You are on page 1of 1401

Thành phố tro tàn

Thành phố tro tàn (City of Ashes)

Phần 2 Series Vũ khí bóng đêm

Tác giả: Cassandra Clare

Dịch giả: Hà Ly

Kích thước: 14.5 x 20.5 cm


Số trang: 480

Ngày xuất bản: 20-03-2014

Giá bìa: 125.000 ₫

Công ty phát hành: Chibooks

Nhà xuất bản: NXB Thời Đại


Chụp pic: Takenna

Type

unde ad_nd: Phần 1


Zin nhí nhố: Phần 2
sage lc91: Phần 3-hế t

Beta: chuonkim

Tạo prc: Dâu Lê


Nguồn: luv-ebook.com

Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-


ebook.com
Giới thiệu

Khám phá một Thế Giới Ngầm tăm tối…

Clary chỉ muốn cuộc sống bình thường như


xưa. Nhưng sao có thể khi cô là thợ săn quỷ, mẹ
đang mê man và những sinh vật huyền bí như
người sói, ma cà rồng, thần tiên đang ngày ngày
dạo bước trong thế giới của cô? Nếu rời bỏ thế
giới thợ săn bóng tối, Clary sẽ có thêm thời gian
với Simon, người bạn thân nhất và hơn thế của
cô. Nhưng cái thế giới ấy chưa chịu buông tay
cô - nhất là người anh điển trai mà cô mới có.
Và để giúp mẹ, cô chỉ có một con đường duy
nhất: truy tìm Valentine, kẻ mang dã tâm độc ác
và, là bố cô.
Tình hình càng thêm phức tạp khi ngay tại
thành phố New York, có kẻ đã sát hại một đứa
bé thuộc thế giới ngầm. Đó là tác phẩm của
Valentine chăng? Và nếu vậy, ông ta có dụng ý
gì? Khi kiếm thánh, vũ khí bóng đêm thứ hai,
bị trộm, một điều tra viên hắc ám đã tới sục sạo
điều tra và chĩa mũi dùi vào Jace. Liệu Clary có
thể ngăn cản Valentine nếu Jace nguyện quay
lưng với mọi thứ anh hằng tin tưởng để giúp bố
họ?

Thành phố tro tàn là phần 2 sê-ri Vũ khí


bóng đêm, xuất bản ở Mỹ từ năm 2008, được
xếp vào danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất do
New York Times bình chọn, Top 10 cuốn sách
dành cho tuổi teen do Hiệp hội thư viện Mỹ trao
tặng năm 2009.

Thành phố tro tàn được chuyển thể thành


phim truyện nhựa cùng tên bởi Hãng Unique
Features và Constantin Film từ năm 2014, tiếp
sau thành công về doanh thu của bộ phim
Thành phố xương được chuyển thể từ cuốn
sách cùng tên.

Nối tiếp thành công của Thành Phố Xương,


Thành Phố Tro Tàn tiếp tục mang đến những
tình tiết nghẹt thở, dẫn dắt người đọc vào một
Thế Giới Ngầm tăm tối, nơi tình yêu chẳng
được an toàn và quyền lực có sức quyến rũ chết
người.
Tác giả

Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là


Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết
thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại
nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The
Hollywood Reporter

Hiện Cassandra Clare đang sống ở Amherst,


bang Massachusetts cùng chồng và ba chú mèo.
Các series sách tiêu biểu: Vũ khí bóng đêm
(The Mortal Instruments), The Infernal Devices
Trilogy, The Dark Artifices Trilogy, The Bane
Chronicles, Magisterium (viết chung với Holly
Black)... Ngoài ra cô còn viết nhiều truyện ngắn
và fan-fic khác.
Mục lục

Phần 1: Một thời trong địa ngục

Mở đầu: Khói và kim cương


1. Mũi tê n của Vale ntine

2. Quán Hunte r ’s Moon

3. Điề u Tra Viê n

4. Chim cúc cu trong tổ

5. Tội lỗi của các cha

6. Thành phố tro tàn

7. Thanh kiế m thánh

P hần 2: C ổng địa ngục

8. Triê ̀u đình S e e lie

9. V à cái chê ́t se ̃ không mãi vĩnh hằng

10. Một nơi yê n ổn riê ng tư

11. Khói và sắt

12. Ác mộng bủa vây

13. Ke ̉ chiê u đãi những thiê n thần nổi loạn


Phần 3: Ngày phán xét

14. Can trường

15. Nanh rắn

16. Trái tim sắt đá

17. Phía đông vườn địa đàng

18. Bóng tối bủa vây

19. Ngày phán xé t

Phần kết
Dành tặng cho bố tôi,

người không phải là người xấu

Ừm, có lẽ chỉ hơi xấu một chút


thôi.
Ngôn ngữ Đắng Cay

Ta biết những con phố của ngươi,


hỡi thành phố xinh đẹp,

Ta biết những tên ác quỷ và thiên


thần tụ tập

và sinh sống trên các ngả phố

tựa những chú chim

Ta biết ngươi, dòng sông hỡi, như


thể ngươi chảy qua trái tim ta.
Ta là người con gái chiến binh của
ngươi.

Những con chữ bắt nguồn từ cơ thể


ngươi

Như suối nguồn bắt đầu từ nước.

Có những ngôn ngữ mà ngươi làm


thành bản vẽ

Và khi chúng ta đọc lên

Thành phố này trỗi dậy

- Elka Cloke
Phần 1: Một thời trong địa ngục

Ta tin mình đang nơi Địa ngục, nhờ


thế ta mới tồn tại.

- Authur Rimbaud
Mở đầu: Khói và kim cương

Công trình làm từ kính và thép


tuyệt đẹp đứng sừng sững trên phố
Front như một mũi kim lấp lánh đâm toạc
bầu trời. Đó chính là tòa tháp Metropole
cao năm mươi bảy tầng, tòa tháp căn hộ
ở khu đô thị mới xa xỉ nhất của
Manhattan. Trên tầng cao nhất, tầng năm
mươi bảy, chỉ có duy nhất một căn hộ
thuộc loại sang nhất trong số những
phòng hạng sang: căn tầng mái của tòa
nhà Metropole, một công trình thiết kế
xứng tầm kiệt tác với hai tông màu chủ
đạo đen và trắng. Căn hộ còn rất mới
chưa kịp dính lấy chút bụi, nền nhà đá
hoa cương sáng loáng phản chiếu trời
sao trông rõ qua những khung cửa sổ to
lớn chạy từ trần xuống sàn. Kính cửa sổ
trong văn vắt, tạo ra một ảo tưởng rất
thật rằng chẳng có gì chắn giữa người
đứng ngắm và quang cảnh ngoài kia vốn
đã luôn được cho là tác nhân gây ra
chứng xây xẩm thậm chí là cho những kẻ
không hề sợ độ cao.

Xa xa bên dưới, dòng sông Đông uốn


lượn như một sợi ruy-băng bạc, có đôi
cây cầu lấp lánh vắt ngang, lốm đốm
những tàu thuyền nhỏ xíu như mắt muỗi,
dòng sông ngăn đôi hai bờ ánh sáng rực
rỡ hoa lệ, một bên là Manhattan và bên
kia là Brooklyn. Vào những đêm quang
đãng, người ta mới có thể nhìn thấy thấp
thoáng Tượng Nữ Thần Tự Do xa xa ở
mạn nam - nhưng đêm nay lại mù sương,
Đảo Tự Do hoàn toàn biến mất sau màn
sương mù trắng xóa.

Dù khung cảnh có lộng lẫy đến mấy,


người đàn ông đang đứng trước cửa sổ
kia dường như không mảy may ấn tượng.
Gương mặt gầy, khắc khổ của hắn cau có
khi hắn quay người rời khỏi ô cửa sổ và
sải bước đi, tiếng gót giày vang đều đều
trên nền đá hoa cương. “Ngươi vẫn chưa
xong à?” hắn hỏi, lùa tay qua mái tóc
muối tiêu. “Chúng ta ở đây gần một tiếng
rồi.”
Cậu bé đang quỳ trên sàn nhà ngước
mắt nhìn, vừa lo lắng vừa cáu kỉnh. “Nền
nhà bằng đá hoa cương. Nó cứng hơn tôi
tưởng. Vẽ ngôi sao năm cánh trên này
khó lắm.”

“Vậy đừng vẽ nữa.” Nhìn cận cảnh,


người ta rất dễ dàng nhận ra rằng, dù tóc
đã bạc, nhưng người đàn ông này chưa
già. Khuôn mặt đăm đăm của hắn có khắc
khổ nhưng không có lấy một nếp nhăn,
đôi mắt vẫn còn tinh anh và quyết đoán.

Cậu bé nuốt khan và đôi cánh màng


đen nhô ra từ xương bả vai (cậu đã phải
rạch phần sau áo khoác jean để chừa
chỗ cho đôi cánh này) bồn chồn vỗ vỗ.
“Ngôi sao năm cánh là một phần thiết
yếu cho bất cứ nghi thức triệu hồi quỷ
nào. Ngài biết điều đó mà. Không có
nó...”

“Chúng ta sẽ không được bảo vệ. Ta


biết, Elias nhỏ bé ạ. Nhưng cậu phải
quen với việc đó thôi. Ta biết được có
những pháp sư có thể triệu hồi quỷ dữ,
nói chuyện con cà con kê với nó rồi tống
khứ nó về địa ngục chỉ bằng thời gian
cậu vẽ nửa ngôi sao năm cánh thôi.”

Cậu bé không nói gì, chỉ cắm cúi chọc


mặt đá hoa cương, nhưng giờ nhanh nhẹn
hơn. Mô hôi nhỏ giọt như mưa từ trán và
cậu ta dùng bàn tay với những ngón tay
dính vào nhau bằng lớp màng mỏng như
mạng nhện vuốt tóc lên. “Xong,” cuối
cùng cậu ta nói sau khi ngồi thẳng dậy và
thở hổn hển. “Xong rồi.”

“Tốt.” Người đàn ông có vẻ hài lòng.


“Chúng ta bắt đầu thôi.”

“Tiền của tôi...”

“Ta đã nói rồi. Cậu sẽ nhận được tiền


sau khi ta nói chuyện với Agramon, chứ
không phải trước lúc đó.”

Elias đứng dậy và cởi áo khoác ra.


Dù đã cắt lỗ, nhưng chiếc áo khoác vẫn
bó chặt lấy đôi cánh đến khó chịu; vừa
thoát khỏi kìm kẹp, đôi cánh liền sải
rộng, khẽ rung rung tạo nên cơn gió nhè
nhẹ thổi trong căn phòng vốn đang ngột
ngạt. Đôi cánh mang màu dầu loang: một
màu đen đan xen với vạt màu bảy sắc
cầu vồng hoa cả mắt. Người đàn ông
nhìn đi chỗ khác, như thể đôi cánh khiến
hắn không thoải mái, nhưng Elias dường
như không để ý. Cậu ta bắt đầu đi quanh
ngôi sao năm cánh vừa vẽ xong, theo
hướng ngược chiều kim đồng hồ và lẩm
nhẩm quỷ ngữ nghe như tiếng lửa cháy
lách tách.

Với âm thanh xèo xèo như tiếng lốp bị


xì hơi, phần viền ngoài ngôi sao năm
cánh đột nhiên bùng cháy. Mười hai cửa
sổ lớn phản chiếu hình ảnh mười hai ngôi
sao lửa

Có gì đó di chuyển trong ngôi sao


năm cánh, cái gì đó đen đúa không hình
không dạng. Elias lầm rầm nhanh hơn,
giơ bàn tay có màng lên, những ngón tay
dường như đang phác họa các đường nét
rõ ràng trong không khí. Những ngón tay
đi tới đâu, ngọn lửa xanh bừng cháy tới
đó. Người đàn ông không thể nói lưu loát
tiếng Chthonia, ngôn ngữ pháp sư, nhưng
hắn biết đủ để hiểu câu thần chú Elias
đang nhắc đi nhắc lại: Agramon, ta triệu
hồi ngươi. Rời khỏi không gian giữa
các thế giới, ta triệu hồi ngươi.

Người đàn ông đút tay vào túi. Một


vật kim loại cứng, lành lạnh chạm vào
ngón tay hắn. Hắn mỉm cười.

Elias đã ngừng chuyển động. Giờ cậu


ta đứng trước ngôi sao năm cánh, giọng
lên bổng xuống trầm theo câu thần chú,
ngọn lửa xanh nổ lách tách xung quanh
như sét. Đột nhiên một cuộn khói đen
bốc lên từ trong ngôi sao năm cánh; nó
cuộn vòng bay lên, trải rộng và và đông
đặc lại dần. Hai con mắt lửng lơ trong
đám khói trông như hai viên đá quý dính
trên mạng nhện.
“Kẻ nào đã gọi ta xuyên qua các thế
giới tới nơi đây?” Agramon gằn giọng
hỏi, giọng hắn ta nghe lanh canh như
tiếng kính vỡ. “Kẻ nào đã triệu hồi ta?”

Elias đã ngừng đọc thần chú. Cậu ta


đứng chết lặng trước ngôi sao năm cánh -
chết trân, trừ đôi cánh vẫn chầm chậm vỗ
nhẹ trong không khí. Không khí nồng nặc
mùi a xít và mùi cháy khen khét.

©DTV: http://www.dtv-ebook.com

“Agramon,” pháp sư nói. “Ta là pháp


sư Elias. Ta là người đã triệu hồi
ngươi.”
Trong giây phút, tất cả chìm trong im
lặng. Sau đó con quỷ bật cười, nếu như
khói có thể được cho là cười. Bản thân
tiếng cười nghe cay độc như a xít vậy.
“Tên pháp sư ngu ngốc,” Agramon khò
khè. “Thằng nhỏ ngu ngốc.”

“Chính ngươi mới ngu ngốc, nếu như


ngươi nghĩ ngươi có thể đe dọa ta,”
Elias nói, nhưng giọng lại run run như
đôi cánh. “Ngươi là tù nhân trong ngôi
sao năm cánh này, Agramon, cho tới khi
ta phóng thích ngươi.”

“Thật sao?” Đám khói nhoài lên phía


trưóc, biến hóa khôn lường. Một tua khói
biến thành hình bàn tay người và vuốt
vuốt vào mép sao năm cánh cháy sáng
đang bao tủa lấy nó. Rồi, bằng một lực
ùa tới, toàn bộ cuộn khói sủi bọt xuyên
qua mép ngôi sao, tràn ra ngoài như sóng
tràn qua đê. Ngọn lửa lập lòe rồi tắt lịm
trong khi Elias gào thét và loạng choạng
lùi lại. Giờ cậu ta đang lầm rầm, liến
thoắng bằng tiếng Chthonia, những những
lời chú nhằm ngăn chặn và trục xuất con
quỷ. Không tác dụng; cuộn khói đen ào ạt
lao tới, và giờ nó bắt đầu biến thành một
thứ có hình dạng - một thứ hình thù khổng
lồ, xấu xí, dị hợm, đôi mắt sáng to dần,
tròn như cái đĩa con, tỏa ra ánh sáng lòe
lòe đáng sợ.

Người đàn ông dửng dưng quan sát


khi Elias lại gào lên và quay người định
chạy. Nhưng cậu chẳng bao giờ đến được
cánh cửa. Agramon tràn tới, trùm lấy cậu
nhóc pháp sư bằng luồng khói như hắc ín
nóng chảy. Elias yếu ớt chống cự một hồi
- rồi sau đó bất động.

Bóng đen rút lui, để lại cậu nhóc pháp


sư nằm co quắp trên nền đá hoa cương.

“Ta mong là,” người đàn ông lên


tiếng, giờ đã rút vật kim loại ra khỏi túi
và lơ đãng nghịch nghịch nó trên tay,
“ngươi đã không làm gì khiến hắn biến
thành phế vật với ta. Ta cần máu của hắn,
ngươi biết đấy.”
Agramon quay lại, trông như một cây
cột khói đen sì với đôi mắt hình kim
cương chết chóc. Chúng nhìn chăm chăm
vào người đàn ông trong bộ com lê đắt
tiền, vào khuôn mặt dửng dưng, gầy
guộc, vào những Ấn Ký màu đen phủ đầy
da hắn, và vào vật phát sáng trên tay hắn.
“Ngươi trả tiền để một thằng nhãi pháp
sư triệu hồi ta? Và ngươi không nói
cho hắn biết ta có thể làm gì?”

“Đoán chuẩn đấy,” người đàn ông


đáp.

Agramon nói với sự ngưỡng mộ pha


lẫn bực tức. “Quả là thông minh.”
Người đàn ông tiến thêm một bước về
phía con quỷ. “Ta vốn thông minh. Và
giờ ta là chủ nhân của ngươi. Ta giữ Cốc
Thiên Thần. Ngươi phải nghe lời ta,
hoặc không thì phải đối mặt với hậu
quả.”

Con quỷ im lặng một lúc. Sau đó nó


phục xuống sàn nhà - với vẻ phục tùng
giễu cợt - là cách giống người nhất mà
một sinh vật không thực sự có thân mình
có thể quỳ. “Tôi sẽ phục vụ ngươi, thưa
Chủ nhân... ?”

Câu nói kết thúc một cách lịch sự, lên


giọng như một câu hỏi.
Người đàn ông mỉm cười. “Ngươi có
thể gọi ta là Valentine.”

1. Mũi tên của Valentine

“CẬU CÒN TỨC À?”

Alec, tựa lưng vào thang máy, trừng


mắt qua khoảng không nhỏ hẹp nhìn vào
Jace. “Tớ không tức.”

“Ồ có đấy.” Jace nhún vui ra vẻ kết


tội ông anh nuôi, rồi sau đó rên rẩm vì
cơn đau chạy dọc cánh tay. Cả người anh
ê ẩm suốt từ chiều hôm đó khi rơi qua ba
tầng lầu, xuyên qua lớp gỗ mục và hạ
cánh trên đống kim loại phế thải. Tới
ngón tay của anh còn bị bầm tím nữa là.
Alec, người vừa mới bỏ nạng chống mà
anh đã phải dùng từ sau trận chiến với
quỷ Abbadon, trông cũng không khá
khẩm gì hơn cảm giác của Jace. Quần áo
anh ta dính đầy bùn đất còn tóc thì rũ
xuống thành từng lọn bê bết mồ hôi. Một
vết cắt dài chạy dọc bên má.

“Tớ đã nói là không mà,” Alec rít qua


kẽ răng. “Chỉ vì cậu nói lũ quỷ rồng tuyệt
chủng hết rồi…”
“Tớ chỉ nói tuyệt chủng gần hết thôi.”

Alec xỉa ngón tay về phía Jace.


“Tuyệt chủng gần hết,” anh ta lên tiếng,
giọng giận run, “nghĩa là CHƯA TUYỆT
CHỦNG HOÀN TOÀN.”

“Tớ hiểu,” Jace nói. “Thôi thì tớ sẽ


nhờ người ta sửa mục quỷ học trong sách
giáo khoa từ ‘tuyệt chủng gần hết’ thành
‘chưa tuyệt chủng hoàn toàn’ đối với
Alec. Anh ấy thích những con quái vật
phải thực sự, thực sự tuyệt chủng kia.’
Như thế làm cậu vui chứ?”

“Ôi đám con trai mấy ông,” Isabelle


nãy giờ đang ngắm nghía mặt mình trong
vách thang máy ốp gương. “Đừng gây lộn
nữa.” Cô nàng quay sang cười rạng rỡ.
“Thôi nào, chuyện có đòi hỏi hành động
nhiều hơn chúng ta đã tiên liệu đôi chút,
nhưng em thấy cũng vui đấy chứ.”

Alec lắc đầu nhìn cô em. “Em làm


sao mà chẳng bao giờ dính bùn lên
người thế?”

Isabelle thản nhiên nhún vai. “Tâm


em trong sáng. Vì thế nên bụi bẩn nào
dám bám vào em.”

Jace khịt mũi ầm ĩ khiến cô nàng nhăn


mặt quay lại. Anh ngo ngoe những ngón
tay dính dãy bùn về phía cô. Móng tay
anh là những hình vành khuyên đen sì.
“Bẩn từ trong tới ngoài.”

Isabelle đang định đáp lại thì thang


máy dừng lại kèm theo những tiếng kêu
rin rít ầm ĩ. “Tới lúc phải sửa cái thứ
này rồi,” cô nói và kéo cửa mở toang.
Jace nối đuôi theo sau, trong thâm tâm đã
nghĩ tới việc được cởi bỏ áo giáp và vũ
khí rồi tắm mình dưới làn nước nóng.
Anh đã thuyết phục được hai người anh
em nuôi đi săn cùng mình dù thực lòng
cả hai người đó đều không muốn đi ra
ngoài khi lúc này đây không có bác
Hodge chỉ dẫn. Nhưng Jace lại muốn sự
lãng quên trong đánh đấm, nỗi tiêu khiển
ác nghiệt trong giết chóc, và cái sao lãng
của dính thương. Và vì biết anh cần
những điều đó, họ đã cùng đi, cùng bò
vào những đường hầm tàu điện ngầm bỏ
hoang bẩn thỉu cho tới khi tìm thấy và
giết chết con quỷ Draconidae. Ba người
bọn họ phối hợp hoàn hảo như thường lệ.
Như một gia đình.

Anh cởi áo khoác và quẳng lên một


cái móc treo tường. Alec đang ngồi trên
băng ghế gỗ thấp bên cạnh, xoay xở tháo
đôi ủng dính đầy bùn đất. Anh ta khe khẽ
ngâm nga chẳng ra giai điệu nào, để cho
Jace biết anh ta không khó chịu đến thế.
Isabelle rút những cây kẹp ra khỏi mái
tóc đen dài, để cho tóc bung xõa trên
lưng. “Giờ em đói quá,” cô nói. “Giá mà
mẹ ở đây nấu cho chúng ta chút gì ăn
nhỉ.”

“May mà mẹ không có ở đây thì có,”


Jace nói và tháo đai đeo vũ khí. “Nếu
không bà đã gào thét lên vì những tấm
thảm này rồi.”

“Con nói đúng đấy,” một giọng lạnh


lùng cất lên, Jace quay ngoắt lại, tay vẫn
để trên đai lưng, trông thấy bà Maryse
Lightwood đang đứng khoanh tay tại
ngưỡng cửa. Bà mặc bộ vest đen đơn
giản được hồ cứng loại đi đường, và mái
tóc, cũng đen nhánh như tóc Isabelle,
được tết lại thành một bím tóc dày thả tới
nửa lưng. Đôi mắt bà, màu xanh lạnh lẽo,
quét qua ba người họ như đèn pha truy
quét.

“Mẹ!” Isabelle, lấy lại được bình


tĩnh, lao tới ôm mẹ. Alec lục tục tới bên,
cố che giấu việc mình vẫn còn khập
khiễng.

Jace đứng tại chỗ. Có cái gì đó trong


đôi mắt của bà Maryse khi bà nhìn qua
anh khiến anh chết lặng. Chắc chắn
những gì anh vừa nói đâu có quá đáng
đến vậy đâu. Mấy người bọn họ nói đùa
về nỗi ám ảnh của mẹ với những tấm
thảm cổ luôn ấy mà...

“Bố đâu ạ?” Isabelle lùi lại hỏi. “Và


Max nữa?”

Một sự ngừng bặt chừng như không


thể nhận thấy được thoáng qua. Đoạn bà
Maryse bảo, “Max ở trong phòng nó.
Còn bố con, không hay là vẫn còn ở
Alicante. Có một số việc cần bố lo liệu.”

Alec, vốn nhạy cảm hơn cô em,


dường như có chút lo lắng. “Có chuyện
gì không hay hả mẹ?”

“Mẹ nên hỏi con câu đó mói đúng.”


Giọng bà khô khốc. “Con đang đi cà
nhắc đấy à?”
“Con…”

Alec nói dối dở tệ. Isabelle đỡ lời hộ


anh, trơn tru, “Chúng con đụng độ với
quỷ Draconidae trong đường hầm tàu
điện. Nhưng chẳng có gì đâu ạ.”

“Vậy chắc vụ đụng độ với Đại Quỷ


tuần trước cũng chẳng là gì đúng không?”

Cả Isabelle nghe thấy thế cũng cứng


họng. Cô nhìn sang Jace, trong khi anh
chỉ ước là con bé đừng có nhìn.

“Chuyện đó bọn con không định


trước.” Jace cố lắm mới tập trung được.
Bà Maryse vẫn chưa hỏi han gì anh,
chưa nói đến cả một tiếng chào, và bà
vẫn đang nhìn anh bằng đôi xanh sắc lẹm
như lưỡi dao. Một cảm giác trống rỗng
trong bụng anh đang bắt đầu lan ra.
Trước đây bà chưa từng nhìn anh như
vậy, dù cho anh có làm gì đi chăng nữa.
“Đó là một sai lầm...”

“Anh Jace!” Max, cậu út nhà


Lightwood, lách qua người bà Maryse
và chạy lao vào phòng, tránh xa tầm với
của mẹ mình. “Anh trở về rồi! Cả mấy
anh chị đều về rồi!” Cậu bé quay vòng
vòng, cười toe chiến thắng với Alec và
Isabelle. “Em đã nghĩ mình đã nghe thấy
tiếng thang máy.”
“Và mẹ cứ nghĩ mẹ đã bảo con ở
trong phòng cơ mà.”

“Con không nhớ ạ,” Max nói nghiêm


túc tới mức Alce phải phì cười. Max khá
nhỏ con so với tuổi - trông cậu bé chỉ
tầm lên bảy - nhưng với vẻ điềm tĩnh,
đĩnh đạc, cộng thêm cặp kính quá khổ,
khiến cậu bé trông như ông cụ non vậy.
Alec vươn tay xoa đầu cậu em, nhưng
Max vẫn nhìn Jace, mắt sáng rỡ. Jace
thấy nắm tay lạnh lẽo đang bóp chặt dạ
dày mình đã hơi chút nới lỏng ra. Max
luôn tôn sùng Jace theo một kiểu mà cậu
bé chẳng bao giờ dùng cho anh ruột,
chắc hẳn vì Jace chịu được sự có mặt
của cậu bé giỏi hơn nhiều. “Em nghe nói
anh đã chiến đấu với Đại Quỷ,” Max nói.
“Có tuyệt không anh?”

“Cũng... khác lắm,” Jace đánh trống


lảng. “Alicante thế nào?”

“Tuyệt vời. Em với bố mẹ được thấy


những thứ tuyệt cú mèo. Có một cửa hàng
vũ khí lớn ở Alicante và người ta đưa
em đến mấy chỗ họ làm vũ khí. Họ cũng
chỉ cho em phương pháp mới để rèn con
dao thiên thần nữa đấy, để chúng có thời
gian sử dụng dài hơn và em định thử nhờ
bác Hodge chỉ cho em...”

Jace chẳng đặng đừng; mắt anh ngay


lập tức chuyển sang Maryse, vẻ mặt anh
chừng như không thể tin nổi. Vậy là Max
không biết gì về chuyện bác Hodge sao?
Bà chưa nói cho thằng bé biết ư?

Bà Maryse nhìn thấy vẻ mặt Jace liền


mím môi lại thành đường mảnh. “Đủ rồi,
Max.” Bà nắm lấy tay cậu con út.

Cậu bé ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn mẹ.


“Nhưng con đang nói chuyện với anh
Jace...”

“Mẹ thấy rồi.” Bà nhẹ nhàng đẩy cậu


bé về phía Isabelle. “Isabelle, Alec, đưa
em con về phòng. Jace,” - giọng bà sít
lại khi bà gọi tên anh, như thể có thứ axit
vô hình nào đó đang đốt khô từng âm
trong miệng bà - “con tắm rửa rồi gặp
mẹ trong thư viện ngay khi có thể.”

“Con không hiểu,” Alec nói, hết nhìn


mẹ lại nhìn Jace. “Có chuyện gì thế
này?”

Jace thấy mồ hôi lạnh túa ra dọc


xương sống. “Chuyện về bố đẻ của con
phải không ạ?”

Bà Maryse giật mình hai lần, như thể


từ “bố đẻ” là hai cú bợp tai riêng rẽ.
“Thư viện,” bà nghiến răng nói. “Chúng
ta sẽ nói chuyện ở đó.”
Alec lên tiếng, “Những chuyện xảy ra
khi mẹ đi vắng không phải lỗi của Jace.
Chúng con đều tham gia. Và bác Hodge
nói...”

“Rồi chúng ta sẽ nói tới bác Hodge


sau.” Mắt bà Maryse nhìn sang Max,
giọng đe dọa.

“Nhưng mẹ à,” Isabelle cự nự. “Nếu


mẹ định phạt Jace, mẹ nên phạt cả tụi
con luôn. Thế mới công bằng chứ. Bọn
con làm cùng một chuyện mà.”

“Không,” bà Maryse cất tiếng sau khi


im lặng một lúc lâu khiến Jace những
tưởng bà sẽ không nói gì nữa. “Các con
không làm cùng một chuyện.”

“Quy tắc thứ nhất của anime,” Simon


nói. Cậu chống một tay lên chồng gối ở
chân giường, một tay cầm túi khoai tây
chiên, tay kia cầm điều khiển TV. Cậu
đang mặc áo in dòng chữ I BLOGGED
YOUR MOM và quần bò rách gối.
“Đừng bao giờ gây sự với một nhà sư
mù.”

“Tó biết thừa,” Clary nói rồi nhón


một miếng khoai tây và nhúng vào lon
nước sốt nằm trong khay TV giữa hai
người. “Chẳng hiểu sao họ luôn đánh
giỏi hơn những nhà sư sáng mắt nhỉ.” Cô
nheo mắt nhìn màn hình. “Mấy người kia
đang khiêu vũ à?”

“Không phải khiêu vũ. Họ đang cố


giết nhau mà. Tay này là kẻ thù không đội
trời chung của tay kia, nhớ không? Hắn
giết bố anh ta. Sao họ có thể khiêu vũ
cùng nhau chứ?”

Clary nhai rào rạo miếng khoai tây và


nhìn màn hình nghiền ngẫm, theo dõi
những cuộn khói vàng vàng hồng hồng
sinh động đang lăn tăn ngăn giữa hai
người đàn ông có cánh, lơ lửng chờn vờn
quanh nhau, mỗi người tay nắm một cây
giáo phát sáng. Thi thoảng một trong hai
người nói gì đấy, nhưng vì họ nói bằng
tiếng Nhật và bên dưới chạy phụ đề tiếng
Trung nên cô cũng không hiểu lắm. “Cái
người đội mũ ấy,” cô hỏi. “Là người xấu
à?”

“Không, người đội mũ là bố anh kia.


Ông ấy là vua pháp thuật, và đó là mũ
phép thuật của ông ấy. Người xấu là cái
người có cánh tay máy biết nói ấy.”

Đúng lúc đó điện thoại đổ chuông.


Simon đặt túi khoai tây chiên và định
đứng dậy nghe điện. Clary nắm cổ tay
cậu. “Đừng. Kệ nó đi.”

“Nhưng biết đâu là chú Luke. Có thể


chú ấy gọi từ bệnh viện.”
“Không phải chú Luke đâu,” giọng
Clary có vẻ chắc chắn hơn thực tâm cô
cảm nhận. “Chú ấy sẽ gọi tới di động của
mình, chứ không phải nhà cậu.”

Simon nhìn cô một lúc lâu trước khi


ngồi xuống tấm thảm bên cạnh cô. “Cậu
nói vậy thì thôi.” Trong giọng nói cậu
nhuốm màu ngờ vực, nhưng bên cạnh đó
còn ẩn chứa một niềm an ủi không còn
nói thành lời, Mình chỉ muốn cậu vui
mà thôi. Cô cũng không chắc cô có cảm
thấy “vui” không, khi mẹ đang nằm trong
bệnh viện, người bị gắn liền với đống
dây dợ lằng nhằng và những cỗ máy kêu
bíp bíp đêm ngày, còn chú Luke như thây
ma, ngày ngày vật vờ trên chiếc ghế nhựa
cứng bên giường mẹ. Có vui khi suốt
ngày lo lắng cho Jace và cứ nhấc máy cả
ngàn lần định gọi cho Học Viện nhưng
rồi lại bỏ xuống, số vẫn chưa bấm. Nếu
Jace muốn nói chuyện, anh ấy sẽ gọi.

Có lẽ cô đã sai lầm khi đưa anh tới


gặp mẹ Jocelyn. Cô cứ nghĩ nếu mẹ nghe
thấy giọng nói của con trai, người con
đầu tiên của bà, bà sẽ tỉnh lại. Nhưng bà
không tỉnh. Jace đứng chết trân lóng
ngóng bên giường, gương mặt đẹp như
thiên thần trong tranh vẽ, nhưng đôi mắt
lại trống rỗng thờ ơ. Cuối cùng Clary
mất kiên nhẫn và hét lên với anh, thế rồi
anh quát lại trước khi lao khỏi phòng.
Chú Luke nhìn anh đi và trên gương mặt
mệt mỏi hiện lên nét hứng thú. “Đây là
lần đầu tiên chú thấy hai đứa hành xử
giống anh trai em gái đấy,” chú nhận xét.

Clary không biết nói sao. Chẳng ích gì


đi nói với chú ấy rằng cô muốn Jace
không phải là anh trai mình nhiều tới
mức nào. Ta không thể bóc ADN của
mình vứt đi, dù có là ao ước lắm. Dù
làm thế sẽ khiến ta vui vô cùng.

Nhưng cô thấy, dù mình không thể xử


lý vụ vui ấy, nhưng ít nhất ở đây tại nhà
của Simon, trong phòng ngủ của cậu, cô
cảm thấy thoải mái và tự nhiên như ở
nhà. Cô biết cậu từ hồi cậu dùng giường
hình xe cứu hỏa và trong góc phòng chất
đầy những khối LEGO. Giờ trong phòng
là giường nệm cứng với ga giường kẻ
sọc rực rỡ, vốn là quà của chị gái, còn
tường thì dán đầy những tấm áp phích
của những ban nhạc như Rock Solid
Panda và Stepping Razor. Ở góc tường,
nơi từng là chốn cư ngụ của những khối
LEGO, giờ là nơi ngự trị của dàn trống,
còn ở góc tường kia là bộ máy tính, màn
hình vẫn trong chế độ đóng băng với hình
nền World of Warcraft. Cô có cảm giác
thân thuộc với nơi này gần như với căn
phòng ngủ của mình - giờ đã không còn,
nên ít ra đây là nơi tốt nhất hiện thời.

“Lại chibi nữa,” Simon rền rĩ. Tất cả


các nhân vật trên màn ảnh đều biến thành
phiên bản trẻ con cao hai phân rưỡi và
chạy vòng vòng đuổi nhau, tay cầm chảo
và bình khua khoắng. “Mình chuyển kênh
đây,” Simon tuyên bố và giằng lấy điều
khiển. “Mình chán cái phim hoạt hình
này lắm rồi. Chẳng thể hiểu được nội
dung là gì và chẳng thấy có cảnh nóng gì
hết.”

“Tất nhiên là không có rồi,” Clary nói


và nhón thêm miếng khoai tây nữa.
“Anime là chương trình giải trí lành
mạnh giành cho cả gia đình mà.”

“Nếu cậu thích xem chương trình giải


trí ít lành mạnh hơn, chúng ta có thể
chuyển sang kênh phim người lớn,”
Simon nhận xét. “Cậu thích xem The
witches of Breastwick hay As I Lay
Dianne?”

“Đưa ngay cho mình!” Clary giật lại


cái điều khiển, nhưng Simon cười nắc nẻ
và chuyển sang kênh khác

Tiếng cười của cậu đột ngột tắt lịm.


Clary ngạc nhiên ngước lên và thấy cậu
bạn đang nhìn chăm chú vào màn hình.
TV đang chiếu một bộ phim đen trắng đã
xưa - phim Dracula. Hồi trước cô đã
từng xem phim này cùng mẹ. Bela
Lugosi, ốm nhom mặt trắng bệch, đang
hiện trên màn hình, quấn mình trong
chiếc áo choàng cổ cao quen thuộc và
đôi môi đang vén lên nhe ra những chiếc
răng sắc nhọn. “Ta chưa bao giờ uống...
rượu,” ông ta nói bằng giọng nặng âm
điệu Hungary.

“Mình thích cách người ta làm mạng


nhện từ cao su,” Clary nói, cố ra giọng
vui vẻ. “Nhìn cái là biết.”

Nhưng Simon đã đứng lên và ném cái


điều khiển xuống giường. “Mình sẽ trở
lại ngay,” cậu thì thào. Mặt cậu xám xịt
như bầu trời mùa đông trước khi đổ mưa.
Clary nhìn cậu bạn bỏ đi, và cắn chặt
môi lại - đây là lần đầu tiên kể từ khi mẹ
tới bệnh viện cô nhận ra có lẽ Simon
cũng chẳng vui vẻ gì.
Lau khô tóc, Jace cau có ngắm hình
ảnh phản chiếu. Một chữ rune trị thương
đã chữa cho vết bầm tím tệ hại nhất,
nhưng nó không thể làm tan quầng thâm
dưới mắt hay những vết hằn ở khóe môi
anh. Đầu anh đau như búa bổ còn người
thì váng vất. Anh biết sáng ra mình nên
ăn chút gì đó, nhưng anh đã bật dậy hổn
hển và buồn nôn vì ác mộng nên không
muốn dừng lại mà ăn uống, chỉ muốn
được tập thể dục để thoải mái tinh thần,
để thiêu trụi những giấc mơ bằng mồ hôi
và những vết bầm tím.

Ném cái khăn sang một bên, Jace


khao khát có một tách trà đen ngọt ngào
được chế biến từ các loài hoa nở vào
ban đêm trong nhà kính của bác Hodge.
Loại trà đó luôn làm tiêu tán cơn đói cồn
cào và mang lại một nguồn năng lượng
mới. Từ khi bác biến mất, Jace từng thử
đun lá cây trong nước để xem mình có
thể tạo ra cùng hiệu ứng ấy không, nhưng
chỉ thu được thứ nước uống đắng ngắt,
mang vị tro chan chát khiến anh chỉ muốn
khạc nhổ cho bằng hết.

Chân để trần, anh đi vào phòng ngủ


rồi mặc quần bò cùng áo phông sạch.
Anh vuốt ngược mái tóc vàng nhẹp và
nhíu mày. Lúc này tóc dài quá, xõa hết
xuống cả mắt - đảm bảo mẹ Maryse sẽ
mắng anh ra trò vì vụ này đây. Bà khi
nào cũng mắng mà. Có thể anh không
phải đứa trẻ mang huyết thống nhà
Lightwood, nhưng họ đối xử với anh như
con ruột kể từ khi họ nhận anh làm con
nuôi vào năm anh lên mười, sau cái chết
của bố anh. Cái chết được cho là chết ấy,
Jace tự nhắc mình, cảm giác hụt hẫng
trong lòng anh lại trỗi dậy. Anh có cảm
giác mình như một ngọn đèn ma trơi mấy
ngày qua, như thể ruột gan mình đã bị ai
đó nĩa moi ra hết vất đầy một đống trong
khi nụ cười toe toét cứ dán chặt trên mặt
mình. Anh thường xuyên tự hỏi về những
điều mình tin tưởng trong đời, hay về
chính bản thân mình, có thứ nào từng là
thực hay không. Anh từng tưởng mình là
trẻ mồ côi - nhưng không phải. Anh từng
nghĩ mình là con một - nhưng hóa ra lại
có một cô em gái.

Clary. Cơn đau lại dội lên, mạnh mẽ


hơn. Anh cố đè nén nó xuống. Mắt anh
nán lại trên mảnh gương vỡ nằm trên tủ
quần áo, vẫn phản chiếu những nhánh cây
xanh rì và bầu trời xanh rực rỡ nắng
vàng. Giờ ở Idris là chạng vạng: Bầu
trời sẽ có màu xanh thẫm. Nghẹn lòng
với cảm giác trống rỗng lại, Jace thọc
chân vào bốt rồi đi xuống lầu, tiến thẳng
đến thư viện.

Vừa đi trên những bậc cầu thang đá


Jace vừa lo lắng nghĩ xem điều bà
Maryse muốn nói riêng với mình là gì.
Trông như thể bà muốn nhào đến tát vào
mặt anh vậy. Jace không thể nhớ nổi lần
cuối bà đụng tay đụng chân với mình là
hồi nào. Nhà Lightwood thường không
thích phạt đòn roi - quả là một khác biệt
lớn lao so với việc được Valentine nuôi
dạy, một kẻ thích chế ra đủ thứ hình phạt
đau đớn để đưa người khác vào khuôn
khố. Làn da Thợ Săn Bóng Tối của Jace
dù có gặp những vết thương nào cũng sẽ
lành lặn như cũ, trừ khi những vết thương
đó quá kinh hoàng. Bao nhiêu tuần lễ
ngày tháng sau khi bố qua đời, Jace nhớ
mình đã lần tìm những vết sẹo trên thân
thể, tìm những dấu vết như là kỷ vật, là
hoài niệm kết nối cụ thể anh với ký ức về
bố mình.
Jace tới thư viện và gõ cửa một lần
trước khi đẩy cửa mở. Bà Maryse ở đó,
đang ngồi trên chiếc ghế cũ của bác
Hodge bên lò sưởi. Ánh sáng ùa qua
những ô cửa sổ cao cao và Jace có thể
nhìn ra nhúm bạc trên tóc bà. Bà đang
cầm một ly rượu vang đỏ; trên bàn bên
cạnh là một bình rượu bằng pha lê.

“Maryse,” anh lên tiếng.

Bà khẽ giật mình, sánh chút rượu ra


ngoài. “Jace. Ta không nghe tiếng chân
con bước vào.”

Anh không động đậy. “Mẹ có nhớ


khúc hát mẹ thường hát cho Isabelle và
Alec - khi hai người còn nhỏ và sợ tối -
để họ ngủ không ạ?”

Bà Maryse thoáng sững người. “Con


đang nói gì vậy?”

“Con thường áp tai vào tường lắng


nghe,” cậu nói. “Khi đâý phòng ngủ của
Alec bên cạnh phòng con mà.”

Bà không nói gì.

“Khúc hát đó,” Jace nói. “Bằng tiếng


Pháp.”

“Ta không hiểu sao con lại nhớ những


điều đó.” Bà nhìn như thể anh đang buộc
tội bà.

“Mẹ không bao giờ hát cho con nghe


cả.”

Một khoảng lặng chừng như không


cảm nhận được. Rồi “Ồ, con ấy à,” bà
nói. “Con có bao giờ sợ tối đâu.”

“Làm gì có đứa nhỏ mười tuổi nào lại


không sợ tối?”

Bà nhướn mày. “Ngồi xuống đi,


Jonathan,” bà nói. “Ngay lập tức.”
Anh đi, rề rà một chút đủ để chọc giận
bà, băng qua phòng, rồi ném mình xuống
một trong những chiếc ghế tựa bên cạnh
bàn. “Con không thích mẹ gọi con là
Jonathan.”

“Sao lại không nào? Đó là tên con cơ


mà.” Bà nhìn anh tư lự “Con biết bao lâu
rồi?”

“Biết gì ạ?”

“Đừng ngốc vậy. Con thừa biết ta


đang hỏi con điều gì.” Bà xoay xoay
chiếc cốc thủy tinh trên những đầu ngón
tay. “Con biết Valentine là bố đẻ của
mình bao lâu rồi?”
Jace ngẫm nghĩ và loại bỏ vài câu trả
lời. Thông thường anh có thể đánh lạc
hướng bà Maryse bằng cách làm bà
cười. Anh là một trong vài người duy
nhất trên thế giới này có thể khiến bà
cười. “Khoảng từ hồi mẹ biết thôi ạ.”

Bà Maryse chậm rãi lắc đầu. “Ta


không tin.”

Jace ngồi thẳng người. Hai tay anh đã


thu thành nắm đấm khi đặt trên tay ghế.
Anh cảm nhận những ngón tay run run, tự
hỏi mình đã bao giờ bị như thế này chưa.
Anh nghĩ là không. Hai tay anh luôn vững
vàng như nhịp tim của mình vậy. “Mẹ
không tin con?”

Anh nghe ra sự hoài nghi trong giọng


nói của chính mình và thầm nhăn mặt. Tất
nhiên là bà không tin rồi. Điều này đã
quá hiển hiện ngay từ khi bà bước chân
vào nhà.

“Không có lý nào, Jace à. Sao con lại


không biết bố đẻ của con là ai cơ chứ?”

“Ông ấy nói với con rằng ông ấy là


Michael Wayland. Bố con con sống ở
ngôi nhà ngoại ô của nhà Wayland...”

“Khéo lắm,” bà Maryse nói. “Vụ sống


trong nhà Wayland ấy. Và tên con? Tên
thật của con là gì?”

“Mẹ thừa biết con tên gì.”

“Jonathan. Ta biết đó là tên con trai


của Valentíne. Ta cũng biết Michael có
một cậu con trai tên Jonathan. Đó là một
cái tên phổ biến trong giới Thợ Săn
Bóng Tối - ta chưa bao giờ nghĩ sao lại
trùng hợp tới kỳ lạ như vậy, còn tên đệm
của con trai anh ấy thì ta chưa bao giờ
tìm hiểu. Nhưng giờ ta cứ nghĩ mãi. Tên
đệm thật sự của con trai Michael
Wayland là gì. Valentine đã lên kế hoạch
bao lâu rồi? Hắn biết hắn sẽ phải giết
Jonathan Wayland từ khi nào?” Maryse
lạc giọng đi, mắt dán vào Jace. “Con
biết không, con không hề giống
Micheal,’’ bà nói. “Nhưng đôi khi con
cái không hề giống bố mẹ. Trước nay ta
chưa từng nghĩ tới điều đó. Nhưng giờ ta
có thể thấy hình ảnh của Valentine nơi
con. Cái cách con đang nhìn ta. Vẻ thách
thức đó. Con không thèm quan tâm xem
ta đang nói gì, đúng không?”

Có chứ. Chỉ là cậu che giấu quá tài


tình mà thôi. “Con có quan tâm thì mọi
chuyện sẽ khác đi sao?”

Bà Maryse đặt ly rượu sang một bên.


Rượu đã cạn. “Và con dùng câu hỏi làm
câu trả lời để làm khó ta, y như Valentine
thường làm. Có lẽ ta phải đoán ra chứ.”

“Có lẽ chẳng là gì cả. Con vẫn là


cùng một con người như bảy năm qua.
Con chẳng thay đổi gì cả. Nếu trước đây
con không làm cho mẹ nghĩ tới Valentine,
thì con không hiểu sao giờ con lại làm
mẹ nghĩ tới ông ta.”

Ánh mắt bà Maryse liếc sang Jace rồi


lỉnh ra nơi khác như thể bà không chịu
được việc nhìn thẳng vào mắt anh. “Quá
rõ là chúng ta nói về Michael, con hẳn
phải biết là không thể nào chúng ta đang
nói về bố đẻ của con được. Những gì
chúng ta nói về ông ấy không thể nào
khớp với Valentine.”
“Mẹ nói ông ấy là người tốt.” Cơn
giận dữ bùng lên trong anh. “Một Thợ
Săn Bóng Tối dũng cảm. Một người cha
yêu con. Con nghĩ như thế dường như là
chính xác quá rồi còn gì.”

“Còn những bức ảnh thì sao? Hẳn con


phải nhìn thấy những bức hình của
Michael Wayland và nhận ra ông ấy
không phải người con gọi là bố chứ.” Bà
cắn môi. “Giúp ta giải thích điều này đi,
Jace.”

“Mọi hình ảnh đều đã bị thiêu hủy


trong vụ Nổi Loạn. Mẹ đã bảo con thế
mà. Giờ con đang nghĩ có phải Valentine
đã đốt hết hình đi để giấu danh tính
những người trong Hội Kín không. Con
không có lấy một bức hình của bố đẻ,”
Jace nói, trong lòng đang phân vân liệu
lời nói của mình có chua chát như tâm
trạng mình lúc này không.

Bà Maryse day day thái dương như


thể đang đau đầu. “Ta không tin nổi,” bà
nói, như thể đang nói với chính mình.
“Chuyện này thật điên rồ.”

“Vậy mẹ đừng tin vào chuyện này


nữa. Mẹ tin con đây này,” Jace nói, và
cảm thấy tay càng lúc càng run hơn.

Bà buông tay xuống. “Con nghĩ ta


không muốn tin con hay sao?” bà hỏi, và
trong một khoảnh khắc anh nghe thấy
thoảng trong giọng nói của bà là thanh
âm của mẹ Maryse, người đã bước vào
phòng ngủ của anh hồi anh mười tuổi,
đang trừng trừng nhìn lên trần nhà, nghĩ
về cha mình - và bà cứ ngồi bên anh mãi
cho tới lúc anh chìm vào giấc ngủ, khi
bình minh chực ló dạng.

“Chẳng biết nữa,” Jace lại nói.


“Nhưng khi ông ta hỏi con có muốn về
Idris với ông ấy không, con đã trả lời
rằng không. Con vẫn ở lại đây. Chẳng lẽ
điều đó không có nghĩa gì sao?”

Bà nhìn bình rượu, như thể đang định


rót thêm ly nữa, nhưng rồi lại thôi. “Ước
gì điều đó có chút ý nghĩa,” bà nói.
“Nhưng có rất nhiều lý do để bố con cho
con ở lại Học Viện. Hễ có dính dáng đến
Valentine, thì ta không thể tin tưởng được
bất cứ ai từng bị hắn ảnh hưởng.”

“Ông ta cũng từng có sức ảnh hưởng


tới mẹ đấy thôi,” Jace nói, rồi ngay lập
tức hối hận khi nhìn thấy vẻ mặt loáng
qua của bà.

“Và ta đã chối bỏ hắn,” bà Maryse


nói. “Còn con thì sao? Con có thể
không?” Đôi mắt bà xanh như mắt Alec,
nhưng Alec chưa bao giờ nhìn anh như
thế. “Jace, con hãy nói rằng con căm ghét
hắn ta đi. Hãy nói rằng con căm ghét hắn
ta và mọi điều hắn đại diện cho đi.”

Một khoảng lặng trôi qua, rồi thêm


một khoảng nữa, và Jace, mắt nhìn
xuống, thấy bàn tay nắm chặt tới nỗi
những đốt tay gồ lên trắng bệch và cứng
ngắc như đốt xương trên sống lưng
xương cá. “Con không nói được.”

Maryse hít một hơi. “Vì sao không?”

“Thế sao mẹ không thể tin con? Con


đã sống cùng mẹ đến gần cả nửa đời. Mẹ
phải hiểu con hơn chứ?”
“Con nói nghe thành thực lắm,
Jonathan. Khi nào cũng thế, ngay cả như
khi con còn là thằng bé con cố đổ tội của
mình sang cho Alec và Isabelle. Ta chỉ
từng gặp duy nhất một kẻ có sức thuyết
phục như con.”

Jace cảm nhận vị đồng trong miệng.


“Ý mẹ là bố con chứ gì.”

“Đối với Valentine trên thế giới này


chỉ có hai hạng người,” bà nói. “Những
người ủng hộ Hội Kín và những người
chống đối với nó. Kẻ chống đối là kẻ
địch, và những kẻ ủng hộ là vũ khí. Ta
từng thấy hắn biến những người bạn, kể
cả vợ mình thành vũ khí cho Cause - vậy
mà con muốn ta tin rằng hắn đã không
làm cùng một chuyện với con đẻ của
mình sao?” Bà lắc đầu. “Ta hiểu hắn quá
rõ mà.” Lần đâu tiên, Maryse nhìn cậu
với vẻ buồn nhiều hơn giận. “Con là mũi
tên nhắm vào trái tim của Hội Clave,
Jace à. Con là mũi tên của Valentine. Dù
con có ý thức được điều đó hay không.”

***

Clary đóng cửa phòng ngủ ngăn tiếng


TV inh ỏi và đi tìm Simon. Cô thấy cậu
bạn trong bếp, cúi mặt xuống vòi nước
đang chảy. Tay cậu ta nắm chặt lấy mặt
kệ.
“Simon?” Gian bếp được sơn màu
vàng tươi sáng và vui mắt, tường trang
trí những bức hình bằng phấn và bút chì
của Simon và chị Rebecca từ hồi tiểu
học. Rebecca có tí khiếu vẽ đấy, nhìn
qua là biết, nhưng mấy tranh Simon vẽ
người đều trông như công tơ mét đỗ xe
với mấy chỏm tóc vậy.

Lúc này Simon không ngước mắt nhìn


lên, mặc dù cái vẻ căng thẳng trên hai
vai của cậu cho Clary biết cậu có nghe
thấy tiếng chân cô. Cô tới bên bồn rửa,
nhẹ nhàng đặt tay lên lưng cậu. Cô sờ
thấy những đốt xương sống cứng qua lớp
áo phông cotton mỏng và tự hỏi dạo này
cậu sụt cân thì phải. Nhìn thì cô không
nhận ra, vì nhìn Simon giống như việc cô
soi gương hàng ngày vậy - khi ngày nào
bạn cũng nhìn thấy một ai đó, bạn ít khi
để ý những thay đổi nho nhỏ ở vẻ ngoài.
“Cậu ổn không?”

Cậu gạt mạnh cổ tay tắt nước đi. “Ừ.


Mình ổn.”

Cô đặt một ngón tay lên bên cằm


Simon để quay mặt cậu sang nhìn mình.
Cậu đang toát mồ hôi, mái tóc đen bết
vào trán, dù không khí lùa qua cửa sổ
bếp mở hờ vẫn se se lạnh. “Trông cậu
không ổn đâu. Có phải do bộ phim
không?”
Simon không trả lời.

“Mình xin lỗi. Mình không nên cười,


chỉ là...”

“Cậu không nhớ sao?” Giọng cậu bạn


có vẻ khàn khàn.

“Mình...” Clary không biết nói gì.


Nghĩ lại, đêm hôm đó dường như là một
cuộc chạy ma ra tông mơ hồ, với máu và
mồ hôi, với những bóng đen lẩn quất nơi
cửa ra vào, với việc rơi qua khoảng
không. Cô nhớ những gương mặt ma cà
rồng trắng bệch, giống như những mảnh
giấy cắt nổi bật trên nền bóng tối, và nhớ
Jace đã giữ lấy cô, hoảng loạn hét vào
tai cô. “Không nhiều. Chỉ nhớ mang
máng.”

Simon thoáng nhìn lướt qua cô. “Cậu


thấy mình có khác gì không?” cậu hỏi.

Cô ngước mắt nhìn bạn. Mắt Simon


có màu cà phê đen - không đen hẳn, mà
là nâu sậm không pha thêm màu xám hay
nâu đỏ. Trông cậu ấy có khác không nhỉ?
Ở cậu ấy có lẽ có thêm chút tự tin kể từ
ngày cậu ấy giết chết Đại Quỷ Abbadon;
nhưng ngoài ra còn có thêm chút thận
trọng, như thể cậu ấy đang chờ đợi hay
dè chừng cái gì đó. Clary cũng để ý thấy
điều này ở Jace. Có lẽ đó chỉ là sự ý
thức được về khả năng tử vong mà thôi,
“Cậu vẫn là Simon.”

Simon khép hờ mi mắt như thể nhẹ


nhõm hẳn ra, và khi mí mắt cậu hạ xuống,
cô mới thấy gò má cậu góc cạnh hẳn đi
như thế nào. Cậu ấy có sụt cân, cô thầm
nghĩ, rồi định mở miệng nói thì Simon đã
cúi xuông hôn cô.

Quá bất ngờ trước cảm giác môi bạn


trên môi mình nên Clary cứng đơ người,
bám chặt tay lên bồn rửa để đứng vững.
Nhưng cô không đẩy Simon ra, và rõ
ràng coi đó là một dấu hiệu khuyến khích
nên Simon luồn tay ra sau gáy cô và hôn
nồng nhiệt hơn, dùng môi mình tách mở
môi cô. Môi cậu mềm mại, mềm mại hơn
Jace, và bàn tay đỡ cổ cô thật ấm áp và
nhẹ nhàng. Nụ hôn của cậu có vị mằn
mặn của muối.

Clary nhắm mắt và trong thoáng chốc


choáng váng bay bổng trong bóng tối và
hơi ấm, cảm nhận những ngón tay cậu
đan vào tóc mình. Khi tiếng chuông điện
thoại giục giã cắt ngang cơn váng vất, cô
nhảy lùi lại như thể cậu vừa đẩy cô ra,
dù cậu không hề cử động. Họ nhìn chằm
chằm vào nhau một lúc, trong cơn bối rối
cuồng loạn, như thể hai con người đột
nhiên thấy mình bị chuyển tới một vùng
đất hoàn toàn xa lạ.

Simon, quay đi trước, vươn tay với


điện thoại treo trên tường bên giá để gia
vị. “A lô?” Giọng cậu vẫn bình thường,
nhưng ngực phập phồng lên xuống rất
nhanh. Cậu đưa ống nghe cho Clary “Của
cậu này.”

Clary nắm điện thoại. Cô vẫn còn có


thể cảm nhận nhịp tim đập thình thịch,
nghe như tiếng cánh của một con côn
trùng nào đó mắc kẹt dưới da cô. Là chú
Luke, gọi từ bệnh viện. Có chuyện với
mẹ rồi.

Cô nuốt khan. “Chú Luke à? Có phải


chú không?”

“Không. Isabelle đây.”


“Isabelle?” Clary nhìn lên thấy Simon
đang tựa người vào bồn rửa và quan sát
mình. Sắc hồng trên má cậu đã nhạt dần.
“Vì sao cậu - ý tớ là, có chuyện gì thế?”

Có tiếng nấc trong giọng nói cô gái,


như thể cô ta đang khóc vậy. “Jace có ở
đó không?”

Clary thực sự giơ điện thoại ra nhìn


trước khi áp ống nghe vào tai. “Jace ư?
Không. Sao anh ấy lại ở đây?”

Tiếng Isabelle trả lời qua hơi thở


vang dội qua điện thoại nghe như tiếng
thở dốc. “Vấn đề là... anh ấy đi rồi.”

2. Quán Hunter’s Moon

Maia Robert chẳng bao giờ tin


những anh chàng đẹp mã, chính vì thế
cô ghét Jace Wayland ngay từ lần đầu
tiên thấy hắn.

Anh trai cô, Daniel, được sinh ra với


làn da bánh mật và đôi mắt đen to tròn
của mẹ, rồi hóa ra anh ta là thứ người
nhẫn tâm đốt cháy cánh của những con
bươm bướm và dửng dưng nhìn chúng
chấp chới bay tới khi cháy rụi. Anh ta
cũng tra tấn cô, lúc đầu chỉ bằng những
trò nhỏ nhặt vặt vãnh, như cấu véo cô ở
những chỗ không ai nhìn thấy, đổi dầu
gội thành chất tẩy trắng. Cô có mách bố
mẹ nhưng họ không tin. Chẳng ai tin cả,
khi nhìn vào Daniel; họ lầm tưởng giữa
vẻ đẹp đẽ và sự ngây thơ vô tội. Khi anh
ta bẻ gãy tay cô hồi lớp chín, cô trốn
nhà, nhưng bố mẹ đã đem cô về. Năm
lớp mười, Daniel bị một gã tài xế nào đó
đâm chết ngay trên đường. Đứng bên
cạnh cha mẹ trong nghĩa địa, Maia thấy
xấu hổ vì cảm giác nhẹ nhõm bừng lên
trong tâm. Chúa trời, cô nghĩ, chắc sẽ
trừng phạt cô vì đã hài lòng khi anh trai
mất mạng.

©DTV: http://www.dtv-ebook.com

Và năm sau, Chúa trời trừng phạt cô


thật. Cô gặp Jordan. Tóc đen dài, hông
mảnh dẻ trong chiếc quần bò bạc màu,
chiếc áo phông hình các indie rocker[1]
và lông mi dài như con gái. Cô chưa bao
giờ nghĩ hắn sẽ thích cô - thường thường
những người như hắn sẽ thích những cô
gái mảnh dẻ, nhợt nhạt đeo cặp kính gọng
to - nhưng có vẻ hắn lại thích những cô
gái tròn trịa như Maia. Khi trao cô những
nụ hôn, hắn đã khen rằng cô thật xinh
đẹp. Vài tháng đầu tiên trôi qua như mơ;
những tháng cuối cùng lại là ác mộng.
Hắn trở nên gia trưởng, luôn muốn kiểm
soát cô. Khi giận cô, hắn gầm ghè và tát
vào mặt cô, để lại vết tay hằn trên má
như thể cô đã đánh quá nhiều phấn hồng
vậy. Khi cô cố chia tay, hắn đã đẩy, hất
ngã cô xuống sân trước khi cô kịp chạy
vào trong và khóa chặt cửa lại.

[1] Indie rocker: một thể loại rock alternative


xuất hiện tại UK và US vào những năm 1980. (ND)

Sau đó, cô cố tình cho hắn thấy cô hôn


một anh chàng khác, chỉ để khẳng định
cho hắn biết là họ đã chấm dứt rồi. Cô
thậm chí chẳng nhớ tên cậu trai kia. Cái
cô nhớ là buổi tối hôm đó khi đi bộ về
nhà, trời mưa bay giăng giăng trên tóc,
bùn bắn lên bắp quần vì cô đã theo lối
tắt băng qua công viên gần nhà. Cô nhớ
một bóng hình đen thui từ sau vòng quay
ngựa gỗ bằng sắt nhảy xổ ra, một thân
mình chó sói to tướng ướt nhẹp xô cô
ngã xuống vũng bùn, cơn đau quằn quại
khi hàm răng con sói cắn ngập vào cổ cô.
Cô đã la hét và giãy giụa, nếm thấy vị
máu nóng hổi trong miệng, thấy đầu óc
đang hét lên: Không thể nào. Không thể
nào. Ở New Jersey làm gì còn sói, nhất
là trong khu ngoại ô bình thường của cô,
nhất là ở thế kỷ hai mươi mốt này.

Tiếng hét của cô khiến các nhà xung


quanh bật đèn, hết ô cửa sổ này tới ô cửa
sổ khác sáng lên như thể quẹt diêm. Con
sói thả cô ra, trên miệng máu chảy ròng
ròng và còn dính chút da thịt của cô.

Sau hai mươi bốn mũi khâu, cô trở về


căn phòng ngủ màu hồng của mình, còn
mẹ cô lo lắng đi đi lại lại. Bác sĩ phòng
cấp cứu nói vết cắn giống vết răng một
con chó lớn, nhưng Maia biết rõ hơn thế.
Trước khi con sói quay người bỏ đi, cô
nghe thấy tiếng thì thầm quen thuộc, phả
hơi thở nóng hổi bên tai cô, “Giờ em là
của tôi. Em luôn luôn là của tôi.”

Cô không bao giờ gặp lại Jordan nữa


- hắn cùng bố mẹ đã dọn đi, bạn bè hắn
không ai biết gia đình hắn đã đi đâu, mà
kể cả biết cũng không chịu nói. Cô chỉ
hơi ngạc nhiên khi cơn đau đến vào dịp
trăng tròn tháng sau: đau đớn giằng xé
chạy dọc chân cô, buộc cô phải bò trên
mặt đất, phải còng lưng theo cách những
nhà ảo thuật bẻ cong cái thìa. Khi răng
thò ra khỏi lợi và rơi lạch cạch xuống
đất như những viên kẹo cao su Chiclet,
cô ngất lịm đi. Hoặc cô nghĩ mình đã
ngất. Cô tỉnh dậy cách nhà hàng dặm,
không một mảnh vải che thân, mình mẩy
dính đầy máu, vết sẹo trên cổ nhói lên
từng hồi như nhịp tim đập. Đêm đó cô
lên tàu tới Manhattan. Chẳng phải một
quyết định khó khăn gì. Là một đứa con
lai tại khu vực ngoại ô với những người
hàng xóm bảo thủ đã quá khổ sở rồi.
Chúa mới biết họ sẽ làm gì với người
sói.

Tìm được một đàn để hòa vào cũng


không quá khó. Riêng Mahattan thôi cũng
đã có vài đàn. Cô gia nhập một đàn
người sói trong khu trung tâm, những
người thường ngủ lại trong một đồn cảnh
sát cũ ở khu Chinatown.

Sói đầu đàn thay đổi liên tục. Đầu tiên


là Kito, rồi Vérionique, Gabriel và giờ
là chú Luke. Cô thích Gabriel nhưng
Luke là sói đầu đàn tốt hơn. Chú có vẻ
ngoài khiến những người tiếp xúc với
chú tin tưởng, đôi mắt xanh hiền hậu mà
cũng không quá đẹp trai, chính vì thế cô
không ghét chú Luke ngay tắp lự. Cô thấy
thoải mái khi ở cùng đàn, được ngủ trong
đồn cảnh sát cũ, vào những đêm trăng
chưa tròn, họ cùng nhau chơi bài và ăn
đồ Trung Hoa. Còn những đêm trăng tròn
họ cùng nhau đi săn trong công viên, rồi
hôm sau lại tới quán Hunter’s Moon, một
trong những quán bar ngầm của người sói
trong thành phố, nhậu cho qua tàn dư của
Cơn Biến Đổi. Có những thùng bia cao
cả thước, và không ai kiểm tra xem bạn
đủ hai mươi mốt tuổi chưa. Làm người
sói khiến bạn phát triển nhanh, và chỉ cần
bạn mọc răng và tóc một tháng một lần,
bạn được quyền chè chén ở Moon, không
cần biết bạn bao nhiêu tuổi tính theo tuổi
của con người.
Những ngày này cô ít nhớ tới gia đình,
nhưng khi anh chàng tóc vàng mặc áo
choàng đen dài bước vào bar, Maia cứng
cả người. Hắn trông không giống Daniel,
không hẳn - Daniel có tóc đen dài xoăn
xoăn úp vào gáy và da bánh mật, còn
người con trai này da trắng tóc vàng.
Nhưng họ đều sở hữu một cơ thể mảnh
mai, có cùng một dáng đi giống như báo
tìm mồi, và cùng một vẻ tự tin ngời ngời
về ngoại hình. Tay cô bất giác co lại nắm
chặt quanh cái cốc và cô phải tự nhắc
mình: Anh ta chết rồi. Daniel đã chết.

Anh chàng kia đi tới đâu, tiếng xì xào


vang theo tới đó, như bọt sóng lan quanh
đuôi thuyền. Cậu trai tỏ ra như chẳng để
ý gì, dùng một chân mang bốt móc kéo
chiếc ghế quầy bar về phía mình rồi ngồi
lên đoạn chống khuỷu tay xuống bàn.
Maia nghe hắn gọi một ly rượu mạch nha
trong khi mọi người ngừng bặt. Hắn dốc
thẳng nửa ly vào miệng bằng một cú phẩy
cổ tay gọn ghẽ. Thứ rượu đó mang màu
vàng như màu tóc hắn vậy. Khi hắn giơ
tay đặt ly xuống quầy bar, Maia đã thấy
những Ấn Ký màu đen dày đặc quấn
quanh cổ tay và mặt trên bàn tay.

Bat, người ngồi cạnh cô - cô từng hẹn


hò với cậu này, nhưng giờ họ là bạn - thì
thầm gì đó nghe như “Nephilim.”

Thì ra là vậy. Tay kia không phải là


người sói gì cả. Hắn là Thợ Săn Bóng
Tối, một thành viên của lực lượng cảnh
sát mật của Thế giới Ngầm. Họ duy trì
Luật Pháp, được Hiệp Ước bảo vệ, và
bạn không thể trở thành một người như
họ được: Bạn phải được sinh ra là đã thế
thôi. Dòng máu quyết định ra họ. Có rất
nhiều lời đồn đại về họ, phần lớn là
những điều không hay ho: Họ tự cao tự
đại, độc ác, kiêu căng; họ khinh ghét Cư
dân Thế giới Ngầm. Chẳng có thứ gì mà
người sói ghét bằng Thợ Săn Bóng Tối -
có lẽ ngoài ma cà rồng ra.

Mọi người cũng đồn rằng Thợ Săn


Bóng Tối giết quỷ. Maia nhớ hồi đầu tiên
nghe đến chuyện quỷ dữ có tồn tại và
được nghe kề về những chuyện chúng gây
ra. Những câu chuyện đó khiến cô đau
đầu. Ma cà rồng và người sói chỉ là
những người bình thường bị mắc một căn
bệnh mà thành, cô hiểu được từng ấy,
nhưng mà trông chờ cô tin vào mấy trò
thiên đường và địa ngục vớ vẩn ấy, vào
quỷ dữ và thiên thần, trong khi vẫn chưa
có ai có thể cam đoan với cô được rằng
liệu Chúa trời có thực hay không, rằng
bạn sẽ đi về đâu sau khi lìa bỏ trần thế
ư? Chẳng công bằng đâu nhé. Giờ cô đã
tin có quỷ dữ - cô đã thấy những việc
chúng làm nhiều đến độ không thể phủ
nhận sự tồn tại của chúng - nhưng cô vẫn
ước gì mình không buộc phải tin như vậy.
“Tôi thấy là,” gã trai nói và chống
khuỷu tay lên bàn, “anh không phục vụ
bia Silver Bullet ở đây. Do nó có quá
nhiều điều tiếng xấu chăng?” Hai mắt hắn
lấp lánh, nheo nheo lại và lóe sáng như
trăng đầu tuần.

Người phục vụ quầy rượu, Freaky


Pete, chỉ nhìn gã trai và lắc đầu khó chịu.
Maia biết nếu hắn không phải Thợ Săn
Bóng Tối, hẳn Pete đã ném hắn bay khỏi
quán Moon, nhung anh chỉ đi sang đầu
kia quầy mà cặm cụi đánh bóng ly.

“Thực ra.” Bat lên tiếng, tay này


không thể nào không chõ mũi vào mọi
chuyện, “bọn tao không có món đó vì nó
thực sự là một loại bia kinh tởm.”

Gã trai chuyển ánh nhìn lấp lánh nheo


nheo của hắn sang Bat, rồi nhoẻn cười
vui vẻ. Thường người ta không mỉm cười
vui vẻ khi Bat nhìn họ cảnh cáo: Bat cao
một mét chín, với vết sẹo lồi lớn làm
biến dạng hết nửa mặt do bị bột bạc làm
bỏng. Bat không thuộc đàn qua đêm, đàn
sống trong đồn cảnh sát, ngủ trong những
xà lim cũ kỹ. Anh ta có nhà riêng, thậm
chí còn có công ăn việc làm nữa. Bat là
một người bạn trai khá ổn, cho tới khi
anh ta đá Maia vì một con phù thủy tóc
đỏ tên Eve sống tại Yonkers và có một
hàng bói chỉ tay tại ga-ra.
“Vậy anh đang uống gì thế?” gã trai
hỏi, nhoài lại quá gần Bat tỏ ý nhục mạ.
“Một ít lông của con chó... ờm, gặp ai
cắn nấy nhỉ?”

“Mày quả là nghĩ mày khá vui tính


nhỉ.” Tới lúc đó tất cả mọi người trong
đàn đều đã nhoài người tới nghe, sẵn
sàng yểm trợ cho Bat nếu anh ta định
đánh cho thằng mất dạy này ngủ tới giữa
tuần sau. “Phải không?”

“Bat,” Maia nói. Cô tự hỏi có phải


mình là người duy nhất trong quán nghi
ngờ khả năng đánh ngất anh chàng này
tới giữa tuần của Bat không. Không phải
cô không tin Bat. Nhưng là vì điều gì đó
trong ánh mắt gã trai kia. “Đừng.”

Bat lờ cô đi. “Phải không?”

“Tôi là ai mà dám phủ nhận sự thật


hiển nhiên cơ chứ?” Ánh mắt gã trai lướt
qua Maia như thể cô không tồn tại và trở
về Bat. “Tôi không nghĩ anh sẽ nói cho
tôi biết chuyện gì xảy tới với mặt anh
nhỉ? Trông như...” Và tới đây hắn ta
nhoài người tới và nói thật khẽ vào tai
Bat nên Maia không nghe rõ. Điều tiếp
theo cô biết, Bat vung một cú đấm lẽ ra
là đã đập nát quai hàm cậu kia rồi, chỉ
có điều cậu ta đã không còn ở đó. Hắn
đứng cách đó cả mét rưỡi, cười khanh
khách, khi nắm đấm Bat tung trúng chiếc
cốc chổng chơ trên mặt bàn và khiến nó
bay qua mặt quầy bar đập vào bức tường
đối diện, vỡ tan tành.

Freaky Pete đi vòng qua quầy bar,


xoắn lấy cổ áo Bat, ngay trước khi Maia
kịp chớp mắt. “Đủ rồi,” anh ta nói. “Bat,
sao cậu không đi bộ cho bình tĩnh lại đi.”

Bat xoay người trong khi Pete vẫn


nắm chặt. “Đi bộ ư? Anh có nghe thấy...”

“Tôi có nghe.” Pete hạ thấp giọng.


“Hắn là Thợ Săn Bóng Tối. Bỏ qua đi,
sói con.”
Bat chửi thề và lùi khỏi người đứng
quầy. Anh ta hùng hục đi khỏi quán, vai
gồng cứng lên vì tức giận. Cánh cửa
đóng sầm lại.

Gã trai ngừng cười rồi nhìn Freaky


với kiểu oán hờn, như thể bartender này
vừa cướp đi món đồ chơi hắn định chơi
vậy. “Không cần thiết phải vậy đâu,” hắn
nói. “Tự tôi xử lý được mà.”

Pete nhìn gã Thợ Săn Bóng Tối dò


xét. “Tôi chỉ lo cho quán bar của tôi
thôi,” cuối cùng anh ta nói. “Nếu cậu
không muốn gặp rắc rối, Thợ Săn Bóng
Tối à, tôi khuyên cậu nên đi chỗ khác mà
chơi.”
“Tôi không nói là tôi không muốn gặp
rắc rối.” Gã trai ngồi xuống ghế. “Hơn
nữa, tôi còn chưa uống xong.”

Maia liếc ra sau nhìn bức tường ướt


nhẹp rượu. “Tôi thì tôi thấy anh đã uống
xong rồi đấy chứ.”

Trong một giây trước gã trai chỉ trông


ơ thờ; một giây sau một ánh tò mò thích
thú lóe lên trong đôi mắt vàng của hắn.
Trong khoảnh khắc đó trông hắn quá
giống Daniel làm Maia chi muốn lỉnh đi
mất.
Pete đẩy một ly rượu có màu hổ phách
ngang qua mặt quầy trước khi gã trai kịp
trả lời Maia. “Của cậu đây,” anh nói.
Anh đưa mắt nhìn vào Maia. Cô nghĩ
mình nhìn ra chút quở trách trong đấy.

“Anh Pete...” cô dợm lời. Cô không


kịp nói hết câu. Cửa quán bật tung. Bat
đang đứng ở lối vào. Maia mất một lúc
mới nhận ra mặt trước và tay áo áo sơ-
mi anh ướt đẫm máu.

Cô nhảy khỏi ghế và chạy tới bên anh.


“Bat! Anh bị thương à?”

Mặt anh xám xịt, vết sẹo trắng bệch


nổi trên má như một mảnh dây vẹo vọ.
“Có một vụ tấn công,” anh nói. “Có một
xác chết trong hẻm. Một đứa nhỏ. Máu -
khắp nơi.” Anh lắc đầu, nhìn xuống toàn
thân. “Không phải máu anh. Anh ổn.”

“Một xác chết ư? Nhưng ai...”

Câu trả lời của Bat chìm trong tiếng


bàn tán xôn xao. Ghế ngồi trong quán bị
bỏ đi khi cả đàn lao về phía cửa. Pete đi
khỏi quầy và len lỏi qua đám đông. Chỉ
có tay Thợ Săn Bóng Tối là còn nguyên
tại chỗ, đầu cúi gục xuống cốc rượu.

Liếc qua khoảng trống giữa những


người đang đứng chen chúc trước cửa,
Maia thoáng thấy vỉa hè xám xịt của con
hẻm, loang lổ những máu. Máu vẫn ướt
và chảy thành dòng qua những đường
gạch như rễ của loài cây dây leo màu đỏ.
“Nó bị cắt cổ à” Pete đang nói với Bat,
người trên mặt đã có lại chút huyết sắc.
“Làm sao...”

“Có ai đó trong hẻm. Có ai quỳ bên


thằng bé,” Bat nói. Giọng anh nghẹn lại.
“Không giống người - giống một cái
bóng hơn. Chúng chạy mất khi thấy tôi.
Lúc đó thằng bé vẫn còn sống. Nhưng
cũng chỉ còn chút hơi tàn thôi. Tôi quỳ
xuống bên, nhưng...” Bat nhún vai. Đó là
một động tác bình thường, nhưng những
sợi gân trên cổ anh hằn lên như những
sợi rễ phụ quấn quanh thân cây. “Thằng
bé chết không kịp trăn trối.”

“Lũ ma cà rồng,” một nữ người sói


đẫy đà đang đứng cạnh cửa, lên tiếng -
hình như tên chị ta là Amabel thì phải.
“Những Đứa Con của Màn Đêm. Chẳng
thể là ai khác.”

Bat nhìn chị ta, sau đó quay lại, hùng


dũng đi băng qua căn phòng về phía quầy
bar. Anh nắm lấy lưng áo khoác tay Thợ
Săn Bóng Tôì - hay đang vươn tay ra
định làm vậy, nhưng gã trai đã đứng dậy,
uyển chuyển quay người lại. “Anh có vấn
đề gì hả, người sói?”

Bàn tay Bat vẫn đang duỗi tới. “Mày


điếc sao, Nephilim?” anh gầm ghè. “Có
một đứa bé chết trong hẻm. Một trong số
bọn tao.”

“Ý anh là một người sói hay một


giống khác trong Thế giới Ngầm ấy à?”
Hắn nhướn đôi lông mày màu sáng. “Với
tôi, các anh ai cũng như ai hết.”

Có tiếng gầm ghè nho nhỏ - Maia ngạc


nhiên khi nhận ra âm thanh đó tới từ
Freaky Pete. Anh đã quay trở vào quầy
và chung quanh là những thành viên khác
trong đàn, tất cả đều đang chăm chú nhìn
tay Thợ Săn Bóng Tối. “Cậu bé ấy chỉ là
một con sói con,” Pete nói. “Tên
Joseph.”
Cái tên không làm Maia nhớ đó là ai,
nhưng cô thấy quai hàm Pete cứng lại và
bụng dạ cô cũng hơi chộn rộn. Lúc này
cả đàn đang hăng máu và nếu tay Thợ
Săn Bóng Tối kia còn chút thông minh,
hắn nên cúp đuôi biến đi. Nhưng không.
Hắn chỉ đứng đó nhìn họ bằng đôi mắt
vàng và nụ cười vui trên mặt “Một nhóc
người sói sao?” hắn nói.

“Cậu ta là một thành viên trong đàn,”


Pete nói.”Mới mười lăm tuổi.”

“Và chính xác các người muốn tôi làm


gì nào?” tay kia nói.
Pete trố mắt nhìn không tin được.
“Cậu là một Nephilim,” anh nói. “Hội
Clave cần bảo vệ chúng tôi trong những
hoàn cảnh như thế này.”

Gã trai nhìn quanh quán, chậm rãi với


một vẻ xấc xược đến mức khiến mặt Pete
dần đỏ lên.

“Tôi không thấy các anh cần phải bảo


vệ gì ở đây cả,” hắn nói. “Trừ vài thứ
trang trí xấu xí và vấn đề về rêu mốc.
Nhưng các anh có thể dùng chất tẩy là
ổn.”

“Có một xác chết ngoài cửa quán bar


này,” Bat gằn từng tiếng một, “Mày
không nghĩ...”

“Tôi nghĩ giờ đã quá trễ để mà bảo vệ


cậu ta rồi,” hắn nói, “vì cậu ta đã chết.”

Pete vẫn trừng mắt nhìn. Tai anh đã


nhọn lên, và khi cất tiếng, giọng anh đã
nghẹt lại vì những chiếc răng như răng
chó thò ra khỏi lợi. “Cậu nên cẩn thận
đấy, Nephilim,” anh nói. “Cậu nên cực
kỳ cẩn thận.”

Gã trai nhìn Pete bằng đôi mắt u mê.


“Thật sao?”

“Vậy là mày định khoanh tay đứng


nhìn à?” Bat nói “Phải không?”

“Tôi định uống hết cốc rượu,” gã trai


đáp, đưa mắt nhìn vào chiếc cốc đã cạn
nửa đặt trên quầy bar, “nếu các anh để
tôi tự nhiên.”

“Vậy đây là thái độ của hội Clave, chỉ


một tuần sau khi Hiệp Định Hòa Bình
được ký kết sao?” Pete khinh bỉ nói.
“Cái chết của một Cư dân Thế giới
Ngầm không là gì với các người à?”

Gã trai mỉm cười, và Maia thấy nổi


gai ốc. Trông hắn y hệt như Daniel ngay
trước khi anh ta vươn tay ra và vặt cánh
con bọ rùa. “Cái kiểu như những Cư dân
Thế giới Ngầm,” hắn nói, “trông chờ hội
Clave dọn dẹp rác rưởi giùm cho các
người ấy mà. Làm như thể chúng tôi bận
tâm chỉ vì một con sói con ngu ngốc nào
đó quyết định tự đổ sơn lên khắp con
hẻm...”

Rồi hắn dùng đến một từ, từ chỉ người


sói mà chính những người sói cũng không
bao giờ dùng, một từ nghịch tai bẩn thỉu
chỉ mối quan hệ không đoan chính giữa
sói và phụ nữ loài người.

Trước khi có ai kịp di chuyển. Bat đã


lao vào tay Thợ Săn Bóng Tối - nhưng
hắn đã biến mất. Bat mất đà rồi quay
phắt lại, mắt đảo tìm kiếm. Cả đàn nín
thở.

Maia há hốc. Tay Thợ Săn Bóng Tối


đang đứng trên quầy bar, chân dạng rộng.
Hắn quả thực giống thiên thần báo thù
chuẩn bị đưa ra phán quyết cuối cùng từ
trên cao, đúng như công việc của những
Thợ Săn Bóng Tối. Sau đó hắn vươn tay
ra và cuộn những ngón tay về phía hắn,
thật nhanh, một cử chỉ quen thuộc với cô
trong sân chơi, có nghĩa Tới mà bắt tao
nào - cả đàn lao lên.

Bai và Amabel trèo lên mặt quầy; gã


trai đảo người, nhanh đến nỗi hình ảnh
hắn phản chiếu trên gương dường như chỉ
là lưu ảnh nhòe. Maia thấy hắn co chân
đá, thế là hai người kia nằm rên rỉ trên
sàn cùng một đống thủy tinh vỡ vụn. Cô
có thể nghe thấy tiếng của gã trai ngay cả
khi có ai đó leo lên kéo hắn xuống; hắn
ngay lập tức biến mất vào đám đông, một
cách tự nguyện là đằng khác, rồi sau đó
cô không thể trông thấy hắn nữa, chỉ còn
là tay chân vung vẩy túi bụi. Ẩy vậy mà,
cô nghĩ mình vẫn nghe thấy hắn cười, kể
cả khi có ánh kim loại lóe lên - một lưỡi
dao - rồi Maia thấy mình nín thở.

“Đủ rồi.”

Là tiếng chú Luke, bình thản, kiên


định như nhịp tim. Thật là lạ khi bạn luôn
nghe ra tiếng của sói đầu đàn. Maia quay
lại thấy chú đang đứng ngay cửa quán,
một tay chống lên tường. Trông chú
không chỉ có vẻ mệt mỏi, mà là kiệt sức,
như có gì đó cắn xé chú từ bên trong; tuy
vậy giọng chú vẫn vang lên vô cùng bình
tĩnh. “Đủ rồi. Để thằng nhóc yên.”

Cả đàn tản ra khỏi tay Thợ Săn Bóng


Tối, chỉ trừ Bat vẫn ương bướng đứng
đó, một tay vẫn nắm lấy lưng áo Thợ Săn
Bóng Tối, tay kia vẫn lăm le con dao
găm. Gã trai kia mặt mày có bê bết máu
nhưng trông chẳng giống gì người cần
được cứu giúp; hắn vẫn toe toét nụ cười
trông đáng sợ chẳng kém mớ kính vỡ rải
rác khắp sàn nhà. “Thằng này không chỉ
là một thằng nhóc,” Bat nói. “Hắn là Thợ
Săn Bóng Tối.”

“Chúng ta chào đón họ tới đây,” Luke


nói, giọng đều đều. “Họ là đồng minh
với chúng ta.”

“Hắn nói đồng minh hay không chẳng


là cái thá gì sất,” Bat giận dữ. “Chuyện
Joseph...”

“Biết rồi,” Luke lặng lẽ nói. Chú


chuyển sang nhìn gã trai tóc vàng. “Cậu
tới đây chỉ để gây sự thôi, phải không
Jace Wayland?”

Gã bai kia - Jace - mỉm cười, bành


cái môi bầm dập ra để cho một dòng máu
nhỏ rỉ xuống cằm. “Chú Luke.”

Bat giật mình khi nghe tên thủ lĩnh


vang lên từ miệng Thọ Săn Bóng Tối,
liền thả lưng áo Jace ra. “Tôi không
biết..”

“Chẳng có gì để biết cả,” chú Luke


nói, và sự mệt mỏi giờ đã ngấm vào
trong tận giọng nói của chú.

Freaky Pete nói, đùng đục như tiếng


trống. “Cậu ta nói hội Clave không quan
tâm tới cái chết của một người sói, kể cả
khi đó là một đứa nhỏ. Và đây mới là
một tuần sau Hiệp ước Hòa Bình được
thiết lập, Luke ạ.”

“Jace không phải phát ngôn viên của


hội Clave,” chú Luke nỏi, “và cậu ta
chằng thể làm được gì đâu dù có muốn
lắm đi nữa. Có đúng không?”

Chú đưa mắt nhìn Jace, lúc này trông


khá tái. “Làm sao chú...”

“Tôi biết chuyện gì đã xảy ra,” Luke


nói. “Về Maryse.”

Jace đanh người, trong thoáng chốc


Maia đã nhìn xuyên qua được cái lớp vỏ
bọc của sự vui thú ác độc giống Daniel
kia mà đến được những gì bên dưới,
chạm tới một cái gì đó tối tăm, thống khổ
và khiến cô nhớ tới đôi mắt mình trong
gương hơn đôi mắt người anh trai. “Ai
nói vói chú? Clary à?”

“Không phải Clary.” Maia chưa bao


giờ nghe Luke nhắc tới cái tên đó, nhưng
âm điệu giọng nói chú cho cô biết đó là
một người đặc biệt với chú và với chính
tay Thợ Săn Bóng Tối này nữa. “Tôi là
sói đầu đàn mà Jace. Tôi nghe thấy nhiều
chuyện. Giờ đi thôi. Chúng ta vào văn
phòng cùa Pete mà nói chuyện.”

Jace hơi lưỡng lự rồi nhún vai.


“Được thôi,” anh ta nói, “nhưng chú nợ
cháu ly Scotch cháu chưa uống kia nhé.”

‘‘Mình chỉ nghĩ ra được thêm mỗi nơi


này nữa thôi,” Clary thở dài thất vọng rồi
ngồi sụp xuống những bậc cấp bên ngoài
Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan và
chán nản nhìn đại lộ Năm.

“Mình thấy ý kiến của cậu đâu có


tồi.” Simon ngồi xuống cạnh cô, duỗi
thẳng đôi chân dài ngoằng. “Ý mình là,
anh ta thuộc tuýp người thích vũ khí và
chết chóc, vậy thì vì sao anh ta lại không
có mặt ở kho vũ khí lớn nhất thành phố
chứ? Với lại dù sao mình cũng luôn
muốn tới tham quan khu triển lãm Vũ Khí
và Giáp Sắt mà. Giúp mình có ý tưởng
cho chiến dịch.”

Clary ngạc nhiên nhìn bạn. “Cậu vẫn


chơi game với Eric, Kirk và Matt à?”

“Vẫn. Sao lại không chứ?”

“Mình cứ tưởng mấy trò game đấy đã


thôi không còn hấp dẫn với cậu nữa kể từ
khi...” Kể từ khi cuộc sống thực của
chúng ta bắt đầu giống với một trong
những chiến dịch ảo của cậu rồi chứ.
Với đủ loại người tốt, kẻ xấu, những trò
ma pháp ghê gớm, và mỏi mắt đi tìm
những vật linh thiêng quan trọng nếu
muốn là người thắng cuộc.
Chỉ có điều trong game, người tốt
luôn thắng, luôn đánh bại bọn xấu và hân
hoan trở về với cả đống báu vật trong
tay. Trong khi đấy ở thế giới thực, người
tốt chỉ có trắng tay, và lắm lúc Clary
chẳng biết thực sự ai tốt ai xấu nữa.

Cô nhìn Simon và thấy nỗi buồn dâng


trào trong tim. Nếu cậu thực sự từ bỏ
game, đó sẽ là lỗi do cô, cũng như tất cả
những chuyện xảy ra cho cậu trong mấy
tuần rồi đều là lỗi của cô hết. Cô vẫn
nhớ y nguyên gương mặt trắng bệch của
Simon trong nhà bếp, ngay trước khi cậu
hôn cô.

“Simon à...” cô cất tiếng.


“Ngay lúc này mình đang chơi nhân
vật tu sĩ lai quỷ lùn muốn trả thù lũ Orc
vì đã sát hại gia đình anh ta,” Simon vui
vẻ nói. “Hấp dẫn vô cùng.”

Clary vừa cười thì điện thoại đổ


chuông. Cô rút ra khỏi túi và bật mở; chú
Luke gọi. “Bọn cháu không tìm thấy anh
ấy,” cô nói, trước khi chú kịp chào.

“Không tìm được đâu. Nhưng chú tìm


ra rồi.”

Cô ngồi thẳng dậy. “Chú đừng đùa.


Anh ấy có đó không ạ? Cháu nói chuyện
với anh ấy được không?” Cô thoáng thấy
Simon đang liếc nhìn và liền hạ giọng.
“Anh ấy ổn chứ ạ?”

“Gần như thế.”

“Gần như thế là sao ạ?”

“Cậu ta gây sự với một đàn sói. Bị


bầm dập và trầy xước chút xíu.”

Clary nhắm hờ mắt. Ôi, vì sao, vì sao


Jace lại gây sự với một đàn người sói
chứ? Anh ấy bị cái gì nhập vậy? Mà thôi,
vì đấy là Jace mà. Anh ấy sẵn sàng chọi
nhau với xe tải Mack nếu anh ta lên cơn.
“Chú nghĩ cháu nên xuống đây,” Luke
nói. “Phải có người nói phải quấy với
cậu ta mà chú thì không có cửa rồi.”

“Chú ở đâu?” Clary hỏi.

Chú ấy nói địa chỉ. Một quán bar


mang tên Hunter’s Moon tại đường
Hester. Cô tự hỏi liệu nơi đó có bị ếm
bùa ảo ảnh không. Gập điện thoại lại, cô
quay sang Simon, lúc này nhướn mày
nhìn cô chăm chú.

“Đứa con hoang tàn đã trở về hở?”

“Đại loại thế.” Cô lồm cồm đứng dậy


rồi duỗi dài đôi chân đã đi tới rệu rã,
trong đầu óc tính toán xem từ đây tới khu
Chinatown bằng tàu mất bao nhiêu thời
gian và liệu dùng số tiền tiêu vặt chú
Luke cho để đi taxi có đáng không. Có lẽ
là không - nếu tắc đường, họ sẽ mất
nhiều thời gian hơn là đi tàu.

“... đi với cậu nhé?” Simon nói nốt và


đứng dậy. Cậu đứng dưới cô một bậc
cấp, vì thế họ gần như cao bằng nhau.
“Cậu nghĩ sao?”

Cô mở miệng, nhưng nhanh chóng


ngậm miệng lại. “Ờ...”

Simon có vẻ cam chịu. “Cậu không


nghe lấy một chữ mình nói trong suốt hai
phút rồi, đúng không?”

“Không thật,” cô thừa nhận. “Mình


đang nghĩ về Jace. Nghe có vẻ anh ấy
đang trong tình trạng không được tốt cho
lắm. Mình xin lỗi cậu.”

Đôi mắt nâu của cậu bạn tối sầm.


“Thế nghĩa là cậu đang muốn vội tới để
băng bó vết thương cho anh ta đúng
không?”

“Chú Luke bảo mình tới,” cô nói.


“Mình mong có cậu đi cùng.”
Simon đá mũi giày vào bậc thềm phía
trên. “Mình sẽ đi, nhưng… vì sao? Chú
Luke không thể đưa Jace trở về Học Viện
mà không có cậu giúp sao?”

“Có lẽ. Nhưng chú ấy nghĩ có thể Jace


sẵn lòng kể cho mình nghe chuyện đã xảy
ra trước đã.”

“Mình cứ tưởng tối nay bọn mình có


thể làm gì đó cơ đấy,” Simon nói. “Cái
gì đó hay ho. Đi xem phim. Xuống phố
ăn tối.”

Clary nhìn cậu bạn mình. Từ đằng xa,


cô nghe có tiếng nước róc rách chảy vào
đài phun nước của bảo tàng. Cô nghĩ tới
gian bếp trong nhà Simon, nhớ bàn tay
âm ấm của Simon đan vào tóc cô, nhưng
dường như ký ức đó đã quá xa xôi, dù cô
vẫn có thế mường tượng ra trước mắt -
theo cái cách bạn có thể nhớ về hình ảnh
một biến cố nhưng chẳng thể nhớ chính
xác biến cố đó là gì.

“Anh ấy là anh mình,” cô nói. “Mình


phải đi.”

Simon nhìn như thể cậu ấy kiệt sức tới


thở dài cũng chẳng nổi. “Vậy mình sẽ đi
với cậu.”

***
Văn phòng đằng sau quán Hunter’s
Moon nằm cuối một hành lang hẹp rải
rác mùn cưa. Đây đó mùn cưa có in dấu
chân người và rải rác những bãi chất
lỏng đen đặc trông không giống bia cho
lắm. Toàn bộ nơi này bốc mùi khói và ôi
thiu, hơi hơi giống như mùi - Clary phải
thừa nhận, nhưng không dám nói với chú
Luke - mùi chó ướt.

“Giờ tâm trạng Jace không được tốt


cho lắm,” Luke nói khi dừng lại trước
cánh cửa đóng kín. “Chú đã nhốt cậu ta
trong phòng Freaky Pete sau khi nó sém
chút đã giết hết gần nửa số sói trong đàn
của chú bằng tay không. Nó không thèm
nói chuyện với chú, vì thế” - Luke nhún
vai - “chú nghĩ tới cháu.” Chú hết nhìn
gương mặt bối rối của Clary rồi lại nhìn
Simon. “Sao thế?”

“Cháu không thể tin rằng anh ấy lại tới


đây,” Clary nói.

“Cháu không thể tin nổi là chú lại


quen một người tên Freaky Pete,” Simon
nói.

“Chú biết nhiều người,” Luke nói.


“Kể ra thì Freaky Pete cũng không hoàn
toàn là người, nhưng mà chú cũng vậy
thôi.” Chú mở rộng cánh cửa. Bên trong
là một căn phòng bố trí nội thất đơn giản,
không có cửa sổ, trên tường treo những
lá cờ thể thao. Một chiếc bàn giấy ngổn
ngang giấy tờ oằn mình dưới sức nặng
của cái TV nho nhỏ, và đằng sau nó, trên
chiếc ghế da đã rạn trông như vân đá hoa
cương, là Jace.

Lúc cửa bật mở, Jace nhặt chiếc bút


chì màu vàng trên bàn và phi đi. Cây bút
bay vèo và cắm phập vào bức tường
ngay bên cạnh đầu chú Luke mà rung lên
bần bật. Mắt chú Luke mở lớn.

Jace cười nhạt. “Xin lỗi, cháu không


nhận ra đó là chú.”

Clary cảm thấy tim mình như thắt lại.


Nhiều ngày nay cô không được gặp Jace,
và trông anh hình như có gì khang khác -
không tính tới gương mặt bầm dập và bê
bết máu đâu nhé, rõ ràng là còn mới
toanh, nhưng hình như da mặt anh có vẻ
căng hơn, đường xương nổi rõ hơn.

Luke vẫy tay chỉ vào Simon và Clary.


“Tôi đưa vài người tới gặp cậu.”

Giờ Jace đã nhìn hai người. Ánh mắt


anh chẳng có một chút cảm xúc nào, như
thể có người vẽ đôi mắt đó lên gương
mặt anh vậy. “Đáng tiếc là,” anh nói,
“cháu chỉ có mỗi một cây bút chì.”

“Jace à...” chú Luke cất tiếng.


“Không muốn cậu kia ở đây.” Jace hất
hàm về phía Simon.

“Vậy đâu có được.” Clary phẫn nộ.


Chẳng lẽ anh ấy đã quên chuyện Simon
đã cứu mạng Alec, và có lẽ là mạng tất
cả bọn họ sao?

“Ra ngoài, đồ người thường,” Jace


nói và chỉ về cửa.

Simon phẩy tay. “Tốt thôi. Mình đợi


ngoài hành lang nhé.” Cậu bỏ đi, cố kiềm
chế để không đóng sầm cửa lại, dù Clary
biết thừa cậu muốn muốn làm thế lắm.
Cô quay lại với Jace. “Anh có nhất
thiết phải quá...” cô mở lời, nhưng ngừng
lại khi thấy nét mặt anh. Gương mặt anh
thật buồn, thật oan ức.

“Khó chịu hả?” anh nói hộ cô. “Chỉ


vào những ngày mẹ nuôi anh ném anh ra
khỏi nhà và bảo anh đừng bao giờ làm ô
uế cửa nhà bà lần nữa thôi. Còn bình
thường, anh mát tính lắm mà. Em thử
kiểm tra lại thái độ của anh vào những
ngày không kết thúc bằng chữ y xem
nhé.”

Chú Luke nhíu mày. “Maryse và


Robert Lightwood không phải là những
người tôi ưa thích gì, nhưng vẫn không
thể tin được là Maryse lại làm vậy.”

Jace có vẻ ngạc nhiên. “Chú biết họ


sao? Nhà Lightwood ấy?”

“Họ từng trong Hội Kín với tôi,”


Luke nói. “Khá là ngạc nhiên khi nghe
nói họ điều hành trụ sở Học Viện ở đây.
Có vẻ sau vụ Nổi Loạn, họ đã thỏa thuận
thế nào đấy với hội Clave, để đổi lại
chút đối đãi khoan nhượng cho họ, trong
khi Hodge thì - ừm, chúng ta đều biết
chuyện gì xảy ra với ông ấy rồi đấy.”
Chú trầm ngâm một lát. “Vậy, Maryse có
nói trắng nguyên nhân cô ta đuổi cháu
không?”
“Mẹ nuôi không tin việc cháu nghĩ
mình là con trai Michael Wayland thật.
Bà cho rằng cháu là quân đồng lõa với
Valentine ngay từ đầu - nói rằng cháu đã
giúp ông ấy lấy Cốc Thánh và bỏ trốn.”

“Nếu thật vậy thì vì sao anh lại còn ở


đây?” Clary hỏi. “Sao lẽ ra anh đã không
bỏ đi cùng ông ấy chứ?”

“Bà không nói, nhưng anh đoán bà


nghĩ anh ở lại nằm vùng. Một con rắn
độc nằm trong ngực áo của họ. Không
phải là Maryse đã dùng từ ‘ngực’ gì đâu,
nhưng chắc chắn bà có ý đó.”

“Một gián điệp cho Valentine ư?” chú


Luke nói với vẻ chán nản.

“Bà nghĩ Valentine cho rằng vì tình


cảm mà gia đình Lightwood đã dành cho
cháu, nên họ sẽ tin mọi lời cháu nói. Thế
nên bà Maryse quyết định giải pháp tốt
nhất cho việc này là họ không được có
tình cảm tình củm gì với cháu nữa.”

“Tình cảm yêu thương đâu có theo


cách đó được.” Luke lắc đầu. “Ta đâu
thể nào muốn ngừng là ngừng, như tắt
nước đâu. Đặc biệt nếu cháu làm cha làm
mẹ.”

“Họ không thực sự là bố mẹ cháu.”


“Công sinh thành sao bằng công nuôi
dưỡng. Việc họ đã làm cha mẹ cháu
trong suốt bảy năm trời mới là điều quan
trọng. Chắc Maryse chỉ bị tổn thương mà
thôi!”

“Tổn thương ư?” Jace có vẻ ngờ vực


“Bà ấy bị tổn thương sao?”

“Cô ta yêu Valentine, nhớ không” chú


Luke nói. “Tất cả chúng ta đều vậy. Hắn
đã làm cô ta tổn thương sâu sắc. Cô ta
không muốn con trai hắn làm điều tương
tự với mình nữa. Cô ta lo rằng cậu sẽ nói
dối gia đình họ. Rằng người mà cô ta
tưởng mình hiểu suốt bao nhiêu năm qua
chẳng qua chỉ là vỏ bọc, một trò lừa đảo.
Cậu phải an ủi làm cho cô ta có lại niềm
tin nơi cậu.”

Vẻ mặt của Jace là một nét pha trộn


hoàn chỉnh giữa ương ngạnh và kinh
ngạc. “Bà Maryse là người lớn! Sao lại
cần cháu an ủi chứ.”

“Ôi, thôi nào, Jace,” Clary nói. “Anh


không thể trông chờ ai ai cũng cư xử
hoàn hảo được. Người lớn cũng mắc lỗi
mà. Quay lại Học Viện mà nói lý với bà
ấy đi. Hãy là một người đàn ông xem
nào.”

“Anh không muốn làm đàn ông,” Jace


đáp. “Anh chỉ muốn làm một cậu thiếu
niên đang quằn quại trong đau khổ, người
không thể đương đầu nổi với con quỷ nội
tâm của mình nên phải lu loa lên với
người khác.”

“Hừ,” chú Luke nói, “thế thì cậu đang


lu loa rất chuẩn đấy.”

“Jace,” Clary vội nói, trước khi hai


chú cháu họ lại xảy ra xung đột gay gắt,
“anh phải trở về Học Viện. Hãy nghĩ cho
Alec vói Izzy, hãy nghĩ xem chuyện anh
bỏ nhà ra đi gây ảnh hưởng thế nào tới
họ.”

“Bà Maryse sẽ dựng lên lý do gì đấy


làm họ nguôi ngoai thôi mà. Có thể bà ấy
sẽ bảo là anh trốn nhà đi bụi cũng nên.”

“Không được đâu,” Clary bảo. “Lúc


Isabelle nói chuyện trên điện thoại nghe
có vẻ hoảng hốt lắm.”

“Lúc nào con bé ấy nghe chẳng hoảng


hốt,” Jace nói, nhưng trông anh có vẻ hài
lòng. Anh tựa người ra sau ghế. Những
vết bầm dọc quai hàm và má giống anh
nổi bật lên như những Ấn Ký đen, không
hình không dạng trên da. “Anh sẽ không
về nơi mà ở đó anh không được tin
tưởng. Anh không phải thằng nhóc mười
tuổi nữa. Anh có thể tự lo cho mình.”

