Professional Documents
Culture Documents
Tóm tắt: Tương tác giữa sóng biển và tàu là một trong những yếu tố quan trọng do
ảnh hưởng của nó tới sự cân bằng của tàu trong quá trình hoạt động. Bài báo này
nghiên cứu ảnh hưởng của sóng biển tới tàu trong quá trình chuyển động. Nghiên cứu
này giải quyết các bài toán về dòng chảy hai pha, dòng chảy bao quanh vật thể và sự
lan truyền của sóng biển. Các tính toán mô phỏng được thực hiện trên phần mềm
Simcenter STAR CCM+. Kết quả mô phỏng cho phép đánh giá tính ổn định của tàu tại
các điều kiện sóng tới khác nhau, từ đó đề xuất các giải pháp để tăng khả năng ổn định
của tàu.
Từ khóa: Tương tác sóng biển, dòng chảy hai pha, khả năng cân bằng tàu, tính toán
động lực học dòng chảy
Keywords: Impact of waves, multiphase flow, the stable ability of boat, CFD
1. Giới thiệu
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực hàng hải, các yếu tố về
sự an toàn và thoải mái của hành khách và hàng hóa trên tàu ngày càng được chú trọng hơn.
Khả năng cân bằng của tàu là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình thiết kế và
chế tạo tàu. Tại các vận tốc và biên độ sóng lớn, dòng chảy qua tàu tạo ra một lực tác động
khiến tàu dao động mạnh và có thể mất cân bằng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới sự thoải
mái và an toàn của hành khách và hàng hóa trên tàu. Bên cạnh đó các yếu tố tự nhiên khác
của sóng biển như bước sóng, chu kì sóng, góc sóng tới,.. cũng ảnh hưởng rất lớn tới khả
năng duy trì cân bằng của tàu. Những vụ tai nạn lật tàu trong những năm qua đã cho thấy tầm
quan trọng của việc đánh giá khả năng cân bằng trong quá trình thiết kế và chế tạo. Một ví
dụ về điều này là sự việc tàu M/S Finnbirch (Hình 1) bị lật và chìm vào tháng 11 năm 2006
giữa các đảo Öland và Gotland của Thụy Điển. Đường đi và tốc độ không thuận lợi kết hợp
2 Nghiên cứu mô phỏng ảnh hưởng của sóng biển tới chuyển động của tàu
với điều kiện biển động với sóng cao và dài dẫn đến mất ổn định một phần gây ra dao động
lớn kéo theo hàng hóa bị xê dịch được coi là nguyên nhân của vụ tai nạn. [1]
Để thực hiện mô phỏng ảnh hưởng của các điều kiện sóng biển lên khả năng ổn định cân
bằng của tàu, chúng tôi sử dụng phần mềm mô phỏng Simcenter STAR CCM+. Từ việc mô
phỏng chúng tôi đưa ra các dữ liệu về trường vận tốc, phân bố áp suất, biên độ dao đông của
trọng tâm tàu, thông qua đó đưa ra các kết luận về nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng trong
từng trường hợp sóng biển khác nhau và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tự
cân bằng của tàu.
Việc mô phỏng trường vận tốc, phân bố áp suất qua việc sử dụng phần mềm STAR
CCM+ được dựa trên các phương pháp tính toán động lực học chất lỏng (CFD). Phương pháp
này bao gồm các mô hình mô phỏng dòng chảy hai pha (VOF), mô hình sóng biển bậc năm
(FOW), Reynolds Averaged Navier Stoke(RANS).
Từ các phương trình trên ta có phương trình tổng quát chuyển động của các phần tử
chất lỏng trong không gian:
= + ∆ − (4)
Phạm Lê Bắc, Phạm Duy Nam, Phạm Văn Sáng 3
Trong đó là thể tích của pha trong một ô lưới có thể tích là . Tổng tỉ lệ thể tích của
tất cả các pha trong cùng một ô lưới luôn bằng một:
∑ =1 (6)
Trong đó N là tổng số pha trong miền mô phỏng. Tùy vào từng giá trị của mà chúng
ta có thể nhận định lượng thể tích của pha đó trong một ô lưới xác định. Khi = 0 kết luận
rằng trong ô lưới đó không tồn tại pha , khi = 1 kết luận rằng toàn bộ ô lưới đó chứa pha
, khi nằm trong khoảng từ 0 tới 1 kết luận rằng tồn tại các pha khác pha trong ô lưới đó.
Bề mặt đi qua các ô lưới có giá trị 0,5 được chọn là bề mặt giao giữa hai pha (lỏng-khí) trong
mô phỏng này.
∫ +∫ . = − − ∇. , (7)
Trong đó là vecto pháp tuyến, là vận tốc trung bình (theo khối lượng), , là vận
tốc khuếch tán của pha , là đặc trưng nguồn sóng được xác định ban đầu, là đạo hàm
Lagrangian của mật độ pha. Đối với các trường hợp mô hình mô phỏng với dòng hai pha,
phương trình phân bố pha (7) được giải duy nhất cho một pha. Trong mỗi ô lưới, tỉ lệ thể tích
pha còn lại được xác định sao cho tổng tỉ lệ thể tích giữa hai pha đúng bằng bằng một. Đối
với các mô phỏng có nhiều hơn ba pha ( ≥ 3), phương trình phân bố pha sẽ được giải cho
(N-1) pha.
