Professional Documents
Culture Documents
Tailieunhanh DSGFD 5497
Tailieunhanh DSGFD 5497
Trong sự phát triển kinh tế của đất nước thi doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang
khẳng định vai trò to lớn của mình đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước
nhà. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm đóng góp từ 26 - 28% GDP của đất nước và
giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Trong những năm gần đây với sự ra đời của
luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ và vừa không gnừng gia tăng cả về số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn
chưa thực sự thuận lợi và còn nhiều điều bất cập, dẫn đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
chưa phát triển tương xứng với tiềm lực thực sự của đất nước. Trước vấn đề đó, em xin
nghiên cứu vấn đề tài: “Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010".
Đề tài được chia ra làm 3 phần:
Phần I: Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Phần II: Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Phần III: Định hướng và giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010.
Chương I
Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa và các nhân tố tác động đến môi trường kinh
doanh ở Việt Nam.
I. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
a. Khái niệm
Cho tới nay chúng ta chưa có một định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tùy vào mỗi quốc gia mà có một cách định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Để hiểu hơn về doanh nghiệp nhỏ và vừa trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân hay các hộ kinh
doanh cá thể có tư cách pháp nhân tham gia các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của người tiêu
dùng và thông qua đó tối đa hoá lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp.
Hiện nay ở nước có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau tuỳ thuộc vào
tính chất hoạt động, ngành nghề kinh doanh và nguồn vốn chủ sở hữu cũng như tính
chất quản lý của doanh nghiệp. Vì vậy để xác định được đâu là doanh nghiệp nhỏ và
vừa thì chúng ta cần đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn nhỏ và số lao động
tương đối ít. Việc đưa ra một tiêu chí đánh giá doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mang tính
chất tương đối. Vì vậy việc phân chia doanh nghiệp hiện nay thường dựa vào các nhóm
ngành nghề:
+ Theo ngành nghề kỹ thuật
+ Theo hình thức chủ sở hữu
+ Theo cấp quản lý
+ Theo quy mô trình độ sản xuất
- Bên cạnh đó việc phân chia doanh nghiệp còn theo nhóm định tính đó là dựa
trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: trình độ chuyên môn
hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp quản lý thấp … Các tiêu chí có ưu thế
phản ánh đúng bản chất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng thường khó xác định
trên thực tế.
Nên nhóm này thường dùng để tham khảo và ít được sử dụng.
- Nhóm chỉ tiêu về mặt định lượng: Sử dụng các tiêu chí về lao động giá trị sản
xuất, giá trị tài sản …
Ngoài ra còn có một vài yếu tố tác động đến việc phân loại doanh nghiệp nhỏ và
vừa như: tình hình kinh tế việc làm nói chung trong cả nước, tính chất nền kinh tế hiện
hành của nước đó, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, mục đích phân loại.
- Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới. Hiện
nay đa số các nước trên thế giới thường dựa vào các yếu tố lao động, công nghệ, giá trị
tài sản để phân chia doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bảng 1
Tên quốc gia Số lao Vốn hay tài sản Doanh thu
động
Oxtraylia < 500
người
Canada < 500 < 20 triệu $
người Canada
Indonexia < 100 < 6 tỷ Rupi < 2 tỷ Rupi
người
Singgapore < 100 < 499 triệu $
người Singgapore
Thái Lan < 100 < 20 triệu Bath
người
(nguồn được dựa theo dự án chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt Nam của viện Friech Eerber CHLBĐức phối hợp với viện nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ương thực hiện năm 1998.)
Do tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước là rất khác nhau và
nó lại tuỳ thuộc vào ý đồ chính sách, sự thay đổi chính sách của các chính phủ là khác
nhau nên các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng khác nhau và được thay
đổi theo thời gian.
* Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Có rất nhiều cách để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này phụ thuộc vào
cách nhìn nhận của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, tổ chức kinh tế sau đây là
một vài ví dụ.
- Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình
doanh nghiệp có số lao động dưới 500 mà vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động là
8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 triệu đồng.
- Liên hộ lao động và tài chính coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có
số lao động < 100 người, doanh thu hàng năm < 10 tỷ đồng và vốn pháp định dưới 1 tỷ
đồng.
- Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam do UNIDO
thì:
+ Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người vốn đăng ký
dưới 1 tỷ đồng.
+ Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp gồm có số lao động từ 31 - 200 người vốn
đăng ký dưới 5 tỷ đồng.
- Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc chương trình VN - EU doanh
nghiệp nhỏ và vừa được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số công nhân từ 10 -
500 người và vốn điều lệ 50 nghìn - 300 nghìn USD. Quỹ phát triển nông thôn coi
doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có giá trị tài sản không quá 2 triệu $ lao động
không quá 500 người. Lý do các tiêu chí khác nhau như vậy là do Nhà nước chưa ban
hành một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả các ngành.
Việc quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là để tạo cơ sở triển
khai các giải pháp hỗ trợ. Qua nghiên cứu thực tế nhiều nước, trong đó có một số nước
có điều kiện kinh tế và trình độ phát triển tương tự Việt Nam cho thấy, các nước này
chủ yếu sử dụng 3 tiêu chí: vốn, số lao động và doanh thu, trong đó vốn và số lao động
được nhiều nước áp dụng nhất. Chỉ số bình quân ở các nước này là nếu doanh nghiệp có
ít hơn 200 lao động và có số vốn kinh doanh nhỏ hơn 1 triệu đô la Mỹ thì được coi là
thuộc loại nhỏ và vừa. Đương nhiên, do phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ
(về vật chất) của chính phủ ở từng thời kỳ, nên các tiêu chí này ở một số nước cũng
không cố định. Thậm chí trong cùng một nước, nhiều khi các tiêu chí để xác định doanh
nghiệp đủ điều kiện nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó không phải bao giờ cũng trùng
hợp với tiêu chí theo quy định chung của Nhà nước.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tế các nước, căn cứ hoản cảnh cụ thể của Việt
Nam và có tính đến xu hướng phát triển thời gian tới, tại Điều 3, Chương 1, Nghị định
90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt
Nam, trong đó có đưa ra tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, của địa phương trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời
cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”.
Mỗi một loại hình doanh nghiệp đều có ưu nhược điểm hay nói cách khác mỗi
loại hình doanh nghiệp đều có những lợi thế và hạn chế nhất định.
- Những lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa
+ Dễ dàng khởi sự năng động và nhạy bén với thị trường:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ cần một số vốn hạn chế, mọi mặt hàng nhỏ hẹp có
thể khởi sự doanh nghiệp, vòng quay sản phẩm nhanh có thể sử dụng vốn tự có, tổ chức
quản lý gọn nhẹ dễ quyết định khi thị trường biến động loại doanh nghiệp gặp khó khăn
thì dễ dàng chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác và hướng vào một thị trường khác
do cơ cấu tổ chức quản lý gọn nhẹ lên ban lãnh đạo dễ dàng thống nhất trong kinh
doanh và thực hiện truyền đạt thông tin kinh doanh chính xác.
+ Dễ dàng phát huy bản chất hợp tác: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ
tiến hành một vài công đoạn trong quá trình sản xuất đề ra một sản phẩm hoàn chỉnh
đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải
cùng nhau hợp tác để tồn tại.
+ Không có hoặc ít có sự xung đột mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và
lao động do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động
và công nhân thường không lớn và nếu có mâu thuẫn thì dễ dàng giải quyết với nhau.
+ Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tính độc
quyền trong kinh doanh do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường dễ xâm nhập thị
trường và cạnh tranh là một trong các yếu tố làm doanh nghiệp nhỏ và vừa hoàn thiện
mình hơn và tự thể hiện khả năng của mình trên thương trường.
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển ở khắp mọi vùng, mọi nơi của đất
nước và lấp được những chỗ trống và thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn tạo nên sự
cân bằng về phát triển kinh tế giữa các vùng, giữa các ngành.
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp trẻ và là cơ sở
ban đầu để phát triển doanh nghiệp lớn. Qua thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, một
mạng lưới các doanh nghiệp nhỏ và vừa khắp cả nước đã đào tạo và sàng lọc các nhà
doanh nghiệp, có thể nói đây là môi trường đào tạo hữu hiệu nhất. Đại bộ phận ở các
nước đang phát triển các doanh nghiệp lớn đều xuất thân từ các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Nói tóm lại, việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo cho nền kinh tế có
sự cạnh tranh công bằng bình đẳng và góp phần phát triển đất nước.
+ Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa
còn có các điểm yếu nhất định như:
(1) thiếu các nguồn lực để tiến hành các cạnh tranh lớn, hoặc các dự án đầu tư
lớn, đầu tư công cộng.
(2) Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khồn có các lợi thế kinh tế theo qui mô và
trong một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường lép vế trong các mối
quan hệ với ngân hàng, với chính phủ và giới báo chí … Nhiều doanh nghiệp nhỏ và
vừa bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển.
(3) Đứng trên một giác độ nhất định thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì là rất dễ
khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều loại rủi ro trong kinh doanh. Và trên thực tế ở các
nước trên thế giới, càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời thì cũng có càng nhiều
doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. Có những doanh nghiệp bị phá sản sau một thời
gian hoạt động rất ngắn.
(4) Là loại hình doanh nghiệp có tính nhạy cảm cao trong việc tạo ra các ảnh
hưởng ngoại lai như đã nói ở trên, bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng gây ra không ít các ảnh hưởng ngoại lai tích cực trong nền kinh
tế như do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ
môi trường hoặc khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc hoạt động không
hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tuởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này,
gây khó khăn cho người tiêu dùng khi lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi
lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ.
Tuy nhiên, các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa không
giống nhau trong các thời kỳ khác nhau. Nhiều học giả đã phân tích tính chất của doanh
nghiệp nhỏ và vừa thông qua các giai đoạn phát triển khác nhau của loại hình doanh
nghiệp này. Trong nghiên cứu này, tôi có thể tóm tắt đặc điểm của các doanh nghiệp
qua 3 giai đoạn phát triển là: giai đoạn khởi sự mới thành lập, giai đoạn mở rộng kinh
doanh và giai đoạn chuyển đổi kinh doanh. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa thể
hiện rất tõ qua từng giai đoạn vì trong những giai đoạn nhất định các doanh nghiệp nhỏ
và vừa chịu sức ép và những cản trở khác nhau.