Chú Luke trông có vẻ như không tin


tưởng lắm. “Cậu sẽ đi đâu? Cậu sẽ sống
thế nào?”

Ánh mắt Jace sáng lên. “Cháu mười


bảy tuổi rồi. Về cơ bản đã là người lớn.
Bất cứ Thợ Săn Bóng Tối trưởng thành
nào đều được quyền...”

“Bất cứ người lớn nào. Nhưng không


phải cậu. Cậu không thể lấy lương từ hội
Clave vì cậu còn quá trẻ, và trên thực tế
theo Luật thì nhà Lightwood phải chăm
sóc cho cậu. Nếu không, người khác sẽ
được chỉ định để...”

“Nếu không thì sao?” Jace bật dựng


lên khỏi ghế. “Cháu sẽ vào trại trẻ mồ
côi ở Idris à? Bị quẳng vào một gia đình
mà cháu chưa từng biết mặt ư? Cháu có
thể kiếm việc tại thế giới người thường
trong một năm, sống như một người trong
số họ...”

“Không, anh không thế,” Clary nói.


“Em biết rõ lắm, Jace à, vì em từng là
một trong số họ. Anh còn quá trẻ nên sẽ
không thể được việc anh muốn, và hơn
nữa, những kỹ năng anh có - ừm, hầu hết
những kẻ giết người chuyên nghiệp đều
lão làng hơn anh. Mà họ là tội phạm
đấy.”

“Anh không phải kẻ giết người.”


“Nếu cậu sống ở thế giới con người,”
chú Luke nói, “thì cậu chỉ có thể làm
quân giết người mà thôi.”

Jace cứng đờ người, miệng mím chặt,


và Clary biết lời nói của chú Luke đã
đánh trúng điểm yếu của anh. “Chú
không hiểu rồi,” anh bảo, vẻ tuyệt vọng
đột ngột dâng trào trong giọng nói. “Cháu
không thể trở lại. Bà Maryse muốn cháu
nói cháu ghét Valentine. Và cháu không
thể làm điều đó.”

Jace hếch cằm lên, quai hàm nghiến


lại, mắt nhìn thẳng chú Luke như thể nửa
hy vọng người đàn ông lớn tuổi hơn kia
sẽ trả lời anh kèm theo những lời chế
nhạo hoặc thậm chí là tệ hơn thế. Xét cho
cùng thì chú Luke có lý do để ghét
Valentine hơn bất cứ ai trên thế giới này.

“Tôi biết chứ,” Luke nói. “Tôi cũng


đã từng rất yêu quý hắn mà.”

Jace thở hắt ra, nghe như thanh âm nhẹ


nhõm, và Clary đột nhiên nghĩ, Đó chính
là lý do vì sao anh ấy tới đây, tới chính
nơi này. Không phải chỉ để gây gổ, mà
là để tìm chú Luke. Bởi vì chú Luke sẽ
hiểu anh. Không phải mọi thứ Jace làm
đều điên rồ hay đâm đầu vào chỗ chết
đâu, cô tự nhủ. Chỉ thoạt trông có vẻ là
vậy thôi.
“Cậu không việc gì phải tuyên bố rằng
mình ghét bố đẻ của mình,” chú Luke
nói. “Thậm chí là để trấn an Maryse. Cô
ta phải hiểu điều đó.”

Clary chăm chú nhìn Jace, cố đọc cho


ra vẻ mặt của anh. Gương mặt ấy giống
một cuốn sách viết bằng thứ tiếng nước
ngoài mà cô mới học được chóng vánh.
“Bà ấy có thực sự nói là không bao giờ
muốn anh quay về không?” Clary hỏi.
“Hay anh chỉ đoán bà ấy có ý đó và vì
thế anh đã bỏ đi?”

“Bà ấy đã nói với anh rằng tốt hơn hết


anh nên đến ở tạm một nơi nào đó trong
một thời gian,” Jace nói. “Bà ấy không
nói nơi nào.”

“Cậu có cho cô ta cơ hội nói không?”


chú Luke hỏi. “Nghe này, Jace. Tôi luôn
chào đón cậu tới sống với tôi đến bao
lâu cũng được. Tôi muốn cậu hiểu điều
đó.”

Dạ dày Clary nhộn nhạo. Ý nghĩ Jace


sống cùng nhà với cô, luôn ở gần, khiến
cô vừa hân hoan vừa kinh sợ.

“Cảm ơn chú,” Jace nói. Giọng anh


đều đều, nhưng ánh mắt ngay lập tức nhìn
Clary một cách vô vọng, và cô có thể
thấy trong đó những cung bậc cảm xúc
đan xen lẫn lộn mà chính cô vừa cảm
nhận được. Chú Luke ơi, cô nghĩ. Đôi
lúc cháu ước chú đừng quá hào phóng
thế kia. Hay chẳng tinh mắt tí nào.

“Nhưng,” chú Luke nói tiếp, “tôi nghĩ


ít nhất cậu nên trở về Học Viện nói
chuyện với Maryse để xem mọi chuyện
thực hư thế nào. Nghe có vẻ như chuyện
này còn nhiều căn nguyên hơn là những
điều cô ta nói với cậu. Mà rất có thể, là
còn nhiều hơn những điều cậu sẵn lòng
muốn nghe nữa đấy.”

Jace dứt mắt khỏi Clary. “Được thôi.”


Giọng anh thô lỗ. “Nhưng với một điều
kiện. Cháu sẽ không đi một mình.”
“Em sẽ đi cùng anh,” Clary vội nói.

“Anh biết.” Jace hạ giọng. “Và anh


muốn em đi. Nhưng cũng muốn chú Luke
đi cùng.”

Chú Luke có vẻ giật mình. “Jace - chú


đã sống ở đây mười lăm năm và chú
chưa từng tới Học viện. Chưa từng một
lần. Chú không nghĩ Maryse thích thú gì
chú...”

“Làm ơn đi chú,” Jace nói, và dù


giọng anh đều đều và anh nói khá nhỏ,
nhưng Clary gần như có thể cảm nhận
được, như thể cảm nhận một thứ hữu
hình, lòng tự tôn mà anh đã phải gạt bỏ
đi để nói ra bốn chữ đó.

“Được thôi.” Chú Luke gật đầu, theo


kiểu một một con sói đầu đàn đã quen
phải làm làm những chuyện cần làm, dù
muốn hay không. “Vậy chú sẽ đi cùng
cháu.”

Simon dựa người lên bức tường hành


lang bên ngoài phòng Pete và cố để
không thấy thương hại cho bản thân.

Ngày hôm nay khởi đầu khá tốt. Có


khi còn quá tốt ấy chứ. Đầu tiên là một
tập phim chẳng hay ho gì về Dracula
khiến cậu thấy chóng mặt buồn nôn, gợi
dậy lên bao cảm xúc, bao khát khao mà
cậu bấy lâu nay đã cố đè nén, cố quên đi.
Rồi không hiểu sao cảm giác mệt mỏi đó
đã làm cậu bạo gan lên và cậu thấy mình
đã hôn Clary theo cách bao nhiêu năm
nay cậu hằng mong ước. Mọi người luôn
nói rằng mọi thứ không bao giờ xảy ra
theo hướng họ tưởng tượng. Họ sai hết.

Và Clary đã đáp lại cậu...

Nhưng giờ cô lại ở trong kia cùng


Jace, còn Simon thì thấy dạ dày xoắn lại,
như thể nuốt cả tô giun vào bụng. Đó là
cảm giác nhờn nhợn cậu thường xuyên
cảm thấy gần đây. Trước giờ có khi nào
như vậy đâu, kể cả sau khi cậu nhận ra
mình cảm thấy thế nào về Clary. Cậu
chưa bao giờ thúc ép cô, chưa bao giờ lộ
cảm xúc. Cậu luôn tin chắc rằng một
ngày nào đó cô sẽ thức dậy khỏi giấc mơ
của công chúa và anh hùng có võ công
của cô mà nhận thức được điều đang
rành rành trước mặt: rằng họ thuộc về
nhau. Và nếu cô có vẻ không thích
Simon, thì ít nhất cô hình như cũng không
thích một ai khác.

Cho tới khi Jace xuất hiện. Cậu nhớ


cái lần ngồi trên bậc tam cấp hàng hiên
nhà chú Luke, nhìn Clary khi cô giải
thích với cậu Jace là ai, anh ta làm gì
trong khi Jace chăm chú ngắm nghía bộ
móng tay và mặt vênh vênh vẻ trịch
thượng. Simon hầu như chẳng nghe cô
nói gì. Cậu đang bận quan sát cách cô
nhìn anh chàng tóc vàng trên người đầy
những hình xăm kỳ lạ và khuôn mặt góc
cạnh đẹp đẽ. Quá đẹp đẽ, Simon đã nghĩ,
nhưng rõ ràng Clary không nghĩ vậy: Cô
nhìn anh ta như thể anh ta là một trong số
các chàng anh hùng trong phim hoạt hình
đã bước ra ngoài đời thực. Cậu chưa
từng thấy cô nhìn ai theo kiểu đó, và luôn
nghĩ nếu có, thì cái ánh nhìn đó phải là
dành cho cậu. Nhưng không, và điều đó
làm cậu đau đớn hơn hết thảy.

Phát hiện ra Jace là anh trai Clary


giống như việc bạn vừa bị đưa ra trước
một đội xử bắn rồi lại được miễn hoãn
thi hành vào phút cuối. Đột nhiên thế
giới dường như lại bừng lên đầy hứa
hẹn.

Nhưng giờ thì cậu không chắc.

“Này đằng đó ơi.” Có ai đó đang đi


dọc hành lang, một người không cao lắm
đang cẩn thận tìm đường đi qua những
vũng máu khô. “Cậu đang đợi gặp chú
Luke hả? Chú ấy có trong đó không?”

“Không hẳn.” Simon tránh khỏi cánh


cửa. “Ý tôi là, kiểu kiểu như thế. Chú ấy
ở trong đấy với bạn của tôi.”

Cái người đang tiến tới chỗ cậu, dừng


lại nhìn Simon chăm chú. Simon có thể
thấy đấy là một cô gái khoảng mười sáu
tuổi, với nước da nâu sáng mịn màng.
Mái tóc màu nâu vàng được bện sát da
đầu thành rất nhiều những bím tóc nhỏ
xíu, và gương mặt cô ta gần giống hình
trái tim. Cô ta có thân hình thon gọn, sở
hữu đường hoàn hảo, hông rộng nở ra từ
vòng eo nhỏ. “Vói cái người ở ngoài
quán sao? Tay Thợ Săn Bóng Tối ấy
hả?”

Simon nhún vai.

“Ừm, mình ghét phải nói với đằng đó


điều này,” cô ta nói “ nhưng bạn đằng đó
là một thằng khốn.”
“Anh ta không phải bạn tớ,” Simon
nói. “Mà thực ra, tớ hoàn toàn nhất trí
với cậu.”

“Nhưng tớ nghĩ đằng đó vừa bảo...”

“Tớ đang đợi em gái anh ta,” Simon


nói. “Cô ấy là bạn thân của tớ.”

“Và giờ cô ấy ở trong đó với hắn à?”


Cô gái xỉa ngón cái về phía cửa. Cô đeo
nhẫn hết cả mười ngón tay, nhũng chiếc
nhẫn làm từ đồng hoặc vàng trông thô
thô. Quần bò đã bạc màu nhưng còn sạch
sẽ và khi cô ta quay đầu, cậu thấy vết sẹo
chạy dọc cổ, ngay trên cổ áo phông. “À,”
cô ta nói một cách miễn cưỡng, “tớ hiểu
quá rõ về những thằng anh khốn nạn. Tớ
đoán không phải là lỗi của cô ấy.”

“Không,” Simon nói. “Nhưng cô ấy


có thể là người duy nhất mà hắn nghe
lời.”

“Theo tớ thấy hắn đâu phải loại biết


lắng nghe nhỉ,” cô gái nói, và hai người
liếc nhau. Sự vui vẻ bừng sáng trên
khuôn mặt cô gái lạ mặt kia. “Cậu đang
nhìn vết sẹo của tớ. Đó là chỗ tớ bị cắn
đấy.”

“Bị cắn ư? Ý cậu là cậu là...”


“Một người sói,” cô gái đáp. “Giống
như mọi người khác ở đây. Ngoại trừ
cậu, cả tên khốn kia nữa. Và cô em gái
của tên khốn kia.”

“Nhưng cậu không phải lúc nào cũng


là người sói. Mình muốn nói, cậu không
phải người sói bẩm sinh.”

“Hầu hết bọn tớ đều không phải,” cô


gái nói. “Chính vì thế bọn tớ mới khác
với những anh bạn Thợ Săn Bóng Tối kia
của cậu.”

“Hả?”
Cô ta cười gọn lỏn. “Chúng tớ từng là
người.”

Simon không nói gì. Sau một lúc cô


gái chìa tay ra. “Tớ là Maia.”

“Simon.” Cậu bắt tay. Bàn tay Maia


khô nhưng mềm mại. Cô nàng ngước lên
nhìn qua hàng lông mi nâu vàng, giống
màu bánh mì nướng phết bơ. “Sao cậu
biết Jace là thằng khốn?” cậu hỏi. “Hay
có lẽ tớ nên hỏi, sao cậu phát hiện ra?”

Cô ta rụt tay lại. “Hắn quậy tan tành


quán ra. Đả bay anh bạn Bat của tớ.
Thậm chí còn đánh bất tỉnh hai người
trong đàn.”
“Và giờ họ ổn cả rồi chứ?” Simon
hoảng hốt. Jace trông chừng như không
có vẻ gì là đang bấn loạn cả, nhưng sau
một thời gian quen biểt, Simon hiểu anh
ta có thể giết chết vài người chỉ trong
vòng một buổi sáng và sau đó sẵn sàng
đi ra ngoài ăn bánh quế như thường. “Họ
đi khám bác sĩ chưa thế?”

“Có pháp sư rồi,” cô gái nói. “Loài


bọn tớ ấy à, không hợp với bác sĩ loài
người lắm.”

“Cư dân Thế giới Ngầm á?”


Cô ta nhướn mày. “Hình như có người
đã dạy cậu tất cả những biệt ngữ rồi
nhỉ?”

Simon tự dưng thấy giận. “Sao cậu


biết tớ không phải một ngưòi như họ
chứ? Hay người như cậu thì sao? Hay
biết đâu tớ lại là một Thợ Săn Bóng Tối,
hoặc một loài khác trong Thế giới Ngầm,
hay…”

Cô ta lắc đầu khiến những bím tóc lắc


lư theo. “Nó cứ ngời ngời tỏa khắp
người cậu kìa,” cô ta nói với chút cay
đắng, “cái tính người của cậu ấy.”

Vẻ căng thẳng trong giọng nói cô gái


khiến Simon suýt rùng mình. “Tớ có thể
giúp cậu gõ cửa,” cậu đề nghị, đột nhiên
cảm thấy lúng túng. “Nếu cậu muốn nói
chuyện với chú Luke.”

Cô ta nhún vai. “Cứ nói với chú ấy là


Magnus ở đây, kiểm tra hiện trường vụ
án trong hẻm.” Chắc hẳn vì cậu giật
mình, nên Maia đã nói thêm. “Magnus
Bane. Ông ấy là pháp sư.”

Tớ biết, Simon muốn nói, nhưng im


lặng. Toàn bộ cuộc nói chuyện đã kỳ quái
lắm rồi. “Được thôi.”

Maia quay người như muốn đi, nhưng


dừng lại giữa hành lang, đặt tay lên nắm
đấm cửa. “Cậu nghĩ bạn cậu có thể nói lý
lẽ với hắn ta sao?” cô ta hỏi. “Cô em gái
hắn ấy?”

“Nếu hắn lắng nghe một ai đó, thì đó


sẽ là cô ấy.”

“Dễ thương chưa,” Maia nói. “Kiểu


như hắn mà lại yêu em gái mình đến thế.”

“Ừ,” Simon nói. “Quý hóa lắm đấy.”

3. Điều Tra Viên


Lần đầu tiên Clary thấy Học Viện,
nó giống một nhả thờ bị hư hại trầm
trọng, mái sập xệ, sợi dây giới hạn hiện
trường của cảnh sát màu vàng ố được
dán ngoài cánh cửa đóng kín. Giờ cô
không phải tập trung đế đánh tan ảo ảnh
nữa. Thậm chí từ bên kia đường cô cũng
có thể thấy rõ, đó là một nhà thờ mang
phong cách Gothic cao cao với những
tháp canh đâm toạc bầu trời xanh đen
như những lưỡi đao vậy.

Chú Luke im lặng. Chỉ cần nhìn qua


nét mặt cũng đủ biết chú đang đấu tranh
tư tưởng ghê gớm. Khi bước lên những
bậc thềm, Jace với tay vào trong áo như
một thói quen, nhưng khi anh rút tay ra,
bàn tay anh chẳng có gì. Anh cười nghe
chẳng lấy gì làm vui vẻ. “Quên. Bà
Maryse đã lấy chìa khóa của cháu trước
khi cháu bỏ đi rồi.”

“Tất nhiên.” Chú Luke đang đứng


ngay trước cửa Học Viện. Chú nhẹ nhàng
chạm lên những biểu tượng khắc trên gỗ,
ngay bên dưới khuôn cửa. “Những cánh
cửa này giống y hệt những cánh cửa trong
Phòng Hội Đồng ở Idris. Chú không bao
giờ nghĩ mình lại được nhìn thấy chúng
lần nữa.”

©DTV: http://www.dtv-ebook.com
Clary cảm thấy khá tội lỗi khi phải cắt
đứt mạch cảm xúc của chú Luke, nhưng
rõ ràng họ đang có những vấn đề quan
trọng trước mắt. “Nếu như chúng ta
không có chìa khóa…”

“Không cần thiết. Cánh cửa Học Viện


sẽ mở ra cho bất cứ một Nephilim nào
không có ý làm hại tới những người cư
ngụ trong đấy.”

“Nhưng nếu những người trong đấy


muốn làm hại tới chúng ta thì sao?” Jace
lẩm bẩm.

Chú Luke hơi nhếch mép. “Chú không


nghĩ có gì khác biệt.”
“Có chứ, hội Clave luôn bày binh bố
trận chiếm ưu thế cho họ mà.” Giọng
Jace có vẻ ngọng nghịu - môi dưới của
anh sưng vều, mi mắt trái tím bầm.

Sao anh âý không tự chữa trị cho


mình nhỉ? Clary tự hỏi. “Bà ấy tước mất
luôn thanh stele của anh rồi à?”

“Anh bỏ đi không cầm gì theo,” Jace


nói. “Anh không muốn mang theo bất cứ
thứ gì nhà Lightwood cho.”

Chú Luke nhìn Jace lo ngại. “Bất cứ


một Thợ Săn Bóng Tối nào cũng cần có
một thanh stele bên mình.”

“Vậy cháu sẽ kiếm cái khác,” Jace nói


và đặt tay lên cửa Học Viện. “Nhân danh
hội Clave,” anh lên tiếng, “tôi yêu cầu
được bước vào thánh địa này. Và nhân
danh Thiên thần Raziel, tôi cầu mong
được chúc phúc trong những nhiệm vụ
chống lại…”

Cánh cửa bật mở. Clary có thể nhìn


thấy bên trong nhà thờ, ánh nến trên
những giá cắm nến bằng sắt cao cao soi
tỏa đôi chỗ trong bóng tối thâm u.

“Ha, tiện thật,” Jace nói. “Cháu nghĩ


xin được ban phước dễ hơn mình tưởng.
Có lẽ cháu nên yêu cầu phù hộ lần cháu
chống lại tất cả những kẻ mặc đồ trắng
sau Ngày Quốc tế Lao động.”

“Thiên Thần biết cháu có nhiệm vụ


gì,” chú Luke nói. “Cháu không cần phải
nói lớn lên đâu, Jonathan.”

Trong thoáng chốc Clary nghĩ mình đã


thấy được biểu hiện nào đó thoảng qua
mặt Jace - bối rối, ngạc nhiên - hay thậm
chí là an tâm nhỉ? Nhưng anh chỉ nói.
“Đừng gọi cháu bằng cái tên đó. Đó
không phải tên cháu.”

Họ đi qua tầng trệt nhà thờ, đi qua


những hàng ghế dài và ngọn đèn cháy
vĩnh cửu trên bệ thờ. Chú Luke tò mò
nhìn quanh, và thậm chí còn ngạc nhiên
khi nhìn thấy chiếc thang máy, giống như
một cái lồng chim mạ vàng, xuất hiện để
đưa họ lên cao. “Đây hẳn là ý tưởng của
Maryse,” chú nói khi bước vào trong.
“Đúng phong cách cô ta yêu thích.”

“Nó bằng tuổi cháu đấy,” Jace nói,


khi cánh cửa đóng sập đằng sau họ. Chỉ
một lúc là họ lên tới nơi, nhưng trong
suốt chặng đường ngắn ngủi đó không ai
nói với ai một lời. Clary lo lắng nghịch
mép khăn quàng cố. Cô thấy hơi tội lỗi
vì đã bảo Simon về nhà đợi cô gọi điện
sau. Cô đã thấy sự tức giận đè trĩu trên
vai cậu khi cậu đi xuống đường Canal
mà cảm thấy như bị hắt hủi. Nhưng cô
vẫn không thể tưởng tượng cảnh cậu -
một người thường - ở đây trong khi chú
Luke thay Jace cầu xin Maryse
Lightwood; như vậy tình huống sẽ sống
sượng thêm thôi.

Thang máy dừng khựng lại và chú


mèo Church đã đợi họ ngay ngoài, trên
cổ đeo chiếc nơ đỏ cũ kỹ. Jace cúi người
xoa đầu con mèo. “Mẹ Maryse đâu rồi
cưng?”

Church thốt lên trong họng, nửa như


rừ rừ nửa như gầm gừ, và dẫn họ xuống
hành lang. Họ đi theo, Jace im lặng, chú
Luke liếc nhìn với sự tò mò không thèm
giấu giếm. “Chủ chưa bao giờ nghĩ mình
sẽ được thấy bên trong nơi này.”

Clary hỏi, “Nó có giống như chú nghĩ


không?”

“Chú từng tới thăm các Học Viện ở


Luân Đôn và Paris; nơi này không phải
là không giống đâu. Nhưng có gì đó...”

“Có cái gì đó sao cơ ạ?” Jace đi


trước vài bước.

“Lạnh lẽo hơn,” chú Luke kết luận.

Jace không nói gì. Họ đã tới thư viện.


Church ngồi xuống như ám chỉ rằng cu
cậu không định đi thêm nữa. Có những
giọng nói vang lên đằng sau cánh cửa gỗ
dày, nhung Jace đẩy cửa bước vào mà
không thèm gõ báo trước.

Clary nghe thấy có tiếng reo ngạc


nhiên. Trong chốc lát tim cô thắt lại khi
nghĩ tới bác Hodge, người cả đời chỉ
sống trong căn phòng này. Bác Hodge,
với giọng nói khều khào, cùng con quạ
Hugin, gần như là người đồng hành trên
mọi nẻo đường - và là con vật, đã theo
lệnh bác Hodge, sém chút đã mổ thủng
mắt cô ra.

Nhưng tất nhiên người có mặt trong


phòng này không phải là bác Hodge.
Đằng sau cái bàn gỗ dày to đùng đặt trên
lưng hai thiên thần đá trong tư thế quỳ
gối là một người phụ nữ trung niên với
mái tóc đen huyền của Isabelle và thân
hình dong dỏng của Alec. Bà ta mặc một
bộ vest đen gọn gàng, đơn giản, đối lập
với những chiếc nhẫn màu sắc sặc sỡ
sáng lóa trên mấy ngón tay.

Bên cạnh bà là một người nữa: một


thanh niên dong dỏng, người mảnh dẻ,
với mái tóc đen loăn xoăn và làn da bánh
mật. Khi anh ta quay lại nhìn họ, Clary
không thể ngăn nổi thốt lên ngạc nhiên.
“Raphael?”
Trong tích tắc gã trai kia cũng giật
mình. Đoạn hắn mỉm cười để lộ hàm
răng rất sáng và sắc - cũng chẳng có gì là
ngạc nhiên, vì hắn là ma cà rồng cơ mà.
“Dios[1],” hắn ta nói rồi nhìn Jace. “Có
chuyện gì với cậu thế, người anh em?
Trông cậu như bị cả một đàn sói cào xé
vậy.”

[1] Tiếng Tây Ban Nha nghĩa là Chúa ơi. (ND)

“Hoặc đấy là lời đoán đại đúng không


ngờ,” Jace nói, “hoặc có lẽ anh đã biết
về chuyện xảy ra.”

Nụ cười mỉm của Raphael ngoác ra


thành một nụ cười nham nhở. “Tôi có
nghe ngóng một số chuyện.”

Người phụ nữ ngồi sau bàn đứng dậy.


“Jace,” bà nói, giọng không giấu nổi sự
căng thẳng. “Có chuyện gì xảy ra sao? Vì
sao con về sớm thế? Ta nghĩ con sẽ ở
cùng...” Bà nhìn sang Luke và Clary
“Còn hai người là ai?”

“Em gái Jace ạ.” Clary nói.

Ánh mắt Maryse dừng lại ở Clary.


“Ừ, ta có thể thấy thế. Trông cháu giống
Valentine lắm.” Bà lại nhìn Jace. “Con
mang em gái tới đây cùng à? Thêm cả
một người thường nữa sao? Lúc này bất
kỳ ai ở đây đều không an toàn. Đặc biệt
là một người thường...”

Chú Luke, với nụ cười nhàn nhạt trên


môi, cất tiếng, “Nhưng tôi thì không phải
một người thường.”

Sự biểu hiện trên gương mặt Maryse


dần chuyển từ lúng túng sang choáng
váng khi nhìn chú Luke - thực sự nhìn
chú - lần đầu tiên kể từ khi chú đặt chân
vào đây. “Lucian à?”

“Chào Maryse,” Luke nói. “Lâu lắm


rồi nhỉ.”

Gương mặt bà Maryse không biểu


hiện gì, và trong khoảnh khắc đó trông bà
đột nhiên già hẳn đi, già hơn cả chú
Luke. Bà cẩn trọng ngồi xuống. “Lucian,”
bà lại lên tiếng, hai bàn tay ép lên mặt
bàn. “Lucian Graymark.”

Raphael, nãy giờ đang quan sát mọi


diễn tiến bằng đôi mắt sáng lấp lánh ánh
tò mò của loài chim, quay sang chú Luke.
“Ông đã giết Gabriel.”

Gabriel là ai? Clary bối rối nhìn chú


Luke. Chú hơi nhún vai đáp lại. “Đúng,
cũng như hắn đã giết sói đầu đàn trước
hắn. Đó là cung cách làm việc của người
sói mà.”
Maryse ngước lên nhìn. “Sói đầu
đàn?”

“Nếu giờ ông là thủ lĩnh, đã đến lúc


chúng ta phải nói chuyện với nhau,”
Raphael nói, duyên dáng nghiêng đầu về
hướng chú Luke, mặc dù đôi mắt vẫn rất
dè chừng. “Nhưng có lẽ đây không phải
thời điểm thích hợp nhất.”

“Tôi sẽ cho người sang lo liệu,” chú


Luke bảo. “Dạo này chúng tôi gặp nhiều
chuyện quá. Có lẽ tôi lo không xuể những
chuyện vặt.”

“Có lẽ vậy,” Raphael chỉ nói thế. Nói


rồi hắn ta quay sang Maryse. “Việc của
chúng ta ở đây xong chưa nhỉ?”

Bà Maryse cố hết sức để cất tiếng.


“Nếu cậu nói Những Đứa Con của Màn
Đêm không liên quan tới những vụ sát
hại gần đây, vậy tôi sẽ tin lời cậu. Buộc
phải thế thôi, trừ khi những bằng chứng
mới được đưa ra ngoài ánh sáng.”

Raphael nhíu mày. “Ra ngoài ánh sáng


sao?” hắn ta nói. “Đấy không phải cụm
từ tôi thích.” Sau đó hắn ta quay người,
và Clary chợt nghĩ là mình có thể nhìn
xuyên qua Raphael, như thể hắn là một
tấm hình bị nhòe ở viền ngoài. Tay trái
hắn trong suốt, và xuyên qua đó cô có thể
thấy quả địa cầu bằng kim loại to lớn mà
bác Hodge luôn để trên bàn. Cô nghe
thấy mình kêu nho nhỏ ngạc nhiên khi sự
trong suốt ấy lan từ tay trở lên vai, rồi từ
vai xuống ngực của hắn, nhoáng cái hắn
đã biến mất, như một hình vẽ bị tẩy khỏi
bản phác thảo. Bà Maryse thở dài nhẹ
nhõm.

Clary há hốc mồm đầy kinh ngạc.


“Anh ta chết rồi à?”

“Cái gì, Raphael á?” Jace nói. “Có vẻ


là không. Đây chỉ là ảnh chiếu thôi. Hắn
ta không thể bước vào Học Viện trong
hình hài hữu cơ được.”

“Vì sao?”
“Vì đây là nơi ở của thần thánh,” bà
Maryse nói. “Còn hắn thì bị nguyền rủa.”
Ánh mắt băng giá của bà chẳng vơi đi
chút lạnh lùng nào khi quét sang chú
Luke. “Anh, là sói đầu đàn vùng này à?”
bà hỏi. “Tôi thấy mình chẳng cần phải
ngạc nhiên làm gì. Quả đúng như cung
cách của anh thôi, phải không?”

Chú Luke lờ tịt giọng điệu đay nghiến


của Maryse. “Raphael tới đây vì vụ sói
con bị giết trong ngày hôm nay à?”

“Vụ đó, và vụ một pháp sư bị sát


hại,” bà Maiyse đáp. “Được tìm thấy
trong khu trung tâm, cách đây hai ngày.”
“Nhưng sao Raphael lại ở đây?”

“Tay pháp sư đó bị hút cạn máu,”


Maryse nói. “Có vẻ kẻ nào đó giết người
sói đã bị người khác phá ngang trước khi
hắn kịp hút máu nạn nhân, nhưng lẽ
đương nhiên mối nghi ngờ rơi vào
Những Đứa Con của Màn Đêm. Ma cà
rồng tới đây để đảm bảo vói tôi rằng
người của họ không liên quan tới vụ
này.”

“Mẹ tin hắn không?” Jace hỏi.

“Giờ ta sẽ không bàn chuyện của hội


Clave với con, Jace - đặc biệt là trước
mặt Lucian Graymark.”

“Giờ mọi người gọi tôi là Luke,” chú


Luke điềm đạm nói. “Luke Garroway.”

Maryse lắc đầu. “Tôi gần như không


nhận ra anh. Anh trông như một người
thường.”

“Vâng, ý tưởng là thế mà.”

“Chúng tôi đều nghĩ là anh đã chết.”

“Hy vọng chứ,” chú Luke vẫn nói với


cái giọng điềm đạm như cũ. “Hy vọng là
tôi đã chết.”

Bà Maryse trông như thể vừa nuốt


phải một vật gì đó sắc bén. “Có lẽ mọi
người cũng nên ngồi xuống đi,” cuối
cùng bà lên tiếng, và chỉ vào hàng ghế
trước bàn. “Nào,” bà Maryse nói khi họ
đều đã ổn định chỗ ngồi, “có lẽ anh nên
nói cho tôi vì sao anh ở đây.”

“Jace đây,” chú Luke nói, không rào


trước đón sau, “muốn được xét xử trước
hội đồng Clave. Tôi sẵn lòng làm chứng
cho cậu ấy. Tôi đã có mặt ở nhà
Renwick vào đêm đó, khi Valentine để
lộ danh tính. Tôi đã đánh nhau với hắn
và chúng tôi suýt nữa đã tiêu diệt lẫn
nhau. Tôi có thể xác nhận mọi điều Jace
nói đều là sự thực.”

“Tôi không chắc,” Maryse phản đối,


“rằng lời nói của anh đáng tin.”

“Tôi có thể là một người sói đấy,”


Luke bảo, “nhưng tôi đã từng là một Thợ
Săn Bóng Tối. Tôi sẵn lòng được tra xét
bằng Kiếm, nếu cần thiết.”

Bằng Kiếm ư? Nghe có vẻ tệ thật.


Clary nhìn sang Jace. Bề ngoài anh khá
bình tĩnh, những ngón tay đan vào nhau
đặt trên đùi, nhưng rõ ràng toàn thân anh
đang căng thẳng đến rùng cả mình, như
thể chỉ một li nữa thôi là anh sẽ nổ tung.
Thấy Clary nhìn, anh vội nói, “Thanh
kiếm Linh hồn. Báu vật thứ hai trong Bảo
Bối Thiên Thần. Được dùng trong các
phiên xét xử để xác định xem các Thợ
Săn Bóng Tối có đang nói dối hay
không.”

“Anh không phải Thợ Săn Bóng Tối,”


Maryse nói vói chú Luke, như thể Jace
chưa hề nói lời nào. “Anh đã không tuân
theo Luật lệ của Hội Clave từ quá, quá
lâu rồi.”

“Cũng có một thời gian chính cô cũng


không sống theo Luật,” chú Luke nói.
Màu đỏ chạy rần rật lên má bà Maryse.
“Tôi cứ nghĩ,” chú Luke nói tiếp, “giờ ắt
cô đã phải vượt qua được chứng không
được tin một ai rồi chứ.”

“Có những điều anh không bao giờ


quên,” bà Maryse đáp. Giọng bà hàm
chứa sự dịu dàng nguy hiểm. “Anh cho
rằng Valentine giả vờ chết là lời nói dối
lớn nhất mà hắn đã nói với chúng ta sao?
Anh nghĩ nét quyến rũ cũng tương tự với
lòng thật thà ư? Tôi cũng từng nghĩ vậy.
Tôi đã nhầm.” Bà đứng dậy và chống hai
bàn tay mảnh khảnh lên bàn. “Hắn bảo
chúng ta rằng hắn ta sẽ cống hiến cả cuộc
đời cho Hội Kín và mong chúng ta cũng
làm vậy. Và chúng ta ắt sẽ làm theo thôi -
tất cả chúng ta ấy - tôi biết chứ. Tôi đã
suýt làm theo lời hắn ta.” Bà nhìn khắp
lượt qua Jace và Clary rồi xoáy thẳng
vào Luke. “Anh có nhớ,” bà nói, “cách
hắn bảo chúng ta rằng vụ Nổi Loạn chẳng
là gì, nó còn chẳng phải một trận chiến,
chỉ là một vài đại sứ không tấc sắt trong
tay chống lại cả Hội Kín hùng mạnh. Tôi
đã chắc mẩm tin vào cái chiến thắng
nhanh gọn ấy của chúng ta, đến nỗi khi đi
đến Alicante tôi đã bỏ Alec nằm nôi ở
nhà. Tôi nhờ Jocelyn chăm sóc thằng bé
trong khi tôi đi vắng. Cô ta từ chối. Giờ
tôi hiểu vì sao rồi. Cô ta đã biết - và anh
cũng biết. Nhưng anh đã không hề cảnh
báo cho chúng tôi.”

“Tôi đã cố cảnh báo mọi người về


Valentine,” chú Luke nói. “Nhưng cô
không nghe.”

“Tôi không nói về Valentine. Tôi đang


nói về vụ Nổi Loạn kia! Khi chúng ta
đến nơi, chỉ có năm mươi người trong
hội chúng ta chống lại năm trăm kẻ thuộc
Thế giới Ngầm...”

“Cô sẵn sàng giết chết những kẻ tay


không tấc sắt đó khi cô nghĩ họ chỉ có
năm người,” chú Luke vẫn giữ thái độ
bình thản.

Bà Maryse siết chặt lấy cạnh bàn.


“Chúng tôi mới là những kẻ bị sát hại.
Giữa lúc chém giết hỗn loạn đó, chúng
tôi mong chờ Valentine lãnh đạo chúng
tôi. Nhưng hắn không có đấy. Đến lúc đó
thì Hội đồng Clave đã bao vây Phòng
Hiệp Ước. Chúng tôi tưởng Valentine đã
chết, và đã chuẩn bị tâm lý tử vì đạo rồi.
Nhưng rồi tôi nhớ tới Alec - nếu tôi chết,
chuyện gì sẽ xảy đến với cậu con trai bé
bỏng của tôi đây?” Giọng bà nghẹn lại.
“Vì thế tôi hạ vũ khí và nộp mình cho
Hội đồng Clave.”

“Cô đã làm đúng, Maryse,” chú Luke


nói.

Maryse quay sang chú Luke, mắt tóe


lửa. “Đừng tỏ ra kẻ cả với tôi, người
sói. Nếu không phải do anh...”
“Đừng hét vào mặt chú ấy!” Clary cắt
lời, gần như nhảy bật dậy khỏi ghế. “Cơ
bản thì đấy là lỗi của bà vì đã tin
Valentine...”

“Cô nghĩ ta không biết điều đó sao?”


Giờ trong giọng nói Maryse bắt đầu chất
chứa sự tức giận. “Ồ, Hội đồng Clave đã
tử tế khi cho tôi thấy điều đó khi họ thẩm
vấn chúng tôi - họ cầm trong tay Thanh
Kiếm Linh Hồn và họ biết khi nào chúng
tôi nói dối, nhưng họ không thể bắt bọn
tôi mở miệng - không gì có thể bắt chúng
tôi mở miệng, cho tới khi...”

“Cho tới khi sao?” Luke là người cất


tiếng. “Tôi không hề biết. Tôi luôn tự hỏi
họ đã nói gì để khiến cô quay lưng với
hắn ta.”

“Tôi chỉ nói sự thật mà thôi,” Maryse


nói, đột nhiên nghe mỏi mệt. “Rằng
Valentine không chết tại Phòng Hiệp
Ước. Hắn đả bỏ chạy - để chúng tôi ở lại
bỏ mạng mà không có hắn. Chúng tôi
nghe nói, sau đó Valentine mới chết cháy
trong chính căn nhà của hắn. Điều Tra
Viên cho chúng tôi thấy mấy khúc xương
của hắn. Tất nhiên, đó chỉ là một lời nói
dối khác...” Giọng Maryse lạc đi, và khi
bà lên tiếng lại, giọng bà khô khốc:
“Nhưng thôi, đến lúc đó thì chúng tôi đã
tan đàn xẻ nghé hết rồi. Cuối cùng chúng
tôi, những người còn lại trong Hội Kín,
đã nói chuyện với nhau. Trước trận
chiến, Valentine đã kéo tôi sang một bên,
nói với tôi rằng, trong tất cả những người
thuộc Hội Kín, tôi là người hắn ta tin
tuởng nhất, là cánh tay phải đắc lực nhất
của hắn. Khi Hội đồng Clave thẩm vấn
chúng tôi, tôi mới biết rằng với ai, hắn
cũng nói vậy.”

“Ôi đàn bà khi lên cơn thịnh nộ,” Jace


lầm bầm, rất khẽ chỉ mình Clary nghe
thấy.

“Hắn không chỉ dối gạt hội đồng


Clave mà còn nói dối chúng tôi nữa. Hắn
lợi dụng lòng trung thành và tình cảm của
chúng tôi. Cũng như khi hắn đưa con hắn
tới cho chúng ta,” Maryse nhìn thẳng vào
Jace. “Và giờ hắn trở lại, nắm giữ chiếc
Cốc Thánh trong tay. Hắn đã lên kế
hoạch cho tất cả mọi chuyện này hằng
bao nhiêu năm trời, từ hồi nảo hồi nào,
ngay từ đầu rồi. Ta không thể tin còn
được, Jace. Ta xin lỗi.”

Jace không nói gì. Mặt anh vô cảm,


nhưng càng lúc càng tái đi theo từng lời
của Maryse , những vết bầm tím mới trên
hàm và má anh nổi bật lên sống động.

“Vậy thì sao?” Luke hỏi. “Vậy cô


muốn thằng bé làm gì nữa nào? Cậu ta
phải đi đâu về đâu đây?”
Bà nhìn Clary một lúc. “Sao lại không
tới chỗ cô em gái mà ở chứ?” đoạn nói.
“Gia đình...”

“Isabelle là em gái Jace,” Clary xen


ngang. “Alec, Max là anh và em trai của
anh ấy. Bà sẽ nói gì với họ đây? Họ sẽ
ghét bà tới chết vì bà đã ném Jace ra
ngoài đường.”

Mắt bà Maryse nhìn sang cô. “Cô thì


biết gì nào?”

“Cháu biết Alec và Isabelle,” Clary


đáp. Ý nghĩ về Valentine bỗng trờ đến,
không mời mà tới; cô gạt nó sang bên.
“Gia đình không chỉ là máu mủ.
Valentine không phải bố cháu. Mà chính
là chú Luke. Cũng như Alec, Max và
Isabelle là gia đình của Jace. Nếu bà dứt
bỏ anh ấy ra khỏi gia đình bà, bà sẽ để
lại trong lòng mọi người một vết thương
không bao giờ liền miệng.”

Chú Luke nhìn cô với vẻ tôn trọng


trong ngạc nhiên. Có cái gì đó thoáng
hiện trong mắt bà Maryse - bối rối
chăng?

“Clary,” Jace nhẹ nhàng nói. “Đủ


rồi.” Anh có vẻ đã hoàn toàn buông xuôi.
Clary quay sang Maryse.

“Thanh Kiếm thì sao ạ?” cô hỏi.


Bà Maryse nhìn cô với vẻ bối rối thấy
rõ. “Thanh Kiếm gì?”

“Thanh Kiếm Linh Hồn,” Clary nói.


“Cái thứ bà bảo có thể dùng để kiểm tra
xem Thợ Săn Bóng Tối có nói dối hay
không ấy. Bà có thể dùng nó với Jace.”

“Ý hay đấy.” Có chút hứng khởi trong


giọng Jace.

“Clary, cháu có ý tốt, nhưng cháu


không biết Thanh Kiếm có thể kéo theo
những hệ lụy gì đâu,” chú Luke nói.
“Người duy nhất có thể sử dụng kiếm là
Điều Tra Viên.”

Jace nhoài người lên. “Vậy hãy gọi bà


ấy tới. Hãy gọi Điều Tra Viên tới. Con
muốn kết thúc chuyện này.”

“Không,” chú Luke nói, nhưng


Maryse đang nhìn Jace.

“Điều Tra Viên,” bà ngập ngừng,


“đang trên đường tới...”

“Maryse.” Giọng chú Luke vỡ ra.


“Nói cho tôi biết là cô đã không lôi bà ta
vào vụ này đấy chứ!”
“Tôi không có! Anh nghĩ Hội đồng
Clave sẽ không nhúng tay vào câu
chuyện hoang đường những nào là binh
đoàn những Kẻ Lầm Đường rồi Cổng
dịch chuyển cùng những cái chết được
dàn dựng ấy sao? Và sau những gì Hodge
đã làm ấy? Giờ nhờ ơn Valentine, tất cả
chúng tôi đều bị điều tra,” bà nói xong,
nhìn sang vẻ mặt sững sờ trắng bệch của
Jace. “Điều Tra Viên có thể bỏ tù Jace.
Bà ta có thể tước đi các Ấn Ký trên
người nó. Tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu...”

“Nếu Jace bỏ đi trước khi bà ta tới,”


Luke tiếp lời. “Thể nào cô cứ đùng đùng
đòi đuổi Jace đi ngay lập tức.”
“Điều Tra Viên là ai ạ?” Clary hỏi.
Chức danh này khiến cô nghĩ tới hình ảnh
về Tòa án dị giáo, về những đòn tra tấn,
về roi da và bàn phanh thây. “Bà ta sẽ
làm gì ạ?”

“Bà ta giúp Hội đồng Clave điều tra


các Thợ Săn Bóng Tối,” chú Luke nói.
“Bà ta đảm bảo các Nephilim không làm
sai Luật. Bà ta điều tra toàn bộ thành
viên thuộc Hội Kín sau vụ Nổi Loạn.”

“Bà ta đã nguyền rủa bác Hodge


sao?” Jace nói. “Bà ta đưa mẹ tới đây
sao?”

“Bà ta chọn nơi đày ải gia đình ta và


hình phạt dành cho bác Hodge. Bà ta
không yêu quý gì chúng ta, và căm ghét
bố đẻ của con.”

“Con sẽ không đi,” Jace nói, gườn


mặt vẫn tái xanh. “Bà ta sẽ làm gì mẹ nếu
như bà ta tới đây còn con thì đã biến
mất? Bà ta sẽ nghĩ mẹ âm mưu che giấu
con. Bà ta sẽ trừng phạt mẹ - mẹ, Alec,
Isabelle và cả Max nữa.”

Bà Maryse không nói gì.

“Maryse, đừng ngốc thế chứ,” chú


Luke nói. “Bà ta sẽ quy tội cô nhiều hơn
nếu cô thả Jace đi. Giữ cậu ta lại đây và
đồng ý xét xử bằng Thanh Kiếm sẽ là
bằng chứng về lòng trung thành.”

“Giữ Jace lại - chú nói đùa sao chú


Luke!” Clary thốt lên. Cô biết việc sử
dụng Thanh Kiếm là ý tưởng của mình,
nhưng cô bắt đầu thấy hối hận vì đã gợi
lên ý tưởng ấy. “Bà ta nghe có vẻ kinh
khủng quá.”

“Nếu Jace bỏ đi,” chú Luke nói, “có


thể cậu ấy sẽ không bao giờ về được. Sẽ
không thể là Thợ Săn Bóng Tối nữa. Dù
muốn dù không, Điều Tra Viên vẫn là
cánh tay đắc lực của Luật pháp. Nếu
Jace vẫn muốn là một phần trong Hộỉ
đồng Clave, cậu ấy phải hợp tác với bà
ta. Cậu ấy vẫn còn thứ hỗ trợ, thứ mà
những thành viên của Hội Kín không có
sau vụ Nổi Loạn.”

“Và đó là cái gì nào?”Maryse hỏi.

Chú Luke cười nhạt. “Không giống


cô,” chú nói, “Jace đang nói sự thật”

Bà Maryse hít một hơi sâu rồi quay


sang Jace. “Nói cho cùng, quyết định là
ở con,” bà bảo. “Nếu con muốn được xét
xử, con có thể ở lại tới khi Điều Tra
Viên tới.”

“Con sẽ ở lại,” Jace nói. Giọng anh


khẳng khái, không có lấy một chút tức
giận, khiến Clary ngạc nhiên. Hình như
anh đang nhìn xuyên qua bà Maryse, một
tia sáng ánh lên trong đôi mắt anh, như
thể phản chiếu ánh lửa. Trong giây phút
đó, Clary không thế kìm được ý nghĩ
rằng Jace trông giống hệt bố đẻ của anh
ấy.

4. Chim cúc cu trong tổ

Nước cam, mật mía, trứng - toàn


những thứ quá hạn nhiều tuần trời rồi
- với thứ gì đó giống rau diếp thì phải.”
“Rau diếp hả?” Clary ngó qua vai
Simon nhìn vào tủ lạnh, “Ồ. Phô mai
mozzarella ấy mà.”

Simon nhún vai giơ chân đá đóng tủ


lạnh nhà chú Luke lại. “Gọi pizza nhé?”

©DTV

“Chú gọi rồi.” chú Luke bước vào


bếp với chiếc điện thoại không dây trên
tay. ‘‘Một suất pizza chay cỡ lớn, ba lon
Coca. Và chú đã gọi tới bệnh viện,” chú
nói thêm và ngắt điện thoại. “Tình hình
của Jocelyn vẫn vậy.”

“Ồ,” Clary nói. Cô ngồi bên chiếc


bàn gỗ trong bếp nhà chú Luke. Thường
thì chú Luke ngăn nắp lắm, nhưng vào
lúc này bàn chất đầy những lá thư chưa
bóc và mấy chồng bát đĩa bẩn. Chiếc áo
dạ màu lục của chú vắt trên ghế. Cô biết
đáng ra mình nên giúp chú ấy dọn dẹp,
nhưng gần đây cô cứ thấy mình không
còn chút sức lực. Lúc sạch sẽ nhất thì
bếp của chú Luke cũng nho nhỏ và tối
tăm - chú không thích nấu nướng lắm,
bằng chứng là giá đựng gia vị treo trên
bếp ga cũ kỹ chẳng có lấy một lọ gia vị.
Thay vào đấy chú Luke dùng giá để đựng
toàn cà phê với trà.

Simon ngồi xuống cạnh Clary trong


khi chú Luke thu dọn bát đĩa bẩn trên bàn
và ném vào chậu rửa. “Cậu ổn không?”
Simon thì thào hỏi.

“Mình vẫn bình thường.” Clary cố


mỉm cười. “Mình không mong mẹ mình
sẽ tỉnh dậy trong ngày hôm nay, Simon ạ.
Mình có cảm giác bà đang - đang đợi
một điều gì đó.”

“Cậu biết là điều gì không?”

“Không. Chỉ là một điều gì đó còn


thiếu.” Cô ngước lên nhìn chú Luke,
nhưng chú đang mải mê chà lấy chà để
mớ bát đĩa trong bồn rửa. “Hoặc một ai
đó.”
Simon nhìn cô vẻ giễu cợt, rồi nhún
vai. “Có vẻ tình hình ở Học Viện khá
căng thẳng đấy nhỉ?”

Clary rùng mình. “Mẹ của Alec và


Isabelle đáng sợ lắm.”

“Tên bà ấy là gì ấy nhỉ?”

“May-ris,” Clary nói, học theo cách


phát âm của chú Luke,

“Đó là một cái tên cổ từng được đặt


cho Thợ Săn Bóng Tối.” Chú Luke lau
khô tay.
“Và Jace quyết định ở lại đó và đối
mặt với bà Điều Tra Viên đó hả? Anh ta
không muốn bỏ đi sao?” Simon nói.
“Đó là việc cậu ta phải làm nếu còn
muốn sống cuộc đời Thợ Săn Bóng Tối,”
chú Luke đáp. “Và là Thợ Săn Bỏng Tối
- là nột Nephilim - là tất cả với cậu ấy.
Hồi ở Idris, chú biết những Thợ Săn
Bóng tối khác giống như Jace. Nếu ta
tước điều đó khỏi cậu ta...”

Tiếng chuông cửa quen thuộc vang


lên. Luke ném cái khăn xuống bệ bếp.
“Chú quay lại ngay.”

Ngay khi chú rời bếp, Simon nói,


“Mình cứ thấy kỳ kỳ khi nghĩ chú Luke
từng là Thợ Săn Bóng Tối. Còn kỳ hơn
việc chú ấy là người sói nữa.”
“Thật sao? Vì sao vậy?”

Simon nhún vai. “Mình đã từng nghe


kể về người sói rồi. Họ giống như là một
thành phần có tiếng tăm. Chú ấy biến
thành sói một tháng một lần, thế thôi.
Nhưng còn về Thợ Săn Bóng Tối ấy à -
họ giống như một loại sùng bái thánh
giáo nào ấy.”

“Họ không phải sùng bái gì cả.”

“Phải mà. Săn bóng tối là toàn bộ


cuộc sống của họ. Và họ coi thường tất
cả những người khác. Họ gọi chúng ta là
người phàm. Giống như thể họ không
phải con người vậy. Họ không làm bạn
với người thường, không đi tới cùng
những nơi chúng ta thường tới, họ không
cười khi nghe những câu chuyện cười
của chúng ta, họ nghĩ họ đẳng cấp hơn
chúng ta.” Simon gác chân lên và chọc
chọc cái lỗ rách trên đầu gối quần bò.
“Hôm nay mình gặp một người sói
khác.”

“Đừng nói với mình là cậu cà kê nói


chuyện với Freaky Pete trong quán
Hunter’s Moon nhé.” Cô có cảm giác
cực kỳ khó chịu quặn thắt trong dạ dày,
nhưng cô không thể nói chính xác nguyên
nhân gây ra cảm giác ấy. Có lẽ là sự
căng thẳng lửng lơ lơ lửng.
“Không. Là một cô gái,” Simon nói.
“Bằng tuổi chúng ta. Tên Maia.”

“Maia à?” Chú Luke trở lại bếp mang


theo một hộp vuông pizza màu trắng. Chú
ấy đặt nó xuống bàn và Clary vươn tay
mở ra. Mùi bột nóng hôi hổi, nước sốt cà
chua và pho mát làm cô nhớ ra mình đói
cồn cào tới mức nào. Cô xé một miếng,
không đợi chú Luke đưa đĩa cho. Chú ấy
cười cười ngồi xuống, vừa cười vừa lắc
đầu.

“Maia thuộc đàn của chú, đúng không


ạ?” Simon hỏi, tiện tay lấy cho mình một
miếng.
Chú Luke gật đầu. “Ừ. Một cô nhóc
ngoan. Chú kêu con bé mấy lần tới đây
trông tiệm sách trong khi chú tới bệnh
viện. Con bé thích chú trả lương bằng
sách.”

Simon ngửng đầu ngừng ăn pizza.


“Chú thiếu tiền sao?”

Chú Luke nhún vai. “Với chú, tiền


chẳng bao giờ quan trọng, còn cả đàn tự
quản tiền của mình.”

Clary nói, “Mẹ luôn nói khi nào mẹ


con cháu thiếu tiền thì mẹ sẽ bán bớt cổ
phiếu của bố cháu đi. Nhưng vì cái
người cháu tưởng là bố cháu hóa ra
không phải bố cháu, và cháu không nghĩ
Valentine có chơi cổ phiếu...”

“Mẹ cháu đã bán dần đồ nữ trang đi


đấy,” chú Luke nói. “Valentine đã tặng
cô ấy ít đồ gia bảo, những món trang sức
đã chuyền qua nhiều thế hệ trong gia đình
Morgensterns. Kể ra một thứ thôi cũng
đáng giá cả một gia tài khi đem ra đấu
giá rồi.” Chú ấy thở dài. “Nhưng giờ
những thứ đó đã tiêu cả rồi - dù
Valentine có thể thu lại chúng từ đống đổ
nát của nhà cháu.”

“Ha, cháu hy vọng cô ấy cũng có


được chút hả hê,” Simon nói. “Khi bán
đồ của hắn ta đi.” Cậu lấy miếng pizza
thứ ba. Thật kỳ diệu thay, Clary nhủ
thầm, đám con trai có thể ăn nhiều đến
từng ấy mà chẳng bao giờ bị tăng cân hay
nôn ói ra cả.

“Chắc chú phải thấy lạ lẫm lắm,” cô


nói với chú Luke. “Khi gặp lại Maryse
Lightwood trong hoàn cảnh đó, sau từng
ấy năm.”

“Cũng không hẳn là lạ lùng gì. Maryse


chẳng khác xưa là mấy - thực ra chú thấy
cô ta là chính mình hơn bao giờ hết ấy
chứ, nếu có thể nói thế.”

Clary nghĩ nói thế là hợp lý. Cái cách


Maryse Lightwood nhìn làm cô nhớ tới
người con gái tóc đen gầy nhẳng trong
bức hình bác Hodge đã đưa cô xem, cái
người hếch cằm lên kiêu ngạo ấy, “Chú
cho rằng bà ta nghĩ gì về chú vậy?” cô
hỏi. “Chú có nghĩ họ thực sự mong chú
chết không?”

Chú Luke mỉm cười. “Có lẽ họ mong


thế không phải vì thù ghét gì, không đâu,
nhưng chắc chắn chuyện sẽ dễ dàng hơn
và bớt lộn xộn với họ hơn nếu như chú
đã chết. Việc chú không những còn sống
sờ sờ ra mà còn làm thủ lĩnh của đàn sói
trong trung tâm thành phố là điều họ
không mong rồi. Dầu gì thì việc của họ là
gìn giữ hòa khí giữa những Cư dân Thế
giới Ngầm cơ mà - vậy mà chú lại xuất
hiện, với bao chuyện vướng mắc với họ
cùng rất nhiều lý do để trả thù. Họ lo chú
là một quân cờ khó kiểm soát.”

“Có đúng thế không ạ?” Simon hỏi.


Họ đã ăn hết pizza, thế là cậu ta cứ
chẳng thèm nhìn với thẳng tay nhón lấy
diềm miếng pizza cô đang ăn. Simon biết
cô ghét ăn vỏ bánh. “Cháu đang nói tới
quân cờ khó kiểm soát ấy ạ.”

“Chú chẳng có gì là khó kiểm soát cả.


Chú vốn là người trầm tĩnh. Trung niên
rồi mà.”

“Trừ việc một tháng chú lại biến


thành sói một lần và chạy lung tung cắn
xé đủ thứ,” Clary nói.

“Thế là còn tốt chán,” chú Luke bảo.


“Đàn ông vào tuổi chú được tiếng là
thích mua xe đua đắt tiền và lên giường
với siêu mẫu mà lị.”

“Chú mới ba tám tuổi,” Simon chỉ ra.


“Trung niên cái gì.”

“Cám ơn cháu, Simon. Chú rất


mừng.” Chú Luke mở hộp pizza thấy
trống không liền gấp lại và thở dài. “Dù
cháu ăn hết pizza rồi.”

“Cháu chỉ ăn có năm miếng,” Simon


cự nự, dựa ghế ra sau trụ bấp bênh chỉ
trên hai chân ghế.

“Ngốc tử, cậu nghĩ xem trong một hộp


pizza có mấy miếng chứ?” Clary hỏi.

“Ít hơn năm miếng không phải một


bữa ăn. Đó là đồ ăn vặt thôi.” Simon lo
lắng nhìn chú Luke. “Thế có nghĩa là chú
sẽ hóa sói và ăn cháu à?”

“Chắc không đâu.” Chú Luke đứng


dậy và quẳng hộp pizza vào thùng rác
“Cháu dai nhách và khó tiêu lắm.”

“Thi chú cứ coi như chú ăn kiêng đi,”


Simon vui vẻ nhận định.

“Để chú sẽ bảo một người sói Do


Thái nào tới thịt cháu nhé.” Chú Luke tựa
lưng vào bệ bếp. “Nhưng để trả lời câu
hỏi trước của cháu, Clary, chú thấy lạ khi
gặp Maryse Lightwood, nhưng không
phải vì cô ta. Mà là do mọi thứ xung
quanh. Học Viện làm chú nhớ rất nhiều
tới Sảnh Hiệp Ước ở Idris - chú có thể
cảm nhận được sức mạnh của những hàng
chữ rune của cuốn Sách Xám xung quanh
chú, sau mười lăm năm đã cố quên chúng
đi.”

“Vậy ư?” Clary hỏi. “Chú thực sự cố


quên chúng ư?”
“Có những thứ cháu mãi mãi không
quên đi được Những hàng chữ rune trong
Sách không chỉ là hình ảnh minh họa.
Chúng đã trở thành một phần của cháu.
Một phần da thịt cháu. Là một Thợ Săn
Bóng Tối thì cháu không bao giờ quên
được. Đó là tài thiên bẩm được luân
chuyển trong máu thịt, và cháu không thể
thay đổi nó giống như cháu không thể đổi
nhóm máu vậy.”

“Cháu đang băn khoăn,” Clary nói,


“liệu có nên thêm vài Ấn Ký trên người
không.”

Simon làm rơi miếng vỏ bánh đang


gặm xuống. “Cậu đùa à?”

“Không, mình không đùa. Sao mình


lại đi đùa cợt về một chuyện như vậy
chứ? Và sao mình không được có Ấn Ký
chứ? Mình là Thợ Săn Bóng Tối cơ mà.
Thôi thì mình cũng nên gom lấy mọi sự
bảo vệ mình có thể có được chứ.”

“Bảo vệ khỏi cái gì nào?” Simon hỏi,


nhoài người lên phía trước khiến hai
chân ghế trước nện rầm xuống sàn.
“Mình cứ tưởng ba cái trò Thợ Săn Bóng
Tối này chấm dứt rồi chứ. Mình tưởng
cậu đang cố sống một cuộc sống bình
thường cơ đấy.”
Giọng chú Luke nhẹ nhàng. “Chú
không chắc có cái gọi là một cuộc sống
bình thường đâu.”

Clary nhìn xuống cánh tay, nơi Jace


đã vẽ một Ấn Ký duy nhất cô từng được
nhận. Giờ cô vẫn nhìn thấy đường trắng
mờ mờ nó để lại, nhưng đối với cô, nó
giống một ký ức hơn là một vết sẹo. “Tất
nhiên là mình muốn tránh xa những thứ
kỳ quái. Nhưng nếu những thứ kỳ quái cứ
đuổi theo mình thì sao? Nhỡ mình không
có chọn lựa thì thế nào?”

“Hoặc là cậu không thực muốn tránh


xa những thứ kỳ quái lắm,” Simon làu
bàu. “Chừng nào còn có Jace dính vào.”
Chú Luke hắng giọng. “Hầu hết các
Nephilim đều phải kinh qua nhiều cấp độ
huấn luyện khác nhau trước khi nhận
được Ấn Ký. Chú thì chú sẽ không
khuyến khích cháu có thêm bất cứ Ấn Ký
nào cho tới khi cháu được hướng dẫn
đầy đủ. Và tất nhiên cháu muốn hay
không là do cháu. Nhưng có một vài thứ
cháu cần có. Vài thứ mà bất cứ một Thợ
Săn Bóng Tối nào cũng cần có.”

“Thái độ kiêu căng khinh người, đáng


ghét chứ gì?” Simon hỏi.

“Một thanh stele,” chú Luke đáp.


“Mọi Thợ Săn Bóng Tối đều phải có một
thanh stele.”

“Chú có không ạ?” Clary ngạc nhiên


hỏi.

Không trả lời Clary, chú Luke lẳng


lặng rời khỏi bếp. Một lát sau chú ấy trở
lại, tay cầm một vật được gói trong
miếng vải đen. Chú đặt vật đó xuống
bàn, tháo tấm vải và để lộ một thứ óng
ánh giống cây gậy phép, được làm từ pha
lê đục Một thanh stele.

“Đẹp quá,” Clary thốt lên.

“Chú mừng vì cháu nghĩ vậy,” chú


Luke nói, “vì chú muốn cháu có nó.”

“Có nó ư?” cô kinh ngạc nhìn chú.


“Nhưng nó là của chú cơ mà?”

Chú lắc đầu. “Là của mẹ cháu đấy.


Mẹ cháu không muốn cất nó trong nhà,
phòng trường hợp cháu vô tình tìm thấy,
vì thế đã nhờ chú giữ hộ.”

Clary cầm thanh stele lên. Chạm vào


thì mát lạnh, nhưng cô biết nó sẽ rực
nóng lên khi được sử dụng. Đây là một
vật thể kỳ lạ, không đủ dài để dùng làm
vũ khí, không đủ ngắn để dùng làm một
cây bút vẽ. Cô nghĩ cái kích thước ngược
ngạo này chỉ là một thứ dùng riết sẽ phải
quen thôi.

“Cháu giữ nó được không ạ?”

“Tất nhiên rồi. Dĩ nhiên, cái này là


kiểu cũ, lỗi mốt gần cả hai mươi năm rồi.
Từ bấy đến nay hẳn người ta đã cải tiến
kiểu dáng. Nhưng nó vẫn là một thứ vũ
khí đáng tin cậy.”

Simon ngồi nhìn trong khi cô cầm


thanh stele như cầm gậy chỉ huy của nhạc
trưởng, nhẹ nhàng vạch những đường hoa
văn vô hình trong khoảng trống giữa hai
người. “Nó làm mình nhớ tới hồi ông
mình cho mình cây gậy đánh golf cũ.”
Clary bật cười và hạ tay xuống, “Ừ,
chỉ có điều cậu không bao giờ sử dụng
những thứ ông cậu cho.”

“Và mình cũng hy vọng cậu không bao


giờ sử dụng cái này,” Simon nói và vội
liếc nhìn đi chỗ khác trước khi cô kịp trả
lời.

Khói bốc lên từ những Ấn Ký theo


hình xoắn ốc màu đen và anh ngửi thấy
mùi da mình cháy khét lẹt. Bố đứng
trước mặt với thanh stele cầm chắc
trên tay, đầu của nó khí đỏ lên như đầu
que cời để quá lâu trong lửa. “Nhắm
mắt lại, Jonathan,” bố nói. “Nếu con
nghĩ nó đau thì nó sẽ làm con đau thôi.”
Nhưng Jace vẫn nắm chặt tay lại một
cách vô thức, như thể da anh đang co
lại, đang vặn vẹo để tránh xa thanh
stele. Anh nghe có tiếng rắc khi một
chiếc xương bàn tay bị gãy, rồi thêm
một chiếc xương khác...

Jace mở bừng mắt chớp chớp trong


bóng tối, giọng bố nhỏ dần rồi biến mất
như khói tan trong cơn gió tỏa. Anh nếm
được vị đau đớn ngai ngái bên đầu lưỡi.
Anh đã cắn bập vào môi trong. Jace nhăn
mặt ngồi dậy.

Tiẽng rắc rắc lại vang lên làm anh bất


giác phải nhìn xuống bàn tay. Tay anh
vẫn lành lặn. Rồi anh mới nhận ra âm
thanh đó vang lên từ bên ngoài phòng.
Có ai đang gõ cửa, dù ngập ngừng đôi
chút.

Anh lăn xuống giường, rùng mình khi


chân trần chạm xuống nền nhà lạnh cóng.
Anh đã ngủ thiếp đi vẫn mặc nguyên
quần áo và anh nhìn xuống áo sơ mi nhàu
nhĩ mà phát gớm. Có khi trên người còn
ám mùi sói nữa. Và anh thấy toàn thân
đau nhức.

Tiếng gõ cửa lại vang lên. Jace rảo


bước và đẩy mở cửa. Anh chớp mắt ngạc
nhiên. “Alec?”

Alec, nhét tay vào túi quần bò, nhún


vai không tự nhiên. “Xin lỗi vì đã muộn
quá rồi. Mẹ bảo tớ đến gọi cậu. Mẹ
muốn gặp cậu trong thư viện.”

“Mấy giờ rồi thế?”

“Gần đến nửa đêm.”

“Cậu còn thức làm quái gì vậy?”

‘‘Không ngủ được” Có vẻ Alec nói


thật. Đôi mắt xanh biếc của cậu ta quây
đầy quầng thâm.

Jace lùa tay vào mái tóc rối bù.


“Được rồi. Đợi chút tớ đi thay cái áo.”
Jace tới tủ, lật từng xếp quần áo gấp ngay
ngắn gọn ghẽ tới khi tìm thấy chiếc áo
phông dài tay màu xanh sẫm. Anh cẩn
thận cởi áo mình đang mặc - máu khô
làm cho áo dính chặt vào da thịt anh ở
đôi chỗ.

Alec nhìn đi chỗ khác “Chuyện gì xảy


ra với cậu thế?” Giọng Alec nghe ngu
ngốc lạ lùng.

“Đánh nhau với một đàn người sói ấy


mà.” Jace tròng chiếc áo phông xanh qua
đầu. Mặc xong, anh cùng Alec đi xuống
hành lang. “Cậu có gì ở cổ kìa,” anh
nhận xét.
Tay Alec chụp ngay lên cổ. “Cái gì
cơ?”

“Trông như vết cắn ấy,” Jace nói.


“Mà cậu làm gì cả đêm vậy?”

“Chẳng làm gì cả.” Mặt đỏ dừ, tay


vẫn ôm chặt lấy cổ, Alec đi xuống hành
lang. Jace đi theo. “Tớ đi dạo trong công
vien. Cho đầu óc thông suốt ấy mà.”

“Và gặp phải một ma cà rồng hả?”

“Gì cơ? Không! Tớ ngã!”

“Ngã dập cổ á?” Alec khụt khịt mũi


và Jace quyết định tốt hơn hết nên dừng
đề tài ở đây. “Được thôi, cậu nói sao tớ
tin vậy. Mà cậu cần đầu óc thông suốt
chuyện gì?”

“Chuyện cậu ấy. Và bố mẹ tớ,” Alec


đáp. “Mẹ giải thích lý do vì sao bố mẹ
cực kỳ giận sau khi cậu bỏ đi. Và giải
thích về bác Hodge. À mà, rất cảm ơn vì
cậu không thèm cho tớ biết chuyện nhé.”

“Xin lỗi.” Giờ tới lượt Jace đỏ mặt


“Nhưng thật, tớ chẳng biết nói sao nữa.”

“Ừm, nhưng làm thế là không được”


Cuối cùng Alec hạ tay khỏi cổ mà quay
sang nhìn Jace vẻ buộc tội. “Có vẻ cậu
đang giấu nhiều chuyện. Về Valentine.”

Jace khựng lại. “Cậu nghĩ tớ đang nói


dối sao? Về chuyện không biết Valentine
là bố đẻ của tớ à?”

“Không!” Alec có vẻ giật mình, hoặc


là vì câu hỏi hay vì sự quyết liệt hàm
chứa trong câu hỏi của Jace. “Và tớ
chẳng quan tâm ai là bố cậu cả. Với tớ
vấn đề đó chẳng là cái đinh gì. Cậu vẫn
là cậu thôi.”

“Dù cho tớ là người thế nào.” Lời lẽ


lạnh lùng tuôn ra, trước khi Jace kịp
ngăn lại.
“Thì tớ nói thế thôi.” Alec dịu giọng.
“Đôi khi cậu có hơi… khắc nghiệt. Tớ
chỉ cần cậu uốn lưỡi trước khi nói. Ở
đây chẳng có ai là kẻ thù của cậu cả,
Jace à.”

“Cám ơn vì lời khuyên,” Jaee nói.


“Tự tớ có thể đi nốt đến thư viện được
rồi.”

“Jace...”

Nhưng Jace đã đi mất, để lại Alec


buồn bã phía sau. Jace ghét khi ai đó đi
lo chuyện của mình. Như thế khiến anh
thấy có thể có vấn đề phải lo lắng thật.
Cửa thư viện đang mở hé. Jace không
buồn gõ cửa mà bước thẳng vào. Nơi
đây từng là một trong những nơi anh ưa
thích của Học Viện - có gì đấy dễ chịu từ
phong cách pha trộn cổ điển giữa nội thất
bằng gỗ và bằng đồng, những cuốn sách
gáy nhung bìa da sắp dọc theo tường như
những người bạn đang chờ gặp lại anh.
Giờ thì một luồng gió lạnh thổi tạt vào
người anh ngay vừa khi cửa mở. Ngọn
lửa vốn thường luôn tí tách trong lò sưởi
cỡ lớn trong suốt mùa thu qua mùa đông
giờ chỉ còn là tàn tro nguội lạnh. Những
ngọn đèn đều tắt. Ánh sáng duy nhất phát
ra từ cửa sổ thoát khí nhỏ hẹp và thông
qua giếng trời cao cao phía trên.
Dù không muốn nhưng Jace lại nghĩ
đến bác Hodge. Nếu bác ở đây, lửa sẽ
được nhóm, đèn ga sẽ được mở, tỏa
những quầng sáng vàng óng xuống nền
nhà ván gỗ. Bác Hodge sẽ ngồi trong
chiếc ghế bành bên lò sưởi, với con quạ
Hugo đậu trên vai, và cuốn sách đặt bên
cạnh...

Nhưng hiện có một người khác ngồi


trong chiếc ghế bành cũ của bác Hodge.
Cái người gầy gò, xám xịt từ trên xuống
dưới đó đứng dậy, uyển chuyển vươn
mình như con rắn hổ mang uốn éo theo
tiếng sáo của người thổi rắn, rồi quay lại
cười lạnh lùng.
Là một phụ nữ. Bà ta mặc áo choàng
dài xám đậm lỗi mốt dài chạm bốt. Bên
trong là một bộ vest cắt may vừa vặn
màu đá ác-đoa cổ đứng, phần chóp cổ áo
cứng ngắc chèn sát cổ bà ta. Mái tóc bà
này vàng tai tái nhờ nhờ, lược giắt ngược
sát ra sau, còn hai mắt bà ta xám sáng sắt
đá. Jace có thể cảm nhận được đôi mắt
ấy, như một thoảng chạm vào nước cóng
lạnh, khí ánh nhìn bà ta quét qua chiếc
quần bò vấy bùn bẩn thỉu, sang tới khuôn
mặt bầm tím, rồi nhìn thẳng vào mắt anh.

Trong một giây có gì đấy nóng rực lóe


lên trong ánh mắt bà ta, giống như lửa
bùng lên bị mắc kẹt dưới lớp băng lạnh.
Sau đó nó biến mất “Cậu là đứa trẻ đấy
ấy à?”

Trước khi Jace kịp trả lời, một giọng


nói khác vang lên: Đó là mẹ Maryse -
người vừa bước vào thư viện qua cánh
cửa sau lưng anh. Anh tự hỏi vì sao mình
không nghe thấy tiếng chân bà và nhận ra
bà đã thay đôi giày cao gót bằng đôi dép
mềm đi trong nhà. Bà mặc áo ngủ dài
bằng lụa nổi vân cùng vẻ mặt môi mím
chặt. “Phải đấy, Điều Tra Viên,” bà nói.
“Đây là Jonathan Morgenstern.”

Điều Tra Viên tiến tới chỗ Jace nhanh


như một cuộn khói xắm. Bà ta dừng lại
trước mặt anh rồi chìa một bàn tay ra -
ngón dài ngoằng trắng bệch, làm anh nghĩ
đến một con nhện bạch tạng. “Nhìn ta
này, cậu bé,” bà ta nói, bỗng thoắt cái
những ngón tay dài ngoẵng kia đã đặt
dưới cằm anh, bắt anh ngẩng đầu lên. Bà
này khỏe không ngờ. “Cậu phải gọi ta là
Điều Tra Viên. Cậu không được gọi ta
bằng bất cứ tên nào khác.” Vùng da
quanh mắt bà ta chằng chịt nếp nhăn
mảnh trông như những vết rạn trong tranh
sơn dầu. Hai đường hằn chạy dọc hai
bên khóe miệng xuống cằm. “Cậu hiểu
chưa?”

Hầu như cả đời, Jace luôn nghĩ Điều


Tra Viên là một nhân vật hư hư thực thực
như huyền thoại. Nhân dạng, thậm chí
nhiều nhiệm vụ của bà ta, đều được Hội
đồng Clave giữ bí mật. Anh cứ tưởng
Điều Tra Viên giống với các Tu Huynh
Câm, nắm giữ những bí mật và tiềm tàng
nguồn sức mạnh khổng lồ. Anh đã không
hề nghĩ tới một tới một con người quá
thẳng tính - hoặc quá thù địch như thế
này. Đôi mắt bà ta như chém vào người
anh, cắt phăng đi lớp áo giáp tự tin và
ngạo nghễ của anh, lột trần anh đến tận
xương tủy.

“Tên tôi là Jace,” anh nói. “ Chứ


không phải cậu bé nào cả. Jace
Wayland.”

“Cậu không được quyền mang họ


Wayland,” bà ta nói. “Cậu là Jonathan
Morgenstern. Dùng tên Wayland đồng
nghĩa với việc là cậu là một kẻ dối trá.
Giống bố cậu.”

“Thực ra thì,” Jace nói, “tôi muốn


nghĩ mình là một kẻ dối trá theo cách độc
nhất vô nhị của riêng tôi.”

“Ta hiểu rồi.” Một nụ cười nhẹ nhếch


lên trên đôi môi bợt màu. Cũng không
phải một nụ cười thiện chí gì. “Cậu bất
chấp quyền thế, cũng như bố cậu. Giống
như thiên thần mà bố con cậu được đặt
tên theo.” Những ngón tay bà ta đột ngột
nắm chặt lấy cằm anh, móng tay bấm sâu
đến đau đớn. “Lucifer được phong
thưởng vì đã nổi loạn bằng việc Đức
Chúa trời đày hắn xuống địa ngục mịt
mùng thăm thẳm.” Hơi thở bà ta phả ra
chua như giấm. “Nếu cậu bất tuân thẩm
quyền của ta, ta có thể hứa rằng cậu sẽ
phải ghen tỵ với số phận của Lucifer
đấy.”

Bà ta thả Jace ra và lùi lại. Anh có


thể cảm nhận được máu chầm chậm rỉ ra
từ nơi móng tay bà ta đã bấm vào. Hai
tay anh run lên vì tức giận nhưng anh
quyết không đưa tay lên quệt máu.

“Imogen...” Maryse dợm nói, rồi sau


đó tự động sửa lại. “Thưa Điều Tra Viên
Herondale. Jace đồng ý được xét xử
bằng Thanh Kiếm. Bà có thể biết thằng
bé nói thật hay không.”

“Về bố nó ư? Phải. Ta biết ta có thể


làm thế.” Cổ áo cứng nhắc của Điều Tra
Viên Herondale ôm thít vào cổ khi bà ta
quay người nhìn Maryse. “Cô biết đấy,
Maryse, Hội đồng Clave không hài lòng
với cô. Cô và Robert là những kẻ trông
coi Học Viện. May cho cô là hồ sơ của
cô suốt nhiều năm qua tương đối sạch sẽ.
Chỉ có vài vụ rắc rối với lũ quỷ trong
thời gian gần đây, và mọi thứ khá yên ổn
trong suốt vài ngày qua. Không có báo
cáo gì, thậm chí từ Idris, vì thế Hội đồng
Clave vẫn thấy yên tâm. Thi thoảng
chúng tôi còn tự hỏi liệu cô có thực sự
không còn là đồng minh của Valentine
không. Hoá ra là, hắn đã đặt một cái bẫy
cho cô và cô rơi ngay vào đó. Người ta
cứ tưởng cô phải biết rõ hơn thế chứ.”

“Không có bẫy biếc gì hết,” Jace cắt


lời. “Bố tôi biết nhà Lightwood sẽ nuôi
dạy tôi nếu họ nghĩ tôi là con trai
Michael Wayland. Thế thôi.”

Điều Tra Viên nhìn cậu chằm chằm


như thể cậu là một con gián biết nói.
“Cậu biết về con chim cúc cu chứ gì,
Jonathan Morgenstern?”

Jace phân vân có lẽ việc làm Điều


Tra Viên - một công việc chắc chắn
không lấy gì làm dễ chịu - đã khiến đầu
óc bà Imogen Herondale đây rối loạn
chút nào không. “Con gì cơ?”

“Chim cúc cu,” bà ta đáp. “Cậu biết


đó, chim cúc cu là loài sống ký sinh.
Chúng đẻ trứng vào tổ chim khác. Khi
trứng nở, chim cúc cu non đá những con
chim non khác ra khỏi tổ. Những cặp
chim bố mẹ đáng thương kia sẽ cật lực đi
tìm thức ăn nuôi một con chim cúc cu
khổng lồ đã giết chết con cái chúng và
chiếm chỗ đáng ra thuộc về những đứa
con của chúng.”

“Khổng lồ ư?” Jace nói. “Bà vừa bảo


tôi béo à?”
“Đó là phép so sánh thôi.”

“Tôi không béo.”

“Và tôi,” Maryse lên tiêng, “không


cần sự thương hại của bà, Imogen. Tôi
không tin Hội đồng Clave sẽ trừng phạt
tôi hay chồng tôi vì đã quyết định nuôi
nấng con trai một người bạn đã qua đời.”
Bà đứng hiên ngang. “Đâu phải là chúng
tôi không báo cáo tường tận tất cả những
gì chúng tôi làm cho Hội đâu.”

“Với lại tôi cũng không bao giờ làm


hại người nhà Lightwood nào cả,” Jace
nói. “Tôi làm việc chăm chỉ, và luyện
tập siêng năng - bà thích nói gì về bố tôi
thì nói, nhưng ông ấy đã nhào nặn tôi
thành Thợ Săn Bóng Tối. Tôi tự mình
kiếm được vị trí của mình ở đây.”

“Đừng biện hộ cho bố cậu trước mặt


ta,” Điều Tra Viên nói. “Ta hiểu hắn.
Hắn đã là - vẫn là - một kẻ đê mạt nhất
trong những kẻ đê mạt.”

“Đê mạt ư? Ai nói đê mạt ấy nhỉ? Mà


từ đó có nghĩa gì chứ?”

Hàng lông mi không màu phủ rợp


xuống má Điều Tra Viên khi bà ta nheo
mắt, cái nhìn lộ vẻ tính toán. “Cậu kiêu
ngạo,” cuối cùng bà ta cất tiếng. “Và bất
chấp không kém. Bố cậu dạy cậu cư xử
như vậy sao?”

“Cứ không phải như vậy với bố tôi là


được,” Jace đáp cụt ngủn.

“Vậy thì cậu đang bắt chước hắn.


Valentine là một trong những kẻ kiêu
căng láo xược nhất mà ta từng gặp. Ta
đoán hắn đã nuôi dạy cậu thành giống y
như hắn.”

“Đúng,” Jace không thể ngậm miệng


nổi, “tôi được huấn luyện để trở thành
một kẻ có trí tuệ bậc thầy xấu xa từ khi
còn nhỏ. Giật cánh ruồi, đầu độc nguồn
nước của trái đất - mấy trò đó tôi đã
thành thạo từ hồi mẫu giáo. Tôi đoán tất
cả chúng ta đều máy mắn vì bố tôi đã giả
chết trước khi kịp dạy tôi đến phần cướp
hiếp, nếu không thì chẳng có ai sống an
lành được hết.”

Maryse phát ra âm thanh giống như


tiếng lên sợ hãi. “Jace ôi...”

Nhưng Điều Tra Viên đã cắt lời. “Và


cũng như bố cậu, cậu không biết kiềm
chế tính nóng,” bà ta nói. “Nhà
Lightwood đã nuông chiều cậu để cho
những phẩm chất tệ hại nhất của cậu tự
do phát triển. Cậu có thể trông như một
thiên thần đấy, Jonanthan Morgenstern ạ,
nhưng ta biết chính xác cậu là gì.”
“Nó chỉ là một đứa bé, Maryse nói.
Có phải mẹ đang biện hộ cho anh không?
Jace liếc vội sang nhưng bà nhìn đi chỗ
khác.

“Valentine cũng từng là một đứa bé.


Giờ trước khi chúng ta đào sâu vào cái
đầu tóc vàng kia tìm sự thực, ta nghĩ cậu
nên bình tĩnh lại. Ta biết cậu có thể làm
điều đó tốt nhất ở nơi đâu.”

Jace chớp chớp mắt. “Bà bảo tôi về


phòng sao?”

“Ta sẽ đưa cậu về nhà tù tại Thành


phố Câm Lặng. Chỉ sau một đêm thôi là
cậu sẽ ngoan ngoãn hợp tác với ta ngay.”
Maryse thở dốc. “Imogen - bà không
thể làm thế!”

“Tất nhiên là có thể chứ.” Mắt bà ta


sáng lên như lưỡi dao lam. “Cậu có
muốn nói gì với ta không, Jonathan?”

Jace chỉ nhìn. Thành phố Câm Lặng


có bao nhiêu là tầng, mà cậu chỉ mới đặt
chân tới hai tầng trên cùng thôi, dùng để
lưu trữ hồ sơ và là phòng hội đồng của
hội Tu Huynh Câm. Xà lim ở tầng thấp
nhất trong thành phố, bên dưới tầng nghĩa
trang nơi hàng ngàn Thợ Săn Bóng Tối
đã hy sinh được yên nghỉ trong câm lặng.
Những xà lim được dành cho bọn tội
phạm dã man nhất: những ma cà rồng
tráo trở, những pháp sư đã phá vỡ luật
Hiệp Ước, những Thợ Săn Bóng Tối sát
hại đồng nghiệp. Jace không thuộc loại
nào trong số ấy cả. Vậy thì vì sao bà ta
lại muốn đưa cậu vào đó?

“Rất thông minh, Jonathan. Ta thấy


cậu đã sẵn sàng học bài học tuyệt nhất
mà Thành Phố Câm Lặng sẽ dạy cậu.”
Nụ cười Điều Tra Viên nhìn như một cái
đầu lâu ngoác miệng nham nhở. “Cách
ngậm chặt miệng lại.”

Clary đang dở tay giúp chú Luke lau


dọn bữa tối thì chuông cửa vang lên. Cô
đứng thẳng người, nhìn sang chú Luke.
“Chú mời ai tới sao?”

Chú nhíu mày, lau khô tay. “Không.


Đợi đó nhé.” Cô thấy chú vươn tay lấy
thứ gì đó trên giá bếp. Một vật phát sáng.

“Cậu có thấy con dao đó không?”


Simon huýt sáo, đứng thẳng dậy khỏi
ghế. “Chú ấy lo có rắc rối sao?”

“Mình nghĩ chú ấy luôn lo có rắc rối


xảy ra,” Clary nói, “nhất là trong thời
gian gần đây.” Cô nheo mắt nhìn qua khe
cửa bếp, thấy chú Luke đứng trước
ngưỡng cửa chính đang rộng mở. Cô có
thể nghe thấy giọng chú, nhưng không
nghe ra chú nói gì. Nhưng nghe có vẻ
chú không hề tức giận

Bàn tay Simon đặt tay lên vai cô, kéo


cô lùi lại. “Tránh xa cánh cửa ra. Cậu
sao thế, điên à? Nhỡ có quỷ ngoài kia thì
sao?”

“Vậy có lẽ chú Luke sẽ cần chúng ta


giúp,” cô nhìn bàn tay cậu đặt trên vai cô
mà cười toe toét “Giờ cậu cũng muốn
bảo vệ mình à? Dễ thương ghê.”

“Clary!” chú Luke gọi cô. “Tới đây.


Chú muốn cháu gặp một người.”

Clary vỗ vỗ rồi gạt tay Simon sang


bên. “Mình trở lại ngay.”

Chú Luke đang khoanh tay tựa người


vào khung cửa. Con dao trên tay chú kỳ
diệu thay đã biến đâu mất. Một cô gái
đứng trước bậc tam cấp, với mái tóc nâu
xoăn xoăn được tết lại thành nhiều bím
nhỏ và mặc chiếc áo khoác nhung kẻ màu
đồng. “Đây là Maia,” chú Luke nói.
“Người chú đã nói với cháu đó.”

Cô gái nhìn Clary. Dưới ánh đèn sáng


choang hắt xuống từ hiên nhà, màu mắt
cô nàng biến thành màu xanh hổ phách kỳ
dị. “Chắc cậu là Clary.”

Clary gật đầu xác nhận.


“Vậy cái anh chàng... cái anh chàng
tóc vàng đã gây lộn ở quán Hunter’s
Moon ấy... là anh trai cậu à?”

“Jace,” Clary đáp cụt lủn, không thích


kiểu tò mò tọc mạch của cô gái này.

“Maia hả?” Simon, bước ra từ đằng


sau Clary, tay nhét trong túi áo bò.

“Ừ. Đằng đó là Simon nhỉ? Tớ không


giỏi nhớ tên, nhưng tớ nhớ cậu.” Cô gái
mỉm cười với Simon.

“Hay thật,” Clary nói. “Giờ cả đám là


bạn cơ đấy.”

Chú Luke ho húng hắng và đứng thẳng


người dậy. “Chú muốn các cháu biết
nhau vì Maia sẽ làm việc tại hiệu sách
trong vài tuần tới,” chú nói. “Nếu cháu
thấy cô nhóc này đi ra đi vào, đừng lo
lắng làm gì. Cô này có chìa khóa.”

“Và tớ sẽ để ý mấy chuyện kỳ lạ giùm


cho,” Maia hứa. “Quỷ, ma cà rồng, bất
cứ thứ gì.”

“Cám ơn,” Clary nói. “Giờ tớ thấy an


toàn quá cơ.”
Maia chớp mắt. “Cậu đang mỉa tớ đấy
à?”

“Dạo này bọn tớ hơi căng thẳng,”


Simon nói. “Tớ là người duy nhất vui vì
biết có người ở đây giúp để ý bạn gái
mình khi không ai ở nhà.”

Chú Luke nhướn mày nhưng không nói


gì. Clary nói. “Simon nói đúng. Tớ xin
lỗi đã gắt gỏng với cậu.”

“Không sao mà.” Maia có vẻ thông


cảm. “Tớ đã nghe qua chuyện của mẹ
cậu. Tớ rất tiếc.”
“Tớ cũng vậy,” Clary nói, quay người
trở vào phòng bếp. Cô ngồi xuống bàn và
úp mặt vào tay. Một lát sau chú Luke
bước vào.

“Xin lỗi,” chú nói. “Chú đoán giờ


cháu không muốn gặp ai hết.”

Clary nhìn chú qua khe hở những ngón


tay. “Simon đâu ạ?”

“Đang nói chuyện với Maia,” chú


Luke đáp, và quả thực Clary nghe thấy
giọng họ, khe khẽ thì thầm, vẳng tới từ
bên kia nhà. “Chú chỉ nghĩ sẽ tốt nếu
cháu có thêm một người bạn vào thời
điểm này.”
“Cháu có Simon rồi.”

Chú Luke đẩy kính trên sống mũi.


“Chú vừa nghe nó gọi cháu là bạn gái thì
phải?”

Cô suýt bật cười vì sự bối rối biểu


hiện trên nét mặt chú. “Cháu đoán thế.”

“Đó là tin mới, hay là một tin chú đã


biết nhưng quên mất nhỉ?”

“Cháu cũng nghe thấy lần đầu mà.” Cô


bỏ tay khỏi mặt và nhìn vào đấy chăm
chú. Cô nghĩ tới chữ rune, hình đôi mắt
mở, được vẽ trên mu bàn tay bất cứ Thợ
Săn Bóng Tối nào. “Bạn gái một ai đó,”
cô nói. “Em gái một ai đó, con gái một ai
đó. Toàn những vai trước đây cháu chưa
từng nghe đến, và giờ cháu vẫn không
thực sự biết mình là gì nữa.”

“Chẳng phải đấy luôn là câu hỏi sao,”


chú Luke nói, Clary nghe tiếng cửa đóng
lại và tiếng bước chân Simon bước vào
bếp. Mùi không khí ban đêm lành lạnh ùa
vào theo chân cậu.

“Cháu ở lại đây tối nay có phiền


không ạ?” cậu hỏi. “Giờ về nhà thì hơi
quá muộn rồi.”
“Cháu biết nơi này luôn chào đón
cháu.” Chú Luke liếc nhìn đồng hồ. “Chú
sẽ đi ngủ. Sáng mai năm giờ chú phải
dậy để sáu giờ là có mặt ở bệnh viện.”

“Sao lại là sáu giờ?” Simon hỏi, sau


khi chú Luke rời bếp.

“Bệnh viện cho phép người nhà vào


chăm sóc bệnh nhân từ giờ đó,” Clary
đáp. “Cậu không cần ngủ trên đi văng
đâu. Nếu như cậu không muốn.”

“Mình không ngại ở lại chơi với cậu


nốt ngày mai đâu,” cậu nói, bực bội lắc
lắc xua những sợi tóc đen lòa xòa xuống
mắt. “Không một chút nào.”
“Mình biết. Ý mình là cậu không phải
ngủ trên đi văng nếu như cậu không
muốn.”

“Vậy thì ở đâu...” Giọng Simon lạc


mất, còn đôi mắt dưới cặp kính mở lớn.
“À.”

“Có một giường đôi,” cô nói. “Trong


phòng ngủ cho khách.”

Simon rút tay khỏi túi. Má cậu ấy đỏ


ửng. Nếu là Jace, anh ấy sẽ tỏ ra bình
thường; nhưng Simon không thèm giấu
diếm. “Cậu chắc không?”
“Chắc mà.”

Cậu đi qua bếp, tới bên cô rồi cúi


xuống hôn nhẹ nhàng và vụng về lên môi
cô. Clary mỉm cười và đứng dậy. “Quá
đủ với những gian bếp rồi,” cô nói.
“Không bếp nữa đâu nhé.” Nói rồi, nắm
chặt lấy cổ tay Simon, cô kéo cậu “bạn
trai” ra khỏi bếp, về phía phòng ngủ của
khách mà cô sử dụng.

5. Tội lỗi của các cha


Bóng tối nơi trại giam của Thành
phố Câm Lặng dày đặc hơn bất cứ
bóng tối tại bất cứ nơi nào Jace từng biết
tới. Anh không thể thấy được hình dạng
bàn tay mình đặt ngay trước mắt, không
thể thấy nền nhà hay trần xà lim nữa. Bên
trong này như thế nào, anh biết được nhờ
ánh đuốc heo hắt trên đường các Tu
Huynh Câm giải anh xuống. Sau đó họ
mở xà lim rồi đẩy anh vào như đẩy một
tên tội phạm thông thường.

Nhưng mà này, có lẽ đó chính xác là


điều họ nghĩ về anh thôi mà.

©DTV
Anh biết xà lim có nền đá lát, ba bức
tường là đá lổn nhổn, mặt tường thứ tư
chỉ là những thanh chắn điện nằm san sát
nhau, đầu mỗi thanh chắn cắm sâu trong
mặt đá phiến. Anh biết có một cánh cửa
được gắn vào các thanh chắn đó. Anh
cũng biết có một thanh kim loại chạy dài
dọc trên bức tường phía đông, vì các Tu
Huynh Câm cho cố định một cái cùm bạc
với một đầu gắn vào thanh chắn trên bức
tường đó, còn đầu kia xích lấy cổ tay
anh. Anh có thể đứng lên đi lại vài bước,
kêu lẻng xẻng như bóng ma Marley,
nhưng chỉ được có thế. Anh đã phải xoa
bóp cổ tay phải đã bị đau do không suy
nghĩ gì mà giật cùm. May mà anh thuận
tay trái - một đốm sáng le lói trong bóng
tối mịt mùng này. Chẳng nghĩa lý gì cho
lắm, nhưng bên tay giỏi tác chiến hơn
còn được tự do cũng an ủi phần nào.

Anh lại thơ thẩn dạo theo chiều dài xà


lim, vừa đi vừa rê mấy ngón tay dọc bức
vách. Không biết được giờ giấc ra sao
thật bức bối quá. Hồi còn ở Idris, bố có
dạy anh xem giờ qua góc độ mặt trời vào
ban ngày, độ dài của bóng râm vào ban
chiều và vị trí của các vì sao trên bầu
trời đêm. Nhưng ở đây không có sao.
Thật ra, anh đang nghĩ liệu mình còn có
cơ hội được ngắm nhìn bầu trời nữa
không.

Jace ngừng lại. Ồ, sao lại phải nghĩ


như thế nhỉ? Tất nhiên mình sẽ được thấy
lại mặt trời chứ. Hội đồng Clave không
định giết mình. Án tử hình chỉ dành cho
những kẻ giết người thôi. Nhưng nỗi sợ
hãi dập dìu vẫn ở trong anh, ngay dưới
mạng sườn, lạ lẫm như một cơn đau nhói
lên từng hồi. Jace không hẳn dễ bị hoảng
loạn - Alec từng nói nếu như biết cách
sợ hãi đúng lúc thì có khi anh ấy đã
sướng hơn chút rồi. Thường thì sợ hãi
không thể nào chi phối nhiều tới anh.

Anh nghĩ tới lời bà Maryse nói, Con


chưa từng sợ bóng tối.

Quả đúng vậy. Sự căng thẳng này có


gì đó không bình thường, không giống
anh chút nào. Không đơn giản chỉ là
bóng tối. Anh hít thêm một hơi thở ngắn.
Anh chỉ cần phải vượt qua đêm nay. Một
đêm. Chỉ thế mà thôi. Anh bước thêm
bước nữa, kéo theo sợi xích kêu lanh
canh buồn thảm.

Một âm thanh xé toang không khí, làm


Jace đứng im tại chỗ. Là một tiếng tru
lên chát chúa, một âm thanh của sự kinh
hoàng nguyên thủy nhất. Dường như nó
cứ ngân lên rồi ngân lên mãi như một nốt
nhạc vương vít mãi trên dây đàn vi ô
lông, càng lúc càng cao hơn, thanh hơn
và sắc hơn tới khi đột nhiên ngừng bặt.

Jace chửi thề. Tai anh ù đi, và anh có


thể nếm được vị của kinh hoàng trong
miệng, như kim loại đắng ngắt. Ai có thể
nghĩ sợ hãi có mùi vị chứ? Anh ép lưng
vào tường xà lim, vận ý chí để bình tĩnh
lại.

Âm thanh đó lại vang lên, lần này lớn


hơn, rồi có tiếng thét, thêm một tiếng thét
nữa. Hình như trên kia có cái gì đó rơi
vỡ, Jace vô thức thụp xuống trước khi
nhận ra mình đang ở sâu mấy tầng dưới
lòng đất. Anh nghe thấy một tiếng rơi vỡ
khác, và một hình ảnh hiện lên trong đầu:
nắp quan tài bật mở, xác của những Thợ
Săn Bóng Tối vốn đã yên nghỉ hàng thế
kỷ, nay bật dậy, vật vờ đi lại, toàn là
những bộ xương di động được nối với
nhau bằng những sợi dây chằng khô quắt
với những ngón tay dài ngoằng xương
xẩu, không còn tí thịt nào, lê chân khắp
trên nền gạch trắng của Thành Phố Câm
Lặng...

Đủ rồi! Jace thở hắt một hơi thật


mạnh và cố xua hình ảnh đó đi. Người
chết không sống dậy. Với lại, họ là xác
của những Nephilim như anh thôi mà,
những anh chị em bị giết hại của anh
thôi. Chẳng lý gì anh phải sợ họ cả. Vậy
sao anh lại sợ hãi đến vậy chứ? Jace
nắm chặt tay lại, móng bập cả vào lòng
bàn tay. Cơn hoảng loạn này không nghĩa
lý gì vói anh cả. Anh phải làm chủ nó.
Phải đập nát nó. Jace hít một hơi sâu,
nông đầy buồng phổi, đúng lúc ấy một
tiếng hét nữa vang lên, cực lớn. Hơi thở
ào ạt rời khỏi lồng ngực khi anh khi có
thứ gì đó đổ sầm vang vọng, rất gần, và
đột nhiên anh thấy một luồng sáng như
một đóa hoa lửa nóng rực đâm thẳng vào
mắt.

Tu Huynh Jeremiah loạng choạng hiện


ra, bàn tay phải nắm chặt lấy ngọn đuốc
vẫn đang bập bùng cháy, mũ trùm kéo ra
sau để lộ khuôn mặt biến dạng vì kinh
sợ. Cái miệng vốn được khâu lại nay
toác ra thành một tiếng thét câm lặng,
những sợi chỉ dính máu thịt tòng teng trên
đôi môi bươm nát. Máu đen lại dưới ánh
đuốc, vấy bẩn lên chiếc áo choàng sáng
màu. Tu Huynh loạng choạng bước lên
vài bước, hai tay rướn tới trước - rồi sau
đó, trong khi Jace điếng người kinh ngạc
quan sát, Jeremiah đổ gục xuống đất.
Jace nghe tiếng xương cốt gãy dập khi
thân thể viên văn thư va xuống nền nhà
rồi ngọn đuốc văng đi, lăn lông lốc khỏi
tay Jeremiah tới máng xối đá chìm dưới
mặt sàn ngay ngoài cánh cửa xà lim khóa
trái.

Jace lập tức quỳ xuống, vươn căng


người hết cỡ sợi xích cho phép, với tay
lấy ngọn đuốc. Gần như không thể. Lửa
đuốc nhanh chóng lụi tàn, nhưng nhờ ánh
sáng heo hắt đó anh có thể nhìn thấy rõ
khuôn mặt cứng đờ của Jeremiah quay về
phía mình, máu vẫn ứa ra từ cái miệng
ngoác rộng. Răng của anh ta chỉ là những
mẩu chân răng bị biến dạng màu đen.

Ngực Jace có cảm giác như bị thứ gì


đấy đè nặng lên. Các Tu Huynh Câm
trước nay không bao giờ mở miệng,
không bao giờ nói, cười hay hét. Nhưng
đấy chính là âm thanh mà anh đã nghe
thấy, giờ thì Jace biết rõ là vậy - những
tiếng thét của những con người suốt nửa
thế kỷ nay luôn luôn im lặng, âm thanh
kinh hãi chất ngất bàng hoàng hơn cả chữ
rune Câm lặng xưa cổ. Nhưng sao lại có
thể chứ? Các Tu Huynh khác đâu rồi?

Jace muốn gào lên kêu cứu, nhưng sức


nặng đè nén kia vẫn còn trên ngực anh,
vẫn đang ép xuống. Anh dường như
không có đủ không khí mà hít thở. Anh
lại một lần nữa nhoài về phía ngọn đuốc
và hình như một mảnh xương nhỏ trên cổ
tay bị rạn gãy. Cơn đau nhói dọc cánh
tay, nhưng cho anh có được một vài phân
mình cần. Anh nắm lấy cây đuốc và đứng
dậy. Khi ánh đuốc lại một lần nữa bùng
lên, anh nghe ra một tiếng động khác.
Một âm thanh dày hơi, nghe giống tiêng
rít ghê tai, kéo dài không dứt. Tóc gáy
anh dựng ngược, cứng như những cây
kim. Anh dứ đuốc về phía trước, bàn tay
run rẩy đưa ánh sáng bập bùng nhảy nhót
trên những bức tường, xua tan đi mọi
bóng tối.
Chẳng có gì.

Nhưng thay vì an tâm, anh lại thấy


càng lúc càng sợ hãi. Anh bắt đầu thở
dốc dữ dội, như thể đang ở dưới nước.
Nỗi sợ còn dễ sợ hơn vì nó quá mới lạ.
Chuyện gì đã xảy ra thế này? Đột nhiên
anh biến thành một thằng hèn sao?

Jace giật mạnh cùm, hy vọng cơn đau


khiến mình tỉnh tảo lại. Nhưng không.
Anh lại nghe thấy âm thanh đó, cái tiếng
rít kinh khủng đang tiến lại càng lúc càng
gần. Kèm theo đó còn có một âm thanh
khác, nghe giống tiếng thì thào liên tục,
nho nhỏ. Anh chưa bao giờ nghe thấy một
âm thanh nào quá sức độc địa như vậy.
Gần như mất trí vì sợ hãi, anh loạng
choạng lùi lại dựa lưng vào tường, giơ
đuốc lên với cánh tay lật bà lật bật.

Trong chốc lát, dưới ánh sáng như ban


ngày, anh đã thấy toàn bộ căn phòng: xà
lim, cánh cửa chấn song, nền đá phiến
trơ trụi bên ngoài cửa, và thi thể Tu
Huynh Jeremiah nằm cứng đờ trên mặt
đất. Có một cánh cửa ngay sau Jeremiah.
Cửa từ từ mở. Có gì đó chui qua cánh
cửa. Một thứ to lớn, đen đúa, vô hình vô
dạng. Mắt nó như băng sáng rực, trũng
hoắm vào trong lớp mí đen ngòm, nhìn
Jace gầm ghè hứng thú. Rồi nó nhào tới.
Một đám mây to lớn những hơi nước
cuộn vòng dâng lên trước mắt Jace như
một làn sóng tràn qua mặt đại dương.
Điều cuối cùng anh còn thấy là lửa đuốc
chuyển màu xanh lam rồi xanh lục trước
khi bị bóng tối nuốt trọn.

