng quyền chọn xác lập quyền chứ không phải nghĩa vụ. Người mua quyền có
thể lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện một giao dịch nhất định vào một thời điểm
trong tương lai. Nếu quyền chọn được thực hiện, việc giao hàng hóa đổi lấy tiền sẽ diễn ra
vào ngày ghi rõ trong hợp đồng. Nếu không thể giao hàng thì sẽ có quy định thanh toán
tiền thay cho việc giao hàng. Nếu quyền chọn không được thực hiện, nó sẽ hết hiệu lực.
Không xảy ra trao đổi hàng hóa và bên mua quyền sẽ mất khoản tiền mua quyền chọn.
Trong hợp đồng quyền chọn, bên mua quyền, khả năng lỗ là chỉ giới hạn trong giá
phải trả. Lý do là vì nếu tại thời điểm thực hiện quyền chọn nếu giá trong hợp đồng gây
thiệt hại cho người mua quyền họ sẽ không thực hiện quyền chọn nữa. Ngược lại, đối với
người bán quyền chọn thì khoản lỗ của họ là không giới hạn, nó sẽ phụ thuộc vào giá cả
trên thị trường và độ lớn của hợp đồng.
5
Xem: Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, 2006, Tr40.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn:
Hợp đồng quyền chọn mua (call option): là hợp đồng theo đó bên mua quyền được
phép lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua một hàng hóa nhất định theo hợp
đồng.
Hợp đồng quyền chọn bán (put option): là hợp đồng theo đó bên mua quyền được
phép lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc bán một hàng hóa nhất định theo hợp
đồng.
Cũng giống như hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn cũng được sử dụng với
hai mục đích là đầu cơ hay tự bảo hiểm, nhưng thường mục đích tự bảo hiểm là chủ yếu.
Với người sử dụng hợp đồng quyền chọn nhằm mục đích đầu cơ, thì khi họ dự đoán
giá một mặt hàng sẽ tăng trong tương lai, họ sẽ đến Sở giao dịch và mua hợp đồng quyền
chọn mua. Ngược lại khi họ dự đoán là giá mặt hàng đó sẽ giảm trong tương lai, thì họ sẽ
mua hợp đồng quyền chọn bản. Ví dụ như khi thấy trên thị trường giá len đang có xu
hướng tăng lên, một người đã đến Sở giao dịch và mua một quyền chọn mua 1000 kg len,
với phí quyền chọn là 500$ nếu vào ngày thực hiện quyền chọn giá thị trường của loạt len
đó cao hơn giá thực hiện l,45$/kg như vậy anh ta thực hiện quyền chọn và sẽ được lợi từ
hợp đồng này 1500$ trừ đi tiền phí quyền chọn anh ta thu được một khoản lợi nhuận đáng
kể là 1000$ trên khoản đầu tư ban đầu là 500$, tương đương với lợi suất là 200%. Nếu diễn
biến thị trường không như dự đoán anh ta không thực hiện quyền chọn và chấp nhận mất
500$ tiền phí quyền chọn. Trong nghiệp vụ tự bảo hiểm thì đối với người mua hàng khi giá
hàng trong tương lai có xu hướng tăng lên thì họ sẽ đến Sở giao dịch và mua quyền lựa
chọn mua, còn đối với người bán khi dự định giá hàng trong tương lai sẽ giảm họ sẽ đến Sở
giao dịch và mua quyền chọn bán. Ví dụ một công ty A có một lô hàng nếu bán ở thời điểm
hiện tại thì có trị giá 200 000$ và lợi nhuận là 50 000 $. Công ty A có một lô hàng sẽ bán
cho công ty B sau 6 tháng nữa. Sợ rằng sau 6 tháng giá hàng giảm, công ty A có thể bị thiệt
hại, để tránh rủi ro công ty A vào Sở giao dịch mua hợp đồng quyền chọn bán lô hàng với
giá 200 000$ và thời hạn giao hàng sau 6 tháng, với phí quyền chọn là 6000$. Vào khi giao
hàng, nếu giá giảm còn 180 000 USD, thì công ty A sẽ thực hiện quyền chọn bán và thu
chênh lệch giá theo hợp đồng với giá trên thị trường bù cho khoản lỗ trong giao địch thực
tế. Nếu giá hàng tăng cao, doanh nghiệp A sẽ không thực hiện quyền chọn bán và chịu mất
6000S thay vì sẽ mất toàn bộ số tiền chênh lệch nếu tham gia hợp đồng tương lai.
Sử dụng hợp đồng quyền chọn có ưu điểm hơn hợp đồng tương lai là doanh nghiệp
đã xác định được trước khoản tiền mà họ bỏ ra để đảm bảo cho khoản lợi nhuận dự tính
trong tương lai từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh.