Phương trình liên tục cho tất cả các pha thỏa mãn phương trình:
∫ +∮ ⊗ . = −∮ +∫ +∫ +∫ − , ⊗
, . +∫ (8)
Trong đó là áp suất, là tensor ứng suất đơn vị, là tensor ứng suất, là vector của
lực khối, là động lượng của pha .
Phương trình bảo toàn năng lượng cho dòng chảy nhiều pha:
4 Nghiên cứu mô phỏng ảnh hưởng của sóng biển tới chuyển động của tàu
∫ + + , = −∮ ̇ . +∮ . + ∫ . +∫
(9)
Trong đó E là tổng năng lượng, H là tổng enthalpy, ̇ là vecto thông lượng nhiệt,
là năng lượng tổng năng lượng ban đầu.
2.3. Mô hình biểu diễn sóng biển bậc năm ( Fifth Order Wave) [4]
Mô hình sóng biển bậc năm được sử dụng trong nghiên cứu này là một mô hình
sóng tuân theo lý thuyết chất lỏng của Stokes. Lý thuyết cho rằng đối với chất lỏng không
nén được, tồn tại một hàm dòng và một hàm thế sao cho mối liên hệ của chúng với các
thành phần vận tốc ( , ) được biểu diễn như phương trình (10) và (11)
= = (10)
=− = (11)
= − +∑ ∑ ị ℎ (13)
/
( , )=− + ∑ ∑ cosh + ( ) (14)
Trong đó là vận tốc trung bình của các phần tử chất lỏng theo phương ngang được biểu
diễn:
/
= + + + ( ) (15)
Giá trị liên hệ vận tốc trung bình theo phương ngang ở trên được gọi là hằng số Ursell.
Ngoài công thức kể trên hằng số Ursell còn được tính toán dựa trên mối liên hệ giữa các tính
chất của sóng, được biểu diễn như sau:[3]
= (16)
Trong đó H là độ cao sóng biển, là chiều dài bước sóng, là độ sâu mực nước biển.
Đối với dòng biển sóng bậc năm áp dụng cho nghiên cứu này giá trị Ursell nhỏ hơn 30.
Lúc này các phương pháp xác định sóng theo lý thuyết Stokes được trình bày bởi Schwart
(1974) và Longuet-Higgins (1985). Khi giá trị Ursell lớn hơn 30 (vùng chất lỏng lúc này rất
nông), lý thuyết Stokes không áp dụng được cho quá trình tính toán, thay vào đó các lý thuyết
về sóng triều cường sẽ được sử dụng để tính toán. Đối với các giá trị Ursell xấp xỉ 30, cả lý
thuyết về sóng bậc năm hay sóng triều cường đều tính toán không chính xác. Đối với các
dòng chảy như vậy phương pháp hàm dòng sẽ được sử dụng thay thế.
Mô hình sóng bậc năm là mô hình sóng biểu diễn đúng với sóng biển thực biển thực
tế hơn mô hình sóng biển bậc nhất. Hình dạng sóng và vận tốc của các phần tử nước phụ
Phạm Lê Bắc, Phạm Duy Nam, Phạm Văn Sáng 5
thuộc vào độ sâu của biển, chiều cao sóng và dòng chảy. Từ các lý thuyết xây dựng ở trên ta
thu được một biên dạng sóng như Hình 3 [5].
Điều kiện biên cho bề mặt dòng sóng biển thổi vào là Velocity Inlet với các góc sóng
tới là lần lượt là 0, 45, 60 độ. Điều kiện biên cho bề mặt dòng sóng biển đi ra là Pressure
Outlet, các bề mặt bên được đặt dưới dạng Symmetry Plane (Hình 5). Vận tốc sóng tới là 30
(km/h), chiều cao sóng là 1 (m) và độ dài gbước sóng là 5 (m)
(a)
(b)
Hình 5. (a) Điều kiện biên tại các mặt Inlet và Outlet. (b) Điều kiện biên tại các bề
mặt bên (Symmetry Plane)
Kích thước vùng không gian mô phỏng là 208 × 50 × 53 ( , , ) theo các
phương Ox,Oy,Oz lần lượt. Kích thước lưới cơ bản cho vùng mô phỏng là 2m. Số lượng lớp
lưới biên tường (layer) là 4, chiều dày tổng cộng của lớp lưới biên tường là 0.4 m, trong đó
độ tăng kích thước của các lớp layer là 1,2. Các vùng lưới bề mặt ở thân tàu được tạo với
kích thước là 0,5 m ( bằng 25% kích thước lưới cơ sở toàn miền) và vùng phân cách giữa
nước và không khí là 0,8 m ( bằng 40% kích thước lưới cơ sở toàn miền). Tổng số lượng ô
lưới trong mô phỏng là gần bốn triệu ô lưới.
