Professional Documents
Culture Documents
Khoa Cơ khí, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng có hệ thống cơ sở vật
chất hiện đại, đáp ứng nhu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trong đó, viện cơ khí, các
phòng thí nghiệm và xưởng thực hành có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thiết bị
máy móc phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên, giảng viên.
Các thiết bị, máy móc có tại viện công nghệ cơ khí & tự động hóa
CÔNG NGHỆ CAD/ CAM/ CNC
Hệ thống đào tạo Phòng CNC cơ bản Phòng CNC nâng Phòng thí nghiệm
CN/CNC cao nghiên cứu máy
Phòng thực hành Máy tiện 2 trục Máy tiện 3 trục Máy tiện 6 trục
mô phỏng CNC Maxxturn 65
Xưởng Cơ khí là nơi có mật độ sinh viên thực tập, thí nghiệm đông và dày nhất
Máy đo Robot
trường. Nơi đây được đầu
SMART tư tất cả các loại máy cắt kim loại truyền thống như tiện, phay,
công
bào, mài, xọc… cũng như các máy điều khiển số NC như tiện, phay… phục vụ rất tốt cho
đào tạo và chuyển giao công nghệ.
Mài là quá trình cắt gọt của đá vào chi tiết, tạo rất nhiều phoi vụn do sự ma sát trong quá
trình cắt gọt và sự cạo miết của các hạt mài vào chi tiết gia công. Mài được dùng chủ yếu
để gia công tinh kim loại với lượng dư bề mặt nhỏ, ngoài ra mài cũng được dùng để mài
thô, làm sạch, cắt đứt.. Mài có những đặc điểm khác với các phương pháp gia công cắt gọt
khác như tiện, phay, bào, khoan...
- Mài có thể gia công được những vật liệu rất cứng mà các phương pháp khác khó hay
không thể gia công được.
- Số lượng lưỡi cắt lớn ( mỗi hạt đá mài như một lưỡi dao cắt ).
- Các hạt mài không có hình dạng giống nhau và sắp xếp không theo quy luật nào cả. Trong
quá trình cắt, các hạt mài có lưỡi cắt luôn thay đổi và hầu như chúng đều có góc trước âm
(có thể = -60º ). Do đó lực cắt hướng kính lớn và chiều sâu cắt luôn thay đổi nên việc điều
khiển quá trình mài rất khó khăn.
- Tốc độ cắt khi mài rất cao, cùng một lúc, trong một thời gian ngắn có nhiều hạt mài tham
gia cắt gọt và tạo ra nhiều phoi vụn.
- Vì phoi cắt rất mỏng, tốc độ cắt lớn, các lưỡi cắt không sắc ( do < 0) nên khi cắt thường
xảy ra hiện tượng trượt làm cho ma sát lực cắt và nhiệt tăng lên rất lớn ( nhiệt độ vùng mài
có thể lên đến 1000ºc và cao hơn).
- Do lực cắt (nhất là lực hướng kính) lớn mà lớp kim loại trên bề mặt chi tiết gia công bị
biến dạng mạnh nên sau khi mài thường xuất hiện một lớp cứng nguội vài micromet đồng
thời trên đó xuất hiện những vết nứt nhỏ .
- Đá mài có khả năng tự mài sắc một phần trong quá trình mài.
2.1Đặc điểm chung về các kiểu mài phẳng và chuyển động cần thiết
Nguyên tắc chung của sơ đồ mài phẳng có bàn từ chuyển động thẳng là đá quay
tròn, chi tiết gia công được kẹp giữ trên bàn máy di chuyển qua lại dưới đá mài.
Mài phẳng là một phương pháp cơ bản để gia công tinh mặt phẳng. Nó có thể để gia
công lần cuối các mặt đã qua tôi sau khi phay hoặc bào. Ngoài ra mài phẳng còn có thể
thay cho phay, bào trong sản xuất lớn hoặc để gia công các chi tiết khó định vị và kẹp
chặt. Mài phẳng cho phép gia công các bề mặt có kích thước lớn, gá đặt chi tiết dễ
dàng, tốn ít thời gian vì sử dụng bàn từ tính các loại. Mài phẳng có thể sử dụng theo
phương pháp mài bẳng đá mài trụ hoặc bẳng đá mài mặt đầu.