5.3.4. Pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở Giao dịch hàng hóa ở Việt Nam
Hiện nay, hành lang pháp lí cho việc xây dựng SGDHH và hoạt động mua bán hàng
hoá qua Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đã tương đối đầy đủ với sự ra đời của Luật
thương mại năm 2005 và Nghị định số 158/2006/NĐ-CP. Có thể khái quát ở một số nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch hàng hóa (SGDHH)
1- Địa vị pháp lí của SGDHH: SGDHH được Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công Thương) cấp phép thành lập dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH, có
tư cách pháp nhân và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại
và Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP.
2- Điều kiện để thành lập SGDHH: SGDHH chỉ được thành lập nếu đáp ứng các điều
kiện sau: a) vốn pháp định (150 tỉ đồng); b) Điều lệ hoạt động phải phù hợp với quy định
của pháp luật thương mại về SGDHH, điều lệ phải phản ánh được tư cách thành viên sở
giao dịch, loại hàng hóa, tiêu chuẩn, đơn vị đo lường của hàng hoá giao dịch, mẫu hợp
đồng và lệnh giao dịch, hạn mức giao dịch, kí quỹ, phí giao dịch, phương thức giao dịch,
chế độ thông tin, báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính, quản lí rủi ro, giải quyết tranh chấp;
c) Người điều hành phải có bằng cử nhân các ngành tài chính, kinh tế và có năng lực dân
sự, không thuộc trường họp pháp luật cấm.
3- Quyền và trách nhiệm của SGDHH được quy định khá cụ thể trong các điều 15, 16
Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP. SGDHH có quyền lựa chọn hàng hoá cơ sở
đưa vào danh mục giao dịch tại sở; tổ chức điều hành và quản lí hoạt động giao dịch qua
sở;chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên của các công ty có “chân” tại sở giao dịch; yêu
cầu các thành viên kí quỹ để thực hiện giao dịch; thu các loại phí theo quy định; ban hành
quy chế niêm yết, công bố thông tin; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch; yêu cầu thành
viên áp dụng biện pháp quản lí rủi ro; làm trung gian giải quyết tranh chấp theo yêu cầu...
đồng thời, SGDHH cũng có nghĩa vụ tổ chức giao dịch một cách, công bằng và hiệu quả;
công bố các giấy tờ chứng minh tư cách như giấy phép thành lập, điều lệ hoạt động, mẫu
hợp đồng, mẫu lệnh giao dịch... của sở giao dịch; thực hiện chế độ báo cáo... và là chủ thể
chịu trách nhiệm đến cùng về các giao dịch.
4- Thành viên của SGDHH bao gồm: a) Thương nhân môi giới, thực hiện các hoạt
động môi giới mua bán hàng hoá qua SGDHH. Để được trở thành thành viên môi giới
trước hết thành viên đó phải được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp theo quy định
của Luật doanh nghiệp, có vốn pháp định từ 5 tỉ đồng trở lên, người điều hành phải có trình
độ cử nhân trở lên và có đủ năng lực dân sự. Họ có quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật và điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa mà họ tham gia; b) Thương nhân
kinh doanh, thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa. Thành
viên kinh doanh là doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức khác không thể tham gia kinh doanh;
vốn pháp định phải từ 15 tỉ đồng trở lên; người điều hành có trình độ và có năng lực dân
sự. Họ có quyền thực hiện các hoạt động tự doanh hoặc nhận uỷ thác mua bán hàng hoá
qua SGDHH cho khách hàng; yêu cầu khách hàng kí quỹ để thực hiện giao dịch...
5- Ngoài các thành viên trên, bên cạnh SGDHH còn xuất hiện trung tâm thanh toán
và trung tâm giao nhận hàng hoá để phục vụ nhu cầu thanh lý trước ngày đáo hạn ghi trên
hợp đồng bằng thủ tục thanh toán bù trừ hoặc giao hàng vào ngày đáo hạn trên hợp đồng
tại trung tâm giao nhận hàng hoá. Trung tâm thanh toán có thể trực thuộc hoặc không trực
thuộc SGDHH nhưng hoạt động một cách độc lập với các quyền và nghĩa vụ của mình góp
phần thúc đẩy hoạt động, thúc đẩy giao dịch tại SGDHH. Trung tâm giao nhận hàng hoá
được thành lập với chức năng giao nhận hàng hoá, có các quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Thứ hai, hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH.
1- Hợp đồng được sử dụng làm công cụ để giao dịch theo quy định của Luật thương
mại là “hợp đồng kì hạn” và “hợp đồng quyền chọn”. Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận về
việc mua hoặc bán.