Trong giai đoạn đầu mới thành lập: Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
quá trình mới thành lập đều thiếu vốn hoạt động và có một kế hoạch chưa hoàn chỉnh.
Trong nhiều trường hợp các kế hoạch kinh doanh chỉ mới là những phác thảo ban đầu
của ý tưởng kinh doanh. Tại một số nước, chính phủ đã đưa ra qui định là chỉ cấp giấy
phép kinh doanh cho các doanh nghiệp khi họ có kế hoạch kinh doanh. Trên thực tế các
chủ doanh nghiệp chỉ làm bản kế hoạch kinh doanh mang tính chất đối phó mà thôi. Các
bản kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này thể hiện các
mơ ước nhiều hơn là tính thực tế.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu kinh doanh thường có các hiểu
biết chưa thật đầy đủ về thị trường mục tiêu nên có rất nhiều doanh nghiệp sau một thời
gian hoạt động lại chuyển sang kinh doanh một ngành khác với các ý tưởng kinh doanh
ban đầu. Hơn nữa, có rất nhiều các tổ chức và các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở từng nước dưới các hình thức khác nhau nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong giai đoạn đầu khởi nghiệp lại rất khó tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ này. Họ
thường chú trọng nhiều hơn trong việc chờ đời các khoản lợi nhuận ban đầu mà quên đi
rằng các mối quan hệ và các dịch vụ hỗ trợ sẽ dễ dàng giúp các doanh nghiệp hạn chế
rủi ro trong kinh doanh.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu cũng chưa thật sự quan tâm
đến việc đào tạo nhân viên đặc biệt là nhân viên quản lý vì hầu hết nhân viên được quản
lý theo cách truyền thống và kinh nghiệm sẵn có của chủ doanh nghiệp. Hầu hết các
quyết định trong những doanh nghiệp này đều do chủ doanh nghiệp đưa ra và phụ thuộc
vào rất nhiều vào tài trí của chủ doanh nghiệp.
Khác với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu
kinh doanh rất dễ bị ảnh hưởng và chi phối của các cơ quan hành pháp. Điều này đặc
biệt đúng trong các nền kinh tế đang chuyển đổi khi mà hệ thống pháp luật chưa thực sự
hoàn thiện và đang trong giai đoạn xây dựng. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các
nước đang chuyển đổi, chưa thật sự hiểu biết về nghiệp chủ và cũng chưa có thói quen
sử dụng tư vấn đồng hành trong kinh doanh trong khi họ lại có sự hiểu biết thiếu đầy đủ
về các thủ tục và điều kiện kinh doanh. Trong các nước có nền kinh tế đã phát triển với
một hệ thống luật pháp đầy đủ về các thủ tục và điều kiện kinh doanh. Trong các nước
có nền kinh tế đã phát triển với một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn thiện thì hầu hết
các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này rất cần đến các nhà tư vấn và luật sư
có kinh nghiệm.
Giai đoạn mở rộng kinh doanh: với đặc điểm là vốn hoạt động nhỏ, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa cũng thường thiếu vốn để thực hiện các phương án mở rộng kinh
doanh. Khác với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thường có kế
hoạch mở rộng kinh doanh không thực hiện sự đầy đủ do các doanh nghiệp này thiếu
nguồn nhân lực được đào tạo một cách đầy đủ và phù hợp. Một mặt do nhiêu lao động
sau khi đã được đào tạo tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tìm đến các doanh
nghiệp lớn để làm việc vì ở đó có nhiều cơ hội thăng tiến hoặc tăng thu nhập hơn, một
mặt thì do các doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực một cách
chu đáo. Do vậy, nhiều nước đã coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là cái nôi để rèn luyện và
đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp lớn trong những giai đoạn nhất định.
Bên cạnh đặc điểm trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn mở rộng
kinh doanh này thường rất khó xác định đầy đủ các nguồn lực đầu vào cho công việc
kinh doanh đặc biệt là trong việc lựa chọn kỹ thuật và thiếu kinh nghiệm kinh doanh
trong một qui mô lớn hơn. Trong các nước có nền kinh tế chuyển đổi hoặc đang phát
triển thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn bị hạn chế bởi các kiến thức về cạnh tranh
trên thị trường quốc tế khi họ mở rộng sản xuất kinh doanh và tham gia cạnh tranh trên
thị trường quốc tế.
Giai đoạn chuyển đổi kinh doanh: là giai đoạn tương đối gian khó của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa đã nhận thấy sự cần thiết phải chuyển đổi kinh doanh để có thể thu
được các khoản lợi nhuận cao hơn. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là chú
trọng đến việc chuyển đổi số lượng các sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường thiếu sự nghiên cứu đầy đủ
về các điều kiện thị trường. Trong các nền kinh tế đã phát triển, thì các doanh nghiệp
nhỏ và vừa thường có điều kiện và kinh nghiệm để tìm hiểu đầy đủ hơn về thị trường.
Hơn nữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế luôn luôn có các tư vấn đồng
hành nên rủi ro thường ít hơn. Trong các nền kinh tế chuyển đổi, các doanh nghiệp
thường ít có kinh nghiệm hơn trong khi môi trường lại thay đổi khó dự đoán hơn nên
các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở giai đoạn này thường gặp nhiều rủi ro hơn. Trong quá
trình chuyển đổi kinh doanh, nhu cầu về lao động không còn như cũ nữa, do đó, một
vấn đề mà mọi doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải đương
đầu là làm sao bảo toàn được nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình. Điều này đòi hỏi
các doanh nghiệp phải đầu tư thích đáng về thời gian và tiền bạc vào việc phát triển
nguồn nhân lực cũng như xác định chính xác loại hình kinh doanh.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường thiếu thông tin về thị trường đặc biệt là thị
trường ngoài nước do đó nắm bắt cơ hội kinh doanh còn bị hạn chế. Và vấn đề bức xúc
hiện nay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc xây dựng thương hiệu sản phẩm
cho riêng mình còn gặp nhiều khó khăn do hiểu biết về pháp luật của doanh nghiệp loại
này còn nhiều hạn chế dẫn đến bị ăn cắp thương hiệu mà không làm gì được hoặc có
các doanh nghiệp không biết cách gây dựng thương hiệu cho riêng mình mặc dù sản
phẩm của các doanh nghiệp loại này rất tốt.
2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam.
- Như chúng ta đã biết sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới
được chính thức thừa nhận từ năm 1990 trở lại đây. Từ đó đến nay các loại hình doanh
nghiệp ngày càng nhiều với số lượng lớn và chủ yếu là nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp
nhỏ và vừa ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay
chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy “theo ước tính doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm
khoảng 27 - 30% GDP thì phần còn lại là sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân hầu hết
là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 25 - 28% GDP. Theo báo cáo gần đây của
tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần đã tạo ra
8% GDP, hộ kinh doanh cá thể tạo ra 8 - 9% GDP và HTX tạo ra khoảng 9% GDP. Như
vậy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không thể sản xuất nông nghiệp (trong đó chủ
yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) đã tạo khoảng 25 - 26% GDP của cả nước”1. Khái quát
doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam năm 2001.
- Khu vực kinh tế tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp nhỏ và vừa) là nơi tạo ra nhiều
việc làm trong nền kinh tế Việt Nam. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê thì có
khoảng gần 3 triệu lao động làm việc trong các đơn vị kinh doanh của khu vực kinh tế
tư nhân trong đó có khaỏng 2,5 triệu người làm việc trong các doanh nghiệp cá thể và
nhóm kinh doanh. Con số nói trên có thể chưa thực sự phản ánh đúng số lao động làm
việc trong khu vực kinh tế tư nhân vì thực tế con số trên chưa tính đến người làm công,
các chủ doanh nghiệp và nhân công trong hộ kinh doanh cá thể
(1)khái quát DNN&V ở Việt Nam 2001 Viện NCQLKTTW
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa tận dụng được các nguồn lực xã hội
+ Về nguồn vốn: Bởi vì doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khởi sự ban đầu bằng
nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự hỗ trợ từ bên ngoài là rất hạn chế, do khởi sự bằng
nguồn vốn ít ỏi. Như vậy nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất được đông đảo nhân dân
tham gia hoạt động qua đó thu hút được nguồn vốn trong dân vào sản xuất kinh doanh.
+ Về nguyên vật liệu: Trên cơ sở nguồn vốn ít ỏi, và lực lượng lao động chủ yếu
là thủ công do vậy nguyên vật liệu được sử dụng cũng chủ yếu tại chỗ, thuộc phạm vi
địa phương dể khai thác sử dụng, qua đó cũng để giải quyết việc làm tại chỗ cho người
lao động địa phương. Rất ít doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu ngoại nhập. Theo khảo
sát 1000 doanh nghiệp nhỏ cho thấy 80% nguồn nguyên liệu cung ứng cho các doanh
nghiệp là ở địa phương.
- Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra sự chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế nước
ta.
Quá trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là quá trình cải tiến máy móc
và thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường, đến một mức độ tích tụ nào đó thì sẽ đổi mới công nghệ làm cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra cả chiều sâu lẫn chiều rộng và từ đó làm
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
II. Các nhân tố tác động đến hoạt động doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Từ các nhận định về môi trường kinh doanh ở trên tôi xin đưa ra 2 yếu tố chính
tác động đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
+ Chính sách xuất nhập khẩu: Sau khi cải cách kinh tế kể từ năm 1991 trở lại đây
đã có nhiều doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu do chính doanh nghiệp sản xuất ra
và được phép nhập khẩu các yếu tố đầu vào để sản xuất. Theo nghị định 57/NĐ - CP
ngày 31/7/1998 cho phép tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu. Nghị định này là bước tiến mới trong tự do hoá thương mại của Việt Nam.
+ Chính sách mậu dịch tự do: là chính sách mà chính phủ quy định không đánh
thuế vào một số mặt hàng xuất nhập khẩu. Chính sách này đã mở ra một số cơ hội cho
các doanh nghiệp Việt Nam song đây cũng là những thách thức lớn đối với các doanh
nghiệp còn non trẻ trong quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt.