2.1.1. Mài phẳng bằng đá mài trụ
Được thực hiện khi bàn máy có chuyển động tịnh tiến hoặc qua lại hoặc quay
tròn. Trên các máy mài phẳng có bàn máy chuyển động tịnh tiến qua lại, sau mỗi hành
trình dọc đá mài lại có chuyển động chạy dao theo phương vuông góc với chiều
chuyển động dọc của bàn máy.
Để mài phẳng bẳng đá mài trụ, thường sử dụng đá có hình trụ, đường kính khoảng
175: 600 mm và chiều dài đá mài từ 16: 100 mm. Độ cứng và độ hạt của đá mài được
chọn tùy thuộc vào chi tiết gia công.
- Ưu điểm:
o Cơ khí hoá trong quá trình mài thích hợp với sản xuất hàng loạt lớn và
hàng khối, có thể mài được những chi tiết mỏng, khó định vị và kẹp chặt
như xéc-măng. Máy mài đá vành khăm năng xuất thấp hơn, máy mài xoa
bằng mặt đầu của đá nhưng lại vạn năng hơn.
o Việc gá lắp đơn giản nên các loại máy này được sử dụng rộng rãi trong
sản xuất đơn chiếc và hàng loạt nhỏ. Trong sản xuất đơn chiếc và hàng
khối người ta dùng các loại máy mài xoa bằng hai mặt đầu của đá hoặc
những máy chuyên dùng khác.
o Khi mài phẳng bằng đá mài hình trụ, đảm bảo được độ chính xác và độ
nhẳn bóng bề mặt cao. Vì việc thoát phoi, thoát nhiệt và tưới dung dịch
trơn nguội vào khu vực gia công được dễ dàng.
- Nhược điểm:
o Do tiếp xúc nhiều nên nhiệt phát sinh khi mài phẳng lớn hơn so với mài
tròn ngoài có tâm và không có tâm, rất dễ gây ra biến dạng nhiệt trong
quá trình mài. Để khắc phục đều này người ta còn dùng đá hình trụ rộng
bản có thể cắt được hết chiều rộng của chi tiết trong một hành trình chạy
dọc của bàn máy và chỉ ăn dao thẳng đứng khi dùng phương pháp này
phải sửa đá thật cẩn thận nếu không bề mặt gia công sẻ bị nghiên vì đá
côn hoặc mặt gia công sẽ không nhẳn vì mặt đá không đều.
o Khi mài phẳng chi tiết thường được kẹp trên bàn từ bằng những điện từ
(nam châm điện) nhược điểm của phương pháp này chi tiết bị nhiễm từ
và hút theo nó những hạt phoi rất nhỏ trên bề mặt mài.
Hình 2.1 Phương pháp mài phẳng bẳng đá mài trụ
2.1.2. Các chuyển động cơ bản khi mài phẳng
- Chuyển động quay 1 của đá mài là chuyển động cắt chính
- Chuyển động tiến dao 2 của chi tiết
- Chuyển động tiến dao ngang của đá mài theo phương vuông góc với
phương chuyển động tiến dao 2 của chi tiết.
Chuyển động tiến dao đá mài tới chi tiết được thực hiện sau mỗi hành trình kép
(hoặc đơn), đôi khi còn được gọi là lượng tiến dao theo chiều sâu mài.
Nếu chiểu rộng đá mài lớn hơn chiều rộng của chi tiết có thể bỏ qua chuyển động
tiến dao ngang.