Hôn Simon rất dễ chịu. Một kiểu dễ


chịu thư thái, giống cảm giác nằm trên
võng trong một ngày hè với một cuốn
sách và một cốc nước chanh. Đó là một
việc bạn thích làm mãi mà không thấy
chán hay e ngại hay bối rối hay bị những
chuyện khác làm cho phân tâm trừ khi
chuyện đó là thanh giác giường bằng kim
loại liên tục chọc vào lưng bạn.

“Ối,” Clary kêu lên, cố lách khỏi cái


giác giường nhưng không được.
“Mình làm cậu đau à?” Simon
nghiêng người ngồi dậy, trông lo lắng.
Hoặc có thể do không đeo kính nên mắt
cậu trở nên đen láy và to gấp đôi bình
thường.

“Không, không phải cậu - do cái


giường thôi. Nó như kiểu công cụ tra tấn
ấy.”

“Mình đã không để ý,” cậu buồn buồn


nói, trong khi Clary với lấy cái gối bị rơi
xuống dưới mặt sàn lên, đặt sau lưng họ.

“Ừ, nhưng giờ cậu cũng không cần để


ý nữa đâu,” cô cười nói. “Chúng ta đang
tới đâu rồi nhỉ?”

“À, mặt mình vẫn ở chỗ này, nhưng


lúc đó mặt cậu gần mặt mình hơn. Mình
nhớ vậy đấy.”

“Lãng mạn ghê.” Cô kéo Simon lên


trên, và cậu chống khuỷu tay giữ thăng
bằng. Cơ thể họ dán chặt vào nhau và cô
cảm nhận được nhịp tim của cậu qua hai
làn áo. Hàng lông mi, bình thường ẩn sau
cặp kính, giờ cọ cọ vào má cô khi cậu
cúi xuống hôn cô. Cô khẽ cười run rẩy.
“Cậu có thấy kỳ lạ không?” cô thì thầm.

“Không. Tớ nghĩ nếu mình tưởng


tượng tới cái gì đó quá thường xuyên, thì
khi nó thực sự xảy ra thì...”

“Tuột đỉnh hả?”

“Không. Không!” Simon lùi lại, nhìn


cô với vẻ buộc tội từ đôi mắt cận. “Đừng
bao giờ nghĩ vậy. Chuyện này ngược lại
với tuột đỉnh. Nó... “

Cô đã cố nén, nhung giờ không thể


nào ngăn mình không cười được “Được
rồi, có lẽ cậu cũng không muốn nói đến
từ đấy.”

Cậu nhắm hờ mắt, cánh môi cong lên


thành một nụ cười, “Ừ, giờ thì mình cũng
muốn đáp trả bằng lời ranh ma nào đấy,
nhưng mình chỉ có thể nghĩ đến...”

Cô cười toe toét “Rằng cậu muốn


quan hệ với mình?”

“Thôi đi.” Simon chụp lấy tay cô, đè


tay cô xuống giường rồi nhìn nghiêm túc
vào mắt cô. “Rằng mình yêu cậu.”

“Vậy là cậu không muốn chuyện kia


à?”

Simon thả tay cô ra. “Mình đâu có


bảo thế.”
Clary bật cười và đưa hai tay đẩy
ngực cậu. “Để mình ngồi dậy nào.”

Simon hơi giật mình hoảng hốt. “Mình


không định nói là mình chỉ muốn chuyện
đó...”

“Không phải thế. Mình muốn đi thay


đồ ngủ. Mình không thể nghiêm chỉnh ôm
ấp khi chân vẫn còn mang tất.” Simon
nhìn Clary bằng vẻ ai oán trong khi cô
lấy bộ đồ ngủ khỏi tủ quần áo và đi vào
nhà tắm. Kéo cửa lại, cô nhăn mặt cười
cợt “Mình sẽ trở lại ngay.”

Nếu Simon nói gì đi nữa thì lời nói đã


bị chặn lại bởi lớp cửa nhà tắm. Cô đánh
răng rồi mặc cho nước chảy vào bồn rửa
mặt, trong khi mắt nhìn chăm chú vào
gương tủ thuốc. Tóc cô rối bù còn má thì
đỏ ửng. Thế này có phải bừng sáng
không nhỉ? Cô nghe nói khi yêu con
người ta luôn bừng sáng mà? Hoặc có
thể họ đang nói tới những người mang
bầu, cô cũng không nhớ rõ lắm, nhưng
chắc chắn cô phải trông khang khác tí.
Dù gì, đây cũng là nụ hôn dài đầu tiên
của cô - và cô thấy nó dễ thương, an
toàn, dễ chịu và thoải mái, Clary tự nhủ.

Tất nhiên, cô đã từng hôn Jace, vào


đêm sinh nhật của cô, và cái hôn đó
không hề an toàn, dễ chịu và thoải mái tý
nào. Nụ hôn đó giống như việc mở tung
mạch một thứ gì đó lạ lẫm trong cơ thể
cô, một thứ gì đó nóng hổi, ngọt ngào
nhưng xót xa hơn cả máu. Đừng nghĩ tới
Jace nữa, cô mãnh liệt yêu cầu chính
mình, nhưng khi nhìn mình trong gương,
cô nhìn thấy mắt mình sa sầm lại và biết
rằng dù đầu óc nói không nhưng cơ thể
mình vẫn nhớ.

Cô vặn nước lạnh rồi té lên mặt trước


khi với lấy bộ đồ ngủ. Hay thật, Clary
nhận ra mình có mang theo quần nhưng
lại quên mang áo. Dù có thể Simon thích
lắm đấy, nhưng dường như giờ mà ngủ
trần thì hơi quá nóng vội. Cô trở lại
phòng ngủ, thấy Simon đã ngủ thiếp đi
giữa giường, tay ôm gối như thể đấy là
người thật. Cô nín cười.

“Simon...” cô thì thào gọi - rồi nghe


thấy hai tiếng bíp bíp đanh gọn, âm thanh
báo có tin nhắn tới. Điện thoại vẫn đang
gập lại đặt trên bàn cạnh giường; Clary
cầm lên và nhận ra đó là tin đến từ
Isabelle.

Cô mở điện thoại và vội vã kéo xuống


để đọc toàn bộ tin nhắn. Cô đọc đi đọc
lại hai lần, chỉ để chắc chắn mình không
tưởng tượng ra mọi chuyện. Sau đó cô
chạy tới tủ lấy áo khoác.

***
“Jonathan.”

Giọng nói vang lên từ bóng tối: chậm


rãi, hắc ám và quen như cơn đau. Jace
chớp chớp mắt mở ra nhưng chỉ nhìn thấy
một màn đen mịt mùng. Anh rùng mình.
Anh đang nằm co quắp trên nền nhà đá
phiến lạnh cóng. Hẳn anh đã ngất. Anh
bỗng dưng thấy giận bản thân ghê gớm vì
để mình yếu đuối thế này.

Anh lăn người sang bên, cổ tay gãy


đau buốt trong gọng cùm. “Có ai ngoài
đó không?”

“Hẳn con phải nhận ra bố đẻ của mình


chứ, Jonathan.” Giọng nói đó lại vang
lên, và Jace quả là nhận ra thật: thứ thanh
âm sắt cũ, thứ mượt mà gần như không
âm điệu của giọng nói ấy. Anh loạng
choạng cố đứng dậy nhưng ủng trượt phải
vũng nước gì đó làm anh ngã ngửa về
sau, vai đập mạnh vào bức tường đá.
Tiếng dây xích rổn rảng kêu nghe như
dàn hợp xướng các phong linh bằng thép.

“Con đau sao?” Một tia sáng chiếu


thẳng tới, làm mắt Jace nóng rát. Anh
chớp chớp xua đi nước mắt bỏng rát rồi
nhìn thấy Valentine đang đứng phía bên
kia chấn song, bên cạnh xác chết Tu
Huynh Jeremiah. Một viên đá phù thủy
bên một tay tỏa ánh sáng lạnh lẽo tới
khắp phòng. Jace thấy cả những vết máu
khô dính lâu ngày trên những bức tường
giam - và vũng máu mới hơn, đang chảy
ra từ khóe miệng Tu Huynh Jeremiah.
Anh thấy bụng dạ quặn thắt lại, và nghĩ
đến cái thứ không hình không dạng đen
đúa với đôi mắt như đá quý cháy rực lúc
nãy mình trông thấy. “Cái thứ đó,” anh
thốt lên. “Nó đâu rồi? Nó là gì thế?”

‘‘Con đang bị thương.” Valentine tới


gần những chấn song hơn. “Ai đã nhốt
con trong đây? Hội đồng Clave hả? Hay
nhà Lightwood?”

“Là Điều Tra Viên.” Jace nhìn xuống


mình. Trên ống quần và trên áo sơ mi có
thêm nhiều máu nữa. Anh cũng không
biết đó có phải máu của mình không.
Máu đang từ từ chảy ra từ cổ tay phải bị
cùm.

Valentine thận trọng dò xét anh từ phía


bên kia song sắt. Đây là lần đầu tiên sau
nhiều năm Jace mới thấy bố trong trang
phục chiến đấu thực sự - loại quần áo
bằng da dày của Thợ Săn Bóng Tối cho
phép người dùng tự do di chuyển vừa
bảo vệ da họ khỏi hầu hết các loại độc
quỷ; vòng hợp kim vàng bạc ôm lấy cổ
chân và cổ tay, có khắc một loạt chữ
tượng hình và chữ rune. Chéo ngang
ngực ông ta là một sợi dây da to bản còn
sau vai trồi lên một đốc kiếm sáng loáng.
Khi đấy ông ta ngồi xuống, đôi mắt đen
lạnh lẽo nhìn ngang tầm mắt Jace. Jace
ngạc nhiên vì trong đó không hề có chút
giận dữ nào. “Điều Tra Viên và Hội
đồng Clave cũng như nhau cả thôi. Và
đáng ra nhà Lightvvood không bao giờ
được để cho chuyện này xảy ra. Đáng ra
ta không nên để ai làm điều này với
con.”

Jace ép sát vai vào tường; dây xích


chỉ cho phép cậu tránh xa ông bố mình
tới vậy. “Ông tới đây để giết tôi?”

“Giết con? Sao ta lại muốn giết con?”

“Thế sao ông giết Tu Huynh


Jeremiah? Mà đừng nghĩ tới chuyện qua
mắt tôi bằng câu chuyện kiểu như ông
tình cờ đi ngang qua thì huynh ấy tự dưng
lăn đùng ra chết nhé. Tồi biết ông đã gây
ra chuyện này.”

Lần đầu tiên kể từ khi bước vào


phòng, Valentine mới thèm để mắt tới cái
xác của Tu Huynh Jeremiah. “Đúng là ta
giết hắn, cả các Tu Huynh Câm còn lại.
Ta buộc phải làm vậy thôi. Chúng có thứ
ta cần.”

“Thứ gì nào? Ý thức tuân thủ phép tắc


chăng?”

“Thứ này này,” Valentine nói, và rút


Thanh Kiếm sau lưng ra khỏi vỏ một
cách dễ dàng. “Maellartach.”

Jace nén lại tiếng ngạc nhiên há hốc


dâng lên trong họng. Anh nhận biết nó
rành rành: thanh kiếm bạc lớn, to bản với
chuôi kiếm tạo hình đôi cánh đang dang
rộng được treo trên Vì Sao Tiên Tri tại
phòng hội đồng của các Tu Huynh Câm.
“Ông cướp thanh kiếm của các Tu Huynh
Câm sao?”

“Thanh kiếm này chẳng bao giờ thuộc


về chúng cả,” Valentine nói “Nó thuộc
về tất cả các Nephilim. Đây là lưỡi kiếm
mà Thiên Thần đã dùng để đuổi Adam
và Eve ra khỏi vườn địa đàng. Và Ngài
đi giao cho Cherubim một thanh kiếm
rực lửa để bảo vệ phía đông vườn Địa
Đàng, nhằm ngăn con người đi đến cây
sự sống,” ông ta trích dẫn và nhìn chăm
chú lưỡi kiếm.

Jace liếm đôi môi nứt nẻ. “Ông định


làm gì với nó?”

“Ta sẽ nói cho con nghe,” Valentine


đáp, “khi ta nghĩ ta có thể tin con, và ta
biết con tin ta.”

“Tin ư? Sau khi ông lén lút chui qua


Cổng Dịch Chuyển tại điền trang
Renwick rồi đập vỡ nó để tôi không thể
đuổi theo ấy à? Và sau khi ông cố giết
chết Clary nữa chứ?”
“Ta chưa bao giờ định làm em gái con
bị thương,” Valentine nói, phảng phất sự
tức giận. “Cũng như ta không muốn làm
con bị thương vậy.”

“Tất cả những gì ông từng làm đều


khiến tôi bị tổn thương! Chính nhà
Lightwood đã bảo vệ tôi!”

“Ta không phải là kẻ nhốt con trong


này. Ta không phải là kẻ đe dọa và đánh
mất niềm tin nơi con. Kẻ đấy là nhà
Lightwood và lũ bạn bè của chúng tại
Hội đồng Clave.” Valentine ngừng lại.
“Thấy con thế này - thấy cách chúng đối
xử với con, vậy mà con vẫn không nao
núng - ta thấy tự hào về con.”

Nghe tới đây, Jace sững sờ nhìn phắt


lên, động tác quá nhanh khiến anh thấy
hơi choáng. Tay anh nhói đau từng hồi.
Anh nén đau và cố ổn định lại hơi thở.
“Cái gì?”

“Giờ thì ta biết ta đã sai tại điền trang


Renwick,” Valentine nói tiếp. “Lúc đấy
ta vẫn nghĩ con là đứa trẻ ta bỏ lại ở
Idris, vẫn ngoan ngoãn nghe theo mọi
điều ta muốn. Nhưng thay vào đó ta lại
tìm thấy một cậu thanh niên gan góc, độc
lập và khí phách, thế nhưng ta vẫn đối xử
với con như với một đứa bé. Con phản
kháng lại ta âu cũng là lẽ đương nhiên
thôi.”

“Phản kháng? Tôi...” Cổ họng Jace


nghẹn đắng, không cho anh nói thành lời.
Tim anh bắt đầu đập cùng nhịp với cơn
đau đang nhói từng cơn ở cổ tay.

Valentine tiếp tục. “Ta chưa bao giờ


có cơ hội giải thích những chuyện trong
quá khứ với con, để cho con hiếu lý do
ta đã làm những gì ta phải làm.”

“Chẳng có gì phải giải thích cả. Ông


đã giết ông bà tôi. Ông giam giữ mẹ tôi.
Ông giết những Thợ Săn Bóng Tối khác
để xúc tiến ý đồ của riêng ông.” Mỗi lời
nói thốt qua đầu lưỡi đều có vị như thuốc
độc.

“Con chỉ biết một nửa sự thật mà thôi,


Jonathan ạ. Ta dối con khi con còn nhỏ
vì con chưa hiểu chuyện. Giờ con đã đủ
lớn để được nghe hết sự thật.”

“Vậy nói sự thật cho tôi nghe xem


nào.”

Valentine đưa tay qua song sắt và đặt


tay lên tay Jace. Những ngón tay thô ráp
chai sần của ông ta cảm giác vẫn giống y
như hồi Jace lên mười.

“Ta muốn tin ở con, Jonathan ạ,” ông


nói. “Được không?”

Jaee muốn trả lời, nhưng lời lẽ không


thoát ra được. Ngực anh cảm giác như bị
một vòng sắt vô hình dần thít lại, đang
bóp nghẹt hơi thở anh từng giây từng
phút. “Mong là thế...” cậu thì thầm.

Một tiếng động từ bên trên vọng


xuống. Tiếng động như tiếng cửa sắt va
loảng xoảng; rồi Jace nghe thấy những
tiếng bước chân, những tiếng thì thầm to
nhỏ vọng khắp những bức tường đá của
Thành Phố. Valentine dợm đứng dậy, bóp
ngọn đèn phù thủy trong tay tới khi nó chỉ
còn là một thứ ánh sáng le lói và ông
cũng dần biến thành một cái bóng đen mờ
nhạt. “Nhanh hơn ta tưởng,” ông ta thì
thào và nhìn xuống Jace bên kia chấn
song.

Jace nhìn ra sau bố mình, nhưng anh


chẳng thấy gì ngoài màn đen bên ngoài
tầm chiếu sáng mờ nhạt của ngọn đèn phù
thủy. Anh nghĩ tới đám khói đen mình
thấy lúc nãy, đã dẹp tan toàn bộ ánh sáng
trước nó. “Cái gì đang tới vậy? Cái gì
vậy?” anh vội vội vàng vàng bò ra chỗ
chấn song.

“Ta phải đi rồi,” Valentine nói.


“Nhưng chuyện giữa ta và con chưa xong
đâu.”
Jace đặt tay lên song sắt. “Tháo xích
cho tôi. Dù nó là gì, tôi muốn mình có
khả năng đấu lại nó.”

“Giờ thả con ra không phải nhân từ


với con đâu.” Valentine bóp chặt lấy
ngọn đèn phù thủy. Ánh sáng biến mất,
nhấn chìm căn phòng vào bóng tối. Jace
lao vào những chấn song, bàn tay bị gãy
giờ đang gào thét lên đau đớn.

“Không!” anh hét. “Bố ơi, làm ơn.”

“Nếu con muốn tìm ta,” Valentine nói,


“con sẽ tìm thấy.” Và rồi chỉ còn tiếng
bước chân Valentine vội vã đi xa dần
cùng tiếng thở hổn hển của chính Jace khi
anh trượt dần xuống trên những chấn
song sắt.

Suốt chuyền tàu đi lên khu phố trên


Clary thấy mình không thể ngồi xuống
nổi. Cô đi đi lại lại quanh toa tàu gần
như trống không, tai nghe của chiếc iPod
đong đưa quanh cổ. Isabelle không nhấc
máy khi Clary gọi lại, và cảm giác chộn
rộn bất an đang gặm nhấm trí óc cô.

Cô nhớ lại hình ảnh Jace tại quán


Hunter’s Moon, người bê bết máu. Với
hàm răng nhe ra trong cơn giận dữ, trông
anh giống người sói hơn một Thợ Săn
Bóng Tối mang trách nhiệm cao cả là
bảo vệ con người và khống chế kiểm
soát Cư dân Thế giới Ngầm.

Cô vội vã chạy lên những bậc thang


của trạm dừng trên phố Chín Mươi Sáu,
chỉ đi chậm lại khi quặt vào góc đường
nơi Học Viện đứng sừng sững như một
cái bóng khổng lồ xám xịt. Lúc dưới
đường hầm không khí khá oi nóng, giờ thì
mồ hôi sau gáy cô đang nhột nhạt lạnh
lẽo khi cô đặt chân lên những bậc thềm
bằng bê tông đã rạn nứt dẫn vào Học
Viện.

Cô vươn tay với dây cái chuông sắt


lớn treo tại dầm cột, nhưng rồi lưỡng lự.
Cô là Thợ Săn Bóng Tối cơ mà, đúng
không nhỉ? Cô có quyền được ở trong
Học Viện, như gia đình Lightwood thôi.
Trấn tĩnh lại, Clary cầm lấy tay vặn, cố
nhớ lời Jace đã nói. “Nhân danh Thiên
Thần, tôi...”

Cánh cửa mở ra một không gian le lói


sáng nhờ hàng tá những ngọn nến nhỏ xíu.
Khi cô rảo bước qua những hàng ghế
cứng, ánh nến hấp háy như thể đang cười
vào mặt cô. Cô tới thang máy và kéo sầm
cửa sắt lại, run rẩy ấn nút. Cô ước sao
mình bớt căng thẳng đi đôi chút - cô tự
hỏi, mình đang lo cho Jace, hay đang lo
sẽ được gặp Jace đây? Mặt cô, được che
kín trong chiếc áo khoác dựng cao cổ,
trắng bệch và nhỏ nhắn, còn đôi mắt màu
xanh đen mở lớn, môi bặm lại trắng
bệch. Không xinh đẹp gì cho cam, Clary
thất vọng, rồi nén ý nghĩ đó lại. Trông cô
thế nào thì đã sao? Jace chẳng quan tâm
đâu. Jace không được phép quan tâm.

Thang máy kêu rổn rảng dừng lại và


Clary đẩy cửa bước ra. Church đang đợi
cô trước tiền sảnh. Cu cậu chào đón cô
bằng những tiếng meo meo cáu bẳn.

“Sao thế, Church?” giọng cô nghe lớn


bất thường trong căn phòng im lặng như
tờ. Cô tự hỏi liệu có ai ở Học Viện
không. Có lẽ chỉ có mình cô thôi. Nghĩ
vậy làm cô hơi chột dạ. “Có ai ở nhà
không?”
Con mèo Ba Tư màu xanh đen quay
ngoắt người đi xuống hành lang. Họ đi
qua phòng nhạc và thư viện, cả hai đều
trống trơn, trước khi Church ngoặt lần
nữa và ngồi xuống trước cánh cửa đang
đóng như muốn nói: Thế thôi nhé.
Chúng ta đến nơi rồi đấy.

Trước khi cô kịp gõ cửa, cửa phòng


đã bật mở, Isabelle đứng ngay ngưỡng
cửa, mặc quần bò, áo len mềm màu tím
và đi chân trần. Vừa thấy Clary, cô nàng
đã cất tiếng: “Tớ nghĩ tớ nghe thấy tiếng
chân trong hành lang, nhưng lại không
nghĩ là cậu,” Isabelle nói. “Cậu làm gì ở
đây vậy?”
Clary nhìn cô nàng chằm chằm. “Cậu
gửi tin nhắn cho tớ. Cậu nói Điều Tra
Viên đã quẳng Jace vào tù.”

“Clary!” Isabelle vội ló đầu nhìn


quanh quất khắp hành lang rồi cắn môi.
“Nhưng tớ không bảo cậu chạy ngay tới
đây.”

Clary hoảng hốt. “Isabelle! Là nhà tù


đó!”

“Đúng, nhưng...” Thở dài buông xuôi,


Isabelle đứng sang một bên, ra hiệu cho
Clary vào phòng. “Thôi, giờ cậu vào đi.
Và xùy xùy,” cô ta nói và vẫy vẫy
Church. “Đi canh thang máy đi.”

Church nhìn một cách khinh ghét rồi


nằm ệp bụng xuống và nhắm mắt ngủ mất.

“Ôi lũ mèo, “ Isabelle rên rỉ và đóng


sầm cửa lại.

“Chào, Clary.” Alec đang ngồi trên


đống chăn nệm hỗn độn trên giường
Isabelle, chân vẫn đi giày đong đưa ở
một phía. “Em làm gì ờ đây?”

Clary ngồi xuống chiếc ghế bọc nệm


trước bàn trang điểm lộng lẫy nhưng bừa
bộn. “Isabelle nhắn tin cho em. Cô ấy
bảo cho em chuyện xảy ra với Jace.”

Isabelle và Alec ý nhị nhìn nhau. “Ồ


thôi nào Alec,” Isabelle nói. “Em nghĩ
cô ấy cần biết chuyện. Em không biết cô
ấy sẽ chạy ngay tới đây!”

Bụng Clary quặn lại. “Tất nhiên tớ


phải tới rồi! Anh ấy ổn không? Vì cái
quái gì mà Điều Tra Viên lại ném anh ấy
vào tù vậy?”

“Không hẳn là tù. Cậu ấy chỉ bị giam


trong Thành phố Câm Lặng thôi,” Alec
nói, ngồi thẳng dậy và đặt một chiếc gối
của Isabelle lên đùi. Anh lơ đãng giật
giật những rìa đính cườm khâu ở rìa gối.
“Thành phố Câm Lặng ư? Vì sao?”

Alec ngập ngừng. “Có những xà lim


nằm dưới Thành phố Câm Lặng. Người
ta đôi khi giam giữ các tội phạm dưới đó
trước khi chuyển chúng tới Idris để xét
xử trước Hội Đồng. Những người bị đưa
tới đó toàn những kẻ làm chuyện xấu.
Những kẻ giết người, ma cà rồng phản
bội, Thợ Săn Bóng Tối phá vỡ Hiệp
Định. Giờ Jace ở đó.”

“Bị nhốt cùng với một đống kẻ giết


người ư?” Clary tức giận nhảy dựng lên.
“Mấy người các anh bị sao vậy? Không
ai lo lắng gì sao?”
Alec và Isabelle nhìn nhau lần nữa.
“Chỉ một đêm thôi mà,” Isabelle nói.
“Mà trong nhà tù chỉ có mình Jace thôi.
Bọn tớ hỏi rồi.”

“Nhưng vì sao? Jace đã làm gì?”

“Cậu ta thóa mạ Điều Tra Viên. Theo


anh biết thì chỉ thế thôi,” Alec đáp.

Isabelle ngồi ghé lên mép bàn trang


điểm. “Thật không tin nổi.”

“Vậy chắc chắn là vì cái bà Điều Tra


Viên đó bị thần kinh rồi,” Clary nói.
“Thực ra thì bà ấy không hề bị thần
kinh,” Alec nói. “Nếu Jace ở trong quân
đội của con người ấy, cậu ấy có được
quyền thóa mạ cấp trên không? Chắc
chắn là không.”

“Ơ, trong thời chiến thì không được.


Nhưng Jace có phải lính đâu.”

“Nhưng tất cả bọn anh đều là lính.


Jace cũng như bọn anh thôi. Luôn có thứ
tự phân quyền rõ rệt và Điều Tra Viên
thuộc dạng dưới một người trên vạn
người đấy. Còn Jace thuộc tầng lớp gần
cuối. Đáng ra cậu ấy phải tôn trọng bà ta
hơn.”
“Nếu bọn anh đồng ý rằng anh ấy phải
ở tù, thì sao còn kêu em tới đây? Chỉ để
thuyết phục em đồng quan điểm với bọn
anh à? Em không hiểu. Bọn anh muốn em
làm gì?”

“Bọn mình không nói anh ấy phải vào


tù,” Isabelle quặc lại. “ Chỉ là anh ấy
không nên cãi lại một trong những thành
viên cấp bậc cao nhất của Hội dồng
Clave. Hơn nữa,” cô nói bằng giọng nhỏ
hơn “tớ nghĩ cậu có thể giúp được.”

“Giúp ư? Giúp thế nào?”


“Anh đã nói với các em rồi,” Alec
nói, “dường như trong phân nửa các
trường hợp thì Jace luôn tìm cách lao
vào chỗ chết. Cậu ấy phải học cách tự
chăm lo cho mình, bao gồm cả việc hợp
tác với Điều Tra Viên.”

“Và anh nghĩ em có thể khiến anh ấy


hợp tác sao?” Clary hỏi lại, giọng nhuốm
đầy nghi ngờ.

“Tớ nghĩ không ai có thể buộc được


Jace phải làm gì,” Isabelle nói. “Nhưng
tớ nghĩ cậu có thể nhắc cho anh ấy nhớ
rằng cuộc đời anh ấy còn có lý do để
sống.”
Alec nhìn cái gối trong tay và đột
nhiên giật mạnh những đường riềm. Hạt
cườm rào rào rơi xuống chăn của
Isabelle như mưa. Isabelle nhíu mày.
“Alec, đừng.”

Clary muốn nói với Isabelle rằng họ


mới là gia đình của Jace, còn cô thì
không, rằng họ nói có tầm ảnh hưởng tới
Jace nhiều hơn lời nói của cô. Nhưng cô
chỉ nghe thấy giọng Jace trong đầu, anh
không bao giờ có cảm giác mình thuộc
về một nơi nào đó. Nhưng em làm anh
có cảm giác chúng ta thuộc về nhau.
“Chúng ta tới Thành phố Câm Lặng thăm
anh ấy được không?”
“Em sẽ khuyên Jace hợp tác với Điều
Tra Viên chứ?” Alec hỏi.

Clary cân nhắc. “Trước tiên em muốn


nghe anh ấy nói gì đã.”

Alec ném cái gối hỏng xuống giường


và nhăn mặt đứng dậy. Trước khi anh kịp
cất lời thì họ nghe có tiếng gõ cửa.
Isabelle đứng bật dậy khỏi bàn trang
điểm và chạy ra mở cửa.

Ngoài cửa là một cậu nhóc nhỏ bé,


tóc đen, cặp mắt gần như khuất hẳn dưới
gọng kính. Cậu bé mặc quần bò và áo len
quá khổ, trên tay cầm một cuốn sách.
“Max,” Isabelle hơi ngạc nhiên, “chị
nghĩ em ngủ rồi mà.”

“Em ở trong kho vũ khí,” cậu nhóc -


hẳn là cậu út nhà Lightwood - đáp.
“Nhưng em nghe có tiếng gì đó phát ra từ
thư viện. Em nghĩ có người đang cố liên
lạc với Học Viện.” Cậu bé nheo mắt nhìn
Clary đằng sau. “Ai đây chị?”

“Đây là Clary,” Alec nói. “Em gái


Jace.”

Mắt Max mở to. “Em cứ tưởng anh


Jace không có anh chị em gì.”

“Chúng ta đều tưởng vậy,” Alec nói


rồi nhặt chiếc áo len treo bừa trên ghế
của Isabelle và khoác vào. Tóc anh bị
tích điện dựng đứng lên như một vầng
hào quang màu đen mềm mại, đang phát
ra những tiếng nổ lách tách. Anh nóng
nảy kéo áo xuống. “Anh sẽ tới thư viện.”

“Chúng ta cùng đi,” Isabelle nói, rút


cuộn roi vàng ra khỏi ngăn kéo và nhét
tay cầm vào thắt lưng. “Hẳn có chuyện
không hay xảy ra rồi.”

“Bố mẹ các cậu đâu?” Clary hỏi.

“Họ có việc phải đi từ tiếng trước.


Một tiên nữ bị sát hại tại Công Viên
Trung Tâm. Điều Tra Viên đã đi cùng
họ,” Alec giải thích.

“Các cậu không muốn đi sao?”

“Bọn tớ không được mời,” Isabelle


buộc hai bím tóc đen nhánh lên đỉnh đầu
và dùng dao găm pha lê cố định lại.
“Cậu trông chừng Max nhé? Bọn tớ quay
lại ngay thôi.”

“Nhưng...” Clary phản đối.

“Chúng tớ sẽ về ngay.” Isabelle lao


ra khỏi phòng, Alec nối gót theo sau.
Ngay khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ,
Clary ngồi xuống giường dè dặt nhìn
Max. Cô chưa bao giờ chơi cùng trẻ con
- mẹ không cho cô trông trẻ - nên cô
chẳng biết trò chuyện với chúng như thế
nào hay làm gì cho cậu bé, với tay chân
khẳng khiu và cặp kính to hơn cả mặt như
thế này.

Max cũng nhìn lại Clary, không hề


ngượng ngùng, mà đầy suy tư và chất
chứa nhiều tâm trạng. “Chị bao tuổi
rồi?” cuối cùng cậu bé hỏi.

Clary hơi giật mình. “Em nghĩ chị bao


nhiêu tuổi?”

“Mười bốn.”
“Chị mười sáu, nhưng mọi người
thường nghĩ chị ít tuổi hơn vì chị thấp bé
mà.”

Max gật đầu. “Em cũng vậy,” cậu nói.


“Em chín tuổi nhưng mọi người nghĩ em
lên bảy thôi.”

“Chị thì nghĩ em chín tuổi,” Clary nói.


“Em đang cầm gì thế? Một cuốn sách à?”

Max giơ cuốn sách sau lưng ra. Một


cuốn sách bìa mềm khổ rộng, mỏng, bằng
kích cỡ những cuốn tạp chí nhỏ họ hay
bán trong các cửa hàng tạp hóa. Nhưng
cuốn này có bìa sặc sỡ sáng mắt với
những chữ kanji của Nhật viết dưới
những từ tiếng Anh. Clary cười lớn.
“Naruto,” cô nói. “Chị không biết là em
thích đọc manga cơ đấy. Em mua ở đâu
thế?”

“Ở sân bay ạ. Em thích những hình vẽ


nhưng em không biết cách làm sao mà
đọc được.”

“Đây, đưa nó cho chị.” Cô mở và chìa


cho cậu bé xem các trang. “Em phải đọc
ngược lại, từ phải sang trái, thay vì từ
trái sang phải. Và đọc từng trang theo
chiều kim đồng hồ. Em hiểu chứ?”

“Tất nhiên rồi,” Max nói. Trong tích


tắc Clary cứ lo cô làm cậu bé bực mình.
Nhưng hình như cậu bé vẫn vui vẻ cầm
lấy cuốn truyện và lật tới trang cuối
cùng. “Đây là tập chín,” cậu nói, “Em
nghĩ em phải đọc tám tập trước khi đọc
tập này.”

“Ý hay đó. Hoặc em có thể nhờ ai đó


đưa em tới Midtown Comics hay
Forbidden Planet.”

“Forbidden Planet?” Max có vẻ ngạc


nhiên, nhưng Clary chưa kịp giải thích
thì Isabelle đã lao vào, thở hổn hà hổn
hển.

“Đã có người cố gọi tới Học Viện,”


cô nói, trước khi Clary kịp hỏi “Một
trong những Tu Huynh Câm. Có chuyện
đã xảy ra tại Thành phố Xương rồi.”

“Chuyện gì?”

“Tớ không biết. Tớ chưa bao giờ nghe


tới chuyện các Tu Huynh Câm cầu cứu
bao giờ.” Rõ ràng Isabelle đang cực kỳ
bối rối. Cô nàng quay sang cậu em.
“Max, về phòng và ở yên đó nhé?”

Max nghiến hàm. “Vậy là chị và anh


Alec đi à?”

“Ừ.”
“Tới Thành phố Câm Lặng hả?”

“Max...”

“Em muốn đi.”

Isabelle lắc đầu; chuôi dao sau tóc


lóe sáng như một lưỡi lửa. “Nhất định là
không. Em còn quá nhỏ.”

“Chị cũng chưa đủ mười tám tuổi


mà!”

Isabelle quay sang nhìn Clary nửa lo


lắng nửa tuyệt vọng. “Clary, làm ơn tới
đây một chút.”
Clary do dự đứng lên - và Isabelle
nắm lấy tay cô mà kéo ra khỏi phòng,
đóng sầm cửa lại. Một tiếng “thình” vang
lên chứng tỏ Max vừa lao vô cửa. “Chết
tiệt,” Isabelle nói và giữ chặt nắm đấm,
“cậu lấy hộ thanh stele cho mình với,
nhé? Trong túi áo mình ấy…”

Clary vội vàng giơ thanh stele chú


Luke đã đưa cô lúc tối. “Dùng của tớ
này.”

Với vài cú phẩy tay điệu nghệ,


Isabelle đã khắc xong chữ Khóa bằng
chữ rune lên cửa. Clary vẫn có thể nghe
tiếng phản đối của Max ở bên kia cửa
khi Isabelle lùi ra xa, mặt nhăn nhó và
trả thanh stele lại cho Clary. “Tớ không
biết cậu cũng có thứ này.”

“Từng là của mẹ tớ đấy,” Clary nói,


rồi tự rủa mình. Vẫn còn là của mẹ. Nó
vẫn thuộc về mẹ.

“Hừm.” Isabelle nắm tay thụi vào


cửa. “Max, có vài thanh PowerBars
trong tủ đầu giường nếu như em đói. Bọn
chị sẽ sớm về thôi.”

Có tiếng gào thét giận dữ phát ra từ


sau cánh cửa; Isabelle nhún vai, quay
người vội vã chạy trên hành lang, Clary
sóng vai sát bên. “Tin nhắn nói gì?”
Clary hỏi. “Có vấn đề gì sao?”

“Có một vụ tấn công. Thế thôi.”

Alec đang đợi ở ngoài thư viện. Anh


ta mặc giáp da đen của Thợ Săn Bóng
Tối ngoài quần áo thường. Đôi bao tay
bảo vệ hai cánh tay và Ấn Ký kín quanh
cổ họng và cổ tay. Những lưỡi dao thiên
thần, được đặt theo tên những thiên thần
khác nhau, sáng lóe nơi thắt lưng. “Em
sẵn sàng chưa?” Alec hỏi cô em. “Em lo
cho Max chưa?”

“Nó ổn thôi.” Cô chìa tay ra. “Vẽ Ấn


Ký cho em với.”
Khi Alec vẽ những con chữ rune dọc
bàn tay lẫn cổ tay cho Isabelle, anh ta có
liếc qua Clary. “Em nên về nhà,” anh ta
bảo. “Em không muốn một mình ở lại
đây khi Điều Tra Viên về đâu.”

“Em muốn đi với bọn anh,” Clary nói,


lời nói tự bật ra không kìm lại được.

Isabelle giơ bàn tay vừa được vẽ và


thổi phù phù như thổi cà phê quá nóng
vậy. “Cậu nói y như Max.”

“Max chín tuổi. Còn tớ bằng tuổi


cậu.”
“Nhưng em chưa được huấn luyện gì
cả,” Alec phản đối. “Em sẽ chỉ làm
vướng tay vướng chân mà thôi.”

“Không đâu. Trong hai người đã ai tới


Thành phố Câm Lặng chưa?” Clary gặng
hỏi. “Em tới rồi nhé. Em biết cách vào.
Em biết đường đi lối lại.”

Alec đứng thẳng người, bỏ thanh stele


sang bên. “Anh không nghĩ…”

Isabelle chen ngang. “Cô ấy nói cũng


có lý đấy. Em nghĩ cứ để cô ấy đi theo
nếu cô ta muốn.”
Alec có vẻ giật mình. “Lần vừa rồi
khi chúng ta gặp lũ quỷ, cô ta cứ rúm ró
cả lại mà gào thét thôi.” Nhìn thấy ánh
mắt hình viên đạn của Clary, Alec nhìn
lại vẻ biết lỗi. “Anh xin lỗi, nhưng anh
chỉ nói sự thật.”

“Em nghĩ cô ấy cần có cơ hội học


hỏi,” Isabelle nói. “Anh biết Jace luôn
nói gì rồi đó. Đôi khi bạn không cần phải
kiếm tìm nguy hiểm làm gì, đôi nguy
hiểm sẽ tự tìm đến với bạn.”

“Hai người không thể nhốt tôi như


nhốt Max được,” Clary nói thêm, khi
nhận ra phản ứng yếu ớt dần từ phía
Alec. “Tôi không phải một đứa bé. Và
tôi biết Thành phố Xương ở đâu. Tôi tự
biết cách đi lại mà không cần các người
giúp.”

Alec quay người đi, lắc đầu và lầm


bầm nói gì đó về con gái. Isabelle giơ
tay cho Clary. “Đưa tớ thanh stele của
cậu,” cô ta nói. “Giờ cậu cũng phải có
vài Ấn Ký chứ nhỉ.”

6. Thành phố tro tàn

Cuối cùng Isabelle chỉ vẽ cho Clary


hai Ấn Ký trên hai mu bàn tay. Một Ấn
Ký là hình đôi mắt mở to được vẽ trên
tay bất cứ một Thợ Săn Bóng Tối nào.
Ấn Ký thứ hai là hình hai lưỡi liềm chéo
nhau; Isabelle nói nó là chữ Rune mang
nghĩa Bảo Hộ. Cả hai chữ rune đều bỏng
rẫy lên khi mũi stele mới chạm vào da
Clary, nhưng cơn đau nguôi dần trong
thời gian Clary, Isabelle và Alec ngồi
trên chiếc taxi màu đen đến khu trung
tâm. Đến lúc họ dừng lại tại Đại Lộ Số
Hai và bước xuống vỉa hè, Claiy có cảm
giác bàn tay và cánh tay nhẹ bẫng như thể
đang đeo phao tay trong hồ bơi vậy.

Ba người họ lặng lẽ đi qua cánh cổng


sắt hình vòm cũ kỹ dẫn vào Nghĩa Trang
Marble. Lần cuối cùng Clary tới khoảnh
sân nhỏ này là khi đang vội vàng đuổi
theo Tu Huynh Jeremiah.Nhưng lần này
cô mới để ý tới những cái tên được khắc
trên tường: Youngblood, Fairchild,
Thrushcross, Nightwine, Ravenscar.
Cạnh chúng là những chữ rune. Theo
phong tục của Thợ Săn Bóng Tối, mỗi
gia đình có biểu tượng riêng cho mình:
của nhà Wayland là cây búa thợ rèn, nhà
Lightwood là ngọn đuốc, và Valentine là
hình ngôi sao.

©DTV

Cỏ mọc chen chúc dưới chân bức


tượng Thiên Thần đặt ngay giữa sân.
Thiên Thần được tạc trong tư thế nhắm
mắt, bàn tay thanh mảnh ôm lấy phần đế
một chiếc cốc bằng đá, biểu trưng cho
chiếc Cốc Thánh. Gương mặt thiên thần
bằng đá bất động, vằn vện cáu ghét bụi
bẩn.

Clary nói, “Lần trước khi tôi tới đây,


Tu Huynh Jeremiah đã vẽ một chữ rune
lên tượng để mở cánh cửa vào Thành
Phố.”

“Anh thì anh không muốn dùng đến


mấy chữ rune nào của các Tu Huynh Câm
đâu,” Alec nói. Mặt anh ta khá nghiêm
trọng. “Họ đáng ra phải cảm nhận thấy
sự xuất hiện của chúng ta trước khi
chúng ta tới được đây rồi chứ. Anh thấy
lo rồi đấy.” Anh ta rút con dao nơi thắt
lưng và rạch một đường trên lòng bàn
tay. Máu ứa ra từ vết thương cạn. Anh ta
nắm chặt tay để máu nhỏ vào chiếc Cốc
Thánh. “Máu của Nephilim,” anh ta nói.
“Nó hoạt động giống chìa khóa mở cửa
thôi.”

Mí mắt Thiên Thần chớp mở. Trong


khoảnh khắc Clary gần như tưởng rằng sẽ
trông thấy hai con mắt nhìn chằm chằm
vào mình giữa làn mi bằng đá, nhưng chỉ
có thêm lớp đá hoa cương khác mà thôi.
Một giây sau, lớp cỏ bên dưới chân
Thiên Thần bắt đầu rẽ ra. Một kẽ nứt đen
sì ngoằn ngoèo, uốn lượn như thân rắn,
bắt đầu từ chân tượng, làm Clary phải
vội nhảy lùi lại khi một cái hố đen sì mở
rộng dưới chân mình.

Cô nhìn xuống. Những bậc thang dẫn


vào bóng tối. Lần cuối cùng cô ở đây,
bóng tối ấy được soi sáng bằng những
ngọn đuốc đặt cách quãng, rọi rõ từng
bậc thang một. Còn lúc này thì chỉ tuyền
một màn đen đặc.

“Có gì không ổn rồi,” Clary nói.


Dường như cả Isabelle lẫn Alec đều
không có hứng tranh cãi. Clary lấy viên
đá phù thủy Jace cho ra khỏi túi và giơ
cao trên đầu. Ánh sáng túa ra, soi thành
tia qua những ngón tay xòe rộng của cô.
“Đi thôi.”

Alec bước lên trước. “Anh đi trước,


sau đó em theo sau. Isabelle, đi cuối
nhé.”

Họ chầm chậm dò dẫm đi xuống, đôi


giày sũng nước của Clary hơi trơn trượt
khi bước xuống bậc thang đã mòn vẹt. Ở
chân cầu thang là một đường hầm ngắn
dẫn tới một căn sảnh thênh thang, một
vườn cây ăn trái tạc từ đá thành những
mái vòm trắng khảm đá bán quý. Những
dãy mộ chìm trong bóng tối như những
ngôi nhà hình nấm trong một câu chuyện
cố tích. Những ngôi mộ xa hơn khuất hẳn
trong bóng tối; ngọn đèn phù thủy không
thể nào chiếu sáng cả sảnh được.

Alec buồn bã nhìn những ngôi mộ.


“Anh chưa bao giờ nghĩ mình sẽ vào
Thành phố Câm Lặng,” anh ta nói. “Kể
cả sau khi chết.”

“Em không nghĩ chuyện đó có gì đáng


buồn,” Clary nói. “Tu Huynh Jeremiah
nói với em, họ sẽ làm gì với các thi thể
rồi. Họ sẽ hỏa thiêu và dùng hầu hết tro
cốt làm đá lát cho Thành Phố.” Bản thân
xương và máu của những người diệt
quỷ đã là lớp bảo vệ đầy quyền năng
chống lại quỷ dữ. Thậm chí sau khi
chết, Hội đồng Clave vẫn phục vụ
Cause.
“Hừm,” Isabelle cất tiếng. “Đó có thể
coi là một vinh dự. Hơn nữa, đâu phải
con người các cậu không hỏa thiêu người
chết đâu.”

Nhưng thế vẫn ghê, Clary nghĩ. Mùi


tro mùi khói oi nồng trong không khí, đã
quen thuộc với cô từ lần trước cô tới đây
- nhưng còn có một thứ mùi khác lẩn
khuất, một thứ mùi hôi thối khó chịu hơn,
giống như hoa quả bị rữa vậy.

Alec nhăn mặt như là chính anh cũng


ngửi ra mùi này, rồi rút từ đai vũ khí ra
một con dao thiên thần. “Arathiel,” anh
ta thì thầm, ánh sáng từ lưỡi dao cộng
hưởng cùng với ngọn đèn phù thủy trên
tay Clary chiếu sáng cầu thang thứ hai
dẫn xuống không gian tối đen mịt mùng
hơn gấp bội. Ngọn đèn phù thủy nhấp
nháy sáng trên tay Clary như một ngôi
sao sắp tàn lụi - cô tự hỏi liệu những
viên đá phù thủy có bao giờ hết năng
lượng, giống như đèn hết pin không. Hy
vọng là không. Cứ nghĩ đên việc bị nhận
chìm vào trong bóng tối như đêm ba
mươi tại cái nơi rùng rợn này thì lục phủ
ngũ tạng của cô bấn loạn lên cả.

Mùi hoa quả thối càng lúc càng nặng


khi họ xuống đến chân cầu thang và bước
vào một đường hầm dài dằng dặc khác.
Đường hầm này mở ra một ngôi đình bao
quanh là những ngọn tháp xương được
chạm khắc tỉ mỉ - đây là nơi Clary nhớ
rõ vô cùng. Những ngôi sao bạc được
chạm khắc trên sàn lấp lánh như hoa giấy
quý hiếm. Ở giữa đình là một chiếc bàn
đen tuyền. Một thứ chất lỏng màu đen
đọng lại thành vũng trên mặt bàn bóng
loáng và nhỏ thành dòng xuống sàn.

Lần ấy khi đứng trước Hội Đồng Tu


Huynh, cô có thấy một thanh kiếm lớn
treo trên bức tường đằng sau bàn. Giờ
Thanh Kiếm đã biến mất, thay vào đó,
quệt ngang qua tường, là hình rẽ quạt to
tướng màu đỏ bầm.

“Là máu sao?” Isabelle thì thào. Nghe


ra không phải là sợ, mà chỉ là sửng sốt
thôi.

“Trông có vẻ thế.” Mắt Alec quét hết


căn phòng. Bóng tối dày đặc như sơn, và
hình như còn biến chuyển liên tục nữa.
Anh nắm chặt lấy lưỡi dao thiên thần.

“Chuyện gì có thể xảy ra chứ?”


Isabelle nói. “Các Tu Huynh - em cứ
tưởng họ là những người bất khả chiến
bại cơ mà…”

Giọng Isabelle lịm đi khi Clary quay


người, khiến ngọn đèn phù thủy chiếu
lướt qua những hình dạng đen kỳ lạ giữa
những ngọn tháp. Một hình dạng trông kỳ
lạ hơn những cái còn lại. Cô cầu cho
ngọn đèn phù thủy được sáng hơn thế là
nó sáng lên ngay, phóng ra một tia sáng
rực chiếu ra xa.

Bị xiên trên một trong mấy đỉnh tháp,


như một con giun trên móc câu, là thi thể
của một Tu Huynh Câm. Hai cánh tay,
quấn đầy máu, thòng lủng lẳng xuống sàn
nhà đá hoa cương. Cổ trông như đã gãy.
Máu đã đọng thành vũng bên dưới, vón
cục đen đặc lại dưới ánh sáng hòn đá
phù thủy.

Isabelle thở dốc. “Alec. Anh có


thấy...”
“Có.” Giọng Alec khá nghiêm trọng.
“Và anh còn thấy những thứ tệ hơn. Anh
đang lo cho Jace.”

Isabelle tiến lên và chạm vào chiếc


bàn đá bazan đen, ngón tay lướt bên bề
mặt. “Máu còn khá mới. Dù đã xảy ra
chuyện gì đi nữa, thì cũng xảy ra cách
đây chưa lâu.”

Alec tiến tới cái xác bị xiên của Tu


Huynh Câm. Từ trên vũng máu, có dấu
chân dẫn ra xa hơn. “Những dấu chân,”
Alec nói. “Có người từ đây chạy đi.”
Alec ngoắc tay ra hiệu cho các cô gái đi
theo. Họ chạy theo, Isabelle chỉ dừng lại
để lau bàn tay dính máu vào miếng bảo
vệ ống chân bằng da mềm.

Những dấu chân bắt đầu từ đình dẫn


xuống một đường hầm hẹp, biển mất vào
trong bóng tối. Khi Alec dừng lại nhìn
quanh quất, Clary nóng nảy len qua anh
ta, để ánh sáng ngọn đèn phù thủy chiếu
một đường sáng bàng bạc lên trước. Cô
thấy một cánh cửa đôi ở cuối đường
hầm; của khép hờ.

Jace. Không hiểu sao cô cảm nhận


được anh, biết anh rất gần. Cô cất bước,
gần như chạy đi, tiếng gót giày vang vọng
trên sàn nhà cứng nhắc. Cô nghe tiếng
Isabelle gọi với theo, cả Isabelle và
Alec bám theo cô sát gót. Cô lao qua
cánh cửa, vào một căn phòng đá phiến
với những hàng song sắt ghim sâu vào
lòng đất. Clary chỉ có thể nhìn ra hình
dáng một người nằm phủ phục đằng sau
những chấn song. Còn ngay ngoài xà lim
là thi thể bất động của một Tu Huynh
Câm.

Clary biết ngay rằng người kia đã


chết. Tư thế nằm của người này, như một
con búp bê bị vặn sái khớp tới khi gãy
cả ra. Chiếc áo chùng da dê bị rách một
nửa. Gương mặt sẹo, biến dạng méo mó
thành vẻ kinh hoàng tột độ, vẫn còn nhận
ra được. Tu Huynh Jeremiah.

Cô đi qua cái xác đến cửa xà lim, kết


từ những chấn song xếp sát nhau, nối lại
bằng tấm bản lề. Hình như chẳng có khóa
hay nắm đấm cửa cho cô nắm mà kéo ra
cả. Cô nghe tiếng Alec, đằng sau cô,
đang réo gọi tên cô, nhưng cô không
buồn để ý: giờ trong đầu óc cô chỉ có
cánh cửa. Cô biết thừa biết rằng cách để
mở cánh cửa không thể nào sờ sờ trước
mắt cô được; Tu Huynh Câm đâu có xử
lý những gì hữu hình đâu, thường là vô
hình thì đúng hơn. Cô cầm ngọn đèn phù
thủy ở một tay, còn tay kia lần tìm thanh
stele của mẹ.

Ở bên kia chấn song có tiếng động


phát ra. Tiếng thều thào nghèn nghẹn hay
tiếng thở dốc; Clary không rõ, nhưng cô
nhận ra nguồn gốc âm thanh đó. Jace. Cô
dùng mũi thanh stele rạch đi rạch lại trên
cánh cửa buồng giam, cố giữ yên chữ
rune Mở khi nó hiện ra trong tâm trí
mình, màu đen lởm chởm trên nền kim
loại cứng ngắc. Thứ hợp kim đó xèo xèo
tan ra khi thanh stele chạm vào. Mở ra,
cô ra lệnh cho cánh cửa. Mở ra, mở ra,
MỞ RA!

Âm thanh như tiếng xé vải vang khắp


phòng. Clary nghe thấy Isabelle hét vang
lên khi cánh cửa bật tung khỏi bản lề, đổ
sầm vào xà lim như một cây cầu treo sập
xuống. Clary nghe thấy các âm thanh
khác, tiếng kim loại chạm kim loại, một
tiếng lạo xạo lớn tiếng một nắm đá cuội
bị ném đi. Cô cúi người chui vào trong
xà lim, cánh cửa sập gập ghềnh dưới
chân mình.

Ngọn đèn phù thủy tỏa ánh sáng như


ban ngày lên khắp căn phòng. Cô gần như
chẳng để ý tới mấy dãy các loại cùm -
bằng đủ loại kim loại: vàng, bạc, sắt,
thép - chúng đều long ra khỏi tường rơi
loảng xoảng xuống nền đá. Mắt cô chỉ
dán vào thân hình bất động trong góc; cô
nhìn thấy mái tóc sáng màu, bàn tay rướn
tới, cái cùm bung ra nằm hơi xa một
chút. Cổ tay anh không bị cùm nhưng nhơ
nhớp máu, da đầy những vết bầm tím xấu
xí.
Cô quỳ xuống, đặt thanh stele bên
cạnh, và nhẹ nhàng lật anh lên. Đúng là
Jace thật. Trên má anh có thêm một vết
bầm khác và khuôn mặt trắng bệch,
nhưng Clary có thể thấy chuyển động
nhấp nháy dưới mi mắt anh. Mạch cổ vẫn
đập. Anh còn sống.

Cảm giác nhẹ nhõm ùa ra trong cô


như một con sóng bỏng rát, cuốn phăng
hết những căng thẳng rối rít đã giúp cô
còn trụ lại được trong suốt quãng thời
gian qua. Viên đá phù thủy rơi xuống nền
nhà bên cạnh cô, nhưng vẫn hấp háy
sáng. Cô vuốt tóc Jace ra sau bằng sự
dịu dàng đến chính cô còn thấy lạ - từ bé
tới lớn, cô luôn một thân một mình, cả
anh em họ cũng không có. Cô chưa bao
giờ có dịp băng bó vết thương cho ai,
hôn lên đầu gối bị trầy xước hay thực sự
chú tâm chăm sóc một ai đó.

Nhưng mà cảm thấy dịu dàng yêu mến


Jace như thế này vẫn được chứ nhỉ,
Clary tự nhủ, miễn cưỡng rụt tay về khi
thấy mí mắt Jace giật giật và anh khẽ rên
rỉ. Anh là anh trai cô cơ mà; vì sao cô
không được quan tâm tới chuyện xảy ra
với anh chứ?

Jace mở mắt. Đồng tử giãn lớn. Liệu


anh có bị đập đầu vào đâu không? Hai
mắt anh sửng sốt nhìn cô chằm chằm.
“Clary,” anh nói. “Em làm gì ở đây?”
“Em tới tìm anh,” Clary đáp, vì đó là
sự thực.

Mặt Jace giần giật. “Em thực sự đến


đây sao? Anh không... anh chưa chết
đúng không?”

“Ừ,” Clary nhẹ nhàng vuốt theo


xương gò má Jace. “Anh chỉ bị ngất thôi.
Có lẽ bị đập đầu nữa.”

Bàn tay anh đưa lên áp vào tay Clary


đang đặt trên má mình. “Thế cũng đáng,”
anh nói thật khẽ đến nỗi Clary cũng
không rõ nghe có đúng không.
“Có chuyện gì thế?” Là Alec, đang
chui mình qua lối vào thấp tịt, Isabelle đi
ngay sau. Clary bất giác rụt tay lại, rồi
thầm rủa mình. Cô có làm gì sai đâu.

Jace chật vật ngồi dậy. Mặt anh xám


xịt, áo lấm tấm máu khô. Vẻ mặt Alec
chuyển sang quan tâm. “Mà cậu ổn
không?” anh ta hỏi và quỳ xuống.
“Chuyện gì xảy ra vậy? Cậu có nhớ
không?”

Jace giơ cánh tay lành lặn lên. “Từ từ


từng câu thôi, Alec. Đầu tớ có cảm giác
như sắp nứt đôi rồi đây này.”

“Ai làm điều này với anh vậy?”


Isabelle có vẻ vừa giận vừa hoảng.

“Không ai làm gì anh cả. Do anh tự


mình giật cái cùm ra ấy mà. Jace nhìn
xuống cổ tay - trông như thể anh gần như
cạo nát da ra khỏi nơi ấy - và nhăn mặt.

“Đây,” Clary và Alec đồng thanh nói


rồi cùng giơ tay cho Jace. Mắt họ gặp
nhau, và Clary hạ tay xuống trước. Alec
nắm lấy cổ tay Jace và rút thanh stele ra;
với vài cú phẩy tay, anh vẽ chữ iralze -
chữ rune mang nghĩa trị thương - ngay
dưới chỗ đang chảy máu.

“Cám ơn,” Jace vừa nói vừa rụt tay


về. Phần cổ tay bị thương đã bắt đầu se
lại. “Tu Huynh Jeremiah...”

“Chết rồi...” Clary tiếp lời.

“Anh biết.” Lờ đi sự trợ giúp của


Alec, Jace tự bám tường đứng lên. “Anh
ta bị giết.”

“Các Tu Huynh Câm tàn sát lẫn nhau


sao?” Isabelle hỏi. “Em không hiểu... em
không hiểu sao họ lại làm vậy...”

“Không phải.” Jace nói. ‘‘Một thứ gì


đó đã giết họ. Nhưng anh không biết nó
là gì.” Cơn đau quặn lên làm mặt anh
méo xệch. “Đầu anh...”
“Chúng ta nên đi thôi.” Clary bồn
chồn bảo. “Trước khi bất cứ thứ gì giết
chết họ kia...”

“Trở lại tìm chúng ta à?” Jace hỏi.


Anh nhìn xuống chiếc áo sơ mi dính máu
và bàn tay bầm dập. “Anh nghĩ nó bỏ đi
rồi. Nhưng anh đoán ông ta vẫn có thể
mang nó quay lại.”

“Ai có thể mang cái gì quay lại cơ?”


Alec hỏi, nhưng Jace không trả lời. Mặt
anh chuyển từ xám xịt sang trắng bệch.
Alec chụp đỡ lấy Jace khi anh bắt đầu
trượt người xuống. “Jace...”

“Tớ ổn,” Jace phản đối, nhưng tay lại


nắm chặt lấy tay áo Alec. “Tớ đứng
được mà.” .

“Tớ thấy như cậu đang dùng tường


làm gậy đỡ lưng ấy. Đây không phải là
định nghĩa của sự ‘đứng’ với tớ.”

“Đó là dựa,” Jace bảo. “Tựa được là


đứng được.”

“Các anh đừng đôi co nhau nữa,”


Isabelle nói, đá ngọn đuốc đã tàn sang
một bên. “Chúng ta cần ra khỏi đây. Nếu
có thứ độc địa đã tiêu diệt hết cả Tu
Huynh Câm, nó thừa sức xử đẹp chúng
ta.”
“Izzy nói đúng. Chúng ta nên đi thôi.”
Clary nhặt ngọn đèn phù thủy và đứng
dậy. “Jace - anh đi được không?”

“Để cậu ấy dựa vào anh.” Alec khoác


tay Jace lên vai mình. Jace dựa cả vào
anh. “Đi nào,” Alec ôn tồn nói. “Ra đến
ngoài rồi bọn tớ sẽ chữa cho cậu.”

Họ chậm chạp tiến về cánh cửa xà


lim, Jace dừng lại, nhìn chăm chú cái
xác của Tu Huynh Jeremiah nằm vẹo vọ
trên nền lát đá. Isabelle quỳ xuống, kéo
mũ trùm len nâu phủ lên gương mặt biến
dạng của người Tu Huynh. Khi Isabelle
đứng dậy, mặt ai nấy đều nhuộm nét đau
thương.
“Anh chưa từng thấy một Tu Huynh
Câm biết sợ bao giờ,” Alec nói. “Anh
còn tưởng họ không biết sợ là đằng
khác.”

“Ai cũng biết sợ hết.” Mặt Jace vẫn


tái mét, và dù anh ôm cánh tay bị thương
trước ngực, Clary nghĩ anh làm vậy
không phải vì nỗi đau thể chất. Anh trông
xa xăm, như thể anh đang chui vào vỏ ốc
của chính mình, trốn chạy một điều gì đó.

Họ lần ngược bưóc, trở lại những


hành lang tối om, bước trên những bậc
cầu thang hẹp dẫn tới đình của những
Ngôi Sao Tiên Tri. Lúc tới đó, Clary
ngửi thấy mùi máu đậm đặc cộng thêm
thứ mùi khen khét lúc trước không hề
thấy. Jace, đang tựa người vào Alec,
nhìn xung quanh vừa hoảng sợ vừa bối
rối. Clary thấy anh đang nhìn về bức
tường xa xa đầy những máu là máu, liền
nói. “Jace. Đừng nhìn.” Rồi cô thấy mình
thật ngu ngốc; dù gì anh cũng là một thợ
săn quỷ và tất nhiên, anh đã từng thấy
những thứ ghê rợn hơn nhiều.

Anh lắc đầu. “Có gì đó không ổn...”

“Mọi thứ ở đây đều không ổn hết.”


Alec nghiêng đầu về phía rừng mái vòm
dẫn ra xa khỏi đình. “Đây là đường
nhanh nhất thoát khỏi đây. Chúng ta đi
thôi.”

Mọi người không ai nói gì nhiều trên


đường ra khỏi Thành phố Xương. Mọi
cái bóng dường như đều xao động, như
thể bóng tối đang che giấu những sinh vật
chỉ chực nhảy xổ vào họ. Isabelle đang
thì thào gì đó. Dù Clary không hiểu,
nhưng cô nghĩ có thể cô nàng đang sử
dụng một thứ ngôn ngữ khác, một thứ
ngôn ngữ cổ xưa - như tiếng La tinh
chẳng hạn.

Khi họ tới những bậc thang cuối cùng


dẫn ra khỏi thành phố, Clary thầm thở
dài nhẹ nhõm. Có thể Thành phố Xương
từng khá xinh đẹp, nhưng giờ nó lại quá
kinh hoàng. Khi họ đi tới đoạn cầu thang
cuối cùng, ánh sáng chọc vào mắt cô,
khiến cô khẽ reo vì ngạc nhiên. Cô lờ mờ
trông thấy tượng Thiên Thần ở đầu cầu
thang, đằng sau là ánh sáng vàng óng rực
rỡ, sáng như ban ngày. Cô liếc nhìn
những người khác; họ cũng bối rối y như
cô vậy.

“Mặt trời chẳng thể mọc rồi được,


nhỉ?” Isabelle lầm bầm. “Chúng ta xuống
dưới đó bao lâu rồi?”

Alec xem đồng hồ. “Chưa lâu lắm.”

Jace thì thầm gì đó, quá nhỏ nên


không ai nghe rõ. Alec nghiêng tai xuống.
“Cậu nói gì cơ?”

“Đèn phù thủy,” Jace nói, lần này lớn


hơn.

Isabelle vội vàng chạy lên, Clary đi


theo, Alec ngay sau, nửa đỡ nửa kéo
Jace lên cùng. Chạy đến đầu cầu thang
thì Isabelle đứng khựng lại. Clary gọi,
nhưng cô nàng không nhúc nhích. Một lát
sau Clary đứng bên cạnh và tới lượt cô
đứng nhìn trân trối vì ngạc nhiên.

Khu vườn đầy những Thợ Săn Bóng


Tối - hai mươi, có thể là ba mươi, trong
trang phục đi săn màu đen, trên người
phủ kín những Ấn Ký, mỗi người cầm
trên tay một viên đá phù thủy tỏa sáng
rực rỡ.

Đứng đầu đoàn người là Maryse,


trong bộ giáp Thợ Săn Bóng Tối màu
đen và áo choàng, mũ bỏ ra sau. Đằng
sau bà là hàng tá người lạ mặt xếp hàng
ngay ngắn, đàn ông có đàn bà có, những
người Clary chưa từng gặp, nhưng trên
tay và mặt họ đều phủ kín những Ấn Ký
của Nephilim. Một người đàn ông trong
số họ, đẹp trai với làn da đen bóng, quay
sang nhìn Clary và Isabelle - và bên
cạnh cô, Jace cùng Alec hiện đã tới bên,
đang đứng hấp háy mắt vì ánh sáng đột
ngột.
“Thiên Thần ơi,” người đàn ông kêu
lên. “Maryse - đã có người xuống đó
rồi.”

Maryse há hốc miệng khi nhìn thấy


Isabelle. Sau đó bà mím môi lại thành
một đường kẻ trắng bệch, trông như có
người dùng phấn vẽ một nét lên khuôn
mặt bà.

“Tôi biết, Malik,” bà nói. “Chúng là


con tôi.”

7. Thanh Kiếm Thánh


Tiếng xì xào to nhỏ rộn khắp.
Những người đang đội mũ trùm liền bỏ
mũ xuống, và qua nét mặt Jace, Alec và
Isabelle thì cô biết họ có quen khá nhiều
Thợ Săn Bóng Tối có mặt trong sân.

“Nhân danh Thiên Thần.” Cái nhìn


không tin vào mắt mình của bà Maryse
quét từ Alec tới Jace, qua Clary và quay
lại với cô con gái. Jace đã rời khỏi Alec
ngay khi bà Maryse lên tiếng, anh đứng
hơi cách biệt với ba người còn lại, tay
nhét túi quần trong khi Isabelle lo lắng
lần lần sợi roi trắng - vàng trong tay.
Trong khi đó Alec dường như đang
nghịch điện thoại, dù Clary không thể
nghĩ ra anh ta định gọi cho ai. “Các con
đang làm gì ở đây vậy Alec? Isabelle?
Có một cuộc gọi báo nguy từ Thành phố
Câm Lặng...”

Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com

“Chúng con đã nghe điện,” Alec nói.


Ánh mắt anh ta bồn chồn quét khắp đám
đông đang tụ lại. Clary không thế trách vì
anh ta căng thẳng. Clary chưa bao giờ
gặp nhiều Thợ Săn Bóng Tối trưởng
thành như bây giờ - Thợ Săn Bóng Tối
nói chung ấy. Cô cứ nhìn hết khuôn mặt
này tới khuôn mặt khác, tìm ra điểm khác
biệt giữa họ - nói chung họ khác nhau về
lứa tuổi, chủng tộc và vẻ bề ngoài, nhưng
tất cả họ đều để lại cho cô ấn tượng về
sức mạnh khổng lồ tiềm tàng bên trong.
Cô có thể cảm nhận những cái nhìn ý nhị
của họ đang ngắm nghía, kiểm tra và
đánh giá cô. Một người phụ nữ, tóc trắng
gợn sóng, cứ nhìn cô chằm chặp mà
chẳng buồn giấu giếm. Clary chớp mắt
và nhìn đi chỗ khác trong khi Alec nói
tiếp, “Mẹ không có mặt trong Học Viện -
và chúng con không thể gọi cho người
khác - vì thế chúng con đã tự đi.”

“Alec...”

“Mà cũng chẳng ích lợi gì,” Alec nói.


“Họ chết hết cả rồi. Tất cả các Tu Huynh
Câm. Chết hết. Họ bị sát hại.”

Lần này thì không một tiếng động nào


vọng đến từ đám đông. Những Thợ Săn
Bóng Tối chỉ đứng im bất động, theo
cách những con sư tử kiêu hãnh đứng im
khi thấy một con linh dương.

“Chết ư?” Maryse nhắc lại. “Các con


nói, họ đã chết?”

“Tôi nghĩ cậu đây đã nói rõ rồi.” Một


người phụ nữ mặc áo khoác xám dài đột
nhiên xuất hiện bên cạnh Maryse. Trong
ánh sáng lập lòa, Clary thấy bà ta trông
như một nhân vật trong tranh biếm họa
của Edward Gorey, với gương mặt cực
kỳ góc cạnh và mái tóc vuốt ngược ra
sau cùng đôi mắt như hai vũng đen lồi ra
khỏi mặt vậy. Bà ta cầm một hòn đá phù
thủy to tướng đính vào sợi dây bạc dài,
quấn qua những ngón tay xương xẩu nhất
Clary từng thấy. “Họ chết cả à?” bà ta
hỏi thẳng Alec. “Cậu không tìm thấy ai
còn sống hết sao?”

Alec lắc đầu. “Chúng tôi không thấy,


thưa Điều Tra Viên.”

Ra đó là Điều Tra Viên. Bà ta quả


giống người sẵn sàng ném những cậu
thiếu niên vào ngục tối chỉ vì bà ta không
thích thái độ của họ.
“Đó là cái cậu nhìn thấy,” Điều Tra
Viên nhắc lại, đôi mắt bà ta giống như
hai hột cườm cứng ngắc, sáng lấp lánh.
Bà ta quay sang Maryse. “Có thể còn có
những người sống sót. Tôi muốn người
của cô vào đó kiểm tra một lượt.”

Môi Maryse mím chặt. Từ những gì


rất ít ỏi mà Clary biết về bà Maryse, cô
hiểu rằng người mẹ nuôi của Jace không
thích bị chỉ đạo. “Tốt thôi.”

Bà quay sang nhìn những Thợ Săn


Bóng Tối khác - cũng không nhiều lắm,
giờ Clary mới nhận ra, ở đây cũng không
có nhiều người như cô nghĩ, chỉ đâu đó
khoảng gần hai mươi chứ chưa tới ba
mươi; chính sự xuất hiện đột ngột của họ
mới tạo cho cô ảo giác là một hội đông
đúc đứng chật đất.

Maryse thì thào gì đó với Malik. Chú


ta gật đầu. Cầm lấy tay người phụ nữ tóc
bạc, Malik dẫn đầu đoàn Thợ Săn Bóng
Tối bước đến lối vào Thành phố Xương.
Trong khi từng người từng người nối
nhau xuống cầu thang, tay cầm ngọn đèn
phù thủy, thì ánh sáng trong sân cũng theo
đó mà yếu dần. Người cuối cùng trong
đoàn là người phụ nữ tóc bạch kim. Đi
được nửa đường, bà ta dừng lại nhìn...
thẳng vào Clary. Mắt bà ta ngập tràn
khao khát, như thể bà ta cực kỳ muốn nói
vói Clary gì đó. Nhưng sau một chốc, bà
ta đội mũ trùm lên rồi biến mất trong
bóng tối.

Maryse phá vỡ sự im lặng. “Sao có


người muốn giết các Tu Huynh Câm nhỉ?
Họ không phải những chiến binh, họ
không mang trên mình Ấn Ký chiến...”

“Đừng ngây thơ thế chứ, Maryse,”


Điều Tra Viên cất lời. “Đây không phải
một cuộc tấn công không chủ đích đâu.
Các Tu Huynh Câm có thể không phải
chiến binh, nhưng họ là những người bảo
vệ chủ chốt, và họ làm rất tốt việc của
mình. Đấy là không kể tới việc họ là
những kẻ khó mà bị giết cho chết. Có kẻ
muốn gì đó từ Thành phố Xương và sẵn
sàng giết các Tu Huynh Câm để đoạt
được nó. Chuyện này đã được lên kế
hoạch kỹ lưỡng.”

“Sao bà lại chắc chắn đến vậy?”

“Vụ đuổi hình bắt bóng lừa chúng ta


ra ngoài Công Viên Trung Tâm ấy? Một
tiểu thần tiên bị sát hại ấy?”

“Tôi sẽ không gọi đó là vụ đuổi hình


bắt bóng đâu. Tiểu thần tiên đó đã bị hút
cạn máu, hệt như tên pháp sư. Những vụ
án mạng gần đây có thể dẫn tới xung đột
gay gắt giữa Những Đứa Con của Màn
Đêm và loài khác của Thế Giới Ngầm...”
“Những đòn đánh lạc hướng,” Điều
Tra Viên hách dịch lên tiếng. “Hắn muốn
chúng ta rời khỏi Học Viện để không ai
kịp tới giúp các Tu Huynh Câm khi họ
cần cứu viện. Đúng là đồ cáo già. Mà dù
sao hắn ta vẫn luôn cáo vậy.”

“Hắn?” Giờ tới lượt Isabelle lên


tiếng, gương mặt trắng bệch tương phản
với những lọn tóc đen huyền. “Ý bà là...”

Lời tiếp theo của Jace khiến Clary


choáng váng như bị điện giật.
“Valentine,” anh nói. “Valentine đã cướp
đi Thanh Kiếm Thánh rồi. Đó là lý do
ông ta đã giết sạch các Tu Huynh Câm.”
Một nụ cười mỏng quẹt đột ngột cong
lên trên đôi môi Điều Tra Viên, như thể
Jace đã nói điều gì đó làm bà ta hài lòng
lắm vậy.

Alec giật nảy người và quay sang nhìn


Jace. “Valentine á? Nhưng cậu không
nói hắn ta đã ở đây.”

“Có ai hỏi đâu.”

“Hắn không lẽ nào lại giết sạch các


Tu Huynh được. Họ bị xé thành nhiều
mảnh. Không một người nào có thể làm
được chuyện ấy.”
“Chắc là hắn mượn tay quỷ dữ,” Điều
Tra Viên nói. “Hắn đã từng nhờ quỷ dữ
giúp sức rồi. Và với sự bảo vệ của Chén
Thánh trong tay, hắn có thể triệu hồi
những sinh vật cực kỳ nguy hiểm. Còn
nguy hiểm hơn lũ Ravener,” bà ta cong
môi lên, và dù bà ta không nhìn Clary khi
nói ra mấy lời này, nhưng không hiểu sao
những lời đó giống như những cú tát vô
hình lên mặt cô. Niềm hy vọng nhỏ nhoi
của Clary rằng Điều Tra Viên không để ý
hay nhận ra cô đã tan thành mây khói.
“Hoặc những Kẻ Lầm Đường đáng
thương.”

“Chuyện đó tôi không biết.” Mặt Jace


rất tái, lại còn lấm tấm nốt ban đỏ trên
má như thể bị sốt. “Nhưng đó là
Valentine. Tôi đã thấy ông ta. Thật ra,
khi xuống xà lim chế nhạo tôi, ông ta đã
có Thanh Kiếm trong tay rồi. Nó giống
như cảnh trong một bộ phim tồi tệ, trừ
việc ông ta không xoắn xoắn râu ra.”

Clary lo lắng nhìn anh. Anh đang nói


quá nhanh và trông như đứng không
vững.

Điều Tra Viên dường như không để ý.


“Vậy cậu đang nói rằng Valentine kể tất
cả cho cậu? Hắn nói với cậu rằng hắn
giết các Tu Huynh Câm vì hắn muốn có
Kiếm Thánh?”
“Hắn còn nói gì với con nữa? Hắn có
nói sẽ tới đâu không? Hắn còn âm mưu
gì với hai Báu Vật kia không?” Maryse
vội hỏi.

Jace lắc đầu.

Điều Tra Viên tiến lên, chiếc áo


choàng cuộn quanh như một làn khói
quấn. Đôi mắt xám và đôi môi xám ngoét
mím lại thành những đường kẻ ngang
mỏng dính. “Ta không tin cậu.”

Jace chỉ nhìn bà ta. “Tôi cũng không


nghĩ bà sẽ tin tôi.”
“Ta nghĩ Hội đồng Clave cũng không
tin cậu.”

Alec nóng nảy nói, “Jace không nói


dối...”

“Động não tý đi, Alexander,” Điều


Tra Viên nói với Alec nhưng ánh mắt
không rời Jace. “Bỏ qua một bên lòng
trung thành với bạn bè trong một chốc đi
nào. Khả năng Valentine ghé qua xà lim
của cậu con trai để hàn huyên tâm sự cha
con về Thanh Kiếm Linh Hồn, mà không
hề đả động xem hắn có dự định gì với
nó, hay hắn ta sẽ đi đâu, là bao nhiêu
hử?”
“S’io credesse che mia risposta
fosse,” Jace nói bằng thứ ngôn ngữ
Clary không hiểu, “a persona che mai
tornasse al mondo...”

“Dante[1].” Điều Tra viên có vẻ lạnh


nhạt “Inferno[2]. Cậu chưa xuống địa ngục
đâu, Jonathan Morgenstern, dù nếu cậu
cứ tiếp tục nói dối Clave, cậu sẽ ước cậu
được ở đó.” Bà ta quay sang những
người khác “Và mọi người không thấy lạ
khi Thanh Kiếm biến mất một đêm trước
khi Jonathan Morgenstern bị xét xử dưới
Thanh Kiếm đó à - và thủ phạm đánh cắp
nó lại là cha của cậu ta?”

[1] Dante: tên đầy đủ Dante Alighieri (1265-


1321) là một nhà thơ, nhà thần học nguời Ý, tác
giả của hai kiệt tác La Divina Commedia (Thần
khúc) và La Vita Nuova (Cuộc đời mới).

[2] Inferno (Địa Ngục) là phần mở đầu của


trường ca La Divina Commedia (Thần Khúc). Các
phần tiếp theo là Luyện Ngục và Thiên Đường. Mỗi
phần có 33 khúc, cộng 1 khúc mở đầu, tất cả là
100 khúc với hơn 14.000 câu thơ. Người ta vẫn
thường gọi La Divina Commedia là “Kinh thánh
của thời Trung cổ.”

Câu “S’io credesse che mia risposta fosse/ a


persona che mai tornasse al mondo...” được trích
trong khúc XXVII của chương Địa ngục, nói về
tầng thứ 8 của Địa ngục. Bản dịch Việt Ngữ: “Giá
tôi biết rằng câu chuyện của mình/ Nghe thấy được
người còn quay trở lại…”

Nghe thế Jace có vẻ sốc, miệng hơi há


ra vì ngạc nhiên, như thể chính anh cũng
chưa bao giờ có suy nghĩ đó. “Bố tôi
không lấy Thanh Kiếm đi vì tôi. Ông ta
làm vì ông ta. Tôi không nghĩ ông ấy
biết tới vụ xét xử.”

“Nói gì thì nói, thật lợi cho cậu quá.


Và cho cả hắn nữa. Hắn sẽ không cần lo
cậu sẽ tiết lộ bí mật của hắn ra.”

“Phải rồi,” Jace nói, “ông ta sợ tôi sẽ


đi tuyên truyền với thiên hạ rằng ông ta
thực sự muốn trở thành một diễn viên
múa ba lê.” Điều Tra Viên chỉ chằm
chằm nhìn anh. “Tôi không biết bất cứ
một bí mật nào của bố tôi,” anh ôn hòa
hơn. “Ông ta chưa bao giờ nói với tôi
bất kể điều gì.”
Điều Tra Viên nhìn anh với chút chán
chường. “Nếu bố cậu không lấy Thanh
Kiếm vì muốn bảo vệ cậu, thì vì gì
đây?”

“Đó là một trong những Bảo bối


Thiên thần,” Clary nói. “Nó chứa đựng
quyền năng to lớn. Giống như Chén
Thánh vậy. Valentine thích có quyền năng
trong tay.”

“Chén Thánh thì hữu dụng ngay trước


mắt,” Điều Tra Viên nói. “Hắn có thể
dùng nó để lập ra một đội quân. Nhưng
Thanh Kiếm chỉ được dùng trong các
phiên xét xử. Ta không thấy nó hấp dẫn
hắn ở chỗ nào.”

“Hắn có thể dùng nó để khiến cho Hội


dồng Clave mất đoàn kết,” Maryse gợi ý.
“Để làm suy sụp nhuệ khí quân ta. Để
nhắn nhủ rằng chúng ta không thể ngăn
hắn lấy được bất cứ thứ gì hắn muốn.”
Lý lẽ này đanh thép lắm chứ, Clary nghĩ,
nhưng giọng Maryse lại không có sức
thuyết phục. “Sự thật là..”

Nhưng họ không kịp nghe xem sự thật


ra sao, vì ngay lúc đó Jace giơ tay như
muốn hỏi, rồi trông như giật mình, và
bỗng ngồi bệt xuống bãi cỏ, như thể hai
chân anh chịu không nổi nữa vậy. Alec
quỳ xuống bên, nhưng Jace xua tay trấn
an. “Để cho tớ yên. Tớ ổn mà.”

“Anh không ổn đâu.” Clary đến bên


Alec trên bãi cỏ, Jace nhìn cô mà đồng
tử giãn lớn và đen kịt, dù ánh đèn phù
thủy vẫn tỏa ánh sáng xua tàn màn đêm
đen. Cô liếc xuống cổ tay, nơi Alec đã
vẽ chữ iratze. Ấn Ký đã bay mất, một tí
sẹo trắng mờ để lại chứng tỏ chữ rune đã
phát huy tác dụng cũng không có. Mắt cô
chạm mắt Alec và cô thấy sự căng thẳng
của mình phản chiếu trong mắt anh. “Có
gì không ổn với anh ấy,” cô nói.
“Nghiêm trọng lắm đấy.”

“Có thể cậu ta cần chữ rune trị


thương.” Điều Tra Viên trông như thể
đang bực điên người vì Jace dám bị
thương trong một sự kiện quan trọng
nhường ấy. “Chữ iratze, hay...”

“Chúng tôi đã thử rồi,” Alec nói.


“Không có hiệu quả. Tôi nghĩ có thứ gì
đấy mang nguồn gốc của quỷ đang diễn
ra quanh đây.”

“Như là độc quỷ ấy à?” Maryse bước


lên một bước như muốn tới bên Jace,
nhưng Điều Tra Viên ngăn bà lại.

“Cậu ta đang giả bộ ấy mà,” bà ta nói.


“Giờ cậu ta nên ở trong xà lim của Thành
phố Câm Lặng rồi đấy.”
Nghe thế Alec đứng bật dậy. “Bà
không thể nói vậy được - nhìn cậu ấy
xem!” Anh khoa tay về phía Jace, đang
nằm một đống trên bãi cỏ, mắt nhắm
nghiền. “Cậu ấy đứng dậy còn chẳng nổi.
Cậu ấy cần gặp bác sĩ, cậu ấy cần...”

“Các Tu Huynh Câm đã chết hết rồi,”


Điều Tra Viên nói. “Cậu tính nhờ đến
bệnh viện của người thường sao?”

“Không.” Giọng Alec đanh lại “Tôi


nghĩ cậu ấy có thể tới gặp Magnus.”

Isbaelle khụt khịt nghe vừa giống


tiếng hắt hơi vừa giống tiếng ho. Cô nàng
quay đi khi Điều Tra Viên thờ ơ nhìn
Alec. “Magnus?”

“Magnus là pháp sư,” Alec nói.


“Thực ra anh ta là Đại pháp sư của
Brooklyn.”

“Ý con là Magnus Bane à,” bà


Maryse nói. “Anh ta khét tiếng…”

“Magnus đã chữa trị cho con sau khi


con chiến đấu với Đại Quỷ,” Alec bảo.
“Các Tu Huynh Câm đã bó tay, nhung
Magnus…”

“Thật nực cười,” Điều Tra Viên nói.


“Cậu chỉ muốn giúp Jonathan trốn mà
thôi.”

“Giờ anh ấy làm gì còn đủ sức mà


trốn đâu,” Isabelle nói. “Bà không thấy
sao?”

“Magnus sẽ không để chuyện đó xảy


ra,” Alec nói rồi lườm xéo sang cô em
gái. “Anh ta không thích gây thù chuốc
oán với Hội đồng Clave.”

‘‘Và anh ta sẽ đề nghị ngăn cậu


Jonathan đây bỏ trốn bằng cách nào ấy
nhỉ?” Giọng Điều Tra Viên chua như
giấm. “Jonathan là Thợ Săn Bóng Tối;
chúng ta không thể dễ dàng bị nhốt lại
với khóa và chìa đâu.”
“Có lẽ bà hỏi anh ấy đi,” Alec đề
nghị.

Điều Tra Viên cười lạnh. “Sẵn sàng


ngay. Anh ta đâu rồi?”

Alec liếc nhìn điện thoại trên tay rồi


lại nhìn con người gầy nhẳng xám xịt
trước mặt. “Anh ta tới rồi,” anh bảo. Anh
cao giọng gọi. “Magnus! Magnus, anh ra
đây đi.”

Đến Điều Tra Viên cũng phải nhướn


mày nhìn Magnus sải bước qua cổng.
Đại Pháp sư mặc quần da đen, áo khoác
kiểu quân nhân Đức màu xanh cô ban bên
ngoài áo sơ mi ren trắng và đeo thắt lưng
mặt khóa hình chữ M bằng đá quý.
Magnus lấp la lấp lánh nhờ hàng lớp kim
tuyến. Ánh mắt anh ta dừng lại nơi mặt
Alex trong khoảnh khắc với vẻ vui thú và
để lộ một thứ cảm xúc gì khác nữa trước
khi chuyển sang nhìn Jace, đang nằm
xoài trên cỏ. “Cậu ta chết chưa?” anh ta
hỏi. “Trông chết ngắc rồi.”

“Chưa,” Maryse gắt “Cậu ta chưa


chết.”

“Cô kiểm tra chưa? Tôi có thể đá cậu


ta một phát nếu cô muốn.” Magnus tiến
tới chỗ Jace.
“Thôi ngay!” Điêu Tra Viên quát,
nghe như bà giáo lớp ba của Clary đang
bảo cô không được vẽ bậy lên bàn. “Cậu
ta chưa chết, nhưng đang bị thương,” bà
ta nói thêm, hơi miễn cưỡng. “Y thuật
của anh được cần đến. Jonathan cần khỏe
lên để tham gia phiên thẩm vấn.”

“Được, nhưng tốn kha khá đấy nhé.”

“Tôi trả,” bà Maryse bảo.

Điều Tra Viên không buồn chớp mắt.


“Tốt thôi. Nhưng cậu ta không thể ở lại
Học Viện. Chỉ vì Thanh Kiếm biến mất
không có nghĩa là phiên thẩm vấn không
tiến hành theo đúng kế hoạch. Và trong
thời gian đó, cậu Jonathan đây phải bị
giám sát chặt chẽ. Cậu ta rõ ràng có nguy
cơ bỏ trốn.”

“Nguy cơ bỏ trốn à?” Isabelle cật


vấn. “Bà nói như thể anh ấy cố tìm cách
trốn khỏi Thành phố Câm Lặng ấy...”

“À” Điều Tra Viên nói. “Giờ cậu ta


cũng đâu ở trong xà lim nữa, đúng
không?”

“Không công bằng! Bà không thể để


anh ấy ở lại một nơi đầy rẫy những xác
chết!”
“Không công bằng? Không công bằng
ư? Cô thực sự nghĩ tôi tin rằng động cơ
anh em cô xuống Thành phố Xương là vì
cuộc gọi cầu cứu, chứ không vì muốn
giải thoát cho Jonathan khỏi điều mà cô
rõ ràng cho là sự giam giữ ‘không cần
thiết’ hử? Và cô nghĩ tôi tin cô sẽ không
muốn thả cậu ta lần nữa nếu cậu ta được
ở lại trong Học Viện à? Cô nghĩ cô có
thể lừa tôi dễ như lừa bố mẹ cô hả,
Isabelle Lightwood?”

Mặt Isabelle đỏ ửng. Magnus xen


ngang trước khi cô kịp trả lời: “Nghe
này, không vấn đề gì đâu,” anh ta nói.
“Tôi có thể thừa sức giữ Jace ở nhà
mình.”

Điều Tra Viên quay sang Alec. “Pháp


sư của cậu có ý thức được,” bà nói,
“rằng Jonathan là người làm chứng vô
cùng quan trọng đối với Clave không?”

“Anh ta không phải là pháp sư của


tôi.” Chóp má xương xương của Alec
bừng đỏ.

“Tôi đã từng giúp Hội đồng Clave


giữ tù nhân,” Magnus nói. Giọng nói đã
không còn âm điệu bông đùa. “Tôi nghĩ
bà sẽ thấy tôi có tường trình xuất sắc
trong khoản này. Thỏa thuận tôi đưa ra là
tốt nhất.”
Clary đang tưởng tượng chăng, hay
mắt Magnus dường như nhìn Maryse khá
lâu khi anh ta nói thế nhỉ? Cô không có
thời gian mà nghĩ; Điều Tra Viên khụt
khịt không hiểu là vì thích thú hay kinh
tởm rồi nói, “Vậy chuyện đã xong. Báo
cho ta khi cậu ta đủ sức nói chuyện nhé,
pháp sư. Ta có khá nhiều câu hỏi cho cậu
ta đấy.”

“Tất nhiên,” Magnus nói, nhưng Clary


không nghĩ anh ta thực sự lắng nghe. Đại
Pháp Sư duyên dáng sải chân qua bãi cỏ
và đến đứng trước mặt Jace; anh ta cao
gầy nên khi Clary đưa mắt lên nhìn, cô
ngạc nhiên vì không nghĩ Magnus có thể
che khuất một khoảng trời sao rộng tới
vậy. “Cậu đây còn nói được không nhỉ?”
Magnus hỏi Clary, ám chỉ Jace.

Trước khi Clary kịp trả lời, Jace mở


choàng mắt. Anh đờ đẫn nhìn vị pháp sư.
“Anh làm gì ở đây?”

Magnus cười thật tươi với Jace, hàm


răng trắng sáng lấp lánh như kim cương
được mài giũa.

“A chào anh bạn cùng phòng,” anh ta


nói.
Phầ n 2: Cổ ng điạ ngu ̣c

Trước ta, chı̉ những gı̀ vıñ h viễn

Ta ngang bằ ng với giá tri ̣ vıñ h hằ ng

Kẻ vào đây hãy vứt niề m hy vọng.

- Dante, Đi ̣a ngục
8. Triều đình Seelie

Trong giấc mơ, Clary trở lại là một


cô bé đang bước đi trên bở biển dài,
bên cạnh lối đi lát ván tại Đảo Coney.
Không khí đượm mùi xúc xích và đậu
phộng rang, đây đó râm ran tiếng trẻ
con cười đùa la hét. Biển nhấp nhô
phía xa xa, mặt nước xám xanh lấp
lánh ánh mặt trời.

Cô có thể trông thấy mình như thể


đang đứng từ đằng xa, trong bộ đồ ngủ
con nít rộng thùng thình. Gấu quần
lượt thượt quét trên cát. Cát ướt xọc
vào giữa những kẽ chân còn tóc dính
bết trên gáy. Trời không mây và trong
veo xanh ngát, nhưng cô rùng mình vì
lạnh khi đi ven gần mép nước về phía
bóng người mờ mờ xa xa.

Khi tới gần hơn, bóng người đó đột


nhiên hiện ra rõ nét, như thể Clary vừa
chỉnh sang chế độ focus của ống kính
máy ảnh. Là mẹ cô, đang quỳ bên lâu
đài cát xây dở bị sóng dần cuốn trôi.
Mẹ vẫn mặc chiếc váy trắng mà
Valentine đã mặc cho bà hồi ở Renwick.
Trên tay mẹ nắm là túm gỗ trôi dạt,
trắng bàng bạc vì ngâm lâu trong nước
biển và gió.
Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com

“Con tới giúp mẹ ư?” mẹ ngẩng đầu


lên hỏi. Mái tóc Jocelyn xõa ra tung
bay trong gió, khiến mẹ trông trẻ hơn
tuổi. “Mẹ có nhiều việc phải làm mà
thời gian còn quá ít.”

Clary nuốt cục nghẹn ứ trong họng.


“Mẹ ơi - con nhớ mẹ lắm.”

Jocelyn mỉm cười. “Mẹ cũng nhớ


con, con yêu ạ. Nhưng mẹ có chết đâu,
con biết mà. Mẹ chỉ đang ngủ mà thôi.”

“Vậy làm sao con đánh thức mẹ dậy


được đây?” Clary khóc, nhưng mẹ cô
chỉ nhìn ra ngoài khơi xa, gương mặt lo
âu. Bầu trời đã chuyển sang sắc xám đỏ
hoàng hôn và những đám mây đen
trông như những tảng đá trĩu nặng.

“Tới đây,” mẹ Jocelyn nói, rồi khi


Clary tới bên, mẹ bảo, “Con giơ tay ra
đi.”

Clary làm theo. Jocelyn dùng thanh


củi khô vẽ gì đó lên da cô. Cảm giác
phải bỏng y hệt như khi cô bị thanh
stele làm bỏng, và cũng để lại cùng nét
vẽ màu đen thô dày như vậy. Chữ rune
Jocelyn vẽ có hình dáng Clary chưa
từng thấy bao giờ, nhưng một cách bản
năng cô thấy nó nhìn rất dễ chịu. “Cái
này có tác dụng gì ạ?”

“Nó sẽ bảo vệ con.” Mẹ thả tay cô


ra.

“Khỏi cái gì cơ?”

Jocelyn không trả lời mà chỉ nhìn xa


xăm ra ngoài biển khơi. Clary quay
sang thấy đại dương đã rút ra xa dần,
để lại những đống rác nước lợ, những
cụm tảo biển và phù du, cùng những
con cá mắc cạn đang tuyệt vọng quẫy
đạp. Nước đã tụ lại thành cơn sóng lớn,
cao vời vợi như núi, giống như một
trận tuyết lở sắp đổ xuống. Tiếng hò
reo của lũ trẻ trên đường lát ván đã
chuyển thành những tiếng la hét thất
thanh. Trong khi Clary sợ hãi trố mắt
nhìn, cô để ý thấy một mặt sóng trong
suốt như lớp màng nhầy, và xuyên qua
nó cô thấy những thứ dường như đang
di chuyển dưới bề mặt, những thứ vô
hình vô dạng đen đúa khổng lồ đang cố
thúc vào lớp da của mặt nước. Cô vung
tay…

Và tỉnh dậy, thở dốc, trống ngực dồn


dập đến phát đau. Cô đang nằm trong
giường phòng khách nhà chú Luke, và
ánh mặt trời chiều xuyên qua màn cửa,
chiếu vào căn phòng. Tóc cô đầy mồ hôi
và dính bết vào gáy, tay đau nhức và mỏi
nhừ. Khi ngồi thẳng lên bật đèn ngủ, cô
không ngạc nhiên khi thấy Ấn Ký màu
đen chạy dọc cánh tay mình.

Vào đến bếp, Clary thấy chú Luke đã


để lại phần món bánh vòng Đan Mạch
làm đồ ăn sáng cho cô trong chiếc hộp
bìa cứng lấm tấm dầu mỡ. Chú cũng để
lại mẩu lời nhắn trên tủ lạnh. Đến bệnh
viện.

Clary ăn món bánh vòng trên đường


tới gặp Simon. Simon hẹn gặp cô lúc
năm giờ chiều tại góc đường Bedfod bên
cạnh trạm tàu L, nhưng hiện giờ cậu bạn
không có mặt ở đó. Cô đang hơi thấy lo
lắng thì nhớ ra cửa hàng băng đĩa cũ tại
góc đường Số Sáu. Quả thật, cậu bạn
đang chọn đĩa tại quầy đĩa CD mới phát
hành. Simon mặc chiếc áo phông xanh da
trời có in hình cậu thiếu niên đeo tai
nghe đang nhảy múa với gà. Simon cười
toe toét khi thấy cô bạn. “Eric nghĩ bọn
mình nên đổi tên ban nhạc thành Mojo
Pie,” cậu nói, như lời chào hỏi.

“Giờ bạn nhạc tên gì ấy nhỉ? Mình


quên mất.”

“Champagne Enema,” cậu nói và lấy


một đĩa CD Yo La Tengo.

“Đổi đi,” Clary nói. “À mà, mình biết


hình trên áo phông cậu có nghĩa gì đấy.”
“Không đâu.” Cậu đi ra trước tiệm để
trả tiền. “Cậu là gái ngoan mờ.”

Bên ngoài, gió thổi từng đợt lạnh


cóng. Clary kéo chiếc khăn quàng kẻ che
kín cằm. “Mình đang lo khi không thấy
cậu tại trạm L.”

Simon kéo sụp mũ len xuống, nhăn


mặt như thể ánh mặt trời làm cậu đau
mắt. “Xin lỗi. Mình nhớ ra là cần đĩa CD
này, nên mình nghĩ…”

“Không sao đâu.” Cô phẩy tay. “Do


mình. Dạo này mình toàn lo sợ không
đâu.”

“Ừ, sau những gì cậu đã trải qua,


không ai trách gì cậu cả đâu.” Simon có
vẻ hối hận. “Mình vẫn không thể tin nổi
chuyện xảy ra ở Thành phố Câm Lặng.
Mình không thể tin là cậu đã ở đó.”

“Chú Luke còn chẳng tin nữa là. Chú


ấy hết cả hồn.”

“Còn phải nói.” Họ đang đi qua Công


viên McCarren, lớp cỏ dưới chân họ
đang ngả sang sắc nâu vàng của mùa
đông, không gian ngập sắc nắng vàng.
Những chú chó được sổng dây chạy
quanh mấy gốc cây. Mọi thứ trong cuộc
đời mình đang thay đổi, vậy mà thế giới
vẫn không chút đổi thay, Clary nghĩ.
“Cậu có nói chuyện với Jace từ hồi đó
giờ không?” Simon hỏi, giữ giọng thờ ơ.

“Không, nhưng tớ đã hỏi qua Isabelle


và Alec vài lần rồi. Hình như là anh ấy
vẫn ổn.”

“Anh ấy không đòi gặp cậu à? Vì thế


nên chúng ta đi gặp anh ta?”

“Anh ấy không cần phải hỏi.” Clary


cố nén không để lộ sự bực bội trong
giọng nói khi họ rẽ vào con phố nhà
Magnus. Dọc hai bên đường là những tòa
nhà kho thấp mái giờ đã được sửa sang
thành các căn hộ và xưởng vẽ dành cho
dân nghệ thuật - và rủng rỉnh túi tiền.
Hầu hết những xe đậu dọc vệ đường đều
thuộc hạng sang cả.

Khi họ tới gần khu nhà Magnus, Clary


thấy một người mảnh khảnh đang vươn
mình khỏi tư thế ngồi khom người. Alec.
Anh ta đang mặc áo khoác đen dài làm từ
loại vật liệu hơi bóng, khi tiền thưởng
được Thợ Săn Bóng Tối dùng làm trang
phục. Tay và cổ đầy những chữ rune, và
không khí xung quanh anh ta có chút rung
động mờ ảo nên Clary biết anh đang
dùng phép ẩn thân.

“Anh không biết em mang theo cậu


người thường này tới.” Đôi mắt xanh tỏa
ánh sáng khó chịu về phía Simon.

“Tôi rất thích thái độ đó của các anh,”


Simon nói. “Các anh luôn cho tôi cảm
giác được chào đón nồng nhiệt ghê
người.”

“Ồ, thôi nào, Alec,” Clary nói. “Có gì


to tát đâu? Có phải Simon chưa từng tới
đây đâu nào.”

Alec thở dài rất kịch, rồi nhún vai,


dẫn đường đi trước bước lên các bậc
cấp. Anh ta dùng chiếc chìa khóa bạc
mỏng mở cửa căn hộ Magnus, rồi bỏ lại
vào túi áo ngực, như cố giấu không cho
những người bạn đồng hành của mình
trông thấy.

Dưới ánh sáng ban ngày, căn hộ trông


trống trải như một câu lạc bộ đêm vào
giờ vắng khách: tối, bẩn và nhỏ chật
không ngờ. Tường nhà trống trơn, chỉ lác
đác vài bức tranh rắc kim tuyết lấp lánh,
còn sàn nhà, nơi những thần tiên nhảy
múa hồi tuần trước giờ đã cong vênh và
bóng mòn vì dùng lâu ngày.

“Xin chào, xin chào.” Magnus tiến


tới. Đại Pháp Sư mặc áo lụa xanh dài
chấm đất mở cúc khoe chiếc áo lưới và
quần bò đen. Chiếc khuyên đá đỏ lấp
lánh bên tai trái. “Ôi Alec thân mến.
Clary. Và nhóc-chuột.” Anh ta hơi cúi
chào Simon, cậu chàng trông khó chịu ra
mặt. “Sao hôm nay rồng lại tới nhà tôm
thế này?”

“Bọn em tới gặp Jace,” Clary nói.


“Anh ấy khỏe không?”

“Tôi không biết,” Magnus đáp.


“Thường cậu ta có hay nằm im như chết
trên sàn nhà không?”

“Cái gì…” Alec cất tiếng, nhưng


ngừng bặt ngay khi Magnus cười khằng
khặc. “Không vui đâu.”
“Cậu dễ bị bắt nạt nhỉ. Và vâng, bạn
các cô cậu vẫn khỏe. À trừ việc cậu ta
cứ dịch chuyển đồ đạc của tôi rồi lau
dọn đủ thứ. Giờ tôi chẳng tìm thấy cái gì
cả. Cậu ta bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế
rồi.”

“Jace vốn thích gọn gàng ngăn nắp,”


Clary nói, nghĩ tới căn phòng như của
thầy tu của anh tại Học Viện.

“Ơ, nhưng tôi thì không.” Magnus


đang liếc mắt quan sát Alec trong khi anh
này cau có nhìn đâu đâu. “Nếu cậu muốn
gặp thì Jace ở trong kia kìa.” Magnus chỉ
về một cánh cửa cuối phòng.
“Trong kia kìa” hóa ra là một căn
phòng cỡ trung - ấm cúng đáng ngạc
nhiên, với những bức tường ố bẩn, những
tấm rèm nhung che kín ô cửa sổ cùng
những chiếc ghế bành màu quấn vải, nổi
lên như những chóp núi băng màu sắc
khổng lồ giữa một đại dương thảm màu
be. Chiếc tràng kỷ màu hồng rực đầy
những chăn gối. Bên cạnh nó là một túi
vải nhét đầy quần áo. Không chút sáng
nào rọi qua được lớp màn dày cộp;
nguồn chiếu sáng duy nhất phát ra từ màn
hình ti vi nhấp nháy, đang sáng lòe dù
không được cắm điện.

“Có chương trình gì thế?” Magnus


hỏi.
“What Not to wear,” một giọng nói
kéo dài quen thuộc, phát từ hình người
đang nằm ườn trên ghế tựa. Anh ngồi
thẳng dậy và trong thoáng chốc Clary cứ
tưởng Jace sẽ đứng lên chào đón họ.
Nhưng không, anh chỉ lắc đầu với màn
hình. “Quần ka ki cạp cao ư? Ai thèm
mặc cái thứ đó chứ?” anh quay sang
lườm Magnus. “Với sức mạnh siêu nhiên
gần như không giới hạn,” anh nói, “mà
anh chỉ dùng nó để xem các chương trình
phát lại thôi sao. Quá là phí phạm.”

“Với lại, TiVo cũng cho ra cùng kết


quả như thế,” Simon nhận xét.
“Nhưng cách của tôi rẻ hơn.” Magnus
vỗ tay và toàn bộ căn phòng bỗng tràn
ngập ánh sáng. Jace, đang nằm một đống
trên ghế, giơ tay lên che mặt. “Anh có thể
làm vậy mà không cần phép thuật
không?”

“Thực ra,” Simon nói, “là có. Nếu


anh xem các chương trình thông tin quảng
cáo thì anh sẽ biết thôi.”