+ Chính sách bảo hộ mậu dịch: Là chính sách mà chính phủ các quốc gia áp duụn
các biện pháp để cản trở và điều chỉnh các loại hàng hoá nhập vào trong nước nhằm bảo
hộ các loại hàng hoá trong nước. Chính sách này hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước
ngoài thông qua các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm bảo vệ cho các doanh
nghiệp trong nước có đủ thời gian để đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên chính sách
này cũng có hạn chế đối với hàng hoá trong nước xuất đi nước ngoài do hiện tượng
nước ngoài “ trả đũa” và sẽ dẫn đến thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu bị thu
hẹp.
Bất kể một quốc gia nào cũng đều phải sử dụng chính sách tài chính tiền tệ để
thu hút đầu tư và điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách tài chính tiền tệ là một trong những
chính sách hữu hiệu nhất đề điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô.
+ Chính sách thuế: là nguồn thu theo nghĩa vụ được quy định bằng pháp luật.
Thuế tồn tại qua các hình thái kinh tế xã hội của Nhà nước, là nguồn thu chủ yếu, ổn
định của Nhà nước (thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách của Nhà nước và cơ bản trang
trải nhu cầu chi tiêu của chính phủ), là công cụ chi phối thu nhập quốc dân. Thuế không
chỉ là nguồn thu mà nó được coi là chính sách tài khoá can thiệp vào nền kinh tế vĩ mô,
là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước và cạnh tranh với nước ngoài.
-Chính sách công nghệ: Ngày nay với nền kinh tế tri thức khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão thì vai trò của công nghệ đặc biệt quan trọng đối với doanh
nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được công nghệ thì doanh nghiệp đó có lợi thế trên
thị trường.
Theo Porter trong cạnh tranh ngành có 5 nhân tố đó là:
+ Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành.
+ Sự đe doạ của các đối thủ tiềm ẩn.
+ Sự đe doạ của các sản phẩm thay thế.
+ Sức ép từ phía nhà cung ứng.
+ Sức ép từ phía khách hàng.
Trong 5 yếu tố trên thì khoa học công nghệ là nhân tố quyết định trực tiếp vào 2
yếu tố đó là các đối thủ cạnh tranh trong ngành và sức ép từ phía khách hàng.
Nhận thức rõ vai trò của khoa học công nghệ trong nền kinh tế thị trường và với
việc phát triển của đất nước. Nhà nước đã ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế và
chuyển giao công nghệ được UBTVQH ban hành ngày 5/17/1998 đã tạo ra khuôn khổ
pháp lý đầu tiên cho việc chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Mặc dù dã có gắng ban
hành một số nghị định khác về chuyển giao công nghệ song vẫn còn một số hạn chế như
bảo vệ quyền sở hữu phát minh, sáng chế chưa được coi trọng và việc làm nhái mẫu mã
và bắt chước công nghệ cũng đã tạo ra một số vấn đề cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh trong nước.
- Các văn bản pháp luật quy định về cạnh tranh và môi trường kinh doanh
trong nước.
Có thể thấy rằng hiện nay các doanh nghiệp hoạt động ở nước ta đang chịu sự
điều chỉnh của 4 bộ luật đó là:
+ Luật doanh nghiệp Nhà nước: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các
doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn.
+ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam.
+ Luật hợp tác xác: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các hợp tác xã
thường được gọi là kinh tế tập thể.
+ Luật doanh nghiệp: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp
do nhân dân đầu tư vốn, thường gọi là kinh tế tư bản tư nhân hay là doanh nghiệp dân
doanh.
Nhờ có hệ thống pháp lý này mà Nhà nước dễ quản lý và đồng thời cũng dễ điều
chỉnh, bổ sung nhằm phù hợp với tình hình hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp.
Xong bên cạnh đó việc phân chia dựa vào hình thức sở hữu về vốn và xây dựng luật
riêng cho từng loại hình cùng dẫn tới những hạn chế: thế cạnh tranh của doanh nghiệp
không phụ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp mang lại phụ thuộc vào loại hình
doanh nghiệp, tức là cái mác của doanh nghiệp đó. Cho nên trong các cuộc hội nghị hội
thảo gần đây, các doanh nghiệp thường trao đổi tranh luận về hệ thống pháp lý còn
nhiều vấn đề chưa phù hợp mang tính chất gò bó làm cho họ yếu thế trong cạnh tranh,
đồng thời các doanh nghiệp cũng đòi chính phủ cư xử bình đẳng giữa các loại hình
doanh nghiệp giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp Nhà nước, giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để từng bước sửa chữa
và đáp ứng tốt hơn môi trường kinh doanh trong nước thì chính phủ phải rà soát lại
những quy định về luật và cần phải có những văn bản, điều luật bổ sung cho phù hợp
với tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Hiện nay có các văn bản sau:
Các văn bản quy định trực tiếp về doanh nghiệp nhỏ và vừa:
* Ngày 23/11/2001, Chỉnh phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là bước ngoặt về thể chế hoá quy định về
doanh nghiệp nhỏ và vừa, khẳng định nhận thức của Đảng và Nhà nước về tầm quan
trọng đặc biệt của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời để khắc phục nhược
điểm của hệ thống chính sách hiện hành. Việc ban hành Nghị định này không chỉ nhằm
tháo gỡ, cởi trói, tạo sự bình đẳng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn thực thi các
biện pháp ưu đãi hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này.
Ngoài những văn bản quy định trực tiếp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
nêu ở trên, Việt Nam còn có những văn bản không quy định trực tiếp cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại là tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của khu
vực này. Có thể kể đến một số văn bản sau:
* Một số văn bản và chính sách liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) được Quốc hội thông qua năm
1998, góp phần cải thiện khung pháp lý nhằm khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam
yên tâm bỏ vốn kinh doanh. Tuy nhiên, các thủ tục cho vay ưu đãi đầu tư còn chưa đồng
bộ, dẫn đến khó giải ngân cho các dự án, nhất là các dự án của doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
- Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999: nhằm thay thế
cho Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990. Điểm mới nổi bật của Luật
này là đã luật pháp hoá quyền tự do kinh doanh của công dân, xoá bỏ những điều kiện
bất bình đẳng đối với các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; đơn giản hoá
thủ tục thành lập doanh nghiệp; đề cao ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư thông qua
nguyên tắc “tiền đăng hậu kiểm”; tạo cơ sở để thống nhất khung luật pháp cho mọi loại
hình doanh nghiệp vào một bộ luật duy nhất. Những quan điểm đổi mới này của Luật
doanh nghiệp được các nhà đầu tư hết sức ủng hộ.
- Chương trình hành động khuyến khích phát triển khu vực tư nhân trong khuôn
khổ sáng kiến Myazawa (Nhật Bản), đã được công bố và dự kiến thực hiện đến hết năm
2001. Với chương trình này, chính phủ Nhật bản cam kết tài trợ cho Việt Nam 20 tỷ
Yên để hỗ trợ cho các nhóm biện pháp khuyến khích khu vực tư nhân, bảo đảm đối xử
bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực tín
dụng, cấp phép, hải quan, thuế, phân bổ hạn ngạch, và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
của các doanh nghiệp theo luật định.
- Trong những năm qua, đã có nhiều cuộc đối thoại giữa các quan chức chính
phủ với giới đầu tư, và doanh nghiệp tư nhân để cùng trao đổi, xử lý các vấn đề tồn tại,
tạo sự hiểu biết lẫn nhau nhằm tiếp tục tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Tuy nhiên đại diện của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở những cuộc
họp như vậy là rất ít.
- Một số biện pháp của Chính phủ được thực hiện nhằm huy động nguồn lực
trong nước như: cho phép doanh nghiệp tư nhân dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp
vốn trong liên doanh, được trực tiếp xuất khẩu những mặt hàng không bị cấm, khuyến
khích đầu tư của tư nhân vào các hoạt động khoa học và công nghệ …
- Để kích cầu qua tín dụng, Chính phủ đã áp dụng chính sách điều chỉnh linh
hoạt, hạ trần lãi suất cho vay tín dụng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn
đầu tư kinh doanh. Về nguyên tắc, biện pháp này có thể có tác động kích cầu đối với cả
đầu tư và tiêu dùng, nhưng trên thực tế, biện pháp này ít có tác động đến hoạt động của
doanh nghiệp nhỏ và vừa vì khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp này đối với nguồn
vốn ngân hàng là rất ít.
động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Văn kiện đại hội Đảng
7)
Như vậy những thay đổi về tư duy chính trị đối với nền kinh tế đã làm thay đổi
môi trường kinh doanh trong nước. Những nhận thức tích cực về thành phần kinh tế tư
nhân trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày
càng phát triển.
- Xét về ngành nghề kinh doanh thì các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế
tư nhân chủ yéu hoạt động trong 3 ngành: ngành dịch vụ thương nghiệp sửa chữa xe
động cơ mô tô, xe máy chiếm 46%; trong công nghiệp chế biến 22% và khách sạn nhà
hàng 13%.
bảng 3
Bảng phân bổ các loại hình kinh doanh ngoài quốc doanh phân theo ngành kinh
tế (31/12/1996) Đơn vị: %
Phân theo ngành kinh tế Loại hình doanh nghiệp
DNTN Cty Cty HTX Kinh tế
TNHH Cổ phần cá thể
1. Nông nghiệp 0,18 0,49 0,65 0,37 0,88
2. Thuỷ sản 20,66 0,18 1,31 0,98 3,63
3. Công nghiệp khai thác mỏ 0,23 0,38 0,00 4,85 1,01
4. Công nghiệp chế biến 22,47 24,04 31,37 55,47 22,17
5. sản xuất phân phối điện khí đốt 0,14 0,1 0,00 0,24 0,02
6. Xây dựng 4,55 13,80 8,5 5,53 0,13
7. Thương nghiệp, sửa chữa 43,36 47,92 22,22 12,22 46,4
8. Khách sạn 4,46 3,72 2,61 0,68 13,09
9. Vận tải thông tin 1,08 4,55 1,31 13,44 7,62
10. Tài chính tín dụng 0,19 0,07 26,14 5,84 0,01
11. Khoa học và công nghệ 0,01 0,22 0,00 0,00 0,00
12. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư 0,47 3,17 5,88 0,1 1,21
vấn
13. Giáo dục và đào tạo 0,0 0,01 0,00 0,00 0,02
14. Hoạt động y tế 0,01 0,03 0,00 0,00 0,56
15. Hoạt động văn hoá thể thao 0,04 0,1 0,00 0,03 1,05
16. Hoạt động phục vụ cộng đồng 2,21 0,97 0,00 0,24 2,21
% Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT
- Xét về doanh thu của các loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân,
thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư
nhân. Như vậy về khía cạnh này nhóm doanh nghiệp đăng ký chính thức gồm doanh
nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần chiếm phần quan trọng
(khoảng 57%). Điều này có thể do các doanh nghiệp tư nhân khai báo không đúng về
doanh thu của doanh nghiệp của mình để tránh đóng thuế cao hơn. Và nếu muốn kinh
doanh theo quy mô lớn thì chắc chăn phải chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp đăng
ký chính thức hoạt động theo những nguyên tắc của thị trường.