Là sự dịch chuyển của chi tiết theo chiều dọc của bàn máy, tính bằng m/ph, kí hiệu bằng
Sd. Phương pháp này dùng trong các máy mài tròn ngoài, máy mài phẳng có bàn chuyển
động tịnh tiến, mài sắc cạnh dụng cụ.phương pháp này áp dụng khi gia công những chi tiết
hình trụ có chiều dài đáng kể l > 80mm hoặc dùng để gia công các mặt phẳng có chiều dài
lớn. Phương pháp này có độ nhẵn cao hơn mài tiến ngang. Trong điều kiện sản xuất hàng
loạt lớn và hàng khối, chiều dày của đá có thể chọn trị số lớn nhất cho phép theo hướng dẫn
của lý lịch máy để nâng cao năng suất nhưng cũng phải chú ý đến độ cứng vững của hệ
thống công nghệ : máy-chi tiết-đồ gá.
Sd Sn
Là sự dịch chuyển của đá mài theo hướng vuông góc với trục chi tiết hoặc mặt phẳng của
chi tiết gia công, tính bằng mm/hành trình kép hoặc m/ph. Phương pháp hay dùng trên máy
mài tròn ngoài, mài vô tâm, mài vạn năng, mài sắc dụng cụ. Dùng khi mài những chi tiết
hình trụ có l < 80 mm.
Dùng khi gia công những chi tiết hình trụ, côn,cổ trục khủy, trục lệch tâm, trục bậc, các
loại bạc, các loại chi tiết dạng ống...
Phương pháp có năng suất cao thường sử dụng khi sản xuất hàng loạt những chi tiết nhỏ.
Để nâng cao tuổi bền đá khi mài tiến ngang, cần chọn độ cứng của đá cao hơn 1÷2 cấp so
với phương pháp mài chạy dọc.
Sn
Sn nd
Chi tiết mài quay quanh một trục của bàn máy, đá tiến vào để cắt hết lượng dư. Thường
gặp ở các máy mài phẳng có bàn từ quay, máy mài xoa bằng cả hai mặt đầu đá...phương
pháp này dùng để mài các chi tiết mỏng, các loại vòng, mài xecmăng, có năng suất cao, rất
lợi cho sản xuất hàng loạt, độ chính xác của chi tiết phụ thuộc vào loại thiết bị và phương
pháp công nghệ.
Bằng cách xoay bàn máy, hoặc xoay ụ trước hoặc ụ mài đi một góc trên mâm chia độ.
Còn có thể kết hợp xoay ụ trước và ụ mài.
Bàn máy thực hiện chuyển động chạy dao dọc, đá tiến ngang ra vào như hình vẽ.
Sn
nd
ct
nct
Sd
Để khảo sát các yếu tố liên quan, ta xét các chuyển động tạo hình của mài tròn ngoài (hình
1.3)
Thường tốc độ quay của chi tiết nhỏ hơn tốc độ quay của đá mài từ (60÷100)lần.
â
1
Sn
Sd
ct
nâ
2 n ct
Hình 2.2 Cắt bỏ lượngdư theo phương pháp chạy dao ngang
Lượng chạy dao ngang của đá (dọc tâm trục chính) sẽ được thực hiện sau mỗi hành
trình dọc của bàn máy. Đá mài sẽ hớt đi một lớp kim loại có chiều dày bằng chiều sâu
cắt, còn chiều rộng bằng lượng chạy dao ngang của đá sau một hành trình dọc của bàn
máy. Sau khi đi hết toàn bộ bề mặt gia công, đá mài lại được điều chỉnh tới một chiều
sâu cắt mới và quá trình lại tiếp diễn cho đến khi cắt hết toàn bộ lượng dư.
- Mài với chiều sâu cắt lớn:
Hình 2.3 Cắt bỏ lượng dư theo phương pháp mài với chiều sâu cắt lớn
Bằng phương pháp này, đá mài sẽ mài gần hết lượng dư sau một hành trình dọc
của bàn máy. Sau mỗi hành trình dọc, đá mài sẽ dịch chuyển đi khoảng 3/4 đến 4/5
chiều dày đá mài cho tới khi đi hết toàn bộ bề mặt gia công. Phần lương dư còn lại
(0.01~0.02 mm) sẽ được hớt bỏ theo phương pháp chạy dao ngang.