Clary cảm nhận thấy không khí trong


phòng đang xấu đi. “Đủ rồi đấy,” cô lên
tiếng. Cô nhìn Jace, người đã hạ tay và
chớp mắt bực bội vì ánh sáng. “Chúng ta
cần nói chuyện,” cô nói. “Tất cả chúng
ta. Về những gì chúng ta sắp phải làm.”
“Anh đang định xem Project
Runaway,” Jace nói. “Sắp tới giờ phát
sóng rồi.”

“Không xem gì hết,” Magnus nói. Anh


ta búng ngón tay và TV tắt phụt, để lại
một cuộn khói nhỏ khi hình ảnh biến mất.
“Cậu phải đối mặt với chuyện này.”

“Tự nhiên anh có hứng giải quyết rắc


rối của tôi nhỉ?”

“Tôi có hứng muốn lại căn hộ của


mình. Tôi chán việc cậu suốt ngày lau
chùi dọn dẹp rồi.” Magnus lại búng tay
một cách đe dọa “Đứng dậy.”

“Hoặc không tới lượt anh bốc khói


đấy,” Simon thêm mắm dặm muối.

“Không cần cậu phải cắt nghĩa kiểu


búng tay của tôi,” Magnus nói. “Cách
búng tay tự nó đã nói lên tất cả rồi.”

“Được thôi.” Jace đứng dậy khỏi ghế.


Anh đi chân trần và trên cổ tay bị thương
cuốn lớp gạc màu tím bạc. Anh có vẻ
mệt mỏi, nhưng như thể không phải vì
vẫn còn đau. “Mọi người muốn họp bàn
tròn, chúng ta sẽ họp bàn tròn.”
“Tôi thích bàn tròn lắm,” Magnus vui
vẻ nói. “Nó hợp với tôi hơn là bàn
vuông.”

Magnus hóa phép ra một cái bàn tròn


to tướng với năm chiếc ghế tựa gỗ trong
phòng khách. “Tuyệt vời,” Clary reo lên
rồi chuồi vào một chiếc ghế. Thoải mái
tới ngạc nhiên. “Sao anh có thể tạo ra
một thứ từ hư vô vậy nhỉ?”

“Không được đâu,” Magnus nói.


“Mọi thứ đều từ đâu đó mà ra cả. Ví dụ
như, bộ bàn ghế này tới từ tiệm đồ cổ tại
Đại Lộ số Năm. Và những cái này” - đột
nhiên năm chiếc cốc giấy trắng xuất hiện
trên bàn, hơi nước nhẹ nhàng lan tỏa qua
những lỗ nhỏ từ những chiếc nắp nhựa -
“từ tiệm Dean & DeLuca trên đường
Broadway.”

“Có vẻ như là ăn trộm ấy nhỉ?” Simon


với một cốc. Cậu mở nắp. “Ố ồ.
Mochaccino này.” Cậu nhìn Magnus.
“Anh có trả tiền không?”

“Có chứ,” Magnus nói trong khi Jace


và Alec cười khúc khích. “Tôi hóa phép
cho tiền úm ba la xuất hiện trong máy
đếm tiền.”

“Thật á?”
“Không.” Magnus mở nắp cốc cà phê
của mình. “Nhưng nếu cậu thấy tội lỗi thì
cứ coi như thế đi. Giờ vấn đề đầu tiên là
gì nào?”

Clary ôm lấy cốc cà phê. Có thể nó là


đồ ăn trộm đấy, nhưng nó lại nóng và có
chứa cafein. Có dịp cô sẽ qua tiệm Dean
& DeLuca và bỏ một đô la vào hộp đựng
tiền típ. “Có thể bắt đầu bằng việc tìm
hiểu chuyện gì đang xảy ra,” cô nói và
thổi phù phù mặt bọt cà phê. “Jace, anh
nói vụ thảm sát tại Thành phố Câm Lặng
là do Valentine gây ra phải không?”

Jace chăm chú nhìn cốc cà phê.


“Phải.”
Alec đặt tay lên tay Jace. “Chuyện gì
đã xảy ra thế? Cậu thấy ông ta à?”

“Tớ ở trong xà lim,” Jace nói, giọng


không cảm xúc. “Rồi tớ nghe thấy những
tiếng gào thét của các Tu Huynh Câm.
Sau đó, Valentine bước xuống cùng…
cùng một cái gì đó. Tớ chẳng biết nó là
gì nữa. Giống như khói ấy, với đôi mắt
sáng rực. Một con quỷ, nhưng không
giống bất cứ loại nào tớ từng thấy. Ông ta
tới bên song sắt và bảo với tớ…”

“Bảo gì?” Bàn tay Alec trượt lên vai


Jace. Magnus húng hắng, Alec hạ tay,
mặt đỏ lựng, trong khi Simon nhe răng
cười với cốc cà phê chưa hề đụng tới.

“Maellartach,” Jace nói. “Ông ta


muốn Thanh Kiếm Linh Hồn và ông ta
giết các Tu Huynh Câm để có nó.”

Magnus nhíu mày. “Alec này, đêm


qua, khi các Tu Huynh Câm cầu viện, đội
Conclave ở đâu? Sao không ai ở trong
Học Viện vậy?”

Alec ngạc nhiên khi được hỏi. “Một


cư dân của Thế Giới Ngầm bị sát hại tại
Công viên Trung Tâm vào đêm qua. Một
tiểu thần tiên bị giết. Xác bị hút kiệt
máu.”
“Tớ cá Điều Tra Viên cũng nghĩ là do
tớ gây ra cho xem,” Jace nói. “Đế chế
kinh hoàng của tớ lại tiếp diễn.”

Magnus đứng dậy tới bên cửa sổ. Anh


ta kéo rèm, vừa vặn để ánh sáng đổ bóng
trên khuôn mặt nhìn nghiêng giống một
con chim ưng. “Máu,” pháp sư nói, gần
như nói với chính mình. “Cách đây hai
đêm, tôi đã mơ thấy một cơn ác mộng.
Tôi thấy một thành phố toàn máu, với
những tòa tháp xương, và máu tràn xuống
dường như nước vậy.”

Simon liếc xéo trên Jace. “Đứng bên


cửa sổ lẩm bẩm về chuyện máu me là
điều anh ta làm luôn ấy à?”
“Không,” Jace đáp, “thi thoảng anh ta
còn ngồi trên ghế mà làm thế nữa.”

Alec liếc xéo cả hai người. “Magnus,


sao vậy?”

“Máu,” Magnus lại nói. “Đây không


phải chuyện tình cờ.” Hình như pháp sư
đang nhìn xuống đường. Ánh chiều tà
nhanh chóng phủ xuống những góc khuất
xa xa trong thành phố. Bầu trời đan xen
những đường sọc màu bạc và vàng cam.
“Tuần này trong thành phố đã diễn ra
mấy vụ án mạng,” anh ta nói, “toàn nhằm
vào những người của Thế giới Ngầm.
Một pháp sư, bị giết trong tòa tháp chung
cư tại đường South Street Seaport. Cổ và
cổ tay bị cắt toạc và cơ thể bị rút cạn
máu. Một người sói bị sát hại tại quán
Hunter’s Moon vài ngày trước. Lần này
cổ cũng bị rạch.”

“Nghe giống tác phẩm của ma cà rồng


ghê,” Simon nói, đột nhiên mặt tái xanh.

“Tôi không nghĩ vậy,” Jace nói. “Ít


nhất Raphael cũng khẳng định đó không
phải là tác phẩm của Những Đứa Con
của Màn Đêm. Hắn ta dường như khá
đanh thép.”

“Vâng, vì hắn đáng tin quá ấy mà,”


Simon lầm bầm.
“Trong trường hợp này tôi nghĩ hắn
nói thật,” Magnus nói và kéo rèm lại.
Gương mặt xương xương của anh ta ẩn
khuất trong bóng tối. Khi Magnus trở lại
bàn, Clary nhận ra pháp sư có cầm theo
cuốn sách nặng bọc bìa vải xanh lá. Cô
không nghĩ Magnus cầm nó từ lúc trước.
“Tại cả hai nơi đó đều rất đậm mùi quỷ
dữ. Tôi tin một kẻ khác đứng đằng sau ba
cái chết này. Không phải Raphael và
đồng loại, mà là Valentine.”

Clary liếc nhìn Jace. Miệng anh mím


lại thành một đường kẻ, nhưng anh chỉ
hỏi, “Sao anh nghĩ vậy?”
“Điều Tra Viên cho rằng vụ giết tiểu
thần tiên kia là một đòn đánh lạc hướng,”
Clary vội nói. “Nhờ đó, hắn có thể xông
vào Thành phố Câm Lặng mà không phải
lo đến đội Conclave.”

“Có nhiều cách dễ dàng khác để đánh


lạc hướng mà,” Jace nói, “và chỉ có kẻ
ngốc mới thích gây thù chuốc oán với
Thần Tiên. Ông ta sẽ không giết một
trong số thị tộc của Thần Tiên nếu không
có lý do.”

“Hắn ta có đấy,” Magnus nói. “Hắn


cần gì đó từ tiểu tiên kia, cũng như thứ gì
đó hắn muốn từ tay pháp sư và người sói
mà hắn đã giết.”
“Đó là gì?” Alec hỏi.

“Máu của họ,” Magnus nói và mở


cuốn sách xanh lá cây ra. Những trang
giấy da dê mỏng tang chứa những con
chữ tỏa sáng như lửa. “À,” anh ta nói,
“đây rồi.” Pháp sư ngẩng đầu, dùng đầu
móng tay cắt nhọn gõ gõ lên trang giấy.
Alec nhoài người lại gần. “Cậu không
đọc được đâu,” Magnus cảnh báo. “Nó
được viết bằng quỷ ngữ đấy. Purgatic.”

“Nhưng tôi nhận ra được từ hình vẽ.


Đó là Maellartach. Tôi từng thấy nó
trong những cuốn sách khác rồi.” Alec
chỉ vào hình thanh kiếm bạc, khá quen
thuộc với Clary - chính là thanh kiếm mà
cô để ý thấy đã biến mất khỏi bức tưởng
của Thành phố Câm Lặng.

“Nghi thức Địa Ngục Xoay Chuyển,”


Magnus nói. “Đó là điều Valentine đang
muốn làm.”

“Cái gì cơ?” Clary nhíu mày.

“Trong mỗi vật chứa phép thuật đều


ẩn giấu một mối liên kết,” Magnus giải
thích. “Thanh kiếm Linh Hồn được liên
kết với thiên thần tối cao - giống như
những con dao thiên thần mà Thợ Săn
Bóng Tối các cậu vẫn dùng, nhưng mối
liên kết này mạnh hơn cả ngàn lần, nó sử
dụng sức mạnh của chính Thiên Thần,
chứ không phải từ tên thiên thần. Điều
Valentine muốn làm là hoán đổi mối liên
kết đó - khiến cho Thanh Kiếm liên kết
với quỷ dữ chứ không phải với thiên
thần.”

“Chuyển tính thiện sang tính ác!”


Simon hài lòng cảm thán.

“Cậu ta đang trích lời Rồng và Ngục


Tối[1] ấy mà,” Clary nói. “Kệ cậu ta đi.”

[1] Rồng và Ngục Tối (Dungeons and


Dragons) là một game nhập vai kỳ ảo, cần có một
quản trò và một nhóm người chơi nhất định. Trong
đó, người chơi được tự do tạo ra nhân vật cho
riêng mình, nhập vai, cùng nhau khám phá thế
giới. (ND)

“Vì đây là Kiếm Thánh, nên Valentine


không thể phát huy hết sức mạnh của nó,”
Magnus nói. “Nhưng với một thanh kiếm
chứa đựng sức mạnh quỷ dữ ngang ngửa
sức mạnh thiên thần nó từng có - hừm, nó
có thể cho hắn nhiều thứ. Không chỉ là
sức mạnh bảo vệ có hạn mà Chén Thánh
cho hắn không đâu, mà còn là sức mạnh
triệu hồi quỷ dữ, để buộc chúng làm theo
lời hắn.”

“Một đội quân quỷ dữ à?” Alec hỏi.

“Gã này bị ám ảnh bởi những đội


quân thì phải,” Simon nhận xét.
“Thậm chí là khả năng đưa lũ quỷ vào
tận Idris,” Magnus nói hết.

“Tôi không hiểu sao hắn lại muốn tới


đó,” Simon hỏi. “Đó không phải nơi cư
ngụ của các thợ săn quỷ hay sao? Chẳng
phải họ sẽ xóa sổ hết lũ quỷ sao?”

“Quỷ đến từ không gian khác,” Jace


nói. “Chúng tôi không biết đích xác số
lượng chúng là bao nhiêu. Có thể là vô
tận. Kết giới khiến chúng không xông vào
được, nhưng nếu là một đội quân nhất tề
lao tới…”
Vô tận, Clary nghĩ. Cô nhớ tới Đại
Quỷ Abbadon, và cố hình dung ra hàng
trăm hàng trăm con như thế. Hoặc hàng
ngàn. Da cô lạnh ngắt sởn hết cả lên.

“Tôi không hiểu,” Alec nói. “Nghi


thức này thì có liên quan gì tới mấy Cư
dân Thế Giới Ngầm bị giết chứ?”

“Để thực hiện Nghi Thức Xoay


Chuyển, cậu cần phải nung thanh kiếm
nóng đỏ lên, rồi làm nguội đi bốn lần,
mỗi lần sử dụng máu của một đứa trẻ
thuộc Thế Giới Ngầm. Một là máu từ
Đứa con của Lilith, hai là máu từ đứa trẻ
của mặt trăng, ba là máu từ đứa trẻ của
màn đêm, và bốn là máu từ đứa trẻ của
thần tiên,” Magnus giải thích.

“Ôi Chúa ơi,” Clary rên. “Vậy hắn


chưa xong trò giết chóc sao? Còn một
đứa bé nữa à?”

“Còn hai đứa nữa. Hắn không rút đủ


máu của sói con. Hắn bị phá ngang trước
khi có đủ máu cần thiết.” Magnus gập
sách khiến lớp bụi bay lên từ những trang
giấy. “Dù mục đích tối thượng của
Valentine là gì đi nữa, thì hắn cũng đã đi
được nửa đường chuyển đổi Thanh Kiếm
rồi. Có lẽ hắn đã ít nhiều sử dụng được
nó rồi cũng nên. Có thể hắn đã triệu hồi
được quỷ dữ…”
“Nhưng anh nghĩ xem nếu ông ta làm
điều đó, thì phải có báo cáo về những vụ
náo động, về hoạt động tràn lan của quỷ
dữ chứ,” Jace nói. “Thế mà Điều Tra
Viên lại nói điều ngược lại - rằng tình
hình rất yên ắng.”

“Rất có thể là thế,” Magnus bảo, “nếu


Valentine đang triệu tập tất cả quỷ dữ
tới bên hắn. Chả trách sao tình hình lại
yên ắng.”

Cả nhóm ngồi nhìn nhau. Trước khi ai


kịp nghĩ ra điều gì để nói, một âm thanh
chói tai vang rộn khắp căn phòng, khiến
Clary giật mình. Cà phê nóng sánh ra tay
khiến cô phải xuýt xoa vì bất ngờ bị đau.
“Mẹ tôi,” Alec vừa nói vừa kiểm tra
điện thoại. “Tôi sẽ quay lại ngay.” Anh
ta tới bên cửa sổ, đầu cúi xuống, nói thì
thào khiến không ai nghe lén nổi.

“Để tớ xem nào,” Simon nắm lấy tay


Clary. Giờ trên cổ tay cô đã có một vết
bỏng xấu xí nơi cà phê nóng tráng lên.

“Không sao mà,” cô nói. “Chuyện vặt


thôi.”

Simon nâng tay cô và hôn lên vết


thương. “Giờ thì ổn hơn rồi đó.”
Clary giật mình kêu lên. Trước giờ
Simon có từng làm trò này đâu. Nhưng
mà thôi, đó là điều bạn trai sẽ làm, đúng
không nhỉ? Cô rụt cổ tay lại, liếc sang
bên kia bàn và thấy Jace đang nhìn họ,
đôi mắt vàng tóe lửa. “Em là Thợ Săn
Bóng Tối,” anh nói. “Em phải biết xử lý
vết thương chứ.” Anh đẩy thanh stele
trên bàn về phía cô. “Dùng cái này đi.”

“Không,” Clary nói, và đẩy trả.

Jace đập tay xuống thanh stele.


“Clary…”

“Cậu ấy bảo không cần rồi,” Simon


nói. “Ha-ha.”
“Ha-ha?” Jace trông như không tin
vào tai mình. “Đó là lời trả miếng của
cậu đấy à?”

Alec gập điện thoại và trở về bàn,


trên mặt đượm nét bối rối. “Chuyện gì
thế?”

“Hình như chúng ta đang mắc kẹt


trong một tập của bộ phim One Life to
Waste,” Magnus nhận xét. “Chán phèo.”

Alec hất ngọn tóc rơi xuống mắt sang


bên. “Tớ vừa nói cho mẹ nghe nghi thức
Địa Ngục Xoay Chuyển.”
“Tớ đoán nhé,” Jace nói. “Mẹ không
tin. Thêm vào đó, mẹ đổ hết tội lên đầu
tớ.”

Alec nhíu mày. “Không hẳn. Mẹ có


bảo sẽ nói chuyện này với đội Conclave,
giờ mẹ không được lòng Điều Tra Viên.
Tớ có cảm giác Điều Tra Viên đang cho
mẹ ra rìa để tiếm quyền. Mẹ có vẻ tức
tối.” Điện thoại lại đổ chuông. Anh giơ
một ngón tay. “Xin lỗi. Là Isabelle. Một
giây thôi.” Anh lảng ra cửa sổ, điện thoại
cầm tay.

Jace liếc sang Magnus, “Tôi nghĩ anh


nói đúng về vụ người sói tại quán
Hunter’s Moon. Kẻ tìm thấy xác chết
khai rằng trong hẻm có người. Và kẻ đó
đã chạy mất.”

Magnus gật đầu. “Tôi nghe như là


Valentine bị xem ngang trước khi lấy đủ
số máu cần thiết. Có lẽ hắn sẽ giết một
sói con khác.”

“Em sẽ báo cho chú Luke biết.” Clary


nói và định đứng dậy.

“Đợi đã.” Alec quay lại, điện thoại


trong tay, nét mặt hơi kỳ quái.

“Isabelle muốn gì?” Jace hỏi.


Alec lưỡng lự. “Isabelle nói Nữ
Hoàng Seelie muốn gặp chúng ta.”

“Tất nhiên rồi,” Magnus nói. “Và


Madonna muốn tôi là vũ công nhảy nền
trong tour diễn vòng quanh thế giới tiếp
theo.”

Alec có vẻ bối rối. “Madonna nào?”

“Nữ Hoàng Seelie là ai?” Clary hỏi.

“Bà ấy là Nữ Hoàng Tiên Giới,”


Magnus đáp. “À, tại vùng này.”

Jace ôm lấy đầu. “Bảo Isabelle là


không.”

“Nhưng con bé nghĩ đây là một ý kiến


hay,” Alec phản đối.

“Vậy cứ bảo với con bé là đừng


hòng.”

Alec nhíu mày. “Thế nghĩa là sao?”

“À, chỉ là những ý tưởng con bé hoặc


là tuyệt nhất quả đất hoặc là thảm họa.
Còn nhớ lần con bé bảo chúng ta sử dụng
đường tàu điện ngầm bỏ hoang để đi
vòng quanh bên dưới thành phố không?
Hãy nhớ những con chuột khổng lồ…”
“Đừng,” Simon nói. “Tôi không thích
nói về lũ chuột tí tẹo nào.”

“Nhưng lần này khác,” Alec nói.


“Con bé muốn chúng ta tới Triều đình
Seelie.”

“Cậu nói đúng, chuyện này khác,”


Jace bảo. “Đây là ý tưởng tệ nhất từ
trước tới nay.”

“Con bé có quen biết một hiệp sĩ


trong Triều Đình,” Alec bảo. “Anh ta
bảo rằng Nữ hoàng Seelie muốn gặp
chúng ta. Isabelle đã nghe lén chuyện tớ
nói với mẹ - và con bé nghĩ nếu chúng ta
trình bày giả thiết của chúng ta về
Valentine và Thanh kiếm Linh Hồn cho
Nữ Hoàng, rất có thể Triều Đình sẽ về
phe chúng ta, thậm chí làm đồng minh
với chúng ta trong cuộc chiến chống lại
Valentine.”

“Đến đó có an toàn không?” Clary


hỏi.

“Tất nhiên là không an toàn rồi,”


Jace nói, như thể cô vừa hỏi một câu hỏi
ngu ngốc nhất mà anh từng nghe.

Cô nguýt anh một cái. “Em không biết


chút gì về Triều Đình Seelie cả. Ma cà
rồng và người sói thì em hiểu. Trên ti vi
chiếu đầy phim về họ rồi. Nhưng thần
tiên là chuyện dành cho trẻ con. Em từng
hóa trang làm một nàng tiên mùa
Halloween hồi lên tám. Mẹ làm cho em
chiếc mũ hình hoa mao lương vàng.”

“Tớ nhớ,” Simon dựa người lên ghế


và khoanh tay trước ngực. “Tớ là một
Transformer. Thực ra tớ thuộc phe
Deception.”

“Chúng ta quay về vấn đề chính được


không?” Magnus yêu cầu.

“Được,” Alec nói. “Isabelle nghĩ - và


tôi đồng ý - chúng ta không nên bỏ qua
Thần Tiên. Nếu họ muốn nói chuyện, thì
đã sao nào? Hơn nữa, nếu Triều Đình
Seelie về phe chúng ta, Hội đồng Clave
buộc phải nghe chúng ta nói.”

Jace cười mà không có thành ý tý nào


“Thần Tiên không giúp con người.”

“Thợ Săn Bóng Tối không phải con


người,” Clary nói. “Không hẳn là
người.”

“Trong mắt thần tiên bọn anh không


khác gì con người,” Jace nói.

“Nhưng bọn họ cũng không thể tệ hơn


ma cà rồng được,” Simon lẩm bẩm. “Mà
bọn các anh cũng hòa thuận với ma cà
rồng đấy thôi.”

Jace nhìn Simon như thể anh vừa tìm


ra một thứ sinh trưởng dưới bồn nước
“Hòa thuận với ma cà rồng hả? Ý cậu
là bọn tôi đã sống sót à?”

“À…”

“Thần tiên,” Jace nói tiếp, như thể


Simon chưa nói gì, “là con của quỷ và
thiên thần. Họ mang sắc đẹp của thiên
thần và sự độc ác của quỷ dữ. Ma cà
rồng sẽ tấn công cậu, nếu cậu xâm phạm
vào địa bàn của nó, nhưng thần tiên sẽ
làm cậu khiêu vũ tới chết với đôi chân
đã vẹt thành mỏm cụt, lừa cậu bơi trong
đêm rồi kéo cậu xuống nước mà gào thét
tới khi phổi cậu nổ tung ra, thổi bụi tiên
vào mắt cậu khiến cậu phải móc mắt
ra…”

“Jace!” Clary quát, cắt ngang cơn


cường điệu của Jace. “Im đi. Chúa ơi.
Đủ rồi.”

“Nghe này, lừa được người sói hay


ma cà rồng vẫn còn dễ lắm,” Jace tiếp.
“Họ chẳng thông minh hơn ai. Nhưng
thần tiên sống đã hàng trăm năm, giảo
hoạt như rắn vậy. Họ không thể nói dối,
nhưng họ thích tham gia vào những trò
nói thật đầy tính sáng tạo. Họ sẽ tìm xem
em khao khát gì nhất trên đời và trao nó
cho em - kèm theo một lời nguyền sẽ
khiến em hối hận vì lúc đầu đã muốn có
nó.” Anh thở dài. “Họ không bao giờ
thực sự muốn giúp đỡ con người. Mà chỉ
là muốn hại người thôi khi đội lốt là giúp
đỡ ấy.”

“Và anh nghĩ bọn tôi không đủ thông


minh để nhận ra sự khác biệt sao?”
Simon hỏi.

“Tôi nghĩ cậu không đủ thông minh để


mình không vô tình bị biến thành chuột.”

Simon trừng trừng nhìn anh. “Tôi


không hiểu có sá gì đâu việc anh nghĩ
chúng tôi nên làm gì chứ,” cậu nói. “Khi
mà anh không thể đi cùng chúng tôi
được. Anh chẳng đi đâu được cả.”

Jace đứng dậy, đẩy ghế một cách thô


bạo. “Cậu không được phép đưa Clary
tới Triều Đình Seelie mà không có tôi và
không bàn thêm nữa!”

Clary há hốc miệng nhìn anh. Jace


đang đỏ bừng vì giận, răng nghiến lại,
gân máu vằn lên trên cổ. Anh cũng tránh
không dám nhìn cô.

“Tớ có thể lo cho Clary,” Alec nói và


giọng nói dường như chứa chất chút gì
tổn thương - là vì Jace nghi ngờ khả năng
của anh ta hay vì gì khác, Clary không
rõ.

“Alec,” Jace nói, mắt nhìn chằm chằm


vào mắt bạn mình. “Không. Cậu không
thể.”

Alec nuốt khan. “Bọn mình sẽ đi,” anh


bảo. Anh ta nói nghe như thể xin lỗi.
“Jace - một lời yêu cầu gặp mặt từ phía
Triều Đình Seelie - lờ đi là ngốc lắm
đấy. Hơn nữa, có lẽ Isabelle đã nói với
họ rằng chúng ta sẽ tới rồi.”

“Đừng hòng mà tớ để cho cậu làm vậy


nhé, Alec,” giọng Jace sặc mùi nguy
hiểm. “Tớ sẽ vật cậu xuống đất nếu cần
thiết.”
“Nghe kích thích thật đấy,” Magnus
nói và gập ống tay áo lụa dài thượt lên,
“nhưng vẫn có cách khác mà.”

“Cách khác nào? Đây là chỉ thị trực


tiếp từ phía Hội đồng Clave. Tôi không
thể lách luật được.”

“Nhưng tôi thì có.” Magnus cười nhăn


nhở. “Đừng bao giờ nghi ngờ khả năng
lách luật của tôi, Thợ Săn Bóng Tối ạ, vì
phạm vi của chúng vô cùng hào hùng và
đáng nhớ. Tôi đã đặc biệt ếm bùa vào
thỏa thuận với Điều Tra Viên để tôi có
thể cho cậu đi đâu đó một lát nếu tôi
muốn, chỉ cần một Nephilim khác sẵn
lòng thế chỗ cậu.”

“Vậy là chúng ta phải tìm một - Ồ,”


Alec bỗng e lệ. “Ý anh là tôi.”

Jace nhướn mày. “Ồ, giờ cậu lại


không muốn tới Triều Đình Seelie hử?”

Alec đỏ mặt. “Tớ nghĩ cậu đi quan


trọng hơn là tớ. Cậu là con trai
Valentine, tớ chắc rằng cậu mới là người
Nữ Hoàng thực sự muốn gặp. Hơn nữa,
cậu trông quyến rũ mà.”

Jace lườm Alec.


“Có lẽ không phải trong lúc này,”
Alec sửa lại. “Nhưng cậu thường có sức
quyến rũ. Mà thần tiên sẽ bị cuốn hút bởi
những thứ quyến rũ.”

“Hơn nữa, nếu cậu ở lại, tôi sẽ cho


cậu xem toàn bộ DVD phần 1 của
Gilligan’s Island[2] .” Magnus nói.

[2] Gilligan’s Island: bộ phim truyền hình


sitcom của Mỹ, phát sóng từ năm 1964-1967. Phần
một được công chiếu trong khoảng thời gian 1964-
1965. (ND)

“Không ai có thể từ chối cái đó,”


Jace nhận xét. Anh vẫn không nhìn Clary.
“Isabelle sẽ gặp mọi người ở công
viên bên Hồ Turtle,” Alec nói. “Con bé
biết cổng bí mật dẫn vào Triều Đình.
Con bé sẽ đợi bọn cậu.”

“Và một điều cuối cùng,” Magnus nói


và trỏ ngón tay đeo nhẫn vào Jace.
“Đừng bỏ mạng ở Triều Đình Seelie nhé.
Nếu cậu chết, tôi phải giải thích lắm điều
đấy.”

Nghe tới đây, Jace bật cười toe toét.


Một kiểu cười lo lắng, còn ít ánh vui hơn
cả ánh sáng của thanh kiếm tuốt trần.
“Anh biết không,” anh nói, “tôi có cảm
giác rằng dù tôi còn sống hay chết, anh
vẫn phải nghĩ ra đủ lời giải thích đấy.”
Những cụm rêu và cây cối dày đặc tạo
thành một dải đăng ten xanh lục ôm trọn
lấy Hồ Turtle. Mặt hồ yên ả, thi thoảng
hơi lăn tăn gợi sóng khi lũ vịt thơ thẩn
dạo qua, hay một chú cá quẫy đuôi ánh
bạc.

Một đình thủy tạ nho nhỏ bằng gỗ


được xây bắc trên hồ; Isabelle đang ngồi
trên đấy, nhìn xa xăm ra mặt nước. Cô
nàng quả giống một nàng công chúa trong
những câu chuyện cổ tích, đang ngồi trên
đình tháp chờ đợi ai đó phi ngựa đến
cứu.

Nhưng thật chẳng có cô công chúa nào


lại giống Isabelle cả. Isabelle cùng sợi
roi, đôi ủng, những con dao đó là người
có thể chẻ nát bất cứ kẻ nào dám nhốt cô
vào tháp, dùng phần thây đó xây thành
cây cầu, rồi nghênh ngang đi đến tự do,
trong cả công đoạn này mái tóc cô nàng
vẫn đẹp mê hồn. Chính bởi mái tóc mà
Clary vẫn không tài nào quý Isabelle nổi,
dù đã cố lắm.

“Izzy,” khi tới gần hồ, Jace cất tiếng


gọi, Isabelle nhảy dựng lên và quay phắt
lại. Nụ cười trên môi cô nàng sáng ngời
ngời.

“Jace!” cô lao vào ôm lấy anh. Nào


đây mới là hành động của một cô em gái
đây này, Clary nghĩ. Không phải ngượng
ngùng, kỳ cục và cứng nhắc, mà là hạnh
phúc và thương yêu. Nhìn Jace ôm
Isabelle, Clary cố học lấy cái biểu hiện
hạnh phúc và thương yêu kia.

“Cậu ổn chứ?” Simon quan tâm hỏi.


“Mắt cậu lé xẹ kìa.”

“Mình ổn.” Clary đành bỏ cuộc.

“Cậu chắc không? Trông cậu kiểu


như… bị đấm ấy.”

“Chắc do mình ăn bậy bạ gì rồi.”


Isabelle tiến tới, Jace đi ngay sau.
Hôm nay, cô nàng chọn cho mình chiếc
váy đen dài, bốt và chiếc áo khoác đuôi
tôm còn dài hơn bằng nhung màu lục
mềm mại, màu của rêu. “Tớ không tin nổi
là cậu làm được!” cô nàng reo lên. “Cậu
nói thế nào mà Magnus chịu cho Jace đi
thế?”

“Dùng Alec đổi lấy Jace thôi,” Clary


đáp.

Isabelle hơi hoảng. “Không phải mãi


mãi chứ?”

“Không,” Jace nói. “Chỉ vài giờ thôi.


Trừ khi anh không trở về,” anh trầm
ngâm nói thêm. “Trong trường hợp đó,
có lẽ pháp sư sẽ giữ Alec luôn. Cứ xem
như là một hợp đồng cho thuê nhưng có
kèm điều khoản bán đứt ấy.”

Isabelle có vẻ hoài nghi. “Bố mẹ mà


biết thì hẳn sẽ không vui đâu.”

“Vì cậu đã thả tự do cho một nghi


phạm bằng cách dùng anh trai trao đổi
với một pháp sư có vẻ ngoài giống một
Tiểu quái Sonic bị gay và ăn mặc giống
ông Ba Bị trong Chitty Chitty Bang
Bang ấy à?” Simon hỏi. “Không, có lẽ
không đâu.”

Jace trầm ngâm nhìn Simon. “Có lý


do đặc biệt nào cho sự xuất hiện của cậu
ở đây không nhỉ? Tôi không chắc có nên
đưa cậu tới Triều Đình Seelie hay không.
Họ ghét người thường.”

Simon đảo mắt nhìn lên trên. “Không


thế nữa chứ.”

“Cái gì nữa cơ?” Clary hỏi.

“Mỗi lần tớ làm anh ta tức giận, anh


ta lại chơi bài Không cho Phép Người
Thường với tớ,” Simon chỉ vào mặt
Jace. “Để tôi nhắc cho anh nhớ nhé, lần
cuối cùng anh muốn bỏ rơi tôi, tôi đã
cứu mạng tất cả bọn anh đó.”
“Ừ nhỉ,” Jace nói. “Một lần…”

“Triều đình tiên tộc rất nguy hiểm,”


Isabelle cắt ngang. “Kể cả với khả năng
dùng cung của cậu cũng không giúp nổi
cậu đâu. Đây là một dạng nguy hiểm
khác.”

“Tớ tự lo được,” Simon nói. Một cơn


gió lạnh thổi tới, cuốn bay những chiếc
lá vàng khô lạo xạo trên nền đá sỏi khiến
Simon rùng mình. Cậu cho tay vào túi áo
viền len.

“Cậu không cần phải đi đâu,” Clary


nói.
Simon nhìn cô, một cái nhìn kiên định,
cân nhắc. Cô nhớ lại lúc ở nhà chú Luke,
Simon đã gọi cô là bạn gái mà không
đắn đo suy nghĩ. Dù bạn có nói gì về
Simon đi nữa, cậu ấy vẫn biết mình muốn
gì. “Cần đấy,” cậu nói. “Mình phải đi
chứ.”

Jace khụt khịt. “Vậy chắc chúng ta sẵn


sàng rồi nhỉ,” anh nói. “Đừng nghĩ chúng
tôi sẽ đặc biệt để mắt tới cậu, đồ người
thường.”

“Nhìn theo hướng lạc quan đi nào,”


Simon nói. “Nếu họ cần tế người, anh
vẫn luôn có thể dâng tôi lên mà. Tôi
không chắc ai trong số các người có hội
tụ đủ yêu cầu không.”

Mặt Jace sáng lên. “Bao giờ có người


tự nguyện đứng ra lĩnh đạn cũng vui hết.”

“Thôi nào,” Isabelle nói. “Cánh cửa


sắp mở ra rồi đấy.”

Clary liếc nhìn quanh. Mặt trời đã lặn


hẳn và trăng đã lên cao, một mảnh trăng
khuyết soi bóng màu trắng sữa lên mặt
hồ. Trăng chưa vào độ tròn hẳn, một bên
mép tối om, khiến nó trông giống một
con mắt khép hờ. Những cơn gió đêm
xào xạc thổi qua các cành cây khua
chúng va vào nhau nghe lạo xạo như
tiếng ống xương rỗng.
“Chúng ta đi đâu vậy?” Clary hỏi.
“Cánh cửa đâu?”

Nụ cười của Isabelle trông như một bí


mật được hé lộ. “Đi theo tớ.”

Cô nàng bước xuống mép nước, để lại


những vết giày sâu hoắm trên nền bùn
ướt. Clary đi theo, mừng vì mình đã mặc
quần bò chứ không phải váy trong khi
Isabelle phải vén cả áo khác lẫn váy cao
quá gối, để lộ phần chân thanh mảnh
trắng ngần phía trên ủng. Da cô nàng phủ
kín những Ấn Ký trông như những đường
lưỡi lửa màu đen.
Simon đi sau, chửi thề khi trượt chân;
Jace theo phản xạ tự động đã đưa tay ra
đỡ khi mọi người quay lại. Simon giật
tay ra. “Tôi không cần anh giúp.”

“Thôi ngay đi.” Isabelle dậm chân


xuống vũng nước nông bên bờ hồ. “Cả
hai người. Thật ra, là cả ba mới đúng.
Nếu chúng ta không đoàn kết với nhau tại
Triều Đình Seelie, chúng ta sẽ chết.”

“Nhưng tớ không…” Clary cất tiếng.

“Có thể cậu không đấy, nhưng cái kiểu


cậu để cho hai người kia hành động
như…” Isabelle vẫy tay về phía hai cậu
con trai với vẻ khinh khỉnh.
“Tớ đâu thể bảo họ làm gì được chứ!”

“Sao lại không hử?” cô gái kia hỏi.


“Thiệt tình chứ, Clary, nếu cậu không
biết cách tận dụng ưu thế nữ tính trời
sinh - thì tớ cũng không biết tớ nên làm
gì với cậu nữa.” Cô nàng quay về phía
hồ, rồi lại quay ngoắt lại. “À mà tớ quên
mất,” cô nàng nghiêm nghị nhắc nhở, “vì
tình yêu của Thiên Thần, đừng ăn hay
uống gì khi chúng ta ở dưới lòng đất nhé.
Rõ chưa?”

“Dưới lòng đất hả?” Simon lo lắng


nhắc lại. “Không ai nói gì về vụ dưới
lòng đất cả.”
Isabelle vung tay lên chém xuống hồ
nước. Chiếc áo khoác nhung màu lục trôi
bồng bềnh chung quanh như một chiếc lá
hoa súng khổng lồ. “Thôi nào. Chúng ta
chỉ có thời gian cho đến khi mặt trăng di
chuyển thôi đấy.”

Mặt trăng sao cơ? Lắc đầu, Clary


bước vào hồ nước. Nước nông và trong
vắt; dưới ánh sao sáng, cô có thể thấy
những chú cá đen đen lao đi lao lại qua
mắt cá chân. Cô nghiến răng khi đi xa
hơn. Lạnh thật đấy.

Đằng sau cô, Jace bước xuống nước


với vẻ uyển chuyển chừng mực chỉ khiến
mặt nước khẽ lay động. Simon đi đằng
sau, vừa đi vừa làm nước bắn tung tóe
và chửi bới. Isabelle, ra tới giữa hồ liền
dừng lại, nước ngập ngang sườn. Cô giơ
tay về phía Clary. “Dừng lại.”

Clary dừng. Ngay phía trước cô, mặt


trăng sáng vằng vặc soi mình trên mặt
nước trông như một chiếc đĩa bạc khổng
lồ. Một phần trong cô biết có chuyện
không bình thường; đáng ra mặt trăng
phải lay động tan biến khi có người tới
gần, hoặc lùi ra xa hơn. Nhưng nó vẫn ở
nguyên đó, trôi nổi trên mặt nước như bị
cột lại một chỗ.

“Jace, anh đi trước,” Isabelle vừa nói


vừa ra hiệu. “Đi đi.”

Jace bước qua Clary, người anh


thoang thoảng mùi da thuộc bị ướt và
mùi lá khô. Cô thấy anh quay lại và mỉm
cười, rồi lùi dần vào ánh trăng phản
chiếu trên mặt nước… sau đó biến mất.

“Okay,” Simon ảo não nói. “Okay, thế


thì kỳ quái thật.”

Clary liếc nhìn bạn. Nước chỉ ngập


tới ngang hông Simon, nhưng cậu đang
run rẩy, hai tay khoanh lại, ôm lấy khủy
tay. Cô mỉm cười và lùi lại một bước,
thấy hơi sốc vì cái lạnh đột ngột tới khi
bước vào hình ảnh phản chiếu bàng bạc.
Cô hơi loạng choạng, như mất thăng bằng
trên bậc thang cao nhất - và rồi rơi ngửa
xuống khoảng đen như thể mặt trăng đã
nuốt chửng lấy cô.

Cô rơi xuống nền đất nện, lảo đảo, và


cảm thấy có bàn tay cầm lấy tay cô, giúp
cô giữ thăng bằng. Là Jace. “Từ từ cẩn
thận nào,” nói rồi anh thả cô ra.

Cô ướt như chuột lột, những giọt nước


lạnh buốt chảy dọc theo lưng áo, mái tóc
ướt nhẹp dính bết vào mặt. Bộ quần áo
úng nước nặng như thể cả tấn.

Họ đang ở trong một hành lang đất sâu


hun hút, được chiếu sáng mờ mờ nhờ một
loại rêu nào đó. Những cây dây leo xoắn
xít vào nhau tạo thành một tấm rèm phủ
cuối hành lang còn những dải tua dài
lủng lẳng như những xác rắn buông xuống
từ nóc. Clary nhận ra đó là rễ cây. Họ
đang ở dưới lòng đất. Và dưới này rất
lạnh, tới mức khiến hơi thở của cô phả ra
thành làn sương cóng.

“Lạnh à?” Jace cũng ướt nhẹp, mái


tóc sáng màu ở những nơi bết trên má và
trán anh gần như là không màu. Nước
tong tong chảy xuống từ quần bò và áo
khoác ướt, nước biến chiếc áo sơ mi
trắng anh đang mặc thành trong suốt. Cô
có thể nhìn ra những lằn đen của các Ấn
Ký vĩnh viễn qua lớp áo kia cùng vết sẹo
mờ trên vai anh.

Cô vội nhìn đi chỗ khác. Nước đọng


trên mí mắt, khiến mọi thứ trước mặt nhạt
nhòa như thể cô đang khóc. “Em ổn.”

“Em trông không ổn đâu.” Anh tới gần


hơn và cô cảm nhận được hơi ấm từ anh
dù là qua lớp quần áo ướt nhẹp của cả
hai người, hơi ấm ấy làm dịu đi làn da
lạnh như nước đá của cô.

Một bóng người màu đen lăn cù cù


xuống, ngay thoáng qua khóe mắt cô, rồi
rơi đánh uỵch. Là Simon, cũng trong tình
trạng ướt rượt. Cậu lồm cồm quỳ dậy rồi
lo lắng nhìn xung quanh. “Kính của
tôi…”

“Đây này.” Clary đã quen với việc


tìm trả kính cho Simon trong suốt thời
gian cậu bạn chơi bóng đá. Chúng
thường luôn rơi dưới chân cậu, nơi cậu
dễ dàng dẫm phải. “Của cậu đây.”

Simon đeo kính vào, cào cào phủi đi


đất bẩn dính trên mắt kính. “Cảm ơn.”

Clary biết Jace đang quan sát họ, ánh


mắt anh giống như một vật đè nặng lên
vai cô. Cô tự hỏi liệu Simon có cảm thấy
không. Cậu ấy vừa cau có đứng lên thì
Isabelle từ trên bay xuống, duyên dáng
hạ cánh trên hai chân. Nước nhỏ xuống
từ suối tóc dài của cô và khiến chiếc áo
khoác nhung thành nặng trịch, nhưng cô
nàng dường như không để ý. “Ôi, trò này
vui quá.”

“Vậy là xong,” Jace nói. “Anh sẽ mua


cho em một cuốn từ điển cho Giáng Sinh
năm nay.”

“Vì sao?” Isabelle hỏi.

“Để em có thể tìm định nghĩa từ ‘vui’.


Anh không biết chắc em hiểu đúng nghĩa
của nó.”

Isabelle kéo mái tóc dài sũng nước về


phía trước và vắt như thể vắt quần áo
vậy. “Anh đang đổ mưa lên trên buổi
diễu hành của em làm em cụt hứng đấy.”

“Nếu em không nhớ, thì buổi diễu


hành này dù sao cũng đã ướt lắm rồi.”
Jace liếc nhìn quanh. “Giờ thì sao?
Chúng ta đi đường nào?”

“Chẳng đường nào cả,” Isabelle đáp.


“Chúng ta đợi ở đây, họ sẽ tới đón chúng
ta.”

Clary chẳng vui gì khi nghe thế. “Sao


họ biết chúng ta ở đây? Chúng ta có cần
rung chuông cửa hay gì gì không?”
“Triều Đình luôn biết chuyện xảy ra
trên địa bàn của họ. Sự hiện diện của
chúng ta chắc chắn sẽ không phải không
được để ý đến đâu.”

Simon nghi ngờ nhìn Isabelle. “Mà


sao cậu lại biết nhiều về tiên tộc lẫn
Triều Đình Seelie đến thế?”

Isabelle đỏ mặt, khiến ai nấy đều ngạc


nhiên. Một lát sau tấm rèm dây leo được
kéo sang một bên và một thần tiên bước
qua, vừa đi vừa giũ giũ mái tóc dài.
Clary đã từng có dịp gặp vài thần tiên
trong bữa tiệc của Magnus và cô bị ấn
tượng bởi nét đẹp lạnh lùng lẫn thần khí
phi phàm hoang dại thế nào ấy của họ kể
cả khi họ đang nhảy múa và chè chén.
Thần tiên này cũng không phải ngoại lệ:
tóc anh ta xõa ra thành lớp tóc xanh đen
ôm lấy khuôn mặt lạnh lùng, góc cạnh và
đáng yêu; đôi mắt xanh ngăn ngắt màu
của dây leo hay rêu và trên má có một
vết chàm hay hình xăm gì đó hình chiếc
lá. Anh ta mặc áo giáp màu nâu bạc
phếch giống vỏ cây mùa đông, và khi anh
ta di chuyển, lớp áo giáp ánh lên đủ thứ
màu sắc: đen than, xanh rêu, xám tro rồi
xanh da trời.

Isabelle reo lên và lao vào vòng tay


anh ta. “Meliorn!”

“À,” Simon nói, bình tĩnh nhưng


không phải là không chút hứng thú, “vậy
ra đó là lý do Isabelle biết nhiều thế.”

Thần tiên - Meliorn - nghiêm nghị


nhìn xuống cô nàng, rồi gỡ tay cô ra và
nhẹ nhàng đẩy cô sang một bên. “Giờ
không phải lúc tình cảm thắm thiết,” anh
ta nói. “Nữ hoàng Seelie đã yêu cầu một
buổi tiếp kiến với ba Nephilim bọn em.
Mọi người đi không?”

Clary đặt tay lên vai Simon như muốn


bảo vệ. “Còn bạn bọn em thì sao?”

Meliorn nhìn thờ ơ. “Người thường


không được phép vào Triều Đình.”
“Tôi ước có người nói tới chuyện này
trước,” Simon nói, không với cụ thể một
ai. “Vậy tôi hiểu là mình sẽ phải đợi
ngoài này cho tới khi người mọc dây leo
chứ gì?”

Meliorn cân nhắc. “Đó sẽ là một cảnh


tượng vô cùng ấn tượng đây.”

“Simon không đơn giản chỉ là người


thường. Cậu ấy là một người đáng tin,”
Jace lên tiếng, khiến tất cả giật mình,
trong đó người ngạc nhiên nhất là Simon.
Clary có thể thấy Simon bất ngờ vì cu
cậu chỉ đang nhìn chằm chặp Jace mà
không hề nói ra lời đốp chát nào. “Cậu
ấy đã kề vai sát cánh với bọn tôi trong
rất nhiều trận chiến.”

“Ý anh là một trận thôi,” Simon lầm


bầm. “Hai nếu anh tính cả trận tôi hóa
chuột.”

“Chúng tôi sẽ không vào Triều Đình


Seelie mà không có Simon,” Clary nói,
tay vẫn đặt trên vai Simon. “Nữ hoàng
của các anh yêu cầu có cuộc tiếp kiến
này mà, nhớ không? Không phải chúng
tôi tự muốn tới.”

Đôi mắt xanh lục của Meliorn lóe lên


vẻ hứng thú nguy hiểm. “Theo ý mọi
người thôi,” anh ta nói. “Đừng nói rằng
Triều Đình Seelie không tôn trọng ý
muốn của khách nhé.” Anh ta xoay người
trên gót giày một cách hoàn hảo và bắt
đầu dẫn họ đi xuống hành lang mà không
buồn dừng lại xem họ có theo hay không.
Isabelle vội vàng sóng bước cùng anh ta,
bỏ lại Jace, Clary và Simon lủi thủi đi
theo hai người bọn họ.

“Bọn anh được phép hẹn hò với tiên


à?” Cuối cùng Clary cũng cất lời hỏi.
“Gia đình anh - à gia đình Lightwood
đồng ý cho Isabelle hẹn hò với cái anh
chàng… tên anh ta là gì nhỉ?”

“Meliorn,” Simon nhắc.

“… Meliorn hẹn hò sao?”


“Anh không chắc là họ đang hẹn hò,”
Jace nói, hai từ cuối nặng vẻ mỉa mai.
“Anh nghĩ họ chỉ ở cùng nhau thôi. Hoặc
trong trường hợp này, là ở dưới này cùng
nhau.”

“Hình như anh không đồng ý thì phải.”


Simon vén một cái rễ cây sang bên. Họ
đã đi từ hành lang tường đất sang một
khu vực tường lát đá nhẵn nhụi, thi
thoảng mới có vài rễ cây chui ra từ
những phiến đá bên trên. Nền nhà được
lát một loại vật liệu cứng bóng lộn,
không phải đá hoa cương mà là một loại
đá có vân và lấp lánh như thể được rắc
bột đá quý lên vậy.
“Tôi không hoàn toàn phản đối,” Jace
nói. “Đôi khi thần tiên có tán tỉnh con
người, nhưng rồi cuối cùng họ cũng đá
những kẻ đáng thương đó, và khiến
những kẻ đó tan nát trái tim.”

Lời anh nói khiến Clary lạnh sống


lưng. Đúng lúc đó Isabelle cười lớn và
Clary hiểu vì sao Jace đã phải hạ giọng,
vì những bức tường đá dội tiếng cười
của Isabelle lại phía họ, vừa khuếch đại
vừa âm vang như nảy ra từ các bức vách.

“Anh cứ đùa!” Isabelle sẩy chân khi


gót giày cô nàng vướng vào giữa hai kẽ
đá, Meliorn đưa tay đỡ thẳng cô dậy mà
mặt không hề đổi sắc.

“Anh không hiểu sao con người có thể


đi trên những đôi giày cao lêu nghêu
thế.”

“Đó là phong cách của em,” Isabelle


nói, kèm theo một nụ cười quyến rũ.
“Dưới 10 phân là không đụng đến.”

Meliorn nhìn cô lạnh lùng.

“Em đang nói về guốc mà,” cô nói.


“Một cách chơi chữ. Anh biết không?
Một trò chơi với…”
“Đi thôi,” chàng hiệp sĩ tiên nói. “Nữ
Hoàng không kiên nhẫn mấy đâu.” Anh ta
đi xuống hành lang, không buồn liếc tới
Isabelle lần thứ hai.

“Quên mất,” Isabelle thì thầm khi


những người còn lại bắt kịp cô. “Thần
tiên không có khiếu hài hước.”

“Ồ, anh không đồng ý,” Jace nói. “Có


một câu lạc bộ tiên trong trung tâm thành
phố mang tên Hot Wings. Mà không phải
là,” anh nói thêm, “anh đã từng tới đó
đâu nhé.”

Simon nhìn Jace, mồm há ra như định


hỏi, rồi sau đó hình như nghĩ tốt hơn là
không nên. Cậu ngậm miệng ngay khi
hành lang mở vào một căn phòng rộng rãi
có nền đất nện còn xếp dọc hai bên
tường là những hàng cột đá cuốn đầy dây
leo và những bông hoa rực rỡ đang bung
nở. Những tấm vải mỏng giăng giữa
những hàng cột, vải nhuộm màu thiên
thanh gần giống như sắc trời. Căn phòng
tràn ngập ánh sáng, dù Clary không thấy
bất kỳ một cây đuốc nào, về tổng quan,
nó giống một căn phòng trong cung điện
mùa hè dưới ánh mặt trời rạng rỡ hơn
một căn phòng xây từ đất đã chôn sâu
dưới lòng đất.

Ấn tượng đầu tiên của Clary là cô


đang đứng ngoài; ấn tượng thứ hai là căn
phòng rất đông người. Không gian vấn
vít thứ âm nhạc ngọt ngào kỳ lạ, đôi lúc
nảy lên những nốt nhạc nghe thanh thanh,
giống vị của chanh hòa cùng mật ong.
Hòa theo tiếng nhạc, các tiên nữ xếp
vòng tròn nhảy múa mà đôi chân như
lướt trên sàn. Mái tóc họ - xanh da trời,
đen, nâu và đỏ sậm, vàng kim và trắng
băng - tung bay như những lá cờ trong
gió.

Cô đã hiểu vì sao mọi người gọi họ là


Tiên Tộc[3], vì họ thực sự xinh đẹp với
khuôn mặt khả ái, với đôi cánh màu hoa
oải hương, vàng và xanh thiên thanh -
sao cô lại đi tin lời Jace rằng thần tiên
có thể làm hại cô chứ? Thứ nhạc lúc
trước khiến cô nhức óc bỗng dưng trở
nên ngọt ngào làm sao. Cô chỉ thấy thôi
thúc muốn được xõa tung tóc mình ra mà
nhảy múa theo nhạc. Âm nhạc đang thủ
thỉ vào tai cô rằng nếu cô làm vậy, cô
cũng sẽ thanh thoát nhẹ nhàng đến mức
hai chân sẽ bay lướt trên mặt đất. Cô
bước lên một bước…

[3] Nguyên tác: Fair Folk: Tộc Xinh Đẹp (ND)

Và bị một bàn tay giật ngược lại. Jace


đang trừng mắt với cô, đôi mắt vàng lóe
sáng như mắt mèo. “Nếu em nhảy cùng
họ,” anh thì thào nói, “em sẽ nhảy tới
chết.”
Clary chớp mắt nhìn anh. Cô thấy như
mình vừa bị giật dậy khỏi giấc mộng,
nửa tỉnh nửa mơ và ngái ngủ. Giọng cô
líu lại. “Haaaa?”

Jace kêu lên khó chịu. Anh đang cầm


stele trên tay; cô không trông thấy anh rút
ra từ lúc nào. Anh nắm lấy cổ tay cô và
nhanh gọn vẽ một Ấn Ký bỏng rát lên da
dưới cổ tay cô. “Giờ nhìn đi”

Cô nhìn lại - và chết đứng. Những


khuôn mặt đáng yêu kia vẫn đáng yêu,
nhưng chúng lại lẩn khuất điều gì đó xảo
quyệt, gần như nguy hiểm chết người. Cô
gái với đôi cánh hồng xanh kia đang vẫy
tay ra hiệu, và Clary thấy những ngón tay
cô ta là những cành cây khô, nhú lên
những chồi lá non chưa mở mắt. Mắt cô
ta đen tuyền, không có tròng đen lẫn đồng
tử. Cậu thiếu niên nhảy múa bên cạnh
mang nước da màu xanh độc dược và từ
hai bên thái dương mọc ra hai cái sừng
cong cong. Khi cậu ta xoay mình theo
điệu nhảy, chiếc áo khoác phấp phới mở
ra và Clary có thể nhìn bên dưới lớp áo
ấy, lồng ngực cậu ta là một khung xương
sườn rỗng tuếch. Những dải ruy băng
luồn qua các khúc xương trơ trọi, có lẽ
để cậu ta trông hợp với lễ hội hơn. Dạ
dày Clary cồn cào cả.

“Đi thôi.” Jace đẩy khiến cô loạng


choạng bước lên. Khi lấy lại thăng bằng,
cô lo lắng nhìn quanh kiếm Simon. Anh
chàng đang đi trước và Clary thấy
Isabelle đang giữ chắc lấy cậu ấy. Riêng
lần này thì cô không ngại. Cô không nghĩ
bạn mình có thể tự mình đi qua căn
phòng này.

Men theo rìa vòng tròn các vũ công,


họ đi ra bên kia phòng, qua tấm mành lụa
xanh được vén sang hai bên. Thật nhẹ
nhõm khi đi ra khỏi phòng và vào một
hành lang khác, được đẽo ra từ một loại
vật liệu nâu bóng giống như vỏ hạt dẻ.
Isabelle vừa thả tay ra thì Simon lập tức
đứng sựng lại; khi Clary đuổi kịp, cô đã
hiểu vì sao: Isabelle đã buộc khăn che
mắt cậu ấy. Anh chàng đang chật vật tháo
nút buộc thì Clary đến bên. “Để mình
tháo cho,” cô nói, và cậu đứng im trong
khi cô tháo trả khăn cho Isabelle kèm
một cái gật đầu cảm ơn.

Simon vuốt tóc ngược tóc ra sau; tóc


cậu ẩm rì ở nơi khăn buộc chặt. “Nhạc
hay thật,” cậu nhận xét. “Một chút nhạc
đồng quê, một chút rock ‘n roll.”

Meliorn lúc này đang đứng chờ cả


đội, liền nhíu mày. “Cô không quan tâm
đến nhạc sao?”

“Tôi có quan tâm hơi quá,” Clary nói.


“Vụ này là sao đây, kiểm tra sát hạch hả?
Hay là trò đùa?”
Anh ta nhún vai. “Tôi đã quen với
việc những người thường dễ dàng bị
phép thuật của thần tiên lừa gạt, còn
Nephilim thì không. Tôi nghĩ cô được
bảo vệ.”

“Có đấy,” Jace nói, và nhìn thẳng vào


đôi mắt xanh ngọc bích của Meliorn.

Meliorn chỉ nhún vai và bắt đầu đi


tiếp. Simon im lặng đi cạnh Clary một
lúc trước khi cất lời, “Thế tớ đã bỏ lỡ
cái gì vậy? Những quý cô nhảy múa
không một mảnh vải che thân chăng?”
Clary nghĩ tới tiên nam với lồng ngực
mở toang mà rùng mình. “Không có gì
hay ho đâu.”

“Có nhiều cách để con người tham dự


vào những cuộc liên hoan của thần tiên,”
Isabelle nãy giờ đang nghe trộm, nói xen
vào. “Nếu họ tặng cậu một tín vật - một
chiếc lá hay một bông hoa chẳng hạn - để
cậu bám vào đấy, và chỉ cần cậu giữ nó
qua đêm thôi, sáng hôm sau cậu sẽ bình
thường. Hoặc nếu cậu đồng hành với một
thần tiên…” Cô liếc sang Meliorn,
nhưng anh ta đã đi tới tấm màn lá cây
trên tường và dừng lại ở đó.

“Đây là cung thất của Nữ Hoàng,” anh


ta nói. “Người từ Cung Điện phương bắc
tới vì vụ đứa nhỏ bị sát hại. Nếu phải có
chiến tranh, Nữ Hoàng muốn mình là
người khai chiến trước.”

Tới gần, Clary mới nhận ra tấm màn


được kết từ những sợi dây leo ken dày
luồn lách, đây đó gắn thêm những viên
hổ phách. Anh ta vén tấm màn và đưa họ
vào căn phòng phía bên kia.

Jace chúi đầu bước qua trước, Clary


theo sau. Cô đi thẳng người, quay đầu tò
mò nhìn quanh.

Bản thân căn phòng bài trí khá đơn


giản, với những tấm vải màu nhạt chắn
trên những bức tường đất. Những ngọn
đèn đom đóm sáng lập lòe trong mấy
chiếc bình thủy tinh. Một người phụ nữ
xinh đẹp ngồi dựa trên chiếc ghế bành
thấp vây quanh là những thần tiên - hẳn
là cận thần, thôi thì đủ loại, từ những tinh
linh nhỏ xíu tới những sinh vật trông
giống những bé gái xinh đẹp của loài
người với suối tóc dài mượt… nếu
không tính tới đôi mắt đen không chút
lòng trắng.

“Muôn tâu Nữ Hoàng,” Meliorn nói


và cúi gập người xuống. “Thần đã mang
các Nephilim tới.”

Nữ Hoàng ngồi thẳng dậy. Bà ta sở


hữu một mái tóc dài đỏ rực trông như
đang bồng bềnh quanh bà ta như những
chiếc lá mùa thu trong gió lạnh. Màu mắt
bà ta xanh trong như kính nhưng mang cái
nhìn sắc như dao cau. “Ba người trong
đây là Nephilim,” bà ta nói. “Người còn
lại là người thường.”

Meliorn dường như hơi chùn lại,


nhưng Nữ Hoàng chẳng buồn để mắt tới
anh ta. Bà đang nhắm vào các Thợ Săn
Bóng Tối. Clary có thể cảm nhận thấy
sức nặng trong ánh mắt đó, như thể bà ta
đang chạm vào mình. Dù xinh đẹp, nhưng
bà ta chẳng hề mỏng manh tý nào. Bà ta
quá rực rỡ như một ngôi sao đang cháy
sáng hết mình trước khi lụi tàn, và Clary
khó có thể ngước lên nhìn nổi.

“Chúng tôi vô cùng xin lỗi, thưa Nữ


Hoàng.” Jace bước lên, đứng chắn giữa
những người bạn đồng hành và Nữ
Hoàng. Giọng anh đã thay đổi - lúc này
trong cách anh nói có gì đó khang khác,
nghe cẩn trọng và tinh tế hơn. “Chúng tôi
sẽ chịu trách nhiệm về người thường này.
Cậu ta từng bảo vệ chúng tôi và giờ
chúng tôi phải trả ơn. Vì thế, cậu ta sẽ ở
cùng chúng tôi.”

Nữ Hoàng nghiêng đầu sang một bên,


giống như một chú chim đang tò mò
trước một sự việc thú vị. Giờ bà ta chỉ
để ý tới Jace mà thôi. “Nợ máu sao?” bà
ta lẩm bẩm. “Với một người thường à?”

“Cậu ta từng cứu mạng tôi,” Jace nói.


Clary cảm nhận Simon đang đơ người vì
ngạc nhiên. Cô cầu mong sao cậu ấy
không thể hiện ra. Jace từng bảo rằng
tiên không thể nói dối, và Jace cũng có
nói dối đâu - Simon đã cứu mạng anh
mà. Nhưng không phải vì vậy mà họ đưa
Simon đi cùng. Clary bắt đầu đánh giá
cao điều mà Jace gọi là trò nói thật đầy
tính sáng tạo. “Chúng tôi cầu xin Nữ
Hoàng. Chúng tôi mong bà hiểu cho
chúng tôi. Chúng tôi đã được nghe tiếng
về sự nhân hậu cũng như vẻ đẹp của bà,
và trong trường hợp này - ừm,” Jace nói,
“lòng nhân hậu của bà quả là vô hạn.”
Nữ Hoàng cười khẩy và nhoài người
lên, mái tóc óng ả che khuất khuôn măt.
“Cậu quyến rũ hệt như cha cậu, Jonathan
Morgenstern ạ,” bà ta nói, và phẩy tay về
phía những chiếc gối đệm rải rác quanh
sàn. “Nào, tới ngồi cạnh ta. Ăn chút gì
đi. Uống đi. Nghỉ ngơi đi. No say rồi nói
chuyện mới được lòng nhau hơn.”

Trong một lát trông Jace như bị quật.


Anh chần chừ. Meliorn nhoài sang phía
anh và nhẹ nhàng nói. “Từ chối lời mời
hào phóng của Nữ Hoàng Seelie là
không khôn ngoan đâu đấy.”

Mắt Isabelle nhìn về anh ta. Sau đó cô


nhún vai. “Ngồi xuống cũng chẳng hại gì
đâu.”

Meliorn đưa họ tới với những chồng


gối đệm bằng lụa đặt gần ngai vàng của
Nữ Hoàng. Clary cẩn trọng ngồi xuống,
chỉ sợ một cái rễ lớn đang chầu chực để
chọc vào mông mình. Có vẻ Nữ Hoàng
thích thú trò đó. Nhưng chẳng có gì xảy
ra cả. Những chiếc gối đệm vô cùng êm
ái, cô ngồi xuống cùng mọi người quanh
mình.

Một yêu tinh da xanh bưng một chiếc


đĩa có chứa bốn chiếc ly bạc tiến về phía
họ. Mỗi người cầm lấy một ly có chứa
thứ nước sóng sánh màu vàng kim với
những cánh hoa hồng nổi lềnh bềnh bên
trên.

Simon đặt cốc xuống bên cạnh.

“Sao ngươi không uống?” yêu tinh


hỏi.

“Thứ đồ uống thần tiên cuối cùng mà


tôi đã uống không chịu tôi,” cậu lầm
bầm.

Clary gần như không nghe thấy. Thứ


nước này có mùi hương đậm đà, nồng
nàn hơn cả mùi hoa hồng. Cô nhặt một
cánh hoa ra và vo lại bằng ngón cái và
ngón trỏ, để hương thơm thêm tỏa ngát.

Jace giật tay cô. “Đừng uống giọt nào


hết đấy,” anh thì thào.

“Nhưng…”

“Đừng.”

Cô đặt cốc xuống, như Simon. Ngón


trỏ và ngón cái giờ đã nhuộm hồng.

“Nào,” Nữ Hoàng nói. “Meliorn nói


với ta rằng các người biết ai giết đứa
nhỏ tộc tiên chúng ta tại công viên vào
đêm qua. Nhưng ngay lúc này ta nói với
các ngươi, điều ấy dường như chẳng còn
là bí ẩn gì với ta nữa. Một đứa nhỏ loài
tiên, bị hút cạn máu ư? Vậy các người sẽ
cho ta biết tên ma cà rồng đó chứ?
Nhưng tất cả lũ ma cà rồng đều mang tội,
vì đã vi phạm Luật, và phải bị trừng phạt
thích đáng. Dù người ta nghĩ thế nào, thì
thần tiên chúng ta cũng không phải những
kẻ dễ chơi đâu.”

“Ôi, thôi nào,” Isabelle nói. “Không


phải do ma cà rồng đâu.”

Jace lườm. “Ý Isabelle muốn nói là


chúng tôi khá chắc thủ phạm là một kẻ
khác. Chúng tôi nghĩ có thể hắn muốn
gieo rắc nghi ngờ lên ma cà rồng để che
giấu tung tích của hắn.”

“Các ngươi có bằng chứng chứ?”

Giọng Jace nghe bình tĩnh, nhưng bờ


vai khẽ chạm qua vai Clary đang gồng
lên vì căng thẳng. “Đêm qua các Tu
Huynh Câm cũng bị sát hại, nhưng không
hề bị hút cạn máu.”

“Và chuyện này có liên quan gì tới


đứa nhỏ tộc tiên, nhỉ? Những Nephilim
bị giết là điều đau buồn với Nephilim,
nhưng chẳng là gì với ta cả.”

Clary thấy tay trái nhói đau. Nhìn


xuống, cô thấy một tinh linh nhỏ xíu đang
di chuyển giữa những tấm đệm. Một giọt
máu ứa ra trên đầu ngón tay cô. Cô nhăn
mặt cho tay lên miệng. Các tinh linh nhìn
khá dễ thương đấy, nhưng chúng cắn đau
thôi rồi.

“Thanh kiếm Linh Hồn cũng đã bị


đánh cắp,” Jace nói. “Nữ Hoàng biết về
Maellartach chứ?”

“Thanh Kiếm khiến Thợ Săn Bóng


Tối nói sự thật,” Nữ Hoàng nói, với sự
thích thú hắc ám. “Thần Tiên chúng ta
không cần thứ ấy.”

“Valentine Morgenstern đã cướp nó


đi,” Jace nói. “Ông ta giết các Tu Huynh
Câm để có nó, và chúng tôi nghĩ chính
ông ta là thủ phạm giết tiểu thần tiên kia.
Ông ta cần máu của cậu bé để xoay
chuyển tính năng của Thanh Kiếm. Để
biến nó thành một thứ công cụ ông ta có
thể sử dụng được.”

“Và hắn sẽ không dừng lại,” Isabelle


nói thêm. “Hắn sẽ cần nhiều máu hơn.”

Đôi lông mày cong cong của Nữ


Hoàng còn cong lên cao hơn nữa. “Cần
thêm máu tiên nữa ư?”

“Không,” Jace nói và nhìn Isabelle


với hàm ý gì thì Clary không rõ. “Thêm
máu của các loài khác thuộc Thế Giới
Ngầm. Ông ta cần máu của người sói, và
ma cà rồng…”

Mắt Nữ Hoàng lóe sáng. “Thế thì


chúng ta cần gì phải quan tâm nhỉ?”

“Hắn đã giết người của Nữ Hoàng,”


Isabelle nói. “Bà không muốn trả thù
sao?”

Ánh nhìn của Nữ Hoàng lướt qua


khuôn mặt cô nàng nhẹ như một cánh
muỗi. “Không cần phải làm ngay,” bà ta
nói. “Chúng ta là chủng tộc kiên nhẫn, vì
chúng ta sống trường tồn cùng thế giới
này. Valentine Morgenstern là một kẻ thù
cũ - nhưng thần tiên chúng ta còn những
kẻ thù lâu đời hơn. Chúng ta sẽ đợi và
quan sát.”

“Hắn đang triệu hồi quỷ dữ tới,” Jace


nói. “Đang tạo ra một đạo quân…”

“Quỷ,” Nữ Hoàng nhẹ nhàng nói,


trong khi quần thần rì rầm to nhỏ đằng
sau. “Quỷ là nhiệm vụ của các ngươi mà,
phải không, hỡi Thợ Săn Bóng Tối?
Chẳng phải đấy là lý do vì sao các người
toàn quyền thống trị bọn ta sao? Vì các
người là những kẻ diệt quỷ ấy?”

“Tôi không thay mặt Hội đồng Clave,


đứng ở đây để ra lệnh với thần tiên.
Chúng tôi tới đây khi bà yêu cầu, vì
chúng tôi nghĩ nếu bà biết sự thật, bà sẽ
giúp chúng tôi.”

“Đó là điều các ngươi nghĩ sao?” Nữ


Hoàng ngồi thẳng dậy, mái tóc dài dập
dờn sống động. “Hãy nhớ điều này, các
Thợ Săn Bóng Tối, rất nhiều thần tiên
đang bức xúc với cách cai trị của Hội
đồng Clave. Có lẽ bọn ta đã mệt mỏi
phải tham gia các cuộc chiến của các
người giùm các người rồi.”

“Nhưng đây không phải cuộc chiến


của riêng chúng tôi,” Jace nói.
“Valentine ghét Thế Giới Ngầm còn hơn
là ghét quỷ dữ. Nếu hắn đánh bại chúng
tôi, hắn sẽ chĩa mũi giáo về phía thần
tiên.”

Ánh mắt Nữ Hoàng nhìn xoáy vào


Jace.

“Và khi đó,” Jace nói, “Nữ Hoàng


hãy nhớ rằng, từng có một Thợ Săn Bóng
Tối đã cảnh báo bà.”

Im lặng. Thậm chí cả Triều Đình cũng


ngừng bặt, lặng lẽ quan sát Nữ Hoàng
của mình. Cuối cùng, Nữ Hoàng dựa
người vào đệm lưng và nhấp một ngụm
nước nhỏ trong cái ly bạc. “Báo cho ta
biết về bố đẻ của ngươi,” bà ta nói. “Ta
từng nghĩ loài người các ngươi còn biết
đến đạo hiếu, nhưng có vẻ ngươi chẳng
có tí gì trung thành với Valentine, bố
ngươi nhỉ.”

Jace không nói gì. Trong thoáng chốc,


hình như anh không thể tìm ra lời gì để
nói.

Nữ Hoàng ngọt nhạt nói tiếp, “Hoặc


có lẽ thái độ thù địch của ngươi chỉ là
giả vờ. Tình yêu đúng là khiến loài
người các ngươi nói dối.”

“Nhưng chúng tôi không yêu quý gì bố


chúng tôi,” Clary nói, khi thấy Jace im
lặng tới đáng sợ. “Chúng tôi ghét ông
ta.”
“Thật sao?” Nữ Hoàng nhàm chán
nói.

“Nữ Hoàng thừa biết các rường mối


gia đình là như thế nào rồi,” Jace đã thốt
lại nên lời. “Chúng đeo bám chặt chẽ
như những sợi dây leo. Và đôi khi, cũng
giống như dây leo, chúng bám chặt con
người tới mức có thể giết họ.”

Hàng mi Nữ Hoàng chớp chớp.


“Ngươi dám phản bội bố đẻ chỉ vì Hội
đồng Clave sao?”

“Vâng, thưa Nữ Hoàng.”


Bà ta cười, một tiếng cười trong trẻo
và lạnh lẽo như tảng băng. “Ai dám
nghĩ,” bà nói, “rằng thí nghiệm nho nhỏ
của Valentine lại quay ra cắn lại hắn ta
chứ?”

Clary nhìn Jace, nhưng cô có thể thấy


qua nét mặt của anh rằng anh cũng chẳng
hiểu ý của Nữ Hoàng.

Đúng lúc đó Isabelle lên tiếng. “Thí


nghiệm?”

Nữ Hoàng chẳng thèm liếc nhìn cô


nàng. Ánh nhìn xanh biếc kia chỉ chăm
chú vào mỗi Jace. “Tộc Tiên chúng ta là
những kẻ sống cùng bí mật,” bà ta nói.
“Chúng ta giữ bí mật cho chính mình và
cho cả những người khác. Lần sau gặp
lại bố mình, hãy hỏi ông ta xem dòng
máu chảy trong huyết quản của ngươi là
thế nào nhé, Jonathan.”

“Tôi không định hỏi ông ta bất cứ


điều gì trong lần gặp sau,” Jace nói.
“Nhưng nếu Nữ Hoàng muốn, tôi sẽ làm
theo lời người.”

Môi Nữ Hoàng cong lên thành một nụ


cười. “Ta nghĩ ngươi là một kẻ nói dối.
Nhưng là một kẻ nói dối quyến rũ. Đủ
quyến rũ để ta có thể thề với người: hãy
hỏi bố ngươi câu đó, và ta hứa với
ngươi, ta sẽ giúp ngươi hết mức, nếu như
ngươi cần sức mạnh của chúng ta để
chống lại Valentine.”

Jace mỉm cười. “Sự hào phóng của bà


cũng thật vời vợi như nhan sắc của bà
vậy, thưa Nữ Hoàng.”

Clary khục khục lên một tiếng, nhưng


Nữ Hoàng trông có vẻ hài lòng.

“Và tôi nghĩ chúng ta đã xong việc ở


đây rồi,” Jace nói thêm và đứng dậy.
Anh đã đặt ly nước vốn chưa đụng đến
bên cạnh ly của Isabelle. Tất cả đều lục
tục đứng dậy theo anh. Isabelle đã bận
trò chuyện với Meliorn ở góc phòng, bên
cạnh cửa rèm dây leo. Nét mặt anh ta hơi
tối lại.

“Đợi đã.” Nữ Hoàng đứng dậy. “Một


trong các ngươi phải ở lại.”

Jace dừng lại khi đã đi được nửa


đường ra cửa, và quay sang nhìn bà ta.
“Ý bà là sao?”

Bà ta chỉ tay về phía Clary. “Một khi


người phàm động vào thức ăn hay đồ
uống của thần tiên, người phàm đó thuộc
về chúng tôi. Ngươi biết điều đó mà,
Thợ Săn Bóng Tối.”

Clary choáng váng. “Nhưng tôi có


uống gì đâu!” Cô quay sang Jace. “Bà ta
nói dối đấy.”

“Thần tiên không nói dối,” anh nói,


vừa bối rối vừa căng thẳng. Anh quay
sang Nữ Hoàng. “Tôi e là Nữ Hoàng đã
nhầm.”

“Nhìn ngón tay cô ta và thử nói cô ta


không liếm sạch nó đi.”

Simon và Isabelle đang nhìn cô. Clary


liếc xuống tay. “Máu thôi mà,” cô nói.
“một trong những tinh linh của nữ hoàng
đã cắn tay tôi - nó chảy máu -” Cô nhớ
tới vị ngọt của máu, pha với vị nước trái
cây trên đầu ngón tay. Hoảng sợ, cô đi về
phía cửa dây leo, và dừng lại khi cảm
nhận bàn tay vô hình đẩy cô trở lại căn
phòng. Cô quay sang Jace, sững sờ. “Bà
ta nói đúng.”

Mặt Jace đỏ lựng. “Đáng ra tôi phải


nghĩ tới trò này chứ,” anh nói với Nữ
Hoàng, giọng điệu tán tỉnh ngọt nhạt lúc
nãy đã bay biến mất. “Vì sao bà lại làm
vậy? Bà muốn gì từ chúng tôi?”

Giọng Nữ Hoàng mềm mại như lông


tơ nhện. “Có lẽ chỉ do ta tò mò,” bà ta
nói. “Ta ít khi có một Thợ Săn Bóng Tối
trẻ trong lãnh địa của mình lắm. Giống
như thần tiên bọn ta, tổ tiên các ngươi
đến từ thiên đường; và điều đó khiến ta
thích thú.”

“Nhưng không giống bà,” Jace nói,


“trong huyết quản chúng tôi không chảy
dòng máu của địa ngục.”

“Các ngươi là người phàm, các ngươi


già theo năm tháng và các ngươi sẽ
chết,” Nữ Hoàng khinh miệt nói. “Nếu
điều đó không liên quan tới địa ngục, thì
nói xem, cái gì mới liên quan đến địa
ngục nào?”

“Nếu bà chỉ muốn nghiên cứu một


Thợ Săn Bóng Tối, thì tôi không có ích
lắm đâu.” Clary xen ngang. Tay cô đau
buốt nơi bị tinh linh cắn, và cô cố không
hét hay bật khóc. “Tôi không biết gì về
nghiệp vụ của Thợ Săn Bóng Tối. Tôi
chưa được đào tạo gì hết. Tôi không phải
người bà cần chọn.” Để chơi đâu, cô
thầm lặng nói thêm.

Lần đầu tiên Nữ Hoàng nhìn thẳng vào


cô. Clary chỉ muốn rúm lại. “Thực ra, cô
Clarissa Morgenstern, cô là người mà ta
thực sự muốn chọn.” Ánh mắt bà ta sáng
lên khi nhận ra sự bối rối của Clary.
“Nhờ vào những biến đổi mà cha cô áp
dụng vào cô, cô không giống những Thợ
Săn Bóng Tối khác. Tài năng của cô
hoàn toàn khác.”

“Tài năng của tôi ư?” Clary bối rối.


“Tài năng của cô là những từ ngữ
không thể được thốt lên,” Nữ Hoàng báo
với Clary, “của anh trai cô là tài năng
của chính Thiên Thần. Bố cô đã bảo đảm
cho việc đó xảy ra, khi anh trai cô còn là
một đứa trẻ và trước khi cô chào đời.”

“Cha tôi không tặng tôi bất cứ thứ gì,”


Clary nói. “Ông ấy còn chẳng thèm đặt
tên cho tôi.”

Jace trông cũng nghệt ra hệt như


Clary. “Dù Tộc Tiên không nói dối,” anh
nói, “nhưng họ vẫn có thể bị lừa. Tôi
nghĩ có khả năng Nữ Hoàng là nạn nhân
của một trò lừa gạt hay trò đùa nào đó.
Tôi hay em tôi chẳng có gì đặc biệt cả.”

“Sao cậu có thể khéo léo hạ thấp sự


quyến rũ nơi cậu vậy nhỉ,” Nữ Hoàng
cười khanh khách và nói. “Nhưng cậu
phải biết cậu không phải một cậu thiếu
niên lòai người bình thường chứ
Jonathan…” Bà nhìn Clary rồi nhìn Jace
và Isabelle - Isabelle đang há hốc miệng,
liền ngậm miệng ngay tức khắc - và lại
nhìn Jace. “Chẳng lẽ cậu không biết
thật?” bà ta lầm bầm.

“Tôi biết mình sẽ không bỏ em gái lại


Triều Đình của bà,” Jace nói. “Và vì
chẳng có gì đáng phải nghiên cứu ở tôi
hay em gái tôi, giờ có lẽ Nữ Hoàng sẽ
vui lòng thả em gái tôi ra chứ?” Khi bà
đã vui đủ rồi ấy? Ánh mắt anh như nói
vậy, dù giọng nói vẫn lịch sự và trơn tru
như nước chảy.

Nụ cười của Nữ Hoàng càng rạng


ngời hiểm ác. “Nếu ta nói với cậu rằng
một nụ hôn sẽ trả tự do cho cô ta thì sao
đây?”

“Bà muốn Jace hôn bà sao?” Clary


choáng váng hỏi.

Nữ Hoàng bật cười, và ngay lập tức,


quần thần cười rần rần theo. Tiếng cười
là sự hòa trộn kỳ dị, thiếu tính người của
những tiếng hú hét, la thét và rít, như
tiếng kêu chói lói của những con thú bị
thương.

“Dù cậu ta quyến rũ thế nào,” Nữ


Hoàng nói, “nụ hôn đó sẽ không giải
thoát cô gái kia được.”

Cả bốn người giật mình nhìn nhau.


“Tôi có thể hôn Meliorn,” Isabelle đề
nghị.

“Cũng không được. Và cũng không


phải nụ hôn giữa các cận thần của ta.”

Meliorn tránh xa Isabelle, người đang


nhìn những người bạn đồng hành và giơ
tay. “Tôi sẽ không hôn bất cứ ai trong
các người,” anh quả quyết. “Tôi nói rồi
đấy nhé.”

“Có lẽ không cần thiết lắm đâu,”


Simon nói. “Nếu chỉ cần một nụ hôn…”

Cậu tiến về phía Clary, người đang


đứng sững vì ngạc nhiên. Khi Simon nắm
lấy khủy tay cô, cô phải cố kìm nén cảm
giác muốn đẩy cậu ra. Không phải cô
chưa từng hôn Simon, nhưng đây hẳn sẽ
là một tình huống kỳ cục ngay cả nếu
việc hôn cậu là chuyện cô có thể thoải
mái làm được, trong khi thực tế thì không
phải. Ấy thế nhưng đây là lời đáp hợp lý
mà, đúng không? Không thể kiềm lòng,
cô nhìn nhanh ra sau về phía Jace và thấy
anh nhăn mặt.

“Không,” Nữ Hoàng nói, giọng như


tiếng thủy tinh lanh canh. “Đấy cũng
không phải thứ ta muốn.”

Isabelle đảo mắt. “Ồ, trời đất Thiên


Thần ôi. Nghe này, nếu không còn cách
khác, tôi sẽ hôn Simon. Tôi từng hôn rồi,
cũng không tệ lắm.”

“Cám ơn,” Simon nói. “Cậu làm tớ đỏ


mặt mất.”

“Than ôi,” Nữ Hoàng Seelie nói. Vẻ


mặt của bà ta đanh lại theo một dạng vui
thú độc ác, và Clary tự hỏi có phải thực
ra bà ta không muốn xem họ hôn nhau mà
chỉ muốn trông thấy họ rúm ró lúng túng
như lũ dở hơi. “Ta e là nụ hôn đó cũng
không ăn thua.”

“Ừm, tôi sẽ không hôn gã người


thường kia đâu,” Jace nói. “Tôi thà mọc
rễ ở đây còn hơn.”

“Mãi mãi nhé?” Simon nói. “Mãi mãi


là một quãng thời gian rất dài đấy.”

Jace nhướn mày. “Biết ngay mà,” anh


nói. “Cậu muốn hôn tôi, đúng không?”
Simon bực bội giơ tay. “Tất nhiên là
không. Nhưng nếu…”

“Tôi nghĩ người ta nói đúng thật,”


Jace nhận xét. “Bước đường cùng thì
chẳng trai nào thẳng hết.”

“Là người vô thần chứ, đồ khốn,”


Simon tức giận. “Bước đường cùng thì
chẳng ai vô thần cả.”

“Dù cảnh tượng trước mắt ta rất đáng


xem,” Nữ Hoàng lãnh đạm nói và nhoài
người lên trước, “nụ hôn để giải thoát
cho cô gái này phải là nụ hôn mà cô ta
khao khát nhất.” Sự hân hoan độc ác trên
mặt và trong giọng nói của bà ta càng
thêm gay gắt, những lời nói của bà ta như
mũi kim chọc vào màng nhĩ Clary. “Chỉ
có thế mà thôi.”

Simon nhìn như thể vừa bị cô đánh.


Clary muốn với tới cậu, nhưng cô đứng
chết trân một chỗ, quá kinh hoàng không
thể cử động nổi.

“Vì sao bà lại làm thế?” Jace hỏi.

“Ta thích nghĩ rằng ta đang tặng cậu


một món quà hơn.”

Jace đỏ mặt, nhưng không nói gì. Cậu


tránh nhìn Clary.
Simon nói. “Nực cười quá. Họ là anh
em cơ mà.”

Nữ Hoàng nhún vai một cách tao nhã.


“Ham muốn không phải lúc nào cũng bị
sự kinh tởm đè nén. Nó cũng không thể
được ban phát, như một đặc ân, cho
những người đáng được hưởng. Và vì lời
nói của ta trói buộc phép thuật của ta,
nên các người thừa biết ta đang nói thật.
Nếu cô gái đây không ham muốn nụ hôn
của chàng trai, cô ta sẽ không được giải
thoát.

Simon tức giận càu nhàu gì đó, nhưng


Clary không nghe thấy; tai cô đang ong
ong, như thể có cả đàn ong bị nhốt trong
đầu cô, đang điên cuồng đập cánh.
Simon quay vòng quanh, trông có vẻ căm
phẫn, và nói, “Cậu không cần làm vậy,
Clary, đó chỉ là một trò lường gạt…”

“Không phải trò lường gạt,” Jace nói.


“Mà là một phép thử.”

“Ừm, tớ không biết cậu thế nào,


Simon,” Isabelle nói, giọng chứa đựng
bực tức. “Nhưng tớ muốn Clary ra khỏi
đây.”

“Cậu sẵn sàng hôn Alec,” Simon nói,


“chỉ vì Nữ Hoàng Seelie yêu cầu cậu
không?”
“Chắc chắn tớ sẽ làm.” Isabelle có vẻ
bực. “Nếu giải pháp còn lại là bị mắc
kẹt suốt đời trong Triều Đình Seelie ư?
Mà dù sao, ai quan tâm chứ? Chỉ là một
nụ hôn thôi mà.”

“Đúng.” Đó là tiếng Jace. Clary nhìn


anh qua tầm nhìn nhòe nhoẹt, khi anh đi
tới bên cô và đặt tay lên vai cô, quay cô
đối diện anh. “Chỉ là một nụ hôn thôi,”
anh nói, và dù giọng anh nghe cục cằn,
nhưng tay anh lại nhẹ nhàng tới khó hiểu.
Cô để anh quay người cô, rồi ngước lên
nhìn anh. Mắt anh rất tối, có lẽ vì ánh
sáng ở Triều Đình Seelie này không
được tốt lắm, hoặc có thể vì điều gì
khác. Cô có thể thấy hình ảnh phản chiếu
nhỏ xíu của mình trong đôi đồng tử đang
mở rộng của Jace. Anh nói. “Em có thể
nhắm mắt lại và nghĩ tới nước Anh, nếu
em muốn.”

“Em chưa bao giờ tới Anh,” cô nói,


nhưng cô cũng nhắm mắt lại. Cô cảm
nhận được sức nặng từ bộ quần áo sũng
nước, lạnh lẽo và ngứa ngáy trên da,
cùng bầu không khí ngòn ngọt giả tạo
trong hang, càng lạnh lẽo hơn nữa, cũng
như sức nặng tới từ đôi bàn tay Jace trên
vai cô, là thứ duy nhất được ấm áp. Rồi
anh hôn cô.

Cô cảm nhận làn môi anh sượt qua,


thoạt đầu còn phớt nhẹ, thế rồi cô tự
động hé môi trong cơn thúc ép. Gần như
trái với mong muốn của cô, cô cảm thấy
bản thân mềm nhũn ra, cô vươn tay lên
ôm cổ anh, như một bông hoa hướng
dương khao khát vươn về phía ánh nắng.
Hai tay anh ôm lấy cô, bàn tay đan vào
tóc cô, và nụ hôn thôi không còn nhẹ
nhàng nữa mà lại trở thành cuồng nhiệt,
tất cả chỉ trong một giây phút như bùi
nhùi lóe lên thành ngọn lửa. Clary nghe
âm thanh như tiếng thở dài vang khắp
Triều Đình, xung quanh họ, tạo thành một
cơn sóng âm thanh, nhưng điều đó chẳng
có nghĩa lý gì, tất cả mất hút trong sự rần
rật của máu cô chảy qua huyết quản,
trong cảm giác nhẹ bẫng đến choáng
váng của cơ thể cô.
Bàn tay Jace di chuyển từ tóc cô,
trượt xuống xương sống; cô cảm nhận
sức ép từ lòng bàn tay lên xương vai - và
sau đó anh rời ra, nhẹ nhàng tách mình
khỏi cô, kéo tay cô rời khỏi cổ mình rồi
bước lùi lại. Trong chốc lát Clary tưởng
mình sẽ ngã mất; cô cảm thấy một thứ gì
đó mang ý nghĩa sống còn đã bị tước
đoạt khỏi con người cô, một tay hay một
chân gì đấy, thế là cô trố mắt nhìn Jace
trong nỗi kinh ngạc không nói thành lời -
anh cảm thấy gì đây, hay không gì cả? Cô
nghĩ mình sẽ chẳng chịu đựng nổi đâu
nếu anh chẳng cảm thấy điều gì.

Jace nhìn lại cô, và khi Clary trông


thấy biểu hiện trên gương mặt anh, cô
nhìn thấy đôi mắt của anh hồi ở
Renwick, khi anh quan sát Cổng Dịch
Chuyển đã chia rẽ anh và căn nhà thời
thơ ấu vỡ tan nát. Anh nhìn cô thêm một
tích tắc, sau đó nhìn đi nơi khác, các cơ
cổ giần giật. Hai bàn tay anh siết lại
thành nắm đấm dọc bên mình “Đủ làm bà
hài lòng chưa?” anh hỏi khi quay sang
Nữ Hoàng và quần thần đằng sau. “Các
người vui đủ chưa?”

Nữ Hoàng đưa tay lên ngang miệng,


nửa che đi nụ cười mỉm. “Chúng ta cũng
khá vui,” bà ta nói. “Nhưng ta nghĩ,
không vui bằng hai người.”

“Tôi chỉ có thể đoán,” Jace bảo,


“rằng cảm xúc của người thường có thể
mua vui cho các người vì các người làm
gì có cảm xúc.”

Nghe thế nụ cười kia vụt tắt ngay trên


môi bà ta.

“Bình tĩnh nào, Jace,” Isabelle nói.


Cô quay sang Clary. “Giờ cậu đi được
chưa? Cậu được tự do chưa?”

Clary tới cánh cửa và không ngạc


nhiên khi phát hiện không có rào cản nào
ngăn cấm cô nữa. Cô đứng, vươn tay qua
rèm dây leo và nhìn Simon. Cậu nhìn cô
như thể chưa thấy cô bao giờ.
“Chúng ta nên đi thôi,” cô nói.
“Trước khi quá muộn.”

“Đã quá muộn rồi,” cậu bạn cất tiếng.

Meliorn dẫn họ đi hỏi Triều Đình


Seelie và bỏ lại họ ngoài công viên,
trong cả chuyến đi không ai nói với ai
một lời. Clary nghĩ lưng anh ta trông
cứng đơ và không được hài lòng. Anh ta
quay đi khi họ bì bõm lội khỏi hồ, thậm
chí không thèm chào tạm biệt Isabelle và
biến mất trong hình phản chiếu đang lay
động trên mặt nước của mặt trăng.

Isabelle cau mặt nhìn anh ta bỏ đi.


“Thằng cha này đáng để đá lắm rồi đấy.”
Jace thốt ra một âm thanh như tiếng
cười bị nghẹn lại trong họng và dựng cổ
áo khoác ướt nhẹp lên. Cả bọn run như
cầy sấy. Màn đêm lạnh lẽo có mùi ngai
ngái của đất, thực vật và sự hiện đại của
loài người - Clary gần như nghĩ rằng cô
có thể ngửi thấy mùi sắt thép trong không
khí. Những ngôi nhà thành phố bao quanh
công viên lấp lánh những ánh sáng rực
rỡ: xanh lam lạnh lẽo, xanh lục mát mắt,
đỏ chói lòa, còn hồ nước yên ả vỗ sóng
vào bờ. Hình mặt trăng phản chiếu đã di
chuyển tới bên kia hồ và run rẩy neo lại
ở đó như thể nó đang sợ hãi những thứ
ánh sáng kia.
“Tốt hơn chúng ta nên trở về thôi.”
Isabelle kéo chiếc áo khoác vẫn còn ướt
ôm sát lấy vai. “Trước khi chúng ta lạnh
cóng mà chết.”

“Từ đây tới Brooklyn dài lắm,” Clary


nói. “Có lẽ chúng ta nên gọi taxi.”

“Hoặc là tới Học Viện,” Isabelle đề


nghị. Trước ánh mắt của Jace, cô vội
vàng nói tiếp. “Đằng nào ở đó cũng
chẳng có ai - tất cả đều đến Thành Phố
Xương để tìm bằng chứng. Chỉ mất một
giây để tạt qua lấy quần áo cho anh, thay
đồ khô vào thôi. Hơn nữa, Học Viện vẫn
là nhà của anh mà Jace.”
“Được.” Jace nói, trước sự ngạc
nhiên rõ rệt của Isabelle. “Đằng nào anh
cũng cần vài thứ trong phòng.”

Clary lưỡng lự. “Tớ không biết nữa.


Tớ nên đón xe về cùng Simon.” Có lẽ
nếu họ có chút thời gian dành cho nhau,
cô có thể giải thích cho cậu nghe chuyện
xảy ra dưới Triều Đình Seelie, và rằng
đó không phải như cậu nghĩ.

Jace đang kiểm tra xem đồng hồ có bị


ngấm nước không. Giờ anh nhìn cô, lông
mày nhướn cao. “Có vẻ hơi khó đấy,”
anh nói, “vì cậu ta bỏ đi rồi.”

“Sao cơ?” Clary quay người nhìn


quanh. Simon đã đi mất, chỉ còn ba
người họ bên hồ nước. Cô chạy một đoạn
lên đồi và hét gọi tên Simon. Từ đằng xa,
cô nhìn thấy bóng dáng cậu, đang cố tình
sải bước dần đi trên con đường trải bê
tông dẫn khỏi công viên ra hướng đại lộ.
Cô gọi tên cậu lần nữa, nhưng cậu không
thèm quay lại.

9. Và cái chết sẽ không mãi vĩnh


hằng

Isabelle đã nói thực: Trong Học


Viện chẳng có ai. Gần như là không có
ai. Max đang ngủ trên chiếc ghế đỏ tại
tiền sảnh khi họ đi vào. Chiếc kính hơi
lệch và rõ ràng là cu cậu đã ngủ quên:
một cuốn sách vẫn mở, rơi trên nền nhà
và đôi chân đi giày đánh đu trên cạnh
ghế theo cách không thoải mái lắm.

Clary ngay lập tức thấy thương cho


cậu bé. Cậu bé khiến cô nhớ tới Simon
hồi lên chín hay mười, lúc nào cũng kè
kè cặp kính rồi mắt chớp ngượng nghịu
và đôi tai nữa chứ.

©DTV: http://www.dtv-ebook.com

“Max giống một con mèo vậy. Thằng


bé toàn bạ đâu ngủ đấy.” Jace cúi xuống
tháo mắt kính, đặt xuống chiếc bàn gần
đó. Gương mặt anh mang nét biểu cảm
Clary chưa từng thấy bao giờ - một vẻ ôn
tồn chất chứa bao bọc khiến cô ngạc
nhiên.

“Ôi, để yên đồ của thằng bé ở đó -


anh chỉ làm vấy thêm bùn thôi,” Isabelle
gắt gỏng, rồi cởi cúc chiếc áo khoác ướt
nhẹp. Váy dán chặt vào thân người cao
ráo và nước làm chiếc thắt lưng da dày
nơi eo cô nàng sẫm màu lại. Họ chỉ thấy
được cái tay cầm lấp lánh của sợi roi da
trên thắt lưng. Cô nàng đang nhăn nhó.
“Em cảm thấy lạnh dần đây này,” cô nói.
“Em sẽ đi tắm nước nóng.”
Jace nhìn theo cho tới khi cô nàng
biến mất ở hành lang với kiểu ngưỡng
mộ bất đắc dĩ. “Thi thoảng con nhỏ này
làm anh nghĩ tới một bài thơ. ‘Isabelle,
Isabelle, không lo lắng chi. Isabelle
không la hét chẳng vội vã gì…”

“Thế anh có lúc nào muốn hét chưa?”


Clary hỏi.

“Cũng đôi lúc.” Jace cởi áo khoác


ướt và treo trên móc bên cạnh áo
Isabelle. “Con bé đúng về vụ nước nóng.
Hẳn anh cũng phải tắm thôi.”

“Em không có đồ để thay,” Clary nói,


đột nhiên muốn có chút thời gian riêng
tư. Những ngón tay cô ngứa ngáy muốn
gọi cho Simon, để xem bạn mình có ổn
không. “Em sẽ ở đây đợi anh.”

“Đừng ngốc nghếch thế. Anh sẽ cho


em mượn áo phông.” Quần bò của anh
cũng ướt và tụt xuống tận xương hông,
khoe khoảng da trắng xanh, đầy kín hình
xăm giữa cạp quần và gấu áo phông.

Clary nhìn đi nơi khác. “Em không


nghĩ…”

“Thôi nào.” Giọng anh cương quyết.


“Dù sao anh cũng muốn cho em xem cái
này.”
Clary lén lút nhìn màn hình điện thoại
trong khi đi theo Jace vào phòng. Simon
không gọi. Hơi lạnh dường như đang kết
tinh trong ngực cô. Chơi với nhau suốt
ngần đó năm mà mãi hai tuần trước, cô
với Simon mới xảy ra cãi vã. Còn giờ thì
dường như lúc nào cậu cũng giận cô.

Phòng của Jace vẫn y như những gì cô


nhớ: gọn gàng ngăn nắp trống trải như
phòng của một thầy tu. Căn phòng chẳng
có thứ gì có thể tiết lộ chút ít về Jace:
không một tấm poster trên tường, không
một cuốn sách trên mặt bàn. Thậm chí
chăn trên giường cũng trắng trơn.

Anh tới tủ quần áo lấy ra một chiếc áo


phông tay dài màu xanh da trời được gấp
gọn ghẽ trong ngăn kéo. Anh ném cho
Clary. “Cái này teo lại khi giặt,” anh
bảo. “Có thể vẫn còn rộng so với em,
nhưng…” Anh nhún vai. “Anh sẽ đi tắm.
Cứ hét lên nếu em cần gì nhé.”

Cô gật đầu, ôm rịt áo trước ngực như


thể nó là tấm khiên. Trông Jace như
muốn nói gì nữa, nhưng rồi lại thôi; với
một cái nhún vai nữa, anh biến mất vào
trong phòng tắm, đóng chặt cửa sau lưng.

Clary ngồi xuống giường, chiếc áo đặt


trong lòng, và lôi điện thoại ra khỏi túi.
Cô gọi cho Simon. Chuông đổ bốn hồi
rồi giọng trả lời tự động vang lên: “Xin
chào, bạn đang gọi tới số của Simon.
Hoặc tôi không cầm điện thoại hoặc tôi
đang cố tránh bạn. Hãy để lại lời nhắn
và…”

“Em đang làm gì thế?”

Jace đang đứng trước cửa phòng tắm


để mở. Đằng sau nước chảy rào rào và
hơi nước bốc lên nghi ngút. Anh không
mặc áo và để chân trần, chiếc quần bò
ướt trượt xuống hông, để lộ rõ những
hõm xương, trông như có người đã ấn tay
tạo thành vết trên đó vậy.

Clary gập điện thoại và vứt xuống


giường. “Em có làm gì đâu. Chỉ xem giờ
thôi mà.”

“Có đồng hồ cạnh giường đó,” Jace


bảo. “Em định gọi cho tên người thường
đó, đúng không?”

“Tên cậu ấy là Simon,” Clary vo


chiếc áo của Jace trong tay. “Và anh
đừng có suốt ngày cay nghiệt với cậu ấy
chứ. Cậu ấy đã giúp anh không chỉ một
lần thôi đâu.”

Jace khép mắt nghĩ ngợi. Hơi nước


nghi ngút ngập tràn phòng tắm, khiến tóc
anh càng thêm xoăn. Anh nói, “Giờ em
thấy tội lỗi vì cậu ta bỏ đi mất. Nếu là
anh, anh không mất công gọi cho thằng
đó đâu. Nó đang lẩn tránh em đấy.”

Clary không thèm che giấu sự tức


giận. “Và anh biết vì anh và cậu ấy thân
thiết lắm chứ gì?”

“Anh biết vì anh nhìn thấy điều đó


trên mặt cậu ta trước khi cậu ta bỏ đi,”
Jace đáp. “Em thì không. Em không nhìn.
Nhưng anh thì có đó.”

Clary hất gọn những lọn tóc vẫn còn


ẩm ra khỏi mắt. Phần da dính vào lớp
quần áo ướt nghe ngứa ngáy, và cô nghĩ
cô có mùi giống đáy hồ, và cô không
ngừng nghĩ tới vẻ mặt Simon khi cậu nhìn
cô tại Triều Đình Seelie - như thể Simon
ghét cô vậy. “Đó là lỗi của anh,” cô đột
nhiên nổi đóa và cất tiếng. “Anh không
nên hôn em như vậy.”

Đang tựa người vào khung cửa, Jace


bỗng đứng thẳng dậy. “Vậy anh nên hôn
em thế nào đây? Em thích cách hôn khác
sao?”

“Không.” Tay cô run rẩy đặt trong


lòng. Chúng lạnh, trắng bệch, nhăn nheo
vì ngâm nước. Cô đan tay vào nhau cho
ngừng run. “Em không muốn được anh
hôn.”

“Dường như cả anh và em đều không


có lựa chọn nào khác trong chuyện này
mà.”

“Đó là điều em không hiểu!” Clary


bật ra. “Vì sao bà ta bắt anh hôn em? Ý
em là Nữ Hoàng ấy. Sao lại ép chúng ta
làm… điều đó? Chuyện đó có gì vui cơ
chứ?”

“Em đã nghe tới Nữ Hoàng nói rồi


đấy. Bà ta nghĩ bà ta đang ban cho anh
một ân huệ.”

“Không đúng.”

“Đúng. Anh phải nói với em bao


nhiêu lần đây? Thần Tiên không nói dối.”
Clary nghĩ tới điều Jace nói hồi ở nhà
Magnus. Họ sẽ tìm xem em khao khát gì
nhất trên đời và trao nó cho em - kèm
theo là một lời nguyền khiến em hối
hận vì lúc đầu đã muốn có nó. “Vậy thì
bà ta nhầm rồi.”

“Bà ta không nhầm đâu.” Giọng Jace


nghe mới cay đắng làm sao. “Bà ta thấy
cách anh nhìn em, và em nhìn anh, rồi
Simon nhìn em, thế là bà ta chơi chúng ta
như chơi một thứ nhạc cụ vậy.”

“Em không nhìn anh,” Clary lẩm bẩm.

“Cái gì?”
“Em nói, em không nhìn anh.” Cô
buông đôi bàn tay đang đan vào nhau ra.
Trong lòng bàn tay giờ đã hằn những vết
đỏ do móng tay bấm vào. “Hay ít nhất là
em đã cố không nhìn anh.”

Mắt Jace nheo lại, chỉ còn là một dải


sáng vàng kim dưới hàng mi vàng, và cô
nhớ lần đầu tiên cô gặp anh rồi anh đã
khiến cô nghĩ tới một con sư tử vàng đẹp
rực rỡ và nguy hiểm chết người đến thế
nào. “Sao lại không?”