Điều đáng lưu ý là doanh thu khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành phố Hồ
Chí Minh chiếm tới 51% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân trên cả nước. Tiếp
đến là vùng Đồng bằng sông Cửu Long 22%; vùng đồng bằng sông Hồng 17%. Như
vậy xét về doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở miền
nam Việt Nam.
Doanh thu của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh phân theo khu vực lãnh thổ
bảng 4 Đơn vị tính: %
Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp
DNTN Cty Cty HTX Kinh tế % DT theo
TNHH Cổ phần cá thể vùng
1. Vùng núi trung du 2,9 1,34 0,26 4,68 4,97 3,17
2. Đồng bằng sông Hồng 2,97 15,89 7,48 12,9 12,07 11,73
3. Khu bốn cũ 1,4 0,62 0,12 25,39 4,85 3,15
4. Duyên hải miền trung 6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 6,12
5. Tây Nguyên 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 2,43
6. Đông Nam Bộ 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 51,46
7. Đồng bằng sông Cửu Long 43,11 7,87 4,73 11,49 28,02 22,08
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100
Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT
Từ số liệu trình bày ở trên tôi xin đưa ra một vài nhận xét tổng quát về doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trước năm 2000 như sau:
- Một là: Xét trên tất cả các tiêu chí phần lớn hoạt động của khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam hiện nay tập trung chủ yếu ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là vùng
đồng bằng Nam Bộ.
- Hai là: Xét về ngành nghề kinh doanh thì hoạt động của khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam chủ yếu hoạt động trong 2 ngành là thương mại, dịch vụ và công
nghiệp chế biến.
- Ba là: Các nhà kinh doanh chưa ưa chuộng hình thức doanh nghiệp trách nhiệm
hữu hạn và Công ty cổ phần điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau:
+ Phần nhiều trong số các nhà kinh doanh đều là người tự tìm việc làm cho mình.
Họ khởi sự kinh doanh chỉ với mục đích đơn giản là nhằm kiếm sống cho bản thân nên
họ chưa có mục tiêu phát triển doanh nghiệp một cách rõ ràng.
+ Quy mô giao dịch, số lượng giao dịch nhỏ, tích chất giao dịch đơn giản và bản
thân người kinh doanh chưa nhận thức hết được những rủi ro trong kinh doanh.
+ Hoạt động của họ chủ yếu mang tính phi hình thức vì họ không có yêu cầu phải
sử dụng luật lệ của Nhà nước. Trong môi trường đó sự quen biết, tin cậy lẫn nhau là trên
hết “việc ký kết hợp đồng chủ yếu diễn ra ở trong nhà hàng, sân thể thao”.
+ “Cho đến nay kỹ năng và hiểu biết về quản trị kinh doanh mới bắt đầu xây
dựng. 75% doanh nghiệp có đăng ký chính thức là doanh nghiệp tư nhân. Trao đổi với
một số doanh nghiệp ở một số địa phương cho thấy đa số các chủ doanh nghiệp được
hỏi chưa hiểu biết được địa vị trong pháp lý kinh doanh. Họ không hiểu được rằng kinh
doanh dưới nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân là họ phải chịu trách nhiệm vô hạn về
tài sản của mình và họ có thể rơi vào tình trạng bần cùng hoá. Họ cũng không hiểu được
rằng kinh doanh theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, và Công ty cổ phẩn thì sẽ
chịu trách nhiệm hữu hạn trong việc chịu sự rủi ro về tài sản”4.
- Cũng từ thực tế cho thấy có 3 lý do cơ bản để người khởi sự kinh doanh ưa
chuộng hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh là:
+ Thủ tục cho việc khởi sự kinh doanh cũng như chấm dứt kinh doanh theo hình
thức cá nhân và nhóm kinh doanh đơn giản nhanh chóng thuận lợi và ít tốn kém. Nói
cách khác, sự kéo dài chậm trễ, phức tạo và tốn kém trong thủ tục thành lập và đăng ký
kinh doanh, trong việc xin phép đầu tư, xin phép mở rộng quy mô và đa dạng hoá ngành
nghề kinh doanh … đã làm nản lòng không ít các nhà đầu tư muốn thành lập doanh
nghiệp, thúc đẩy họ thực hiện kinh doanh ngầm hoặc dưới hình thức cá nhân và hộ kinh
doanh dưới vốn pháp định.
+ Sự kiểm tra bằng biện pháp hành chính của các cơ quan Nhà nước ít hơn. ứng
xử nói trên của giới kinh doanh chứng tỏ mức rủi ro phát sinh từ trách nhiệm vô hạn có
thể còn nhỏ hơn mức rủi ro do pháp luật quy định.
+ Một phần không nhỏ trong giới kinh doanh không muốn kinh doanh công khai,
ở quy mô lớn, hoặc không thể kinh doanh một cách thuận lợi dưới hình thức Công ty
doanh nghiệp tư nhân.
+ Giới kinh doanh chưa tin tưởng vào chính sách, luật pháp của Nhà nước, hoặc
môi trường kinh doanh chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn bị nhìn nhận và đánh giá không đúng vai trò
của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế do những tư duy cũ. Sự phân biệt đối xử không
chỉ tồn tại trong các hành vi ứng xử của các công chức, trong các nhân viên Nhà nước
mà nguy hiểm hơn nó còn tồn tại ngay trong quá trình xây dựng các biện pháp chính
sách, mặc dù sự tồn tại một cách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đã được khẳng
định trong hiến pháp và trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Sự phân biệt đối
xử này được thể hiện trên hầu hết các lĩnh vực, từ việc thành lập đăng ký kinh doanh
đến việc tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, các quy định về thuế cũng
như các thủ tục cho việc mở rộng quy mô kinh doanh.
- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đặc biệt là vai
trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước chưa được lý giải một cách thấu đáo. Do vậy
trong nhiều lĩnh vực, khu vực kinh tế tư nhân không được phép hoặc khó có thể nhập
cuộc kinh doanh, mặc dù khu vực này có thể đem lại hiệu quả cao hơn so với doanh
nghiệp Nhà nước. Hiện tượng độc quyền hoặc khống chế thị trường của doanh nghiệp
Nhà nước đặc biệt là các tổng Công ty đã hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Theo kết quả điều tra của MPDF thì dư luận đối với khu vực kinh tế tư nhân là
rất tiêu cực.
+ Quan niệm chung đối với khu vực kinh tế tư nhân là dễ phá sản, bóc lột, không
trung thực, cơ hội, không đóng góp gì cho quốc gia.
+ Doanh nghiệp tư nhân là nơi làm việc ít được ưa chuộng đối với sinh viên tốt
nghiệp đại học nếu so sánh với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
+ Doanh nghiệp tư nhân khó có thể vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất.
Trên đây là một vài đánh giá tổng quát của doanh nghiệp nhỏ và vừa trước năm
2000.
+ Bỏ chế độ xin phép thành lập chỉ thực hiện đăng ký kinh doanh với thủ tục đơn
giản, hồ sơ gọn nhẹ thời hạn ngắn và chi phí không đáng kể, bãi bỏ yêu cầu về vốn pháp
định đối với việc kinh doanh đại bộ phận các ngành nghề kinh tế, vốn pháp định chỉ áp
dụng đối với việc kinh doanh một số ít ngành nghề.
+ Thiết lập được cơ cấu tổ chức quản lý và giám sát tương đối rõ ràng, minh
bạch trong đó quyền và lợi ích các bên, đặc biệt là người góp vốn thiểu số được bảo vệ
một cách hợp lý.
+ Đa dạng hoá chế độ cổ phần và các công cụ tài chính khác giúp Công ty có cơ
hội và cơ sở pháp lý huy động và tích tụ được nguồn vốn phân tán và nhàn rỗi trong dân
cư do đó mọi người có nhiều cơ hội đầu tư phù hợp.
+ Tạo cơ sở pháp lý cho việc chia tách sát nhập Công ty, chuyển đổi Công ty đã
làm cho môi trường kinh doanh của các Công ty có những điểm lợi sau:
Phân bố rủi ro một cách hợp lý
Tận dụng được những lợi thế quy mô trong những trường hợp cần thiết, qua đó
tăng thêm được hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Duy trì và ổn định liên tục trong quá trình kinh doanh.
Từ những thuận lợi trên của luật doanh nghiệp môi trường kinh doanh ở Việt
Nam được cải thiện. Luật doanh nghiệp ra đời đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền
kinh tế Việt Nam do đó sau hơn 3 năm thực hiện luật doanh nghiệp số lượng các doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh không ngừng tăng ở mọi ngành nghề đặc biệt đã có nhiều
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.
Sự đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng trở nên bình đẳng hơn. Theo báo
cáo của một số thành phố thì số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh
mới đã tăng 7 - 8 lần so với trước năm 2000 mà các doanh nghiệp tư nhân cũng làm ăn
có hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp
với thủ tướng chính phủ vào tháng 3 hàng năm.
Bên cạnh những thuận lợi về kinh doanh do luật doanh nghiệp đem lại song các
doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp một số khó khăn đó là:
- Một số bộ ngành - uỷ ban nhân dân các tỉnh vẫn tự ý ban hành một số quyết
định tạm ngừng đăng ký kinh doanh trên một số lĩnh vực điều này trái với tinh thần của
luật doanh nghiệp.
- Còn tồn tại rất nhiều giấy phép quy định đăng ký kinh doanh đối với những
ngành nghề có điều kiện và thủ tục xin giấy phép này rất khó khăn và phức tạp.
- Còn một số vướng mắc trong việc thi hành luật doanh nghiệp cần thoá gỡ. Điều
này được thể hiện qua một số thắc mắc về luật doanh nghiệp của các nhà kinh doanh với
thủ tướng qua các cuộc gặp gỡ hàng năm.