Phạm Lê Bắc, Phạm Duy Nam, Phạm Văn Sáng 7
(a)
(b)
Hình 6. Biểu diễn lưới trong mô phỏng (a) Lưới trên bề mặt vỏ tàu. (b) Lưới trên một
mắt cắt dọc theo không gian mô phỏng
(a)
(b)
(c)
Hình 7. Trường vận tốc qua mặt cắt phân cách (iso-surface) của hai pha (a) = 0;
(b) = 45; (c) = 60
Kết quả trường áp suất trên thân tàu được biểu diễn như Hình 9. Kết quả trường áp
suất thu được cho thấy áp suất lớn nhất xảy ra tại phần mũi tàu trong cả ba trường hợp góc
sóng tới. Áp suất lớn nhất xảy ra trong trường hợp sóng tới = 0 là 38600 (Pa) , = 45 là
Phạm Lê Bắc, Phạm Duy Nam, Phạm Văn Sáng 9
34800 (Pa) và = 60 là 37800 (Pa). Vùng thân tàu chịu ảnh hưởng bởi tác dụng của sóng
biển đối với trường hợp = 0 gần như đều nhau giữa hai bên thân tàu. Trong khi đó sự chênh
lệch về vùng thân tàu bị ảnh hưởng khi = 45 và = 60 là hoàn toàn rõ rệt. Vùng thân tàu
chịu trực tiếp va chạm của sóng có diện tích và áp suất lớn hơn so với vùng thân tàu không
chịu trực tiếp va chạm sóng. Về phân bố áp suất ở đáy tàu cũng cho thấy vùng có áp suất
dương của trường hợp = 0 là bé nhất và tăng dần khi = 45 và = 60. Giải thích về điều
này là do sự chênh lệch khác nhau giữa cấu trúc dòng giữa hai bên thân tàu trong từng trường
hợp dẫn tới biên độ dao động khác nhau của tàu từ đó dẫn tới áp suất do nước biển tác dụng
lên thân tàu là khác nhau về cả độ lớn và vùng ảnh hưởng.
Hình 8. Độ dịch chuyển của trọng tâm tàu theo phương ngang
(a)
(b)
10 Nghiên cứu mô phỏng ảnh hưởng của sóng biển tới chuyển động của tàu
(c)
Hình 9. Trường áp suất trên thân tàu: (a) = 0; (b) = 45; (c) = 60
Giá trị lực cản tác dụng lên thân tàu được biểu diễn như Hình 10. Trong sơ đồ này có
thể thấy tại khoảng thời gian ổn định, lực cản trong cả ba trường hợp không chênh lệch nhau
quá lớn, giá trị lực cản tính toán được ở trường hợp = 0 là nhỏ nhất, đạt giá trị khoảng
155000 (N), trong khi trường hợp = 60 là lớn nhất, đạt giá trị khoảng 170000(N) và trường
hợp = 45 là khoảng 160000 (N). So sánh khoảng thời gian từ 0 giây cho tới 8 giây (khoảng
thời gian được tính từ lúc sóng bắt đầu va vào tàu), lực cản tác dụng lên thân tàu trong ba
trường hợp đều ghi nhận giá trị lớn nhất vào khoảng 300000 (N), giá trị này giảm dần theo
thời gian với dạng đồ thị hình sin, trong đó trường hợp góc tới = 0 giảm nhanh nhất. Cả
ba hình dạng đồ thị đều đạt thái ổn định sau khoảng 10 giây kể từ khi sóng bắt đầu va vào
thân tàu.
Đồ thị tổng hợp lực theo phương thẳng đứng tác dụng lên thân tàu được biểu diễn trong
Hình 11. Đồ thị lực nâng trong cả ba trường hợp góc tới đều có dạng hình sin, tương ứng với
dao động giảm dần trong quá trình sóng bắt đầu va chạm với thân tàu tới lúc dao động cân
bằng. Các giá trị lực nâng tác dụng lên thân tàu không quá chênh lệch trong cả ba trường
hợp sóng tới. Giá trị lực nâng tại thời điểm sóng bắt đầu va vào thân tàu là khoảng 100000
(N), sau đó giá trị này giảm dần theo đồ thị hình sin, với chu kì gần 3,95 giây. Sau khoảng
10 giây, tổng hợp lực theo phương thẳng đứng dần tiến tới giá trị bằng không, lúc này lực
nâng đã cân bằng với trọng lượng của tàu.
Hình 12. Đồ thị dao động của tàu theo thời gian
4. Kết luận
Vấn đề đánh giá khả năng cân bằng tàu đã được nghiên cứu thông qua phương pháp mô
phỏng số tính toán dòng chảy bao quanh tàu tại các điều kiện tự nhiên khác nhau. Kết quả
trường vận tốc, trường áp suất và các đồ thị về lực và độ dịch chuyển của trọng tâm cho thấy
rõ sự khác nhau về khả năng cân bằng của tàu trong từng trường hợp. Từ kết quả thu được
này có thể ứng dụng trong quá trình thiết kế, chế tạo và vận hành tàu thủy để đảm bảo được
khả năng cân bằng của tàu luôn đạt trạng thái tốt nhất, nhằm đảm bảo được sự an toàn và
thoải mái của hành khách và hàng hóa trên tàu.