Khi mài với chiều sâu cắt lớn, bàn máy có vận tốc cắt bé. Phương pháp này chủ
yếu sử dụng trên các máy mài có công suất lớn
- Mài bằng đá bậc:
Hình 2.4 Cắt bỏ lượng dư theo phương pháp mài bằng đá bậc
Đá mài có dạng bậc, phần lượng dư chính được phân bố cho các bậc và được
hớt bỏ sau một lần chạy dao dọc của bàn máy. Bậc cuối thường chỉ hớt đi một lớp
mỏng, sau đó tiến hành mài tinh lại bằng phương pháp chạy dao ngang.
2.1.4. Mài phẳng bằng đá mài mặt đầu
Các chuyển động khi mài bằng đá mài mặt đầu:
1) Tốc độ đá mài : đối với máy mài tròn ngoài, người ta xác định phạm vi sử dụng phổ biến
nhất và đảm bảo yêu cầu gia công là:
Vđ = ( m/s ) (1-1)
Lượng chạy dao dọc Sd - lượng dịch chuyển tương đối của đá mài sau một vòng quay
của chi tiết gia công, được biểu thị qua chiều rộng đá mài :
Lượng chạy dao ngang Sn – lượng dịch chuyển của đá mài sau hành trình kép của bàn
máy mang chi tiết gia công (mm/htk)
Lượng chạy dao ngang phụ thuộc vào độ nhám bề mặt , độ cứng vững đá mài, hạt mài,
hình dạng, kích thước đá mài. Khi mài thô chọn S n =0,02÷0,08 mm/htk. Khi mài tinh chọn
Sn =0,005÷0,015 mm/htk.
Là khoảng cách giữa bề mặt trước và sau khi mài, tính cho môt lần ăn dao (mm). Thông
thường t = 0,005÷0,05 mm.
4) Xác định tốc độ chi tiết gia công
Việc chọn tốc độ của chi tiết gia công phải căn cứ vào một số yếu tố (điều kiện công
nghệ ) sau : tính chất của vật liệu gia công, tính cứng của đá mài, độ nhám bề mặt gia công
yêu cầu. Mặc dù tốc độ chi tiết có ảnh hưởng đến năng suất gia công nhưng nếu chọn quá
lớn sẽ làm tăng lực ly tâm, rung động, nếu chọn nhỏ dễ gây ra hiện tượng cháy và nứt ở lớp
kim loại bề mặt vật mài. Thông thường chọn Vct =( 1÷3) %Vđ.
Chọn tốc độ chi tiết gia công cho máy mài tinh không nên thấp mà cũng không nên cao
quá.
Biết được lực cắt khi mài không những chỉ để tính công suất cần thiết và thiết kế máy
mài, mà còn xác định độ lệch của chi tiết gia công. Nó cũng được dùng để thiết kế đồ gá
mài. Lực cắt khi mài thường không lớn (khoảng 100N) vì tiết diện phoi cắt bé.
Lực cắt khi mài nhỏ hơn nhiều so với các nguyên công cắt gọt khác và cũng cần giữ cho
nhỏ để tránh biến dạng, giữ được độ chính xác gia công.
P z =C×t x×S y ×V k
Lực cắt khi mài tính theo công thức: ct (1-6)
T,S,Vct là chiều sâu cắt, lượng chạy dao, tốc độ chi tiết
6) Nhiệt độ mài
Sự tăng nhiệt độ khi mài là điều đáng quan tâm vì nó ảnh hưởng đến chất lượng bề mặt
và gây ra ứng suất dư trong chi tiết. Hơn nữa độ chênh lệch nhiệt độ trong chi tiết gây ra
cong vênh bởi sự co giãn nhiệt khác nhau. Khi nhiệt độ truyền vào chi tiết, nó làm cho chi
tiết nở ra gây khó khăn cho việc kiểm tra độ chính xác kích thước.