2. Phân tích sự tác động của môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa
- Trong khi các hoạt động giao dịch trên thị trường rất đa dạng tính chất rất khác
nhau thì pháp lệnh chỉ đưa ra những quy định chung cho tất cả các loại hình hoạt động,
vì thế nó không thể đáp ứng được nhu cầu khác biệt của các hoạt động này.
- Điều 13 pháp lệnh quy định “những thoả thuận về chất lượng sản phẩm hàng
hoá công việ trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với những quy định về chất lượng,
tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước” trên thực tế những quy định này được áp dụng đối
với những sản phẩm cuối cùng, chứ không phải cho các bán thành phẩm, trong khi đó
nhiều sản phẩm được giao dịch trong hợp đồng chỉ được sử dụng đầu vào cho quá trình
sản xuất. Vì thế quy định quá chặt chẽ về mặt chất lượng này sẽ làm the hẹp phạm vi ký
kết hợp đồng của các doanh nghiệp.
- Các điều khoản chế tài trong pháp lệnh, cũng bó hẹp khả năng quyết định của
các doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng đặc biệt khoản phạt về thanh toán chậm.
Mặc dù các nhà làm luật đã hết sức tích cực trong việc xây dựng nội dung pháp
lệnh. Song việc thực hiện pháp lệnh này trên thực tế không thu được kết quả như mong
đợi bên cạnh những điểm yếu về nội dung. Việc thực hiện pháp lệnh này không phát
huy được kết hiệu lực còn một số nguyên nhân sau:
- ý thức chấp hành luật pháp của các tổ chức cá nhân còn thấp.
Một trong những mặt yếu ở quá trình chuyển đổi nền kinh tế là ý thức pháp luật
của người dân chưa cao. Hiện tượng lừa đảo hợp đồng, cố tình hay vô tình vi phạm hợp
đồng còn khá phổ biến. Bên cạnh đó sự cấu kết giữa một số quan chức Nhà nước mà
doanh nghiệp đã làm trái pháp luật không phải là ít.
- Cơ sở thông tin về thị trường, về doanh nghiệp còn quá yếm kém: Thông tin về
đối tác là cơ sở quan trọng để cho mọt doanh nghiệp nghiên cứu ký kết hợp đồng. Hệ
thống thông tin này chủ yếu dựa vào khâu hậu kiểm và phải được xây dựng trên cơ sở
kiểm toán, kế toán một cách hợp lý. Sự yếu kém của toàn bộ những cơ sở này đương
nhiên dẫn đến chất lượng kém của hệ thống thông tin trong nền kinh tế. Điều này dẫn
đến nhiều doanh nghiệp bị lừa và bị thiệt hại một cách oan uổng.
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã tạo cơ sở pháp lý cho các giao dịch thương mại
trên thị trường, định quyền và trách nhiệm của các bên ký kết hợp đồng điều này rất có
lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nhỏ và vừa.
- Nhà nước chính thức bảo hộ quyền lợi cho các bên tham gia ký kết hợp đồng.
- Sự bình đẳng các giữa các pháp nhân và cá nhân được pháp luật khẳng định bất
kể quy mô nào hoặc thành phần kinh tế nào.
Cũng như ở nhiều chính sách kinh tế khác, sự ưu đãi của Nhà nước chủ yếu được
xác định theo thành phần kinh tế chứ không theo quy mô do đó doanh nghiệp nhỏ và
vừa cũng gặp một số khó khăn nhất định.
- Do quy mô nhỏ nên một số đối tác cung ứng cũng như tiêu thụ các doanh
nghiệp này cũng không lớn, thậm chí một số còn không có cả giấy phép kinh doanh.
Trong trường hợp này hoặc doanh nghiệp nhỏ và vừa phải ký kết hợp đồng dân sự hoặc
đối tác của họ phải nhờ tư cách pháp nhân của doanh nghiệp khác để ký.
- Thông thường các doanh nghiệp nhỏ và vừa có ít mối quan hệ hơn so với doanh
nghiệp lớn của Nhà nước. Sự hiểu biết về pháp lý của họ cũng bị hạn chế hơn. Trong
trường hợp có tranh chấp, khả năng theo đuổi quá trình khiếu nại của họ sẽ khó khăn
hơn đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa ở vùng núi và nông thôn.
- Tiềm lực về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất mong manh, ý thức
chấp hành trong pháp luật chưa cao, việc xử lý các vụ tranh chấp không nghiêm minh
do vậy khi hợp đồng của doanh nghiệp này bị huỷ bỏ, hay bị vi phạm thanh toán chậm
thì tình thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa rất nguy nan. Một số doanh nghiệp bị phá sản
“oan” chỉ vì những nguyên nhân này.
2.2. Chính sách cạnh tranh.
- Trong khi chính phủ đang từng bước làm lành mạnh môi trường cạnh tranh thì
vấn đề độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn tồn tạo ở nhiều lĩnh vực. Các
doanh nghiệp Nhà nước độc quyền đã can thiệp quá sâu vào thị trường dẫn đến hiện
tượng cạnh tranh không lành mạnh.
2.2.2. Các Công ty độc quyền phân chia và khống chế thị trường ở một số lĩnh
vực làm cho các Công ty tư nhân không thể xâm nhập vào được mặc dù các Công ty
này có đủ năng lực để đảm nhận công việc đó. Điều này đã làm hạn chế t rong việc xây
dựng thương hiệu và hình ảnh của các doanh nghiệp mà điều này lại có ý nghĩa quan
trọng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì thương hiệu là tài sản quý giá nhất của mỗi
doanh nghiệp nó quyết định đến chỗ đứng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
- Những quy định pháp lý điều chỉnh cấu trúc thị trường và hành vi các doanh
nghiệp thị trường.
+ Hiến pháp năm 1992 chương 2 chế độ kinh tế điều 28 quy định “mọi hoạt động
kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân làm thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể, công dân đều bị xử lý
nghiêm minh theo pháp luật Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản
xuất và tiêu dùng.
+ Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
+ Nghị định 57/CP ngày 31/7/98 cho phép tất cả những Công ty tham gia xuất
nhập khẩu những gì mà Nhà nước không cấm.
Những quy định pháp lý trên đã cải thiện môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa được đối xử
công bằng bình đẳng hơn so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên vấn đề cạnh tranh
không lành mạnh còn diễn ra ở nhiều lĩnh vực.
2.2.3. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh trên thị
trường.
a. Khái niệm:
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi làm ảnh hưởng xấu đến lợi ích
của người cạnh tranh khác, hoặc người tiêu dùng thông qua biện pháp không công bằng,
thiên vị hoặc vi phạm đạo đức, luân lý trong xã hội.
b. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và tác động của chúng tới doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được thể hiện thông qua một số hoạt
động sau:
+ Tác động đến doanh nghiệp nhỏ và vừa: với tiềm lực tài chính không mạnh đã
làm cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa lâm vào tình cảnh đó thì rất khốn đốn và khó
khăn. Bên cạnh đó uy tín về sản phẩm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất dễ bị xâm
hại do quan niệm không đúng của người tiêu dùng và của các cơ quan có chức năng của
Nhà nước.
- Dồn đối thủ vào thế kẹt không qua việc bán phá giá.
Chính sách về giá là một trong những công cụ trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Tuy rằng cơ chế thị trường cho phép doanh nghiệp tự định giá song nếu các
doanh nghiệp sử dụng phương thức bán phá giá dựa trên tiềm lực tài chính hùng hậy
dồn đối phương vào chỗ chết để mở rộng thị trường thì điều đó gây tổn hại đến cạnh
tranh trên thị trường và đặc biệt gây tổn hại lớn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
b3: Việc hình thành cạnh tranh không lành mạnh thuộc nhóm 3
- Hạn chế gia nhập thị trường: Ngay trong quá trình gia nhập thị trường các
doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường hay vấp phải
những khó khăn về thủ tục đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó sự đối xử bất bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế của cơ quan Nhà nước trên nhiều lĩnh vực như đất đai, xuất
nhập khẩu, những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước đã bóp méo bức
tranh cạnh tranh trên thị trường.
c. Hạn chế cạnh tranh bởi một số chính sách của Nhà nước.
Trong suốt hơn 1 thập kỷ qua, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực trong việc xây dựng
khung khổ pháp lý cho một nền kinh tế thị trường, những mặc cảm về kinh tế thị trường
đã được xoá bỏ, nền kinh tế thị trường không còn coi là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Các nhà hoạch định chính sách đã cố gắng xây dựng một mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu mô
hình mới, vai trò của Nhà nước nói chung và khu vực kinh tế Nhà nước nói riêng vẫn
chưa được giải thích một cách rõ ràng nên dẫn đến khu vực kinh tế Nhà nước đã khống
chế ở một số lĩnh vực. Kể cả những lĩnh vực mang tính kinh doanh mà tại đó sức cạnh
tranh của doanh nghiệp Nhà nước còn quá thấp không có điều kiện phát triển.
Hầu như trong 1 căn hộ quá trình từ giai đoạn thành lập doanh nghiệp đến đầu tư
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, các chính sách Nhà nước đều có những quy định chưa
phù hợp với cơ chế thị trường làm ảnh hưởng đến sự vận hành của cạnh tranh như:
- Quá trình xin phép đầu tư: mặc dù luật doanh nghiệp đã ra đời hơn 3 năm song
ở nhiều lĩnh vực đầu tư tư nhân vẫn không được phép hoặc khó có đủ điều kiện để thâm
nhập vào thị trường.
- Quá trình đầu tư: thị trường các nhân tố sản xuất chưa được phát triển ở Việt
Nam đã gây trở ngại lớn cho các nhà đầu tư. Thêm vào đó các nhà đầu tư tư nhân lại
gặp khó khăn hơn nhiều do một số chính sách không bình đẳng ở một số lĩnh vực.
- Thị trường bất động sản:
Trong khi các doanh nghiệp Nhà nước được cấp đất, thì doanh nghiệp tư nhân lại
gặp rất nhiều khó khăn khi tìm được mặt bằng sản xuất. Việc chuyển nhượng mua bán
nhà cửa gặp rất nhiều khó khăn và tiêu tốn nhiều vốn của các nhà đầu tư.
- Thị trường vốn:
Cũng như thị trường đất đai vốn còn mang đậm tính phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp Nhà nước được khoanh nợ, giảm nợ, được vay tín
dụng không cần thế chấp. Trong khi đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải có thế
chấp và gần như không tiếp cận được với nguồn tín dụng dài hạn.