2- Hàng hoá được phép đưa vào giao dịch phải được công bố và nằm trong danh
mục được phép giao dịch của SGDHH theo quyết định của Bộ trưởng Bộ thương mại (nay
là Bộ Công thương) trong từng thời kì. SGDHH chỉ được phép giao dịch các loại hàng hoá
thuộc danh mục đã công bố với những điều kiện rất nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, khối lượng,
chất lượng...
3- Thời gian giao dịch do SGDHH công bố theo ngày, theo phiên giao dịch, thời
gian khớp lệnh, mở cửa, đóng cửa... và công bố các thông tin liên quan đến việc thay đổi
thời gian kể trên.
4- Hạn mức giao dịch: Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP đã giới hạn tổng
mức giao dịch của toàn bộ các hợp đồng trong thời gian giao dịch không được vượt quá
50% tổng khối lượng hàng hoá đó được sản xuất tại Việt Nam, tính theo năm trước đó.
Đồng thời, mỗi thành viên chỉ được giao dịch không vượt quá 10% tổng hạn mức giao dịch
kể trên.
5- Phương thức giao dịch: Cũng như trên thị trường chứng khoán tập trung,
SGDHH thực hiện phương thức giao dịch thông qua việc khớp lệnh tập trung trên cơ sở
lệnh mua, lệnh bán với nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch
lớn nhất; nếu có nhiều mức giá đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất thì lấy mức giá
trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất. Và nếu có nhiều mức giá thoả
mãn điều kiện trên thì lấy mức giá được trả cao nhất. Đồng thời, việc khớp lệnh dựa trên
cơ sở lệnh có mức giao cao hơn được ưu tiên thực hiện.
6- Để được tham gia giao dịch, Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP cho
phép SGDHH căn cứ vào điều kiện của mình mà quy định mức kí quỹ giao dịch nhưng
không được thấp hơn 5% trị giá của từng lệnh giao dịch và phải đảm bảo số dư tài khoản kí
quỹ mở tại trung tâm thanh toán. Ngoài ra, Nghị định này cũng đặt ra các trường hợp ngoại
lệ.
7- Thời hạn giao dịch hợp đồng được tính từ phiên giao dịch đầu tiên của ngày đầu
tiên giao dịch hợp đồng đó cho đến phiên giao dịch cuối cùng của ngày cuối cùng giao dịch
hợp đồng đó. Khi hết hạn giao dịch, các bên nắm giữ hợp đồng có nghĩa vụ phải thực hiện
các quyền và nghĩa vụ ghi trên hợp đồng.
8- Phương thức thực hiện hợp đồng: Các bên trong quan hệ hợp đồng có thể lựa
chọn thực hiện theo thủ tục thanh toán bù trừ qua trung tâm thanh toán hoặc giao hàng.
9- Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP cũng quy định chi tiết việc thực hiện
chế độ uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH của tổ chức, cá nhân khác cho thành viên
kinh doanh qua SGDHH theo hợp đồng uỷ thác bằng văn bản. Để có thể yêu cầu thành
viên kinh doanh qua SGDHH thực hiện các yêu cầu mua, bán hợp đồng của mình, khách
hàng phải có nghĩa vụ kí quỹ theo quy định, mức tiền kí quỹ do các bên thoả thuận nhưng
không được thấp hơn 5% trị giá lệnh uỷ thác giao dịch. Kết quả giao dịch được thành viên
kinh doanh qua SGDHH thông báo theo quy định của pháp luật.
10- Luật Thương mại (2005) và Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP đã ghi
nhận quyền được tham gia giao dịch với các SGDHH ở nước ngoài của thương nhân Việt
Nam. Điều này đã có tiền lệ khi Ngân hàng nhà nước cho phép Techcombank và BIDV
thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn, giao dịch trên các SGDHH nước ngoài.
Thứ ba, quản lí nhà nước và cơ chế giải quyết tranh chấp, vi phạm, khiếu nại, tố cáo
liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH.
1- Pháp luật đã quy định vị trí, vai trò chủ đạo trong quản lí nhà nước liên quan đến
hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch thuộc về Bộ Thương mại (nay là Bộ Công
Thương), ngoài ra hoạt động này còn chịu sự điều tiết quản lí từ phía Ngân hàng Nhà nước
(đối với chế độ, hoạt động thanh toán); từ phía Bộ Tài chính (đối với chế độ thuế, phí, lệ
phí giao dịch); từ phía Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trong việc phối kết hợp để thẩm định tính
khả thi của việc thành lập SGDHH).
2- Việc xử lí tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo các quy
định của pháp luật hiện hành, cụ thể là tuân theo quy định của Luật Thương mại, Luật
Khiếu nại, tố cáo, pháp luật về Tố tụng dân sự...