“Anh nghĩ vì sao nào?” cô nói gần


như không ra hơi, chỉ như tiếng thì thào.

“Vậy thì vì sao?” Giọng anh run run.


“Sao lại bày đủ trò với Simon, sao cứ
mãi đẩy anh ra xa em, không cho anh ở
gần em…”

“Vì không thể,” cô nói, lời cuối bật


ra như một lời than van, dù cô đã cố hết
sức kiềm chế. “Anh cũng hiểu cơ mà.”

“Vì em là em gái anh,” Jace nói.

Cô gật đầu không nói.

“Có lẽ,” Jace nói. “Và vì thế, em


quyết định cậu bạn thân Simon của em sẽ
là một sự đánh lạc hướng hữu dụng?”
“Không phải,” cô nói. “Em yêu
Simon.”

“Như em yêu chú Luke vậy,” Jace nói.


“Cũng như em yêu mẹ em thôi.”

“Không.” Giọng cô lạnh lẽo và sắc


nhọn như một tảng băng. “Đừng bảo cho
em biết là em cảm nhận điều gì.”

Một thớ thịt nho nhỏ bên khóe miệng


Jace giật giật. “Anh không tin em.”

Clary đứng dậy. Cô không dám nhìn


anh, mà chỉ dám dán mắt vào vết sẹo
hình sao nho nhỏ trên vai anh, ký ức về
một vết thương cũ nào đó. Cuộc đời đầy
rẫy vết sẹo và chém giết này, bác Hodge
có lần đã nói. Cháu không có trong đó.
“Jace à,” cô nói. “Vì sao anh lại làm thế
với em chứ?”

“Vì em đang nói dối anh. Và em đang


dối cả chính mình.” Mắt Jace tóe lửa, và
dù tay cậu nhét trong túi quần, nhưng cô
biết chúng đang nắm chặt lại.

Có gì đó bên trong Clary vỡ vụn và


lời nói cứ thế tuôn trào. “Anh muốn em
nói gì với anh đây? Sự thật ư? Sự thật là
em yêu Simon như đáng lẽ em nên yêu
anh, và em ước gì Simon là anh trai em
còn anh thì không, nhưng em không thể
thay đổi sự thật đó và anh cũng thế thôi!
Hay anh có cách gì nào, vì lẽ anh thông
minh thấy sợ ấy?”

Jace hít một hơi và cô nhận ra anh


chưa bao giờ nghĩ cô sẽ nói những lời
vừa rồi, trong cả đời này. Vẻ mặt anh nói
lên điều đó.

Cô cố gắng lấy lại bình tĩnh. “Jace,


em xin lỗi, em không có ý…”

“Không, em không phải xin lỗi. Đừng


xin lỗi.” Anh bước về phía cô, suýt vấp
chân té ngã - Jace, người chưa bao giờ
loạng choạng, chưa bao giờ trượt chân,
chưa bao giờ di chuyển thiếu duyên
dáng. Tay anh đưa lên ôm lấy gương mặt
cô; cô cảm nhận hơi ấm nơi đầu ngón tay,
chỉ cách da cô vài milimet; biết mình
phải gạt tay anh đi, nhưng cô đứng chết
trân một chỗ, ngước mắt nhìn anh. “Em
không hiểu,” anh nói. Giọng run rẩy.
“Anh chưa bao giờ có cảm giác thế này
với bất cứ ai. Anh cứ tưởng mình không
thể. Anh nghĩ - theo cách anh lớn lên -
cha anh…”

“Yêu thương là hủy hoại,” cô mụ mị


nói. “Em nhớ.”

“Anh nghĩ cái phần yêu thương ấy


trong trái tim anh đã vỡ rồi,” anh bảo, và
vẻ mặt anh khi anh nói ra những lời này
trông như thể chính anh cũng bất ngờ khi
nghe thấy mình nói lên cụm từ trái tim
anh ấy. “Mãi mãi. Nhưng em…”

“Jace. Đừng.” Cô đưa tay ôm lấy bàn


tay anh, đan những ngón tay anh vào tay
mình. “Vô ích thôi.”

“Không đúng.” Trong giọng anh chất


chứa sự tuyệt vọng. “Nếu chúng ta có
chung một cảm nhận về nhau…”

“Chúng ta cảm thấy thế nào chẳng là


gì. Chúng ta không thể thay đổi định
mệnh.” Cô nghe thấy giọng mình như một
người lạ đang nói: xa xôi, khổ sở.
“Chúng ta phải đi đến đâu mới được ở
bên nhau đây? Rồi chúng ta sẽ sống thế
nào?”

“Chúng ta có thể giữ kín.”

“Mọi người rồi cũng sẽ biết. Và em


không muốn nói dối gia đình em, còn anh
thì sao?”

Câu trả lời của anh thật chua xót. “Gia


đình nào? Đằng nào nhà Lightwood cũng
ghét anh.”

“Không, họ không ghét anh đâu. Còn


em thì không thể nào nói cho chú Luke
biết được. Rồi mẹ em nữa, khi mẹ tỉnh
dậy, chúng ta sẽ nói gì với mẹ đây? Điều
này, điều mà chúng ta muốn ấy, đối với
mọi người chúng ta quan tâm là một điều
ghê tởm…”

“Ghê tởm ư?” Anh buông tay như thể


cô vừa đẩy anh ra. Anh nghe có vẻ
choáng váng. “Điều chúng ta cảm nhận -
anh cảm nhận - khiến em ghê tởm à?”

Cô nín thở vì vẻ mặt anh. “Có lẽ,” cô


thì thào. “Em cũng không biết.”

“Vậy em nên nói điều đó ngay từ đầu


chứ.”
“Jace…”

Nhưng anh đã tránh xa cô, trên mặt


không còn một nét cảm xúc, giống như
một cánh cửa đã bị khóa trái và niêm
phong lại. Cô chưa bao giờ nghĩ anh sẽ
nhìn cô theo cách khác. “Vậy anh xin lỗi
em vì mọi lời anh nói.” Giọng anh cứng
nhắc, nghiêm nghị. “Anh sẽ không hôn
em nữa. Em cứ tin vậy đi.”

Trái tim Clary đập chậm lại, lộn nhào


không chủ định vào thời khắc anh rời
khỏi cô, rút chiếc khăn tắm khỏi tủ quần
áo, đi trở lại phòng tắm. “Nhưng - Jace,
anh làm gì vậy?”
“Tắm nốt. Và nếu nói chuyện lung
tung với em làm nước nguội mất, anh sẽ
rất bực đấy.” Cậu bước vào phòng tắm,
đạp cửa đóng sầm lại sau lưng.

Clary nằm sụp xuống giường nhìn trân


trối lên trần nhà. Trần nhà vô hồn như vẻ
mặt Jace trước khi anh quay lưng với cô.
Cô lăn người và nhận ra mình đang nằm
lên trên áo phông xanh của anh, áo có
mùi hương của anh, giống mùi xà bông,
khói và mùi máu. Cô cuộn mình ôm lấy
áo vào lòng như thời còn rất bé cô đã
từng nằm cuộn tròn ôm lấy chiếc chăn
yêu thích, rồi cô nhắm mắt lại.

Trong giấc mơ, cô nhìn xuống mặt


nước lấp lánh sáng, trải dài bên dưới
như một tấm gương rộng mênh mang
phản chiếu bầu trời đêm. Và giống một
chiếc gương, mặt nước này đặc cứng,
cô có thể bước đi trên đó. Cô bước đi,
hít vào hương trời đêm cùng lá ướt và
cả mùi của thành phố lấp lánh ánh đèn
hoa lệ xa xa như lâu đài thần tiên tỏa
ánh hào quang - và ở bất cứ nơi nào cô
đặt chân xuống, những vết nứt hình
mạng nhện lan rộng dần, rồi những
mảnh gương bắn tung tóe như những
tia nước.

Bầu trời bắt đầu rực sáng. Sáng lên


bởi những điểm lửa, như những đầu
diêm đang bốc cháy. Rồi chúng rơi
xuống, một trận mưa than nóng cháy
rơi xuống từ bầu trời, cô co rúm người
lại, hai tay giơ lên cao. Một viên than
rơi xuống trước mặt cô, một vạt lửa to
lớn, rồi khi chạm đất nó lại biến thành
một cậu thiếu niên: Là Jace, tỏa ánh
vàng chói lọi với đôi mắt và mái tóc
vàng, với đôi cánh bạch kim sải rộng
kiêu hãnh sau lưng, rộng hơn và dày
dặn hơn cánh bất cứ một loài chim nào.

Anh cười như một chú mèo và chỉ ra


sau cô, Clary quay lại, thấy một cậu
thiếu niên tóc đen khác - là Simon sao?
- đang đứng đó, cũng với đôi cánh xòe
rộng, nhưng là những sợi lông vũ đen
tuyền như bầu trời nửa đêm, và mỗi sợi
đều nhỏ máu.

Clary bừng tỉnh thở hổn hển, tay nắm


chặt lấy chiếc áo của Jace. Phòng ngủ
khá tối, ánh đèn đường bên ngoài hắt vào
qua một khung cửa sổ hẹp bên cạnh
giường. Cô ngồi dậy. Đầu cô nằng nặng
còn gáy đau nhức. Cô chậm chạp nhìn
quanh phòng và nhảy dựng lên khi đôi
mắt sáng như mắt mèo trong bóng tối, lòe
lòe nhìn về phía cô.

Jace đang ngồi trên chiếc ghế tựa


cạnh giường. Anh mặc quần bò, áo len
xám và mái tóc đã gần khô. Anh đang
cầm thứ gì đó phản sáng trong tay như
kim loại. Vũ khí chăng? Nhưng mà Jace
đang canh chừng điều gì ở Học Viện thì
Clary không tài nào đoán nổi.

“Em ngủ ngon chứ?”

Cô gật đầu. Miệng cô khô khốc. “Sao


anh không gọi em dậy?”

“Anh nghĩ em nên nghỉ ngơi. Hơn nữa,


em ngủ như chết rồi ấy. Em còn chảy
nước miếng nữa,” anh nói thêm. “Lên áo
anh.”

Clary vội đưa tay lên miệng. “Xin


lỗi.”
“Có phải lúc nào cũng được thấy
người ta nhỏ dãi đâu,” Jace nhận xét.
“Đặc biệt là ngủ say như cún nữa chứ.
Miệng mở rộng rồi ôi thôi đủ cả.”

“Ôi, im đi.” Cô lần tay quanh giường


tới khi tìm thấy điện thoại và kiểm tra,
dù cô biết kết quả sẽ là thế nào. KHÔNG
CUỘC GỌI NHỠ. “Đã ba giờ sáng rồi,”
cô thất vọng nói. “Anh nghĩ Simon có ổn
không?”

“Thực ra anh nghĩ cậu ta quai quái,”


Jace đáp. “Dù điều này chẳng liên quan
gì đến giờ giấc cả.”

Cô nhét điện thoại vào túi quần. “Em


đi thay đồ.”

Căn phòng tắm sơn trắng của Jace


không lớn hơn phòng tắm của Isabelle,
dù nó gọn gàng hơn nhiều. Giữa các căn
phòng trong Học Viện không khác nhau
nhiều lắm. Clary vừa nghĩ vừa đóng cửa
lại sau lưng, nhưng ít nhất cũng có được
chút ít riêng tư. Cô cởi chiếc áo ướt và
treo trên mắc, té nước lên mặt rồi cào sơ
qua mái tóc xoăn rối bù.

Chiếc áo của Jace quá lớn so với cô,


nhưng chất liệu khá mềm mại. Cô xắn
ống tay áo và trở vào phòng ngủ, nơi
Jace vẫn ngồi y như lúc trước, mắt nhìn
đầy tâm trạng xuống cái vật sáng loáng
trên tay. Cô ngồi dựa lưng trên chiếc ghế
tựa. “Cái gì thế anh?”

Thay vì trả lời, anh quay nó sang cho


cô nhìn được rõ. Là một mảnh kính vỡ
nham nhở, nhưng thay vì phản chiếu
chính gương mặt cô, nó chỉ cho cô thấy
màu cỏ xanh rì, bầu trời xanh ngát và
những nhánh cây trụi lủi đen sì.

“Em không nghĩ là anh giữ nó,” cô


nói. “Đó là một mảnh Cổng Dịch
Chuyển.”

“Đó là lý do anh muốn tới đây,” Jace


bảo. “Để lấy cái này.” Giọng nói anh
ngập tràn sự mong mỏi và lẫn ước ao.
“Anh cứ nghĩ cõ lẽ anh sẽ thấy bố trong
gương. Để biết bố định làm gì.”

“Nhưng ông ta không ở đó, đúng


không? Em nghĩ ông ấy ở đâu đó gần đây.
Trong thành phố này.”

Jace lắc đầu. “Magnus đã tìm kiếm


ông nhưng chính anh ta cũng không nghĩ
bố đang ở đây.”

“Magnus tìm Valentine sao? Em


không biết chuyện này. Làm sao…”

“Magnus không phải tự dưng mà thành


Đại Pháp Sư. Sức mạnh của anh ta bao
trùm khắp trong và ngoài thành phố. Ở
mức độ nào đó, anh ta có thể cảm nhận
được chuyện xảy ra ngoài kia.”

Clary khụt khịt. “Anh ta có thể cảm


nhận sự rối ren tại Force ư?”

Jace xoay mình trên ghế và cau mặt


với cô. “Anh không đùa. Sau vụ tay pháp
sư bị sát hại tại TriBeCa, Magnus bắt
đầu điều tra chuyện này. Khi anh tới ở
với Magnus, anh ta đã hỏi anh vài điều
về bố để giúp vụ điều tra dễ dàng hơn.
Anh đưa cho anh ta chiếc nhẫn nhà
Morgenstern. Anh ta sẽ nói cho anh biết
ngay khi nhận được dấu vết về sự hiện
diện của Valentine trong thành phố này.
Nhưng tới giờ vẫn chẳng có gì hết.”

“Có thể là Magnus muốn chiếc nhẫn


của anh thôi,” Clary nói. “Anh ta rất
thích đeo đồ trang sức mà.”

“Anh ta giữ luôn cũng được.” Tay


Jace nắm chặt quanh mảnh gương vỡ.
Clary giật mình thấy máu ứa ra từ vết
cứa vào da thịt. “Nó chẳng là gì với anh
cả.”

“Này,” cô nói và cúi xuống lấy mảnh


gương khỏi tay anh. “Thả ra nào.” Cô
nhét mảnh vỡ của Cổng Dịch Chuyển vào
túi áo khoác của anh treo trên tường. Rìa
kính đen lại vì máu, lòng bàn tay Jace
đầy những đường máu đỏ. “Có lẽ chúng
ta nên đưa anh trở về nhà Magnus,” cô
nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Alec đã ở
đó khá lâu rồi, và…”

“Nhưng không hiểu sao anh có cảm


giác Alec không thấy phiền gì nhỉ,” Jace
nói, nhưng vẫn ngoan ngoãn đứng dậy
với lấy thanh stele đang dựng cạnh
tường. Khi vẽ chữ rune trị thương trên
mu bàn tay phải đang chảy máu, anh nói,
“Anh có điều muốn hỏi em.”

“Điều gì?”

“Khi em đưa anh ra khỏi xà lim tại


Thành phố Câm Lặng, sao em làm được?
Sao em mở cửa được?”

“À. Em chỉ viết chữ rune Mở bình


thường, rồi…”

Những tiếng chuông dồn dập đổ liên


hồi cắt đứt lời nói của Clary. Cô cho tay
vào túi trước khi nhận ra âm thanh cô
vừa nghe thấy nghe lớn hơn và rõ ràng
hơn bất cứ tiếng chuông điện thoại nào
của mình. Cô bối rối nhìn quanh.

“Chuông cửa Học Viện đấy,” Jace nói


và vơ lấy áo khoác. “Đi nào.”

Họ đi được nửa đường tới tiền sảnh


khi Isabelle ào ra khỏi phòng ngủ, mặc
áo choàng tắm cô-tông, mặt nạ che mắt
bằng lụa hồng kéo lên trán, cùng vẻ mặt
ngái ngủ. “Mới ba giờ sáng thôi mà!” cô
gắt gỏng, kiểu như muốn bảo đây là lỗi
của Jace, hay có thể của Clary. “Ai lại đi
ấn chuông cửa lúc ba giờ sáng chứ?”

“Có lẽ là Điều Tra Viên,” Clary nói,


đột ngột thấy lạnh.

“Bà ta có thể tự mình đi vào,” Jace


bảo. “Bất cứ một Thợ Săn Bóng Tối nào
cũng có thể hết. Cánh cửa Học Viện chỉ
cản chân người thường và các cư dân
của Thế Giới Ngầm mà thôi.”
Clary thấy tim mình thắt lại. “Simon!”
cô kêu lên. “Chắc chắn là cậu ấy!”

“Ôi, quỷ thần thiên địa ơi,” Isabelle


ngáp dài, “cậu ta thật tình muốn đánh
thức chúng ta vào giờ giời ơi đất hỡi này
chỉ để chứng minh tình yêu dành cho cậu
sao? Cậu ta gọi điện không được hả?
Đàn ông người thường hâm cả rồi.” Họ
tới tiền sảnh, giờ chẳng còn ai; hẳn Max
đã tỉnh giấc và tự lết lên giường. Isabelle
sầm sập băng ngang phòng để gạt công
tắc nơi bức tường đầu kia. Một tiếng
rình rõ ràng phát ra từ đâu đó trong nhà
thờ. “Đó,” Isabelle nói. “Cầu thang máy
đang lên.”
“Anh thật không thể tin là cái cậu này
chẳng có lấy chút đầu óc hay tự trọng mà
biết đường tìm chỗ uống cho say rồi lăn
quay ra nơi cống rãnh nào ấy cho rồi,”
Jace nói. “Phải nói chứ, anh thất vọng
thằng nhóc này quá.”

Clary chẳng buồn nghe. Cảm giác sợ


hãi dâng lên khiến máu cô đông lại. Cô
nhớ lại giấc mơ: những thiên thần, băng
giá, Simon với đôi cánh rỉ máu. Cô rùng
mình.

Isabelle nhìn cô một cách cảm thông.


“Ở đây lạnh mà,” cô nàng nhận xét.
Isabelle với tay lấy chiếc áo nhung xanh
trên mắc áo. “Này,” cô nàng nói. “Mặc
vào đi.”

Clary khoác áo và kéo nó sát quanh


mình. Áo quá dài, nhưng ấm áp. Áo lại
có mũ được viền sa tanh nữa. Clary bỏ
mũ xuống để nhìn cho rõ cửa thang máy
đang mở ra.

Cửa mở ra khoảng không gian đóng


hộp trống rỗng, bốn bên vách là gương
phản chiếu khuôn mặt trắng xanh, run rẩy
của chính mình. Không thèm ngừng lại
suy nghĩ, cô bước vào trong.

Isabelle bối rối nhìn cô. “Cậu làm gì


thế?”
“Simon ở dưới đó,” Clary nói. “Tớ
biết cậu ấy ở dưới đó.”

“Nhưng…”

Đột nhiên, Jace đã ở bên Clary, giữ


cửa mở cho Isabelle. “Đi nào, Izzy,” anh
nói. Với tiếng thở dài rất kịch, cô nàng đi
theo.

Clary cố nhìn vào mắt Jace khi cả ba


đi xuống trong im lặng - Isabelle ghim
gọn lọn tóc dài cuối cùng - nhưng Jace
không nhìn lại cô. Anh đang ngắm mình
trong gương thang máy, khe khẽ huýt sáo
như thói quen mỗi độ căng thẳng. Cô nhớ
đến anh đã khẽ run khi ôm lấy cô trong
Triều Đình Seelie. Cô nhớ tới vẻ mặt
Simon - và rồi cậu ấy gần như chạy trốn
cô, biến mất trong bóng tối ngoài công
viên. Sự sợ hãi thắt thành từng nút thắt
trong ngực cô mà cô cũng chẳng biết
nguyên nhân do đâu.

Cửa thang máy mở ra gian giữa giáo


đường, sống động với những ánh nến
đang nhảy múa. Cô vội vàng lách qua
Jace ra khỏi thang máy và tự động chạy
qua khoảng hẹp giữa những hàng ghế. Cô
dẫm phải vạt áo khoác dài lê thê và vội
vã ôm lên trước khi lao qua cánh cửa đôi
rộng. Ở bên trong những cánh cửa này
được chốt lại bằng những then đồng to
cỡ cánh tay Clary. Khi cô với tay lên
then cài cao nhất, tiếng chuông lại vang
lên lần nữa. Cô nghe tiếng Isabelle thì
thầm với Jace, và rồi Clary đang kéo
chốt xuống, cô cảm nhận thấy bàn tay
Jace đặt lên tay cô, cho cô thêm sức lực
đẩy mở cánh cửa nặng nề.

Không khí ban đêm ùa vào, khiến ánh


nến có phần lay động. Không khí đượm
mùi thành phố: mùi muối và khói bụi,
mùi bê tông và rác rưởi đang nguội đi,
và ẩn dưới những mùi quen thuộc đó còn
thoang thoảng mùi đồng, giống như mùi
đồng xu mới toanh.

Lúc đầu Clary cứ tưởng ngoài hiên


không có người. Sau đó cô chớp mắt,
thấy Raphael đứng đó, những lọn tóc
xoăn hỗn độn vì gió đêm, chiếc áo sơ mi
trắng mở cúc để lộ vết sẹo nơi hõm cổ.
Gã đang bế một ai đó trên tay. Clary chỉ
thấy được thế trong lúc chết trân nhìn gã
ta, một thi thể. Một ai đó đã hoàn toàn
lìa bỏ sự sống, chân tay lủng lẳng như
những sợi dây thừng mềm oặt, đầu ngửa
ra sau để lộ cần cổ bị xé toạc. Cô thấy
bàn tay Jace nắm chặt lấy tay cô như
gọng kìm, và chỉ khi đó cô mới nhìn kỹ
hơn để rồi nhận ra chiếc áo khoác nhung
đỏ quen thuộc nhưng cổ tay áo đã rách
tung, chiếc áo phông xanh bên dưới lốm
đốm máu. Cô hét lên.

Nhưng tiếng hét không thành tiếng.


Clary thấy đầu gối không còn lực chống
đỡ cả thân mình và cô sẽ trượt ngã xuống
đất nếu không có Jace giữ. “Đừng nhìn,”
anh thì thầm bên tai cô. “Vì Chúa, đừng
nhìn.” Nhưng cô không thể không nhìn
vào mái tóc nâu bết máu của Simon, cái
cổ họng rách bươm, vết cắn trên cổ tay
đang lủng lẳng. Những đốm đen nhảy
múa trước mắt cô khi cô cố hít thở.

Chính Isabelle là người đã giật lấy


một giá nến trống ở bên cửa và nhắm
thẳng vào người Raphael như thể đó là
một thanh giáo ba chia.

“Anh đã làm gì Simon?” Trong chốc


lát, giọng cô nàng nghe rõ ràng và đầy
quyền uy, hệt như bà mẹ.

“El no es muerto[1],” Raphael nói,


giọng ngang phè, không biểu lộ cảm xúc,
rồi đặt Simon nằm dưới đất gần sát chân
Clary, với sự nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên.
Cô quên mất gã ta mạnh mẽ thế nào - gã
sở hữu thứ sức mạnh phi thường của loài
ma cà rồng dù thân hình lại mảnh khảnh.

[1] Tiếng Tây Ban Nha: Cậu ta chưa chết. (ND)

Dưới ánh nến lung linh chiếu qua


khung cửa, Clary có thể thấy vạt trước áo
Simon toàn máu là máu.

“Anh nói…” cô dợm lời.


“Cậu ta chưa chết,” Jace lên tiếng,
giữ cô chặt hơn. “Cậu ta không chết.”

Cô vùng người lao khỏi vòng tay Jace


rồi quỳ xuống nền bê tông. Cô không thấy
ghê sợ gì khi chạm vào làn da dính máu
của Simon khi đặt tay dưới đầu cậu, kéo
cậu dựa vào lòng mình. Cô chỉ thấy lại
nỗi kinh hoàng của hồi năm tuổi đã làm
gãy chiếc đèn Liberty vô giá của mẹ.
Không có gì, một giọng nói vang lên
trong đầu cô, có thể hàn gắn những
mảnh vỡ này.

“Simon à,” cô thì thào, chạm vào mặt


cậu bạn. Chiếc kính đã biến đâu mất.
“Simon ơi, mình đây.”

“Thằng bé không nghe thấy cô nói gì


đâu,” Raphael nói. “Nó đang hấp hối.”

Đầu cô ngửng phắt lên. “Nhưng anh


nói…”

“Tôi nói là cậu ta chưa chết,”


Raphael đáp. “Nhưng chỉ trong vài phút
nữa - có lẽ là mười phút chăng - trái tim
sẽ đập chậm lại và dừng hẳn. Giờ cậu ta
đã không thể nghe hay nhìn thấy gì nữa
rồi.”

Tay cô vô thức ôm chặt lấy Simon.


“Chúng ta phải đưa cậu ấy tới bệnh viện
- hoặc gọi cho Magnus.”

“Họ không thể làm gì cho cậu ta đâu,”


Raphael nói. “Cô không hiểu rồi.”

“Không,” Jace nói, giọng mềm như


lụa nhưng mang âm điệu sắc nhọn như
đầu kim. “Bọn tôi không hiểu thật. Nhưng
có lẽ anh thì phải giải thích đấy. Vì nếu
không tôi sẽ nghĩ chính anh là kẻ hút máu
đểu cáng, và chính tôi sẽ móc tim anh ra.
Giống như tôi nên làm vào lần cuối
chúng ta chạm trán.”

Raphael cười nhạt. “Cậu đã thề không


làm hại tôi rồi mà Thợ Săn Bóng Tối.
Cậu quên rồi sao?”

“Thật ra thì tôi chưa thề xong,” Jace


nhắc nhở.

“Còn tôi thì chưa thề thốt gì với anh


cả,” Isabelle giơ giá nến lên.

Raphael lờ tít cô nàng đi. Gã ta vẫn


nhìn xoáy vào Jace. “Tôi nhớ cái đêm
cậu đột nhập vào khách sạn Dumort tìm
bạn. Đó là lý do tôi mang cậu ta tới đây”
- gã chỉ về phía Simon - “khi tôi thấy cậu
ta trong khách sạn, thay vì để những kẻ
khác hút cạn máu cậu ta. Cậu thấy đấy,
cậu ta đột nhập vào, không xin phép ai,
và vì thế bọn tôi làm vậy cũng chính
đáng. Nhưng tôi để cậu ta sống, vì biết
cậu ta là bạn cậu. Tôi không thích thú
gây hấn với Nephilim.”

“Cậu ấy đột nhập à?” Clary không


dám tin. “Simon không bao giờ làm điều
gì ngu ngốc điên khùng như thế cả.”

“Nhưng cậu ta đã làm rồi đấy,”


Raphael nói, với một thoáng cười nhạt,
“vì cậu ta sợ rằng mình sẽ trở thành một
trong số chúng tôi, và muốn biết có thể
đảo ngược quá trình đó hay không. Cô
nên nhớ khi cậu ta trong lốt chuột, và khi
cô tới đón cậu ta từ chỗ chúng tôi, cậu ta
đã cắn tôi.”
“Một hành động dũng cảm,” Jace nói.
“Tôi nhiệt liệt hoan nghênh.”

“Có lẽ vậy,” Raphael nói. “Nhưng dù


sao, cậu ta đã uống chút máu của tôi rồi.
Cậu cũng thừa biết cách chúng tôi trao
sức mạnh của ma cà rồng cho những kẻ
khác như thế nào. Qua máu.”

Qua máu. Clary nhớ Simon đã bật dậy


khi xem bộ phim ma cà rồng trên ti vi,
nhăn mặt trước ánh nắng mặt trời tại
Công viên McCarren. “Cậu ấy nghĩ mình
đang biến thành một trong các anh,” cô
nói. “Cậu ấy muốn tới khách sạn để kiểm
chứng.”
“Đúng.” Raphael nói. “Đáng ra hiệu
lực máu của tôi sẽ dần biến mất nếu cậu
ta không làm gì. Nhưng giờ…” Gã ta chỉ
vào thân xác èo uột của Simon đầy ngụ ý.

“Giờ thì sao?” Isabelle nghiêm giọng


hỏi. “Giờ cậu ấy sẽ chết sao?”

“Và sống lại. Tới lúc đó cậu ta sẽ là


ma cà rồng.”

Giá nến lại chúi về trước khi mắt


Isabelle mở lớn vì sốc. “Hả?”

Jace bắt lấy thứ vũ khí tự tạo đó trước


khi nó rơi xuống nền nhà. Đoạn anh quay
sang Raphael, mắt lạnh tanh. “Anh nói
dối.”

“Thì cứ chờ rồi xem,” Raphael bảo.


“Cậu ta sẽ chết và sống dậy như một Đứa
Con của Màn Đêm. Cũng chính vì thế mà
tôi tới đây. Giờ Simon là một trong số
thuộc hạ của tôi.” Giọng gã ta vô cảm,
không buồn cũng chẳng vui, nhưng Clary
đang thầm hỏi trong lòng rằng gã này
đang thầm hân hoan đến mức nào khi
may mắn có được một thế thương lượng
lợi hại thế này.
“Không thể làm gì ư? Không có cách
nào để đảo ngược à?” Isabelle hỏi, sự
hoảng loạn dâng lên trong giọng nói.
Clary lờ mờ nghĩ thật kỳ lạ làm sao khi
hai người này, Jace và Isabelle, hai con
người vốn không hề yêu quý Simon như
cô, lại là những người mở miệng ra nói
chuyện nãy giờ. Nhưng cũng có thể họ
đang nói thay cô chỉ vì cô không thể thốt
nên lời.

“Cô có thể cắt đầu cậu ta và nướng


tim cậu ta trong lửa, nhưng tôi không
nghĩ cô dám.”

“Không!” Clary ôm chặt Simon hơn.


“Tôi cấm các người làm hại cậu ấy.”

“Tôi không cần làm vậy,” Raphael


nói.

“Tôi không nói với anh,” Clary không


nhìn lên. “Đừng hòng nghĩ về chuyện đó,
Jace. Đừng nghĩ về chuyện đó.”

Im lặng. Cô có thể nghe thấy tiếng hít


thở căng thẳng của Isabelle, còn Raphael
thì tất nhiên chẳng hít thở gì hết. Jace
ngần ngừ một lúc trước khi nói, “Clary,
Simon muốn gì? Đây là điều chính cậu ta
muốn sao?”
Cô giật ngẩng đầu lên. Jace đang nhìn
xuống cô, chiếc giá nến ba ngạnh bằng
kim loại vẫn nắm chắc trong tay, thế là
đột nhiên cô nhìn thấy hình ảnh Jace đang
đè Simon xuống và đâm mạnh vào ngực
cậu, khiến máu phun lên như suối.
“Tránh xa chúng tôi ra!” đột nhiên cô
hét lên, lớn tiếng tới mức những người lạ
đang đi trên đại lộ trước thềm nhà thờ
đều quay lại nhìn, như thể bị giật mình.

Jace trắng bệch, trắng tới nỗi đôi mắt


mở to của anh trong giống như chiếc đĩa
vàng, không có tính người và kỳ lạ sao
đó. Anh nói, “Clary, em không nghĩ
là…”
Simon đột nhiên thở dốc, oằn mình
trong vòng tay Clary. Cô lại hét lên và
ôm lấy bạn, kéo bạn vào lòng. Mắt cậu ta
mở to, mơ hồ và sợ hãi. Cậu với tay lên.
Clary không biết Simon đang cố chạm
hay cào cấu mặt cô, vì không biết cô là
ai không.

“Mình đây,” cô nói, nhẹ nhàng đặt tay


bạn mình lên ngực, những ngón tay họ
đan vào nhau. “Simon, mình đây. Clary
đây.” Những ngón tay cô trượt đi; khi cô
nhìn xuống, cô thấy chúng ướt đầm máu
từ vạt áo và từ những giọt nước mắt lăn
dài trên má cô. “Simon, mình yêu cậu,”
cô nói.
Tay Simon siết chặt lấy tay cô. Cậu
thở hắt ra - gấp gáp, nghe khùng khục -
và sau đó chẳng hít vào nữa.

Mình yêu cậu. Mình yêu cậu. Mình


yêu cậu. Lời cuối nói với Simon dường
như vang vẳng mãi trong tai Clary khi cô
nhìn cậu bạn lạnh dần trong vòng tay.
Isabelle đột nhiên ngồi xuống bên cô, nói
gì đó vào tai cô, nhưng Clary không thể
nghe thấy. Âm thanh tiếng nước chảy, như
tiếng sóng đang xô tới, lấp đầy trong tai
cô. Clary nhìn Isabelle nhẹ nhàng tách
tay cô khỏi xác Simon, nhưng không thể.
Clary ngạc nhiên. Cô không nghĩ mình đã
ôm Simon chặt tới vậy.
Isabelle chịu thua, đứng dậy và giận
dữ quay sang Raphael. Cô nàng đang la
hét gì đó. Đến giữa chừng cao trào gào
thét đó, chế độ nghe Clary được khởi
động lại, giống như đài phát thanh đã dò
ra đúng kênh. “…và giờ chúng ta sẽ làm
gì đây?” Isabelle la hét.

“Chôn cậu ta đi,” Raphael đáp.

Cái giá nến lại vung lên trên tay Jace.


“Không buồn cười đâu nhé.”

“Chuyện này đâu phải để cười,” ma


cà rồng bình thản nói. “Chúng tôi được
sinh ra như thế. Chúng tôi bị hút máu, bị
chảy máu đầm đìa, bị chôn. Khi cậu ta tự
đào mộ chui lên, đấy là lúc một ma cà
rồng ra đời.”

Isabelle thốt lên tiếng kêu nho nhỏ tỏ


ý kinh tởm. “Tôi nghĩ mình không thể
làm được.”

“Một số không thể tự mình chui ra


được,” Raphael nói. “Nếu không có ai ở
đó giúp họ thoát, họ sẽ mãi như thế, bị
mắc kẹt dưới lòng đất như những con
chuột chũi vậy.”

Âm thanh vang lên như xé toạc cổ


họng Clary. Tiếng nức nở sụt sùi nghe
như tiếng hét. Cô nói, “Tôi sẽ không
chôn cậu ấy đâu.”
“Vậy thì cậu ta sẽ mãi như thế này,”
Raphael nói không thương tiếc. “Chết mà
cũng chẳng phải chết. Chẳng bao giờ
thức dậy được.”

Họ đang nhìn chằm chằm vào cô.


Isabelle và Jace như đang nín thở, chờ
đợi câu trả lời từ cô. Raphael có vẻ
không thèm để ý, nếu không muốn nói là
chán ốm.

“Anh không vào được Học Viện vì


anh không thể, đúng không nhỉ?” Clary
nói. “Vì đây là đất thánh còn anh là thứ
bị nguyền rủa.”
“Không hẳn…” Jace mở miệng, nhưng
Raphael phẩy tay cắt ngang lời anh.

“Tôi phải bảo cô thế này,” ma cà rồng


nói, “rằng không còn nhiều thời gian đâu.
Chúng ta càng dùng dằng không chịu
chôn cậu ta, cậu ta càng khó tự mình chui
ra khỏi lòng đất đấy.”

Clary nhìn xuống Simon. Nếu không


có vết sẹo dài trên da, cô sẽ nghĩ rằng
bạn mình đang bình yên chìm trong giấc
ngủ. “Chúng ta có thể chôn cậu ấy,” cô
nói. “Nhưng tôi muốn đưa cậu ấy tới
nghĩa trang dành cho người Do Thái. Và
tôi muốn ở đó khi cậu ấy thức dậy.”
Mắt Raphael sáng lên. “Sẽ không đẹp
mắt lắm đâu.”

“Chẳng có gì còn đẹp mắt bao giờ.”


Cô nghiến hàm. “Chúng ta phải làm thôi.
Chỉ vài giờ nữa là bình minh lên rồi.”

10. Một nơi yên ổn riêng tư

Nghĩa trang nằm ngoại ô hạt


Queens, nơi những toàn nhà chung cư
nhường chỗ cho những căn nhà cổ mang
phong cách Victoria sơn màu bánh gừng:
hồng, trắng và xanh da trời. Những con
đường trải dài rộng rãi và gần như vắng
tanh, còn đại lộ dẫn tới nghĩa trang chỉ
được thắp sáng bởi một ngọn đèn đường
duy nhất. Chỉ mất chút ít thời gian với
những thanh stele là họ đã phá được
khóa cổng, và thêm lúc nữa để tìm ra chỗ
kín đáo cho Raphael đào xới. Huyệt mộ
nằm trên một đỉnh đồi thấp, với những
hàng cây rậm rạp phủ kín che chắn họ
khỏi ánh mắt tò mò của những người đi
đường. Clary, Jace và Isabelle được bảo
vệ nhờ phép ẩn thân, nhưng họ không có
cách nào giấu Raphael hay xác Simon, vì
thế rặng cây là một vỏ bọc tuyệt vời.

©DTV: http://www.dtv-ebook.com
Những sườn đồi không hướng ra mặt
đường lổn nhổn bia mộ, rất nhiều trong
số đó có khắc hình Ngôi Sao David[1]
bên trên. Dưới ánh trăng những tấm bia
đó óng một màu trắng bàng bạc và khiến
chúng trơn láng như sữa. Xa hơn một
chút là hồ nước lăn tăn bàng bạc. Một
nơi khá đẹp, Clary nghĩ. Đây là nơi vào
ban ngày, bạn có thể tới thăm một ai đó,
để ngồi một lúc và suy ngẫm về cuộc đời
xem cuộc đời có ý nghĩa gì với bạn.
Nhưng đây không phải một nơi hay ho để
lén lút lui tới trong đêm, dưới sự che phủ
của bóng cây, để chôn cất một người bạn
bên dưới ngôi mộ đất nông choẹt, không
hề có quan tài hay người đưa tiễn.
[1] Ngôi sao David: Y Ngôi sao sáu cánh, là
biểu tượng cơ bản để nhận biết một người theo đạo
Do Thái. (ND)

“Cậu ấy có phải chịu đau đớn gì


không?” cô hỏi Raphael.

Gã ta ngừng tay đào nhìn lên, dựa vào


thân xẻng như một người đào mộ trong
Hamlet. “Sao cơ?”

“Simon. Cậu ấy có phải chịu đau đớn


gì không? Các ma cà rồng có làm cậu ấy
đau không?”

“Không. Chết vì bị hút máu cũng


không tệ lắm,” Raphael êm ái trả lời.
“Vết cắn làm cô tê liệt. Dễ chịu vô cùng,
giống như cô chìm dần vào giấc ngủ ấy.”

Một cơn choáng váng tràn qua Clary,


và trong một lúc cô nghĩ mình sẽ ngất.

“Clary.” Giọng Jace gọi giật cô khỏi


cơn mê hoặc. “Nào. Em không cần phải
nhìn nó đâu.”

Anh giơ tay cho cô. Nhìn qua vai anh,


cô thấy Isabelle đang đứng với chiếc roi
trên tay. Họ cuốn thi thể Simon trong
chăn, đặt dưới chân Isabelle, và vì thế
trông cô nàng như đang đứng canh xác.
Không phải nó, Clary cực lực nhắc nhở
mình. Mà là cậu ấy. Simon.
“Em muốn ở đây khi cậu ấy thức dậy.”

“Anh biết. Chúng ta sẽ quay lại ngay


thôi mà.” Khi cô không nhúc nhích, Jace
nắm lấy cánh tay không còn sức lực của
cô mà lôi tuột cô khỏi trảng trống, xuống
sườn đồi. Ở đó có những tảng đá, ngay
trên những hàng bia mộ đầu tiên; anh
ngồi xuống một tảng đá và kéo khóa áo.
Ngoài này lạnh thật. Lần đầu tiên trong
tiết trời mùa này, Clary có thể trông thấy
làn hơi của mình khi thở ra.

Cô ngồi trên tảng đá bên cạnh Jace và


nhìn xuống mặt hồ. Cô có thể nghe thấy
tiếng xẻng đào đất đều đều vang lên theo
nhịp khi xẻng của Raphael chạm đất rời
lớp đất hắt lên. Raphael không phải
người; gã làm rất nhanh. Sẽ không mất
nhiều thời gian để đào xong huyệt. Mà
Simon cũng không to con lắm; huyệt cũng
chẳng cần sâu đến thế.

Clary bỗng thấy dạ dày quặn lại. Cô


gập người, tay ôm bụng. “Em thấy muốn
ói.”

“Anh biết. Vì thế anh mới đưa em ra


đây. Trông em như sắp nôn xuống chân
Raphael.”

Cô rên khe khẽ.


“Biết đâu như thế thì hắn hết cười
khẩy,” Jace tư lự. “Cũng đáng để thử ấy
nhỉ.”

“Im đi.” Cơn đau đã nhẹ bớt. Cô


ngẩng cổ, nhắm nhìn mặt trăng như một
chiếc đĩa bạc bóng bẩy bị mẻ trôi bồng
bềnh giữa biển sao. “Đây là lỗi của em.”

“Không phải lỗi của em đâu.”

“Anh nói đúng. Đây là lỗi của chúng


ta.”

Jace quay về phía cô, vẻ bực bội hằn


lên bờ vai. “Sao em nghĩ vậy?”
Cô im lặng nhìn anh một đỗi. Anh cần
cắt tóc rồi. Tóc anh giờ đã xoăn giống
kiểu xoăn của dây leo khi đã quá dài,
thành từng lọn cuộn trong lọn, mang màu
trắng bạc dưới ánh trăng. Những vết sẹo
trên mặt và cổ anh trông như thể được
khắc sâu với màu mực ánh đồng. Anh
quá đẹp, cô buồn bã nghĩ, đẹp và không
có một nét nào ở anh, thậm chí là một
biểu cảm, một đoạn xương gò má, xương
quai hàm, hay bờ môi giống cô hay mẹ
cả. Thậm chí Valentine cũng chẳng giống.

“Gì nào?” anh nói. “Sao em lại nhìn


anh như vậy?”

Cô muốn lao vào vòng tay anh và


khóc nức nở, nhưng cùng lúc cũng muốn
nện nắm đấm vào anh. Nhưng cuối cùng,
cô chỉ nói, “Nếu không có chuyện ở
Triều Đình, chắc chắn Simon vẫn còn
sống.”

Jace cúi xuống và giật mạnh một nắm


cỏ khỏi mặt đất. Đất vẫn dính trên rễ cây.
Anh ném sang một bên. “Chúng ta buộc
phải làm những gì chúng ta đã làm. Có
phải là chúng ta hôn hít cho vui, hay làm
tổn thương cậu ta đâu. Hơn nữa,” anh nói
thêm, với một nụ cười như có như không,
“em là em gái anh.”

“Đừng nói như vậy…”


“Sao cơ, ‘em gái’?” Anh lắc đầu.
“Khi anh còn nhỏ, anh nhận ra nếu nhắc
đi nhắc lại điều gì đó nhiều lần, dần dà
nó sẽ không còn ý nghĩa gì hết. Anh đã
nằm trằn trọc hàng đêm nhắc đi nhắc lại
những từ - ‘đường’, ‘gương’, ‘thì thào’,
‘bóng tối’, ‘Em gái’”, anh nhẹ nhàng nói.
“Em là em gái anh.”

“Dù anh nói bao nhiêu lần đi nữa, sự


thật vẫn là sự thật.”

“Dù em không cho anh nói, thì sự thật


cũng vẫn là sự thật.

“Jace!” có ai đó đang gọi tên anh. Là


Alec, hơi hụt hơi vì chạy gấp. Một tay
anh ta đang cầm bịch ni lông đen. Đằng
sau anh là Magnus hiên ngang bước đi,
cao và gầy kỳ lạ và ngời ngời tỏa sáng
trong chiếc áo khoác da dài bay dập dờn
trong gió như cánh dơi. Alec dừng lại
trước mặt Jace và giơ cái túi ra. “Tớ
mang máu tới rồi,” anh ta nói. “Đúng như
cậu yêu cầu.”

Jace mở túi, nheo mắt nhìn rồi chun


mũi. “Tớ có được hỏi xem cậu lấy thứ
này ở đâu không?”

“Trong cửa hàng thịt tại Greenpoint,”


Magnus nói khi tới chỗ họ. “Họ bóp hết
máu để phục vụ cho dân Đạo hồi. Đây là
máu động vật.”
“Máu nào cũng là máu,” Jace nói rồi
đứng dậy. Anh nhìn xuống Clary và ngần
ngừ. “Khi Raphael nói chuyện này không
được đẹp mắt, hắn ta không nói dối đâu.
Em có thể ở lại. Anh sẽ bảo Isabelle tới
đợi cùng em.”

Cô ngước nhìn anh. Ánh trăng tỏa


bóng những tán cây lên khuôn mặt anh.
“Anh đã từng thấy một ma cà rồng sống
dậy chưa?”

“Không, nhưng anh…”

“Vậy anh cũng không thực sự biết,


đúng không?” Cô đứng dậy, và chiếc áo
khoác xanh của Isabelle rũ xuống vấn vít
quanh cô. “Em muốn ở đó. Em phải ở
đó.”

Cô chỉ nhìn thấy phần gương mặt anh


ẩn trong bóng tối, nhưng cô nghĩ anh gần
như… bị ấn tượng. “Vậy thì anh cũng
không thể thuyết phục em thêm được
nữa,” anh nói. “Đi thôi.”

Lúc họ quay trở lại, Jace và Clary đi


trước, còn Magnus và Alec đang tranh
cãi điều gì đó phía sau, Raphael đang
nện bằng một trảng đất chữ nhật lớn. Xác
Simon đã biến mất. Isabelle đang ngồi
trên mặt đất, sợi roi da cuốn quanh mắt
cá chân thành một chiếc vòng vàng. Cô
nàng đang run. “Chúa ơi, trời lạnh quá,”
Clary nói và cuốn chặt chiếc áo khoác
sát vào mình. Ít nhất thì chất liệu nhung
cũng cho cô chút ấm áp. Cô cố quên
chuyện áo dính máu Simon đi. “Như kiểu
chỉ qua một đêm mà trời đã chuyển sang
đông ấy.”

“Hãy mừng vì chưa vào đông đi,”


Raphael nói, dựa chiếc xẻng vào gốc cây
gần đó. “Mặt đất đóng băng cứng như
thép vào mùa đông, đôi khi còn tới mức
không thể đào xới nổi ấy chứ. Lúc đó
những con non sẽ phải nằm đợi hàng
tháng trời, chết đói chết khát dưới lòng
đất, trước khi được tái sinh.”
“Anh gọi họ là thế à? Những con non
sao?” Clary hỏi. Từ đó có gì đó không
đúng, hơi quá thân thiện. Nó làm cô nghĩ
tới lũ vịt con.

“Ừ,” Raphael nói. “Có nghĩa là ma cà


rồng chưa sinh hoặc mới sinh.” Khi đấy
gã mới trông thấy Magnus, trong tích tắc
lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi gã cẩn thận
xóa đi biểu cảm. “Chào Đại Pháp Sư,”
gã ta nói. “Tôi không nghĩ ngài sẽ tới
đây.”

“Tôi tò mò thôi,” Magnus nói, đôi mắt


mèo lóng lánh. “Tôi chưa từng chứng
kiến cảnh Đứa Con của Màn Đêm sống
dậy.”

Raphael liếc nhìn Jace, lúc này đang


tựa mình vào thân cây. “Cậu có những
người bạn danh tiếng lừng lẫy đáng ngạc
nhiên đó. Thợ Săn Bóng Tối ạ.”

“Anh lại nói về mình tiếp đấy hả?”


Jace hỏi. Anh phủi phủi lớp đất cứng
bám trên mũi giày. “Hơi khoe khoang rồi
đấy.”

“Có lẽ anh ta định nói tới tớ,” Alec


nói. Mọi người ngạc nhiên nhìn anh ta.
Alec ít khi nói đùa. Sau đó anh ta cười
lỏn lẻn. “Xin lỗi,” anh ta nói. “Căng
thẳng ấy mà.”
“Không cần phải thế,” Magnus nói,
vươn tay chạm vào Alec. Alec vội vã
tránh ra, thế là cánh tay vươn ra của
Magnus rơi thõng xuống bên hông.

“Giờ chúng ta phải làm gì nhỉ?” Clary


hỏi, và ôm người giữ ấm. Cái lạnh
dường như đang len lỏi vào từng ngóc
ngách trong con người cô. Đối với một
tối hè muộn, thì thời tiết này quả là quá
lạnh.

Raphael nhận thấy biểu hiện của cô


liền cười khẽ. “Đợt trỗi dậy nào trời
cũng lạnh vậy,” gã nói. “Con non rút
năng lượng từ những tạo vật sống xung
quanh, thu lấy năng lượng từ họ để ngoi
dậy.”

Clary phẫn nộ quắc mắt nhìn gã. “Có


vẻ anh không lạnh.”

“Tôi không còn sống.” Gã ta lùi ra


sau vài bước khỏi ngôi mộ - Clary cố
nghĩ đấy là một ngôi mộ, vì nó là một
ngôi mộ thực sự cơ mà - và ra hiệu cho
những người khác làm theo. “Chừa chỗ
ra nào,” gã nói. “Simon sẽ không thể
ngoi dậy nổi khi mọi người hò nhau đè
lên đầu cậu ta đâu.”

Họ vội vã lùi lại. Clary thấy Isabelle


giật khuỷu tay cô nên quay sang và thấy
đôi môi cô bạn đang trắng bệch. “Có vấn
đề gì à?”

“Mọi thứ đều có vấn đề,” Isabelle


nói. “Clary, có lẽ chúng ta nên để cậu ấy
đi…”

“Ý cậu là để Simon chết,” Clary giật


tay lại. “Tất nhiên là cậu nghĩ thế rồi.
Cậu nghĩ ai không giống các cậu tốt nhất
là nên chết hết đi chứ gì.”

Mặt Isabelle trông đau khổ thống


thiết. “Đó không phải…”

Không gian dấy lên một thứ âm thanh


lạ lùng, một thứ âm thanh Clary chưa bao
giờ nghe thấy - một chuỗi tiếng động
thình thịch theo nhịp điệu vọng lên từ sâu
trong lòng đất, nghe như nhịp tim của đất
mẹ đột ngột vang lên rõ ràng vậy.

Chuyện gì đây? Clary đang nghĩ thì


thấy mặt đất dưới chân rung chuyển rồi
nhô lên. Cô ngã khuỵu xuống. Đất mộ
rùng mình như mặt biển trong bão.
Những cơn sóng đất dập dờn trên mặt
mộ. Đột nhiên, đất nứt tung ra, những bụi
đất bay tung tóe. Một ụ đất nhỏ, giống
như tổ kiến, tự trồi lên. Ở giữa ụ đất là
một bàn tay, những ngón tay xòe căng,
cào cào trên mặt đất.
“Simon!” Clary cố lao tới, nhưng
Raphael kéo ngược cô lại.

“Thả tôi ra!” Cô cố vùng vẫy thoát ra,


nhưng bàn tay Raphael như gọng kìm
thép. “Anh không thấy Simon cần chúng
ta giúp ư?”

“Cậu ta phải tự mình làm được,”


Raphael nói, nhưng không hề lỏng tay đi
chút nào. “Tốt hơn là phải thế.”

“Anh muốn thế! Nhưng tôi không


muốn thế!” Cô giật tay ra và nhào về nấm
mộ, ngay khi nhúm đất trồi lên, hất cô
ngã nhào xuống đất. Một bóng người
còng lưng cố chui ra khỏi ngôi mộ đào
vội, những ngón tay như những móng
vuốt bẩn thỉu đâm sâu vào mặt đất. Hai
cánh tay trần lốm đốm những vệt đen là
máu và đất. Nó tự mình chui ra khỏi mặt
đất, bò toài vài mét rồi đổ sụp xuống.

“Simon,” cô thì thào. Vì tất nhiên đó


là Simon, Simon, chứ không phải một nó
nào hết. Cô loạng choạng đứng dậy và
chạy về phía cậu bạn, đôi giày thể thao
lún sâu trong nền đất nện.

“Clary!” Jace hét. “Em đang làm gì


thế?”

Cô loạng choạng chạy tới, trật chân


do đất lún. Cô quỳ sụp xuống bên Simon,
người đang nằm im như chết. Tóc cậu ấy
bẩn thỉu và bết bát đất, kính đã biến mất,
chiếc áo phông rách toạc, để lộ làn da
dính máu. “Simon,” cô nói, và chạm lên
vai cậu. “Simon, cậu có…”

Qua đầu ngón tay, Clary cảm nhận


được những cơ bắp trên người Simon
đang căng ra, còn lớp da thì cứng như
bọc đồng.

“…ổn không?” cô bật ra hết câu.

Simon quay đầu, và cô thấy đôi mắt


bạn mình. Chúng trống rỗng, vô hồn. Với
tiếng hét ghê rợn cậu bật dậy, lao xổ vào
cô, uyển chuyển như rắn đang mổ tới.
Cậu đâm thẳng vào cô, làm cô ngã ngửa
ra sau. “Simon!” cô hét gọi, nhưng hình
như cậu không nghe thấy. Mặt cậu méo
mó, không nhận diện được khi cậu chờn
vờn trên cô, môi cong lên, và cô thấy
những chiếc răng nanh sắc nhọn, răng hút
máu, lóe lên dưới ánh trăng như những
cây kim xương trắng. Đột nhiên phát
hoảng, cô cố đá Simon ra, nhưng cậu bạn
thân nắm lấy vai cô và đè cô nằm im trên
đất. Tay cậu dính máu, móng tay gãy dập,
nhưng cậu mạnh khó tưởng, thậm chí
mạnh hơn một Thợ Săn Bóng Tối như cô.
Các xương vai Clary dồn vào nhau đau
điếng khi cậu cúi xuống…

Và bị ném văng đi như thể Simon là


một viên sỏi. Clary bật dậy, thở hổn hển
và nhận ra cái nhìn tàn nhẫn của
Raphael. “Tôi đã bảo cô tránh xa cậu ta
ra,” gã nói và quỳ xuống chỗ Simon, vừa
rớt xuống cách đó một quãng ngắn, đang
co quắp, vặn vẹo trên mặt đất.

Clary hít lấy hít để, nghe cứ như


những tiếng nấc nghẹn ngào. “Cậu ấy
không nhận ra tôi.”

“Nhận ra. Nhưng không quan tâm


thôi.” Raphael ngoái lại nhìn Jace. “Cậu
ta đang chết đói rồi đây này. Cậu ta cần
máu.”

Jace, nãy giờ đang đứng im, mặt trắng


bệch bên mép huyệt, vội bước tới và im
lặng giơ cái túi ni lông ra, như mời gọi.
Raphael giật lấy và xé mở. Vài túi nhựa
đựng thứ chất lỏng màu đỏ rơi ra. Gã
nắm lấy, lầm bà lầm bầm gì đó rồi dùng
những móng tay sắc nhọn xé toạc ra, làm
máu bắn lên mặt trước chiếc áo sơ mi
trắng vốn đã bê bết đất.

Simon như thể ngửi thấy mùi máu,


cong người cố ngồi dậy và rên rỉ nghe
thật đáng thương. Cậu vẫn đang lăn lộn
trên đất; bàn tay trụi lủi móng cào đất,
mắt đảo tròn chỉ thấy lòng trắng. Raphael
giơ túi máu ra, để một vài giọt máu đỏ
rơi xuống trên mặt Simon, tạo nên những
vệt đỏ trên làn da trắng của cậu. “Nào
uống đi,” gã ta nói, như lời nựng nịu.
“Uống đi, hỡi chú ma cà rồng nhỏ. Uống
đi nào.”

Và Simon, người ăn chay từ năm lên


mười, không uống sữa động vật không
được ăn cỏ, ngất xỉu khi nhìn thấy mũi
tiêm - chính Simon đó đang giật lấy túi
máu khỏi bàn tay xương xương của
Raphael và đưa lên miệng cắn. Cậu uống
ừng ực, ném cái túi rỗng sang bên rồi lại
rên; Raphael đã chuẩn bị xong túi máu
thứ hai, và nhét vào tay Simon. “Đừng
uống nhanh quá,” gã nhắc. “Uống nhiều
sẽ nôn ra đấy.” Simon, tất nhiên, chẳng
quan tâm; cậu đã tự mình mở toang túi
thứ hai mà ham hố nốc. Máu chảy thành
dòng qua khóe môi, xuống cổ và rơi lỏng
tỏng từng giọt từng giọt lên tay. Mắt cậu
nhắm nghiền.

Raphael quay sang nhìn Clary. Cô có


thể thấy Jace, cũng như những người
khác, đang chăm chú nhìn mình với cùng
một vẻ mặt kinh hoàng và ghê tởm. “Lần
sau,” Raphael bình tĩnh nói, “cậu ta sẽ
không ăn uống lộn xộn thế này nữa đâu.”

Lộn xộn. Clary quay người và loạng


choạng ra khỏi trảng trống, nghe Jace gọi
nhưng không thèm trả lời, mà cứ cắm cúi
chạy khi tới rặng cây. Cô chạy nửa
đường xuống đồi thì cơn đau ập tới. Cô
quỳ xuống, thở dốc, khi mọi thứ trong dạ
dày trào ngược lên như thác lũ. Nôn
xong, cô lê mình cách ra một quãng ngắn
và đổ sụp xuống đất. Cô biết có lẽ mình
đang ngồi lên nấm mồ của một ai đó,
nhưng cô không màng. Cô chôn khuôn
mặt nóng rực xuống nền đất mát lạnh và
nghĩ, lần đầu tiên trong đời, có lẽ chết
không phải là kém may mắn.

11. Khói và sắt

Phòng chăm sóc đặc biệt của Bệnh


viện Beth Israel luôn làm Clary nhớ tới
những bức hình Nam Cực: lạnh lẽo, xa
xôi hẻo lánh, và mọi thứ đều là trắng,
xám và xanh da trời nhạt. Những bức
tường trong phòng mẹ cô màu trắng,
những ống dẫn chạy nhì nhằng quanh đầu
và hàng loạt những thiết bị kêu đang bíp
bíp không dứt bao quanh giường mẹ cô
có màu xám, còn tấm chăn phủ lên ngang
ngực bà có màu xanh da trời nhàn nhạt.
Mặt bà trắng bệch. Thứ duy nhất có màu
sắc là mái tóc đỏ của bà, chói chang đối
lập với màu gối trắng như tuyết, giống
như một lá cờ rực rỡ tới phi lý tung bay
tại cực nam.

Clary tự hỏi sao chú Luke có thể trang


trải đủ cho căn phòng riêng này, chú lấy
tiền từ đâu và bằng cách nào. Cô nghĩ
mình có thể hỏi điều đó sau khi chú trở
về cùng thứ cà phê khó uống từ cái máy
cà phê tự động ở tầng ba. Cà phê từ máy
đấy trông như nhựa đường, vị cũng y
chang, nhưng có vẻ chú Luke lại nghiện
thứ đó mất rồi.

©DTV

Chân ghế sắt kêu rin rít trên sàn khi


Clary kéo ghế ra và chầm chậm ngồi
xuống, rồi vuốt thẳng thớm chiếc váy che
chân. Mỗi khi tới thăm mẹ trong viện cô
đều thấy lo lắng và mồm miệng khô khốc,
như thể cô sắp gặp rắc rối vậy. Có lẽ vì
cứ khi nào cô thấy gương mặt mẹ như thế
này, trơ trơ không có chút cảm xúc, là y
như rằng mẹ cô sắp sửa xả cho cô một
trận ra trò.

“Mẹ ơi,” cô nói. Cô vươn tay nắm lấy


bàn tay trái của bà; trên cổ tay vẫn còn
hằn vết tiêm, ở nơi Valentine đã cắm một
đầu ống vào. Da tay mẹ cô - vẫn luôn thô
ráp và nham nhám, dính sơn và nhựa
thông - như vỏ cây khô vậy. Clary đan
những ngón tay vào tay mẹ Jocelyn, mà
trong họng thấy nghẹn ứ. “Mẹ, con…”.
Cô húng hắng giọng. “Chú Luke nói mẹ
có thể nghe tiếng con. Con không biết có
thật hay không nữa. Nhưng mà, con đến
đây vì con cần nói chuyện với mẹ. Dù
mẹ không đáp lại cũng không sao.
Chuyện là thế này mẹ ạ…” Cô nuốt khan
và nhìn về phía cửa sổ, thấy một khoảng
trời hẹp phía trên bức tường gạch đối
diện bệnh viện. “Chuyện về Simon. Có
chuyện xảy ra với cậu ấy. Chuyện đó là
lỗi của con.”

Lúc này khi không cần nhìn vào mặt


mẹ, câu chuyện của Clary cứ thế tuôn
trào, tất tần tật: cô gặp Jace và các Thợ
Săn Bóng Tối khác thế nào, vụ tìm kiếm
chiếc Cốc Thánh diễn ra ra sao, chuyện
về sự phản bội của bác Hodge và trận
chiến ở điền trang Renwick, về lúc nhận
biết được Valentine là bố của cả cô lẫn
Jace. Cô kể cả những sự kiện gần đây
nữa: nửa đêm tới thăm Thành phố
Xương, Thanh kiếm Linh Hồn, sự hằn thù
của Điều Tra Viên với Jace và về người
phụ nữ tóc bạc. Và rồi cô nói với mẹ về
Triều Đình Seelie, về cái giá Nữ Hoàng
bắt cô phải trả, và chuyện xảy ra với
Simon sau đó. Cô thấy nước mắt đắng
chát nơi cổ họng, nhưng dù sao nói ra
cũng giúp cô nguôi ngoai đi ít nhiều, khi
chuyển gánh nặng của mình sang cho một
ai đó, thậm chí người đó - có lẽ - không
nghe được những gì cô nói.

“Vì thế, về cơ bản,” cô nói, “con đã


làm mọi thứ rối beng hết. Con nhớ mẹ
nói trưởng thành là khi con người bắt đầu
biết nhìn lại và ước gì mình có thể thay
đổi. Có lẽ giờ con đã trưởng thành rồi.
Chỉ là con - con…” Con nghĩ mẹ sẽ ở
bên con khi con trưởng thành cơ. Cô
nuốt nghẹn nước mắt vào trong khi có ai
đó đằng sau húng hắng giọng.

Clary quay phắt lại và thấy chú Luke


đang đứng tại ngưỡng cửa, với chiếc cốc
nhựa trên tay. Dưới ánh đèn huỳnh quang
của bệnh viện, cô nhận ra chú mệt mỏi
đến thế nào. Tóc chú đã có sợi bạc,
chiếc áo sơ mi vải nỉ ca rô màu xanh
nhàu nhĩ.

“Chú đứng đó từ khi nào vậy?”

“Không lâu lắm,” chú đáp. “Chú


mang cà phê cho cháu này.” Chú giơ ra
nhưng cô không nhận.
“Cháu ghét thứ này. Nó có vị như
chân ấy.”

Thế là chú mỉm cười. “Sao cháu biết


chân có vị ra sao?”

“Cháu chỉ biết thế thôi.” Cô nhoài


người và hôn lên đôi má lạnh lẽo của
Jocelyn trước khi đứng dậy. “Con chào
mẹ.”

Chiếc xe bán tải nhỏ của chú Luke


đậu ở bãi đậu xe lát bê tông bên dưới
bệnh viện. Mãi lúc ra tới đường cao tốc
FDR chú mới nói chuyện.
“Chú nghe thấy điều cháu nói lúc ở
bệnh viện.”

“Cháu nghĩ chú đã nghe trộm mà.” Cô


nói không chút giận dỗi. Trong những
chuyện cô đã kể với mẹ chẳng có gì mà
chú Luke lại không nên biết.

“Chuyện xảy tới với Simon không


phải lỗi của cháu.”

Cô đã nghe thấy những lời này, nhưng


chúng dường như cứ nảy ra khỏi tai cô
như thể xung quanh cô được bao quanh
bởi một bức tường vô hình. Giống bức
tường bác Hodge đã xây xung quanh cô
khi bác phản bội họ vì Valentine, nhưng
lần này cô không thể nghe thấy gì qua
bức tường ấy, cũng không thể cảm thấy gì
cả. Cô tê dại như thể bị nhốt trong một
tảng băng.

“Cháu nghe chú nói gì không, Clary?”

“Cháu cảm ơn chú, nhưng tất nhiên đó


là lỗi của cháu. Mọi chuyện xảy ra với
Simon đều là lỗi của cháu.”

“Vì cậu ta giận cháu mà quay trở lại


khách sạn ấy à? Cậu ta không quay lại
khách sạn vì giận cháu, Clary ạ. Chú đã
nghe về những chuyện tương tự rồi.
Người ta gọi chúng là ‘những đứa trẻ
hướng tối’, tức là bị biến đổi nửa vời.
Có thể cậu ta bị lôi kéo tới khách sạn
bằng một lực hấp dẫn không thể cưỡng
lại được.”

“Vì cậu ấy có máu của Raphael trong


người. Nhưng nếu không do cháu thì
chuyện đó cũng đâu có xảy ra. Nếu cháu
không mang cậu ấy tới bữa tiệc đó…”

“Cháu nghĩ ở đó an toàn. Dù thằng bé


ở trong tình huống nguy hiểm nào thì
cũng có cháu ở bên. Cháu đừng hành hạ
bản thân mình nữa,” chú Luke nói, và
quặt về hướng cầu Brooklyn. Bên dưới
cầu, dòng sông xám bạc vẫn lững lờ trôi.
“Vô ích thôi.”
Cô trượt người xuống thấp hơn, nắm
lấy ống tay chiếc áo len xanh. Tay áo đã
sờn và len làm má cô ngưa ngứa.

“Nghe này,” chú Luke nói tiếp.


“Trong bao nhiêu năm chú biết thằng bé
đó, chú thấy có một nơi nó luôn muốn có
mặt, và thằng bé sẽ dùng mọi cách để tới
đó và ở đó.”

“Đó là đâu ạ?”

“Bất cứ nơi nào có cháu,” chú Luke


nói. “Cháu có nhớ hồi cháu lên mười,
cháu tới trang trại, trèo lên cây rồi ngã
gãy tay không? Cháu có nhớ làm sao cậu
ta thuyết phục họ cho cậu ta lên xe cấp
cứu tới bệnh viện không? Thằng bé đấm
đá la hét cho tới khi họ đồng ý thì thôi.”

“Chú đã cười,” Clary nói khi hồi


tưởng lại, “còn mẹ cháu đánh vào vai
chú.”

“Chú không nhịn được. Mấy khi được


thấy một đứa trẻ mười tuổi mang quyết
tâm ngùn ngụt như lửa cháy thế chứ.
Thằng bé giống một con chó săn lắm.”

“Nếu như chó săn đeo kính và bị dị


ứng cỏ phấn hương.”

“Lòng trung thành đó là vô giá,” chú


Luke nói, nghiêm túc hơn.

“Cháu biết. Chú đừng làm cháu thấy


tồi tệ hơn chứ.”

“Clary, chú đang nói với cháu là tự


bản thân Simon quyết định đời mình.
Điều cháu đang tự trách bản thân là cháu
là cháu. Và chuyện đã qua không phải
lỗi của ai và cháu cũng chẳng thay đổi
được gì cả. Cháu đã nói sự thật với
Simon và chính cậu ta tự quyết định điều
cậu ta muốn làm. Mọi người đều có
quyền lựa chọn; không ai có thể tước
đoạt quyền đó của họ. Kể cả vì yêu.”

“Nhưng đấy đấy,” Clary nói. “Khi chú


yêu một người, chú không được lựa
chọn.” Cô nghĩ tới cách trái tim mình thắt
lại khi Isabelle gọi điện báo Jace mất
tích. Cô đã rời khỏi nhà không ngần ngừ
lấy một phút. “Tình yêu cướp mọi sự lựa
chọn của chú đi.”

“Còn hơn là không có lựa chọn nào.”


Chú Luke lái xe vào đường Flatbush.
Clary không trả lời mà chỉ buồn bã nhìn
ra ô cửa kính. Khu vực vừa qua khỏi cầu
không phải là nơi đẹp đẽ gì của
Brooklyn: hai bên đường đều là những
tòa nhà văn phòng xấu xí và các cửa
hàng sửa chữa ô tô. Thường thường cô
ghét quang cảnh này nhưng giờ nó hợp
với tâm trạng cô. “Vậy, cháu đã nghe tin
gì từ…?” chú Luke lên tiếng, rõ ràng
nhận ra đã tới lúc để chuyển đề tài.

“Simon? Vâng, có chứ ạ.”

“À thực ra, chú đang nói tới Jace.”

“À.” Jace đã gọi cho cô vài lần và để


lại tin nhắn. Cô không nghe máy hay gọi
lại. Cô chọn cách không nói chuyện với
anh như một hình phạt cho chuyện xảy ra
với Simon. Đó là cách tồi tệ nhất cô có
thể nghĩ ra để trừng phạt bản thân.
“Không ạ.”

Giọng chú Luke vẫn đều đều một cách


thận trọng. “Có lẽ cháu nên gọi đi. Chỉ
để biết cậu ấy có ổn không thôi. Có lẽ
cậu ta cũng đang không vui vẻ gì, nếu
tính tới…”

Clary nhúc nhích người trên ghế.


“Cháu nghĩ chú có thể hỏi thăm Magnus.
Cháu nghe nói chú đã nói chuyện với anh
ta về Valentine và chuyện chuyển đổi tính
năng của Thanh kiếm Linh Hồn. Cháu tin
chắc Magnus sẽ nói cho chú nghe Jace
có ổn không.”

“Magnus có thể giúp chú an lòng về


tình hình thể chất của Jace. Còn về tinh
thần thì…”
“Chú quên đi. Cháu không gọi cho
Jace đâu.” Clary nghe ra sự lạnh lùng
trong chính giọng nói của mình và ngay
bản thân cô còn thấy choáng. “Lúc này
cháu phải ở bên Simon. Có phải tinh thần
cậu ấy đang hân hoan phấn chấn gì đâu
cơ chứ.”

Chú Luke thở dài. “Nếu cậu ta có vấn


đề gì với tình trạng hiện giờ của mình, có
lẽ cậu ta nên…”

“Tất nhiên là cậu ấy có vấn đề chứ!”


Cô nhìn Luke với vẻ buộc tội, dù chú
đang tập trung vào việc lái xe mà không
để ý. “Hơn ai hết chú phải hiểu như thế
nào khi…”
“Thức dậy và biến thành một con quái
vật ấy à?” chú Luke nghe ra không có vẻ
gì cay đắng, mà chỉ mệt mỏi. “Cháu nói
đúng, chú quá hiểu. Và nếu có khi nào
cậu ta muốn tâm sự với chú, chú sẵn
sàng bầu bạn cùng cậu ta. Thằng bé sẽ
vượt qua, kể cả khi bản thân nó nghĩ
mình không thể.”

Clary nhíu mày. Mặt trời đã ở đằng


sau, hắt nắng lên gương chiếu hậu như
thể mạ vàng. Cô lóa mắt vì ánh sáng đó.
“Không giống nhau đâu ạ,” cô nói. “Ít
nhất từ nhỏ tới lớn chú đều biết người
sói có thật. Còn trước khi Simon có thể
nói với ai đó cậu ta là ma cà rồng, cậu
ấy phải thuyết phục họ là ma cà rồng có
tồn tại đã.”

Hình như chú Luke định nói gì đó,


nhưng rồi lại thôi. “Chú nghĩ cháu nói
đúng.” Giờ họ đã tới đường
Williamsburg, đi hết nửa Đại lộ Kent
vắng vẻ, với những dãy nhà kho mọc lên
hai bên đường. “Nhưng cũng vậy thôi.
Chú có thứ này cho thằng bé. Ở trong hộc
đồ ấy. Phòng trường hợp…”

Clary mở hộc đồ và nhíu màu. Cô lấy


ra một tờ rơi gấp bìa sáng bóng, loại tờ
rơi người ta hay nhét trong các quầy
nhựa tại phòng chờ bệnh viện. “Làm Thế
Nào Để Thú Nhận Với Bố Mẹ Bạn”, cô
đọc lớn. “CHÚ LUKE. Đừng lố bịch như
vậy. Simon không phải là gay, cậu ấy là
ma cà rồng mà.”

“Chú biết, nhưng tờ rơi này giúp cháu


nói cho bố mẹ nghe những bí mật khó nói
nhất về bản thân mà bố mẹ thường lảng
tránh. Có thể cậu ta sẽ tìm ra cho mình
một lời lẽ thích hợp, hoặc chỉ nghe lấy
những lời khuyên chung chung…”

“Chú!” cô kêu lên đột ngột đến mức


chú Luke phải phanh xe kin kít lại. Họ
vừa mới tới ngay trước cửa nhà, mặt
sông Đông lấp lánh trong ánh chiều
chạng vạng ở bên trái, bầu trời vằn vện
bóng tối khói bụi. Và, một cái bóng còn
tối hơn đang ngồi bó gối trên hiên nhà
chú Luke.

Chú Luke nheo mắt. Chú từng bảo với


Clary, trong lốt sói, thị lực chú tốt vô
cùng; nhưng trong lốt người, chú cận thị
vẫn hoàn cận thị. “Có phải là…”

“Simon. Vâng ạ.” Nhìn qua là cô đã


nhận ra cậu bạn. “Cháu nên đi nói chuyện
với cậu ấy.”

“Ờ. À, chú sẽ đi công chuyện chút.


Chú phải đi lấy mấy thứ.”

“Thứ gì ạ?”
Chú vẫy cô đi. “Thức ăn ấy mà. Nửa
tiếng nữa chú về. Đừng ở ngoài làm gì.
Cứ vào trong nhà và khóa cửa lại.”

“Cháu biết mà.”

Cô quan sát khi chiếc xe bán tải tăng


tốc đi mất rồi mới quay vào nhà. Trống
ngực cô đánh liên hồi. Cô đã nói chuyện
qua điện thoại vài lần với Simon nhưng
chưa gặp lại cậu từ sau khi họ mang
Simon về nhà chú Luke trong tình trạng
máu me bê bết và bẩn thỉu vào lúc rạng
sáng của cái ngày đầy kinh khủng đó để
rửa ráy, trước khi đưa cậu về nhà. Cô
nghĩ nên đưa cậu tới Học Viện, nhưng tất
nhiên là không thể. Simon sẽ không bao
giờ được bước chân vào trong nhà thờ
Công Giáo hay giáo đường Do Thái nào
nữa.

Cô đã nhìn cậu bước lên cửa nhà, vai


nhô về phía trước như thể đang bước đi
trong cơn gió ngược. Khi ngọn đèn hiên
tự động bật sáng, cậu rúm người tránh đi,
cô biết vì cậu nghĩ đó là ánh mặt trời; thế
là Clary bắt đầu khóc, trong câm lặng, ở
ghế sau chiếc xe bán tải, nước mắt rơi
từng giọt xuống Ấn Ký màu đen kỳ lạ
trên cánh tay mình.

“Clary,” Jace đã thì thầm với cô, đã


vươn tay định nắm lấy tay cô, nhưng cô
tránh ra như Simon tránh ánh mặt trời.
Cô không thể chạm vào anh. Cô sẽ không
bao giờ chạm vào anh nữa. Đó là sự
trừng phạt dành cho cô, sự trả giá vì
những gì cô đã gây ra cho Simon.

Giờ, khi bước lên bậc tam cấp dẫn


lên hiên nhà chú Luke, miệng cô khô
khốc và cổ họng ứ nghẹn chỉ muốn khóc.
Cô tự nhủ không được khóc. Khóc chỉ
làm bạn mình thấy tồi tệ hơn thôi.

Cậu bạn ngồi trong góc tối mà quan


sát cô. Cô thấy mắt cậu sáng lên trong
bóng tối. Cô tự nhủ đã từng thấy điều
tương tự chưa; cô không nhớ ra. “Simon
hả?”
Cậu đứng dậy một cách duyên dáng
uyển chuyển khiến cô lạnh sống lưng. Có
một thứ mà Simon chưa bao giờ có
được, đó là sự uyển chuyển. Ở cậu còn
có gì khác nữa, một thứ rất khác…

“Xin lỗi nếu có làm cậu giật mình.”


Cậu cẩn trọng lên tiếng, gần như khách
sáo, như thể họ là hai người xa lạ.

“Không sao, chỉ là… Cậu ở đây lâu


chưa?”

“Không lâu lắm. Mình chỉ đi lại được


khi mặt trời lặn, nhớ chứ? Ngày hôm
qua, mình vô tình giơ tay ra ngoài cửa sổ
khoảng một phân thôi mà xém chút đã
thiêu trụi cả mấy ngón tay. May mà mình
lành nhanh.”

Cô lần tìm khóa, mở bật cửa ra. Ánh


sáng nhàn nhạt chiếu ra ngoài hiên. “Chú
Luke nói chúng ta nên vào trong.”

“Vì những thứ ghê tởm,” Simon nói và


lách người qua, “chúng tới trong bóng
tối.”

Phòng khách tràn ngập ánh sáng vàng


ấm áp. Clary đóng cửa lại và cài chắc
then cửa. Chiếc áo khoác xanh của
Isabelle vẫn treo trên mắc cửa. Cô định
mang đi giặt khô để xem họ có thể gột
vết máu khô đi không, nhưng cô chưa có
thời gian. Cô nhìn nó một lúc, cố trấn
tĩnh rồi mới quay sang nhìn Simon.

Cậu đang đứng giữa phòng, lúng túng


nhét tay đặt trong túi áo. Cậu mặc quần
bò và chiếc áo phông có dòng chữ I ♥
NEWYORK từng thuộc về bố cậu. Mọi
thứ nơi Simon vẫn quen thuộc với Clary,
thế nhưng trông cậu vẫn như một người
lạ. “Kính của cậu,” cô nói, mãi giờ mới
nhận ra vì sao lúc ở ngoài hiên cô cứ
thấy bạn mình khang khác. “Cậu không
đeo kính.”

“Cậu đã thấy ma cà rồng nào đeo kính


chưa?”
“Ờ thì chưa, nhưng…”

“Mình không cần kính nữa. Biến thành


ma cà rồng cho mình thị lực hoàn hảo.”
Cậu ngồi xuống ghế sô pha và Clary đến
ngồi cạnh, nhưng không quá gần. Ở
khoảng cách gần thế này cô có thể thấy
làn da cậu tái xanh thế nào, những đường
gân xanh nổi rõ dưới lớp da ra sao. Khi
không đeo kính, mắt Simon trông to và
đen hơn, hàng lông mi rợp trông như từng
nét bút mực đen phẩy xuống. “Tất nhiên
mình vẫn đeo kính khi ở trong nhà hoặc
không mẹ mình lo lắng chết mất. Mình
định nói với mẹ là mình sẽ đeo kính áp
tròng.”
“Cậu sẽ phải nói với mẹ cậu, chấm
hết,” Clary nói một cách đoan chắc hơn
cô thực sự cảm nhận. “Cậu không thể
giấu về… tình trạng của cậu mãi được.”

“Mình sẽ thử.” Cậu lùa tay qua mái


tóc đen, môi bặm lại. “Clary, mình sẽ
làm gì đây? Mẹ cứ mang thức ăn tới và
mình phải đổ ra ngoài cửa sổ - mình
không ra ngoài hai ngày nay, nhưng mình
không biết mình có thể giả bộ bị ốm thêm
bao lâu được nữa. Rốt cuộc rồi mẹ sẽ
đưa mình đi khám bệnh, và rồi sao nào?
Mình không có nhịp tim. Bác sĩ sẽ nói là
mình đã chết.”

“Hoặc đăng ký cậu thành một ca y học


thần kỳ,” Clary nói.

“Mình không đùa đâu.”

“Mình biết, mình chỉ đang cố…”

“Mình cứ nghĩ mãi tới máu,” Simon


nói. “Mơ về máu. Thức giấc cũng nghĩ
tới nó. Chẳng bao lâu nữa rồi mình sẽ
sáng tác ra một bài thơ lâm ly bi đát về
nó mất.”

“Cậu không còn mấy hũ máu Magnus


đưa sao? Cậu chưa uống hết, đúng
không?”
“Mình còn. Mình để chúng trong tủ
lạnh mini trong phòng. Nhưng chỉ còn ba
chai thôi.” Giọng cậu nhỏ đi vì căng
thẳng. “Nếu mình hết máu thì sao đây?”

“Không đâu. Bọn mình sẽ kiếm thêm


về cho cậu,” Clary nói, với sự tự tin
nhiều hơn điều cô cảm thấy. Cô nghĩ
mình có thể tới quán cung cấp máu cừu
thân thiện của Magnus, nhưng toàn bộ vụ
này làm cô ớn óc. “Nghe này, Simon, chú
Luke nghĩ cậu nên nói với mẹ cậu. Cậu
không thể giấu mãi được.”

“Mình sẽ thử.”

“Hãy nghĩ tới chú Luke,” cô tuyệt


vọng nói. “Cậu vẫn có thể sống một cuộc
sống bình thường mà.”

“Còn về chuyện chúng ta thì sao? Cậu


muốn có bạn trai ma cà rồng không?”
Cậu cười chua xót. “Vì mình đã nhìn thấy
rất nhiều cuộc đi chơi lãng mạn của
chúng ta trong tương lai rồi. Cậu, uống
piña colada mới ra lò. Mình, uống máu
mới ra lò.”

“Cậu cứ nghĩ như bị dị tật gì đó đi,”


Clary giục. “Cậu chỉ phải học cách sống
thích ứng với nó. Rất nhiều người làm
được.”

“Mình không nghĩ mình là người nữa.


Không còn là người nữa rồi.”

“Với mình, cậu vẫn là người,” cô nói.


“Với lại, người ta đánh giá hơi quá về
việc được làm người đấy.”

“Ít nhất, Jace không thể gọi mình là


người thường được nữa. Mà cậu cầm gì
thế?” cậu hỏi, để ý tới tập tờ rơi vẫn
được bó tròn lại trong tay trái cô.

“À, cái này hả?” cô giơ nó ra. “Làm


Thế Nào Để Thú Nhận Với Bố Mẹ Bạn.”

Cậu mở to mắt. “Cậu muốn nói gì với


mình hả?”
“Không phải cho mình. Cho cậu đấy.”
Cô đưa cho cậu bạn.

“Mình không phải không thú nhận với


mẹ đâu,” Simon nói. “Vốn mẹ đã nghĩ
mình là gay vì mình không thích thể thao
và chưa có cô bạn gái thực sự nào. Ít
nhất là chưa có cô nào mà mẹ biết ấy.”

“Nhưng cậu phải nói ra chuyện cậu là


ma cà rồng,” Clary chỉ ra. “Chú Luke
nghĩ cậu có thể, sử dụng một đoạn hội
thoại nào đó trong đây, nhưng dùng từ
‘bất tử’ thay cho…”

“Hiểu rồi, hiểu rồi.” Simon mở tập tờ


rơi ra. “Đây, giả sử cậu là mẹ mình nhé.”
Cậu hắng giọng. “Mẹ. Con có điều muốn
nói. Con bất tử rồi. Nào, con biết mẹ có
vài định kiến không hay về người bất tử.
Con biết mẹ không thấy vui khi biết con
trở thành kẻ bất tử. Nhưng con ở đây để
nói với mẹ rằng bất tử cũng giống như
con và mẹ thôi.” Simon dừng lại. “À ờ.
Có lẽ giống con hơi giống mẹ.”

“SIMON.”

“Được rồi, được rồi.” Cậu nói tiếp.


“Điều đầu tiên mẹ cần hiểu là con vẫn là
con của ngày xưa. Nhưng bất tử không
phải điều quan trọng nhất về con. Nó chỉ
là một phần của con người con. Điều thứ
hai mẹ cần biết là chuyện bất tử hay là
người bình thường không phải một lựa
chọn. Con sinh ra đã thế.” Simon nheo
nheo mắt liếc nhìn cô từ trang sách. “Xin
lỗi, tái sinh đã thế.”

Clary thở dài. “Cậu không cố thử.”

“Ít nhất mình có thể nói với mẹ là cậu


đã chôn mình trong nghĩa trang Do
Thái,” Simon nói và gập tờ rơi lại. “Có
lẽ mình nên bắt đầu từ từ. Nói chuyện
với chị mình trước.”

“Mình sẽ đi cùng nếu cậu muốn. Có lẽ


mình có thể khiến họ hiểu được.”
Simon ngước lên nhìn, ngạc nhiên, và
cô thấy những vết rạn trên bộ áo giáp của
sự hài hước trào phúng của cậu cùng nỗi
sợ hãi bên dưới. “Cậu sẽ làm thế ư?”

“Mình…” Clary đang định nói thì


tiếng bánh xe rít điếc tai vang lên đột
ngột và tiếng kính vỡ loảng xoảng xen
ngang. Cô nhảy dựng dậy và chạy vội ra
cửa sổ, Simon đứng cạnh. Cô kéo phăng
rèm nhìn ra ngoài.

Chiếc xe của chú Luke đã phi lên bãi


cỏ, động cơ nghiến gào rú, lốp cao su
cháy để lại những đường đen trên vỉa hè.
Một bên đèn pha sáng rực trong khi
chiếc kia bị vỡ và trên khung lưới sắt
dính vết ố đen gì đó - một thứ gì đó hơi
gù, trắng ởn và nằm bất động dưới hai
bánh trước. Dịch mật dâng lên cổ Clary.
Chú Luke cán phải ai đó à? Nhưng không
- cô vội vã chùi đi lớp màn ảo ảnh khỏi
tầm nhìn mình như thể lau vết bẩn khỏi
cửa sổ. Thứ nằm dưới bánh xe không
phải người. Nó mềm, trắng, gần giống ấu
trùng, và ngọ nguậy như sâu bị đóng đinh
vào ván.

Cửa xe bên tài xế mở tung và chú


Luke nhảy ra. Chú chẳng buồn để mắt tới
sinh vật dưới lốp xe mà lao qua bãi cỏ
tới hiên nhà. Nhìn theo chú, Clary thấy
có một người nằm cong queo trong
khoảng hiên tối om. Một người nhỏ con,
mái tóc bện, sáng màu.

“Đó là cô gái sói. Maia.” Simon kinh


ngạc. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Tớ không biết.” Clary vơ lấy thanh


stele đặt trên nóc giá sách. Họ lao xuống
những bậc tam cấp, tới nơi chú Luke
đang ngồi, tay đặt trên vai Maia, nâng cô
bé lên đặt nhẹ nhàng dựa vào hiên nhà.
Tới gần, Clary thấy áo trước cô nàng bị
xé toạc và từ vết thương trên vai, máu từ
từ chảy ra.

Simon đứng sựng lại. Clary, suýt đâm


vào bạn, há hốc miệng vì ngạc nhiên và
nhìn cậu một cách tức tối trước khi hiểu
ra chuyện. Máu. Cậu sợ nó, sợ phải nhìn
thấy nó.

“Con bé vẫn ổn,” chú Luke nói, khi


thấy đầu Maia nghiên sang bên và cô
nàng khẽ rên rỉ. Chú tát nhẹ vào má Maia
làm cô nàng mở choàng mắt. “Maia.
Maia, cháu nghe thấy chú nói không?”

Cô chớp chớp mắt rồi gật đầu, trông


hoang mang. “Chú Luke hả?” cô thì thào.
“Có chuyện gì thế?” Cô ta nhăn mặt. “Vai
cháu…”

“Thôi nào. Để chú bế cháu vào nhà.”


Chú Luke bế cô ta trên tay, và Clary nhớ
hồi trước, cô luôn thắc mắc sao một
người làm trong hiệu sách như chú lại có
sức khỏe phi thường tới vậy. Cô cứ
tưởng do chú phải bê các thùng đồ nặng
nhiều. Nhưng giờ cô đã biết nguyên nhân
do đâu. “Clary. Simon. Đi nào.”

Họ trở vào trong, nơi chú Luke đặt


Maia xuống chiếc ghế sô pha nhung xám
sờn. Chú bảo Simon đi lấy chăn còn
Clary vào bếp lấy khăn ướt. Khi Clary
trở lại, cô thấy Maia ngồi dựa vào gối,
cả người đỏ ửng và như lên cơn sốt. Cô
đang nói liến thoắng một cách lo lắng
với chú Luke, “Cháu đang đi trên bãi cỏ
thì - cháu đánh hơi thấy gì đó. Thứ gì đó
thối rữa, có mùi như rác ấy. Cháu quay
lại và nó lao vào cháu…”
“Cái gì lao vào cậu cơ?” Clary hỏi và
tay đưa cho chú Luke chiếc khăn.

Maia nhíu mày. “Tớ không nhìn ra.


Nó đánh ngã tớ và sau đó - tớ đã cố đẩy
nó ra, nhưng nó quá nhanh…”

“Chú thấy,” chú Luke đều đều nói.


“Chú đang lái xe lên nhà thì thấy cháu đi
trên bãi cỏ - và rồi chú thấy nó đi theo
cháu, ẩn trong bóng cháu. Chú cố hét
cảnh báo, nhưng cháu không nghe thấy.
Sau đó nó quật ngã cháu.”

“Cái gì đi theo bạn ấy cơ?” Clary


hỏi.

“Quỷ Drevak,” chú Luke nói, giọng


nghiêm trọng. “Chúng bị mù. Chúng theo
dấu con mồi nhờ mùi. Chú cho xe phi lên
bãi cỏ và chèn qua nó.”

Clary liếc qua cửa sổ về phía chiếc


xe tải. Cái thứ vặn vẹo dưới bánh xe đã
biến mất, không có gì phải ngạc nhiên -
quỷ luôn trở về chiều không gian của
chúng sau khi chết. “Sao nó lại tấn công
Maia?” Cô nói nhỏ hơn khi nghĩ ra:
“Chú có nghĩ thủ phạm là Valentine
không? Tìm kiếm máu người sói để hoàn
thành bùa chú cho hắn ấy? Lần trước hắn
đã bị phá ngang…”
“Chú không nghĩ vậy,” chú Luke đáp
khiến cô ngạc nhiên. “Quỷ Drevak không
hút máu và chúng không thể gây ra tình
trạng lộn xộn như các cháu thấy tại
Thành phố Câm Lặng được. Thường
chúng đảm nhiệm vai trò gián điệp hoặc
kẻ đưa tin. Chú nghĩ Maia vô tình đụng
phải nó thôi.” Chú cúi xuống nhìn Maia,
lúc này đang khe khẽ rên, mắt nhắm
nghiền. “Cháu xắn tay áo lên cho chú
xem vai nhé?”

Cô gái sói cắn môi và gật đầu, rồi


đưa tay xắn ống tay áo lên. Có một vết
rạch dài nơi vai. Máu đã đóng thành vảy
trên tay cô nàng. Clary hít sâu khi nhìn
thấy vết cắt nham nhở còn dính gì đó,
giống những cây kim đen mỏng ghê rợn
trồi ra khỏi da.

Maia nhìn xuống tay, sự kinh hoàng lồ


lộ trên nét mặt. “Chúng là gì thế ạ?”

“Quỷ Drevak không có răng, chúng có


những cái gai độc trong miệng,” chú
Luke nói. “Vài cái gai đã gãy kẹt trong
da cháu.”

Răng Maia bắt đầu lập cập đập vào


nhau. “Độc ạ? Cháu sẽ chết ạ?”

“Không nếu chúng ta xử lý sớm,” chú


Luke trấn an. “Nhưng chú sẽ phải lôi
chúng ra, và sẽ đau đấy. Cháu nghĩ mình
chịu nổi không?”

Maia méo xệch vì đau. Cô cố gật đầu.


“Chỉ cần chú… lôi chúng ra khỏi người
cháu.”

“Lôi gì ra?” Simon vừa hỏi vừa đi


vào phòng với chiếc chăn trên tay. Cậu
đánh rơi chăn khi thấy tay Maia, và vô
thức lùi một bước. “Cái gì thế kia?”

“Sợ máu hả, người thường?” Maia


nói, với nụ cười yếu ớt. Sau đó cô nàng
thở dốc. “Ôi, đau…”
“Chú biết,” chú Luke nói và nhẹ
nhàng cuốn khăn quanh cẳng tay. Chú rút
từ thắt lưng ra một con dao mảnh. Maia
nhìn con dao rồi nhắm chặt mắt lại.

“Cứ làm gì chú cần làm,” cô nàng lí


nhí. “Nhưng - cháu không muốn người
khác nhìn.”

“Chú hiểu.” Quay sang Clary và


Simon, chú Luke nói. “Cả hai, đi vào
bếp. Gọi cho Học Viện. Nói cho họ nghe
chuyện xảy ra và bảo họ cử người tới.
Họ không thể cử Tu Huynh đến được,
nên hay hơn cả là ai đó được đào tạo về
y khoa, hoặc một pháp sư.” Simon và
Clary trân trối nhìn chú, đứng tê liệt khi
thấy con dao và cái tay đang dần tím tái
của Maia. “Đi!” chú quát, và lần này họ
đi thật.

12. Ác mộng bủa vây

Simon quan sát Clary trong khi cô


tựa người vào tủ lạnh, cắn môi như
thường làm mỗi khi bực bội. Simon
thường quên mất Clary nhỏ bé thế nào,
cô mỏng manh ra sao, nhưng vào những
lúc như thế này - lúc cậu muốn vòng tay
ôm cô - cậu lại bị ngăn lại bởi ý nghĩ ôm
chặt cô sẽ làm cô bị đau, đặc biệt khi giờ
cậu không biết mình mạnh tới đâu.

Nhưng Jace thì không hề thấy vậy,


Simon biết chứ. Cậu đã nhìn thấy, mà
bụng dạ cứ quặn thắt, không thể nhìn đi
chỗ khác, cảnh Jace ôm Clary trong vòng
tay, hôn cô mãnh liệt tới mức Simon nghĩ
một hoặc cả hai sẽ vỡ vụn ra mất. Anh ta
ôm lấy Clary như thể muốn nghiền nát cô
vào mình, như thể anh ta cuộn cả hai
thành một thể thống nhất vậy.

©DTV

Tất nhiên Clary cũng mạnh, mạnh hơn


mức Simon nghĩ. Cô là Thợ Săn Bóng
Tối, sở hữu toàn bộ những khả năng cần
có. Nhưng điều đó không quan trọng; cái
họ có giữa hai người vẫn mong manh như
ngọn nến trong gió, dễ vỡ như vỏ trứng -
cậu biết nếu nó vỡ, nếu cậu để nó tan vỡ
và bị hủy hoại, thì cái gì đó trong cậu
cũng tan vỡ theo, cái gì đó không bao giờ
hàn gắn lại được.

“Simon.” Giọng Clary kéo cậu về


thực tại. “Simon, cậu có nghe mình nói
không?”

“Hả? À có. Tất nhiên rồi.” Cậu tựa


người vào bồn rửa bát, giả vờ như thể
nãy giờ đang lắng nghe. Vòi nước nhỏ
giọt, thế lại khiến cậu thoáng xao nhãng -
từng giọt nước bàng bạc dường như sáng
óng ánh, mang hình giọt lệ tinh khôi,
trước khi rơi xuống Simon nhận thấy, thị
giác của ma cà rồng khá kỳ lạ. Cậu cứ bị
những thứ rất đỗi bình thường thu hút -
những giọt nước lóng lánh, những vết nứt
lan rộng trên vỉa hè, vệt dầu loang loáng
trên đường - như thể cậu chưa từng nhìn
thấy chúng trong suốt quãng đời trước
kia.

“Simon!” Clary bực tức gọi lại. Cậu


nhận ra cô đang cầm thứ gì đó hồng
hồng, bằng kim loại chìa ra cho cậu.
Chiếc điện thoại mới của Clary. “Mình
bảo mình muốn cậu gọi cho Jace.”

Câu này kéo Simon về mặt đất. “Mình


gọi cho anh ta á? Anh ta ghét mình mà.”

“Không đâu,” cô nói, dù qua ánh mắt,


cậu biết thừa cô cũng chẳng tin là thế.
“Dù sao thì mình không muốn nói chuyện
với anh ấy. Nhé?”

“Được rồi.” Cậu cầm lấy điện thoại


và tìm số Jace. “Cậu muốn mình nói gì
nào?”

“Cứ kể chuyện xảy ra ấy. Anh ấy sẽ


biết phải làm gì.”

Jace bắt máy sau ba hồi chuông, nghe


có vẻ hụt hơi. “Clary,” anh ta nói, khiến
Simon giật mình đến khi nhớ ra tên Clary
tất nhiên phải hiện trên máy Jace rồi.
“Clary, em ổn không?”

Simon lưỡng lự. Giọng nói của Jace


chan chứa một thứ cảm xúc gì đó Simon
chưa từng nghe thấy, một sự quan tâm lo
lắng, không vẩn chút mỉa mai, đề phòng
nào. Đây là cách anh ta nói chuyện riêng
với Clary ư? Simon liếc nhìn cô bạn; cô
đang quan sát với đôi mắt xanh mở to, vô
thức cắn móng tay phải.

“Clary.” Jace lại gọi. “Anh nghĩ em


đang tránh mặt anh…”

Tự nhiên Simon thấy giận. Anh chỉ là


anh của Clary thôi, cậu muốn hét vào
điện thoại, chỉ thế mà thôi. Anh không
sở hữu cô ấy. Anh không có quyền nói
năng như… như…

Trái tim anh đang tan vỡ. Đúng từ


đó. Dù cậu chưa bao giờ nghĩ Jace có
trái tim để mà tan nát.

“Anh nói đúng,” cuối cùng cậu lạnh


lùng cất tiếng. “Cô ấy vẫn ổn. Tôi,
Simon đây.”

Một quãng im lặng kéo dài thật dài


khiến Simon nghi Jace đã cúp máy.
“A lô?”

“Tôi đây.” Giờ giọng Jace nghe giòn


và lạnh tanh như lá mùa thu, bao nỗi
mong manh bay biến. “Nếu cậu gọi chỉ
để nói chuyện bâng quơ với tôi, thì cậu
cô đơn hơn tôi nghĩ đấy.”

“Tin tôi đi, nếu không bị ép, còn lâu


tôi mới gọi cho anh. Tôi làm điều này vì
Clary.”

“Con bé ổn chứ?” giọng Jace vẫn vậy,


nhưng giờ có chút giống lá mùa thu bị kết
băng. “Nếu có chuyện gì xảy ra…”
“Không có chuyện gì đâu.” Simon cố
không để lộ sự tức giận. Vắn tắt hết sức
có thể, cậu thuật lại những chuyện xảy ra
trong tối nay và tình trạng hiện giờ của
Maia. Jace đợi tới khi Simon nói xong,
rồi đưa ra vài chỉ dẫn ngắn gọn. Simon
đứng im lắng nghe và đang vô thức gật
đầu thì nhớ ra Jace làm sao thấy được.
Cậu mở lời nói thì nhận ra mình đang nói
vào thinh lặng; anh chàng kia đã cúp
máy. Không nói một lời, Simon gập điện
thoại và trả Clary. “Anh ấy đang tới.”

Cô dựa người vào bồn rửa bát. “Giờ


á?”

“Ừ giờ. Magnus và Alec cũng đi


cùng.”

“Magnus?” cô lúng búng nói, và rồi,


“À, tất nhiên. Hẳn Jace đang ở nhà
Magnus. Mình đang nghĩ anh ấy ở Học
Viện, nhưng tất nhiên anh ấy không ở đó.
Mình…”

Một tiếng hét khô khốc vang lên trong


phòng khách ngắt lời cô. Mắt cô mở to.
Simon thấy dựng tóc gáy. “Không sao
đâu,” cậu nói, cố gắng an ủi hết mức có
thể. “Chú Luke không làm Maia đau
đâu.”

“Có chứ. Chú ấy không còn cách nào


khác,” Clary nói. Cô đang lắc đầu. “Dạo
gần đây chúng ta đều rơi vào tình hình
đó. Không có lựa chọn.” Maia lại hét lên
và Clary nắm chặt cạnh bàn như thể
chính mình đang bị đau. “Mình ghét
chuyện này!” cô thốt lên. “Mình ghét tất
cả mọi chuyện! Luôn sống trong sợ hãi,
luôn bị săn đuổi, luôn phải đoán xem
tiếp theo sẽ đến ai bị thương. Mình chỉ
ước gì được trở về ngày xưa!”

“Nhưng cậu không thể. Không ai trong


chúng ta có thể cả,” Simon nói. “Dù gì
thì cậu vẫn còn ra ngoài vào ban ngày
được.”

Cô quay sang cậu, môi hé mở, mắt mở


lớn nhưng ánh nhìn lại ảm đạm. “Simon,
mình không có ý…”

“Mình biết.” Cậu lùi lại, có cảm giác


cái gì đó chẹn ngang họng. “Mình đi xem
họ sao rồi đây.” Trong một thoáng, cậu
nghĩ cô sẽ đi theo, nhưng không, cô mặc
cho cánh cửa đóng lại, ngăn cách hai
người họ.

Tất cả đèn trong phòng khách đều bật


sáng. Maia đang nằm trên ghế, mặt xám
ngắt, chăn do cậu mang vào đắp kín tận
ngực. Cô nàng ấn chặt chiếc khăn vào
cánh tay phải; chiếc khăn giờ đã thấm
kha khá máu. Mắt cô nhắm nghiền.

“Chú Luke đâu?” Simon nói xong thì


nhăn mặt, tự hỏi giọng mình có quá lỗ
mãng, quá hách dịch không. Maia có vẻ
rất kiệt sức, hai hốc mắt trũng sâu xám
xịt, miệng mím chặt vì đau. Mắt cô hấp
háy mở và nhìn thẳng vào cậu.

“Simon,” cô thều thào. “Chú Luke ra


ngoài, đánh xe khỏi bãi cỏ. Chú ấy sợ
hàng xóm bàn tán.”

Simon liếc ra ngoài cửa sổ. Cậu thấy


ánh đèn chiếu rọi vào nhà trong khi chú
Luke đánh xe vào lối trước. “Cậu sao
rồi?” cậu hỏi. “Chú ấy lôi mấy thứ đó ra
khỏi tay cậu chưa?”

Cô lờ đờ gật đầu. “Tớ chỉ quá mệt


thôi,” cô thều thào nói qua đôi môi nứt
nẻ. “Và… khát nữa.”

“Tớ đi lấy nước cho.” Bên tủ cạnh


phòng ăn có đặt một bình nước và vài
chiếc cốc. Simon rót nước và mang tới
cho Maia. Hai tay cậu khẽ run tay làm
sánh nước ra chút ít khi Maia đón lấy
cốc nước. Cô đang định ngửng đầu, định
nói gì đó - có lẽ là cảm ơn - thì những
ngón tay họ chạm vào nhau và cô giật
ngay tay lại khiến chiếc cốc bay vèo đi.
Nó va trúng cạnh bàn và vỡ tan, nước
bắn tung tóe lên mặt bàn gỗ bóng loáng.

“Maia? Cậu ổn không?”