- Thị trường lao động:
Dù cuộc cải cách kinh tế đã diễn ra hơn 10 năm song tư tưởng mặc cảm về khu
vực kinh tế tư nhân vẫn còn ngự trị ở nhiều cấp. Điều đó đã tác động mạnh đến tư duy
của người lao động, đặc biệt những người có chuyên môn cao. Bên cạnh đó quan niệm
chủ doanh nghiệp là kẻ bóc lột vẫn chưa được xoá bỏ đã kìm hãm nhiều đảng viên chủ
động đứng ra đầu tư sản xuất kinh doanh.
- Quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
Với quyết định thành lập hàng loạt các tổng Công ty nhiều thị trường đã bị khống
chế, các doanh nghiệp tư nhân gần nhhư không có đủ sức cạnh tranh để tồn tại trên
những thị trường này. Cho đến tháng 8/1998 chỉ có một số ít doanh nghiệp tư nhân
được quyền xuất nhập khẩu. Những quy định này đã làm ảnh hưởng đến môi trường
cạnh tranh ở Việt Nam và còn làm cản trở cho việc nâng cao sức cạnh tranh trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
2.2.4. Một vài đánh giá về thực trạng cạnh tranh và môi trường cạnh tranh ở
Việt Nam.
a. Đánh giá về môi trường cạnh tranh.
- Cơ chế cạnh tranh đã xuất hiện và bắt đầu được vận hành ở Việt Nam với tiền
đề cơ bản ban đầu.
- Đã ban hành một số văn bản pháp lý điều chỉnh các hành vi có liên quan đến
cạnh tranh trên thị trường.
- Nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh chưa nhất quán, chưa giải
thích thấu đáo vai trò Nhà nước trong nền kinh tế, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước,
nên chưa có một quan điểm dứt khoát cho việc ủng hộ cạnh tranh lành mạnh và kiểm
soát độc quyền.
- Khung khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh, ý thức chấp hành luật phá chưa cao nên
còn tồn tại nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp cũng như
hành vi phân biệt đối xử của các cơ quan Nhà nước và công chức Nhà nước.
- Việc thành lập các tổng Công ty lớn khống chế thị trường đã ảnh hưởng không
tốt đến môi trường cạnh tranh.
- Chưa có những quy định cụ thể và chưa có một cơ quan chuyên trách theo dõi
và giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền.
b. Đánh giá hệ thống thuế và những tác động của chúng tới doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
- Qua thực trạng của hệ thống thuế của nước ta em xin đưa ra những đặc điểm cơ
bản của hệ thóng thuế nước ta như sau:
+ Dựa chủ yếu vào thuế gián thu
+ Tiếp tục dựa chủ yếu vào nguồn đóng góp của các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Hệ thống thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp phức tạp.
+ Việc áp dụng tuỳ tiện trong hệ thống thuế dẫn đến thoả thuận trong việc xác
định mức thuế.
+ Thuế suất còn khác biệt giữa các ngành làm méo mó bức tranh cạnh tranh trên
thị trường.
- Những tác động của chúng tới doanh nghiệp nhỏ và vừa
+ Có thể khẳng định rằng hệ thống thuế ở nước ta hay thay đổi. Do vậy gây ra
khó khăn cho cả người thu thuế và người đóng thuế. Việc thường xuyên thay đổi mức
thuế dẫn đến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh đặc biệt
là gây khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có những trường hợp nhiều doanh
nghiệp sau khi đã đi vào sản xuất với mức thuế ổn định nhưng sau khi mức thuế thay
đổi thì họ phải đóng cửa vì với mức thuế đó thì họ làm ăn không có hiệu quả. Với tình
trạng hệ thống thường xuyên thay đổi đã dẫn đến môi trường kinh doanh của nước ta
thường xuyên thay đổi và gây khó khăn cho khu vực kinh tế tư nhân.
+ Qua thực tế cho thấy thuế suất hợp lý thì thu được thuế cho ngân sách ngược
lại thuế suất quá cao thì người dân sẽ tìm cách để tránh thuế. Kết quả là Nhà nước thất
thu, doanh nghiệp chịu thiệt và người được lợi là những cán bộ thuế mất phẩm chất.
Riêng về thuế GTGT được ban hành năm 1997 và thi hành từ ngày 1/1/99 thay
thế cho thuế doanh thu là thuế đánh vào người tiêu dùng, tránh được tình trạng “thuế
chồng thuế” bằng cách khấu trừ số thuế đã nộp, người tiêu dùng phải chịu thuế sẽ chỉ
phải trả thuế cho phần giá trị gia tăng, ở mỗi giai đoạn sản xuất, không phải chịu thuế
doanh thu chồng chéo tuy vậy thuế GTGT còn tới 4 loại thuế suất 0%, 5%, 10%, 20%
và nhiều trường hợp được miễn trừ cho nên việc thu thuế GTGT vẫn gây ra nhiều khó
khăn. nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa cho rằng mức thuế còn cao chia ra làm 4 loại là
quá phức tạp, chỉ nên thống nhất ở 1 loại thuế suất. Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng
vậy có tới 4 mức là 15%, 20%, 25% và 32%, thuế tiêu thụ đặc biệt có tới 17 mức từ 15 -
100% và 7 mức cho thuế chuyển quyền sử dụng đất từ 0 - 50%. Nhiều doanh nghiệp
nhỏ và vừa cho rằng mức thuế suất (thu nhập doanh nghiệp) là cao hơn nữa lại có thuế
thu nhập bổ sung (đối với các cơ sở kinh doanh được coi là có địa điểm kinh doanh
thuận lợi, ngành nghề kinh doanh ít bị cạnh tranh lại thu nhập cao) là một thứ thuế bất
hợp lý, triệt tiêu động lực kinh doanh.
Một loại thuế khác cũng được doanh nhân trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa
đặc biệt quan tâm đó là thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao. Thuế này
đã nhiều lần sửa đổi từ 1/7/2001 đã áp dụng kiểu thuế mới. Khởi điểm chịu thuế được
nâng từ 2 triệu đồng lên 3 triệu đồng và hạ mức thuế suất cao nhất xuống 50%, trước
đây là 60%. Tuy vậy các doanh nhân trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn cho rằng
mức này không động viên được những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Hơn
nữa điều không hợp lý là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta đánh
đơn thuần vào thu nhập, không tính đến gia cảnh như ở các nước khác. Như vậy ở Việt
Nam có quá nhiều mức thuế suất và không hợp lý nên chưa thực sự khuyến khích các
doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
+ Chính sách thuế chưa khuyến khích việc đổi mới công nghệ cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn
thuế đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn đã ít
nhưng vẫn phải nộp thuế nhập khẩu trang thiết bị cho việc đổi mới công nghệ. Bên cạnh
đó thuế thu nhập quá cao so với các nước trong khu vực cũng làm nản lòng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa đầu tư cho việc đổi mới công nghệ. Điều này đã gây khó khăn cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
+ Việc hoàn thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn quá kéo
dài dẫn đến gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.
5 khi hải quan làm luật trên báo đầu tư ngày 27/4/2000
2.7. Chính sách vốn:
I. Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến 2010.
1. Các quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4 năm 2001 đã đề ra chiến
lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 với yêu cầu GDP phải tăng gấp đôi
so với năm 2000. Trong 5 năm từ 2001 đến 2005, GDP phải tăng bình quân hàng năm
7,5% và đến năm 2005, GDP sẽ bằng 2 lần so với năm 1995. Nền kinh tế nước ta phải
phát triển với tốc độ cao đi đôi với việc giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội và đảm
bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, phát triển tất cả các vùng kinh tế, từng bước vượt
qua tình trạng kém phát triển, cải thiện mức sống của nhân dân, đẩy nhanh tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao tích luỹ nội bộ, tạo nền tảng để đến năm 2002 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo quan điểm này thì
tăng trưởng kinh tế nhanh đã được đặt ra là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nền
kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Để đạt được các mục tiêu mà chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010
đã đặt ra, chính phủ Việt Nam đã coi phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm
vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam vì hai lý do cơ bản
(1) Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của
đất nước; (2) Sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào việc tạo sự
ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua tạo việc làm, giải quyết vấn đề lao động
và phúc lợi xã hội của nhân dân. Vì thế, các quan điểm chính trong việc xây dựng chính
sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn tới là:
- Phát huy nội lực tối đa trong xã hội. Trong thời gian qua, mặc dù đã có những
cải tiến mạnh mẽ trong việc tháo bỏ các rào cản hạn chế các doanh nhân bỏ vốn ra kinh
doanh nhưng các nguồn lực của xã hội vẫn chưa được khai thác và phát huy đúng với
tầm vốn có của nó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều nguồn lực của xã hội vẫn
còn tiềm ẩn trong dân. Vì thế, trong giai đoạn tới, chính phủ và các cơ quan ban ngành
có liên quan cần phải tìm ra những động lực mới để khai thác tốt các nguồn lực này
nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
- Đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế. Mặc dù trên các văn bản pháp
luật, các thành phần kinh tế là bình đẳng với nhau trên thực tế các doanh nghiệp nhỏ và
vừa tư nhân vẫn còn bị đối xử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Điều này thể hiện rất
rõ trong chính sách ưu đãi đầu tư và chính sách tín dụng cũng như qua các hành vi của
các công chức có liên quan. Bình đẳng chính là một động lực quan trọng để phát huy
các tiềm lực vốn có trong dân vì thế trong thời gian tới chính phủ cần quán triệt quan
điểm này để đem lại sự phát triển mạnh mẽ hơn trong khu vực dân doanh, khuyến khích
doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
- Xoá bỏ các quy định hành chính hạn chế việc ra nhập và rời bỏ thị trường của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Luật doanh nghiệp ra đời đã từng bước bảo đảm quyền tự
do kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho thị trường hai năm qua sôi động hẳn lên
với sự ra đời của một số lượng khổng lồ của các doanh nghiệp dân doanh. Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp làm giảm tác dụng của luật
doanh nghiệp. Việc nhiều doanh nghiệp ra đời sẽ thường kéo theo nhiều doanh nghiệp
muốn rút khỏi thị trường làm cho nền kinh tế thực sự mạnh hơn. Điều kiện và giấy phép
lao động hiện nay không hoàn toàn phù hợp với quá trình cải cách kinh tế cũng như cải
thiện hơn nữa môi trường khuyến khích đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt
Nam. Do đó, các quy định hành chính hạn chế việc ra nhập hay rời bỏ thị trường cần
được xem xét và xoá bỏ dần trong thời gian tới để thực sự cởi trói cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa phát triển.