Tăng nhiệt độ bề mặt khi mài có quan hệ với các biến số theo công thức :
Δt0=k.D1/4.tc3/4.(vđ/vct)1/2 (1-7)
Như vậy, khi nhiệt độ tăng khi tăng chiều sâu cắt, đường kính đá mài, tốc độ cắt, và
giảm khi tăng tốc độ chi tiết gia công. Trong đó tc có ảnh hưởng lớn nhất đến nhiệt độ.
Nhiệt độ lớn nhất khi mài có thể đạt đến 1600 0C. Tuy nhiên thời gian tạo phoi cực ngắn.
Phần lớn nhiệt được truyền vào phoi, chỉ có một ít nhiệt khi mài truyền vào chi tiết.
Hoa lửa được tạo ra khi mài kim loại, phoi thực sự phát sáng do kết quả của phản ứng
nhiệt giữa phoi nóng với oxy trong khí quyển.
7) Ứng suất dư
Độ chênh lệch nhiệt độ bên trong vật mài là nguyên nhân cơ bản gây ra ứng suất dư,
dung dịch trơn nguội và phương pháp mài cũng như chế độ mài có ảnh hưởng mạnh đến độ
lớn và trạng thái ứng suất.
Vì ứng suất dư kéo làm giảm độ bền mỏi nên các thông số mài phải chọn cẩn thận. Giảm
ứng suất dư bàng cách giảm tốc độ cắt và tăng tốc độ chi tiết (mài mềm). Đá mài mềm
cũng được dùng.
Rung động trong quá trình mài rất quan trọng vì nó ảnh hưởng xấu đến chất lượng bề mặt
gia công cũng như hiệu suất đá mài. Nguồn gốc rung động có thể là ổ trục, trục chính, đá
mài được cân bằng chưa chuẩn, cũng có thể do bên ngoài như các máy đặt gần, thậm chí do
bản thân quá trình mài.
Ngoài các yếu tố như độ cứng vững của máy, đồ gá, khả năng giảm rung, thì sự không
đồng đều của đá mài là khác biệt duy nhất với các nguyên công khác.
Để giảm khuynh hướng rung động khi mài thường dùng đá có tính mềm, định kì sửa
đúng đá, kẹp chặt chi tiết gia công.
Đường kính lớn nhất của đá mài 250 350 500 350 350 450
(mm)
Số vòng quáy của đá mài(v/p) 2800 1440 1450 1440 1450 975
(mm)
Kích thước của máy
+ Chiều dài (mm) 2500 3505 5000 2250 3450 2600
+ Chiều rộng (mm) 1950 1845 2505 1585 1635 1565
+ Chiều cao (mm) 2000 2135 2955 1900 2135 2530
N= 7.5/11 Kw
n = 1450(v/ph)
D=
145mm
t=
5mm
N= 5.5
Kw
n=
1390(v/ph)
D=
40mm
3
a
d 4
B A
b c
1 4
Nếu gọi l là chiều dài hành trình của cơ cấu chấp hành.Q là lưu lượng dầu cho và xilanh,thì vận tốc
cơ cấu chấp hành bằng:( và kích thước tối thiểu theo chiều dài của cơ cấu xilanh truyền lực là
Lmin=31)
V1=V2= 4Q
∐(D 2 -d 2 )
(7) Van tràn: Là loại cơ cấu điều khiển chỉnh áp dùng để đề phòng quá tải trong hệ
thống dầu ép. Khi áp suất dầu trong hệ thống vượt quá mức điều chỉnh van sẽ xả lượng
dầu thừa về bể.
a. Ký hiệu
P1
P2
a. Kết cấu và nguyên lý làm việc của van tràn loại van có piston kiểu r54
Dầu vào cửa (1) qua lỗ giảm chấn (2) vào buồng (3). Nếu như lực do áp
suất dầu tạo nên là P lớn hơn lực điều chỉnh của lò so P1 và trọng lượng G của lò so và
piston (5) về bể dầu. Lỗ (7) để tháo dầu ở buồng trên ra ngoài.
10 0 0
12
10 2
9 1
0
13
8
10 2
3 2
5 4