Cô lùi lại, dán sát người vào ghế tựa,
môi vén lên để lộ những chiếc răng nanh
sắc lẹm. Mắt cô đã chuyển sang màu
vàng sáng rực. Cô gầm gừ trong họng,
như tiếng một chú chó bị dồn vào đường
cùng.

“Maia?” Simon tá hỏa hỏi.

“Ma cà rồng,” cô gầm ghè.

Cậu thấy đầu bật ngược ra sau như thể


cô vừa tát vào cậu. “Maia…”

“Tôi nghĩ cậu là người. Nhưng cậu là


một con quái vật. Một con đỉa hút máu
người.”

“Tớ là người - ý tớ là tớ từng là


người. Tớ bị biến đổi. Vài ngày trước.”
Đầu óc cậu quay cuồng; cậu thấy choáng
váng buồn nôn. “Giống như cậu là
người…”

“Đừng so sánh cậu với tôi!” Cô ta cố


ngồi dậy, đôi mắt vàng đáng sợ vẫn dán
vào người cậu, lồ lộ vẻ ghê tởm. “Tôi
vẫn là người, vẫn còn sống - còn cậu là
một xác chết sống nhờ máu.”

“Máu động vật…”


“Chỉ vì cậu không kiếm được máu
người thôi, hoặc Thợ Săn Bóng Tối sẽ
thiêu sống cậu…”

“Maia,” cậu nói, tên cô vang lên nửa


giận dữ, nửa như van nài; cậu tiến về
phía cô thế là tay cô bật ra, những móng
tay đột ngột dài ra thành móng vuốt.
Chúng cào lên má cậu, khiến cậu loạng
choạng lùi lại, tay ôm lấy mặt. Máu chảy
xuống má, nhỏ vào miệng cậu. Cậu nếm
thấy vị mằn mặn của máu và bụng réo
lên.

Maia đang cong người ngồi trên tay


ghế sô pha, hai đầu gối co lên, những
móng tay cắm phập, để lại những vết
rạch dài trên chiếc ghế sô pha nhung
xám. Một tiếng gầm khe khẽ vang trong
họng, đôi tai cô dài lên và dán chặt vào
da đầu. Khi cô ta nhe răng, chúng lởm
chởm sắc nhọn - không phải kiểu răng
nhọn hoắt như những mũi kim của cậu,
mà là những răng nanh trắng ởn, chắc
khỏe. Cô đã đánh rơi miếng khăn dính
máu quấn quanh tay xuống và cậu có thể
thấy những vết thủng nơi những chiếc gai
cắm vào, thấy máu lóng lánh, ứ lên, rỉ
ra…

Một cơn đau nhói ở môi dưới nói cho


cậu biết răng nanh đã trồi ra khỏi lợi.
Một phần trong cậu muốn chiến đấu lại,
muốn vật cô ta xuống và cắn ngập răng
vào da cô ta, nốc cạn dòng máu nóng hổi
nơi cô ta. Nhưng một phần trong cậu lại
như đang gào thét. Cậu lùi lại một buóc,
rồi thêm bước nữa, tay giơ ra như muốn
đẩy cô ta lùi lại.

Maia căng người định nhào lên, đúng


lúc cánh cửa bếp bật mở và Clary lao
vào phòng. Cô nhảy lên bàn, đáp xuống
nhẹ nhàng như một chú mèo. Cô cầm thứ
gì đó trong tay, thứ gì đó tỏa ra ánh sáng
loang loáng bàng bạc khi cô giơ tay lên.
Simon nhận ra đó là con dao găm được
chạm khắc tinh tế như một cánh chim;
con dao bay sượt qua tóc Maia, chỉ cách
khuôn mặt cô ta vài milimet, và cắm lút
cán vào lớp vải nhung xám. Maia cố rụt
lại và há hốc; lưỡi dao đã đâm xuyên
qua ống tay áo và găm xuống ghế sô pha.

Clary giằng lưỡi dao ra. Là một trong


mấy con dao của chú Luke. Ngay khi
bước ra khỏi bếp và chứng kiến chuyện
xảy ra trong phòng khách, cô đã đi thẳng
tới chỗ chú Luke giấu vũ khí cá nhân
trong phòng làm việc. Có thể Maia đang
còn ốm và yếu ớt đấy, nhưng cô ấy trong
phẫn nộ đến mức dám giết người, còn
Clary thì không nghi ngờ gì khả năng của
Maia cả.

“Các người mắc bệnh gì đây?” Như


thể đang từ xa xăm, Clary nghe thấy mình
lên tiếng, nghe ra sự cứng rắn trong
giọng nói khiến chính mình kinh ngạc.
“Người sói, ma cà rồng - các người đều
thuộc Thế Giới Ngầm cơ mà.”

“Người sói không làm hại con người,


hoặc làm hại lẫn nhau. Ma cà rồng là
quân giết người. Một trong số chúng đã
giết người của chúng tôi tại quán
Hunter’s Moon…”

“Thủ phạm không phải ma cà rồng.”


Clary thấy mặt Maia trắng bệch đi trước
sự chắc chắn trong giọng nói của cô. “Và
nếu các cậu có thể ngừng đổ lỗi cho nhau
mỗi khi có chuyện không hay xảy ra với
Thế Giới Ngầm, có lẽ Nephilim có thể
sẽ tin lời các cậu hơn và thực sự làm gì
đó đấy.” Cô quay sang Simon. Vết rạch
xấu xí trên má cậu giờ đã lành lại thành
những đường kẻ màu đỏ bạc. “Cậu ổn
không?”

“Ừ.” Giọng cậu gần như không nghe


rõ. Cô thấy sự tổn thương dâng lên trong
mắt bạn, và trong khoảnh khắc ấy cô cố
lắm mới không gọi Maia bằng hàng đống
những cái tên không có trong bất cứ cuốn
từ điển nào. “Mình ổn.”

Clary quay sang cô gái người sói.


“Cô rất may vì cậu ấy không mù quáng
như cô, hoặc không tôi sẽ báo cáo với
Hội đồng Clave để cả đàn phải chịu
trách nhiệm vì hành vi của cô.” Cô giật
mạnh con dao, thả áo Maia ra.

Maia nổi đóa. “Cô không hiểu rồi.


Bản chất của ma cà rồng là như thế vì
chúng bị tiêm nhiễm năng lượng của quỷ
dữ…”

“Người sói thì khác gì!” Clary nói.


“Tôi có thể không biết nhiều, nhưng tôi
biết được từng ấy đấy.”

“Nhưng đó mới là vấn đề. Năng


lượng quỷ dữ thay đổi chúng tôi, khiến
chúng tôi khác đi - cậu có thể gọi đó là
một căn bệnh hay gì tùy cậu, nhưng lũ
quỷ tạo ra ma cà rồng và quỷ tạo ra
người sói thuộc hai loài đối nghịch nhau.
Chúng ghét lẫn nhau, vì thế chúng tôi
ghét nhau ngay từ trong trứng nước.
Chúng tôi không thể ngăn được điều đó.
Một người sói và một ma cà rồng không
bao giờ có thể là bạn là vì vậy.” Cô ta
nhìn Simon, mắt ánh lên sự tức giận và
một thứ gì đó nữa. “Rồi dần dà cậu cũng
sẽ ghét tôi thôi,” cô ta nói. “Và ghét cả
chú Luke nữa. Cô không thể cưỡng lại
được đâu.”

“Ghét chú Luke ư?” Mặt Simon xám


ngoét, nhưng trước khi Clary kịp trấn an
cậu thì cửa chính đã bật mở. Cô nhìn
quanh, cứ nghĩ người bước vào là chú
Luke, nhưng không phải. Là Jace. Anh
mặc đồ đen từ đầu đến chân, với hai con
dao thiên thần dắt nơi thắt lưng bao
quanh phần hông hẹp. Alec và Magnus đi
ngay sau, Magnus trong chiếc áo choàng
dài lấp lánh như thể được trang trí với
những miếng kính vỡ.

Đôi mắt vàng của Jace, với ánh nhìn


như tia la-de, ngay lập tức chiếu thẳng
tới Clary. Nếu cô nghĩ anh có lẽ thấy hối
lỗi, lo lắng hay thậm chí xấu hổ sau bao
nhiêu chuyện xảy ra, thì cô đã nhầm. Anh
chỉ tức giận mà thôi. “Em,” anh nói, với
âm thanh sắc lạnh và bực bội cố ý để
người ta nhận ra, “nghĩ mình đang làm gì
đấy?”

Clary nhìn xuống mình. Cô vẫn đứng


trên bàn nước, dao cầm trong tay. Cô cố
không giấu nó ra sau lưng. “Chúng em
gặp chút rắc rối. Em xử lý được rồi.”

“Thật sao.” Giọng Jace mỉa mai độc


địa. “Em thậm chí có biết dùng con dao
đó không, hả Clarrisa? Mà không đục
một cái lỗ xinh đẹp trên người em hay
một người vô tội vô tình nào ấy hử?”

“Em không làm ai bị thương cả,”


Clary nghiến răng nói.

“Cô ấy đâm vào trên ghế đây này,”


Maia mệt mỏi nói, mắt khép lại. Má cô
ta vẫn đỏ ửng vì sốt và giận, nhưng
khuôn mặt lại trắng tới đáng sợ.
Simon lo lắng nhìn. “Tôi nghĩ tình
hình cô ấy xấu đi rồi.”

Magnus húng hắng. Khi Simon không


động đậy, anh ta nói, “Tránh ra đi, người
thường,” bằng giọng cực kỳ buồn bực.
Pháp sư phất áo khoác ra sau khi sải
bước tới nơi Maia nằm trên ghế. “Vậy cô
là bệnh nhân của tôi nhỉ?” anh ta hỏi,
nhìn xuống qua hàng mi dày cứng như
kim tuyến.

Maia nhìn lên anh ta qua đôi mắt lạc


hồn.
“Tôi là Magnus Bane,” anh ta nói nhẹ
nhàng an ủi, xòe bàn tay đầy những nhẫn
ra. Những tia sáng xanh đã bắt đầu nhảy
nhót quanh họ như những tia sáng quang
học nhảy múa trong nước. “Tôi là pháp
sư tới trị bệnh cho cô. Họ có nói với cô
là tôi tới không?”

“Tôi biết anh là ai, nhưng…” Maia có


vẻ choáng váng. “Trông anh quá là…
quá là… lấp lánh.”

Alec phát ra âm thanh gì đó nghe như


tiếng cười bị kìm lại chuyển sang tiếng
ho khan, trong khi đôi bàn tay xương
xương của Magnus dệt một tấm màn xanh
da trời lấp lánh quanh cô gái người sói.
Jace không cười. “Chú Luke,” anh
hỏi, “đâu rồi?”

“Chú ấy ở ngoài,” Simon nói. “Chú


ấy đánh xe khỏi bãi cỏ.”

Jace và Alec liếc nhìn nhau.

“Buồn cười đấy,” Jace nói. Anh nghe


không có vẻ gì là vui cả. “Tôi không thấy
chú ấy khi chúng tôi lên đây.”

Một cơn lo sợ mơ hồ bùng lên như


một chiếc lá trong ngực Clary. “Anh thấy
xe của chú ấy không?”
“Anh có thấy,” Alec đáp. “Nó ngay
trên lối lên nhà. Tất cả đèn đều tắt.”

Nghe thế thì ngay cả Magnus, đang


chăm sóc Maia, cũng phải ngước lên
nhìn. Qua lớp mành phép thuật mà anh ta
dệt quanh mình và cô gái người sói, vị
pháp sư trông nhòe nhoẹt, như thể đang
nhìn họ qua màn nước vậy. “Tôi không
thích chuyện này,” anh ta nói, giọng nghe
như từ nơi xa xôi nào đó vọng về.
“Không phải sau vụ tấn công của một con
quỷ Drevak. Chúng thường đi theo đàn.”

Tay Jace đã đặt lên một lưỡi dao thiên


thần. “Tôi sẽ đi xem chú ấy sao rồi.
Alec, cậu ở lại đây, bảo vệ ngôi nhà.”

Clary nhảy khỏi bàn. “Em cũng đi.”

“Không.” Anh đi ra cửa, không buồn


ngoái lại xem cô có bám theo không.

Clary phóng hết tốc lực băng đến chặn


giữa Jace và cánh cửa. “Dừng lại.”

Trong giây lát cô nghĩ anh sẽ cứ đi kể


cả có đi xuyên qua cô, nhưng anh dừng
lại, đứng gần sát cô đến nỗi cô cảm nhận
được hơi thở anh phả ra làm rung động
mái tóc cô khi anh nói. “Anh sẽ quật ngã
em nếu cần thiết, Clarissa ạ.”
“Đừng gọi em như vậy.”

“Clary,” anh thấp giọng, tên cô từ môi


anh vang lên thật gần gũi khiến cô rùng
mình. Ánh vàng trong mắt anh trở nên
khắc nghiệt, sáng như kim loại thật.
Trong thoáng chốc cô thắc mắc không
hiểu anh có thực sự định lao vào cô
không, và nếu anh lao vào cô, đánh ngã
cô, thậm chí nắm lấy cổ tay cô thì cảm
giác sẽ ra sao. Với anh đánh nhau giống
như người ta làm tình vậy. Ý nghĩ anh
chạm vào cô như thế khiến máu chảy rần
rần lên má cô.

Cô hụt hơi nói. “Chú ấy là chú em,


không phải chú anh…”
Một sự hài hước ghê gớm thoáng qua
nét mặt anh. “Bất cứ người chú nào của
em cũng là chú anh hết, em gái thân mến
ạ.” Anh nói, “và chú ấy không có quan
hệ máu mủ gì với ai trong chúng ta cả.”

“Jace…”

“Hơn nữa, anh không có thời gian vẽ


Ấn Ký cho em,” anh nói, đôi mắt vàng
lười nhác quét qua cô, “và em chỉ có
mỗi con dao kia thôi. Nó sẽ không hữu
dụng lắm khi đối đầu với lũ quỷ đâu.”

Cô phi dao dính bức tường bên cạnh


cửa, mũi cắm phập, làm cả anh cũng
ngạc nhiên. “Sao nào? Anh có hai con
dao thiên thần, đưa em một con.”

“Thôi, trời đất ơi…” Là Simon, tay


nhét trong túi quần, mắt cháy lên như hai
hòn than đen trên khuôn mặt trắng bệch.
“Tôi sẽ đi.”

Clary nói, “Simon, đừng…”

“Ít nhất mình không phí phạm thời


gian ở đây tán tán tỉnh tỉnh, trong khi
chúng ta không biết chuyện gì xảy đến
với chú Luke.” Cậu ra hiệu cho cô tránh
khỏi cửa.
Jace mím chặt môi. “Chúng ta cùng
đi.” Clary ngạc nhiên khi anh rút một con
dao thiên thần khỏi thắt lưng và đưa cho
cô. “Cầm đi.”

“Tên nó là gì?” cô hỏi và tránh khỏi


cửa.

“Nakir.”

Clary đã bỏ áo khoác lại bếp, và


không khí lạnh thổi từ dòng sông Đông
cắt xuyên qua chiếc áo mong manh của
cô, ngay khi cô bước ra khoảng hiên tối
om. “Chú Luke ơi?” cô gọi. “Chú Luke
ơi!”
Chiếc xe đã được đánh sang lối vào,
một trong hai cánh cửa vẫn mở. Đèn mui
vẫn hoạt động, tỏa ánh sáng nhàn nhạt.
Jace nhíu mày. “Chìa khóa vẫn cắm trong
ổ. Máy vẫn nổ.”

Simon đóng cửa chính lại. “Sao anh


biết?”

“Tôi nghe ra.” Jace suy tính nhìn


Simon. “Và cả cậu cũng có thể nếu như
cố thử, đồ hút máu ạ.” Anh nhảy xuống
từng bậc cầu thang, tiếng chậc lưỡi khe
khẽ vướng vất sau anh theo làn gió.

“Mình nghĩ mình thích biệt danh


‘người thường’ hơn ‘đồ hút máu’,”
Simon lầm bầm.

“Với Jace, cậu không thực sự được


quyền chọn biệt danh cho mình đâu.”
Clary cho tay vào túi quần, cho đến khi
mấy đầu ngón tay chạm vào viên đá trơn
nhẵn, man mát. Cô giơ ngọn đèn phù thủy
trên tay, ánh sáng tỏa qua kẽ ngón tay như
tia nắng phát ra từ mặt trời bé con. “Đi
nào.”

Jace nói đúng; động cơ xe vẫn chạy.


Clary ngửi thấy mùi khí thải khi họ tới
gần, và tim cô chùng xuống. Chú Luke
không bao giờ bỏ cửa xe mở ra và chìa
khóa cắm nguyên trong ổ trừ khi có
chuyện không hay xảy ra.
Jace đi quanh xe, nhíu mày. “Em mang
đèn phù thủy lại gần đây.” Anh quỳ
xuống bãi cỏ, nhẹ nhàng vuốt tay qua.
Anh rút từ túi áo trong ra một vật Clary
quen thuộc: một miếng kim loại bề mặt
khá mịn, khắc những con chữ rune đẹp
đẽ. Máy Cảm Ứng. Jace lướt nó qua cỏ
và nó phát ra hàng loạt những tiếng lích
kích ầm ĩ, như một chiếc máy đo phóng
xạ bị lên cơn. “Chắc chắn do quỷ gây ra
rồi. Anh đang dò ra dấu vết rõ rệt.”

“Có thể là từ con quỷ tấn công Maia


không?” Simon hỏi.

“Mức độ quá cao. Có hơn một con


quỷ vào tối nay.” Jace đứng dậy, nghiêm
chỉnh tập trung. “Có lẽ hai người nên vào
nhà. Bảo Alec ra ngoài này. Cậu ấy từng
đối phó với mấy thứ này rồi.”

“Jace…” Clary lại lên cơn giận. Cô


ngừng bặt khi nhác thấy gì đó. Một
thoáng chuyển động, ở bên kia đường,
trên triền đê rải rác đá tảng bên bờ sông
Đông. Cách chuyển động đó - hơi xiên
xiên dưới ánh sáng - thuộc về một thứ gì
đó quá nhanh, quá dài, không thể là con
người…

Clary vung tay chỉ. “Nhìn kìa! Bên


dòng sông!”
Jace nhìn theo rồi hít vào thật sâu.
Rồi anh phóng chạy, và Simon cùng
Clary chạy theo, vụt qua đường Kent để
bước vào bãi cỏ rậm rạp bên bờ nước.
Ngọn đèn phù thủy vung vẩy trên tay
Clary theo từng bước chạy, rọi lung tung
khắp chỗ: khi thì mảng cỏ dại, lúc thì
chút đoạn đê lát xi măng đã vỡ nhô lên
làm cô suýt vấp, một đống rác và kính
vỡ - và rồi, khi tới gần mặt nước, họ thấy
một bóng người đang nằm gục dưới đất.

Là chú Luke - Clary nhận ra ngay lập


tức, dù hai sinh vật lưng gù, khuất trong
bóng tối đang trườn qua người chú, che
khuôn mặt chú khỏi tầm nhìn của cô. Chú
nằm ngửa, quá gần mặt nước khiến Clary
sợ có phải hai sinh vật gù gù kia đang cố
dìm chết chú. Nhưng rồi chúng lùi lại, rít
lên qua cái miệng tròn vo không vành
môi, và cô thấy đầu chú vẫn nằm trên bờ
đê rải sỏi. Nhưng khuôn mặt chú xám
ngoét và thiếu sức sống.

“Quỷ Raum,” Jace thì thào.

Mắt Simon mở to. “Chúng là thứ tấn


công Maia hả?”

“Không. Thứ này tệ hơn nhiều.” Jace


ra hiệu cho Simon và Clary đứng ra sau.
“Cả hai, ở lại đây.” Anh giơ con dao
thiên thần ra. “Israfiel!” anh thét, và đột
nhiên một luồn ánh sáng nóng rực bùng
lên. Jace lao tới, lia vũ khí vào con quái
vật gần nhất. Dưới ánh sáng của lưỡi dao
thiên thần, vẻ ngoài của con quỷ hiện ra
trông phát kinh: làn da mang vảy, trắng
ởn chết chóc, miệng là cái lỗ đen ngòm,
mắt lồi ra như mắt ếch, và cánh tay kết
thúc bằng những xúc tu thay cho bàn tay.
Giờ những xúc tu ấy đang quất về phía
Jace với tốc độ nhanh khó tin.

Nhưng Jace còn lẹ hơn. Tiếng sột ghê


người vang lên khi thanh Israfiel lia qua
cổ tay con quỷ và những xúc tu lượn
vòng trong không trung. Cái đầu xúc tu
rơi xuống chân Clary vẫn còn giãy giụa.
Nó màu trắng xám, với những giác mút
màu đỏ máu, sắc nhọn như kim.
Simon nôn khan. Clary cũng muốn làm
theo. Cô đá cái khối xúc tu đang co giật
làm nó lăn lông lốc xuống trảng cỏ đầy
rác rưởi. Khi ngước lên, cô thấy Jace
đang quần thảo với con quỷ bị thương
trên những phiến đá ở bờ sông. Ánh sáng
từ con dao thiên thần tạo nên những một
đường cong tuyệt đẹp ngang mặt nước
trong khi anh rít lên, xoay người tránh
những xúc tu còn lại của sinh vật - và cả
máu đen đang túa ra từ cánh tay cụt của
nó. Clary do dự - cô nên tới bên chú
Luke hay đi giúp Jace nhỉ? - thì đúng lúc
đó cô nghe tiếng Simon hét. “Clary, coi
chừng!” và quay lại thấy con quỷ thứ hai
đang lao thẳng vào mình.
Chẳng còn thời gian để với lấy lưỡi
kiếm thiên thần nơi thắt lưng nữa rồi,
không còn thời gian để nhớ và gọi tên nó
nữa. Cô giơ tay lên và con quỷ lao vào
cô, đánh cô ngã ngửa ra sau. Cô ngã
xuống thét váng, vai đập xuống nền đất
gồ ghề, đau đớn. Những chiếc xúc tu trơn
tuột lần sờ trên da cô. Một cái giữ chặt
lấy tay cô mà xiết tới đau nhức; cái khác
quật về phía trước, cuộn lấy cổ họng cô.

Cô điên cuồng nắm lấy cổ, cố kéo


những cái chi mềm dẻo khỏi ống khí
quản. Phổi cô đang đau. Cô đá và vặn
vẹo…
Và rồi đột nhiên áp lực biến mất; cái
thứ ấy đã rời khỏi cô. Cô khò khè hít vào
rồi lăn người ngồi dậy. Con quỷ hơi cong
người, nhìn chăm chú cô bằng con mắt
đen thui, không đồng tử. Nó sắp lao vào
cô tiếp sao? Cô nắm lấy con dao, quát
lớn: “Nakir,” và ngọn giáo ánh sáng vụt
sáng trên tay cô. Cô chưa bao giờ có
trong tay một con dao thiên thần. Đốc
kiếm rùng mình, sống dậy trên tay cô.
“NAKIR!” cô hét, loạng choạng đứng
dậy, lưỡi dao dài chĩa thẳng vào quỷ
Raum.

Ngạc nhiên thay, con quỷ cứ lùi lại,


những xúc tu vung vẩy, gần như nó -
không thể nào - sợ cô. Cô thấy Simon
đang chạy lại phía mình, tay cầm một vật
dài - hình như là ống thép thì phải; đằng
sau cậu, Jace đang đứng dậy. Cô không
thấy con quỷ anh vừa đụng độ; có lẽ anh
giết chết nó rồi. Còn con quỷ Raum thứ
hai cứ há hốc mồm, rít lên một tràng đau
khổ, nghe như tiếng cú rúc. Đột nhiên, nó
quay người và, với những xúc tu vung
vẩy, nhằm hướng bờ đê chạy tới rồi lao
xuống sông. Nước bắn tung tóe, và sau
đó con quỷ lặn mất tăm, biến mất dưới
mặt nước sông mà không để lại đến một
chút bọt sủi lên nào.

Jace tới bên cô ngay khi con quỷ biến


mất. Anh cúi xuống, thở dốc, người lấm
tấm thứ máu đen ngòm của quỷ. “Điều gì
- đã xảy ra?” anh hỏi giữa tiếng hổn hển.

“Em không biết nữa,” Clary thừa


nhận. “Nó lao tới chỗ em - em cố đánh
lại nhưng nó quá nhanh - và sau đó chỉ là
nó rời đi. Giống như nó thấy thứ gì đó
làm nó sợ.”

“Cậu ổn thật đấy?” Simon lên tiếng,


phanh lại ngay trước mặt cô, không hề
thở dốc chút nào - cậu làm gì còn hơi
thở, cô tự nhủ - nhưng cậu vẫn lo lắng
nắm chặt lấy một đoạn ống dài trên tay.

“Cậu lấy cái đó ở đâu thế?” Jace hỏi.


“Tôi giật nó khỏi một bốt điện thoại.”
Simon có vẻ ngạc nhiên với chính mình.
“Tôi đoán anh có thể làm bất cứ điều gì
khi lượng adrenaline lên cao.”

“Hoặc khi cậu sở hữu sức mạnh đáng


nguyền rủa của quỷ dữ,” Jace nói.

“Ồ, cả hai im đi cho em nhờ,” Clary


quát, để đổi lại cái nhìn buộc tội của
Simon và cú liếc xéo từ Jace. Cô lách
qua hai người và tiến về bờ sông. “Hoặc
cả hai quên mất chú Luke rồi?”

Chú Luke đã bất tỉnh, nhưng còn thở.


Gương mặt chú cũng trắng bệch như
Maia, một bên tay áo bị xé toạc tới tận
vai. Khi Clary xé lớp vải đã cứng lại vì
máu khỏi da nhẹ nhàng hết mức có thể,
cô thấy hàng tá những vết thương hình
tròn đỏ trên tay chú, ở nơi bị xúc tu quỷ
bó chặt. Các vết thương đều đang túa ra
máu cùng thứ chất lỏng đen đen. Cô hít
một hơi. “Chúng ta phải đưa chú vào
nhà.”

Khi Simon và Jace đỡ chú Luke bước


lên những bậc tam cấp, Magnus đã đứng
đợi họ ngay hiên trước. Sau khi chữa trị
xong cho Maia, Magnus đã đặt cô nàng
lên giường trong phòng ngủ của chú
Luke, vì thế họ đành đặt chú lên ghế sô
pha ngoài phòng khách nơi Maia đã nằm,
để Magnus lo liệu vết thương.
“Chú ấy sẽ qua khỏi chứ ạ?” Clary
hỏi, và đi quanh quẩn quanh sô pha trong
khi Magnus triệu hồi ngọn lửa xanh leo
lét giữa hai bàn tay.

“Anh ta sẽ ổn thôi. Chất độc của


Raum hơi phức tạp hơn so với vết chích
của Drevak, nhưng chẳng có gì tôi không
xử lý được.” Magnus ra hiệu cho cô lùi
lại. “Ít ra là như thế nếu cô tránh ra để
tôi làm việc của mình.”

Không còn cách nào khác, cô đành


ngồi xuống chiếc ghế bành. Jace và Alec
đã tới bên cửa sổ, chụm đầu bàn tán gì
đó. Jace đang khoa tay múa chân. Cô
đoán anh đang giải thích cho Alec nghe
chuyện về lũ quỷ. Simon, trông có vẻ
lóng ngóng, đang tựa người vào bức
tường bên cạnh cửa bếp. Dường như cậu
đang chìm trong dòng suy nghĩ. Không
muốn nhìn vào khuôn mặt xám xịt mệt
mỏi, đôi mắt trũng sâu của chú Luke,
Clary nhìn chăm chú vào Simon, nhìn kỹ
xem vì sao trong cậu bạn vừa lạ lại vừa
quen. Không có kính, mắt cậu như to gấp
đôi và rất đen, nhiều sắc đen hơn là nâu.
Da cậu trắng xanh và mịn như cẩm thạch
trắng, với những đường gân tối màu hơn
chạy bên thái dương và xương gò má nhô
hẳn ra. Cả tóc cậu hình như cũng đen
hơn, đối lập hoàn toàn với nước da
trắng. Cô nhớ tới lúc nhìn vào đám ma
cà rồng khác trong khách sạn của
Raphael, tự hỏi vì sao không có lấy một
ma cà rồng xấu xí hay thiếu sức hút. Lúc
đó cô nghĩ, có lẽ có luật không được
biến đổi ra ma cà rồng từ những kẻ có bề
ngoài không được quyến rũ; nhưng giờ
cô lại nghĩ, chắc là bản thân việc biến
thành ma cà rồng không phải một quá
trình biến đổi, làm láng da sần sùi, làm
màu, tăng độ lúng liếng và mượt mà cho
ánh mắt và mái tóc. Có thể nó chỉ là một
ưu điểm mà quá trình tiến hóa đã ban cho
họ. Vẻ ngoài bắt mắt sẽ giúp ma cà rồng
dễ dàng dụ được con mồi.

Khi đấy cô nhận thấy Simon cũng


đang nhìn lại mình bằng đôi mắt đen mở
lớn. Giật mình khỏi cơn miên man, cô
vội quay đi và thấy Magnus đã đứng dậy.
Ánh sáng xanh đã biến mất. Chú Luke
vẫn nhắm mắt nhưng da chú đã không
còn sắc xám, hơi thở sâu hơn và đều hơn.

“Chú ấy qua khỏi rồi!” Clary reo lên,


và Alec, Jace cùng Simon vội vã tới
xem. Khi Simon nắm tay cô, cô đan tay
vào tay bạn, vui mừng trước sự khích lệ
này.

“Vậy là chú ấy sẽ sống chứ?” Simon


hỏi, sau khi Magnus ngồi xuống tay ghế
gần nhất. Pháp sư có vẻ kiệt sức, mệt
mỏi và xanh xao. “Anh chắc không?”
“Chắc chắn,” Magnus đáp. “Tôi là
Đại Pháp sư của Brooklyn; tôi biết mình
đang làm gì.” Mắt anh ta chuyển hướng
sang Jace, người đang thì thầm gì đó với
Alec bằng giọng thật khẽ nên những
người khác trong phòng không nghe được
gì. “Điều này làm tôi nhớ ra,” Magnus
nói tiếp, giọng cứng nhắc - và Clary
chưa bao giờ nghe thấy anh ta nói giọng
cứng nhắc bao giờ - “tôi không hiểu cậu
nghĩ gì mà cứ luôn miệng gọi tôi khi một
ai trong số các cậu bị móng quặp cần
được cắt chứ. Với cương vị một Đại
Pháp sư, thời gian của tôi là vàng bạc.
Có rất nhiều pháp sư cấp thấp sẵn lòng
giúp đỡ các cậu với giá thấp hơn nhiều.”
Clary chớp mắt ngạc nhiên. “Anh tính
tiền với chúng tôi? Nhưng chú Luke là
bạn cơ mà!”

Magnus rút điếu thuốc lá xanh mảnh


khỏi túi áo. “Không phải bạn tôi,” anh ta
tuyên bố. “Thi thoảng tôi mới gặp anh ta
trong những lần mẹ cô đưa anh ta đi
cùng, khi cần lặp lại phép xóa trí nhớ
của cô thôi.” Anh ta vuốt dọc thân điếu
thuốc rồi mồi thuốc bằng ngọn lửa màu
mè. “Chẳng lẽ cô nghĩ tôi đang giúp cho
các người vì lòng hảo tâm à? Hay tôi là
pháp sư duy nhất các người quen biết
vậy?”

Jace lắng nghe đoạn hội thoại ngắn


ngủi này mà tức đến nỗi đôi mắt màu đá
hổ phách đã chuyển sang sắc vàng.
“Không,” giờ anh nói, “nhưng anh là
pháp sư duy nhất chúng tôi biết đang hẹn
hò với một người bạn của chúng tôi.”

Trong giây lát tất cả đều nhìn anh -


Alec thì sợ rúm, Magnus giận dữ lạ
thường, còn Clary và Simon thì ngạc
nhiên. Alec lên tiếng đầu tiên, giọng run
run. “Vì sao cậu lại nói vậy chứ?”

Jace trông ngớ ra. “Nói vậy là nói


gì?”

“Rằng tớ đang hẹn hò - rằng bọn tớ


đang hẹn hò nhau - không phải thế,” Alec
nói, giọng the thé lên rồi trầm hẳn xuống
khi anh ta cố lấy bình tĩnh.

Jace nhìn thẳng vào mắt Alec. “Tớ có


bảo Magnus đang hẹn hò cậu đâu,” anh
nói, “nhưng lạ là cậu biết rõ tớ định nói
gì, nhỉ?”

“Bọn tớ không hẹn hò,” Alec nhắc lại.

“Ồ?” Magnus lên tiếng. “Vậy ra là


cậu chỉ thân thiện như thế với tất cả mọi
người, đúng không?”

“Magnus.” Ánh mắt Alec như đang


van nài vị pháp sư.
Tuy nhiên, Magnus chừng như đã ngấy
lắm rồi. Anh ta khoanh tay trước ngực và
tựa người trên ghế, im lặng quan sát
quang cảnh trước mặt qua đôi mắt khép
hờ.

Alec quay sáng Jace. “Cậu đừng có


mà…” anh mở lời. “Ý tớ là, cậu không
thể nào lại nghĩ…”

Jace lắc đầu không hiểu. “Điều tớ


không hiểu là cậu sẵn sàng làm mọi cách
để giấu tớ về mối quan hệ giữa cậu và
Magnus, trong khi có phải là tớ sẽ phiền
gì đâu nếu cậu có nói cho tớ biết kia
chứ.”
Nếu Jace nói ra là để trấn an Alec, thì
rõ ràng kết quả không phải vậy. Alec tái
xanh tái xám, im re không nói một lời.
Jace quay sang Magnus. “Giúp tôi thuyết
phục anh ấy rằng,” anh nói, “rằng tôi
thực sự không quan tâm đi.”

“Ồ,” Magnus bình tĩnh nói. “Tôi nghĩ


vấn đề này thì cậu ta tin cậu đấy.”

“Vậy tôi không…” Sự bối rối hằn trên


khuôn mặt Jace, và trong một thoáng
Clary thấy biểu hiện của Magnus và hiểu
anh ta cực kỳ muốn trả lời. Động lòng
trắc ẩn với Alec, cô rút tay khỏi tay
Simon và nói. “Jace, đủ rồi. Bỏ qua mọi
chuyện đi.”
“Bỏ qua chuyện gì?” chú Luke hỏi.
Clary quay sang thấy chú đã ngồi dậy,
hơi nhăm mặt vì đau nhưng trông đã khỏe
lại.

“Chú!” cô lao tới bên ghế, định ôm


chú, nhưng thấy chú ôm vai nên lại thôi.
“Chú nhớ chuyện xảy ra không?”

“Không nhớ rõ lắm.” Chú Luke giơ


tay trước mặt. “Điều cuối cùng chú nhớ
là chú rời khỏi xe. Có gì đó đập vào vai
chú và kéo chú đi. Chú vẫn nhớ cơn đau
kinh khủng nhất đời đó - dù sao, sau đó
chú cũng ngất đi rồi. Điều tiếp theo chú
biết là nằm nghe năm người các cháu cãi
cọ lẫn nhau. Vậy có chuyện gì thế?”

“Không có gì đâu.” Clary, Simon,


Alec, Magnus và Jace đồng thanh nói,
trong ngạc nhiên và có lẽ không bao giờ
đồng thanh - lần nữa - trong đời.

Dù cực kỳ kiệt sức, lông mày chú


Luke vẫn nhướn lên. Nhưng, chú chỉ nói
“Hiểu rồi” mà thôi.

Vì Maia vẫn nằm trong phòng chú


Luke nên chú nói chú sẽ ngủ trên ghế.
Clary bảo chú ngủ trong phòng mình,
nhưng chú không nghe. Từ bỏ ý định, cô
đi qua hành lang hẹp, tới tủ quần áo lấy
chăn gối. Cô đang lôi chăn bông khỏi giá
cao nhất thì cảm thấy có ai sau lưng.
Clary quay phắt lại và làm rơi chăn
thành một đống hỗn độn mềm mại dưới
chân.

Hóa ra là Jace. “Xin lỗi đã làm em


giật mình.”

“Không sao mà.” Cô cúi xuống ôm


chăn lên.

“Thực ra anh không thấy có lỗi,” Jace


nói. “Đây là khoảnh khắc sống động nhất
của em mà anh thấy được trong nhiều
ngày rồi.”
“Em có gặp anh nhiều ngày nay đâu.”

“Và do ai nào? Anh đã gọi điện cho


em. Em không thèm nhấc máy. Và anh có
phải cứ muốn là tới gặp em được đâu.
Anh đang bị giam lỏng, hy vọng là em
còn nhớ.”

“Không hẳn là bị giam.” Cô cố nói


nhẹ như không khi đứng thẳng người dậy.
“Anh có Magnus làm bầu bạn mà. Với cả
Gilligan’s Island nữa.”

Jace nghĩ rằng dàn diễn viên phim


Gillian’s Island đi mà làm gì đấy về mặt
giải phẫu là bất khả thi với chính mình
đi.
Clary thở dài. “Chẳng phải đáng ra
anh với Magnus phải đi về rồi sao?”

Anh bĩu môi và cô thấy điều gì đó rạn


nứt trong mắt anh, giống như một niềm
tổn thương vụt lóe. “Em muốn rũ bỏ anh
lắm à?”

“Không phải.” Cô ôm ghì lấy chăn và


tập trung vào tay anh, vì không dám nhìn
thẳng vào mắt anh. Những ngón tay thanh
mảnh của anh mang đầy vết sẹo nhưng
vẫn đẹp đẽ vô cùng, trên ngón trỏ tay
phải vẫn còn hằn một đường mờ mờ ở
nơi anh từng mang chiếc nhẫn gia bảo
của nhà Morgenstern. Ý muốn chạm vào
anh quá mãnh liệt khiến cô chỉ muốn ném
chiếc chăn xuống mà gào lên. “Em muốn
nói, không, không phải thế. Em không
ghét anh, Jace ạ.”

“Anh cũng không ghét em.”

Cô nhẹ nhõm ngước nhìn anh. “Em


mừng vì anh nói vậy…”

“Anh ước gì mình ghét được em,” anh


nói. Giọng anh nhẹ bẫng, miệng cong lại
thành một nụ cười nửa miệng bất cần
đời, đôi mắt lại chất chứa khổ đau. “Anh
muốn ghét em. Anh cố ghét em. Mọi
chuyện sẽ dễ dàng hơn cho anh nếu anh
ghét được em. Đôi khi anh nghĩ anh có
ghét em nhưng rồi anh nhìn thấy em thế là
anh…”

Tay cô tê dại khi xoắn lấy cái chăn.


“Thế là anh sao?”

“Em nghĩ sao nào?” Jace lắc đầu.


“Sao anh lại nói với em tất cả cảm xúc
của anh trong khi em không bao giờ nói
với anh điều gì? Em cho anh cảm giác
như anh đang đập đầu vào tường vậy, trừ
việc ít ra nếu anh đang đập đầu vào
tường thật, thì anh có thể tự ngăn được
mình.”

Môi Clary run dữ dội, không nói nổi


lên lời. “Anh nghĩ mọi chuyện dễ dàng
với em sao?” cô hỏi. “Anh nghĩ…”

“Clary ơi?” Là Simon, đang bước vào


hành lang bằng cung cách uyển chuyển
không phát ra tiếng động mới mẻ kia,
khiến cô giật bắn người và lại làm rơi
chăn. Cô quay mặt lại, nhưng không kịp
giấu đi cảm xúc, hay vẻ ngời sáng lồ lộ
trong ánh mắt. “Hiểu rồi,” cậu nói, sau
khi ngừng lại một lúc lâu. “Xin lỗi vì đã
làm phiền hai người.” Cậu lại biến mất
vào phòng khách, để lại Clary nhìn theo
mà nước mắt lưng tròng.

“Quỷ tha ma bắt.” Cô quay sang


Jace. “Anh làm sao thế?” giọng hung
hăng hơn mức mình muốn thể hiện. “Vì
sao anh phải phá hỏng mọi thứ chứ?” Cô
đẩy mạnh cái chăn cho anh rồi đuổi theo
Simon.

Cậu bạn đã tới cửa trước. Cô đuổi kịp


cậu ra ngoài hiên, khiến cửa đóng sầm
sau lưng. “Simon! Cậu định đi đâu đấy?”

Cậu khá dè dặt khi quay lại. “Về nhà.


Muộn rồi - mình không muốn mắc kẹt tại
đây khi mặt trời lên.”

Vì mặt trời phải vài tiếng nữa mới


mọc, Clary thấy cái cớ này không có cơ
sở gì cả. “Cậu biết mình luôn đón chào
cậu tới đây và ngủ lại trong ngày nếu cậu
muốn tránh mẹ cậu. Cậu có thể ngủ trong
phòng mình…”

“Mình không nghĩ đó là ý hay đâu.”

“Sao lại không? Mình không hiểu sao


cậu lại về.”

Cậu bạn cười với cô. Một nụ cười


buồn ẩn chứa một điều gì khác nữa. “Cậu
biết điều tồi tệ nhất mình có thể tưởng
tượng ra là gì không?”

Cô chớp mắt. “Không.”

“Không tin nổi người mình yêu.”


Cô cầm lấy ống tay áo cậu. Cậu không
gạt cô đi, nhưng cũng không đáp lại cái
chạm tay của cô. “Cậu muốn nói…”

“Ừ,” Simon trả lời, biết thừa cô định


hỏi gì. “Mình đang nói cậu đấy.”

“Nhưng cậu có thể tin mình mà.”

“Mình từng nghĩ mình có thể,” cậu


nói. “Nhưng mình có cảm giác cậu thà
chết dần chết mòn vì mong nhớ người
cậu không bao giờ có thể bên cạnh, còn
hơn thử ở bên người cậu có thể ở bên.”

Giả vờ chẳng ích gì. “Cho mình thêm


thời gian đi,” cô nói. “Mình chỉ cần chút
thời gian để vượt qua mọi chuyện - để
quên đi tất cả.”

“Cậu không định nói rằng mình đã


nhầm, đúng không?” cậu nói. Mắt cậu mở
lớn và đen lại dưới ánh đèn hiên nhàn
nhạt. “Lần này thì không được.”

“Ừ, không phải lần này. Tớ xin lỗi.”

“Đừng.” Cậu tránh xa cô và bàn tay


đang vươn ra của cô để bước xuống bậc
tam cấp. “Ít ra thì đấy là sự thật.”

Nhưng nó có nghĩa gì đây. Cô nhét


tay vào túi áo, quan sát Simon bỏ đi cho
tới khi bóng tối nuốt chửng cậu.

Hóa ra Magnus và Jace không ra về;


Magnus muốn ở lại thêm vài giờ để đoan
chắc tình hình Maia và Luke phục hồi
theo đúng đự kiến. Sau vài phút nói
chuyện gượng gạo cùng một Magnus
chán chường, trong khi Jace đang ngồi
trước đàn dương cầm của chú Luke mà
chăm chú nghiên cứu vài nhạc phổ và
chẳng buồn để ý tới cô, Clary quyết định
lên giường đi ngủ sớm.

Nhưng giấc ngủ không đến. Cô có thể


nghe thấy tiếng đàn dìu dặt của Jace vang
lên qua những bức tường, nhưng đó
không phải điều làm cô thao thức. Cô
đang nghĩ tới Simon đang trở về ngôi nhà
mà cậu không còn cảm thấy là nhà nữa,
tới sự tuyệt vọng của Jace khi anh nói
anh muốn ghét em, và về việc Magnus
không nói cho Jace nghe sự thực: rằng
Alec không muốn Jace biết về mối quan
hệ của anh ta do anh ta vẫn yêu Jace. Cô
nghĩ tới việc Magnus hẳn sẽ hả hê thế
nào nếu anh ta nói lớn lời đó lên, cho
Jace biết sự thực, và chuyện pháp sư
thực ra đã chẳng nói gì cả - để Alec tiếp
tục dối lừa và vờ vịt - vì đó là tất cả
những gì Alec muốn, còn Magnus thì
quan tâm tới anh ta và sẵn sàng làm điều
đó vì anh ta. Có lẽ Nữ Hoàng Seelie đã
nói đúng một điều: Tình yêu biến bạn
thành một kẻ dối trá.

13. Kẻ chiêu đãi những thiên thần


nổi loạn

Bản nhạc Gaspard de la Nuit của


Ravel chia làm ba phân khúc; Jace
chơi hết phân khúc đầu tiên thì đứng dậy
khỏi đàn, đi vào bếp, lấy điện thoại chú
Luke, gọi một cuộc một. Rồi anh trở về
chơi tiếp bản Gaspard.

Ánh sáng quét qua vạt cỏ trước nhà


chú Luke vào lúc Jace đã chơi được nửa
phân đoạn ba. Ánh sáng vụt tắt ngay sau
đó, để tất cả lại chìm trong bóng tối,
nhưng Jace đã đứng dậy, với tay lấy áo
khoác.

Anh khẽ khàng đóng cửa trước và


nhảy xuống tam cấp hai bậc một. Trên
bãi cỏ cạnh lối vào là một chiếc mô tô,
động cơ vẫn còn rùng rùng. Chiếc mô tô
này mang một vẻ ngoài đậm chất thiên
nhiên kỳ quặc: những chiếc ống trông
như những gân lá được uốn cong và ôm
lấy khung gầm, một ngọn đèn pha duy
nhất, giờ đang tỏa mờ, trông giống một
con mắt phát sáng. Nhìn theo một góc
cạnh nào đấy, chiếc xe trông có sức sống
giống hệt gã trai đang tựa mình vào xe, tò
mò nhìn Jace. Gã ta mặc áo khoác da
nâu, mái tóc đen xoăn lọn đổ dài xuống
vai và bờm xờm che đôi mắt nheo nheo.
Gã ta cười, khoe hàm răng trắng nhởn,
nhọn hoắt. Jace biết, tất nhiên cả xe lẫn
người không hề thực sự sống; chúng đều
là những sinh vật sống về đêm, “hoạt
động” nhờ năng lượng ác quỷ.

Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com

“Raphael,” Jace gọi tên thay cho lời


chào.

“Đây này,” Raphael nói, “tôi mang nó


tới, đúng như cậu yêu cầu.”
“Tôi thấy rồi.”

“Nhưng, tôi phải nói thêm, tôi rất tò


mò vì sao cậu muốn mượn một thứ như
chiếc mô tô quỷ này chứ. Vì một lẽ, mấy
xe này không hẳn là thứ hợp pháp, với
lại, nghe nói cậu có một chiếc rồi.”

“Đúng là tôi có một chiếc,” Jace thừa


nhận, đi quanh cái xe để xem xét nó từ
mọi góc độ. “Nhưng giờ nó đang yên vị
trên nóc Học Viện, mà tôi thì không thể
tới chỗ ấy được.”

Raphael cười khe khẽ. “Có vẻ cả hai


chúng ta đều không được Học Viện chào
đón.”

“Đám ma cà rồng vẫn nằm trong danh


sách Truy nã hả?”

Raphael nghiêng người qua bên nhổ


một bãi nước bọt xuống đất, một cách
duyên dáng. “Họ chụp tội danh giết
người lên đầu chúng tôi,” gã ta giận dữ
oán thán. “Cái chết của thằng bé người-
sói, tiểu thần tiên, thậm chí cả tiểu pháp
sư, dù tôi đã nói với họ rằng chúng tôi
không uống máu pháp sư rồi. Thứ đó
đắng ngắt và có thể gây biến đổi kỳ lạ
lên người dám uống máu họ.”
“Anh nói với Maryse chưa?”

“Maryse.” Mắt Raphael sáng lên. “Dù


muốn, tôi cũng không thể nói chuyện với
bà ta được. Giờ Điều Tra Viên mới là
người nắm quyền quyết định, tất cả
những thăm dò hay yêu cầu đều phải
thông qua bà ta. Bạn của tôi ơi, tình hình
tệ lắm, tệ lắm lắm rồi.”

“Còn phải nói,” Jace đáp. “Mà chúng


ta không phải bạn. Tôi đồng ý không nói
với Hội đồng Clave về chuyện của
Simon vì tôi cần anh giúp. Không phải vì
tôi thích anh.”

Raphael cười toe toét, hàm răng trắng


lóe sáng trong đêm. “Cậu thích tôi.” Gã
nghẹo đầu sang bên. “Kỳ lạ thật,” gã
nhận xét. “Tôi cứ nghĩ cậu sẽ khác đi sau
khi Hội đồng Clave ghét bỏ cậu. Cậu
không còn là đứa con cưng của họ nữa.
Tôi nghĩ cậu ít nhiều phải bớt ngạo mạn
đi chứ. Nhưng cậu vẫn không thay đổi.”

“Tôi trước sau như một,” Jace nói.


“Anh có định cho tôi mượn xe hay không
đây?”

“Vậy là cậu không cho tôi đi nhờ về


nhà nhỉ?” Raphael uyển chuyển tránh
khỏi chiếc xe; khi anh ta di chuyển, Jace
nhìn thấy sợi dây chuyền sáng loáng
quanh cổ.
“Không.” Jace leo lên xe. “Nhưng anh
có thể ngủ dưới hầm rượu dưới nhà nếu
anh ngại mặt trời mọc.”

“Ừm.” Raphael có vẻ đang ngẫm


nghĩ; gã này thấp hơn Jace vài phân, và
dù vẻ bề ngoài trông gã như trẻ hơn,
nhưng ánh mắt cáo già hơn nhiều. “Giờ
chúng ta huề nhau về chuyện Simon rồi
chứ, Thợ Săn Bóng Tối?”

Jace rú ga, quay đầu xe về phía bờ


sông. “Chúng ta chưa bao giờ huề cả,
quỷ hút máu ạ, nhưng ít nhất đây là sự
bắt đầu.”
Từ hồi thời tiết chuyển lạnh tới nay,
Jace không hề chạy mô tô, nên anh bất
ngờ khi va phải cơn gió lạnh buốt vồng
lên từ mặt sông, tạt xuyên qua lớp áo gió
và chiếc quần bò, đâm vào da thịt bằng
những mũi gió lạnh sắc nhọn như kim.
Jace rùng mình, mừng vì ít ra mình cũng
còn đeo găng tay da bảo vệ hai bàn tay.

Cảnh vật chừng như trôi tuột hết màu


sắc. Dòng sông nhuốm màu thép bạc
trắng, bầu trời xám phớt xanh, đường
chân trời chỉ là một đường kẻ đen kít tít
xa. Ánh đèn nhấp nháy sáng dọc theo
từng nhịp cầu Williamsburg và cầu
Manhattan. Không khí nặng mùi tuyết
lạnh, dù phải vài tháng nữa mới đến mùa
đông.

Lần trước bay qua sông, Clary đi


cùng anh, vòng tay cô quàng quanh anh
cùng hai tay nhỏ nhắn túm chặt lần áo
khoác của anh. Lúc đó anh không thấy
lạnh. Anh quặt mạnh và thấy xe hơi
chòng chành; anh nghĩ đã nhìn thấy bóng
mình lao trên mặt nước; nghiêng rạp về
một phía. Khi xe đã lấy lại thăng bằng,
anh đã thấy nóc một con tàu hai bên thân
là kim loại đen, không dấu hiệu gì và hầu
như chẳng đèn đóm, mũi thuyền như một
lưỡi dao hẹp phăm phăm rẽ sóng. Con
thuyền làm anh nghĩ tới một con cá mập,
thân thon gọn, nhanh nhẹn và nguy hiểm
chết người.
Anh đạp phanh và cẩn thận lướt mô tô
xuống, không chút tiếng động, như một
chiếc lá đậu xuống mặt nước. Anh không
cảm thấy mình đang rơi, mà là con
thuyền cưỡi sóng bay lên, đón lấy anh.
Bánh xe chạm boong tàu và anh cho xe
chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Không cần
phải tắt máy; anh xuống xe thì tiếng động
cơ rùng rùng tự động giảm lại thành tiếng
gầm gừ, rồi rì rì nho nhỏ, và im lặng hẳn.
Khi anh liếc nhìn chiếc xe, có vẻ nó như
đang lừ mắt nhìn lại anh, như một chú
cún tiu nghỉu khi bắt ở nguyên một chỗ.

Anh cười với xe. “Tao sẽ về với mày


mà,” anh nói. “Tao phải đi xem xét con
tàu này tí đã.”

Có nhiều thứ để kiểm ta lắm. Anh


đang đứng trên boong tàu khá thoáng, bên
trái là dòng sông. Mọi thứ đều sơn đen:
từ bao lơn tàu tới dàn lan cang kim loại
bao quanh; thậm chí cửa sổ ca bin hẹp
cũng dán đen kịt. Con tàu lớn hơn anh
tưởng: có lẽ dài bằng một sân bóng, có
khi còn hơn. Nó không giống bất cứ một
con thuyền nào Jace từng thấy: là du
thuyền thì lớn quá, tàu chở hàng thì lại
quá nhỏ, với lại anh chưa từng thấy một
con tàu nào lại được sơn đen tuyền như
con tàu này. Jace tự hỏi không biết bố
mình đã kiếm ra nó ở đâu.
Bỏ chiếc xe lại, anh bắt đầu chậm rãi
đi quanh boong. Mây đã quang và sao
đêm đang chiếu xuống, sáng đến không
ngờ. Anh có thể thấy thành phố ở hai bên
mình đang sáng rực lên như thể anh đang
được đứng trên một lối đi hẹp hai bên là
vách tường làm bằng ánh sáng. Tiếng
giày anh vang vọng trên boong. Anh chợt
nghĩ liệu Valentine có từng ở đây không.
Jace hiếm khi ở một nơi nào chừng như
bị bỏ hoang thông thốc thế này.

Anh dừng lại một lúc ở đầu tàu, ngắm


nhìn dòng sông chia cắt Manhattan và
Long Island như một vết sẹo. Mặt sông
gợn lên những con sóng xám bạc, cơn gió
biển lành lạnh thổi đều từng cơn, thứ gió
chỉ thổi gạn qua mặt nước. Anh giang tay,
để gió lùa vào áo khoác thổi bạt nó ra
sau bay như một đôi cánh, quất tung mái
tóc ngang mặt, làm cho mắt cay đến trào
nước mắt.

Cạnh trang viên ở Idris từng có một


cái hồ. Bố đã dạy anh chèo thuyền trên
hồ, dạy cho anh biết ngôn ngữ của gió và
nước, về lực nổi và không khí. Mọi
người đàn ông phải biết lái tàu, ông
từng nói. Đấy là một trong những lần
hiếm hoi ông nói năng như thế, sử dụng
cụm từ mọi người đàn ông thay cho mọi
Thợ Săn Bóng Tối. Đó là một lời nhắc
nhở ngắn gọn rằng, dù Jace có là gì, anh
vẫn là một phần trong chủng con người.
Mắt cay xè, Jace quay người khỏi mũi
tàu, để ý thấy một cánh cửa cabin giữa
hai ô cửa sổ bịt kín. Anh rảo bước qua
boong, thử vặn nắm đấm; cửa bị khóa.
Anh dùng thanh stele vẽ chữ Mở trên mặt
thép, thế là cánh cửa bật mở, bản lề kêu
rin rít phản đối phả ra mạt rỉ sắt đo đỏ.
Jace cúi mình lách qua khung cửa thấp,
đứng dưới khung cầu thang sắt chỉ được
chiếu sáng nhờ ánh đèn leo lét. Không
khí có mùi gỉ sét và bỏ hoang lâu ngày.
Jace vừa bước thêm một bước thì cửa
đóng sầm sau tiếng kim loại lanh lảnh
vang vang, nhấn chìm anh vào bóng tối.

Jace buột miệng chửi thề, lần sờ hòn


đá ngọn đèn phù thủy trong túi. Đôi găng
tay của anh giờ bất giác cứng lại, ngón
tay anh lóng ngóng vì lạnh. Bên trong này
còn lạnh hơn ngoài boong. Không khí
lạnh như nước đá. Anh rút tay khỏi túi áo
và rùng mình, nhưng không phải chỉ vì
lạnh. Toàn bộ tóc sau gáy anh dựng đứng,
từng sợi thần kinh gào thét cảnh báo. Có
gì đó không ổn rồi.

Anh giơ viên đá viết chữ rune lên và


nó lóe sáng khiến mắt anh chảy nước
nhiều hơn nữa. Qua tầm nhìn nhòe nhoẹt,
anh trông thấy một dáng hình cô gái mảnh
mai đứng trước mặt, hai tay bấu trước
ngực, mái tóc là một vết màu đỏ rực lên
trên nền kim loại tối om quanh họ.
Anh run tay, khiến ánh sáng nhảy nhót
qua lại như thể một đàn đom đóm mới
chui lên từ vùng tối đen bên dưới.
“Clary?”

Cô nhìn anh, mặt trắng bệch, môi run


run. Hàng tá câu hỏi chết nghẹn trong cổ
anh - cô đang làm gì ở đây? Sao cô lên
tàu được? Nỗi kinh hoàng quặn thắt bóp
nghẹt anh, ghê gớm hơn bất cứ nỗi sợ
nào khác mà anh từng lo sợ cho bản thân
mình. Ở Clary có cái gì đó không ổn.
Anh bước tới một bước, ngay khi cô thả
tay ra khỏi ngực mà chìa về phía anh.
Bàn tay nhơm nhớp máu. Máu thấm ướt
vạt trước chiếc váy trắng của Clary như
một cái yếm màu đỏ sậm.

Anh nắm lấy tay cô khi cô loạng


choạng tiến lên. Anh suýt làm rơi ngọn
đèn phù thủy khi toàn bộ sức nặng của cô
đổ sập lên người mình. Anh cảm nhận
được nhịp tim của cô, cảm nhận được
mái tóc mềm mại cùa cô sượt qua cằm
mình, quá đỗi quen thuộc. Nhưng trên
người cô có mùi hương khang khác. Mùi
hương anh vẫn quen ở cô, mùi hương hòa
trộn giữa xà phòng hương hoa và vải
bông sạch đã biến đâu mất; giờ anh chỉ
ngửi thấy mùi máu và kim loại. Đầu cô
ngửa ra sau, mắt chỉ còn lòng trắng. Nhịp
tim loạn nhịp rồi chậm dần... chậm dần...
rồi ngừng hẳn...
“Không!” anh lay cô, lay mạnh đến
nỗi đầu cô lắc lư trên cánh tay anh.
“Clary! Dậy đi!” Anh lại lay, và lần này
hàng mi cô hơi hấp háy; anh thấy nhẹ
nhõm như một đợt mồ hôi lạnh đột ngột
túa ra, rồi Clary mở mắt, nhưng đôi mắt
cô không còn mang sắc màu lục bảo nữa;
chúng mờ đục và trắng sáng, trắng chói
lòa như ngọn đèn pha trên con đường tối
đen, trắng như tiếng hét chói lói trong
tâm trí anh. Mình từng thấy đôi mắt này
rồi, anh nghĩ, và rồi bóng tối như một
cơn sóng tràn cuốn trọn lấy anh, nhấn
chìm tất cả vào im lặng.

Màn bóng tối bị đục thủng vài lỗ,


thành những điểm sáng trên nền tối đen.
Jace nhắm mắt, cố ổn định nhịp thở.
Trong miệng anh có vị tanh nồng, giống
vị của máu, và anh biết mình đang nằm
trên mặt kim loại lạnh lẽo và rằng cái
lạnh đang luồn qua lớp quần áo, thấm
vào da thịt mình. Anh thầm đếm ngược từ
một trăm tới khi nhịp thở chậm lại. Rồi
anh lại mở mắt.

Chung quanh anh vẫn là bóng tối,


nhưng là bóng tối của bầu trời đêm quen
thuộc, lấp lánh ánh sao. Anh đang nằm
ngửa trên boong tàu dưới bóng cây cầu
Brooklyn đang lừng lững ngay mũi tàu
như một núi đá tảng và sắt thép xám xịt.
Anh rên rỉ và chống khuỷu tay ngồi dậy -
rồi sựng lại khi thấy một bóng đen khác,
chắc chắn là người, đang cúi xuống nhìn
mình. “Cú đập vào đầu đó đau đấy,”
giọng nói vẫn ám ảnh anh trong những
cơn ác mộng vang lên. “Con thấy sao
rồi?”

Jace ngồi thẳng dậy và ngay lập tức


thấy hối hận vì bụng dạ anh nôn nao. Nếu
anh có ăn gì trong mười giờ qua, chắc
chắn anh sẽ nôn bằng sạch. Do đã chẳng
ăn gì, nên vị chua loét của dịch mật nồng
nặc trong miệng. “Con đau quá.”

Valentine mỉm cười. Ông ta đang ngồi


trên một chồng hộp các tông rỗng dẹp
phẳng, mặc áo com lê xám và đeo cà vạt
xám, trông như đang ngồi sau một chiếc
bàn gỗ gụ đẹp đẽ tại trang viên Wayland
ở Idris. “Ta có câu hỏi khác cho con đây.
Sao con tìm ra ta?”

“Con tra tấn moi lấy thông tin từ con


quỷ Raum,” Jace đáp. “Chính bố đã dạy
cho con chỗ bọn quỷ này cất giấu tim của
chúng. Con đe dọa nó và nó nói với con
- nó nói không rõ ràng lắm, nhưng cũng
đủ để con biết nó tới từ một con tàu trên
sông. Con nhìn lên và thấy bóng con tàu
này. Nó cũng nói với con rằng chính bố
triệu hồi nó,nhưng chuyện này thì con
thừa biết rồi.”

“Hiểu rồi.” Hình như Valentine đang


nén cười. “Lần sau ít ra con nên thông
báo cho ta trước khi ghé qua nhé. Như
thế con sẽ đỡ đụng độ đau đớn với đội
lính canh của ta đấy.”

“Lính canh à?” Jace dựa người vào


bao lơn kim loại lạnh lẽo mà hít vào đầy
phổi luồng không khí trong lành, mát
lạnh. “Ý bố là quỷ, đúng không? Bố đã
dùng Thanh Kiếm để triệu hồi chúng.”

“Ta không phủ nhận điều này,”


Valentine nói. “Những con quái vật của
Lucian đã đánh bại đội quân Kẻ Lầm
Đường của ta, mà ta không còn thời gian
hay cũng chẳng định mất công xây dựng
đội quân đó thêm lần nữa. Giờ khi đã có
thanh Kiếm Thánh, ta không cần chúng
nữa. Ta có những kẻ khác.”

Jace nghĩ tới Clary, người bê bết máu


và hấp hối trong vòng tay mình. Anh đặt
một tay lên trán. Trán mát lạnh nơi bao
lơn kim loại tì vào. “Cái thứ tại cầu
thang,” anh nói. “Không phải Clary, đúng
không?”

“Clary ư?” Valentine nghe hơi ngạc


nhiên. “Con thấy Clary?”

“Sao con lại không thấy Clary chứ?”


Jace cố giữ giọng bình tĩnh, không biểu
lộ cảm xúc. Anh không phải không quen
hay không thoải mái với việc chia sẻ bí
mật - của mình hay của người khác -
nhưng cảm xúc của anh giành cho Clary
là một thứ gì đó anh đã tự nhủ rằng mình
chỉ có thể chịu đựng được nếu không
phải phân tích cặn kẽ đến nó.

Nhưng đây là Valentine. Ông ta luôn


suy nghĩ kỹ về mọi điều, nghiên cứu nó,
phân tích nó theo hướng để có thể biến
nó thành thế mạnh cho mình. Cung cách
này khiến anh nhớ tới Nữ Hoàng Seelie:
lạnh lùng, thâm hiểm, tính toán.

“Thứ con đụng phải tại cầu thang,”


Valentine nói, “là quỷ Agramon - Quỷ
của Nỗi Sợ. Agramon sẽ biến thành bất
cứ thứ gì mà con sợ hãi nhất. Khi nó ăn
no nỗi sợ của con rồi, nó sẽ giết con, nếu
giả như đến lúc đấy con còn sống sót.
Hầu hết đàn ông - và cả đàn bà - đều đã
chết vì sợ trước khi con quỷ kịp giết họ.
Đáng khen cho con là đã cầm cự được
qua.”

“Agramon sao?” Jace kinh ngạc.


“Đấy là con Đại Quỷ. Bố khống chế
được cái thứ đó từ đâu thế?”

“Ta đã trả tiền cho một pháp sư trẻ


tuổi ngạo mạn triệu hồi nó giùm ta. Cậu
ta nghĩ nếu con quái vật vẫn nằm trong
ngôi sao năm cánh, thì cậu ta vẫn có thể
kiểm soát được nó. Không may thay, nỗi
sợ lớn nhất của cậu ta là con quỷ cậu ta
triệu hồi có thể phá vỡ lưới phép và tấn
công ngược lại, và đấy chính xác là
những gì đã xảy ra khi quỷ Agramon
được triệu hồi về.”

“Vậy là cậu ta bỏ mạng như thế,” Jace


nói.

“Ai đã bỏ mạng như thế?”

“Tay pháp sư,” Jace đáp. “Tên cậu ta


là Elias. Cậu ta mới mười sáu. Nhưng bố
biết, đúng không? Nghi thức Địa Ngục
Xoay Chuyển…”

Valentine cười lớn. “Bấy lâu nay con


bận rộn lắm, nhỉ? Vậy con biết lý do gì
ta đã phái lũ quỷ tới nhà Lucian, đúng
không?”

“Bố muốn Maia,” Jace nói. “Vì cô ta


là đứa bé người sói. Bố cần máu cô ta.”

“Ta cho quỷ Drevak tới thám thính


tình hình nhà Lucian và báo cáo lại,”
Valentine nói. “Lucian giết một con,
nhưng khi những con khác thông báo sự
hiện diện của một người sói non…”

“Thì bố cho quỷ Raum đi bắt cô ta.”


Jace đột ngột thấy cực kỳ mệt mỏi. “Vì
chú Luke quý mến cô bé đó, còn bố
muốn làm tổn thương chú ấy khi có thể.”
Anh dừng lại, rồi nói, lần này thận trọng
hơn: “Làm thế hạ cấp thật, kể cả khi
người chơi trò đó là bố.”

Trong thoáng chốc, một tia lửa giận


lóe lên trong ánh mắt Valentine; sau đó
ông ta ngửa đầu, cười vui vẻ. “Ta
ngưỡng mộ sự cứng đầu của con. Quá
giống ta.” Ông ta đứng dậy rồi chìa một
tay cho Jace. “Đứng dậy nào. Đi dạo
quanh boong với ta. Ta có vài thứ muốn
cho con xem.”

Jace những muốn gạt bàn tay đó ra,


nhưng lại không chắc rằng, với cơn đau
trong đầu, liệu anh có thể tự đứng lên mà
không cần trợ giúp được không nữa. Hơn
nữa, tốt hơn hết là đừng nên chọc giận bố
quá sớm; dù ông có đánh giá cao sự nổi
loạn của Jace tới đâu, ông ta cũng không
phải mẫu người kiên nhẫn đối với những
hành vi hỗn xược.

Bàn tay Valentine lành lạnh và khô


ráp, nhưng cái nắm tay lại có tác dụng
trấn an con người ta đến kỳ lạ. Khi Jace
đứng dậy, Valentine rút tay về và lấy
thanh stele ra khỏi túi áo. “Để ta giúp
con hết đau nào,” ông nói và chĩa vũ khí
về phía cậu con trai.

Jace lùi lại - sau một giây lưỡng lự


mà chắc chắn Valentine có nhận ra. “Con
không cần bố giúp.”
Valentine cất thanh stele đi. “Tùy con
thôi.” Ông bắt đầu đi, và Jace, sau một
lúc, rảo bước mới đuổi kịp. Anh thừa
hiểu bố sẽ không bao giờ quay lại xem
anh có đi theo hay không; ông luôn mặc
định rằng anh có đi và sau đó sẽ nói
chuyện với anh.

Anh đã đúng. Khi Jace tới sóng bước


bên Valentine, ông ta đã bắt đầu nói. Ông
chắp tay sau lưng và di chuyển một cách
uyển chuyển, hơi bất cần, không bình
thường đối với một người đàn ông cao
lớn, vai rộng. Dáng người ông hơi chúi
về phía trước, như thể đang dấn bước
trong cơn gió mạnh.
“... nếu ta nhớ đúng,” Valentine đang
nói, “thực ra con rất quen với bài thơ
Paradise Lost của Milton[1] nhỉ?”

[1] John Milton (9/12/1608 - 8/11/1674) là một


nhà thơ, soạn giả, nhà bình luận văn học người
Anh, nổi tiếng với bài thơ Paradise Lost (“Thiên
đường đã mất”). Bài thơ là một thiên sử thi bằng
thơ không vần, kể về chuyện Adam và Eve bị trục
xuất khỏi vườn Địa Đàng.

“Bố chỉ bắt con đọc có mười hay


mười lăm lần gì đó thôi,” Jace đáp. “Thà
trị vì địa ngục còn hơn làm thằng đầy tớ
nơi thiên đường, vân va vân vân.”

“Non serviam,” Valentine nói. “‘Ta sẽ


không phục tùng’. Đó là điều Lucifer đã
viết trên cờ khi dẫn đầu đội quân thiên
thần nổi loạn chống lại chính quyền đã
thổi nát.”

“Ý bố là gì? Bố về phe quỷ dữ


chăng?”

“Có người nói chính Milton cũng về


phe quỷ dữ. Hình tượng Sa tăng của ông
ta thú vị hơn cả Chúa Trời là đằng
khác.” Họ đã gần tới mũi thuyền.
Valentine dừng lại dựa người vào bao
lơn.

Jace đến bên. Tàu đã đi qua hết những


cây cầu bắt ngang sông Đông và giờ đang
hướng về đoạn sông ngăn cách giữa đảo
Staten và Manhattan. Ánh đèn từ quận tài
chính[2] phản chiếu lấp lánh xuống mặt
nước như ánh đèn phù thủy. Bầu trời như
được phết một lớp bột kim cương, còn
dòng sông chôn giấu tất cả bí mật của nó
bên dưới tấm chăn dày đen kịt, đôi chỗ
bị xé toạc bởi những ánh sáng bạc, có thể
là đuôi cá - hoặc đuôi nàng tiên cá.
Thành phố của mình đây, Jace thầm nghĩ
ngợi, chiêm nghiệm, nhưng những từ ngữ
ấy vẫn dẫn đầu óc anh về thành phố
Alicante và những tòa tháp pha lê, chứ
không phải những tòa cao ốc của
Manhattan.

[2] Quận tài chính là một khu vực nhỏ nằm ở


phía nam Manhattan, là nơi đặt trụ sở của rất
nhiều văn phòng, trụ sở của các cơ quan kinh tế
quan trọng trong thành phố, trong đó có sàn
Chứng Khoán New York và Ngân Hàng Dự trữ Liên
bang New York.

Sau một lúc, Valentine nói. “Sao con


ở đây, Jonathan? Ta tự hỏi sau lần cuối
cùng ta gặp con ở Thành phố Xương rằng
liệu nỗi căm hận của con dành cho ta có
tận xương tủy. Ta gần như đã từ bỏ con.”

Giọng ông ta đều đều, như khi nào


cũng thế, nhưng trong đó có chất chứa
một điều - không phải là tổn thương
nhưng ít ra cũng là một nỗi hiếu kỳ, như
thể ông ta chợt nhận ra rằng Jace vẫn có
thể làm ông ngạc nhiên.
Jace hướng mắt ra sông. “Nữ Hoàng
Seelie muốn hỏi bố một câu,” anh bảo.
“Bà ta bảo con hỏi bố xem dòng máu nào
chảy trong huyết quản con.”

Sự ngạc nhiên thoảng qua trên nét mặt


Valentine như thể một bàn tay lau sạch đi
bao nét biểu cảm. “Con đã nói chuyện
với Nữ Hoàng đó à?”

Jace không nói gì.

“Đó là cung cách của Tiên Tộc. Mọi


thứ họ nói đều đa nghĩa. Nói với bà ta,
nếu bà ta có hỏi lại, rằng dòng máu
Thiên Thần chảy trong huyết quản con.”
“Và trong huyết quản mọi Thợ Săn
Bóng Tối,” Jace thất vọng. Anh cứ nghĩ
bố sẽ cho anh câu trả lời rõ ràng hơn kia.
“Bố không nói dối Nữ Hoàng Seelie,
đúng không?”

Giọng Valentine nhát gừng. “Không.


Và con không chỉ tới để hỏi ta mỗi câu
hỏi lố bịch đó. Thực sự thì vì sao con tới
đây, Jonathan?”

“Con cần nói chuyện với ai đó.”Anh


không giỏi kiểm soát giọng nói như bố
mình; anh nghe ra nỗi thống khổ chất
chứa trong đấy, giống như vết thương
đang ứa máu ngay dưới bề mặt.
Lightwood - con chỉ là thứ của nợ với họ
mà thôi. Chắc giờ chú Luke cũng ghét
con rồi. Điều Tra Viên muốn con chết.
Con đã làm tổn thương Alec mà chính
con cũng không biết mình đã làm gì.”

“Còn em gái con?” Valentine hỏi.


“Clarrisa thì sao?”

Vì sao anh cứ phá hoại mọi thứ thế


chứ? “Con bé cũng không hài lòng với
con.” Anh ngần ngừ. “Con nhớ lời bố nói
lúc ở Thành phố Xương. Rằng bố chưa
từng có cơ hội kể cho con nghe sự thật.
Con không tin bố,” anh nói thêm. “Con
muốn bố biết thế. Nhưng con nghĩ con
nên cho bố cơ hội nói lý do.”
“Con cần phải hỏi ta không chỉ là một
lý do thôi đâu, Jonathan ạ.” Giọng
Valentine nhấn nhá khiến Jace giật mình -
trong đó hàm chứa một sự nhún nhường
đang tôi luyện lòng kiêu hãnh của ông,
giống như thép bị tôi trong lửa. “Có rất
nhiều lý do.”

“Vì sao bố giết các Tu Huynh Câm?


Vì sao bố đánh cắp Thanh Kiếm Thánh?
Bố đang lên kế hoạch gì? Vì sao Chén
Thánh là chưa đủ cho bố?” Jace ngăn
mình lại trước khi kịp tuôn ra hàng tá câu
hỏi khác. Vì sao bố lại bỏ rơi con lần
thứ hai? Vì sao bố đã từ bỏ con rồi lại
quay lại tìm con?
“Con thừa biết ta muốn gì. Hội đồng
Clave đã thối nát tới tận gốc rễ nên phải
được hủy diệt rồi tái lập. Idris phải sạch
bóng những kẻ hạ đẳng, trái đất phải đủ
sức chống lại mối họa từ quỷ dữ.”

“Vâng, cái mối họa từ lũ quỷ này


này.” Jace liếc nhìn quanh, như thể hơi
mong chờ trông thấy bóng đen của quỷ
Agramon lại nhào vào mình. “Con cứ
tưởng bố ghét quỷ kia. Thế mà giờ bố lại
sử dụng chúng làm tay sai. Ravener,
Drevak, Agramon - chúng đều là người
làm công cho bố. Làm vệ sĩ, quản gia,
chắc lại cả đầu bếp riêng nữa ấy chứ.”

Valentine nhịp nhịp tay lên hàng lan


can. “Ta không đánh bạn với quỷ,” ông
nói. “Ta là Nephilim, cho dù ta có nghĩ
Hiệp Ước là thứ vứt đi còn Luật là trò
lừa đảo đến thế nào đi nữa. Không phải
cứ răm rắp nghe theo chính phủ mới là
một người dân yêu nước, đúng không
nào? Một người yêu nước thực thụ phải
biết lên tiếng phản đối, phải biết nói anh
ta yêu Tổ quốc chứ không phải chỉ quan
tâm vị trí địa vị xã hội của mình. Ta bị
lăng mạ vì những chọn lựa của mình, bị
buộc phải trốn chạy, bị trục xuất khỏi
Idris. Nhưng ta là - vẫn mãi là - một
Nephilim. Ta không thể thay đổi dòng
máu chảy trong huyết quản ta dù có muốn
- và chắc chắn là ta không muốn.”
Nhưng con thì có. Jace nghĩ tới
Clary. Anh lại liếc qua mặt nước đen
ngòm, biết rằng điều mình ước là điều
bất khả. Từ bỏ việc săn đuổi, giết chóc,
tất cả kiến thức, tốc độ kinh hồn và bao
nhiêu khả năng khác: đó là điều không
thể. Anh là một chiến binh. Không thể là
gì khác được.

“Con muốn không?” Valentine hỏi.


Jace vội nhìn đi nơi khác, tự hỏi liệu bố
có đọc ra nét mặt mình không. Hai người
họ đã ở riêng bên nhau hàng bao nhiêu
năm trời. Đã có thời anh nhớ rõ khuôn
mặt bố hơn khuôn mặt mình. Valentine là
người duy nhất mà Jace biết mình không
thể giấu giếm cảm xúc khỏi ông ta được.
Hay ít nhất là người đầu tiên. Thi thoảng
anh có cảm giác như Clary có thể nhìn
xuyên qua anh như nhìn xuyên qua một
tấm kính.

“Không,” anh đáp. “Con không


muốn.”

“Con sẽ mãi mãi là Thợ Săn Bóng


Tối sao?”

“Vâng,” Jace nói. “Dù gì, bố đã sinh


ra con như vậy rồi.”

“Tốt. Đó là điều ta muốn nghe.” Ông


dựa người lên bao lơn, ngước nhìn bầu
trời đêm. Mái tóc bạch kim của ông ta
điểm vài sợi tóc bạc, trước giờ Jace
chẳng để ý thấy. “Đây là một cuộc
chiến,” Valentine nói. “Câu hỏi duy nhất
là, con sẽ đứng về phía nào?”

“Con nghĩ chúng ta ở cùng một phe.


Con nghĩ chúng ta cùng nhau chống lại lũ
quỷ chứ.”

“Giá mà là vậy. Con phải hiểu rằng,


nếu như ta cảm thấy Hội đồng Clave thực
sự quan tâm tới thế giới này, nếu ta nghĩ
họ đang làm hết sức mình - vì Thiên
Thần, sao ta phải chống lại họ chứ? Vì ta
đâu có lý do gì để làm vậy?”
Vì quyền lực. Jace nghĩ, nhưng không
nói ra. Anh đã không còn biết mình nên
nói gì, hay nên tin gì nữa.

“Nếu Hội đồng Clace cứ mãi như thế


này,” Valentine nói, “lũ quỷ sẽ phát hiện
ra điểm yếu của họ mà tấn công thẳng
vào, trong lúc đó Hội đồng Clave lại mất
tập trung vì suốt ngày mãi lo đi vuốt ve
lũ hạ đẳng, sẽ không có khả năng đánh
bại quỷ được. Quỷ sẽ tấn công, sẽ hủy
diệt tất cả, không chừa thứ gì.”

Những giống loài hạ đẳng. Từ đó


thân thuộc tới khó chịu; chúng làm Jace
nhớ lại thời thơ bé, nhưng theo cái cách
chẳng lấy gì làm hay ho. Khi anh nghĩ về
bố và Idris, thì đấy luôn là những ký ức
nhạt nhòa về ánh mặt trời nóng bỏng
chiếu xuống vườn cỏ xanh trên sân trước
ngôi nhà vùng thôn quê, về hình dáng một
người đàn ông lớn, nước da rám nắng,
bờ vai rộng, cúi xuống bế anh khỏi vườn
cỏ mà đưa anh vào nhà. Hồi đấy hẳn anh
còn rất bé, nhưng anh chưa bao giờ quên
mùi hương cỏ - xanh mát, sáng lạng và
mới được cắt - hay cái cách mặt trời
biến tóc bố mình thành một vầng hào
quang trắng lóa, hoặc cái cảm giác được
ẵm bồng. Được chở che.

“Chú Luke,” Jace nói, có chút khó


khăn. “Chú ấy không hạ đẳng...”
“Lucian thì khác. Anh ta từng là Thợ
Săn Bóng Tối.” Giọng Valentine đều đều
và dứt khoát. “Ta không nói về một kẻ
thuộc Thế Giới Ngầm cụ thể nào,
Jonathan. Ta đang nói tới sự sinh tồn của
tất cả những sinh vật sống trên thế giới
này. Thiên Thần đã chọn Nephilim là có
lý do. Chúng ta là những kẻ thượng đẳng,
và chúng ta phải có trách nhiệm cứu rỗi
thế giới. Chúng ta là điều giống với thần
thánh nhất vẫn đang hiện diện trên thế
giới này - và chúng ta phải sử dụng
quyền năng ấy để cứu thế giới khỏi ngày
diệt vong, bằng mọi giá.”

Jace chống tay lên bao lơn. Trời khá


lạnh: những cơn gió lạnh buốt len lỏi qua
quần áo, còn những ngón tay anh giờ đã
tê cóng. Nhưng trong trí óc, anh vẫn nhìn
thấy những ngọn đồi xanh rì và mặt nước
xanh ngắt cùng những phiến đá màu mật
ong nơi trang viên nhà Wayland.

“Trong truyền thuyết,” anh bảo, “Sa


tăng đã nói với Adam và Eva rằng ‘Các
người sẽ hóa thành thần’ để lừa họ ăn trái
cấm. Và họ đã bị đuổi khỏi thiên đàng.”

Valentine im lặng một lúc trước khi


bật cười. “Thấy chưa, đó là điều ta cần ở
con đấy, Jonathan. Con giúp ta không
bao giờ phạm tội tự cao.”

“Tội lỗi có vô chừng loại.” Jace đứng


thẳng và quay sang đối mặt với bố mình.
“Bố chưa trả lời con về lũ quỷ, thưa bố.
Bố bào chữa cho chuyện triệu tập chúng,
kết bè với chúng thế nào? Bố đang lên kế
hoạch dùng chúng để chống lại Hội đồng
Clave sao?”

“Tất nhiên rồi,” Valentine đáp, không


chút lưỡng lự, không thèm cân nhắc có
nên tiết lộ kế hoạch cho kẻ có thể nói cho
kẻ thù của mình biết hay không. Có lẽ
chẳng có điều gì khiến Jace chấn động
bằng chuyện nhận ra bố mình đang chắc
thắng đến thế nào. “Hội đồng Clave sẽ
không đầu hàng với lý lẽ, mà chỉ chịu
thua vũ lực. Ta đã cố gây dựng một đội
quân Những Kẻ Lầm Đường; với Chén
Thánh, ta có thể tạo ra một đội quân Thợ
Săn Bóng Tối mới, nhưng sẽ tốn nhiều
năm trời. Mà ta không có ngần đó thời
gian. Chúng ta, loài người, không có
nhiều thời gian. Với Thanh Kiếm, ta có
thể triệu tập một đội quân quỷ dữ răm
rắp nghe lời mình. Chúng phục vụ bố như
những con rối, làm bất cứ điều gì ta sai
bảo. Chúng không được lựa chọn. Và khi
ta xong việc với chúng, ta sẽ ra lệnh cho
chúng tự diệt, và chúng sẽ làm theo.”
Giọng Valentine trơ trơ vô cảm.

Jace nắm thành lang can thật chặt đến


mức những ngón tay bắt đầu đau đớn.
“Bố không thể giết tất cả Thợ Săn Bóng
Tối đối nghịch với bố được. Đó là tội cố
sát.”

“Ta không cần làm thế. Khi Hội đồng


Clave thấy quyền lực dàn ra vượt quá
khả năng của họ, họ sẽ đầu hàng. Họ
không phải thứ thích đâm đầu vào chỗ
chết. Với lại trong số họ còn có cả những
kẻ ủng hộ ta nữa.” Không có sự ngạo
mạn trong giọng nói Valentine, chỉ có sự
chắc chắn kiên định. “Họ sẽ bước ra ánh
sáng vào thời điểm thích hợp.”

“Con nghĩ bố đã đánh giá thấp Hội


đồng Clave.” Jace cố nói thật bình thản.
“Con không nghĩ bố hiểu họ ghét bố tới
mức nào.”
“Thù ghét cũng chẳng nghĩa lý gì nếu
đem cân nhắc với sinh tồn.” Tay
Valentine rờ xuống thắt lưng, nơi đốc
Kiếm Thánh đang tỏa sáng mờ mờ.
“Nhưng đừng nghĩ ngợi nhiều tới mấy lời
vừa rồi. Ta đã bảo là có thứ muốn cho
con xem. Đây này.”

Ông ta rút Kiếm Thánh khỏi vỏ và giơ


ra cho Jace xem. Jace đã thấy thanh
Maellartach hồi còn ở Thành phố
Xương, treo trên tường trong phòng của
Những Ngôi Sao Tiên Tri. Và anh cũng
từng thấy đốc kiếm nhô ra sau vai
Valentine, nhưng anh chưa thực sự xem
xét nó kỹ lưỡng. Kiếm Thánh. Kiếm
được đúc bằng bạc đen, nặng trịch, lấp
lánh lớp ánh sáng mờ mờ. Ánh sáng
dường như di chuyển chung quanh lẫn
xuyên qua kiếm, như thể nó làm từ nước.
Trên đốc kiếm khắc hình một bông hồng
đỏ kết từ những tia sáng.

Jace nói mà mồm miệng khô khốc.


“Đẹp quá.”

“Ta muốn con cầm nó.” Valentine đưa


thanh kiếm cho cậu con trai, theo cách
ông luôn dạy con, chìa đốc kiếm ra
trước. Thanh kiếm dường như tỏa ánh
sáng đen dưới ánh sao.

Jace chần chừ. “Con không...”


“Cầm đi.” Valentine ấn kiếm vào tay
anh.

Vào khoảnh khắc khi ngón tay Jace


nắm lấy chuôi kiếm, một lưỡi giáo ánh
sáng vụt lên từ đốc kiếm rồi từ lõi chuôi
kiếm truyền dọc vào lưỡi kiếm. Anh đảo
nhanh mắt nhìn bố, nhưng Valentine
không tỏ thái độ gì khác.

Một cơn đau kinh khủng từ cánh tay


Jace lan vào tận ngực anh. Không phải vì
thanh kiếm nặng; không hề. Nhưng dường
như nó muốn kéo anh xuống, lôi anh khỏi
tàu, qua làn nước đại dương xanh thẳm,
qua lớp vỏ trái đất mỏng manh. Jace thấy
như hơi thở bị ép hết khỏi lồng ngực.
Anh vụt ngẩng đầu nhìn quanh…

Và nhận ra khung cảnh ban đêm đã


biến đổi. Một mạng lưới những sợi dây
vàng mỏng sáng đã được vung ra đan
dọc ngang bầu trời, những vì sao chiếu
xuyên qua nó, sáng như những dấu đinh
được tán vào bóng tối. Jace thấy đường
cong của trái đất khi nó rời xa mình, và
trong khoảnh khắc vẻ đẹp toàn cảnh
khiến anh ngây dại. Và rồi màn đêm vỡ
tan như kính, cùng rơi lã chã theo các
mảnh kính vỡ ấy là những hình thù đen
đúa, lưng gù và méo mó, tay chân tua tủa
nhưng lại không có khuôn mặt, đang tru
lên tiếng thét vô thanh cháy rát trong bên
trong tâm trí Jace. Cơn gió rét căm làm
anh phồng rộp cả da khi những con ngựa
sáu chân phi rần rần qua, những tia lửa
đỏ như máu bắn lên theo vó ngựa trên
boong tàu. Những thứ cưỡi trên lưng
chúng xấu xí khó tả. Trên bầu trời, những
sinh vật không mắt, cánh lông mao lượn
vòng, ré lên the thé và nhễu nhão những
giọt nhớt xanh lè đầy nọc độc.

Jace nhoài người qua ngoài bao lơn,


cứ thế nôn khan, thanh kiếm vẫn nắm chặt
trong tay. Bên dưới kia, làn nước náo
động những quỷ chen chúc như thể một
nồi súp độc. Anh trông thấy những sinh
vật gai góc, với những con mắt trợn tròn
đỏ như máu đang vật vã chống chọi khi
bị hằng hà sa số những chiếc xúc tu đen
sì trơn tuột kéo xuống. Một nàng tiên cá
bị một con nhện nước mười chân tóm
chặt, đang la hét giãy chết khi con quỷ
cắn ngập răng vào đuôi cá đang quẫy
đạp, đôi mắt đỏ nhện quỷ long lên như
những viên chuỗi hạt bằng máu.

Thanh Kiếm tuột khỏi tay Jace, rơi


lanh canh trên sàn. Đột nhiên mọi âm
thanh, hình ảnh biến đi đâu mất, và trời
đêm lại tĩnh lặng. Jace nắm chặt lấy bao
lơn, nhìn chằm chằm xuống mặt biển mà
không dám tin vào mắt mình. Biển chẳng
có gì, thi thoảng lăn tăn gợn sóng nhờ
những cơn gió thoáng qua.

“Cái gì vừa xảy ra vậy?” Jace thì


thào. Cổ họng anh khản đặc, như vừa bị
chà giấy nhám. Anh hoảng loạn nhìn bố,
người đang cúi xuống nhặt lấy Thanh
Kiếm Linh Hồn bị rơi. “Đó là những con
quỷ bố đã gọi sao?”

“Không.” Valentine tra thanh


Maellartach vào vỏ. “Đấy là những con
quỷ bị thanh kiếm thu hút đến ven rìa thế
giới này. Ta đưa con tàu tới đây vì lưới
bảo vệ nơi đây khá mỏng. Những gì con
thấy là đội quân của ta, đang đợi ở bên
kia lưới bảo vệ - đợi ta gọi chúng tới.”
Ánh mắt Valentine nghiêm nghị. “Con
vẫn nghĩ Hội đồng Clave sẽ không đầu
hàng chứ?”
Jace nhắm mắt và nói. “Không phải
tất cả… không phải nhà Lightwood…”

“Con có thể thuyết phục họ. Nếu con


đứng vào hàng ngũ của ta, ta hứa họ sẽ
không bị làm hại.”

Màn tối đằng sau mắt Jace bắt đầu


chuyển sang sắc đỏ. Nãy giờ anh đang
tưởng tượng ra đám tro tàn của căn nhà
cũ của Valentine, những nắm xương cháy
của người ông, người bà anh chưa từng
biết mặt. Giờ thì anh nhìn thấy những
khuôn mặt khác. Alec. Isabelle. Max.
Clary.

“Con đã làm họ tổn thương quá nhiều


rồi,” anh thì thào, “Không điều gì được
xảy ra cho bất cứ ai trong số họ nữa.
Không một điều gì.”

“Tất nhiên. Ta hiểu.” Và Jace nhận ra,


một cách kinh ngạc Valentine thực sự
hiểu, rằng bằng cách nào đấy mà ông ta
hiểu được những điều người khác dường
như không tài nào hiểu thấu. “Con nghĩ
tất cả những nguy hiểm xảy tới với bạn
bè con, gia đình con, đều là lỗi của con.”

“Đó là lỗi của con.”

“Con nói đúng. Đó là lỗi của con.”


Nghe tới đây, Jace ngẩng nhìn lên choáng
váng. Bất chợt được đồng tình làm anh
vừa thấy lòng vơi đi chút ít nhưng cũng
dấy lên thêm chút lo sợ.

“Thật sao?”

“Tất nhiên là con không cố ý. Nhưng


con giống ta. Chúng ta đầu độc và hủy
hoại mọi thứ mình yêu thương. Điều này
có lý do của nó.”

“Lý do gì?”

Valentine ngước nhìn bầu trời.


“Chúng ta được sinh ra vì một mục đích
cao cả hơn, cả ta lẫn con. Những xao
lãng từ thế giới này chỉ là xao lãng mà
thôi. Nếu chúng ta cho phép mình bị xa
rời khỏi mục đích sinh ra vì sự xao lãng
đó, thì chúng ta đáng bị trừng phạt.”

“Và đòn trừng phạt của chúng ta lại


dành cho những người chúng ta yêu
thương sao? Có vẻ hơi khắc nghiệt với
họ.”

“Định mệnh chẳng bao giờ công bằng.


Con đang vướng vào một dòng chảy
mạnh hơn sức con, Jonathan ạ; cố cưỡng
lại nó đi rồi con sẽ dìm chết không chỉ
mình con mà còn cả những người đang
cố cứu lấy con đấy. Cứ xuôi theo dòng
ấy, rồi con sẽ sống sót.”
“Clary…”

“Em gái con sẽ không gặp nguy hiếm


gì nếu con đứng về phía ta. Ta sẽ đi tới
cùng trời cuối đất để bảo vệ con bé. Ta
sẽ đưa con bé tới Idris, nơi con bé sẽ
không gặp chuyện gì. Ta hứa.”

“Alec. Isabelle. Max...”

“Cả những đứa con nhà Lightwood


nữa, ta sẽ bảo vệ chúng.”

Jace thì thầm nói ra một cái tên khác.


“Chú Luke…”
Valentine lưỡng lự, rồi nói, “Tất cả
bạn bè con sẽ được bảo vệ. Vì sao con
không thể tin ta hả Jonathan? Đó là cách
duy nhất con có thể cứu họ. Ta thề đấy.”

Jace không thể nói nên lời. Anh lại


nhắm mắt. Bên trong anh cái lạnh lẽo của
tiết thu đang đấu tranh cùng những ký ức
về mùa hè ấm áp.

“Con quyết định chưa?” Valentine


hỏi; Jace không thể nhìn thấy ông nhưng
anh có thể nghe ra sự dứt khoát trong câu
hỏi đó. Ông ta nghe ra còn hăm hở là
đằng khác.

Jace mở mắt. Ánh sao giờ là một đốm


sáng trắng chói lòa vào con ngươi anh;
trong một lúc anh không thấy được gì
khác. Rồi anh nói, “Vâng, thưa Bố. Con
đã quyết định.”
Phần 3: Ngày phán xét

Ngày phán xét, hỡi ngày của lửa


cháy

Những bậc tiên tri từng khóc than

Rằng cả thế giới sẽ hóa tro tàn

- Abraham Coles
14. Can trường

Khi Clary tỉnh giấc, ánh sáng đang


chiếu qua những ô cửa sổ và má trái cô
đột nhiên thấy nhói đau. Lăn mình sang
bên, cô thấy mình ngủ gục trên vở nháp
và cạnh vở chọc vào mặt. Cô cũng đánh
rơi bút xuống chăn, để lại vết ố đen
loang trên lớp vải. Cô rên rỉ ngồi thẳng
dậy, ảo não xoa má và đi tới nhà tắm.

Nhà tắm phơi ra những dấu hiệu lồ lộ


của các hoạt động tối qua, mấy chiếc
khăn vấy máu nhét vào thùng rác cùng
vết máu phết qua bồn rửa mặt. Rùng
mình, Clary chui vào bồn tắm cùng với
chai sữa tắm hương bưởi, quyết gột sạch
cảm giác khó chịu còn nán lại trong
người.

Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com

Sau đấy, người quấn trong chiếc áo


khoác tắm của chú Luke và tấm khăn
cuộn quanh mái tóc ẩm, Clary đẩy mở
cửa phòng tắm thì thấy Magnus đang
chờn vờn đứng bên kia cửa, một tay cầm
khăn tắm và một tay đang vò mái tóc
sáng lấp lánh. Hẳn anh ta đã dùng khăn
làm gối, cô nghĩ, vì một bên mái tóc vuốt
dựng hơi bị xẹp. “Sao con gái tắm lâu
thế chứ?” pháp sư phàn nàn. “Những cô
gái loài người, nữ Thợ Săn Bóng Tối, nữ
pháp sư, ai cũng như ai. Tôi ngồi đợi tới
già mất.”

Clary tránh sang bên cho anh ta đi


qua. “Mà anh bao nhiêu tuổi rồi?” cô tò
mò hỏi.

Magnus nháy mắt với cô. “Tôi sống từ


thời Biển Chết chỉ là một cái hồ nhỏ
xíu.”

Clary đảo mắt.

Magnus xua cô đi. “Giờ dịch mông


sang bên hộ cái. Tôi cần vào đó, tóc tôi
xộc xệch hết rồi.”

“Đừng dùng hết sữa tắm của tôi, đắt


lắm đấy,” Clary bảo anh ta, đoạn đi
thẳng vào bếp tìm vài bộ lọc và cắm máy
pha cà phê hiệu Mr. Coffee. Tiếng nước
sôi sùng sục quen thuộc và mùi cà phê
làm dịu đi cảm giác bất an trong cô. Chỉ
cần thế giới còn cà phê thì mọi chuyện
đâu thể quá tệ được?

Cô trở về phòng ngủ để mặc quần áo.


Mười phút sau, trong chiếc quần bò và
áo len sọc xanh lam xanh lục, cô vào
phòng khách đánh thức chú Luke. Chú
rên rẩm ngồi dậy, tóc bù xù và mặt còn
ngái ngủ.

“Chú thấy sao rồi?” Clary hỏi, đưa


cho chú chiếc cốc mẻ đầy cà phê nghi
ngút khói.

“Thấy đỡ hơn rồi.” Chú Luke liếc


nhìn phần vải rách của chiếc áo sơ mi;
rìa chỗ rách dính máu. “Maia đâu?”

“Cô ấy ngủ trong phòng chú, chú nhớ


không? Chú bảo cô ấy ngủ tại đó cũng
được.” Clary ngồi ghé lên tay ghế sô
pha.

Luke dụi dụi đôi mắt trũng sâu. “Chú


không nhớ rõ chuyện tối qua lắm,” chú
thừa nhận. “Chú nhớ ra ngoài cất xe rồi
sau đó thì chẳng nhớ gì nữa.”

“Có vài con quỷ nấp ở ngay bên


ngoài. Chúng tấn công chú. Jace và cháu
đã xử lý chúng rồi.”

“Quỷ Drevak nữa à?”

“Không.” Clary ngập ngừng. “Jace


bảo chúng là quỷ Raum.”

“Quỷ Raum?” Chú Luke ngồi thẳng


dậy. “Những con đó mạnh lắm. Quỷ
Drevak là mấy con bọ nguy hiểm, nhưng
quỷ Raum…”

“Không sao đâu chú,” Clary nói.


“Chúng cháu xử lý xong chúng rồi.”

“Cháu xử lý? Hay Jace xử lý? Clary,


chú không muốn cháu…”

“Không phải vậy.” Cô lắc đầu. “Chỉ


là…”

“Magnus không ở đây sao? Sao anh ta


không đi cùng các cháu?” chú Luke ngắt
lời, rõ là đang cáu.

“Tôi đang bận chữa trị cho Maia, đó


là lý do đấy,” Magnus vừa nói vừa đi
vào phòng khách, mang theo hương bưởi
ngào ngạt. Mái tóc của pháp sư được
cuốn gọn trong khăn và anh ta mặc bộ đồ
thể thao thùng thình bằng vải sa tanh xanh
sọc trắng bạc. “Lòng biết ơn đâu rồi ấy
nhỉ?”

“Tôi rất biết ơn.” Chú Luke nhìn như


thể vừa giận vừa cố nín cười. “Chỉ là
nếu có chuyện với Clary…”

“Anh sẽ chết nếu tôi đi cùng họ,”


Magnus nói rồi ngồi phịch xuống ghế.
“Cô bé đây và Jace xử lý lũ quỷ ổn lắm,
đúng không?” Anh ta quay sang Clary.
Cô lúng túng. “Ừ thì, đấy chỉ là…”

“Chỉ là cái gì?” Là Maia, vẫn trong


bộ quần áo cô ta mặc đêm qua, có khoác
thêm chiếc áo vải flannel rộng thùng
thình của chú Luke bên ngoài áo sơ mi.
Cô ta loạng choạng đi qua phòng và thận
trọng ngồi xuống ghế. “Có phải tôi ngửi
thấy mùi cà phê không nhỉ?” cô ta vừa
phấp phỏng hỏi vừa nhăn nhăn mũi.

Thiệt chứ, Clary thầm nghĩ, người sói


mà dễ thương và hấp dẫn vậy thật chẳng
công bằng gì cả; đáng ra cô ta phải to
con và lông lá rậm rạp, có khi còn có
lông mọc ra khỏi tai nữa ấy chứ. Và đó,
Clary thầm thêm vào, chính xác là lý do
vì sao mình không có bạn gái và lúc
nào cũng chỉ chơi với mỗi Simon. Mình
phải bình tĩnh lại mới được. Cô đứng
dậy. “Cậu muốn tớ lấy cho cậu một cốc
không?”

“Có.” Maia gật đầu. “Thêm sữa và


đường nhé!” cô ta gọi theo khi Clary rời
phòng, nhưng khi Clary từ bếp trở vào
với cốc cà phê nghi ngút khói trên tay,
Maia đang nhíu mày bối rối. “Tớ không
nhớ nhiều về chuyện tối qua,” cô nàng
nói, “nhưng có gì đấy về Simon, có gì
đấy làm tớ băn khoăn…”

“Ừ thì cậu định giết cậu ấy,” Clary


nói, và ngồi xuống tay ghế. “Có lẽ là
điều ấy đấy.”

Maia trắng bệch, nhìn chằm chằm vào


cốc cà phê. “Tớ quên mất. Giờ cậu ấy
thành ma cà rồng rồi.” Cô ngước nhìn
Clary. “Tớ không định làm cậu ấy bị
thương. Chỉ là…”

“Ừ?” Clary nhướn mày. “Là làm


sao?”

Gương mặt Maia từ từ đỏ lên. Cô đặt


cốc cà phê xuống bàn.

“Cô nên nằm xuống,” Magnus khuyên


nhủ. “Tôi phát hiện ra rằng làm thế sẽ đỡ
lắm đấy khi cảm giác tan nát từ một hiện
thực đau lòng đang ngấm vào.”

Đột nhiên mắt Maia ầng ậc nước.


Clary sợ hãi nhìn Magnus - anh ta có vẻ
cũng choáng - rồi lại nhìn chú Luke.
“Làm gì đi chú,” cô rít lên nho nhỏ với
chú. Có thể Magnus là pháp sư đại tài có
khả năng chữa lành những vết thương chí
tử chỉ với một ngọn lửa xanh, nhưng giữa
hai người thì chú Luke mới là lựa chọn
hàng đầu trong việc giải quyết rắc rối
của các cô gái tuổi teen đang trong cơn
khóc lóc thảm thiết.

Chú Luke bắt đầu đá chăn ngồi dậy,


nhưng trước khi chú kịp đứng lên, cánh
cửa trước bật mở và Jace bước vào, theo
sau là Alec cầm theo một chiếc hộp
trắng. Magnus vội vàng kéo khăn khỏi
tóc và vứt ra sau ghế. Không có gel và
kim tuyến, mái tóc vị pháp sư sậm màu
thẳng tuột, dài gần xuống vai.

Ánh mắt Clary ngay lập tức hướng tới


Jace, như một thói quen; cô không thể
ngăn bản thân, nhưng may mà những
người khác dường như không để ý. Jace
có vẻ bị kích động, mệt mỏi và căng
thẳng, cũng như là kiệt sức, hai mống mắt
thâm quầng. Ánh mắt anh chỉ thoáng liếc
qua cô nhưng không biểu lộ bất kỳ một
loại cảm xúc nào rồi dừng lại nơi Maia,
vẫn đang khóc lóc trong câm lặng và
hình như không nhận ra sự hiện diện của
hai người mới. “Có vẻ ai nấy đều vui vẻ
nhỉ,” anh nhận xét, “Giữ vững tinh thần
chăng?”