- Hạn chế sự can thiệp thường xuyên và trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, nếu chính phủ không xác
định được các lĩnh vực cần can thiệp và lĩnh vực nên để thị trường tự do điều tiết thì sẽ
bóp méo các quan hệ trên thị trường và hạn chế các ảnh hưởng tích cực của thị trường.
Vì thế, để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong thời gian tới các nhà hoạt động
chính sách cần làm rõ mối quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp, giảm bớt các can
thiệp không hiệu quả của chính phủ vào thị trường làm cho nền kinh tế hoạt động ổn
định và phân bổ nguồn lực có hiệu quả hơn.
- Phát huy tối đa nội lực trong xã hội.
- Thực sự đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế để tạo ra môi trường cạnh
tranh lành mạnh.
- Nới lỏng những quy định hành chính hạn chế việc gia nhập và rút lui khỏi thị
trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc nới lỏng này không những đã “cởi trói”
cho nhà đầu tư mà nó còn hỗ trợ đắc lực cho quá trình cải cách hành chính, cải thiện
môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
2. Nội dung phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
2.2.2. Bảo hộ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng giai đoạn phát
triển.
Trong tiến trình Việt Nam hội nhập các nước trong khu vực và trên thế giới
thông qua các tổ chức kinh tế - xã hội như ASEAN, APEC, AFTA, WTO không chỉ có
các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tham gia thị trường mà các doanh nghiệp của
nhiều nước khác trong khu vực, trong cùng một tổ chức với Việt Nam sẽ cùng thâm
nhập vào thị trường nước ta. Với xuất phát điểm của một nước yếu kém về nhiều mặt
kinh tế, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu thấp kém thì các sản phẩm được tạo ra trong nước
rất khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của các doanh nghiệp ở những nước có
nền kinh tế phát triển cao kỹ thuật tiên tiến.
Vì vậy, để tránh cho tình trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ mất thị
phần ở trong nước và khó có thể vươn ra được thị trường nước ngoài, thì chính phủ Việt
Nam cần có những chính sách kịp thời để bảo hộ cho các doanh nghiệp đặc biệt là
doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp cho doanh nghiệp này có thể tồn tại và trở nên cứng cáp
hơn khi phải đối mặt với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá bằng cách phát huy
những mặt mạnh, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam với
các doanh nghiệp nước ngoài. Chính phủ nên có kế hoạch bảo hộ bằng hàng rào thuế
quan để tạo điều kiện tối ưu cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác với thị trường
khu vực và quốc tế với những bất lợi là tối thiểu.
2.2.3. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị
trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược
kinh doanh lâu dài. Trong bối cảnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo điều
kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con
người cho các giai đoạn phát triển kinh tế tiếp theo. Bên cạnh đó, phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên thị trường trong
nước, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải vươn lên
không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị
trường thế giới.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có ưu thế tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này
hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời
lại là một gánh nặng xã hội như nước ta. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa góp
phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện
đời sống cho người lao động, vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có của nền
kinh tế là lao động, tạo tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau. Ngoài ra, phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư tự huy động vốn của
mình và của người khác vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp góp phần làm tăng
tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát
triển kinh tế của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của cả nước. Do đó, chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể coi là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước
ta. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì sự thống nhất về mục tiêu giữa chiến lược phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung là một
trong các yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy các tiềm lực kinh tế của đất nước.
2.2.4. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải lấy quan điểm kinh tế làm thước đo.
Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu
quả kinh tế - xã hội, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kiếm lợi nhuận và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu, nhưng trên góc độ quản lý không thể coi nhẹ vấn đề xã hội, vì
vậy phải gắn hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội làm một. Kinh nghiệm nhiều nước trên
thế giới chỉ ra rằng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ đáp ứng tốt nhất yêu cầu này.
Do đó, chính sách hỗ trợ phải đảm bảo
(1) Thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng lợi nhuận đóng góp vào GDP của
nền kinh tế;
(2) Bảo đảm mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn;
(3) Thu hút nhiều lao động xã hội nhằm góp phần giải quyết công ăn việc làm,
bảo vệ môi trường và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác.
2.2.5. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị
trường trong một số ngành có lựa chọn.
Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay, các nguồn lực còn hạn chế do đó
không thể đầu tư một cách tràn lan. Hơn nữa, mỗi một nước, một quốc gia, chỉ có
những điểm mạnh trong một số ngành nhất định chứ không thể giỏi trong mọi ngành.
Để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên năng động, nhanh chóng thích nghi và
phù hợp với nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì chính phủ cần định hướng cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa lựa chọn phát triển trên một số ngành là thế mạnh của Việt
Nam đó là (1) Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng
xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; (2) Các ngành cung cấp đầu vào cho các doanh
nghiệp lớn, hoặc một số ngành tiêu thụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn,
tức là đảm nhận vai trò là mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm, chế biến, chế
tạo những sản phẩm chi tiết cần sự chuyên môn hoá cao cho các doanh nghiệp lớn; (3)
Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống
thuộc về các làng nghề.
2.2.6. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, Cả trong Việt
Nam và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng nhất của
chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập
trung thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, có nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc, thiết bị hiện
đại là chủ yếu, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện quan điểm này cơ chế
mới phải có tác dụng (1) Thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ;
(2) Tăng cường hoạt động được thông tin kỹ thuật, công nghệ.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa làm
một mô hình thích hợp nhất để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Sở dĩ như vậy là
vì, hiện nay nước ta có khoảng 70 - 80% dân số ở nông thôn. quá trình phát triển những
năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và về trình độ phát triển
nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn
chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đạng dẫn đến sức ép di cư vào các
trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên những biến động lớn khôn lường trong
xã hội. Kinh nghiệm ở nhiều nước Châu á cho thấy đối với các nước đông dân ở thì
chiến lược phát triển đi từ công nghiệp nông thôn là khôn ngoan và có hiệu quả do một
số lý do:
(1) Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư
sống ở nông thôn, góp phần làm ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tình
trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt; (2) Thu nhập dân cư nông thôn tăng lên làm cho
sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế
nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết giữa
thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị
và nông thôn;
(3) Sử dụng nguồn lao động dồi dào trong khu vực nông thôn;
(4) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá ở nông
thôn là góp phần thúc đẩy thị trường hàng hoá ở nông thôn phát triển. Kinh nghiệm một
số nước cho thấy hệ thống phân phối rộng rãi đó sẽ khuyến khích tiêu thụ hàng hoá nội
địa qua đó tác động trở lại kích thích sản xuất phát triển.
Ngoài ra còn có một số lý do khác như nông thôn có sẵn nguồn nguyên liệu tại
chỗ phong phú tạo thuận lợi để phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, nhất là
cho các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Hiện nay, công nghiệp nông thôn
Việt Nam có thể phát triển ở một số ngành và một số sản phẩm như: (1) Các ngành đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây
dựng, các sản phẩm kim loại; (2) Cơ khí sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống; (3)
May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ.
2.2.7. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được khuyến khích phát triển trong một số
ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia.
Căn cứ vào lý thuyết lợi ích kinh tế theo qui mô thì trong một số ngành nhất định
sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ về mặt kinh tế. Tuy nhiên,
nếu xét về hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả của toàn bộ nên kinh tế nói chung, chứ
không phải riêng của một doanh nghiệp hay Công ty nào thì không phải hoàn toàn như
vậy. Thị trường luôn được phân thành nhiều loại rất đa dạng và phong phú. Có những
đoạn thị trường dành cho sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn, cũng có những đoạn thị
trường dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng hết sức riêng của một nhóm người
hay một hộ tiêu thụ nào đó. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thích hợp với loại thị trường thứ 2
này. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp v sẽ rất khó cạnh tranh với các doanh
nghiệp lớn hơn đặc biệt là khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tìm được những thị
trường ngách cho riêng mình. Vì vậy, cần phải có khung khổ pháp luật rõ ràng qui định
loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỷ trọng bao nhiêu phải do doanh nghiệp nhỏ
và vừa đảm nhận, doanh nghiệp lớn không được chiếm mức tỷ trọng cao hơn mức quy
định đó. Điều này vừa chống được độc quyền trong nền kinh tế vừa bảo vệ lợi ích của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những giai đoạn nhất định và đem lại hiệu quả kinh
tế xã hội cao hơn. bên cạnh đó, có rất nhiều khoảng thị trường (mà người ta không
thường gọi là thị trường ngách) lại hoàn toàn không phù hợp với qui mô của các doanh
nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp lớn không bao giờ muốn đầu tư thì chính phủ cần tạo
điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác, thậm chí trong một số trường
hợp chính phủ phải có các khoản ưu đãi đầu tư trong giai đoạn đầu cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Có như vậy mới thực sự khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa
phát triển.
2.2.8. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mối liên hệ chặt chẽ với
doanh nghiệp lớn.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình phát triển kinh tế của một nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản
xuất kinh doanh. Vì vậy khi ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và
vừa phát triển chính phủ cần xác định những doanh nghiệp lớn phát triển là “hạt nhân”
đứng vị trí trung tâm, doanh nghiệp nhỏ và vừa là những “vệ tinh” đứng xunh quanh, đó
là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên các
thị trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng về một số loại hàng hoá nhất định.
Yêu cầu của quan điểm này là cần có các chính sách tạo ra môi trường cho sự liên kết,
hợp tác liên kết dọc trong quá trình sản xuất hay trong bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật
tư máy móc thiết bị … Mối liện hệ đó được thể hiện sự phân chuyên môn hoá giữa
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả đó là (1) Doanh nghiệp
nhỏ và vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn; (2) Doanh
nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin,
chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý; (3) Giao thầu lại cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa những phần việc mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước trong các hợp đồng lớn
hoặc một số trường hợp cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân cùng hợp tác với
doanh nghiệp lớn để đấu thầu các cạnh tranh lớn của Nhà nước.