Maia dụi mắt. “Bực quá,” cô làu bàu.


“Tôi ghét khóc trước mặt các Thợ Săn
Bóng Tối.”

“Vậy vào phòng khác mà khóc,” Jace


nói, giọng không chút ấm áp nào. “Chúng
tôi cũng đâu cần cô ngồi đó dỗi hờn
trong khi chúng tôi nói chuyện, nhỉ?”

“Jace,” chú Luke cảnh cáo, nhưng


Maia đã đứng dậy, quày quả ra khỏi
phòng qua lối cửa bếp.
Clary quay qua Jace. “Nói chuyện hả?
Mọi người đâu có nói gì đâu.”

“Nhưng giờ sẽ nói,” Jace nói và ngồi


phịch xuống ghế đàn dương cầm mà duỗi
thẳng chân. “Magnus đang muốn hét vào
mặt anh này, có đúng không thưa ngài
Magnus?”

“Đúng,” Magnus đáp, chỉ ngừng lườm


nguýt Alec một thoáng để cau mày với
Jace. “Cậu ở chỗ quái nào thế? Tôi nghĩ
tôi đã nói rõ rằng cậu phải ở trong nhà
cơ mà.”
“Tôi nghĩ anh ấy không có quyền lựa
chọn,” Clary nói. “Tôi nghĩ Jace phải ở
nơi nào có anh. Anh biết đó, do phép
thuật thôi.”

“Thường là vậy thật,” Magnus gắt


gỏng, “nhưng đêm qua, sau mọi chuyện
tôi đã làm, phép thuật của tôi bị… suy
yếu.”

“Suy yếu ư?”

“Đúng.” Magnus có vẻ tức giận hơn


bao giờ hết. “Kể cả Đại Pháp Sư khu
Brooklyn đi nữa thì cũng không có được
nguồn lực vô hạn đâu. Tôi cũng chỉ là
người. Ừm,” anh ta sửa lại, “đúng ra là
nửa người.”

“Nhưng anh phải biết rằng nguồn năng


lượng của mình bị suy yếu chứ,” chú
Luke tàn nhẫn nói, “phải không?”

“Đúng, và tôi đã bắt thằng khỉ kia thề


phải ở trong nhà rồi,” Magnus quắc mắt
lên với Jace. “Giờ tôi biết lời hứa danh
dự của Thợ Săn Bóng Tối có giá trị quá
nhỉ.”

“Anh cần phải biết cách buộc tôi giữ


lời hứa,” Jace không hề nao núng. “Chỉ
có thề trước Thiên Thần mới có ý
nghĩa.”
“Đúng vậy,” Alec nói. Đây là lời nói
đầu tiên kể từ khi hai người họ đặt chân
vào nhà.

“Tất nhiên là đúng.” Jace cầm cốc cà


phê chưa động tới của Maia và nhấp một
ngụm. Anh nhăn mặt. “Có đường.”

“Vậy cậu ở đâu cả đêm qua hả?”


Magnus hỏi, giọng chua loét. “Cùng Alec
hả?”

“Tôi không ngủ được, thế là tôi đi


dạo,” Jace đáp. “Khi trở lại, tôi đụng
phải cái thằng khỉ mặt buồn thiu đang
ngồi mơ màng trước hiên nhà này.” Anh
chỉ Alec.
Mặt Magnus sáng rực. “Cậu ở đây cả
đêm qua à?” anh ta hỏi Alec.

“Không,” Alec đáp. “Tôi về nhà rồi


trở lại. Tôi mặc đồ khác rồi, thấy không?
Nhìn đi.”

Mọi người đều nhìn. Alec mặc áo len


tối màu và quần bò, y như ngày hôm qua.
Clary quyết định không nói gì để anh ta
đỡ ngượng. “Trong hộp có gì thế?” cô
hỏi.

“À.” Alec nhìn vào hộp như thể đã


quên mất. “Có gì đâu, bánh vòng ấy mà.”
Anh ta mở hộp rồi đặt xuống bàn. “Mọi
người muốn ăn không?”

Hóa ra, mọi người đều muốn. Jace


muốn những hai cái. Sau khi ăn hết chiếc
bánh phủ kem Boston mà Clary đưa, chú
Luke dường như có thêm chút sinh khí;
chú đá chăn ra và ngồi tựa lưng vào ghế.
“Có một chuyện chú không hiểu được,”
chú nói.

“Chỉ có một thôi sao? Chú tiến bộ


hơn tất cả bọn cháu rồi,” Jace nói.

“Hai đứa đi ra ngoài tìm chú khi


không thấy chú trở về,” chú Luke nói,
nhìn cả Clary lẫn Jace.
“Ba người ạ,” Clary nói, “Simon đi
cùng nữa.”

Chú Luke có vẻ bị đau. “Được. Ba


người bọn cháu. Và có hai con quỷ,
nhưng Clary nói các cháu không giết con
nào. Vậy là sao?”

“Cháu đáng ra đã giết được một con,


nhưng nó trốn mất,” Jace nói. “Nếu
không thì…”

“Nhưng sao nó phải bỏ chạy?” Alec


hỏi vặn. “Hai con quỷ, ba người các cậu
- nó thấy bị áp đảo à?”
“Tôi không có ý xúc phạm những
người liên quan, nhưng chỉ có một trong
số ba người có khả năng chiến đấu, và
đó là Jace,” Magnus nói. “Một Thợ Săn
Bóng Tối chưa qua đào tạo và một ma cà
rồng chết nhát…”

“Em nghĩ chắc là do em,” Clary nói.


“Em nghĩ có lẽ em đã dọa nó chạy mất.”

Magnus chớp mắt. “Không phải tôi


vừa nói…”

“Em không có ý nói em dọa chúng


chạy vì chính em cũng sợ chết đi được.
Em nghĩ là vì thứ này.” Cô giơ tay, để họ
nhìn thấy Ấn Ký trên mặt trong cánh tay.
Mọi người đột nhiên im lặng. Jace
nhìn cô một lúc rồi nhìn đi chỗ khác;
Alec chớp chớp mắt, còn chú Luke có vẻ
kinh ngạc. “Chú chưa từng thấy Ấn Ký
này,” cuối cùng chú nói. “Có ai thấy Ấn
Ký này chưa?”

“Chưa,” Magnus nói. “Nhưng tôi


không thích nó.”

“Em cũng không biết nó là gì, và nó


có ý nghĩa gì,” Clary nói và hạ tay
xuống. “Nhưng nó không từ Sách Xám
mà ra.”
“Tất cả các chữ rune đều từ cuốn
Sách Xám.” Jace đoán chắc.

“Không phải cái này,” Clary nói. “Em


thấy nó trong mơ.”

“Trong mơ á?” Jace tức giận như thể


cô đang chủ đích thóa mạ anh. “Em đang
chơi trò gì đây, Clary?”

“Em không đùa gì hết. Anh không nhớ


khi chúng ta ở Triều Đình Seelie…”

Jace trông như thể vừa bị cô đánh.


Clary nói tiếp, liến thoắng, trước khi anh
kịp mở lời:
“… và Nữ Hoàng Seelie bảo rằng
chúng ta là những vật thí nghiệm à? Rằng
Valentine đã làm - đã làm vài điều với
chúng ta, khiến chúng ta khác biệt, đặc
biệt ấy? Bà ta nói em mang món quà của
từ ngữ không thể nói lên, và của anh là
món quà của chính Thiên Thần.”

“Đó là chuyện tào lao của thần tiên.”

“Thần tiên không nói dối, Jace ạ.


Những từ không thể nói ra - bà ta muốn
nói tới những chữ rune đấy. Mỗi từ có
một ý nghĩa khác, nhưng chúng là phải
được viết ra, chứ không phải nói ra.” Cô
nói tiếp, lờ tịt vẻ nghi ngờ trên mặt anh.
“Nhớ lúc anh hỏi làm sao mà em vào
được xà lim tại Thành phố Câm Lặng
không? Em nói em chỉ dùng chữ rune Mở
thông thường…”

“Em chỉ cần làm thế sao?” Alec sửng


sốt. “Anh tới đó ngay sau và anh thấy
cảnh cửa như bị giật tung khỏi bản lề
vậy.”

“Và chữ rune của em không chỉ mở


cửa,” Clary. “Nó mở cả mọi thứ trong xà
lim, tháo tung cùm của Jace.” Cô hít một
hơi. “Em nghĩ Nữ Hoàng muốn nói em
có thể vẽ ra những chữ rune mang quyền
năng hơn những chữ rune thông thường.
Và thậm chí tạo ra những con chữ mới.”
Jace lắc đầu. “Không ai có thể tạo ra
những chữ rune mới…”

“Có thể con bé làm được, Jace.” Alec


có vẻ ngẫm ngợi. “Quả thật, chúng ta
chưa ai từng thấy chữ rune trên tay cô
ấy.”

“Alec nói phải đấy,” chú Luke nói.


“Clary, sao cháu không đi lấy tập phác
thảo tới đây nhỉ?”

Cô ngạc nhiên nhìn chú. Đôi mắt xanh


xám của chú hơi trũng sâu, hiện rõ sự
mệt mỏi, nhưng sự kiên định trong đó
vẫn y nguyên như hồi cô sáu tuổi, khi chú
hứa nếu cô chịu trèo qua khu đu tay trong
công viên Prospect, chú sẽ luôn đứng
dưới sẵn sàng đỡ lấy cô nếu cô có ngã.
Và chú luôn giữ lời.

“Okay,” cô nói. “Cháu quay lại ngay.”

Để vào phòng ngủ, Clary phải đi qua


nhà bếp, nơi Maia đang ngồi trên chiếc
ghế kéo đến cạnh quầy bếp, trông rất
thảm thương, “Clary à,” cô nói và nhảy
khỏi ghế. “Tớ nói chuyện với cậu một lát
được không?”

“Tớ đang định lên phòng lấy đồ…”

“Nghe này, tớ xin lỗi vì chuyện với


Simon. Lúc đó tớ đang mê sảng.”

“Ồ vậy ư? Thế còn ba cái lời rằng


người sói có sứ mệnh ghét ma cà rồng là
sao ấy nhỉ?”

Maia thở dài buồn bã. “Đúng thế thật,


nhưng... tớ nghĩ mình không cần thúc đẩy
quá trình ấy nhanh hơn làm gì.”

“Đừng giải thích với tớ; giải thích với


Simon ấy.”

Maia lại đỏ mặt, hai má đỏ lựng lên.


“Tớ không nghĩ cậu ấy còn muốn nói
chuyện với tớ.”
“Có thể vẫn đấy. Cậu ấy vốn là người
vị tha mà.”

Maia nhìn cô kỹ hơn. “Tớ không có ý


tò mò, nhưng hai cậu đang hẹn hò à?”

Clary thấy chính mình cũng đỏ mặt và


may mặt cô có tàn nhang mới che đậy
được đôi chút. “Sao cậu muốn biết?”

Maia nhún vai. “Lần đầu tiên tớ gặp


cậu ấy, cậu ấy nói cậu là bạn thân, nhưng
lần thứ hai lại gọi là bạn gái. Tớ không
biết liệu đấy có phải là kiểu quan hệ lúc
này lúc khác không.”
“Ừ thì thế. Trước tiên bọn tớ là bạn
thân. Đó là một câu chuyện dài.”

“Tớ hiểu.” Má Maia hết đỏ và nụ


cười khẩy thường lệ trở về với khuôn
mặt. “Ừm, cậu may mắn đấy. Kể cả giờ
cậu ấy có là ma cà rồng. Là một Thợ Săn
Bóng Tối, cậu chắc là quá quen với
những chuyện kỳ lạ rồi, vì thế tớ nghĩ sự
thay đổi của Simon không làm cậu nao
núng.”

“Có chứ,” Clary nói, gay gắt hơn dự


định. “Tớ không phải Jace.”

Nụ cười khẩy đậm nét hơn. “Không ai


có thể là Jace. Và tớ có cảm giác anh ta
cũng thừa biết.”

“Ý cậu là sao?”

“Ồ, cậu biết đấy. Jace làm tớ nghĩ tới


cậu bạn trai cũ. Có vài gã nhìn cậu như
thể họ muốn lên giường với cậu. Jace
nhìn cậu như thể hai người đã lên giường
với nhau, mặn nồng lắm, nhưng giờ hai
người chỉ là bạn - dù cho cậu muốn
nhiều hơn. Anh ta thừa sức khiến con gái
phát cuồng. Cậu hiểu tớ nói gì không?”

Có chứ, Clary thầm nghĩ. “Không,” cô


đáp.
“Tớ đoán là không, vì cậu là em gái
anh ta. Cậu nhớ lấy lời tớ nhé.”

“Tớ phải đi đây.” Clary sắp đi khỏi


bếp thì bỗng nghĩ ra điều gì nên quay
ngoắt lại. “Chuyện gì xảy ra với anh ta?”

“Anh nào?” Maia chớp chớp mắt.

“Anh bạn trai cũ ấy. Người khiến cậu


nhớ tới Jace ấy.”

“À,” Maia nói. “Anh ta là kẻ đã biến


tớ thành người sói.”

“À, cháu mang vở đến rồi đây,” Clary


nói, trở về phòng khách với cuốn tập và
hộp bút chì Prismacolor. Cô kéo theo
chiếc ghế ít được dùng ở phòng ăn tới -
chú Luke luôn ăn ngay trong nhà bếp hay
phòng làm việc, nên bàn ăn toàn là hóa
đơn và giấy tờ cũ - rồi ngồi xuống, đặt
cuốn tập trước mặt. Cô cảm thấy như
mình đang làm bài thi vào trường nghệ
thuật. Vẽ quả táo này. “Mọi người muốn
em làm gì?”

“Thế em nghĩ là gì?” Jace đang ngồi


trên ghế dương cầm, vai nhô về phía
trước, hình như cả đêm qua anh thức
trắng. Alec đang dựa người vào cây đàn,
có lẽ đấy là tư thế tránh xa Magnus hết
sức cho phép.
“Jace, đủ rồi.” Chú Luke ngồi thẳng
lưng có vẻ như đó là cả một cố gắng.
“Cháu nói cháu có thể vẽ ra chữ rune
mới đúng không, Clary?”

“Cháu nói cháu nghĩ là thế.”

“Thế à, chú muốn cháu thử xem.”

“Ngay đây á?”

Chú Luke cười khẽ. “Trừ khi cháu có


ý tưởng khác trong đầu chăng?”

Clary mở sang trang trống rồi nhìn


chăm chăm xuống. Chưa bao giờ một
trang giấy lại trông trống rỗng như thế
với cô. Cô có thể cảm nhận sự im lặng
trong phòng, mọi người đều quan sát cô:
Magnus với sự tò mò đè nén cố hữu;
Alec quá bận rộn với những rắc rối của
mình nên chẳng quan tâm gì tới chuyện
của cô hết; chú Luke đang chờ đợi hy
vọng; và Jace với khuôn mặt lạnh lẽo,
không biểu lộ cảm xúc, khiến người khác
phải e dè. Cô nhớ tới lúc anh nói giá mà
anh có thể ghét cô và tự hỏi mình, biết
đâu có một ngày anh sẽ thành công.

Cô ném bút chì xuống. “Cháu không


thể làm vì được ra lệnh. Khi không có
một ý tưởng nào hết.”
“Ý tưởng thế nào?” chú Luke hỏi.

“Ý cháu là, cháu không biết hiện đã


có những chữ rune nào rồi. Cháu cần biết
ý nghĩa, biết một từ, trước khi vẽ chữ
rune biểu thị nó.”

“Bọn anh cũng khó nhớ tất cả các chữ


rune...” Alec cất lời, nhưng Jace, ngạc
nhiên thay, lại cắt ngang lời Alec.

“Thế còn,” anh lặng lẽ nói, “Can


Trường thì sao nhỉ?”

“Can Trường?” cô nhắc lại.


“Có những chữ rune cho dũng cảm,”
Jace nói. “Nhưng chẳng có chữ nào để
xóa đi nỗi sợ. Nhưng nếu em, như em
nói, có thể tạo ra chữ rune mới...” Anh
liếc nhìn quanh, nhận ra sự ngạc nhiên
trên nét mặt Alec và chú Luke. “Nghe
này, chỉ là cháu nhớ không có chữ đó, thế
thôi. Vả lại nó có vẻ vô hại thôi mà.”

Clary nhìn sang chú Luke, chú nhún


vai. “Được,” chú nói.

Clary lấy bút chì màu xám sậm ra


khỏi hộp rồi đặt đầu bút xuống mặt giấy.
Cô nghĩ tới những hình dáng, những
đường kẻ, nét lượn; cô nghĩ tới những
biểu tượng trong Sách Xám, cổ điển và
hoàn hảo, những biểu tượng cho một thứ
ngôn ngữ quá hoàn hảo, không thể nói
thành lời. Một giọng nói khẽ khàng vang
lên trong đầu cô: Cô là ai, mà dám nghĩ
có thể nói lên ngôn ngữ của thiên
đường?

Chiếc bút di chuyển. Clary hầu như


chắc chắn là mình không dịch chuyển
bút, nhưng nó cứ trượt trên mặt giấy, vẽ
một đường duy nhất. Cô thấy tim mình
hụt nhịp. Cô nghĩ tới mẹ, ngồi mơ màng
trước khung tranh, vẽ tạo ra thế giới của
riêng mình bằng mực và dầu vẽ. Cô nghĩ,
Tôi là ai ư? Tôi là con gái Jocelyn
Fray. Chiếc bút lại di chuyển, và lần này
cô thấy mình nín thở, nghe mình đang thì
thào. “Can Trường. Can Trường.” Chiếc
bút nảy lên, và lần này cô điều khiển nó
chứ không phải nó điều khiển cô. Khi
viết xong, cô đặt bút xuống và đắn đo
nghiền ngẫm tác phẩm một lúc lâu.

Chữ Can Trường vừa vẽ xong là tập


hợp những đường nét uốn lượn mạnh mẽ:
một chữ rune kiêu hãnh và có nét động
như một con đại bàng. Cô xé giấy ra và
giơ cho những người khác xem. “Đây,”
cô nói, và nhận lấy vẻ bàng hoàng trên
nét mặt chú Luke - vậy ra lúc trước chú
cũng không tin cô - cùng một thoáng mắt
mở to từ Jace.
“Đẹp,” Alec nói.

Jace đứng dậy và đi ngang phòng, giật


tờ giấy khỏi tay cô. “Nhưng nó có tác
dụng không.”

Clary tự hỏi anh có ý hỏi thật hay chỉ


chọc ngoáy cô. “Ý anh là sao?”

“Ý anh là, làm sao chúng ta biết nó có


tác dụng hay không? Giờ nó chỉ là một
hình vẽ - mà em không thể lấy đi sự sợ
hãi khỏi một trang giấy, vì giấy thì có sợ
gì đâu chứ. Chúng ta phải thí nghiệm lên
một người trong bọn để biết nó có phải
là chữ rune thật sự hay không.”
“Chú không nghĩ đó là ý hay đâu,”
chú Luke nói.

“Là một ý tưởng tuyệt vời đấy chứ ạ.”


Jace thả tờ giấy xuống bàn, và bắt đầu
cởi áo. “Tôi có thanh stele ở đây. Ai vẽ
hộ tôi không?”

“Một lựa chọn đáng hối hận đấy,”


Magnus lẩm bẩm.

Chú Luke đứng dậy. “Không,” chú


nói. “Jace, cháu luôn hành động như
chưa từng biết tới từ ‘sợ’. Chú không
biết làm sao mà chúng ta có thể nhận ra
sự khác biệt giả như chữ rune kia có tác
dụng với cháu đi nữa.”
Alec cố nén âm thanh khùng khục
nghe như tiếng cười phá lên. Jace thì chỉ
nở một nụ cười không lấy gì làm thân
thiện. “Cháu biết tới từ ‘sợ’ chứ,” anh
nói. “Nhưng cháu chọn cách tin rằng, nó
không làm gì được cháu.”

“Đó chính là vấn đề,” chú Luke nói.

“Vậy sao không thử nên chú nhỉ?”


Clary nói, nhưng chú Luke lắc đầu.

“Cháu không thể vẽ Ấn Ký lên một


người thuộc Thế giới Ngầm, Clary, vì nó
không gây ảnh hưởng gì lắm. Căn bệnh
ma quỷ biến người thành sói ngăn không
cho Ấn Ký phát huy tác dụng.”

“Vậy...”

“Thử trên anh này,” Alec bất ngờ nên


tiếng. “Anh cũng cần chút xíu can trường
đây.” Anh ta cởi áo khoác, ném lên ghế
đàn dương cầm, băng qua phòng tới đứng
trước mặt Jace. “Đây. Vẽ lên tay tớ đi.”

Jace liếc nhìn Clary. “Trừ phi em nghĩ


em nên vẽ vậy?”

Cô lắc đầu. “Không. Anh chắc chắn


giỏi vẽ Ấn Ký ứng dụng hơn là em mà.”
Jace nhún vai. “Xắn ống tay áo lên
nào, Alec.”

Alec ngoan ngoãn xắn ống tay áo.


Trên tay Alec đã có sẵn một Ấn Ký vĩnh
viễn, một cuộn những đường kẻ hoa mỹ,
có nghĩa là sẽ mang đến cho anh sự cân
bằng hoàn hảo. Mọi người, kể cả
Magnus, đều nhoài người lên khi Jace
nắn nót vẽ chữ Can Trường lên tay Alec,
ngay dưới Ấn Ký đã có. Alec nhăn mặt
khi thanh stele tạo nên nét chữ bỏng giẫy
trên tay. Khi Jace vẽ xong, anh nhét thanh
stele vào túi và đứng ngắm nghía tác
phẩm của mình một lúc. “Ừ, dù gì trông
nó cũng đẹp nhỉ,” anh tuyên bố. “Dù có
tác dụng hay không...”
Những đầu ngón tay của Alec lần theo
Ấn Ký mới. Sau đó, anh ta ngẩng đầu,
thấy tất cả đều đang chăm chú nhìn anh.

“Thế nào rồi?” Clary hỏi.

“Thế nào gì?” Alec kéo tay áo xuống,


che đi Ấn Ký.

“Vậy, anh cảm thấy thế nào rồi? Có


thấy khác gì không?”

Alec ngẫm nghĩ. “Không hẳn.”

Jace giơ hai tay lên trời. “Vậy nó


không có tác dụng.”

“Chưa chắc,” chú Luke nói. “Có thể


do không có chuyện gì xảy ra nên nó mới
chưa được kích hoạt. Có lẽ ở đây chẳng
có gì làm Alec sợ cả.”

Magnus liếc nhìn Alec và nhướn mày.


“Hù,” pháp sư dọa.

Jace đang cười toe toét. “Thôi nào,


chắc chắn là cậu có một hai nỗi sợ nào
đó chứ. Cậu sợ gì nào?”

Alec ngẫm nghĩ một lát. “Nhện,” anh


đáp.
Clary quay sang chú Luke. “Chú có
nhện đâu đó không?”

Trông chú Luke như đang phát cáu.


“Sao chú lại nuôi nhện chứ? Trông chú
giống người sưu tầm côn trùng không?”

“Nói không phải chứ,” Jace nói,


“nhưng trông chú giống lắm.”

“Mọi người biết đấy,” giọng Alec có


chút chua chát, “có lẽ đây là một thí
nghiệm ngu ngốc.”

“Còn bóng tối?” Clary gợi ý. “Bọn


em có thể nhốt anh dưới tầng hầm.”
“Anh là thợ săn quỷ đấy em,” Alec đã
kiên nhẫn lắm rồi. “Tất nhiên, anh không
sợ bóng tối.”

“Nhưng có thể chứ.”

“Anh bảo không sợ là không sợ.”

Clary chẳng cần phải đốp lại vì có


tiếng chuông cửa. Cô nhìn chú Luke và
nhướn mày. “Simon chăng?”

“Không thể nào. Giờ là ban ngày mà.”

“À, đúng rồi.” Cô lại quên mất.


“Cháu mở cửa nhé?”
“Không.” Chú đứng dậy, hơi rên rẩm
đôi chút. “Chú ổn mà. Chắc có người
thắc mắc chuyện hiệu sách đóng cửa
thôi.”

Chú đi qua phòng đẩy tung cửa. Hai


vai chú Luke cũng đơ ra vì ngạc nhiên;
Clary nghe tiếng quát the thé tức tối quen
thuộc của một người phụ nữ, và một lúc
sau Isabelle cùng bà Maryse Lightwood
lách qua chú Luke mà bước vào phòng,
theo sau là hình thù xám xịt, phiền phức
của Điều Tra Viên. Phía sau họ là một
người đàn ông cao to vạm vỡ, tóc đen,
da màu đồng, râu quai nón rậm rì. Dù
bức ảnh đã được chụp lại từ cách đây đã
lâu, Clary vẫn nhận ra người đàn ông này
từ bức ảnh cũ xỉn mà bác Hodge đã đưa
cho mình xem: người đàn ông này là
Robert Lightwood, cha của Alec và
Isabelle.

Đầu Magnus ngẩng phắt lên. Mặt


Jace, trừ trắng bệch ra, không biểu lộ
thêm chút cảm xúc gì nữa. Còn Alec -
Alec nhìn cô em, nhìn bố mẹ và rồi nhìn
Magnus, đôi mắt sáng xanh trong vắt của
anh sa sầm lại với quyết tâm cao độ. Anh
ta bước lên một bước, đứng chắn giữa
bố mẹ và những người khác trong phòng.

Bà Maryse, khi thấy con trai cả của


mình đứng trong phòng khách nhà chú
Luke, giật mình phải nhìn lại kỹ hơn cho
rõ. “Alec, con làm trò khỉ gì ở đây thế?
Mẹ nghĩ là mẹ đã nói rõ là...”

“Mẹ.” Giọng Alec lúc cắt ngang lời


mẹ nghe mới quả quyết và kiên định làm
sao, nhưng không phải là không nhún
nhường. “Bố. Có chuyện con phải nói.”
Anh ta cười với họ. “Con đang hẹn hò
một người.”

Robert Lightwood cáu kỉnh nhìn cậu


con cả. “Alec,” ông ta nói. “Giờ không
phải lúc.”

“Không, giờ là lúc ạ. Chuyện rất quan


trọng. Con không chỉ gặp một người nào
đó.” Lời nói tuôn ra khỏi miệng Alec
như thác lũ, trong khi bố mẹ anh bối rối
nhìn nhau. Isabelle và Magnus trố mắt
nhìn Alec với gần như là một vẻ kinh
ngạc như nhau. “Con đang hẹn hò với
người thuộc Thế Giới Ngầm. Đúng ra
con đang hẹn hò với một pháp...”

Những ngón tay Magnus nhúc nhích,


nhanh như chớp, về phía Alec. Bầu
không khí bao quanh Alec bỗng lung linh
- mắt anh ta trợn ngược - rồi đổ gục
xuống sàn, như cây bị bật rễ.

“Alec!” Maryse đưa tay che miệng.


Isabelle, người đang đứng gần anh trai
nhất, ngồi thụp xuống bên. Nhưng Alec
đã bắt đầu động đậy, mắt mở choàng ra.
“Ơ, sao anh lại nằm trên sàn thế này?”

“Câu hỏi hay đấy.” Isabelle trừng mắt


nhìn xuống ông anh. “Sao vậy nhỉ?”

“Sao cái gì?” Alec ngồi dậy, tay ôm


lấy đầu. Vẻ hoảng hốt thoáng qua mặt.
“Khoan - anh đã nói gì? Trước lúc ngất
ấy.”

Jace khụt khịt. “Cậu biết là chúng ta


đang phân vân liệu điều Clary làm có
thành công hay không ấy mà?” anh nói.
“Nó có tác dụng đấy.”
Alec trông cực kỳ hoảng hốt. “Tớ đã
nói gì thế?”

“Con nói con đang hẹn hò ai đó,” cha


anh ta nói. “Dù con không nói rõ vì sao
chuyện đó lại quan trọng.”

“Không có đâu,” Alec nói. “Ý con là


con không hẹn hò với ai cả. Và điều đó
không quan trọng. Hoặc cũng không quan
trọng nếu con có hẹn hò với ai, dù con
không hẹn hò gì cả.”

Magnus nhìn anh ta như nhìn một


thằng ngố. “Alec bị mê sảng đấy,” anh ta
nói. “Tác dụng phụ của độc quỷ. Loại
nguy hại nhất, nhưng cậu ta sớm qua khỏi
thôi.”

“Độc quỷ ư?” Giọng bà Maryse đã


bấn loạn lên. “Có ai báo cáo gì về vụ bị
quỷ tấn công cho Học Viện đâu. Chuyện
gì đang xảy ra đây, Lucian? Đây là nhà
anh, đúng không? Anh thừa hiểu nếu có
quỷ tấn công, anh phải báo cáo lại...”

“Chú Luke cũng bị tấn công ạ,” Clary


nói. “Chú ấy bị đánh bất tỉnh.”

“Ôi mới tiện làm sao! Người thì bất


tỉnh, người thì mê sảng,” Điều Tra Viên
cất tiếng. Giọng nói sắc lẹm như dao của
bà ta cắt ngọt qua cả căn phòng, khiến
mọi người đều im thin thít. “Này kẻ
thuộc Thế giới Ngầm kia, anh biết thừa
rằng Jonathan Morgenstern không được
phép ở trong nhà anh. Cậu ta phải bị nhốt
trong nhà pháp sư.”

“Tôi có tên đấy nhé bà,” Magnus nói.


“Nhưng,” anh ta nói thêm, dường như đã
đổi ý về việc cắt lời Điều Tra Viên,
“cũng không vấn đề gì. Thực ra, cứ quên
tên tôi luôn đi.”

“Tôi biết tên anh, Magnus Bane,”


Điều Tra Viên nói. “Anh đã một lần
không làm tròn phận sự; và anh sẽ không
có cơ hội thử lại.”

“Không làm tròn phận sự ư?” Magnus


nhíu mày. “Chỉ vì mang cậu nhóc kia tới
đây à? Trong hợp đồng tôi ký không có
điều khoản nào bảo tôi không được mang
cậu ta theo ý mình cả.”

“Đây không phải thất bại ta đang nói


tới,” Điều Tra Viên bảo. “Để cậu ta gặp
bố mình tối qua, đó mới là thất bại.”

Mọi người sững sờ im lặng. Alec lục


tục đứng dậy khỏi sàn, đưa mắt tìm nhìn
Jace - nhưng Jace không nhìn lại anh ta.
Mặt anh như đeo mặt nạ.

“Nực cười quá đi,” chú Luke thốt lên.


Clary hiếm khi thấy chú giận tới vậy.
“Jace thậm chí còn chẳng biết Valentine
ở đâu. Đừng có buộc tội thằng bé nữa.”

“Buộc tội là việc ta làm, hỡi kẻ Thế


Giới Ngầm kia,” Điều Tra Viên đáp trả.
“Đó là công việc của ta.” Bà ta quay
sang Jace. “Này cậu nhỏ, giờ hãy nói thật
đi,” bà ta nói, “rồi như thế mọi chuyện sẽ
dễ dàng hơn.”

Jace hất hàm. “Tôi không có gì nói


với bà hết.”

“Nếu cậu vô tội, sao không giải thích


chứ? Nói cho chúng ta biết tối qua cậu
thực sự ở đâu. Nói cho chúng tôi nghe về
con tàu nhỏ xinh ấm cúng Valentine
xem.”
Clary nhìn anh chằm chằm. Tôi ra
ngoài đi dạo, anh đã bảo thế. Nhưng nói
vậy chẳng có nghĩa gì. Có thể anh thực
sự đi dạo. Nhưng trái tim cô, bụng dạ cô,
đều thấy nao nao. Cậu biết điều tồi tệ
nhất mình tưởng tượng ra là gì không?
Simon đã nói. Không thể tin nổi người
mình yêu.

Khi Jace không nói gì thì chất giọng


trầm ấm của Robert Lightwood vang lên.
“Imogen? Bà đang nói Valentine đang -
đã...”

“Trên chiếc thuyền giữa con sông


Đông,” Điều Tra Viên trả lời. “Chính
xác.”

“Thể nào tôi không tìm ra hắn,”


Magnus nói, nửa như nói với chính mình.
“Bao nhiêu là nước đấy... cản trở phép
thuật của tôi.”

“Vậy Valentine làm gì giữa dòng sông


cơ chứ?” Luke bối rối hỏi.

“Hỏi Jonathan ấy,” Điều Tra Viên nói.


“Cậu ta mượn xe của thủ lãnh ma cà rồng
trong thành phố này và bay tới đó. Đúng
không, Jonathan?”

Jace im lặng. Gương mặt anh phong


kín. Nhưng Điều Tra Viên thì trông hau
háu, như thể đang thỏa mãn no nê với sự
căng thẳng trong căn phòng.

“Cho tay vào túi đi,” bà ta ra lệnh.


“Lấy ra vật mà cậu luôn mang theo mình
kể từ lần cuối cùng cậu rời khỏi Học
Viện ấy.”

Jace chậm rãi làm theo lời bà ta nói.


Khi anh đưa tay ra, Clary nhận ra vật
xám-xanh đang loang loáng sáng trên tay
anh. Mảnh vỡ của Cổng Dịch Chuyển.

“Đưa nó cho ta,” Điều Tra Viên giật


nó khỏi tay anh. Anh nhăn mặt; cạnh
gương cắt tay anh và máu ứa ra khắp
lòng bàn tay. Maryse rên khe khẽ, nhưng
không dám nhúc nhích. “Ta biết cậu sẽ
về Học Viện để lấy cái này,” Điều Tra
Viên rất ư là hả hê. “Ta biết tính đa cảm
sẽ không cho phép cậu để nó lại.”

“Cái gì thế?” Robert Lightwood có vẻ


bối rối.

“Một mảnh Cổng Dịch Chuyển dưới


dạng gương,” Điều Tra Viên trả lời. “Khi
Cổng Dịch Chuyển bị hủy, hình ảnh về
đích đến cuối cùng vẫn còn lưu lại.” Bà
ta xoay miếng gương vỡ bằng những
ngón tay dài, khẳng khiu như chân nhện.
“Trong trường hợp này, là căn nhà của
Wayland.”
Ánh mắt Jace di chuyển theo chuyển
động của mảnh gương. Theo những gì
Clary nhìn thấy, trong đó vẫn chỉ có một
khoảng trời trong xanh. Cô tự hỏi liệu ở
Idris có bao giờ mưa hay không nữa.

Bằng động tác bất ngờ và giằng dỗi,


trái ngược với giọng nói bình thản của
mình, Điều Tra Viên ném thẳng mảnh
gương xuống đất. Mảnh gương lập tức vỡ
tan thành từng mảnh vụn. Clary nghe
tiếng Jace hít một hơi, nhưng anh không
động đậy.

Điều Tra Viên rút đôi găng tay xám và


quỳ xuống giữa đám mảnh vỡ, sàng lọc
bụi gương cho tới khi tìm thấy... một mẩu
giấy nhỏ. Bà ta đứng dậy, giơ cho mọi
người cùng thấy con chữ rune viết bằng
mực đen đậm nét. “Ta đã vẽ lên tờ giấy
này chữ rune theo dõi và đặt nó vào giữa
gương và lớp tráng bạc sau. Sau đó ta trả
mảnh gương lại phòng thằng nhãi. Đừng
buồn vì đã không nhận ra nhé,” bà ta nói
với Jace. “Những kẻ già đầu và thông
minh hơn cậu còn bị Hội đồng Clave qua
mặt nữa là.”

“Bấy lâu nay bà theo dõi tôi,” Jace


nói, và giờ giọng anh sặc mùi cuồng nộ.
“Vậy đó là trò của Hội đồng Clave, luôn
sục mũi vào đời tư của những Thợ Săn
Bóng Tối để...”
“Cẩn thận mồm miệng đi. Cậu không
phải người duy nhất phạm Luật đâu.”
Ánh nhìn lạnh băng của Điều Tra Viên
nhìn quanh phòng. “Các bạn của cậu
cũng vi phạm khi thả cậu khỏi Thành phố
Câm Lặng, giúp cậu thoát khỏi tầm kiểm
soát của pháp sư.”

“Jace không chỉ là bạn,” Isabelle nói.


“Anh ấy là anh em chúng tôi.”

“Ta sẽ cân nhắc những gì cô nói,


Isebelle Lightwood,” Điều Tra Viên nói.
“Cô có thể bị coi là đồng phạm và Ấn
Ký sẽ bị tước khỏi người cô đấy.”
“Đồng phạm ư?” Mọi người ngạc
nhiên khi nghe ông Robert Lightwood lên
tiếng. “Con bé chỉ đang cố ngăn bà phá
hoại gia đình chúng tôi mà thôi. Vì Chúa,
Imogen, chúng chỉ là những đứa trẻ...”

“Những đứa trẻ sao?” Điều Tra Viên


quay ánh mắt lạnh băng sang Robert.
“Cũng như anh là một đứa bé khi Hội
Kín lên kế hoạch đập tan Hội đồng
Clave đấy à? Cũng như con trai ta là một
đứa trẻ khi nó...” Bà ta ngừng lại với một
tiếng như thở hắt, như thể cố hết sức lắm
mới lấy lại bình tĩnh.

“Hóa ra chuyện này là về Stephen,”


chú Luke lên tiếng, giọng có chút thương
cảm. “Imogen này...”

Mặt Điều Tra Viên cau lại. “Đây


không phải chuyện về Stephen! Đây là
Luật!”

Những ngón tay gầy xương của


Maryse vặn vẹo vào nhau. “Và Jace,” bà
nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra với thằng bé?”

“Nó sẽ trở về Idris với ta vào ngày


mai,” Điều Tra Viên đáp. “Cô đã bị tước
quyền được biết nhiều hơn nữa.”

“Sao bà có thể đưa anh ấy đến nơi đó


chứ?” Clary hỏi. “Khi nào anh ấy sẽ trở
về?”

“Clary, đừng,” Jace lên tiếng. Lời nói


như một lời khẩn nài, nhưng cô vẫn chiến
đấu đến cùng.

“Jace không phải vấn đề ở đây!


Valentine mới là vấn đề!”

“Bỏ đi, Clary!” Jace hét. “Vì em đó,


ngừng lại ngay!”

Clary không ngăn được bản thân, cô


giật mình thối lui - anh chưa bao giờ la
hét với cô như thế, kể cả khi cô lôi anh
vào phòng bệnh của mẹ. Cô thấy vẻ mặt
anh khi anh nhận thấy cô giật mình thối
lui và ước gì cô đã không làm vậy.

Trước khi cô kịp nói gì, chú Luke đã


đặt tay lên vai cô. Chú lên tiếng, giọng
chú nghe ảo não hệt như cái đêm chú kể
cho cô nghe chuyện đời mình. “Nếu
thằng bé tới với bố nó,” chú nói, “dù
biết Valentine là kiểu phụ huynh thế nào,
đó là vì chúng ta đã làm cậu ấy thất
vọng, chứ không phải cậu ấy làm chúng
ta thất vọng đâu.”

“Thôi cái trò ngụy biện ấy đi,


Lucian,” Điều Tra Viên nói. “Anh đã yếu
đuối nhu nhược như người thường rồi
đấy.”
“Bà ta nói đúng,” Alec đã ngồi xuống
ghế, tay khoanh trước ngực, mặt lạnh
tanh. “Jace đã nói dối chúng ta. Chúng ta
chẳng thể bao biện cho điều đó.”

Jace há hốc miệng. Ít ra thì anh luôn


tin tưởng lòng trung thành của Alec, nên
Clary không thể trách anh được. Kể cả
Isabelle cũng hoảng hốt nhìn ông anh cả.
“Alec, sao anh có thể nói vậy chứ?”

“Luật là Luật, Izzy à,” Alec nói mà


không thèm nhìn cô em. “Chẳng có cách
nào khác đâu.”
Nghe tới đây, Isabelle kêu rít lên vừa
giận dữ vừa sửng sốt rồi lao ra khỏi cửa
trước, để cánh cửa mở toang. Bà Maryse
dợm người định đi theo, nhưng Robert
đã lôi vợ lại, thì thầm nói gì đó.

Magnus đứng dậy. “Chắc tôi cũng nên


đi thôi,” pháp sư nói. Clary nhận ra anh
ta cũng tránh nhìn tới Alec. “Đáng ra tôi
nên nói gì đó như, tôi rất vui gặp mấy
người, nhưng mà, thực ra tôi chẳng vui
vẻ gì cả. Chỉ là gượng gạo mà thôi, và
xin lỗi tôi nói thẳng, ngày tôi gặp lại bất
cứ ai trong số mấy vị sẽ là rất xa đấy.”

Alec vẫn nhìn chằm chằm xuống đất


khi Magnus hiên ngang bước khỏi phòng
qua lối cửa trước. Lần này cánh cửa
đóng sầm lại.

“Hai người bỏ đi,” Jace hân hoan nói


mà mặt tái nhợt. “Ai đi tiếp đây?”

“Đủ rồi đó,” Điều Tra Viên nói. “Đưa


tay đây.”

Jace giơ tay trong khi Điều Tra Viên


lấy thanh stele khỏi túi ngầm nào đó và
vẽ Ấn Ký quanh cổ tay anh. Khi bà ta rụt
tay lại, hai cổ tay Jace đặt chồng lên
nhau, bị trói lại bằng cái gì đó giống một
vòng tròn lửa.
Clary hét lên. “Bà làm gì thế? Bà sẽ
làm anh ấy bị thương...”

“Anh ổn mà, em gái.” Jace khá bình


tĩnh, nhưng cô nhận ra dường như anh
không dám nhìn cô. “Ngọn lửa không
động tới anh trừ khi anh cố giằng tay ra.”

“Còn về cô,” Điều Tra Viên nói thêm,


và quay sang Clary, khiến Clary ngạc
nhiên vô cùng. Nãy giờ bà ta hình như
chẳng để ý rằng cô còn sống chứ. “May
cho cô là được Jocelyn nuôi nấng nên
tránh được tội lỗi của bố cô đấy. Nhưng
ngả nào thì ta cũng sẽ để mắt trông chừng
tới cô đấy.”
Chú Luke nắm chặt lấy vai Clary.
“Đấy là lời đe dọa đó à?”

“Hội đồng Clave không đe dọa ai,


Lucian Graymark ạ. Hội đồng Clave chỉ
hứa và thực thi lời hứa thôi.” Điều Tra
Viên nghe ra khá vui vẻ. Bà ta là người
duy nhất trong phòng phù hợp với từ
miêu tả đó; mọi người khác đều trông đờ
đẫn choáng váng, trừ Jace. Răng anh nhe
ra như thể đang gầm ghè nhưng Clary
không nghĩ bản thân anh nhận thức được.
Trông anh như thể một con sư tử mắc
bẫy.

“Đi thôi, Jonathan,” Điều Tra Viên


nói. “Đi trước ta. Nếu cậu dám trốn, tôi
sẽ kề dao vào cổ cậu ngay.”

Jace phải cố mãi mới vặn được nắm


đấm cửa bằng hai bàn tay bị trói. Clary
cắn chặt răng để không gào thét, và sau
đó cửa mở, Jace bỏ đi cùng Điều Tra
Viên. Nhà Lightwood lục tục bỏ đi cùng,
Alec vẫn dán mắt xuống đất. Cánh cửa
đóng lại sau lưng họ, chỉ còn Clary và
Luke còn lại trong phòng, bàng hoàng im
lặng.

15. Nanh rắn


“Chú Luke ơi,” Clary mở lời, ngay
khi cánh cửa đóng lại sau lưng nhà
Lightwood. “Chúng ta sẽ làm gì đây...”

Chú Luke ôm chặt đầu như thể đang


cố giữ cho đầu không bửa làm đôi. “Cà
phê,” chú tuyên bố. “Chú cần cà phê.”

“Cháu đưa chú rồi mà.”

Chú buông tay thở dài. “Chú cần thêm


nữa.”

©DTV

Clary theo chú vào bếp. Chú ấy tự lấy


thêm cà phê, rồi ngồi xuống bàn bếp và
lơ đãng lùa tay qua tóc. “Tình hình tệ,”
chú nói. “Quá tệ.”

“Chú nghĩ thế sao?” Clary không thể


uống cà phê nổi nữa. Đầu óc cô giờ căng
như dây đàn. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ
đưa anh ấy tới Idris ạ?”

“Bị xét xử trước Hội đồng Clave. Họ


chắc chắn sẽ tuyên án Jace có tội. Rồi
đến hình phạt. Cậu ta còn trẻ, nên có thể
họ chỉ tước Ấn Ký chứ không đưa ra lời
nguyền.”

“Nghĩa là sao ạ?”


Chú Luke không nhìn cô. “Có nghĩa là
họ sẽ tước hết Ấn Ký trên người Jace,
khiến cậu ta không còn là Thợ Săn Bóng
Tối nữa, rồi đá cậu ấy ra khỏi Hội đồng
Clave. Jace sẽ trở thành một người
thường.”

“Nhưng thế sẽ giết anh ấy mất. Chết


thực đấy. Anh ấy thà chết còn hơn.”

“Cháu nghĩ chú không biết sao?” Chú


Luke đã uống hết cà phê rồi ủ rũ nhìn
chằm chằm vào cốc trước khi đặt xuống.
“Nhưng đối với Hội đồng Clave thì
chẳng liên quan gì. Họ không thể động
vào Valentine, vậy nên họ sẽ trừng phạt
con trai ông ta.”
“Còn cháu thì sao. Cháu cũng là con
ông ấy.”

“Nhưng cháu không thuộc thế giới của


họ. Jace thì có. Mà không phải là chú
không mong cháu nên ẩn dật một thời
gian đâu đấy nhé. Chú ước gì chúng ta có
thể về lại trang trại...”

“Chúng ta không thể bỏ Jace lại với


họ được!” Clary kinh hãi. “Cháu sẽ
không đi đâu hết.”

“Tất nhiên là cháu không đi rồi.” Chú


Luke phẩy tay bỏ qua lời phản bác. “Chú
chỉ ước thế thôi, chứ chú không nghĩ
chúng ta nên làm vậy. Đương nhiên lại
còn chuyện Imogen sẽ làm gì khi giờ đây
bà ta đã biết Valentine ở đâu. Có thể
chúng ta kẹt giữa cuộc chiến rồi.”

“Cháu không quan tâm chuyện bà ta


muốn giết Valentine hay không. Bà ta
thích làm gì thì làm. Cháu chỉ muốn anh
Jace trở về đây.”

“Có lẽ không dễ đâu cháu yêu ạ,” chú


Luke nói, “khi mà trong trường hợp này,
Jace thực sự đã làm những chuyện mà
người ta buộc tội cho cậu ấy.”

Clary nổi giận đùng đùng. “Cái gì,


chú nghĩ anh ấy giết các Tu Huynh Câm
ư? Chú nghĩ...”

“Không. Chú không nghĩ cậu ta đã giết


các Tu Huynh Câm. Chú nghĩ Jace đã
làm chính xác điều Imogen đã nhìn thấy:
Cậu ta đã đi gặp bố.”

Chợt nhớ ra gì đó, Clary hỏi. “Ý chú


là gì khi chú nói là chúng ta đã làm anh
ấy thất vọng chứ không phải ngược lại
vậy? Nghĩa là chú không trách anh ấy
sao?”

“Chú trách mà cũng không trách.” Chú


Luke rất mệt mỏi. “Cậu ta ngốc nghếch
quá. Valentine là người không đáng tin.
Nhưng khi nhà Lightwood quay lưng với
cậu ấy, họ mong cậu ta làm gì đây? Jace
vẫn là một đứa trẻ, vẫn cần cha mẹ ở
bên. Nếu họ không dung dưỡng cậu ta,
cậu ta sẽ tìm người cần mình.”

“Cháu nghĩ có lẽ,” Clary nói, “có lẽ


anh ấy sẽ tìm chú.”

Chú Luke trông buồn thương vô hạn.


“Chú cũng nghĩ vậy, Clary ạ. Chú cũng
nghĩ vậy.”

Maia có thể nghe thấy những tiếng thì


thầm to nhỏ vọng ra từ bếp. Họ đã chấm
dứt màn cãi vã la hét trong phòng khách.
Đã tới lúc ra đi rồi. Cô gấp tờ giấy viết
vội, đặt lên giường chú Luke, rồi băng
qua phòng tới bên cửa sổ mà cô mất
những hai mươi phút mới mở ra nổi.
Không khí mát mẻ tràn vào phòng - hôm
nay là một trong những ngày đầu thu với
bầu trời xanh cao vời vợi trong không
khí thoang thoảng mùi khói.

Cô thò đầu qua ô cửa sổ và nhìn


xuống. Trước khi bị Biến đổi đây sẽ là
cú nhảy khó; nhưng giờ cô nghĩ một chút
cho đôi vai bị thương rồi nhảy xuống. Cô
khum người đáp xuống sân sau lát bê
tông nhà chú Luke. Đứng thẳng dậy, cô
liếc nhìn về phía sau, nhưng không ai
chạy ra mở cửa hay gọi cô quay lại.
Cô nén cơn thất vọng nhói lòng xuống.
Mà có phải họ để ý gì nhiều tới cô khi cô
ở trong nhà họ đâu, Maia nghĩ bụng khi
lồm cồm leo qua dãy hàng rào lưới mắt
cáo thật cao ngăn cách sân sau nhà chú
Luke với con hẻm, vậy thì sao họ phải
quan tâm khi cô bỏ đi chứ? Cô rõ là kẻ
đầu thừa đuôi thẹo, như trước giờ vẫn
vậy mà. Trong số họ chỉ có một người
đối xử với cô như thể cô còn chút gì đó
quan trọng, đó là Simon.

Nghĩ tới Simon khiến cô nhăn mặt khi


cô nhảy xuống sang bên kia hàng rào và
chạy khỏi hẻm, ra ngoài đại lộ Kent. Cô
đã nói với Clary rằng mình không nhớ gì
về chuyện đêm qua, nhưng thật ra không
phải thế. Cô nhớ vẻ mặt Simon khi cô
tránh khỏi cậu ấy - như thể nó đã ăn sâu
vào ký ức cô. Điều kỳ lạ nhất là lúc đó,
trông cậu vẫn rất người, người hơn bất
cứ ai cô từng biết.

Cô sang đường để tránh băng qua


ngay trước cửa nhà chú Luke. Con đường
gần như hoang lạnh, những người dân
vùng Brooklyn hiện đang ngủ nướng giấc
ngủ sáng Chủ nhật. Cô đi về phía trạm
tàu điện ngầm tại Đại lộ Bedford, đầu óc
vẫn nghĩ vẩn vơ tới Simon. Trong bụng
cô cứ quặn lên mỗi khi nghĩ tới cậu ấy.
Bao nhiêu năm nay Simon là người đầu
tiên cô muốn tin, thế mà cậu lại khiến
việc tin tưởng cậu ấy thành ra không thể.
Tất nhiên, nếu mày không thể tin nổi
thằng đó, sao mày lại đi gặp nó chứ?
Tiếng thì thầm vang lên trong đầu cô luôn
nói bằng giọng Daniel, Im đi, cô xẵng
giọng. Kể cả nếu bọn em không thể làm
bạn, ít nhất em cũng nợ cậu ấy một lời
xin lỗi.

Ai đó phá lên cười. Tiếng cười vang


vọng giữa những bức tường khu nhà máy
cao cao bên trái. Trái tim cô thắt lại vì
nỗi sợ đột ngột, Maia quay phắt lại,
nhưng con phố sau lưng cô chẳng có ai.
Chỉ có một bà lão dắt chó đi dạo trên bờ
sông, nhưng Maia không nghĩ bà ta có thể
hét vang tới tận tai cô được.
Dù vậy cô vẫn rảo bước nhanh hơn.
Cô có thể đi nhanh hơn con người, chưa
thèm nói tới là chạy nhanh hơn họ. Kể cả
với tình trạng hiện giờ, với cánh tay đau
như bị ai đập búa vào vai, cô cũng không
việc gì phải sợ một tên hiếp dâm hay
biến thái nào hết. Có hai thằng nhãi mang
dao đã từng cố chộp lấy cô khi cô đi dạo
tại Công Viên Trung Tâm vào đêm sau
đêm đầu tiên tới thành phố, và chỉ nhờ có
Bat mới ngăn được cô không giết sạch
hai tên ấy.

Sao giờ cô lại hoảng lên vậy?

Cô liếc về sau. Bà lão đã biến đâu


mất; đường Kent không có lấy một bóng
người. Nhà máy đường Domino bị bỏ
hoang nhiều năm nay đang lừng lững
ngay phía trước. Đột nhiên bị thúc giục
bởi ý muốn tránh khỏi đường lớn, cô
chui vào con hẻm nhỏ bên cạnh.

Cô thấy mình đang ở trong một khoảng


hẹp giữa hai tòa nhà, ứ đầy rác, chai lọ
vất đi, thiên đường của lũ chuột đang
tháo chạy tán loạn. Mái nhà cao cao phía
trên che khuất ánh mặt trời và khiến cô
có cảm giác như mình vừa chui vào một
đường hầm. Những bức tường bằng gạch,
có những ô cửa sổ hẹp bẩn thỉu, rất nhiều
trong số đó đã bị mấy kẻ phá hoại đập
nát. Qua đó cô thấy sàn nhà máy bỏ
hoang và từng hàng từng hàng nồi chưng
cất, lò nấu và thùng chứa. Không khí
thoang thoảng mùi đường cháy. Cô tựa
người vào tường, để nhịp tim ổn định lại.
Cô gần trấn tĩnh được mình thì một giọng
nói quen thuộc không ngờ từ bóng tối
vang lên:

“Maia à?”

Cô quay phắt lại. Hắn đứng trước lối


vào hẻm, dưới ánh nắng từ đằng sau hắt
tới, mái tóc hắn trông như một vầng hào
quang bao quanh khuôn mặt đẹp đẽ. Đôi
mắt đen với hàng lông mi dài tò mò nhìn
cô. Hắn ta mặc quần bò và dù tiết trời
khá lạnh, hắn vẫn chỉ vận áo phông ngắn
tay. Hẵn vẫn hệt như hồi mười lăm tuổi.

“Daniel,” cô thều thào.

Hắn tiến tới chỗ cô, không một tiếng


động. “Lâu lắm mới gặp lại mày đấy, em
gái.”

Cô muốn chạy, nhưng chân nhũn như


một bịch nước. Cô tựa lưng vào tường
mà chỉ ước được chìm luôn vào đó.
“Nhưng - anh chết rồi mà.”

“Và mày không khóc tại đám tang của


tao, đúng không Maia? Không nhỏ lấy
một giọt nước mắt cho anh mình?”
“Anh là một con quái vật,” cô thì
thào. “Anh đã cố giết em...”

“Cũng chưa cố hết sức.” Hắn đang


cầm một vật sắc và dài dài trong tay, tỏa
sáng như ngọn lửa bạc trong bóng tối.
Maia không biết nó là gì; sợ hãi làm cô
mờ mắt. Cô ngồi bệt xuống khi anh trai
tiến tới. Giờ đôi chân đâu thể nào trụ
vững nữa.

Daniel quỳ xuống bên cô. Giờ cô đã


thấy hắn cầm gì trong tay: một mảnh
gương vỡ rìa lởm chởm sắc nhọn lấy từ
ô cửa sổ vỡ. Nỗi sợ hãi như một cơn
sóng dâng trào trong cô, nhưng cô không
sợ thứ vũ khí Daniel nắm trong tay, mà là
cái ánh mắt vô hồn của hắn. Cô có thể
nhìn vào hai mắt ấy, nhìn xuyên qua
chúng mà chỉ thấy có bóng tối trong đó
mà thôi. “Mày có nhớ,” hắn nói, “khi tao
nói sẽ cắt lưỡi mày trước khi mày kịp
mách bố mẹ không?”

Cô sợ tới cứng người, chỉ dám giương


mắt nhìn Daniel. Cô đã cảm thấy kính cắt
vào da, vị máu trong miệng. Cô ước sao
mình đã chết, thực sự chết, bất cứ điều gì
cũng dễ chịu hơn nỗi kinh hoàng khiếp sợ
này...

“Đủ rồi, Agramon.” Một giọng đàn


ông đi vào tiềm thức đang mù mịt của cô.
Không phải giọng Daniel - giọng nói này
nhẹ nhàng, có văn hóa, là giọng người
không lẫn vào đâu được. Nó làm cô nghĩ
tới một người - nhưng ai nhỉ?

“Tuân lệnh, thưa chủ nhân


Valentine.” Daniel thở hắt ra, kiểu thở
dài thất vọng - rồi mặt hắn bắt đầu mờ
nhạt và vỡ tan. Trong một thoáng hắn
biến mất, mang theo cảm giác tê liệt, sợ
hãi tới tận xương tủy suýt lấy mạng cô.
Maia điên cuồng hít thở.

“Tốt. Con bé vẫn còn thở.” Giọng ông


ta lại vang lên, khá tức giận. “Thật sao
Agramon? Chỉ vài phút nữa là nó lăn
đùng ra chết rồi.”
Maia nhìn lên. Gã đó - Valentine -
đang đứng trước mặt cô, người cao ráo,
mặc toàn đồ đen, thậm chí đôi găng trên
tay lẫn đôi bốt đế dày dưới chân cũng
đen. Ông ta dùng mũi giày nâng cằm cô
lên. Giọng ông ta khi nói nghe thật lạnh
nhạt lấy lệ. “Cô bao tuổi?”

Gương mặt đang nhìn xuống cô hèm


hẹp, góc cạnh, trắng bệch, mắt thật đen
và tóc thật trắng làm cô liên tưởng tới
một bức ảnh âm bản. Ở bên trái cổ, ngay
trên cổ áo gã, là một Ấn Ký hình xoáy
ốc.

“Ông là Valentine ư?” cô thì thào.


“Nhưng tôi nghĩ ông...”
Giờ gót giày giẫm xuống tay cô, khiến
cơn đau chạy dọc lên tận cánh tay. Cô hét
lên.

“Ta hỏi cô,” ông ta nói. “Cô bao tuổi


rồi?”

“Tôi bao tuổi á?” Cơn đau trên tay


cộng thêm mùi rác hôi rình xung quanh
khiến bụng dạ cô nôn nao. “Tiên sư bố
ông.”

Một luồng sáng đột nhiên xuất hiện


trên tay Valentine; ông ta vụt xuống mặt
cô quá nhanh khiến cô không kịp tránh.
Má cô nhói đau; cô giơ tay ôm mặt và
cảm thấy máu nóng nhơm nhớp trên đầu
ngón tay.

“Giờ,” Valentine nói, vẫn bằng cái


giọng học thức và chuẩn mực như trước.
“Cô bao tuổi?”

“Mười lăm. Tôi mười lăm.”

Cô cảm thấy thì đúng hơn là nhìn thấy


nụ cười trên môi Valentine. “Hoàn hảo.”

Ngay khi trở lại Học Viện, Điều Tra


Viên đã tách Jace khỏi nhà Lightwood và
áp giải cậu lên phòng tập. Nhìn thấy hình
mình trong những tấm gương dài dọc trên
tường, anh đờ người vì choáng. Nhiều
ngày nay anh đã không ngắm mình trong
gương, và đêm qua quả thực là tệ hại.
Mắt anh trũng đen, áo dính máu khô và
bùn đất bẩn thỉu từ dòng sông Đông. Mặt
anh trông hóp lại và khắc khổ.

“Đang ngắm mình ư?” giọng Điều Tra


Viên cắt ngang cơn mơ màng. “Trông cậu
sẽ không còn điển trai sau khi Hội đồng
Clave xong chuyện với cậu đâu.”

“Chính bà mới bị ám ảnh về vẻ bề


ngoài của tôi thì có.” Jace quay đi khỏi
gương với đôi chút nhẹ nhõm. “Có phải
tất cả chuyện này là vì bà bị tôi quyến rũ
chăng?”

“Đừng tưởng bở.” Điều Tra Viên rút


bốn mảnh kim loại dài từ trong cái túi
xám đeo nơi thắt lưng. Con dao thiên
thần. “Cậu chỉ đáng tuổi con ta.”

“Stephen.” Jace nhớ ra những gì chú


Luke nói ra tại nhà khi nãy. “Đó là tên
cậu ta sao?”

Điều Tra Viên quay ngoắt lại nhìn.


Những con dao trong tay bà ta run lên
giận dữ. “Mi đừng bao giờ gọi tên con
trai ta.”
Trong phút chốc Jace tự hỏi bà ta có
thực sự muốn giết mình không. Anh
không nói gì trong khi đợi bà ta bình tĩnh
lại. Không thèm nhìn tới anh, bà ta dùng
dao chỉ. “Làm ơn đứng ra giữa phòng.”

Jace nghe theo. Dù cố không nhìn vào


gương, anh vẫn thấy hình ảnh phản chiếu
của mình - và của Điều Tra Viên - qua
khóe mắt, những tấm gương phản chiếu
hình ảnh của nhau cho tới khi có hằng hà
sa số Điều Tra Viên đang đứng đó, đe
dọa hằng ha sa số Jace.

Anh nhìn xuống đôi tay bị trói. Cổ tay


và vai anh đã chuyển từ ê ẩm sang nhức
nhối, nhưng anh cố không nhăn mặt trong
lúc Điều Tra Viên cầm một con dao, gọi
tên nó là Jophiel, rồi cắm ngập nó xuống
sàn gỗ ngay chân mình. Anh chờ đợi,
nhưng chẳng có gì xảy ra.

“Bùm?” cuối cùng anh thốt lên. “Sẽ


có gì xảy ra ở đây sao?”

“Im miệng.” Giọng Điều Tra Viên


nghiêm khắc. “Và đứng im đó.”

Jace đứng quan sát với sự tò mò càng


ngày càng lớn trong khi bà ta đi sang bên
kia, gọi tên con dao thứ hai Harahel, rồi
lại cắm phập nó xuống sàn.
Tới lưỡi thứ ba - Sandalphon - anh
hiểu ra bà ta đang làm gì. Con dao thứ
nhất được cắm xuống sàn ngay hướng
nam của anh, lưỡi dao tiếp theo hướng
đông, và tiếp theo là hướng bắc. Bà ta
đang tạo ra một cái la bàn. Anh cố nhớ
xem trò này có nghĩa gì, nhưng chẳng nhớ
ra được gì sất. Đây chắc chắn là một
nghi thức của Hội đồng Clave, ngoài
những điều anh được dạy. Khi bà ta nắm
lấy con dao cuối cùng, Taharial, thì hai
lòng bàn tay anh đã mướt mồ hôi, đã trầy
xước cả ở nơi chúng chà vào nhau.

Điều Tra Viên đứng thẳng dậy, có vẻ


hài lòng với tác phẩm của mình. “Đó.”
“Đó gì?” Jace hỏi nhưng bà ta giơ tay
ngăn lại.

“Chưa xong đâu, Jonathan. Còn một


chuyện cần làm nữa.” Bà ta tiến tới lưỡi
dao ở hướng nam và quỳ xuống trước nó.
Với một cử động nhanh gọn, bà ta rút
thanh stele và vẽ một chữ rune tối đen
duy nhất dưới lưỡi dao. Khi bà ta đứng
dậy, một tiếng động ngọt sắc lanh lảnh
vang lên trong phòng, như tiếng một quả
chuông tinh tế gióng lên. Ánh sáng đồng
loạt phát ra từ bốn con dao thiên thần,
quá chói khiến Jace phải quay mặt đi,
nhắm hờ mắt lại. Một lúc sau, anh quay
mặt lại và thấy mình đang đứng trong một
cái lồng mà bốn vách trông như thể được
dệt từ những sợi dây ánh sáng. Chúng
không đứng im tại chỗ mà chuyển động
như những tấm màn mưa phát quang.

Điều Tra Viên giờ chỉ còn là một cái


bóng mờ mờ đằng sau bức tường phát
sáng. Khi Jace gọi bà ta, cả giọng anh
cũng rung động, o o, như thể anh đang
gọi bà ta qua màn nước. “Cái gì đây? Bà
đã làm gì vậy?”

Bà ta cười.

Jace giận dữ tiến tới một bước, rồi


bước nữa; vai anh chạm phải tấm màn
sáng. Như thể anh vừa chạm vào hàng
rào điện, cú sốc điện rần rật qua anh như
một cú đấm, làm anh ngã bổ chửng. Anh
ngã phịch xuống, không thể dùng tay bấu
víu vào đâu được.

Điều Tra Viên lại cười lớn. “Nếu cậu


cố đi xuyên qua tấm màn này, cậu sẽ
nhận được nhiều hơn là một cú sốc điện
đấy. Hội đồng Clave gọi hình phạt đặc
biệt này là Vòng Malachi. Những bức
tường này sẽ không thể nào bị phá vỡ
một khi những con dao thiên thần còn ở
nguyên vị trí. Ta sẽ không làm thế đâu,”
bà ta nói thêm, khi Jace quỳ xuống, tiến
về phía lưỡi dao gần nhất. “Chạm vào
con dao và cậu sẽ chết.”

“Nhưng bà chạm được,” anh nói,


không thể giấu sự hằn học trong giọng
mình.

“Có thể, nhưng ta sẽ không làm.”

“Nhưng còn thức ăn? Nước uống?”

“Lúc nào cần chúng tôi sẽ mang tới,


Jonathan.”

Anh đứng dậy. Qua bức tường mờ ảo,


anh vẫn thấy bà ta quay lưng định bỏ đi.
“Nhưng tay tôi...” Anh nhìn xuống cổ tay
bị trói. Miếng kim loại cháy rực đang ăn
vào da thịt anh như một thứ axit. Máu ứa
ra quanh chiếc cùm dữ tợn đó.
“Cậu lẽ ra phải nghĩ tới việc này
trước khi đi gặp Valentine chứ?”

“Bà làm thế này cũng không thể làm


tôi sợ Hội đồng Clave được. Họ không
thể tệ hơn bà.”

“À, cậu sẽ không tới gặp Hội đồng


đâu,” Điều Tra Viên nói. Sự điềm tĩnh kỳ
lạ trong giọng nói bà ta là thứ Jace không
ưa chút nào.

“Ý bà là sao, tôi không tới gặp Hội


đồng à? Tôi nghĩ bà đã nói mai sẽ đưa
tôi tới Idris cơ mà?”
“Không. Ta dự định đưa cậu trở về
với bố cậu.”

Choáng váng nghe lấy lời bà ta làm


Jace lại ngã phịch xuống. “Bố tôi ư?”

“Bố cậu. Ta định sẽ dùng cậu để đổi


lấy các Bảo Bối Thiên Thần.”

Jace trố mắt nhìn bà ta. “Bà đùa


chắc.”

“Không hề. Thế này lại đơn giản hơn


xét xử. Dĩ nhiên cậu chắc chắn bị khai
trừ khỏi Hội đồng Clave rồi,” bà ta nói
thêm, như thể vừa nghĩ ra, “nhưng hẳn
không nói cậu cũng biết rồi nhỉ.”

Jace đang lắc đầu. “Bà bắt nhầm


người rồi. Tôi mong bà nhận ra.”

Vẻ bực bội loáng qua mặt Điều Tra


Viên. “Ta nghĩ chúng ta miễn cái trò vờ
là người vô tội của cậu rồi chứ,
Jonathan?”

“Tôi không nói tới tôi. Tôi nói tới bố


tôi cơ.”

Kể từ lần đầu gặp mặt, đây là lần duy


nhất anh thấy bà ta lộ vẻ bối rối. “Tôi
không hiểu ý cậu.”
“Bố tôi sẽ không bao giờ trao đổi các
Bảo Bối lấy tôi cả.” Lời anh có vẻ chua
chát nhưng giọng nói thì không. Đó là sự
thật hiển nhiên. “Ông ta sẽ mặc kệ bà giết
tôi trước mặt ông ta, chứ không chịu giao
Thanh Kiếm hay Chén Thánh ra đâu.”

Điều Tra Viên lắc đầu. “Cậu không


hiểu rồi,” bà ta nói, trong giọng đượm
nét oán thán. “Trẻ con không bao giờ
hiểu. Tình yêu cha mẹ dành cho con cái,
nó không giống bất cứ gì khác. Không
tình yêu nào bền bỉ đến vậy. Không
người bố nào - kể cả Valentine - lại hy
sinh con trai mình chỉ vì một mảnh kim
loại, dù nó chứa quyền năng lớn tới
đâu.”
“Bà không hiểu bố tôi. Ông ấy sẽ cười
vào mặt bà và cho bà tiền để đưa xác tôi
về Idris.”

“Đừng vô lý...”

“Bà nói đúng,” Jace nói. “Nghĩ tới


chuyện đó, có khi ông ấy sẽ bắt bà tự bỏ
tiền túi trả phí vận chuyển ấy chứ.”

“Ta thấy cậu vẫn là con trai Valentine.


Cậu không muốn hắn mất các Bảo Bối -
vì làm vậy đồng nghĩa với việc bản thân
cậu mất đi quyền năng. Cậu không muốn
sống như đứa con của một kẻ tội phạm bị
xã hội khinh rẻ, vì thế cậu sẽ nói mọi lời
hòng xoay chuyển ý định của ta. Nhưng
cậu không lừa được ta rồi.”

“Bà nghe này.” Tim Jace đập thình


thịch, nhưng anh cố giữ giọng nói thật
bình tĩnh. Bà ta phải tin cậu. “Tôi biết bà
ghét tôi. Tôi biết bà nghĩ tôi cũng chỉ là
một kẻ bịp bợm như bố tôi. Nhưng giờ
tôi đang nói thật với bà đấy. Bố tôi tin
tưởng tuyệt đối vào điều ông ta đang
làm. Bà nghĩ ông ta là đồ quỷ dữ. Nhưng
ông ta nghĩ ông ta là lẽ phải. Ông ta nghĩ
ông ta đang làm việc của Đức Chúa
Trời. Ông ta sẽ không từ bỏ tất cả vì tôi.
Bà theo dấu tôi khi tôi tới đó, bà phải
nghe thấy điều ông ta nói...”
“Ta thấy cậu nói chuyện với hắn,”
Điều Tra Viên nói. “Ta không nghe thấy
gì.”

Jace thầm chửi thề. “Nghe này, tôi sẽ


thề bất cứ lời nào bà muốn để chứng
minh rằng tôi không nói dối. Valentine
đang dùng Thanh Kiếm và Chén Thánh
để triệu hồi và kiểm soát lũ quỷ. Bà càng
tốn nhiều thời gian với tôi, ông ta càng
có thêm thời gian xây dựng lực lượng.
Đến lúc bà nhận ra ông ta không chịu
trao đổi, thì bà sẽ không còn cơ hội đánh
bại ông ta...”

Điều Tra Viên kêu lên vẻ chán ghét và


quay lưng bỏ đi. “Ta chán nghe mấy lời
dối trá của cậu lắm rồi.”

Jace ngừng thở vì không tin khi bà ta


quay lưng bước ra khỏi cửa.

“Làm ơn đi!” anh hét lên.

Bà ta dừng lại trước cửa và quay lại


nhìn anh. Jace chỉ thấy khuôn mặt góc
cạnh của bà ta chìm trong bóng tối với
cái cằm nhọn và phần thái dương hõm
lại. Bộ đồ xám hòa cùng màu với bóng
tối khiến bà ta như thể một cái đầu không
thân thể dật dờ trong không trung. “Đừng
nghĩ rằng,” bà ta nói, “việc ta trả cậu về
với bố cậu là điều ta muốn làm.
Valentine Morgenstern không đáng được
như vậy.”

“Thế ông ấy đáng gì nào?”

“Ôm xác con trong tay. Thấy xác con


mình mà bất lực, vì biết rằng không một
phép thuật, một câu thần chú hay một phi
vụ giao dịch với sa tăng có thể mang con
mình trở lại...” Bà ta nghẹn lời. “Hắn
phải biết,” bà ta nói như một tiếng thì
thầm, đoạn đẩy cửa, những móng tay bấu
vào tấm gỗ. Cánh cửa đóng cạnh sau
lưng, để lại mình Jace, cổ tay bỏng rát,
bối rối nhìn theo.

Clary nhíu mày dập điện thoại.


“Không nhấc máy.”

“Cháu đang gọi ai đấy?” Chú Luke đã


uống đến cốc cà phê thứ năm và Clary
bắt đầu thấy lo lắng. Chắc hẳn là có
chuyện ngộ độc cà phê chứ nhỉ? Chú
chưa có biểu hiện gì bất thường, nhưng
để cho chắc ăn, cô lén lút rút điện máy
pha cà phê ra khi trên đường quay trở lại
bàn. “Simon à?”

“Không. Cháu cảm thấy đánh thức cậu


ấy giữa ngày cứ kỳ kỳ làm sao ấy, dù cậu
ấy bảo miễn không phải thấy ánh sáng thì
cậu ấy chẳng thấy phiền gì.”
“Vậy...”

“Cháu đang gọi Isabelle. Cháu muốn


biết chuyện gì đang xảy ra cho Jace.”

“Con bé không trả lời à?”

“Không.” Bụng Clary réo lên. Cô tới


tủ lạnh, lấy một hộp sữa chua vị đào,
máy móc ăn mà chẳng cảm thấy vị gì. Ăn
được chừng nửa hộp thì cô chợt nhớ ra
một chuyện. “Maia,” cô kêu lên. “Chúng
ta nên xem bạn ấy thế nào rồi.” Cô đặt
hộp sữa chua xuống. “Cháu đi cho.”

“Không, chú là sói đầu đàn. Con bé


tin chú. Chú có thể làm nó bình tĩnh nếu
nó buồn,” chú Luke nói. “Chú sẽ trở lại
ngay.”

“Đừng nói câu đó,” Clary van nài.


“Cháu ghét mọi người dùng câu đó.”

Chú cười nhăn nhở với cô rồi đi vào


hành lang. Vài phút sau chú quay lại, mặt
sững sờ. “Con bé đi mất rồi.”

“Đi mất? Sao bạn ấy đi được?”

“Ý chú là con bé đã lẻn ra khỏi nhà.


Nó bỏ lại cái này.” Chú ném một mảnh
giấy được gấp lại lên bàn. Clary cầm lên
và đọc mấy câu viết vội mà nhăn mặt:

Xin lỗi vì tất cả. Cháu đi sửa sai lầm


đây. Cảm ơn vì những điều mọi người
làm. Maia.

“Đi sửa chữa sai lầm? Nghĩa là sao


đây?”

Chú Luke thở dài. “Chú mong là cháu


biết chứ.”

“Chú đang lo à?”

“Quỷ Raum là lũ chó tha mồi,” chú


Luke nói. “Chúng tìm và mang mồi về
cho bất cứ kẻ nào triệu hồi chúng. Có thể
con quỷ đó vẫn đang tìm con bé.”

“Ồ,” Clary líu ríu nói. “Ừm, cháu


đoán ý bạn ấy có lẽ là tới gặp Simon.”

Chú Luke trông ngạc nhiên. “Sao con


bé biết Simon ở đâu?”

“Cháu không biết,” Clary thừa nhận.


“Họ có vẻ khá thân. Có thể bạn ấy biết
nhà.” Cô cho tay vào túi lấy điện thoại.
“Để cháu gọi cho Simon.”

“Chú nghĩ gọi cho thằng bé làm cháu


thấy kỳ kỳ chứ nhỉ.”
“Không kỳ bằng mọi chuyện đang xảy
ra quanh đây.” Cô mở danh bạ tìm số
Simon. Chuông đổ ba hồi trước khi cậu
nhấc máy, giọng hãy còn ngái ngủ. “A
lô?”

“Mình đây.” Cô quay lưng lại chú


Luke khi nói, theo thói quen hơn là muốn
không để chú nghe điện thoại.

“Cậu phải biết giờ mình sống về đêm


chứ,” Simon than vãn. Cô nghe thấy tiếng
cậu lăn mình trên giường. “Nghĩa là mình
sẽ ngủ cả ngày đấy.”

“Cậu có nhà không?”


“Có, chứ còn ở đâu được nữa?”
Giọng cậu đã tỉnh táo hơn, cơn buồn ngủ
đã biến mất. “Sao thế, Clary, có chuyện
gì sao?”

“Maia bỏ đi rồi. Cô ấy để lại tờ giấy


nói sẽ tới nhà cậu.”

Simon bối rối. “À không đâu. Hoặc


nếu có, thì giờ cô ấy cũng chưa tới đây.”

“Ngoài cậu ra không còn ai ở nhà à?”

“Không, mẹ mình đi làm còn chị


Rebecca đi học rồi. Sao cậu lại nghĩ
Maia sẽ tới đây?”
“Thôi, cậu cứ gọi nếu cô ấy đến
nhé...”

Simon chen ngang. “Clary.” Giọng


cậu nghe chừng khẩn trương, “Đợi chút.
Hình như có ai định đột nhập vào nhà
mình.”

Thời gian dần trôi đi trong tù và Jace


quan sát cơn mưa điện bàng bạc rơi
quanh mình với vẻ thích thú lơ đãng.
Những đầu ngón tay anh đang tê dại dần,
anh nghĩ đấy là dấu hiệu không hay,
nhưng anh chẳng buồn quan tâm. Anh tự
hỏi nhà Lightwood có biết mình ở trên
này không, hoặc liệu người nào bước
vào phòng luyện tập có ngạc nhiên khi
thấy anh bị nhốt trong này không. Nhưng
không, Điều Tra Viên không ngốc. Hẳn
bà ta sẽ bảo mọi người rằng căn phòng
này là cấm địa cho đến khi bà ta xử lý
xong tên tù nhân theo cách bà ta thấy là
thỏa đáng. Anh nghĩ đáng ra mình nên tức
giận, thậm chí là sợ hãi, nhưng anh cũng
chẳng buồn màng đến chuyện này. Dường
như chẳng có gì là thực nữa rồi: Hội
đồng Clave, Hiệp Ước, Luật, thậm chí cả
bố.

Tiếng chân nhè nhẹ vang lên báo cho


anh có kẻ khác trong phòng. Anh đang
nằm ngửa, nhìn lên xà nhà; giờ thì ngồi
thẳng dậy, mắt đảo quanh phòng. Anh
thấy bóng người tối tối bên ngoài tấm
rèm mưa óng ánh. Hẳn là Điều Tra Viên
đây mà, quay lại để mỉa mai anh thêm
chút nữa. Anh củng cố tinh thần - nhưng
rồi nhảy dựng lên khi thấy mái tóc đen
cùng khuôn mặt quen thuộc.

Có lẽ rốt cuộc vẫn có vài thứ anh


quan tâm tới. “Alec?”

“Tớ đây.” Alec quỳ xuống bên kia


bức tường óng ánh. Giống như nhìn ai đó
qua màn sóng nước dập dềnh, Jace có
thể thấy rõ Alec, nhưng đôi khi anh ta cứ
nhòe đi khi cơn mưa điện kia chuyển
động.

Chỉ cần thế này thôi là đủ say sóng


rồi, Jace nghĩ.

“Nhân danh Thiên Thần, cái gì thế


này?” Alec vươn tay chạm vào bức
tường.

“Đừng.” Jace giơ tay, sau đó vội rụt


trước khi chạm phải tấm rèm điện. “Nó
sẽ giật điện cậu, thậm chí là giết chết cậu
nếu cậu cố vượt qua.”

Alec rụt tay lại và huýt sáo nho nhỏ.


“Điều Tra Viên này nghiêm trọng nhỉ.”

“Tất nhiên rồi. Tớ là tên tội phạm


nguy hiểm cơ mà. Hay cậu chưa nghe
danh tớ à?” Jace nghe có sự chua chát
trong giọng mình, thấy Alec nhăn mặt, và
trong chốc lát, trong lòng anh bỗng thấy
vui vẻ.

“Thật ra bà ấy không gọi cậu là tội


phạm...”

“Không, tớ chỉ là một đứa trẻ hư thôi.


Tớ làm toàn chuyện xấu. Tớ đá mèo. Tớ
ra dấu bậy trước mặt các sơ.”

“Đừng đùa. Chuyện này nghiêm trọng


ấy.” Đôi mắt Alec u ám. “Cậu nghĩ cái
khỉ gì mà đi gặp Valentine chứ? Thật là,
cậu nghĩ cái gì trong đầu vậy hử?”
Jace nghĩ ra hàng loạt những luận
điểm hay ho, nhưng lại thấy mình không
muốn nói ra. Anh quá mệt mỏi rồi. “Tớ
chỉ nghĩ ông ấy là bố mình thôi.”

Alec nhìn như thể đang đếm thầm đến


mười để giữ kiên nhẫn. “Jace...”

“Đặt trường hợp đó là bố cậu xem


nào? Cậu sẽ làm gì?”

“Bố tớ ư? Bố tớ sẽ không bao giờ


làm điều mà Valentine...”

Đầu Jace giật phắt lên. “Bố cậu cũng


làm những điều đó! Ông ấy ở trong Hội
Kín cùng bố tớ! Mẹ cậu cũng vậy! Bố mẹ
chúng ta giống nhau thôi. Điều duy nhất
khác biệt là bố mẹ cậu bị bắt và trừng
phạt, còn bố tớ thì không!”

Mặt Alec đanh lại. Nhưng “Khác biệt


duy nhất ư?” là tất cả những gì anh ta
nói.

Jace nhìn xuống đôi tay. Cùm tay đáng


lẽ không phải còng lâu đến thế. Lớp da
bên dưới chúng giờ đã úng máu.

“Tớ chỉ muốn nói,” Alec bảo, “không


hiểu sao cậu có thể muốn gặp ông ta,
không phải sau bao nhiêu việc ông ta đã
làm nói chung, mà là sau những gì ông ta
đã làm với cậu kìa.”

Jace không nói gì.

“Sau bao nhiêu năm,” Alec nói. “Ông


ta kệ cậu ôm lấy ý nghĩ rằng ông ta đã
chết. Có thể cậu không nhớ hồi mười tuổi
như thế nào, nhưng tớ thì có. Không một
ai yêu quý cậu có thể làm... có thể làm
những điều như ông ta đã làm.”

Những vệt máu loãng đang đổ dọc


xuống lòng bàn tay Jace, nhìn giống
những sợi dây đỏ bị xổ tung. “Valentine
bảo tớ rằng,” anh bình tĩnh nói, “rằng nếu
tớ giúp ông ta chống lại Hội đồng Clave,
nếu tớ chịu như thế, thì ông ta sẽ đảm
bảo rằng không một ai tớ yêu quý bị làm
hại. Không phải cậu, Isabelle hay Max.
Không phải Clary. Không phải bố mẹ
cậu. Ông ta nói...”

“Không ai bị làm hại ư?” Alec nhại


lại. “Cậu đang nói là ông ta bảo không tự
tay làm họ tổn thương. Hay đấy.”

“Tớ thấy ông ta có khả năng làm được


gì, Alec ạ. Tớ thấy được sức mạnh quỷ
dữ ông ta nắm trong tay. Nếu ông ta mang
đoàn quân ác quỷ chống lại Hội đồng
Clave, chắc chắn chiến tranh sẽ xảy ra.
Và con người bị thương trong chiến
tranh. Họ chết trong chiến tranh.” Anh
ngần ngừ. “Nếu cậu có cơ hội cứu sống
những người cậu yêu...”

“Nhưng đó là kiểu cơ hội gì mới


được? Chúng ta tin được bao nhiêu phần
lời nói của Valentine đây?”

“Nếu ông ta thề với Thiên Thần sẽ


làm gì đấy thì ông ta sẽ thực hiện đấy. Tớ
hiểu ông ấy mà.”

“Đó là nếu cậu giúp ông ta chống lại


Hội đồng Clave.”

Jace gật đầu.

“Hẳn ông ta phải giận lắm khi cậu nói


không nhỉ,” Alec nhận xét.

Jace ngước mắt khỏi cổ tay đang chảy


máu mà nhìn trân trối. “Hả?”

“Tớ nói...”

“Tớ nghe cậu nói gì rồi. Điều gì khiến


cậu nghĩ là tớ đã nói không chứ?”

“À, cậu đã nói không. Đúng không?”

Jace gật đầu, thật chậm.

“Tớ hiểu mà,” Alec nói, vô cùng tự


tin, và đứng dậy. “Cậu đã nói với Điều
Tra Viên về Valentine và kế hoạch của
ông ta rồi chứ gì? Và bà ta không thèm
quan tâm?”

“Tớ không nói bà ta không quan tâm


đâu. Bà ta không thực sự tin tớ thì đúng
hơn. Bà ta nghĩ kế hoạch của bà ta thừa
sức chặn đứng Valentine. Vấn đề là, kế
hoạch của bà ta dở ẹc.”

Alec gật đầu. “Cậu có thể kể cho tớ


nghe sau đi. Giờ chúng ta phải làm cái
này trước: chúng ta phải tìm ra cách giúp
cậu thoát khỏi đây.”

“Cái gì?” Jace hơi choáng váng khó


tin. “Tớ tưởng cậu đi thẳng đến đường
cùng rồi chứ. ‘Luật là Luật, Alec à.’ Ba
cái thứ cậu ư ử ngâm nga là gì thế hử?”

Alec có vẻ kinh ngạc. “Cậu không lẽ


nào nghĩ rằng tớ có ý đó thật chứ. Tớ chỉ
muốn Điều Tra Viên tin tớ để bà ta không
theo dõi tớ như theo dõi Izzy và Max
thôi. Bà ta biết hai đứa đó theo phe cậu
mà.”

“Còn cậu? Cậu về phe tớ à?” Jace có


thể nghe ra nỗi khắc nghiệt trong câu hỏi
của mình, nhưng rồi lại gần như lâng lâng
khi câu trả lời mang ý nghĩa thế nào với
mình.

“Tớ ủng hộ cậu,” Alec nói, “luôn luôn


là vậy. Sao cậu phải hỏi vậy chứ? Có thể
tớ tôn trọng Luật đấy, nhưng những gì
Điều Tra Viên làm với cậu chẳng liên
quan gì đến Luật cả. Tớ không hiểu chính
xác đang diễn ra chuyện gì, nhưng nỗi
oán hận bà ta dành cho cậu là tư thù.
Không liên quan gì tới Hội đồng Clave
cả.”

“Tớ sỉ nhục bà ta,” Jace nói. “Tớ


không dừng được. Tớ ghét mấy viên
chức quan liêu lắm.”

Alec lắc đầu. “Cũng không phải vậy.


Đây là sự oán hận từ lâu rồi. Tớ cảm
nhận được.”
Jace định trả lời thì chuông nhà thờ
rung lên. Ở gần sát mái nhà thế này, nên
rung động âm thanh ở đây rất lớn. Anh
ngước lên nhìn - anh vẫn nửa mong thấy
Hugo đang bay chầm chậm, suy tư giữa
những thanh xà nhà bằng gỗ. Con quạ
thích ở đây, giữa những xà nhà và mái
nhà đá hình vòm. Khi đấy Jace nghĩ con
quạ thích cắm móng vào những mảnh gỗ
mềm; nhưng giờ anh biết, xà nhà cung
cấp cho nó một lợi thế quan sát tốt.

Một ý tưởng bắt đầu hình thành trong


đầu anh, dù còn tối tăm và kém rõ ràng.
Nhưng anh chỉ bảo, “Chú Luke có nói về
chuyện Điều Tra Viên có một người con
trai tên Stephen. Chú ấy bảo bà ta đang
cố trả thù cho người đó. Tớ vừa hỏi về
Stephen thì bà ta liền nổi điên lên. Tớ
nghĩ chuyện về Stephen có thể liên quan
tới việc bà ta ghét tớ đến vậy đấy.”

Tiếng chuông ngừng rung. Alec nói.


“Có thể. Tớ sẽ hỏi bố mẹ, nhưng tớ
không nghĩ họ sẽ kể cho tớ đâu.”

“Không, đừng hỏi họ. Hỏi chú Luke


ấy.”

“Ý cậu là quay trở lại mãi tận


Brooklyn á? Nghe này, chuyện lén ra
khỏi đây lúc này hoàn toàn bất khả thi...”
“Sử dụng điện thoại của Isabelle.
Nhắn tin cho Clary. Bảo em ấy hỏi chú
Luke.”

“Được rồi.” Alec ngừng lại. “Cậu


muốn tớ nhắn gì thêm không? Với Clary
ấy, không phải Isabelle đâu.”

“Không.” Jace đáp. “Cậu chẳng có gì


cần nói với con bé cả.”

“Simon!” Nắm chặt lấy điện thoại,


Clary vội quay sang chú Luke. “Cậu ấy
bảo có người đang cố đột nhập vào nhà.”

“Bảo thằng bé ra khỏi đó.”


“Cháu không ra được,” Simon đanh
giọng. “Trừ khi cháu muốn làm ngọn
đuốc sống.”

“Ánh nắng,” cô nói với chú Luke,


nhưng cô thấy chú đã nhận ra vấn đề và
đang lục tìm gì đó trong túi. Chìa khóa
xe. Chú giơ nó lên.

“Bảo với Simon là chúng ta đang trên


đường. Bảo thằng bé khóa cửa phòng và
ở im trong đó cho đến khi chúng ta tới.”

“Cậu nghe thấy chưa? Khóa cửa


phòng lại.”
“Nghe rồi.” Giọng Simon có vẻ căng
thẳng; Clary nghe thấy tiếng xoàn xoạt
nho nhỏ rồi tới một tiếng thịch lớn.

“Simon!”

“Mình ổn. Mình chỉ đang chất đồ chặn


cửa thôi.”

“Cậu dùng gì đấy?” Giờ cô đã ra


ngoài hiên, rùng mình trong chiếc áo
mỏng. Chú Luke đi sau, đang khóa cửa
nhà.

“Cái bàn,” Simon hài lòng trả lời.


“Và cái giường nữa.”
“Giường cậu á?” Clary leo lên xe bên
cạnh chú Luke, cố dùng một tay đeo dây
an toàn trong khi chú Luke cho xe ra khỏi
nhà phóng xuống đường Kent. Chú
nghiêng người sang, giúp cô thắt dây an
toàn. “Sao cậu nâng giường nổi?”

“Cậu quên à? Sức mạnh vô biên của


ma cà rồng.”

“Hỏi xem thằng bé nghe thấy gì,” chú


Luke nói. Họ đang tăng tốc, nếu đường
bờ sông Brooklyn được bảo trì tốt hơn
thì họ đã đi nhanh hơn nhiều. Clary thở
hắt ra mỗi khi đụng trúng ổ gà.

“Cậu đang nghe thấy gì vậy?” cô hỏi,


hơi hụt hơi.

“Mình nghe có tiếng cửa trước bật ra.


Mình nghĩ có người đá tung nó thì phải.
Sau đó con Yossarian chui vào phòng
mình và lủi xuống gầm giường. Thế là
mình biết chắc chắn có người lạ trong
nhà.”

“Và giờ?”

“Giờ thì mình không nghe thấy gì cả.”

“Thế tốt, đúng không chú?” Clary


quay sang chú Luke. “Cậu ấy nói giờ cậu
ấy không nghe thấy gì. Có thể chúng bỏ
đi rồi.”

“Có lẽ.” Chú Luke có vẻ ngờ vực. Họ


đã đi ra đường cao tốc, phóng thẳng tới
khu nhà Simon. “Nhưng cứ giữ máy đi.”

“Giờ cậu đang làm gì vậy, Simon?”

“Chẳng làm gì cả. Mình đẩy hết mọi


thứ trong phòng về phía cửa rồi. Giờ
mình đang cố kéo con Yossarian ra khỏi
ống thông gió lò sưởi đây.”

“Cứ kệ nó đấy.”

“Chuyện này rồi sẽ khó mà giải thích


với mẹ mình đây,” Simon nói, rồi điện
thoại im bặt. Có một tiếng click, rồi
chẳng còn gì nữa cả. NGỪNG KẾT NỐI
hiện trên màn hình.

“Không. Không!” Clary nhấn nút gọi


lại, ngón tay run rẩy.

Simon nghe ngay. “Xin lỗi. Yossarian


cào mình và mình làm rơi điện thoại.”

Cổ họng Clary bừng lên cảm giác an


tâm. “Được rồi, miễn là cậu không sao
và...”

Điện thoại vang lên tiếng rèn rẹt như


thủy triều trào dâng, khiến giọng Simon
nghe không rõ. Cô giơ điện thoại ra xa.
Màn hình vẫn hiển thị ĐÃ KẾT NỐI.

“Simon!” cô hét vào điện thoại. “Cậu


nghe thấy không?”

Tiếng rèn rẹt ngừng lại. Có tiếng vỡ,


tiếng mèo rít lên không bình thường -
Yossarian ư? Sau đó tiếng thứ gì đó bị
nện mạnh xuống.

“Simon!” cô thì thào.

Lại một tiếng click nữa và một giọng


nói vui vẻ, chậm rãi vang bên tai Clary.
“Clarissa,” giọng nói đó nói. “Ta phải
đoán ra con ở đầu dây bên kia chứ nhỉ.”

Cô nhắm chặt mắt, bụng dạ xốc lộn


lên như ngồi trên tàu lượn lúc xuống dốc.
“Valentine.”

“Con phải gọi là bố chứ,” ông ta có


vẻ phật ý. “Ta không thích thói thời hiện
đại con cái gọi bố mẹ bằng tên riêng đâu
nhé.”

“Tôi còn muốn gọi ông bằng đủ thứ


tên không có trong từ điển cơ,” cô bật
lại. “Simon đâu?”
“Con hỏi thằng bé ma cà rồng kia hả?
Một thứ bạn bè không đáng có cho một
cô bé con Thợ Săn Bóng Tối trong gia
đình gia giáo, con không thấy thế sao?
Từ nay ta mong ta sẽ đưa ra ý kiến trong
việc chọn bạn mà chơi của con đấy.”

“Ông đã làm gì Simon?”

“Chẳng làm gì cả,” Valentine vui vẻ


nói. “Chưa làm gì hết.”

Nói rồi ông ta cúp máy.

Khi Alec trở lại phòng luyện tập, Jace


đang nằm trên sàn, tưởng tượng ra cảnh
các vũ công nhảy múa để quên đi cơn
đau buốt nơi cổ tay. Nhưng không thể.

“Cậu đang làm gì đấy?” Alec hỏi sau


khi quỳ xuống gần với tấm rèm điện của
nhà tù nhất có thể. Jace cực lực nhắc
mình nhớ, khi Alec hỏi câu đó, nghĩa là
anh ta thực sự muốn nghe câu trả lời, và
rằng đấy là điều mà anh từng cho là đáng
mến chứ không phải là đáng ghét. Nhưng
anh thất bại.

“Tớ nghĩ nên nằm xuống sàn mà quằn


quại trong cơn đau trong chốc lát,” anh
rên rỉ. “Vui lắm cậu ạ.”

“Thật sao? À... cậu lại đang mỉa móc


tớ rồi. Đó là dấu hiệu tốt.” Alec nói. “Có
thể cậu sẽ muốn ngồi dậy đấy. Tớ sẽ cố
chuồi vài thứ qua tường nhé.”

Jace ngồi phắt dậy khiến đầu óc quay


cuồng. “Alec, đừng...”

Nhưng Alec đã cố dùng hai tay đẩy


cái gì đó cho anh, như kiểu lăn bóng cho
một đứa bé. Khối cầu đỏ vượt qua tấm
màn sáng và lăn tới chỗ Jace, đụng nhẹ
vào đầu gối anh.

“Một quả táo.” Cậu khó khăn cầm lên.


“Hợp tình hợp cảnh làm sao.”
“Tớ nghĩ chắc cậu đang đói.”

“Đúng thế.” Jace cắn một miếng;


nước táo chảy xuống tay và kêu xì xì khi
chạm vào ngọn lửa xanh còng cổ tay.
“Cậu nhắn tin cho Clary chưa?”

“Chưa. Isabelle không cho tớ vào


phòng. Con bé cứ liên tục ném đồ vào
cửa rồi hét toáng lên. Nó nói nếu tớ mà
vào thì nó sẽ nhảy qua cửa sổ ngay. Nó
thì dám lắm.”

“Có lẽ.”

“Tớ có cảm giác,” Alec cười nói,


“con bé không tha thứ cho tớ vì phản bội
cậu, nó nghĩ thế mà.”

“Bé ngoan,” Jace đánh giá cao.

“Tớ không phản bội cậu, đồ ngốc.”

“Có lòng là được rồi.”

“Tốt, vì tớ mang cho cậu thứ khác


nữa. Tớ không biết có thành công không,
nhưng cũng đáng để thử.” Anh ta cho thứ
gì đó nho nhỏ bằng kim loại qua tường.
Nó là một chiếc đĩa bạc cỡ bằng đồng 25
xu. Jace đặt quả táo sang bên và tò mò
nhặt nó lên. “Cái gì đây?”
“Tớ lấy trên mặt bàn phòng sách. Tớ
thấy bố mẹ dùng nó trước đây để tháo
bùa giam. Tớ nghĩ là nó là chữ Rune Mở
Khóa. Cũng đáng thử chứ...”

Anh ta ngừng nói khi Jace chạm đĩa


kim loại vào cổ tay, lóng ngóng giữ nó
giữ hai ngón tay. Ngay khi chiếc đĩa bạc
chạm vào viền ngọn lửa xanh, chiếc cùm
nhấp nháy sáng rồi biến mất.

“Cám ơn.” Jace xoa xoa cổ tay, mỗi


bên hằn một đường da túa máu. Anh bắt
đầu tìm lại cảm giác nơi đầu ngón tay.
“Tuy nó không phải là cái giũa giấu trong
bánh sinh nhật, nhưng nó giúp tay tớ
không bị đứt lìa.”
Alec nhìn anh. Những đường chuyển
động trên tấm rèm sáng dường như làm
gương mặt Alec dài ra, đượm nét lo lắng
- hoặc có lẽ anh ấy lo lắng thật. “Cậu
biết không, lúc nãy khi nói chuyện với
Isabelle tớ chợt nảy ra một ý. Tớ bảo nó
chẳng thể nhảy khỏi cửa sổ đâu - và đừng
có thử nếu nó không muốn chết.”

Jace gật đầu. “Nghe giống lời khuyên


của ông anh đấy.”

“Nhưng rồi tớ bỗng thắc mắc liệu với


cậu thì có thể không - ý tớ là, tớ từng
thấy cậu làm những chuyện cơ bản là như
bay ấy. Tôi đã thấy cậu nhảy xuống từ
tầng ba và đáp xuống như một con mèo
hoặc bật nhảy từ mặt đất lên mái nhà...”

“Nghe thành tích của mình được nhắc


lại cũng sướng tai đấy, nhưng tớ không
hiểu ý cậu, Alec ạ.”

“Ý tớ là quanh cậu chỉ có bốn bức


tường, không phải năm.”

Jace nhìn anh. “Vậy bác Hodge không


nói dối khi bác ấy bảo chúng ta thực sự
có thể sử dụng môn hình học vào đời
sống. Cậu nói đúng, Alec. Cái chuồng
này chỉ có bốn bức tường. Giờ nếu Điều
Tra Viên bỏ đi hai bức, tớ có thể...”
“JACE,” Alec mất hết kiên nhẫn. “Tớ
muốn nói, cái lồng này không có nóc.
Chẳng có gì chặn giữa cậu và trần nhà
cả.”

Jace ngửng đầu lên nhìn. Trần nhà


dường như cao vút lên trên, khuất trong
bóng tối. “Cậu điên rồi.”

“Có lẽ,” Alec nói. “Hoặc tớ hiểu khả


năng của cậu.” Anh ta nhún vai. “Ít ra
cậu cũng có thể thử.”

Jace nhìn Alec - nhìn khuôn mặt thật


thà chân chất và đôi mắt xanh kiên định.
Anh ấy điên rồi, Jace nghĩ. Đúng vậy,
giữa những lúc nước sôi lửa bỏng, Jace
có thể làm vài điều kỳ diệu, nhưng cả
bọn ai mà chẳng thế. Dòng máu Thợ Săn
Bóng Tối, nhiều năm tôi luyện... nhưng
anh không thể vọt lên hơn chín mét mà
không lấy đà.

Sao anh biết mình không thể chứ,


một giọng nói thỏ thẻ trong đầu anh, nếu
anh chưa từng thử chứ?

Giọng Clary. Anh nghĩ tới cô và


những con chữ rune, nhớ tới Thành phố
Câm Lặng và cái cùm tay anh bung ra
như thể bị một lực khổng lồ tác động.
Anh và Clary có chung một dòng máu.
Nếu Clary có thể làm những điều không
tưởng...
Anh đứng dậy và tần ngần nhìn quanh
phòng. Anh vẫn thấy những tấm gương
chạy dọc phòng và những thứ vũ khí treo
trên tường sáng loáng, kể cả qua tấm màn
lửa bạc chung quanh. Anh cúi xuống và
lấy quả táo cắn dở trên sàn, nhìn nó ngẫm
ngợi giây lát - rồi giơ tay ném hết sức
bình sinh. Quả táo bay qua không trung,
chạm vào tấm màn bạc, và bùng cháy
thành một vầng hào quang lửa xanh nung
chảy.

Jace nghe tiếng Alec thở dốc. Vậy là


Điều Tra Viên đã không nói quá. Nếu
anh đâm mạnh vào tường nhà giam, anh
chết chắc.
Alec đứng dậy, đột nhiên run rẩy.
“Jace, tớ không biết...”

“Im đi, Alec. Và đừng nhìn tớ. Không


giúp được tớ đâu.”

Dù Alce có nói gì thì Jace cũng không


nghe thấy. Anh đang đi chầm chậm vòng
quanh một chỗ, mắt tập trung vào xà nhà.
Những chữ rune ban cho anh thị lực tốt
phát huy tác dụng, và xà nhà hiện rõ
trong tầm mắt: Anh có thể nhìn thấy
đường gờ sứt mẻ, những đường vân và
rầm xà, những vết bẩn bám lại theo năm
tháng. Nhưng gỗ còn khá chắc. Chúng đã
giữ mái Học Viện vững chãi trong hàng
trăm năm. Vậy thì chúng thừa sức đỡ
thêm sức nặng của một cậu thiếu niên.
Anh co duỗi ngón tay, hít thở sâu và
chậm rãi, kiểm soát nhịp thở, đúng như
bố dạy. Cậu vẽ ra trong óc hình ảnh mình
nhảy vụt lên, nhẹ nhàng bám lấy xà nhà
rồi tung mình đậu lên trên đó. Jace tự nhủ
rằng mình nhẹ, nhẹ như một mũi tên, dễ
dàng phóng đi qua không trung, uyển
chuyển và không gì có thể ngăn cản
được. Dễ thôi mà, anh tự nhủ. Dễ thôi.

“Mình là mũi tên của Valentine,” Jace


thì thầm. “Dù ông ta có biết hay không.”

Và anh nhảy bật lên.