2.2.9. Nên có một khu công nghiệp tập trung dành riêng cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp tập
trung không chỉ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa về
cơ sở hạ tầng như điện, nước, thông tin, liên lạc, tiếp cận thị trường giải quyết khó khăn
về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn giúp Nhà nước dễ dàng thực
hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nằm
trong khu công nghiệp. Vì vậy, trong chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và
vừa phát triển, chính phủ cần quan tâm đến mục tiêu hình thành các khu công nghiệp
riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với mức thuế phù hợp và ưu đãi ở mức độ nhất định.
II. Các giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
1. Tiếp tục thực hiện thi hành tốt luật doanh nghiệp.
- Việc ban hành luật doanh nghiệp 2000 như thổi một luồng sinh khí mới vào nền
kinh tế Việt Nam. Tuy vậy việc thực hiện triệt để luật doanh nghiệp không phải đơn
giản. Trong một thời gian dài giấy phép đã trở thành một công cụ quản lý của các cơ
quan Nhà nước. Đã tạo lên cơ chế “xin cho” cản trở sự tiến bộ của xã hội. Việc xóa bỏ
các loại giấy phép đã tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh
nghiệp, đã tước bỏ quyền lợi của một nhóm người tại một số cơ quan công quyền, vì
vậy chắc chăn nó sẽ gặp một sự phản kháng của chính nhóm người đó trong một số lĩnh
vực. Đặc điểm nổi bật của hệ thống điều kiện kinh doanh hiện nay là nhiều, phân tán,
không rõ ràng, chồng chéo được quy định bởi trên 300 văn bản các loại. Vì vậy rất dễ
dàng xuất hiện các loại giấy phép dưới hình thức điều kiện kinh doanh. Do đó để giảm
tối đa tình trạng trên Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Xác định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
+ Kiên quyết huỷ bỏ những giấy phép kinh doanh không phù hợp với luật doanh
nghiệp.
+ Xây dựng bộ máy quản lý đăng ký kinh doanh có đủ năng lực để phục vụ tốt
hơn cho các doanh nghiệp.
- Trong kinh doanh bao giờ cũng có tính rủi ro vì vậy cần có một số quy định để
doanh nghiệp dễ dàng gia nhập và rút lui khỏi thị trường.
+ Đưa ra những quy định pháp lý cho việc mua bán doanh nghiệp.
+ Sửa đổi luật phá sản theo hướng:
- Phạm vi bao quát hơn, có nhiều đối tượng có quyền phá sản,
- Đơn giản hoá trình tự thủ tục phá sản.
- Nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý và thi hành việc phá sản.
2. Cải cách và phát triển thị trường vốn
Cải cách và phát triển thị trường vốn không chỉ là đảm bảo nguồn vốn thông
thoáng cho nền kinh tế mà nó còn góp phần vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong
đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để cải cách và phát triển vốn chúng ta cần làm một số
việc sau:
- Nhà nước cần bãi bỏ quy định lãi suất trần, mức lãi suất để cho ngân hàng tự
quyết định trên điều kiện cụ thể của thị trường. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng chủ
động và nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình.
- Các ngân hàng cần xoá bỏ các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa doanh
nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh trong lĩnh vực tín dụng.
- Thiết lập một hệ thống đăng ký toàn quốc về việc cầm cố, thế chấp cho thuê để
đảm bảo quyền lợi cho bên đi vay và cả bên cho vay.
- Hạn chế tối đa sự can thiệp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
- Cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh tại Việt Nam.
* Bên cạnh đó để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa về vốn Nhà nước cần xây
dựng và khuyến khích các tổ chức trong việc hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
- Lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ này phải là
một tổ chức ban đầy của Nhà nước để cùng chia sử rủi ro với ngân hàng trong quá trình
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn. Mà thiết thực nhất là cùng trợ giúp trực tiếp
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình chuẩn bị dự án sản xuất kinh doanh, bảo đảm
tính khả thi của dự án.
- Về phía ngân hàng cần tăng cường năng lực thẩm định dự án, nâng cao trách
nhiệm và chủ động hơn trong việc cho vay.
- Cũng nên khuyến khích việc ngân hàng và doanh nghiệp cùng đầu tư vốn để
sản xuất chứ không đơn thuần ngân hàng chỉ là một tổ chức tín dụng thông thường.
4. Đổi mới chính sách thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
việc xuất khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài.
* Đổi mới chính sách thương mại.
Mặc dù đã có nhiều đổi mới mang tính cơ bản trong chính sách thương mại
nhưng vẫn cần tiếp tục cải cách thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội
nhập kinh tế quốc dân. Nhưng vấn đề cần tiếp được cải cách đó là:
- Tiếp tục thu hẹp danh sách các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu đặc biệt là những
mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện. Điều kiện để xuất nhập khẩu những mặt hàng
hạn chế xuất nhập khẩu cần được cụ thể rõ ràng dể tránh hiện tượng phân biệt đối xử
trong vòng cấp giấy phép nhất là trong các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
- Nên giảm thuế suất xuống 0 - 5% tuỳ từng mặt hàng để nâng cao lượng hàng
xuất khẩu (cho hàng xuất).
- Có chính sách tỷ giá hối đoái ổn định để hỗ trợ cho xuất khẩu.
* Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu: Thông tin thị trường là một
trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam
vẫn chưa hình thành những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp. Việc
tìm hiểu thông tin về thị trường và luật pháp của nước khác đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa là hoàn toàn khó khăn vì vậy chúng ta cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ thông
tin về xuất khẩu là hết sức cần thiết.
* Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới bằng cách
hỗ trợ một phần về tài chính do doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các hoạt động hội
trợ, triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài.
* Cần có các văn phòng đại diện doanh nghiệp của Việt Nam ở nước ngoài để
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và quyền kiểu dáng, sở hữu công nghiệp sản phẩm. Giúp
doanh nghiệp nhỏ và vừa có chỗ đững trên thị trường thế giới.
11. Cần có các chương trình đào tạo năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, chính phủ đưa ra các chương trình, chính sách vươn ra thị trường xuất khẩu.
Chính phủ đã đưa ra các chính sách và chương trình để tăng cường phát triển và
gắn kết doanh nghiệp nhỏ và vừa như một mắt xích quan trọng và chiến lược thông qua
việc thành lập các cụm công nghiệp để nâng cao giá trị gia tăng nội địa. Việc thiếu vắng
sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước trong mạng lưới các nhà cung cấp
sản phẩm và dịch vụ cho các Công ty lớn là một trong những nguyên nhân chính của
tình trạng yếu kém trong việc phối kết hợp của các ngành công nghiệp hiện nay.
Để tăng cường nền tảng kinh tế cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cụm
công nghiệp chủ chốt, tại cuộc gặp giữa thủ tướng và các doanh nghiệp 3/2003, Chính
phủ đã tiếp tục cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ hơn nhằm ổn định doanh nghiệp nhỏ và vừa,
đặc biệt là những doanh nghiệp có tiềm năng về xuất khẩu. Giai đoạn này sẽ tập trung
vào việc tạo ra lợi thế cạnh tranh dựa trên việc nâng cao năng suất lao động và ứng dụng
công nghệ thông tin để khu vực sản xuất có khả năng đối mặt với những thách thức của
thị trường ngày càng cởi mở.
Do các nước kém phát triển (LCD) cũng đang tập trung vào khu vực sản xuất để
giải quyết các vấn đề kinh tế của đất nước, Việt Nam cần phải tìm kiếm thêm giải pháp
để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Với thức tế một nền kinh tế dựa vào sản xuất cũng đang
bị đe doạ bởi sự gia nhập của những LCD, Việt Nam sẽ phải chuyển sang những lĩnh
vực có giá trị gia tăng cao hơn. Như vậy định hướng tương lai của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt Nam rõ ràng là chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị và có hàm
lượng chất xám cao hơn. Đối với các ngành phục vụ nhu cầu nội địa, thách thức đặt ra
là phải hiện đại hoá để đạt được những tiêu chuẩn quốc tế để vươn ra thị trường xuất
khẩu.
12. Tiếp nhận công nghệ mới và ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông
(ICT) như một giải pháp để đạt được hiệu quả cao hơn.
Thành công của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc gia nhập vào dây chuyền
phân phối toàn cầu phụ thuộc vào khả năng tiếp thu ICT vào quá trình sản xuất và điều
hành do các MNC hiện nay đang chuyển giao hầu hết các yêu cầu không cốt yếu ra bên
ngoài. Các MNC sử dụng ngày càng nhiều phương thức kinh doanh qua mạng (B2B).
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phải trở thành một mắt xích trong hệ thống
cung cấp toàn cầu này để nắm bắt phương thức kinh doanh mới và nhận được những lợi
ích từ thị trường ngày một rộng lớn đó.
Cơ hội để doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành nhà cung cấp cho các Công ty lớn
và MNC phụ thuộc nhiều vào năng lực công nghệ và khả năng đáp ứng được các tiêu
chuẩn đặt ra về chi phí, chất lượng và phân phối.
13. Hình thành các tổ chức nhà nước về quản lý các doanh nghiệp nhỏ và
vừa :tháng 12/2001, chính phủ đã có nghị định về việc thành lập việc doanh nghiệp nhỏ
và vừa trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư làm đầu mối phối hợp các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song chính phủ cần lựa chọn chính
thức tổ chức của cục doanh nghiệp nhỏ và vừa sao cho phù hợp và tránh những biến
động mạnh ảnh hưởng đến hiện đại hoá của các cơ quan có liên quan gây tác động tiêu
cực đến doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Kết luận
Như vậy môi trường kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát triển các
thành phần kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Môi trường kinh doanh tốt dẫn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh và
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang
cải tiến mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo nguyên tắc hợp lý và đôí
thoại cùng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ
và vừa phát triển, các chính sách của chính phủ đề ra cần nhằm tạo một sân chơi bình
đẳng cho các doanh nghiệp theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Để có một hệ thống cơ chế chính sách phù hợp cải thiện được môi
trường kinh doanh thì cần có sự tham gia của cả doanh nghiệp và Chính phủ. Doanh
nghiệp có các kiến nghị bức xúc lên Chính phủ, còn Chính phủ cần ban hành các chính
sách để giải quyết các vấn đề mà doanh nghiệp đưa ra. Từ đó mới thực sự cải thiện môi
trường kinh doanh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Tài liệu tham khảo