16. Trái tim sắt đá

Clary nhấn nút gọi lại cho Simon,


nhưng cuộc gọi tới thẳng tới hộp thư
thoại. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn
trên má. Cô ném điện thoại xuống bảng
đồng hồ. “Chết tiệt, chết tiệt...”

“Chúng ta sắp tới nơi rồi,” chú Luke


nói. Họ đã rời đường cao tốc lúc nào mà
cô không biết. Họ dừng lại trước cửa nhà
Simon, một ngôi nhà nhỏ nhắn bằng gỗ
với mặt tiền sơn màu đỏ vui mắt. Clary
rời xe, chạy vội lên hiên nhà trước khi
chú Luke kịp kéo phanh an toàn. Cô nghe
tiếng chú gọi tên mình trong lúc cô phóng
lên mấy bậc cấp mà cuống cuồng nện vào
cửa.

“Simon!” cô hét, “Simon!”

“Clary, đủ rồi,” chú Luke đã đuổi kịp


cô đến hàng hiên. “Hàng xóm...”

©DTV

“Mặc kệ hàng xóm.” Cô lần sờ chùm


chìa khóa đeo nơi thắt lưng, tìm đúng
chìa và tra vào ổ. Cô mở bung cửa và
cẩn trọng bước vào hành lang, chú Luke
đi ngay sau. Họ nhìn qua cánh cửa đầu
tiên bên trái dẫn vào gian bếp. Mọi thứ
vẫn như bình thường, từ bệ bếp sạch lau
li tới những miếng nam châm đính trên tủ
lạnh. Kia là chiếc bồn rửa bát nơi cô đã
hôn Simon chỉ vài ngày trước. Ánh mặt
trời tràn qua ô cửa sổ, sơn màu vàng
nắng nhàn nhạt khắp phòng. Thứ ánh
vàng có thể biến Simon thành tro bụi.

Phòng Simon là căn cuối cùng ở cuối


hành lang. Cánh cửa hơi hé mở, nhưng
qua khe hở ấy Clary không thấy gì ngoài
bóng tối.

Cô rút thanh stele ra khỏi túi và nắm


chặt lấy. Cô biết nó không thực sự là một
thứ vũ khí, nhưng có nó trong tay làm cô
bình tĩnh hơn. Bên trong căn phòng tối
om, những tấm rèm tối màu che ngang ô
cửa sổ, ánh sáng duy nhất tới từ chiếc
đồng hồ điện tử đặt trên kệ đầu giường.
Chú Luke với tay qua để bật đèn thì một
thứ gì đó một thứ gì đó biết rít và gầm
ghè như một con quỷ - từ trong bóng tối
lao về phía chú.

Clary hét lên khi chú Luke nắm lấy


vai cô và đẩy mạnh cô sang một bên. Cô
loạng choạng suýt ngã; khi cô lấy lại cân
bằng, cô quay lại thấy chú Luke kinh
ngạc giữ lấy con mèo trắng đang xù lông,
nhe nanh múa vuốt. Nó quả giống một
quả bông có móng vuốt.
“Yossarian!” Clary reo lên.

Chú Luke thả con mèo xuống.


Yossarian ngay lập tức phóng qua chân
chú mà biến mất ngoài hành lang.

“Đồ mèo ngu,” Clary nói.

“Không phải lỗi của nó. Mèo không


thích bọn chú.”

Chú Luke bật công tắc. Clary há hốc


miệng. Phòng ốc vẫn gọn ghẽ như trước,
chẳng có lấy một thứ gì đặt lệch chỗ, kể
cả tấm thảm chùi chân cũng không hề xô
lệch. Kể cả khăn trải cũng không có lấy
một nếp nhăn.

“Phép che mắt hả chú?”

“Không phải. Có lẽ chỉ là pháp thuật


thôi.” Chú Luke tới giữa phòng, trầm
ngâm nhìn quanh. Khi chú kéo một tấm
rèm sang bên, Clary thấy thứ gì đó sáng
lấp lánh trên thảm dưới chân chú.

“Chú Luke, đợi đã.” Cô tới chỗ chú


đứng và quỳ xuống lấy vật đó lên. Đó là
chiếc điện thoại màu bạc của Simon, đã
bị bẻ cong, cần ăng ten giật gãy. Trống
ngực đập thình thịch, Clary bật mở điện
thoại. Dù màn hình bị nứt dọc nhưng
dòng tin nhắn vẫn hiện lên rõ ràng: GIỜ
TA ĐÃ CÓ ĐỦ.

Clary choáng váng ngồi phịch xuống


giường. Cô mơ hồ cảm thấy chú Luke
giật điện thoại khỏi tay. Cô nghe tiếng
chú thở hắt ra khi đọc tin nhắn.

“Nghĩa là sao hả chú? ‘Giờ ta đã có


đủ’ hả?” Clary hỏi.

Chú Luke đặt điện thoại của Simon


lên bàn và vuốt mặt. “Chú sợ là giờ hắn
đã có Simon, và, có thể, cả Maia nữa.
Vậy là hắn có mọi thứ hắn cần cho Nghi
Lễ Địa Ngục Xoay Chuyển rồi.”
Clary nhìn chú. “Chú muốn nói là
điều này không chỉ để trả đũa cháu - và
chú ư?”

“Chú chắc chắn rằng Valentine xem


việc trả đũa chỉ là một kiểu tác dụng phụ
vui vui thôi. Không phải mục đích chính.
Mục đích chính của hắn là đảo ngược
thuộc tính của Thanh Kiếm Linh Hồn. Và
để làm được, hắn cần...”

“Máu của những đứa trẻ thuộc Thế


Giới Ngầm. Nhưng Maia và Simon đâu
còn là trẻ con. Họ là thiếu niên rồi cơ
mà.”

“Khi câu thần chú biến đổi ấy được


tạo thành, từ ‘thiếu niên’ còn chưa ra đời.
Trong xã hội Thợ Săn Bóng Tối, cháu là
người lớn khi cháu tròn mười tám. Trước
đó, cháu vẫn là trẻ con. Đối với mục
đích của Valentine, thì Maia và Simon là
trẻ con. Hắn đã có máu của một đứa trẻ
tộc tiên và máu của một nhóc pháp sư
rồi. Tất cả những gì hắn cần là máu
người sói và ma cà rồng.”

Clary thấy như không khí bị tống ra


khỏi lồng ngực. “Vậy sao chúng ta lại
không làm gì đi? Vì sao chúng ta không
nghĩ tới việc bảo vệ họ bằng cách nào
đấy chứ?”

“Vì tính tới thời điểm này thì


Valentine chỉ tiện đâu làm đấy thôi. Mọi
nạn nhân của hắn được chọn chỉ vì họ có
sẵn ra đấy. Pháp sư thì dễ tìm rồi; tất cả
những gì Valentine cần làm là thuê hắn
vờ như đang muốn triệu hồi một con quỷ.
Rất dễ để tìm một thần tiên trong công
viên nếu cháu biết chỗ cần tìm. Và quán
Hunter’s Moon chính xác là nơi cháu cần
tới để tìm một người sói. Tự dưng kéo
thêm nguy hiểm và rắc rối vào chỉ để trả
đũa chúng ta khi mà chẳng có gì thay
đổi...”

“Jace,” Clary nói.

“Sao cháu lại nhắc tới Jace? Jace thì


liên quan gì?”
“Cháu nghĩ ông ta đang trả đũa Jace.
Chắc chắn hồi tối qua lúc trên thuyền
Jace đã làm gì đó khiến Valentine điên
tiết. Điên tới mức từ bỏ mọi kế hoạch
mình từng có và vạch ra kế hoạch mới.”

Chú Luke có vẻ hoang mang. “Điều gì


khiến cháu nghĩ việc Valentine thay đổi
kế hoạch là có liên quan đến anh cháu
vậy?”

“Vì,” Clary đáp với vẻ đoan chắn rầu


rầu, “chỉ có Jace mới có thể làm người
khác tức giận tới mức đó.”
“Isabelle!” Alec nện thình thịch lên
cửa phòng cô em gái. “Isabelle, mở cửa
ra. Anh biết em trong đó.”

Cánh cửa hé mở. Alec cố nhìn vào,


nhưng hình như không có ai bên kia cửa.
“Chị ấy không muốn nói chuyện với
anh,” một giọng nói quen thuộc vang lên.

Alec nhìn xuống thấy một đôi mắt xám


đang lườm anh qua cặp kính hơi lệch.
“Max,” anh nói. “Thôi nào em, cho anh
vào đi.”

“Em cũng không muốn nói chuyện với


anh.”
Max bắt đầu đẩy cửa lại, nhưng Alec,
nhanh như cú quất roi của Isabelle, chèn
chân vào khe hở.

“Đừng bắt anh đánh ngã em, Max.”

“Anh sẽ không đâu.” Max dùng hết


sức mà đẩy.

“Không, nhưng anh sẽ kêu bố mẹ tới,


mà anh thì nghĩ Isabelle không thích
chuyện đó. Em thích không, Izzy?” anh
lớn giọng, cố ý cho cô em gái trong
phòng nghe rõ.

“Ồ, vì Chúa.” Isabelle nghe bừng


bừng phẫn nộ. “Được rồi Max. Để cho
anh ấy vào.”

Max tránh sang bên và Alec đi vào,


để cửa đóng hờ sau lưng. Isabelle đang
quỳ trước ô cửa sổ, chiếc roi vàng quấn
quanh cánh tay trái. Cô đang mặc bộ đồ
đi săn, quần dài màu đen chắc nịch và áo
sơ mi bó thêu những con chữ rune trắng
mờ, gần như không nhìn thấy. Đôi bốt
kéo lên tới đầu gối và mái tóc đen bay
bay trong cơn gió thổi qua ô cửa sổ. Cô
lừ mắt nhìn anh, làm Alec trong khoảnh
khắc chỉ thấy nhớ đến Hugo, con quạ đen
của bác Hodge.

“Em đang làm trò khỉ gì đó? Cố tự tử


hả?” anh nói, giận dữ sải bước tới phía
cô em gái.

Cây roi vung ra, quấn quanh mắt cá


anh. Alec đứng phắt lại, thừa biết chỉ cần
một cú phẩy tay thôi, Isabelle có thể kéo
anh ngã bổ dập đầu xuống sàn gỗ cứng.
“Đừng hòng tới gần tôi, Alexander
Lightwood,” cô nói bằng cái giọng dữ
tợn nhất. “Lúc này tôi không hề nương
tay tí nào với anh đâu.”

“Isabelle...”

“Sao anh có thể quay lưng với Jace


như vậy chứ hả? Sau tất cả những chuyện
anh ấy đã trải qua ấy? Mà các anh lại
còn thề sẽ bảo vệ lẫn nhau cơ đấy...”

“Sẽ không làm thế,” anh nhắc cô em


nhớ, “nếu làm vậy là trái Luật.”

“Lại Luật nữa!” Isabelle khinh ghét


quát lại. “Alec, trên đời này còn những
thứ luật cao hơn Luật của Hội đồng
Clave. Đó là luật gia đình. Jace là gia
đình của anh đấy.”

“Luật gia đình ư? Anh chưa nghe thấy


bao giờ,” Alec chọc giận cô em. Anh
biết mình phải biện hộ cho mình, nhưng
thật sự rất khó để bỏ đi thói quen cả đời
là phải chấn chỉnh cho em út mỗi khi
chúng nói sai. “Em bịa ra hả?”
Isabelle giật cổ tay. Alec thấy chân
mình chới với và phải vặn người, chống
tay xuống tránh cú va chạm trực diện với
sàn gỗ. Vừa tiếp đất bằng lưng xong
Alec đã thấy Isabelle đứng lù lù bên
trên. Max bên cạnh chị. “Chúng ta nên
làm gì với ông này hả Maxwell?”
Isabelle hỏi. “Hay cứ gô cổ anh ta lại
đây, kệ bao giờ bố mẹ tìm thấy thì thấy
nhỉ?”

Alec chịu đủ rồi. Anh rút con dao dắt


ở cổ tay khỏi vỏ, vặn người sà xuống dây
trói ở chân. Sợi dây điện kêu soàn soạt
rồi bật ra, còn anh đứng thẳng dậy khi
Isabelle kéo sợi roi lại kêu vút vút.
Một tiếng khúc khích nho nhỏ phá vỡ
không khí căng thẳng. “Thôi nào, thôi
nào, em tra tấn Alec đủ rồi đó. Anh ở
đây rồi.”

Mắt Isabelle mở to. “Jace!”

“Nó đó.” Jace chui vào phòng


Isabelle, đóng cửa lại. “Hai người không
cần đánh nhau đâu...” Anh nhăn mặt khi
Max lao vào lòng, kêu tên anh. “Cẩn thận
đó,” anh nói, nhẹ nhàng gỡ tay thằng bé.
“Giờ mình mẩy anh không lành lặn đâu
nhé.”
“Em thấy rồi,” Isabelle nói, lo lắng
nhìn anh một lượt. Cổ tay Jace đang chảy
máu, mái tóc vàng bết mồ hôi, dán vào
cổ và trán, còn mặt cùng tay dính đầy bụi
bẩn và máu khô. “Điều Tra Viên làm anh
bị thương hả?”

“Cũng không làm gì quá thể lắm.”


Jace bắt gặp mắt Alec từ bên kia phòng.
“Bà ta chỉ nhốt anh trong phòng trưng
bày vũ khí thôi. Alec giúp anh trốn ra.”

Sợi roi rủ xuống trên tay Isabelle tựa


một đóa hoa. “Alec, đúng vậy không?”

“Đúng.” Alec phủi bụi dính trên quần


áo một cách rất kịch. Anh ta không thể
không bồi thêm. “Thế mà cái giá anh
nhận được là thế này đây.”

“Đáng ra anh phải nói chứ.”

“Đáng ra em nên tin anh chút chứ...”

“Đủ rồi. Không còn thời gian mà cãi


vặt đâu,” Jace nói. “Isabelle, em có vũ
khí nào ở đây không? Có băng, gạc
không?”

“Băng gạc?” Isabelle bỏ cây roi


xuống và rút thanh stele khỏi ngăn kéo.
“Em có thể chữa lành cho anh bằng chữ
iratze...”
Jace giơ cổ tay. “Chữ iratze chữa vết
thâm thì tốt, nhưng không thể xử lý mấy
vết này. Đây là vết bỏng do chữ rune để
lại.” Trông vết thương còn tệ hơn dưới
ánh đèn phòng Isabelle - một vết sẹo
vòng tròn đen lại và xước da ở nhiều
chỗ, ứa ra máu và dịch trong trong. Anh
hạ tay xuống khi thấy vẻ mặt tái mét của
Isabelle. “Và anh cũng cần vài thứ vũ khí
nữa, trước khi anh...”

“Băng bó trước đã. Vũ khí để sau đi.”


Cô bỏ thanh stele nên nóc tủ rồi lùa Jace
vào nhà tắm, tay cầm theo một giỏ đầy
những thuốc mỡ, bông băng, gạc sát
trùng. Alec nhìn họ qua khe cửa khép hờ,
Jace đang dựa người vào bồn rửa mặt
trong khi cô em nuôi chậm chậm cổ tay
rồi cuốn gạc trắng chung quanh. “Rồi,
giờ anh cởi áo ra.”

“Anh biết em làm chuyện này cũng vì


tư lợi mà.” Jace cởi áo khoác rồi nhăn
mặt kéo áo phông qua đầu. Làn da anh
màu ánh vàng nhàn nhạt, phủ lên những
cơ bắp rắn chắc. Những Ấn Ký bằng
mực đen bện vòng quanh cánh tay mảnh
dẻ của anh. Một người thường có thể
nghĩ những vệt sẹo chất lớp trên người
Jace, vết tích của những chữ rune ngày
trước, khiến Jace bớt hoàn hảo, nhưng
Alec thì lại không nghĩ vậy. Họ đều mang
những vết sẹo ấy; chúng là những huy
hiệu danh dự, không phải những tì vết.
Jace, thấy Alec quan sát mình qua
cánh cửa khép hờ, liền nói, “Alec, cậu
lấy điện thoại nhé?”

“Trên nóc tủ ấy,” Isabelle không buồn


nhìn lên. Cô và Jace đang thì thầm to
nhỏ; Alec không nghe thấy, nhưng anh
cho là họ nói chuyện nhỏ vậy vì không
muốn làm Max sợ.

Alec nhìn. “Trên tủ không có.”

Isabelle, đang vẽ chữ iratze trên lưng


Jace, chửi thề vì bị làm phiền. “Ôi, quỷ
thần ơi. Em để điện thoại trong bếp. Chết
tiệt. Em không muốn đi lấy nó trong khi
Điều Tra Viên đang lượn lờ quanh đây.”

“Em đi lấy cho,” Max đề nghị. “Bà ta


không để ý tới em đâu, em còn nhỏ quá
mà.”

“Có thể.” Isabelle hơi lưỡng lự.


“Alec, anh cần điện thoại làm gì?”

“Cần là cần thôi,” Alec hết kiên nhẫn


nói. “Izzy...”

“Anh mà nhắn tin ‘Tôi nghĩ anh tuyệt


lắm,’ cho Magnus là em giết anh ngay.”
“Magnus là ai ạ?” Max thắc mắc.

“Pháp sư ấy mà,” Alec trả lời.

“Một pháp sư, quyến rũ, rất quyến


rũ,” Isabelle nói với Max, lờ phắt vẻ tức
giận cực độ của ông anh.

“Nhưng pháp sư toàn là người xấu,”


Max cự lại, trông như không hiểu.

“Chuẩn luôn,” Isabelle nói.

“Em không hiểu,” Max nói. “Nhưng


em sẽ đi lấy điện thoại. Em về ngay.”
Cậu bé lách người ra ngoài trong khi
Jace mặc áo phông và áo khoác vào rồi
trở lại phòng ngủ, nơi anh bắt đầu tìm vũ
khí trong đống đồ đạc của Isabelle đang
vứt lung tung trên sàn. Isabelle đi theo
anh, lắc đầu quầy quậy. “Giờ kế hoạch
thế nào đây? Chúng ta đi cả sao? Điều
Tra Viên sẽ điên lên khi thấy anh không
còn ở đây nữa.”

“Sẽ không điên bằng lúc Valentine từ


chối đề nghị của bà ta đâu.” Jace giải
thích ngắn gọn kế hoạch của Điều Tra
Viên. “Vấn đề duy nhất là, ông ta sẽ
không bao giờ đồng ý với đề nghị của bà
ta.”
“Vấn đề... duy nhất đấy ư?” Isabelle
tức tối đến nỗi suýt nói lắp bắp, điều mà
cô đã không còn làm từ khi lên sáu. “Bà
ta không thể làm thế! Bà ta không thể trao
đổi anh với một thằng tâm thần! Anh là
thành viên của Hội đồng Clave! Anh là
anh trai em!”

“Điều Tra Viên không nghĩ vậy.”

“Em không quan tâm bà ta nghĩ gì. Bà


ta là một mụ già khốn nạn xấu xí và phải
có ai đó ngăn bà ta lại.”

“Một khi biết kế hoạch của mình lỗ


chỗ kẽ hở, bà ta sẽ tự ngừng lại thôi,”
Jace nhận xét. “Nhưng anh sẽ không ở lại
đây để theo dõi sự tình ấy đâu. Anh phải
thoát ra ngoài.”

“Không dễ đâu,” Alec nói. “Điều Tra


Viên cho nơi này khóa chốt kỹ lưỡng còn
hơn một kết giới sao năm cánh. Cậu có
biết dưới nhà có bảo vệ không? Bà ta gọi
một nửa đội Conclave tới đây rồi.”

“Hẳn bà ta đánh giá tớ rất cao,” Jace


nói, ném đống tạp chí sang bên.

“Có thể bà ta cũng không nhầm đâu.”


Isabelle ngẫm ngợi. “Thực sự anh nhảy
chín mét qua Vòng Malachi à? Thật thế
không, anh Alec?”
“Thật,” Alec xác nhận. “Anh chưa
từng thấy chuyện gì như thế cả.”

“Tớ chưa bao giờ thấy gì giống cái


này cả.” Jace đưa con dao dài mười inch
lên. Một trong những chiếc áo ngực màu
hồng của Isabelle tòng teeng trên đầu mũi
dao sắc nhọn. Isabelle cau mày giật lại.

“Không phải cái này. Sao anh làm


được? Anh biết không?”

“Anh nhảy.” Jace lôi một chiếc đĩa


quay cạnh sắc như dao cạo ra khỏi gầm
giường. Chúng dính đầy lông mèo xám.
Anh thổi thổi, lông bay tứ tán.
“Chakhrams. Tuyệt. Đặc biệt nếu anh
gặp quỷ dị ứng lông động vật.”

Isabelle cầm áo ngực quật vào anh.


“Anh không trả lời em.”

“Vì anh không biết, Izzy.” Jace lồm


cồm đứng dậy. “Có lẽ Nữ Hoàng Seelie
nói đúng. Có thể anh có những quyền
năng mà anh thậm chí còn không biết vì
anh chưa thử. Clary chắc chắn cũng vậy.”

Isabelle nhăn trán. “Thật sao?”

Đột nhiên mắt Alec mở lớn. “Jace -


cái xe máy ma cà rồng của cậu còn trên
mái không?”
“Có lẽ còn. Nhưng giờ là ban ngày, nó
không có tác dụng mấy.”

“Hơn nữa,” Isabelle nhận định, “ba


người chúng ta không ngồi vừa.”

Jace nhét cái chakhrams cùng với


con dao dài hai mươi lăm phân vào thắt
lưng. Thêm vài lưỡi dao thiên thần nữa
trong túi áo khoác. “Không vấn đề gì,”
anh nói. “Em không đi cùng bọn anh.”

Isabelle nói lắp bắp. “Anh nói sao,


sao bọn em lại không...” Cô ngừng lại
khi Max trở về, thở không ra hơi, tay
cầm chiếc điện thoại hồng. “Max, em
đúng là người hùng.” Cô giật lấy điện
thoại từ tay cậu em, rồi lườm Jace. “Em
sẽ hỏi tội anh trong một phút nữa. À mà
chúng ta gọi cho ai nhỉ? Clary à?”

“Để anh gọi...” Alec cất lời.

“Không.” Isabelle đập tay anh ta đi.


“Cô ấy quý em hơn.” Cô đã ấn nút gọi và
lè lưỡi khi áp điện thoại lên tai. “Clary
hả? Isabelle đây. Tớ... Cái gì?” Khuôn
mặt cô trắng bệch như thể mọi thứ màu
sắc trên đó đã bị lau hết sạch, để lại
khuôn mặt xám ngoét, sững sờ. “Sao có
thể? Nhưng vì sao...”

“Cái gì sao có thể cơ?” Jace bước hai


bước dài đến bên cô em. “Isabelle,
chuyện gì thế? Clary có...”

Isabelle giơ điện thoại ra xa, mấu tay


trắng bệch. “Valentine. Hắn đã bắt Simon
và Maia rồi. Hắn sẽ dùng họ cho Nghi
Thức.”

Bằng một cử động đẹp mắt, Jace vươn


tay, lấy điện thoại khỏi tay Isabelle. Anh
áp điện thoại lên tai. “Lái xe tới Học
Viện,” anh bảo. “Đừng vào. Cứ ở ngoài
đợi anh. Anh sẽ gặp em bên ngoài.” Anh
tắt điện thoại và đưa cho Alec. “Gọi
Magnus,” anh nói. “Nói với anh ta gặp
bọn tớ ngoài bờ sông Brooklyn. Magnus
thích chọn chỗ nào thì chọn, nhưng phải
vắng vẻ. Bọn tớ cần Magnus giúp tới tàu
của Valentine.”

“Bọn tớ à?” Isabelle ngẩng đầu ngay.

“Magnus, chú Luke và anh,” Jace nói


rõ ràng. “Hai người sẽ ở lại đây và đối
phó với Điều Tra Viên. Khi Valentine
không chấp nhận thỏa thuận của bà ta, hai
người cần thuyết phục bà ta phái tất cả
quân cứu viện của Conclave đuổi theo
Valentine.”

“Tớ không hiểu,” Alec nói. “Trước


tiên, cậu định ra ngoài bằng cách nào
thế?”
Jace cười toe toét. “Xem này,” anh
nói và nhảy lên bậu cửa sổ. Isabelle hét
lên, nhưng Jace đã chui ra ngoài. Anh
đứng thăng bằng một lát trên bậu cửa
ngoài - và sau đó biến mất.

Alec lao tới cửa sổ và sợ hãi nhìn ra,


nhưng ngoài đó chẳng có gì: chỉ có khu
vườn của Học Viện bên dưới, tuyền màu
nâu và trống trải, cùng lối đi hẹp dẫn tới
cửa trước. Không một ai trên đường
Chín Mươi Sáu hét lên, không một chiếc
xe nào dừng lại vì thấy xác người nhảy
lầu tự tử. Cứ như thể Jace biến mất vào
không khí.

Tiếng nước làm cậu tỉnh dậy. Đó là


âm thanh lặp đi lặp lại liên tục - tiếng
nước đập vào cái gì đó đặc ruột, hết lần
này tới lần khác, như thể cậu đang nằm
dưới đáy bể đang liên tục bị rút nước rồi
bơm đầy vậy. Có vị sắt ngai ngái trong
miệng cậu và mùi kim loại xung quanh.
Cậu cảm thấy cơn đau triền miên, khó
chịu trên bàn tay trái. Rên rỉ, Simon mở
mắt.

Cậu đang nằm trên sàn kim loại cứng,


mấp mô, sơn màu xanh xám xấu xí.
Những bức tường bằng kim loại cũng sơn
xanh. Chỉ có duy nhất một ô cửa sổ tròn
cao cao ở một bên tường, cho một chút
ánh sáng chiếu qua, nhưng thế là quá đủ.
Cậu nằm mà tay bị trói quặt còn những
ngón tay đỏ ửng và phồng rộp. Rên rẩm
thêm tiếng nữa, cậu lăn mình tránh nắng
và ngồi thẳng dậy.

Vì nhận ra mình không chỉ có một


mình. Dù bóng tối khá dày đặc nhưng
tầm nhìn của Simon vẫn tốt chán. Bên
kia, Maia bị trói và xích vào một ống
nước lớn. Quần áo cô rách nát và trên
má trái có một vết bầm lớn. Cậu nhìn
thấy phần tóc tết bị giật khỏi da đầu và
tóc cô bết máu. Lúc cậu ngồi dậy, cô
nàng nhìn trân trân và đột nhiên bật khóc.
“Tớ cứ nghĩ,” cô nấc lên trong tiếng sụt
sùi, “rằng cậu... chết rồi.”

“Tớ đã chết rồi mà,” Simon nói. Cậu


đang nhìn xuống tay mình. Trong lúc cậu
nhìn, những vết phồng rộp nhạt đi, cơn
đau thuyên giảm và da dẻ cậu lại lành lặn
như cũ.

“Tớ biết, nhưng tớ muốn nói là... chết


thật sự ấy.” Cô quệt cánh tay bị trói qua
mặt. Simon cố tiến tới, nhưng thứ gì đó
giật ngược cậu lại. Một chiếc cùm kim
loại đeo quanh mắt cá chân gắn với một
sợi dây xích to tướng, khóa chắc vào sàn
nhà. Valentine không chừa một sơ hở
nào.

“Đừng khóc,” cậu nói, và ngay lập tức


hối hận. Đây không phải một tình huống
có thể an ủi cái là người khác ngừng
khóc được. “Tớ ổn mà.”

“Giờ thôi,” Maia nói, và lau khuôn


mặt đẫm nước mắt lên ống tay áo.
“Người đàn ông đó - cái người tóc trắng
ấy - tên là Valentine hả?”

“Cậu gặp rồi à?” Simon nói. “Tớ


chẳng thấy gì cả. Cửa phòng tớ bật tung
rồi một thứ khổng lồ đâm sầm vào tớ như
một tàu chở hàng ấy.”

“Ông ta là Valentine đó, đúng không?


Cái người mà mọi người vẫn nói tới ấy?
Cái kẻ đã khơi mào cho vụ Nổi Dậy?”
“Ông ta là bố Jace và Clary,” Simon
nói. “Tớ chỉ biết có thế.”

“Tớ thấy giọng ông ta quen quen.


Nghe giống giọng Jace.” Cô thoáng phiền
muộn. “Hẳn nào tính tình Jace lại khó ưa
tới vậy.”

Simon chỉ có thể đồng ý.

“Vậy cậu không...” giọng Maia lạc đi.


Cô nói lại. “Nghe này, tớ biết nghe thế
này hơi kỳ, nhưng khi Valentine tới chỗ
cậu, cậu có thấy một ai đó đi cùng hắn,
một người đã chết? Giống một hồn ma
ấy?”
Simon lắc đầu, bối rối. “Không.
Sao?”

Maia lưỡng lự. “Tớ thấy anh tớ. Bóng


ma anh tớ. Tớ nghĩ Valentine đã làm tớ
gặp ảo giác.”

“Ừm, hắn ta chẳng phải làm gì với tớ


hết. Tớ đang nói chuyện điện thoại với
Clary. Tớ nhớ đã làm rơi điện thoại thì
cái vật đó lao vào tớ...” Cậu nhún vai.
“Có thế thôi.”

“Với Clary?” Maia có chút hy vọng


trở lại. “Vậy có thể họ đã đoán ra chúng
ta ở đâu rồi. Có thể họ sẽ tìm ra chúng
ta.”
“Có lẽ,” Simon nói. “Mà chúng ta ở
đâu đấy nhỉ?”

“Trên tàu. Tớ vẫn tỉnh khi hắn lôi tớ


tới đây. Một chiếc thuyền kim loại đen sì
to tướng. Không có ánh sáng và ở đâu
cũng có... mấy thứ gì ấy. Một trong số
chúng nhảy xổ vào tớ và tớ bắt đầu gào
thét. Đấy là khi hắn nắm lấy đầu tớ mà
dộng vô tường. Tớ ngất đi mất một lúc.”

“Mấy thứ ư? Nghĩa là sao?”

“Quỷ ấy,” cô nói và rùng mình. “Hắn


có đủ loại quỷ ở đây. Lớn có, nhỏ có,
biết bay cũng có luôn. Chúng làm theo
bất cứ điều gì hắn sai bảo.”

“Nhưng Valentine là Thợ Săn Bóng


Tối. Và theo những gì tớ biết, hắn ta ghét
quỷ.”

“Ừ, nhưng lũ quỷ đâu có biết đâu,”


Maia nói. “Tớ chỉ không hiểu là hắn
muốn gì ở chúng ta. Tớ biết hắn ghét
người thuộc Thế Giới Ngầm, nhưng hình
như giết cả hai chúng ta như thế này có
vẻ mất công quá.” Cô bắt đầu rùng mình,
răng đánh lập cập như loại búp bê bạn
có thể mua trong tiệm đồ trang trí. “Chắc
ông ta cần gì đó từ thế giới Thợ Săn
Bóng Tối. Hoặc chú Luke.”
Mình biết ông ta muốn gì, Simon
nghĩ, nhưng không nên nói cho Maia biết;
cô ấy đã buồn bực đủ rồi. Cậu cởi áo
khoác. “Đây,” cậu nói và ném cho cô
bạn.

Với đôi tay bị cùm, khó khăn lắm


Maia mới khoác được áo lên vai. Cô nở
một nụ cười biết ơn hơi xanh xao. “Cám
ơn. Nhưng cậu không lạnh à?”

Simon lắc đầu. Vết bỏng trên tay cậu


đã hoàn toàn biến mất. “Tớ không cảm
thấy lạnh. Không bao giờ nữa.”
Cô mở miệng, nhưng lại ngậm lại.
Trong mắt cô nàng hiện lên rõ sự đấu
tranh. “Tớ xin lỗi. Về cách tớ phản ứng
với cậu vào hôm qua.” Cô ngừng lại, gần
như nín thở. “Ma cà rồng làm tớ sợ chết
khiếp đi được,” cuối cùng cô thì thào.
“Lần đầu tiên tới thành phố này, tớ đã đi
cùng mấy người trong đàn - Bat, cùng hai
cậu thanh niên khác, Steve và Gregg. Có
lần bọn tớ đang đi trong công viên thì
đụng độ với vài ma cà rồng đang nốc
mấy túi máu ngay dưới cầu - bọn tớ đã
ẩu đả và tớ nhớ hình như có một ma cà
rồng đã xốc ngược Gregg lên, thế rồi xé
cậu ấy ra làm đôi...” giọng cô lên cao và
cô che miệng. Cô đang run. “Làm đôi,”
cô thì thào. “Tất cả nội tạng rơi ra hết.
Và sau đó chúng bắt đầu ăn.”

Simon cảm giác bụng dạ đang đánh lô


tô. Cậu khá mừng khi câu chuyện làm cậu
buồn nôn chứ không phải bị buồn làm gì
khác. Buồn ăn chẳng hạn. “Tớ không làm
thế đâu,” cậu nói. “Tớ thích người sói.
Tớ thích chú Luke...”

“Tớ biết,” Maia hơi há miệng. “Chỉ là


khi gặp cậu, cậu rất người. Cậu làm tớ
nhớ tới mình ngày xưa.”

“Maia,” Simon nói. “Cậu vẫn là


người.”
“Không đâu.”

“Theo nhiều cách, cậu vẫn là người.


Cũng như tớ thôi.”

Cô cố cười. Cậu biết Maia không tin


lắm, nhưng cậu không trách cô. Cậu cũng
còn chẳng tin mình nữa là.

Bầu trời chuyển màu xám xịt, trĩu


nặng những đám mây úng nước. Dưới
ánh sáng ảm đạm, Học Viện sừng sững
trước mắt họ, khổng lồ như một mặt núi
bị san thẳng. Mái nhà lợp ngói xiên xiên
sáng lên như một thỏi bạc thô. Clary nghĩ
mình vừa thấy những người đội mũ trùm
đứng bên cửa trước, nhưng cô không
chắc lắm. Làm sao cô nhìn rõ nổi khi họ
đỗ xe cách đó hẳn một dãy nhà, quan sát
qua ô cửa kính xe bám bụi của chú Luke.

“Chúng ta đợi bao lâu rồi hả chú?” cô


hỏi, lần thứ tư hay thứ năm gì đó.

“Thêm năm phút kể từ lần cuối cùng


cháu hỏi chú,” chú Luke đáp. Chú đang
tựa lưng vào ghế, đầu ngửa ra sau, trông
cực kỳ kiệt sức. Râu ria trên quai hàm và
má lởm chởm muối tiêu, mắt chú trũng
đen. Sau suốt bao nhiêu đêm trong viện,
rồi vụ quỷ tấn công, và giờ thêm vụ này
nữa chứ, đột nhiên Clary thấy lo cho chú.
Cô đã hiểu vì sao mẹ và chú Luke đã
trốn tránh cuộc đời kiểu này suốt bao
nhiêu năm trời. Cô ước gì mình cũng
tránh đi được. “Cháu muốn vào trong
không?”

“Không. Jace nói cháu đợi ngoài.” Cô


lại nhìn qua ô cửa kính. Giờ cô chắc
chắn có người đứng trước cửa. Và khi
một trong số họ quay lại, cô nghĩ mình
vừa nhìn thấy thoáng tóc bạch kim...

“Nhìn kìa.” Chú Luke ngồi bật dậy,


vội vàng hạ cửa kính xuống.

Clary nhìn. Dường như không có gì


thay đổi cả. “Chú nói mấy người trước
cửa hả?”
“Không. Bảo vệ vẫn đứng đó nãy giờ.
Nhìn lên mái nhà đi.” Chú chỉ.

Clary dán mặt vào cửa kính. Trên mái


nhà xiên xiên của Học Viện nhấp nhô khá
nhiều những ngọn tháp mang phong cách
Gothic, những bức tượng thiên thần và
những ô cửa sổ hình vòm. Cô vừa định
gắt lên là mình chẳng thấy gì ngoài những
miệng máng xối hình thú sứt mẻ thì
thoáng thấy cái gì đó đang di chuyển. Có
người trên mái nhà. Một dáng người mặc
đồ đen, cao dong dỏng, chuyển động lẹ
làng giữa những ngọn tháp mái ngói,
chuyền từ phần mái nhô ra này sang phần
khác, giờ nhảy thẳng xuống, đứng ven rìa
mái nhà dốc đứng một cách khó tin - một
người có mái tóc sáng màu lấp lánh như
đồng thau trên nền không gian xám xịt...

Jace.

Clary lao ra khỏi xe trước khi ý thức


được việc mình làm, chạy thẳng về phía
nhà thờ, kệ cho chú Luke gọi theo. Tòa
nhà đang sừng sững trước mặt, cao hàng
chục mét như một vách đá thẳng đứng.
Jace đang đứng trên rìa mái nhà, nhìn
xuống còn Clary thì nghĩ, Không thể
nào, anh ấy sẽ không, không nhảy
xuống đâu, Jace sẽ không làm vậy, và
rồi anh bước ra khỏi mái nhà vào không
khí, bình tĩnh như thể bước xuống khỏi
hiên nhà. Clary hét toáng lên khi anh rơi
xuống như một tảng đá lớn...

Và hạ cánh nhẹ nhàng trước mặt cô.


Clary há hốc miệng mà nhìn anh đứng
thẳng người dậy và cười với cô. “Nếu
anh kể câu chuyện cười về việc vừa rơi
xuống,” anh nói, “em sẽ chép lại hộ anh
nhé?”

“Sao... sao anh... sao anh làm được


vậy?” cô líu ríu, cảm thấy như sắp nôn
mửa. Cô thấy chú Luke ra khỏi xe, đứng
đan hai tay sau gáy mà nhìn qua vai cô.
Cô quay lại thấy hai bảo vệ ở cửa trước
đang phóng về phía họ. Một là Malik;
người kia là người phụ nữ tóc bạch kim.
“Chết tiệt.” Jace nắm tay cô mà lôi.
Họ chạy về phía xe và chui vào bên cạnh
chú Luke, còn chú thì vừa khởi động xe
và phóng vút đi mà không kịp đóng cửa.
Jace nhoài người qua Clary và đóng lại.
Chiếc xe vượt qua hai Thợ Săn Bóng Tối
- Clary thấy Malik đang cầm cái gì đó
giống một phi đao. Anh ta nhắm vào lốp
xe. Cô nghe tiếng Jace chửi thề khi lục
tìm vũ khí trong áo khoác - Malik giơ
tay, lưỡi dao lóe sáng - và người phụ nữ
tóc bạch kim lao vào lưng anh ta, giằng
tay anh ta lại. Malik cố đẩy bà ta ra -
Clary quay người ra sau, thở dốc - và rồi
chiếc xe quặt ở góc đường và biến mất
trong dòng xe cộ trên Đại lộ York, bỏ lại
Học Viện khuất dần sau lưng.
Maia dựa người vào ống khói mà ngủ
thiếp đi như chết, chiếc áo khoác của
Simon đắp trên vai. Simon quan sát ánh
nắng chiếu qua ô cửa sổ, di chuyển trong
phòng và cố tính số thời gian trôi qua.
Thường cậu dùng điện thoại để xem giờ,
nhưng giờ điện thoại không còn - cậu đã
lục tung túi nhưng không có. Chắc điện
thoại đã rơi khi Valentine xông vào
phòng mất rồi.

Nhưng Simon còn những mối lo lớn


hơn. Miệng cậu khô khốc, cổ họng đau
nhức. Cậu đang khát như kiểu mọi cơn
khát mà cậu từng biết đã nhập lại với
nhau để tạo nên một cơn tra tấn độc địa.
Và tình hình càng lúc càng tệ hơn.
Máu là thứ cậu cần. Cậu nghĩ tới máu
trong tủ lạnh bên giường trong nhà, thế là
các mạch máu của cậu bỏng rẫy lên như
những sợi dây bạc nóng hổi dưới lớp da.

“Simon ơi?” Maia ngái ngủ ngửng đầu


dậy. Má cô hằn vết lõm trắng lại do dựa
vào ống khói. Trong khi cậu quan sát, vết
trắng dần chuyển hồng nhờ máu đang dần
chảy về mặt cô.

Máu. Cậu rê cái lưỡi khô khốc quanh


môi. “Hả?”

“Tớ ngủ bao lâu rồi?”


“Ba tiếng. Có thể là bốn. Giờ chắc
sang chiều rồi.”

“À, cám ơn đã thức canh nhé.”

Simon đâu có thức canh gì đâu. Cậu


thấy hơi xấu hổ khi mở miệng nói, “Tất
nhiên rồi. Không vấn đề gì đâu.”

“Simon...”

“Ơi!”

“Tớ mong cậu hiểu ý tớ, khi tớ nói tớ


rất tiếc vì cậu phải ở đây, nhưng tớ mừng
vì có cậu ở đây cùng tớ.”
Cậu thấy mặt mình méo xệch đi thành
nụ cười. Môi dưới của cậu khô nứt khiến
cậu nếm thấy vị máu của chính mình.
Bụng cậu sôi réo. “Cám ơn.”

Cô nhoài người lên, chiếc áo khoác


rời khỏi vai. Mắt cô màu xám hổ phách
nhạt đổi màu theo từng chuyển động.
“Cậu với tới tay tớ được không?” cô hỏi
và giơ tay ra.

Simon vươn tay. Sợi xích quanh chân


kêu loảng xoảng khi cậu vươn tay hết cỡ.
Maia mỉm cười khi đầu ngón tay họ
chạm vào nhau...
“Cảm động làm sao.” Simon giật tay
lại và nhìn. Giọng nói vang tới từ bóng
tối nghe khá êm tai, có học thức và hơi lạ
tai theo kiểu gì đấy mà Simon không xác
định được. Maia hạ tay xuống và quay
lại, mọi màu sắc trên khuôn mặt biến mất
khi nhìn người đàn ông đang đứng nơi
ngưỡng cửa. Người đàn ông đó bước êm
tới mức cả hai không nghe thấy. “Những
đứa trẻ của Mặt Trăng và Màn Đêm cuối
cùng cũng hòa hợp với nhau.”

“Valentine,” Maia thì thào.

Simon không nói. Cậu không thể


ngừng nhìn. Vậy đây là bố Clary và Jace.
Với mái tóc bạch kim cùng đôi mắt đen
sáng, ông ta không giống cả hai người họ
cho lắm, dù hình như Clary có gì giống
ông ta về cấu trúc xương và đôi mắt, còn
Jace giống ông ta cách bước đi cao ngạo.
Ông ta cao lớn, vai rộng, khung xương
dềnh dàng chẳng giống gì với hai người
con. Ông ta bước đi trong căn phòng
bằng kim loại sơn xanh nhẹ như mèo, dù
người đang trĩu nặng những thứ trông như
là vũ khí đủ trang bị cho cả một trung
đội. Trên ngực ông ta đeo chéo một sợi
dây da to bản với khóa bạc, giữ lấy thanh
kiếm lớn, đốc bạc sau lưng. Một sợi đai
khác đeo ngang eo nhét chi chít đủ các
loại đao, đoản đao, và những lưỡi dao
hẹp óng ánh khác trông giống những cây
kim khổng lồ.
“Đứng dậy,” ông ta nói với Simon.
“Tựa lưng vào tường.”

Simon ngẩng đầu lên. Cậu thấy Maia


đang quan sát mình, mặt trắng bệch và sợ
hãi, và trong cậu dâng lên cảm giác muốn
bảo vệ cô bạn ghê gớm. Cậu muốn ngăn
Valentine làm tổn thương cô, nếu như đó
là điều cuối cùng cậu có thể làm. “Vậy
ông là bố Clary,” cậu nói. “Không có ý
xúc phạm, nhưng tôi hiểu vì sao bạn ấy
ghét ông rồi.”

Mặt Valentine không biểu cảm, dường


như các cơ mặt không chuyển động. Môi
ông ta hơi mở khi nói. “Vậy thì vì sao?”
“Vì,” Simon nói, “ông rõ là một tên
điên.”

Giờ thì Valentine mỉm cười. Đó là


kiểu cười chỉ dùng tới cơ môi, và mà cơ
môi chỉ nhích lên một chút xíu. Sau đó
ông ta giơ nắm đấm lên. Nắm đấm siết
chặt; trong thoáng chốc Simon nghĩ ông
ta sẽ đấm vào mặt cậu, thế là cậu né đi
theo phản xạ. Nhưng Valentine không
đấm. Ông ta mở lòng bàn tay, để lộ một
thứ bột sáng lấp lánh giữa lòng bàn tay
rộng. Quay sang Maia, ông ta cúi đầu và
thổi bụi phấn vào giữa mặt cô như nhại
theo kiểu gửi một nụ hôn gió. Phấn dính
lên mặt cô giống một bầy ong phát sáng.
Maia hét lớn. Cô nàng thở hổn hển và
quẫy đạp điên cuồng, hết quăng người
sang bên này tới bên ki a, như cố tránh
bột phấn, giọng rít lên thành tiếng khóc
nức nở.

“Ông làm gì cô ấy thế?” Simon hét,


nhảy dựng dậy. Cậu chạy về phía
Valentine, nhưng sợi dây xích kéo cậu
lại. “Ông đã làm gì?”

Nụ cười mím chặt của Valentine mở


rộng hơn. “Bột bạc,” ông ta nói. “Đốt
bóng người sói.”

Maia đã ngừng quẫy đạp và nằm co


quắp thành tư thế hài nhi dưới sàn, sụt sịt
khóc khe khẽ. Máu chảy ra từ những vết
rạch đỏ lòm ghê rợn trên bàn tay và cánh
tay cô gái. Bụng Simon lại réo lên và cậu
dựa người vào tường, thấy ghê tởm với
chính mình và với tất cả cảnh tượng
trước mắt. “Đồ khốn,” cậu nói khi
Valentine lười biếng phủi đi ít bột sót lại
trên những ngón tay. “Đấy chỉ là một cô
gái, không làm hại nổi ông, cô ấy bị xích,
vì...”

Cậu nghẹn lời, cổ họng nóng lên.

Valentine phá ra cười. “Vì Chúa ư?”


ông nói. “Đó là điều cậu định nói hả?”

Simon không nói gì. Valentine với tay


lên vai rút thanh kiếm bạc sau lưng ra.
Ánh sáng nhảy nhót trên lưỡi kiếm như
nước vỗ vào bức tường bạc, như chính
ánh mặt trời khúc xạ. Mắt Simon cay xè
nên cậu quay mặt đi.

“Thanh Kiếm Thiên Thần sẽ thiêu


cháy mi, cũng như gọi tên Đức Chúa
khiến mi nghẹn thở,” Valentine nói, chất
giọng êm tai nhưng sắc lạnh như thủy
tinh. “Người ta bảo những kẻ chết dưới
mũi kiếm này sẽ được lên thiên đường.
Thế nghĩa là, kẻ trở về từ cõi chết ạ, ta
đang ban ân cho mi đấy.” Ông ta hạ thấp
lưỡi kiếm để đầu kiếm chạm vào cổ
Simon. Đôi mắt Valentine là một màu
nước đen thăm thẳm và không có lấy một
tia cảm xúc: không giận dữ, không thích
thú, và một chút hận thù cũng không.
Chúng trống rỗng như huyệt mộ bị đào
quật. “Có trăn trối gì không?”

Simon biết cậu phải nói gì. Sh’ma


Yisrael, adonai elohanu, adonai echod.
Hỡi Israel, hãy nghe, Đức Chúa Trời
chúng ta là Giê-ho-va có một không. Cậu
cố đọc lên, nhưng chỉ có cơn đau bùng
cháy nơi cổ họng. “Clary!” cậu thì thào.

Vẻ khó chịu thoáng qua trên mặt


Valentine, như thể tên con gái mình phát
ra từ miệng một tên ma cà rồng khiến ông
ta phật ý. Cổ tay ngoắt một cái, ông ta
nâng ngang thanh kiếm và gọn gàng xả
một đường cứa ngang họng Simon.

17. Phía đông vườn địa đàng

“Sao anh làm được?” Clary hỏi khi


xe tăng tốc, chú Luke nhoài người trên
vô lăng.

“Em hỏi là sao anh lên được mái nhà


hả?” Jace dựa người vào ghế, mắt nhắm
hờ. Cổ tay anh được băng trắng và
đường chân tóc anh lốm đốm vảy máu.
“Đầu tiên anh trèo ra khỏi cửa sổ phòng
Isabelle và leo lên tường. Những máng
xối đầu thú trang trí giúp anh có chỗ bấu
víu tốt. Ngoài ra, anh cũng muốn ghi chú
lại là cái xe máy của anh không còn trên
mái nữa. Chắc Điều Tra Viên lấy nó đi
vi vu quanh Hoboken rồi.”

“Em muốn nói,” Clary bảo, “sao anh


nhảy khỏi mái nhà thờ mà không chết
ấy?”

“Anh không biết.” Tay anh khẽ chạm


vào tay cô khi đưa tay lên dụi mắt. “Sao
em tạo ra chữ rune được?”

“Em cũng không biết,” cô thì thào.


“Nữ Hoàng Seelie nói đúng, đúng
không? Valentine, ông ta... ông ta đã làm
gì chúng ta.” Cô liếc sang chú Luke,
đang giả bộ tập trung quành xe sang trái.
“Phải không chú?”

©DTV: http://www.dtv-ebook.com

“Giờ không phải lúc nói về chuyện


đó,” chú Luke đáp. “Jace, cháu có đích
đến cụ thể nào không hay chỉ muốn trốn
khỏi Học Viện thôi?”

“Valentine đã đưa Maia và Simon tới


một con tàu để thực hiện Nghi Lễ. Ông ta
sẽ làm ngay khi có thể.” Anh giật giật
một trong mấy băng gạc trên cổ tay.
“Cháu sẽ tới đó và ngăn ông ta lại.”
“Không,” chú Luke gằn giọng.

“Okay, chúng ta phải tới đó và ngăn


ông ta lại.”
“Jace, chú không để cháu quay trở lại
con tàu đó. Quá nguy hiểm.”

“Chú đã thấy khả năng của cháu rồi


mà,” Jace nói, vẻ không thể tin được,
“vậy mà chú lại đang lo lắng cho cháu
à?”

“Chú lo cho cháu.”

“Không còn thời gian nữa rồi. Sau khi


ông ta giết sạch bạn bè chú, ông ta sẽ gọi
đội quân quỷ đông đảo tới mức chú
không thể nào tưởng tượng nổi. Sau đó,
không ai ngăn cản ông ta được.”
“Vậy Hội đồng Clave...”

“Điều Tra Viên sẽ không làm gì hết,”


Jace nói. “Bà ta không cho phép nhà
Lightwood liên hệ với Hội đồng Clave.
Bà ta sẽ không cho gọi lực lượng cứu
viện, thậm chí khi cháu nói tới về kế
hoạch của Valentine. Bà ta bị ám ảnh bởi
kế hoạch điên rồ của mình thôi.”

“Kế hoạch nào?” Clary hỏi.

Giọng Jace nghe cay đắng. “Bà ta


muốn dùng anh để đổi chác với bố lấy
các Bảo Bối Thiên Thần. Anh đã bảo
rằng Valentine sẽ không bao giờ chấp
nhận đâu, nhưng bà ta không tin anh.”
Cậu cười, giọng cười nghe vô cùng gay
gắt. “Isabelle và Alec sẽ nói với bà ta về
chuyện của Maia và Simon. Nhưng anh
lại không lạc quan lắm đâu. Bà ta không
tin anh về chuyện Valentine thì còn lâu
bà ta mới chịu từ bỏ kế hoạch quý báu để
cứu mạng hai kẻ thuộc Thế Giới Ngầm.”

“Chúng ta không thể ngồi mà chờ đợi


tin từ họ,” Clary nói. “Chúng ta phải lên
tàu ngay. Nếu anh có thể đưa chúng ta tới
đó...”

“Chú ghét phải ngắt lời hai cháu,


nhưng chúng ta cần một con tàu để tới
chỗ một con tàu khác,” chú Luke nói.
“Chú không tin Jace đi trên nước được.”
Đúng lúc đó, điện thoại Clary rung
lên. Tin nhắn từ Isabelle. Clary nhíu mày.
“Isabelle nhắn cho em một địa chỉ. Gần
bờ sông.”

Jace nhìn qua vai cô. “Chúng ta sẽ tới


đó gặp Magnus.” Anh đọc địa chỉ cho
chú Luke, chú ngay lập tức quay đầu xe
thật gấp đi về hướng ngược lại. “Magnus
sẽ giúp ta đi qua sông,” Jace giải thích.
“Xung quanh con tàu có đặt kết giới.
Cháu đã lên tàu được vì bố cháu để cháu
lên. Lần này thì không đâu. Chúng ta cần
Magnus giải quyết với các kết giới.”

“Chú không thích ý tưởng đó.” Chú


Luke gõ tay lên vô lăng. “Chú nghĩ chú
sẽ đi còn hai cháu ở lại với Magnus.”

Mắt Jace lóe lên. “Không. Cháu mới


là người phải đi.”

“Vì sao?”

“Vì Valentine đang sử dụng con quỷ


gieo rắc nỗi sợ hãi,” Jace giải thích.
“Đấy là cách ông ta đã có thể giết hết
các Tu Huynh Câm. Chính con quỷ đó đã
giết chết tay pháp sư và người sói nơi
con hẻm bên ngoài quán Hunter’s Moon,
và có lẽ chính nó đã giết chết tiểu thần
tiên ngoài công viên. Đó chính là lý do
vì sao các Tu Huynh có vẻ mặt ấy. Họ
chính xác là sợ đến chết.”

“Nhưng máu...”

“Hắn hút cạn máu sau. Còn lúc trong


hẻm, ông ta bị một người sói khác ngắt
ngang việc. Vì thế ông ta không có đủ
thời gian để lấy đủ số máu cần thiết. Vậy
nên ông ta vẫn cần Maia,” Jace lùa tay
qua tóc. “Không ai có thể chống nổi con
quỷ của nỗi sợ hãi. Nó len lỏi vào đầu
óc và phá hủy trí óc con người ta.”

“Agramon,” chú Luke nói. Chú im


lặng nãy giờ, nhìn qua kính chắn gió. Mặt
chú xám ngoét và nhăn tít.
“Vâng, Valentine gọi nó thế.”

“Nó không phải một con quỷ của nỗi


sợ nào đó. Nó là Quỷ Sợ Hãi. Sao
Valentine có thể bắt Agramon phục vụ
hắn chứ? Kể cả một pháp sư cũng khó
khăn lắm mới kiềm chế được một Đại
Quỷ, và bên ngoài ngôi sao năm cánh
thì...” chú Luke hít một hơi. “Đó là lý do
thằng nhóc pháp sư đó chết, đúng không?
Do triệu hồi Agramon ư?”

Jace gật đầu xác nhận, và giải thích


ngắn gọn việc Valentine đã chơi xỏ
Elias. “Chiếc Chén Thánh,” anh nói nốt,
“giúp ông ta điều khiển Agramon. Rõ
ràng nó cho ông ta khả năng khống chế lũ
quỷ. Nhưng không giống Thanh Kiếm.”

“Giờ chú càng không muốn cho các


cháu đi,” chú Luke nói. “Đó là một Đại
Quỷ đấy, Jace. Toàn bộ số Thợ Săn Bóng
Tối trong thành phố này mới xử lý nổi
nó.”

“Cháu biết nó là một Đại Quỷ. Nhưng


vũ khí của nó là nỗi sợ. Nếu Clary có thể
vẽ chữ Can Trường lên người cháu, cháu
có thể hạ nó. Hoặc ít nhất là thử hạ nó.”

“Không!” Clary phản đối. “Em không


muốn sự an toàn của anh phụ thuộc vào
chữ rune ngu ngốc của em. Lỡ nó không
có tác dụng thì sao?”
“Nó đã có tác dụng mà,” Jace nói khi
họ rẽ khỏi cầu về phía Brooklyn. Họ đi
qua con phố Van Brunt chật chội, giữa
những nhà máy tường gạch thật cao, cửa
sổ bịt ván cùng cửa chính khóa kín không
để lộ ra những gì có trong đấy. Từ xa,
mặt sông sáng lấp lánh giữa các tòa nhà.

“Nhỡ lần này em làm hỏng chuyện thì


sao?”

Jace quay lại nhìn cô, và trong giây


phút đó ánh mắt họ gặp nhau. Mắt anh
mang màu vàng của ánh mặt trời đằng xa.
“Không đâu,” anh nói.
“Cháu có chắc là địa chỉ này không?”
Chú Luke hỏi, phanh xe chạy chậm lại
rồi dừng hẳn. “Magnus không có ở đó.”

Clary liếc nhìn quanh. Họ đang dừng


trước một nhà máy lớn, có vẻ từng bị hỏa
hoạn tàn phá. Những viên gạch vỡ và
những bức tường ám muội than vẫn còn
đó, những thanh giằng thép nhô ra, cong
queo xấu xí vì bị thiêu. Từ xa xa, Clary
có thể thấy phố Wall ở hạ Manhattan và
xa hơn là đảo Governors nhô lên trên
mặt biển, khuất trong bóng tối. “Magnus
sẽ tới,” cô nói. “Anh ta bảo với Alec thế
nào thì sẽ làm thế đó.”

Họ rời xe. Dù nhà xưởng này nằm trên


con phố dọc dài những tòa nhà tương tự,
con phố vẫn quá yên tĩnh, thậm chí là đối
với một ngày Chủ Nhật. Xung quanh
không có lấy một người và cũng chẳng có
lấy một âm thanh giao thương - như tiếng
xe tải gầm gừ, tiếng người quát tháo - mà
Clary thường hay nghĩ các khu vực nhà
xưởng đều có. Thay vào đấy chỉ là sự
yên tĩnh, là cơn gió mát từ sóng thổi tới,
là tiếng quang quác của lũ chim biển.
Clary dựng mũ lên, kéo khóa áo mà vẫn
rùng mình.

Chú Luke đóng cửa xe và kéo cao


khóa áo khoác vải nỉ. Chú lẳng lặng đưa
cho Clary một đôi găng tay len dày. Cô
đeo vào và cử động những ngón tay.
Chúng quá lớn so với tay cô và trông tay
cô thật giống bàn tay gấu. Cô liếc quanh.
“Đợi đã... Jace đâu rồi chú?”

Chú Luke chỉ. Jace đang quỳ bên bờ


sông, một hình thù tối đen, chỉ có mái tóc
vàng là điểm màu duy nhất trên nền trời
xanh xám và bờ sông nâu úa.

“Chú nghĩ anh ấy cần chút riêng tư


không?” cô hỏi.

“Trong tình huống này, riêng tư là


điều quá xa xỉ mà chẳng ai trong chúng ta
có thể kham nổi. Đi nào.” Chú Luke rảo
bước rời khỏi đường lớn, với Clary theo
sau. Nhà xưởng nằm sát bờ sông, nhưng
đằng sau còn một quãng bãi sỏi khá rộng.
Những con sóng nhè nhẹ vỗ vào bờ sông
cỏ mọc xen cùng đá. Những khúc gỗ
được chất quanh một hố đen nơi người ta
từng làm nơi nhóm lửa. Can gỉ, chai lọ
vương vãi khắp nơi. Jace đang đứng nơi
mép nước, áo khoác đã cởi bỏ. Trong khi
Clary quan sát, anh ném một vật nho nhỏ
trăng trắng xuống nước; nó rơi tõm và
biến mất.

“Anh làm gì đấy?”

Jace quay lại, gió thổi tóc bay bay


khắp mặt anh. “Gửi thông điệp.”

Qua vai cậu Clary nghĩ cô thấy một


cuộn khói sáng - giống như một đoạn tảo
biển sống động - nổi lên khỏi mặt sông
xám ngắt, có ngoặm lấy chút gì trăng
trắng. Một lát sau nó biến mất để lại cô
chớp chớp mắt.

“Thông điệp cho ai?”

Jace nhăn mặt. “Chẳng cho ai cả.”


Anh quay đi và rảo bước băng qua bãi
sỏi đến nơi mình đã trải áo khoác ra. Có
ba lưỡi dao dài trên đó. Khi anh quay
lại, Clary thấy những chiếc đĩa kim loại
sắc cạnh thò ra khỏi thắt lưng anh.

Jace lướt tay dọc mấy lưỡi dao -


những con dao dẹt và trắng xám, đang
đợi được đặt tên. “Anh không có cơ hội
tới kho vũ khí, vì thế chúng ta chỉ có
ngần đây vũ khí thôi. Anh nghĩ chúng ta
nên chuẩn bị sẵn sàng khi Magnus tới
đây.” Anh giơ con dao đầu tiên lên.
“Abrariel” Con dao thiên thần sáng lên
và chuyển màu. Anh đưa cho chú Luke.

“Không cần đâu,” chú Luke nói và


kéo áo khoác sang bên cho anh thấy
thanh kindjal nơi thắt lưng.

Jace đưa con dao Abrariel cho Clary,


cô lẳng lặng nhận lấy. Lưỡi dao ấm áp
trong tay cô, như trong đó chứa đựng một
nguồn sống bí mật vậy.
“Camael,” Jace nói với lưỡi dao thứ
hai, làm nó rùng mình phát sáng.
“Telantes,” anh nói vơi con dao thứ ba.

“Anh đã bao giờ dùng tên của Thiên


Thần Raziel chưa?” Clary hỏi khi Jace
nhét dao vào thắt lưng rồi mặc áo đứng
dậy.

“Chưa từng,” chú Luke nói. “Không


được dùng tên đó.” Chú nhìn con đường
đằng sau Clary, tìm kiếm Magnus. Cô
cảm nhận được sự căng thẳng nơi chú,
nhưng trước khi cô kịp nói gì thì điện
thoại đã rung lên. Cô mở máy và không
nói không rằng đưa cho Jace. Anh đọc
tin nhắn và nhướn mày.
“Có vẻ Điều Tra Viên cho Valentine
thời gian tới hoàng hôn để quyết định
muốn anh hay muốn các Bảo Bối,” anh
nói. “Bà ta và Maryse đã tranh cãi nhiều
giờ, vì thế bà ta chưa hay biết rằng anh
đã bỏ đi.”

Anh trả điện thoại cho Clary. Những


ngón tay họ chạm vào nhau và Clary vội
vàng rụt tay, dù găng tay len dày đã che
phủ khắp. Cô thấy mặt anh tối lại, nhưng
anh không nói gì hết. Thay vào đó, anh
quay sang chú Luke và hỏi, cộc lốc kỳ lạ.
“Có phải con trai Điều Tra Viên đã chết
không? Có phải đó là lý do giờ tính khí
bà ta thành thế không?”
Chú Luke thở dài thườn thượt và đút
tay vào túi áo khoác. “Sao cháu biết?”

“Từ cái cách bà ta xù lông lên mỗi


khi có người nhắc tới tên con trai mình.
Nhưng đó là những lần duy nhất bà ta có
tí tính người.”

Chú Luke lại thở dài. Chú đã đẩy kính


lên và mắt nheo tít lại vì gió mạnh từ
sông tạt vào. “Điều Tra Viên thành ra
như vậy do nhiều lý do. Stephen chỉ là
một trong số đó.”

“Lạ thật đấy,” Jace nói. “Bà ta thậm


chí còn không giống người thích trẻ
con.”

“Không thích con người khác thôi,”


chú Luke nói. “Nhưng con bà ta lại khác.
Stephen là đứa con vàng bạc của bà ta.
Thực ra, cậu ta là cậu bé vàng của tất cả
mọi người... ai ai cũng biết cậu ấy. Cậu
ta làm gì cũng giỏi, lúc nào cũng đối xử
tốt với mọi người mà không nhàm chán,
đẹp trai mà lại không ai ghét được. Ừm,
thực ra bọn chú có hơi ghét cái cậu đó.”

“Chú ấy học cùng chú ạ?” Clary hỏi.


“Và mẹ cháu... và Valentine nữa? Vì thế
chú mới biết chú ấy phải không?”
“Hồi đó nhà Herondale quản lý Học
Viện Luân Đôn và Stephen tới đó học.
Chú gặp cậu ta nhiều hơn sau khi tất cả
tốt nghiệp, khi cậu ta trở lại Alicante. Và
cũng có thời chú gặp cậu ta quá thường
xuyên ấy chứ.” Ánh mắt chú Luke nhìn xa
xăm, cùng mang xanh xám như dòng sông
trước mặt. “Sau khi Stephen kết hôn.”

“Vậy là chú ấy cũng trong Hội Kín


sao?” Clary hỏi.

“Hồi đó thì không,” chú Luke nói.


“Cậu ta gia nhập Hội Kín sau khi chú...
ừm, sau chuyện xảy ra với chú. Valentine
cần phó chỉ huy mới và hắn ta muốn có
Stephen. Imogen, người trung thành tuyệt
đối với Hội đồng Clave, đã phát rồ lên -
bà ta cầu xin Stephen cân nhắc lại -
nhưng cậu ta không nghe. Cậu ta không
thèm nói chuyện với bố mẹ mình. Cậu ta
nhất nhất phục tùng Valentine. Đi theo
hắn tới mọi nơi như một cái bóng.” Chú
Luke dừng lại. “Vấn đề là, Valentine
không nghĩ vợ Stephen hợp với cậu ta.
Không hợp với một phó chỉ huy Hội Kín.
Cô ta có... những mối liên hệ gia đình
không tốt đẹp cho lắm.” Nỗi đau trong
giọng nói chú Luke khiến Clary ngạc
nhiên. Sao chú ấy lại quan tâm nhiều tới
những người đó chứ? “Valentine buộc
Stephen ly dị Amatis và tái hôn... người
vợ thứ hai, rất trẻ, mới có mười tám tuổi,
tên Céline. Cả cô ta cũng hoàn toàn bị
Valentine quy phục, làm theo mọi thứ hắn
ta bảo, dù chuyện đó có khốn nạn thế
nào. Rồi tới một ngày, Stephen bỏ mạng
trong một cuộc tiêu trừ ổ ma cà rồng.
Céline biết được liền tự tử theo. Lúc đó
cô ta mang thai tám tháng. Và bố Stephen
cũng chết, vì đau tim. Vậy là gia đình của
Imogen, tất cả người thân của bà ta, đều
ra đi. Họ không thể chôn con dâu và cháu
bà ta tại Thành phố Xương được, vì
Céline đã tự tử. Cô ta được chôn cất ở
ngã tư đường ngoài Alicante. Imogen
sống sót, nhưng... bà ta biến thành băng
đá. Khi Điều Tra Viên tiền nhiệm chết
trong vụ Nổi Loạn, Imogen đã thế chỗ
ông ta. Bà ta từ Luân Đôn trở về Idris -
nhưng theo những gì chú biết, bà ấy chưa
bao giờ nhắc tới Stephen nữa. Nhưng nó
cũng giải thích lý do bà ta ghét Valentine
tới vậy.”

“Vì bố cháu đầu độc mọi thứ ông ta


chạm tới?” Jace cay đắng nói.

“Vì bố cháu, với bao nhiêu tội ác chất


chồng, vẫn có một đứa con trai, trong khi
bà ta đã không còn. Và vì bà ta đổ lỗi
cho Valentine đã gây ra cái chết của
Stephen.”

“Và bà ta nói đúng,” Jace nói. “Đó là


lỗi của ông ấy.”
“Không hẳn,” chú Luke nói.
“Valentine cho Stephen một lựa chọn, và
Stephen đã chọn đi theo hắn. Dù hắn có
mắc bao nhiêu tội lỗi đi nữa, nhưng hắn
chưa bao giờ tống tiền hay đe dọa bắt
buộc ai gia nhập Hội Kín. Hắn chỉ muốn
những đệ tử tự nguyện. Trách nhiệm về
sự lựa chọn của Stephen là của chính cậu
ta.”

“Tự mình lựa chọn,” Clary nói.

“Chẳng tự mình gì đâu,” Jace nói.


“Valentine...”

“Cũng cho cháu lựa chọn, đúng


không?” chú Luke hỏi. “Khi cháu tới gặp
hắn. Hắn muốn cháu ở lại, đúng không?
Ở lại và về phe hắn ấy?”

“Đúng.” Jace nhìn ra qua mặt sông về


phía đảo Governors. “Đúng vậy.” Clary
có thể thấy dòng sông phản chiếu trong
đôi mắt anh; đôi mắt lạnh lùng, như thể
nước đã dìm sạch ánh vàng trong đó rồi.

“Và cháu đã nói không,” chú Luke


nói.

Jace quắc mắt. “Cháu ước mọi người


ngừng đoán giùm cho. Làm cháu thấy
mình dễ đoán quá.”
Chú Luke quay đi như cố giấu nụ
cười, nhưng sựng lại. “Có người tới.”

Có người đang tới thật, một người rất


cao với mái tóc đen bay bay trong gió.
“Magnus,” Clary nói. “Nhưng trông anh
ta... khác quá.”

Khi Magnus tới gần hơn, cô nhận thấy


mái tóc, bình thường dựng đứng và lấp
lánh kim tuyến như đèn vũ trường, giờ rủ
xuống che tai như một mảnh lụa đen.
Chiếc quần da bảy sắc cầu vồng đã được
thay thế bằng bộ com lê gọn gàng cổ
điển, kết hợp cùng chiếc áo khoác đen
dài với những nút bạc lấp lánh. Đôi mắt
mèo sáng lên màu hổ phách và xanh lá.
“Cô có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi nhỉ.”

Jace liếc nhìn đồng hồ. “Chúng tôi t


hực sự đang lo là anh không tới.”

“Tôi đã nói tôi tới là sẽ tới. Tôi chỉ


cần thời gian chuẩn bị thôi. Đây không
phải trò ảo thuật lôi thỏ khỏi mũ đâu,
Thợ Săn Bóng Tối ạ. Chuyện này cần
đến vài thứ pháp thuật thực thụ đấy.” Anh
ta quay sang chú Luke. “Tay anh sao
rồi?”

“Ổn rồi. Cám ơn.” Chú Luke luôn lịch


sự.
“Xe tải của anh đỗ ngoài nhà máy,
đúng không?” Magnus chỉ. “Quá nam
tính so với một chủ tiệm sách.”

“À, tôi không biết,” chú Luke nói.


“Lúc nào tôi chẳng phải bê những thùng
sách nặng, leo, chất sách lên kệ, sắp xếp
theo thứ tự abc...”

Magnus cười lớn. “Anh mở xe giùm


tôi nhé. Ý tôi là, tôi tự làm được” - anh
vẫy tay - “nhưng thế thì hơi bất lịch sự.”

“Chắc rồi.” Chú Luke nhún vai và họ


trở lại nhà máy. Nhưng khi Clary định đi
theo, Jace giữ tay cô lại. “Đợi đã. Anh
muốn nói với em một chút.”
Clary nhìn theo Magnus và chú Luke
đi về phía xe tải. Họ tạo thành một cặp
đôi khập khiễng, một pháp sư dong dỏng
trong áo choàng đen và một người đàn
ông thấp hơn, vạm vỡ hơn mặc quần bò
và áo khoác gió, nhưng cả hai đều thuộc
Thế Giới Ngầm, cả hai đều bị kẹt giữa
thế giới loài người và thế giới siêu
nhiên.

“Clary,” Jace nói. “Trái đất gọi Clary.


Em ở đâu rồi?”

Cô nhìn anh. Mặt trời đã xuống dưới


mặt nước đằng sau lưng Jace, khuôn mặt
anh khuất trong bóng tối, biến tóc anh
thành một vầng hào quang vàng kim. “Em
xin lỗi.”

“Không sao.” Anh chạm vào mặt cô,


thật dịu dàng, bằng lưng bàn tay. “Đôi
lúc em chìm hẳn vào suy tưởng,” anh
nói. “Anh ước gì mình đi theo em được.”

Có đấy, cô muốn nói. Lúc nào anh


cũng ở trong đầu óc em mà. Nhưng cô
chỉ nói, “Anh muốn nói gì với em?”

Anh hạ tay xuống. “Anh muốn em vẽ


chữ Can Trường lên người anh. Trước
khi chú Luke trở lại.”
“Sao lại là trước khi chú ấy trở lại?”

“Vì chú ấy sẽ bảo đó là ý tưởng tồi.


Nhưng đó là cơ hội duy nhất chúng ta có
để đánh bại Agramon. Chú Luke chưa...
đụng độ với nó, chú ấy không hiểu nó ra
sao. Nhưng anh thì có.”

Cô nhìn anh chăm chú. “Nó thế nào?”

Ánh mắt anh thật khó đoán. “Em sẽ


thấy điều em sợ nhất trên thế giới này.”

“Em không biết em sợ gì nữa.”

“Tin anh đi. Em không muốn biết


đâu.” Anh nhìn xuống. “Em có cầm thanh
stele ở đây không?”

“Vâng, em có.” Cô rút chiếc găng tay


phải và tìm kiếm thanh stele. Tay cô hơi
run khi cô rút nó ra. “Anh muốn em vẽ
Ấn Ký ở đâu?”

“Càng gần tim càng có hiệu quả.” Anh


quay lưng với cô, cởi áo khoác và vứt
xuống đất. Anh kéo áo phông lên, để lộ
tấm lưng trần “Ở bả vai cũng tốt.”

Clary đặt tay lên vai anh để trụ mình


cho vững. Làn da anh nơi này màu vàng
nhạt hơn da tay và da mặt, khá nhẵn nhụi
ở những nơi không mang sẹo. Cô di mũi
stele trên bả vai và thấy anh nhíu mày, cơ
bắp căng lên. “Đừng ấn mạnh quá...”

“Em xin lỗi.” Cô bình tĩnh lại, để trí


óc điều khiển cánh tay thông qua thanh
stele vẽ nên chữ rune. Con chữ đen sì để
lại dấu vết giống như khi người ta đốt
thứ gì đó thành than, để lại lớp tro. “Đó.
Xong rồi.”

Anh quay lại, kéo áo xuống. “Cám


ơn.” Bấy giờ mặt trời cháy rực đằng
chân trời, loang khắp bầu trời một màu
đỏ hoa hồng và máu, biến mép sông
thành thứ chất lỏng bằng vàng, làm dịu đi
tất cả những nét xấu xí của mớ rác rưởi
đô thị quanh họ. “Em thì sao?”
“Em làm sao cơ?”

Anh bước lên gần hơn. “Xắn ống tay


áo lên. Anh vẽ Ấn Ký cho.”

“À. Vâng.” Cô nghe theo lời anh, kéo


ống tay áo, chìa hai cánh tay trần ra cho
anh.

Mũi stele châm vào da cô như đầu


mũi kim chạm nhẹ vào da thịt, cào trợt đi
nhưng không đâm thủng. Cô quan sát
những đường đen xuất hiện một cách khá
hứng thú. Ấn Ký cô nhận từ trong mơ vẫn
còn đó, chỉ hơi nhạt màu ở cạnh ngoài.
“Đức Chúa phán với ông, “Vì thế,
bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp
bảy. Đức Chúa ghi Ấn Ký trên Cain, để
bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông.”“[1]

[1] Kinh Cựu Ước, Sách Sáng Thế 4:15 - Trích


câu chuyện về hai anh em Cain và Abel.

Clary quay lại, kéo ống tay áo xuống.


Magnus đang đứng quan sát, chiếc áo
khoác đen dường như đang bềnh bồng
quanh anh ta theo cơn gió từ sông thổi
vào. Một nụ cười nhẹ nở nơi khóe miệng.

“Anh trích dẫn Kinh Thánh được cơ


à?” Jace vừa nhặt áo khoác vừa hỏi.
“Này cậu, tôi được sinh vào thế kỷ
mộ đạo vô cùng,” Magnus nói. “Tôi luôn
nghĩ Ấn Ký mà Cain có được có thể là
Ấn Kỷ đầu tiên được ghi lại đấy. Chắc
chắn Ấn Ký đã giữ mạng cho ông ta.”

“Nhưng ông ấy không phải thiên thần


được,” Clary nói. “Không phải ông ấy đã
giết em trai sao?”

“Không phải chúng ta đang lên kế


hoạch giết bố sao?” Jace nói.

“Khác chứ,” Clary nói, nhưng không


kịp giải thích khác ra sao, vì đúng lúc
đó, xe chú Luke đã phi lên bờ sông, bắn
văng sỏi tứ tán. Chú Luke thò đầu ra ô
cửa kính.

“Okay,” chú nói với Magnus. “Nào


lên xe thôi.”

“Chúng ta sẽ lái xe lên tàu sao?”


Clary sửng sốt hỏi. “Cháu nghĩ...”

“Tàu nào?” Magnus cười khúc khích


khi ngồi vào ghế hành khách bên cạnh
chú Luke. Anh ta giật ngón cái chỉ ra sau.
“Hai đứa, ra đằng sau đi.”

Jace leo lên thùng xe và cúi người


kéo Clary lên. Khi cô ngồi ổn định trên
chiếc lốp dự trữ, cô để ý có vòng tròn
ngôi sao năm cánh đã được vẽ trên sàn
kim loại của thùng xe. Ở mỗi cánh sao
lại có thêm một biểu tượng rối mắt.
Chúng không phải những con chữ rune cô
đã biết - nhìn vào những dấu hiệu này
giống như đang cố hiểu một người nói
thứ ngôn ngữ rất giống tiếng Anh, mà lại
không phải tiếng Anh.

Chú Luke thò đầu ra ngoài cửa sổ và


nhìn ra sau. “Cháu biết chú không thích
chuyện này,” chú nói, mà gió thổi bạt
tiếng của chú đi. “Clary, cháu sẽ ngồi
trong xe với Magnus, Jace và chú sẽ lên
tàu. Cháu hiểu không?”

Clary gật đầu và ngồi co ro trong góc.


Jace ngồi cạnh, tay ôm chân. “Thú vị lắm
đây.”

“Cái gì...” Clary mở lời, nhưng chiếc


xe đã khởi động, bánh xe xoay tròn trên
đá sỏi, át tiếng nói của cô. Xe nhào
xuống vùng nước cạn ngay mép sông.
Clary bật ngửa va vào cửa sổ thùng xe
khi chiếc xe chạy thẳng xuống sông - chú
Luke định cho cả bọn chết chìm sao? Cô
quay lại thấy trong khoang xe bốc lên
những cột khói xanh đang vặn xoắn, luồn
lách như rắn. Xe như đang va vào thứ gì
đó cồng kềnh, giống như đang chạy qua
khúc gỗ. Rồi họ cứ thế êm ru tiến lên,
gần giống lướt đi.
Clary quỳ xuống và nhìn qua bên kia
xe, trong lòng đã biết khá rõ mình sẽ thấy
gì.

Họ đang di chuyển - không, đang lái -


trên mặt nước đen, bánh xe chỉ sượt qua
mặt sông, làm gợn lên những gợn li ti lăn
tăn lan ra ngoài cùng thi thoảng những tia
lửa điện màu xanh của Magnus tạo ra thi
nhau phóng tới. Mọi thứ đột nhiên rơi
vào im lặng, trừ tiếng rì rì khe khẽ của
động cơ và tiếng kêu của lũ chim biển.
Clary nhìn chăm chăm qua thùng xe vào
Jace, anh đang cười toe toét. “Trò này
mới thực sự làm Valentine ấn tượng
đây.”
“Em không biết,” Clary nói. “Những
nhóm anh hùng cứu thế giới khác có
boomerang hình dơi và khả năng đi trên
tường; chúng ta thì có xe lướt nước.”

“Nếu cô không thích, Nephilim,” tiếng


Magnus phát ra không rõ lắm từ ca bin,
“thì xin mời cô thử xem liệu mình có đi
được trên nước không nhé.”

“Em nghĩ chúng ta nên vào,” Isabelle


nói trong khi dán tai vào cửa thư viện.
Cô ra hiệu cho Alec tới gần. “Anh nghe
thấy gì không?”

Alec đứng cạnh cô em, cẩn thận không


làm rơi điện thoại trên tay. Magnus bảo
sẽ gọi nếu có tin gì mới hoặc có chuyện
xảy ra. Tới giờ anh ta vẫn chưa gọi.
“Không.”

“Chính xác. Họ dừng hét vào mặt


nhau rồi.” Đôi mắt đen của Isabelle sáng
lên. “Giờ họ đang đợi Valentine.”

Alec rời khỏi cửa và đi qua hành lang


tới ô cửa sổ gần nhất. Bầu trời ngoài
khung cửa mang màu than đỏ sắp tàn.
“Hoàng hôn rồi.”

Isabelle nắm lấy tay vặn. “Chúng ta


vào thôi.”
“Isabelle, đợi đã...”

“Em không muốn bà ta có thể nói dối


chúng ta về điều Valentine nói,” Isabelle
bảo. “Hoặc chuyện đã xảy ra. Hơn nữa,
em cũng muốn gặp ông ta. Gặp bố Jace.
Anh không muốn sao?”

Alec trở lại cửa thư viện. “Có, nhưng


đây không phải ý tưởng hay vì...”

Isabelle xoay tay nắm cửa thư viện.


Cánh cửa bật mở. Ném cái liếc mắt chán
chường về phía ông anh, cô nàng chúi
đầu bước vào trong; Alec lầm bầm chửi
thề và đi theo.
Bà Maryse và Điều Tra Viên đang
đứng mặt đối mặt bên cái bàn to tướng,
giống như hai võ sĩ quyền anh đứng hai
góc đài. Má bà Maryse đỏ rực, tóc ôm
lấy mặt. Isabelle nhìn Alec, như thể nói,
Có lẽ chúng ta không nên vào. Mẹ
trông giận điên.

Nhưng nếu nói bà Maryse tức giận thì


Điều Tra Viên phải nói là điên cuồng. Bà
ta quay phắt lại khi cánh cửa bật mở,
miệng cau lại thành một khẩu hình vô
cùng xấu xí. “Hai cô cậu làm gì ở đây?”
bà ta hét lên.

“Imogen,” Maryse nói.


“Maryse!” Điều Tra Viên cao giọng.
“Ta đã chịu đựng cô và những đứa con
láo toét của cô đủ rồi...”

“Imogen,” Maryse lại gọi. Có gì


trong giọng nói bà - một sự giục giã -
khiến Điều Tra Viên phải quay lại nhìn.

Không khí chung quanh quả cầu bằng


đồng hơi sánh như nước. Một cái gì đó
bắt đầu thành hình, tách khỏi nó, như một
hình vẽ màu đen bắt đầu bước ra khỏi
khung tranh trắng, biến thành một người
đàn ông vai rộng và vạm vỡ. Hình ảnh
hơi nhòe nhoẹt nên Alec chỉ nhận ra đó
là một người đàn ông cao ráo, với mái
tóc muối tiêu cắt sát đầu.
“Valentine.” Điều Tra Viên trông có
vẻ bất ngờ, Alec nghĩ, dù bà ta chắc chắn
đang đợi hắn tới.

Không khí chung quanh quả cầu đang


rung lên dữ dội. Isabelle há hốc miệng
khi người đàn ông bước khỏi vùng không
khí rung động, như thể đang bước qua
tầng tầng lớp lớp nước. Bố của Jace là
một người đàn ông khôi ngô, cao hơn
một mét tám, ngực rộng rắn chắc, tay
cuồn cuộn cơ bắp. Mặt hắn ta gần thành
hình tam giác, với cái cằm nhọn gan góc.
Alec nghĩ, hắn ta cũng có thể coi là đẹp
trai đấy, lại khác Jace một trời một vực,
không có một điểm gì tương đồng với vẻ
ngoài vàng tái của cậu con trai cả. Chuôi
kiếm thò ra ở vai trái hắn - Kiếm Thánh.
Chẳng phải hắn cần trang bị vũ trang làm
gì, vì hắn có thực sự có mặt ở đây đâu,
nên chắc hẳn hắn đeo kiếm chỉ để chọc
giận Điều Tra Viên thôi. Mà bà này cũng
đâu cần phải giận hơn nữa.

“Imogen,” Valentine nói, đôi mắt đen


nhìn Điều Tra Viên với vẻ hứng thú hả
hê. Đây, vẻ mặt của Jace đây rồi, Alec
thầm nhủ. “Và Maryse, Maryse của ta -
đã lâu lắm rồi nhỉ.”

Maryse, nuốt khan và khó khăn lắm


mới nói lên lời, “Tôi không phải Maryse
của anh nữa, Valentine.”
“Và hẳn kia là các con cô,” Valentine
nói tiếp như thể bà chưa từng mở lời.
Mắt hắn chuyển sang Isabelle và Alec.
Alec hơi rùng mình, như thể có gì đó
đâm vào dây thần kinh. Bố Jace nói
chuyện rất đỗi bình thường, thậm chí còn
có phần hơi khách sáo, nhưng ánh nhìn
trống rỗng nhưng rình rập của hắn lại
khiến Alec muốn đứng lên chắn cô em
gái khỏi tầm nhìn của Valentine. “Trông
chúng giống cô lắm.”

“Đừng động vào các con của tôi,


Valentine,” bà Maryse nói, cố gắng lắm
mới được bình tĩnh.
“À, như thế có vẻ không công bằng
cho lắm,” Valentine nói, “khi cô không
để cho con tôi yên.” Hắn ta quay sang
Điều Tra Viên. “Tôi đã nhận được tin
nhắn của bà. Chắc chắn đây không phải
trò giỏi nhất của bà chứ nhỉ?”

Điều Tra Viên nãy giờ không động


đậy; giờ bà ta bắt đầu từ từ chớp mắt,
như một loài bò sát. “Ta mong các điều
kiện trong thỏa thuận của ta là rất rõ rồi.”

“Con trai tôi đổi lấy các Bảo Bối.


Đúng không nhỉ? Nếu không bà sẽ giết
con tôi.”

“Giết anh ấy ư?” Isabelle nhắc lại.


“MẸ!”

“Isabelle,” bà Maryse gằn giọng. “Im


miệng!”

Điều Tra Viên nheo nheo mắt, độc địa


lườm Isabelle và Alec. “Anh hiểu rõ rồi
đấy, Morgenstern.”

“Vậy câu trả lời của tôi là không.”

“Không?” Điều Tra Viên có vẻ giống


như vừa bước một bước vào nền đất
vững thì đột nhiên đất sụp xuống dưới
chân. “Anh đừng thách ta, Valentine. Ta
sẽ làm theo đúng những gì ta đã cảnh
báo.”

“Ồ, tôi không nghi ngờ gì bà cả,


Imogen. Bà luôn là kẻ thủ cựu và chuyên
tâm tàn độc. Tôi nhận ra các phẩm chất
của bà vì chính tôi cũng như vậy.”

“Ta không giống anh gì cả. Ta làm


theo Luật...”

“Kể cả khi luật đó bảo bà giết chết


một đứa trẻ chỉ để trừng phạt bố nó thôi
ư? Chuyện này không liên quan gì đến
Luật cả, Imogen, chẳng qua bà hận tôi và
cho tôi là kẻ đã gây ra cái chết của con
trai bà và đây là cách bà bắt tôi đền tội.
Sẽ chẳng thay đổi gì đâu. Tôi sẽ không từ
bỏ các Bảo Bối, kể cả vì Jonathan.”

Điều Tra Viên chỉ giương mắt nhìn.


“Nhưng thằng bé là con anh,” bà ta nói.
“Đứa con của anh.”

“Con cái tự biết quyết định đời nó,”


Valentine nói. “Đó là điều bà không bao
giờ hiểu được. Tôi đã hứa cho thằng bé
an toàn nếu nó ở cùng tôi; nó từ chối và
trở về với bà, để rồi bà vẫn trả thù lên
người nó đúng như tôi đã bảo với nó,
Imogen à,” hắn ta nói nốt, “bà là kẻ rất
dễ dự đoán.”

Điều Tra Viên dường như không để ý


tới những lời xúc phạm vừa rồi. “Hội
đồng Clave cương quyết giết thằng bé,
nếu như anh không đưa các Bảo Bối
Thiên Thần cho ta,” bà ta nói, giống như
một người đang chìm trong cơn ác mộng.
“Ta sẽ không thể ngăn họ được đâu.”

“Tôi biết chứ,” Valentine nói. “Nhưng


tôi chẳng làm gì được rồi. Tôi đã cho nó
một cơ hội. Nó không nhận lấy.”

“Đồ khốn nạn!” Isabelle đột nhiên hét


lên và hình như định lao tới; Alec nắm
lấy tay cô em và giật lùi lại, giữ chặt lấy
cô. “Ông ta là loại bố khốn nạn,” cô nàng
rít lên, sau đó nói lớn hơn, hét vào mặt
Valentine. “Ông là đồ...”
“Isabelle!” Alec che miệng cô em
trong khi Valentine hứng thú nhìn cả hai.

“Anh... cho... nó,” Điều Tra Viên bắt


đầu khiến Alec nghĩ tới một con rô bốt bị
chập mạch. “Và thằng bé từ chối?” Bà ta
lắc đầu. “Nhưng thằng bé là gián điệp
của anh... một thứ vũ khí của anh...”

“Bà nghĩ vậy sao?” hắn hỏi lại, với


vẻ ngạc nhiên thật tình. “Tôi không thích
gì chuyện tọc mạch những bí mật của Hội
đồng Clave. Tôi chỉ thích phá hủy nó, và
để làm được điều đó, tôi cần có nhiều
thứ vũ khí nguy hiểm hơn một thằng bé
chứ.”
“Nhưng...”

“Bà thích tin gì thì tin,” Valentine


nhún vai. “Bà chẳng là gì cả, Imogen
Herondale ạ. Kẻ đại diện cho một thể
chế mà quyền hạn của nó sắp lụi tàn, luật
lệ của nó sẽ được chấm dứt. Bà không
thể cho tôi thứ mà tôi có thể muốn
được.”

“Valentine!” Điều Tra Viên vung tay


tới, như thể bà ta có thể ngăn được hắn,
tóm lấy hắn, nhưng tay bà ta chỉ xuyên
qua hắn như xuyên qua nước mà thôi.
Với cái nhìn kinh tởm hết mực, Valentine
lùi lại và biến mất.
Ráng trời chiều mang màu lửa sắp tàn
lụi, mặt nước chuyển màu đỏ sắt. Clary
kéo áo khoác sát người mà vẫn rùng
mình vì lạnh.

“Em lạnh à?” Jace đang đứng cuối xe,


nhìn xuống làn chấn động do xe tải gây
ra: hai vạt nước sủi tăm đằng sau. Giờ
anh tới và ngồi bên cạnh cô, dựa lưng
vào cửa sổ đằng sau xe. Cửa sổ gần như
bị mờ đi bởi khói xanh,

“Anh không lạnh sao?”

“Không.” Anh lắc đầu và cởi áo


khoác, đưa cho cô. Cô khoác vào, tận
hưởng lớp da mềm mại. Áo rộng quá khổ
nhưng lại êm ái. “Em định ở lại tại xe
như chú Luke bảo, đúng không?”

“Em có được lựa chọn ư?”

“Theo nghĩa câu chữ thì không.”

Cô cởi găng và vươn tay chạm vào


tay anh. Anh nắm chặt lấy tay cô. Cô nhìn
xuống những ngón tay đang đan lấy nhau,
tay cô quá nhỏ, đầu ngón tay ngang
phẳng, còn bàn tay anh thật dài và thon.
“Anh sẽ tìm Simon cho em,” cô nói. “Em
biết anh sẽ giúp em.”

“Clary.” Cô nhìn thấy mặt nước mênh


mang chung quanh in hình trong đôi mắt
anh. “Có thể cậu ấy đã... anh muốn nói,
có thể...”

“Không.” Giọng cô quả quyết. “Cậu


ấy vẫn ổn. Cậu ấy phải như thế.”

Jace thở dài. Đôi mắt anh gợn sóng


nước xanh đen - như nước mắt, Clary
nghĩ, nhưng chúng không phải nước mắt,
mà chỉ là hình ảnh phản chiếu mà thôi.
“Có điều anh phải hỏi em,” anh nói.
“Anh từng sợ phải hỏi. Nhưng giờ anh
chẳng còn sợ gì nữa.” Tay anh ôm lấy má
cô, lòng bàn tay ấm áp vào làn da cô
lạnh ngắt, và cô thấy nỗi sợ của mình
cũng biến mất, như thể anh đã truyền sự
Can Trường sang cô qua lần đụng chạm.
Cô ngẩng mặt, môi hơi hé mở chờ đợi -
môi anh chạm khẽ lên môi cô, khẽ khàng
như một cọng lông lướt qua, như ký ức
về một nụ hôn - và rồi anh rời ra, mắt mở
to; cô thấy bức tường đen trong đó, đang
cao lên để che đi sắc vàng hoài nghi:
bóng của một con tàu.

Jace buột miệng than rồi thả cô ra,


lồm cồm đứng dậy. Clary ngượng ngùng
đứng lên, chiếc áo khoác nặng trịch của
Jace khiến cô mất cân bằng. Những tia
lửa xanh bay ra từ cửa kính, và trong ánh
sáng đó cô thấy mạn thuyền bằng kim
loại dợn song màu đen, bên thành tàu có
một chiếc thang thả xuống, và chung
quanh là một hàng lan can sắt. Có gì đó
giống một con chim lớn dị dạng đang đậu
trên lan can. Những lớp sóng lạnh cuộn
tỏa từ tàu như không khí lạnh cóng phả ra
từ một tảng băng. Khi Jace gọi cô, hơi
thở anh phảng phất khói trắng, giọng anh
biến mất trong tiếng động cơ đột ngột
gầm vang của con tàu lớn.

Cô cau mày nhìn anh. “Cái gì? Anh


bảo sao?”

Anh chộp lấy cô, luồn tay vào bên


dưới áo khoác, những đầu ngón tay anh
lướt qua làn da trần của cô. Cô kêu lên
vì ngạc nhiên. Anh rút con dao thiên thần
lúc nãy anh đưa cho cô khỏi thắt lưng và
nhét vào tay cô. “Anh nói” - rồi anh thả
cô ra - “rút Abriel ra, vì chúng đang tới
đấy.”

“Cái gì đang tới?”

“Những con quỷ.” Anh chỉ tay lên.


Thoạt đầu Clary không thấy gì. Sau đó cô
nhận thấy những con chim to lớn kỳ dị cô
thấy lúc trước. Từng con từng con bay
khỏi bao lơn, rơi xuống như những tảng
đá dọc mạn tàu - rồi liệng lên và nhắm
thẳng tới chiếc ô tô đang trôi nổi trên mặt
nước. Khi chúng tới gần hơn, cô thấy
chúng chẳng phải chim gì hết, mà là
những vật thể biết bay xấu xí trông như
những con thằn lằn ngón cánh, với sải
cánh lông lá rộng và cái đầu hình tam
giác xương xẩu. Miệng chúng đầy những
răng lởm chởm như răng cá mập, hàng
hàng lớp lớp, móng vuốt chúng sáng ánh
lên như những lưỡi dao cạo.

Jace nhảy lên nóc xe, thanh Telantes


sáng lên trong tay. Khi cái vật biết bay
đầu tiên xông tới, anh phi dao. Lưỡi dao
dính trúng con quỷ, cắt phăng chóp sọ nó
theo cách bạn xoẹt đi đầu quả trứng. Với
tiếng ré lên the thé, nó chấp chới, đập
cánh thật lực. Khi nó rơi xuống biển,
nước liền sôi lên sùng sục.

Con quỷ thứ hai đâm vào mui xe,


móng để lại những đường cào dài trên
lớp vỏ thép. Nó lao người vào kính chắn
gió, làm xuất hiện những đường rạn hình
mạng nhện trên kính chắn gió. Clary hét
tên chú Luke, nhưng một con khác lao
thẳng xuống cô, từ trên bầu trời màu
trắng bạc xuống như một mũi tên. Cô kéo
tay áo khoác Jace lên, giơ tay ra để lộ
chữ rune phòng thủ. Con quỷ rít lên, cánh
đập lùi lại - nhưng nó đã tới quá gần,
trong tầm với của cô. Trong khi dùng
Abrariel chém vào ngực nó, cô nhận ra
nó không có mắt, chỉ có hai vệt lõm sâu
vào sọ. Nó đứt đôi, để lại một luồng
khói đen sì.

“Giỏi lắm,” Jace nói. Anh đã nhảy


xuống khỏi nóc xe và hạ gục một sinh vật
biết bay khác. Anh đã rút dao ra, và đuôi
dao dính đầy máu đen.

“Cái giống gì thế kia?” Clary vừa thở


hổn hển vừa chém thanh Abrariel thành
một đường vòng cung rộng đẹp mắt
ngang ngực con quỷ bay. Nó kêu như quạ
và vụt cánh vào cô. Khi nhìn gần thế này,
cô có thể thấy những đôi cánh của chúng
kết thúc bằng chỏm xương sắc như dao
cạo. Con quỷ này chộp được tay áo
khoác của Jace mà xé toạc.

“Ôi áo của anh,” Jace giận dữ, và


cắm thẳng con dao vào lưng con quỷ khi
nó vừa bay lên. Nó ré lên và biến mất.
“Anh kết cái áo khoác đó.”
Clary nhìn anh chòng chọc, đoạn quay
người lại khi có tiếng rin rít của kim loại
vang lên rõ rệt bên tai. Hai con quỷ bay
đã cắm móng lên nóc xe, xé toạc ra.
Không khí ong ong tiếng kim loại bị kéo
xé. Chú Luke đã trèo lên mui xe mà chém
giết những sinh vật xấu xí kia bằng thanh
kindjal. Một con rơi xuống khỏi xe, biến
mất trước khi chạm mặt nước. Con khác
cất cánh bay lên, vuốt quặp lấy mảnh nóc
xe, ré lên the thé trong chiến thắng, rồi
vỗ cánh trở lại tàu.

Trong chốc lát bầu trời quang đãng.


Clary chạy lên và nhìn xuống xe. Magnus
đang ngồi co ro trên ghế, mặt xám xịt.
Bên trong khoang xe quá tối nên cô
không biết được có phải pháp sư bị
thương không. “Magnus!” cô hét. “Anh
có bị thương không?”

“Không.” Magnus cố ngồi thẳng


người, rồi lại phải dựa lưng vào ghế.
“Chỉ là tôi - bị kiệt sức. Kết giới bảo vệ
quanh con tàu quá mạnh. Lột nó đi, kéo
nó ra, rất... khó.” Giọng anh ta đuối dần.
“Nhưng nếu tôi không làm, bất cứ ai đặt
chân lên thuyền, ngoại trừ Valentine, sẽ
chết.”

“Có lẽ anh nên đi cùng chúng tôi,”


chú Luke nói.
“Tôi không thể xử lý kết giới nếu như
ở trên tàu. Tôi phải xử lý từ đây. Thế
mới thành công được.” Nụ cười của
Magnus trông mới đau đớn làm sao.
“Hơn nữa, tôi không giỏi đánh đấm. Tài
năng của tôi nằm ở chỗ khác.”

Clary vẫn cúi nhìn khoang xe, bắt đầu


nói. “Nhưng nếu chúng tôi cần...”

“Clary!” Chú Luke hét, nhưng đã quá


muộn. Không ai nhìn thấy sinh vật bay
đang bất động bên thân xe. Giờ nó lao
lên, chao nghiêng, móng cắm phập vào
lưng áo khoác của Clary, đôi cánh đen
màu tối mờ và những hàm răng lởm
chởm, hôi thối. Với tiếng ré dài chiến
thắng, nó bay lên trời, Clary đánh đu
vòng vòng bên dưới móng.

“Clary!” chú Luke lại hét, và chạy


vội lên cuối mui xe rồi đứng lại, vô vọng
nhìn lên hình thù chao đảo có cánh đang
khuất dần cùng khối nặng lòng thòng
dưới móng vuốt.

“Nó không giết em ấy đâu,” Jace nói


khi đến đứng cạnh chú. “Nó sẽ tha em ấy
tới cho Valentine.”

Có gì đó trong giọng nói anh khiến


máu chú Luke đông lại. Chú quay sang
nhìn cậu trai đứng cạnh mình. “Nhưng...”
Chú không kịp nói hết, Jace đã nhảy
xuống khỏi xe bằng một cú đảo mình
điệu nghệ. Anh nhảy tùm xuống dòng
nước bẩn rồi phóng lên tàu, những cú
đạp có lực làm nước quẫy bọt.

Chú Luke quay sang Magnus, nhìn


gương mặt trắng bệch ẩn hiện qua tấm
kính vỡ rạn, như một vệt trắng tương
phản với không gian tối om chung quanh.
Chú Luke giơ tay, nghĩ là đã thấy Magnus
gật đầu đáp lại.

Nhét thanh kindjalat bên mình, chú


nhảy xuống theo Jace.

Alec thả Isabelle ra, hơi sợ cô em sẽ


hét toáng lên khi anh bỏ tay khỏi miệng
cô nàng. Nhưng không. Cô đứng bên
cạnh anh nhìn trân trối khi Điều Tra Viên
đứng đó, có phần váng vất, mặt trắng
bệch bạc.

“Imogen,” bà Maryse nói. Trong


giọng nói bà không có một chút cảm xúc,
thậm chí còn không có cả tức giận.

Điều Tra Viên dường như không nghe


thấy. Biểu hiện trên khuôn mặt bà ta
không hề thay đổi khi bà ta ngồi sụp
xuống chiếc ghế cũ của bác Hodge.
“Chúa ơi,” bà ta nói và nhìn chằm chằm
xuống mặt bàn. “Ta đã làm gì thế này?”
Bà Maryse liếc nhìn Isabelle. “Đi gọi
bố đến đây.”

Isabelle, trông sợ hãi hơn bao giờ hết,


gật đầu và lách người ra khỏi phòng.

Bà Maryse đi tới bên Điều Tra Viên


và nhìn xuống bà ta. “Bà đã làm gì hả
Imogen?” bà nói. “Bà đã trao chiến thắng
vào tay Valentine. Đó là điều bà đã làm
đấy.”

“Không,” Điều Tra Viên thở hắt ra.

“Bà biết chính xác kế hoạch của


Valentine khi bà nhốt Jace lại. Bà không
cho Hội đồng Clave dính vào vì biết Hội
đồng sẽ can thiệp vào kế hoạch của bà.
Bà muốn làm Valentine đau khổ như
Valentine đã làm bà đau khổ; để cho hắn
thấy bà có khả năng giết con trai hắn như
hắn đã giết con trai bà. Bà muốn hạ nhục
hắn ta.”

“Đúng...”

“Nhưng Valentine không hề bị nhục


mạ,” Maryse nói tiếp. “Lẽ ra tôi đã có
thể nói cho bà biết. Bà không bao giờ
trên cơ hắn được. Hắn chỉ vờ sẽ cân
nhắc lời đề nghị của bà để bảo đảm tuyệt
đối là chúng ta sẽ không kịp có thời gian
gọi cứu viện từ Idris. Và giờ đã quá
muộn.”

Điều Tra Viên hoảng loạn nhìn lên.


Búi tóc bà ta đã lỏng ra và những lọn tóc
rũ xuống quanh mặt. Đó là cảnh người
nhất Alec từng nhìn thấy ở bà ta, nhưng
anh không thấy vui. Lời mẹ nói làm anh
ớn lạnh: quá muộn. “Không đâu,
Maryse,” bà ta nói. “Chúng ta vẫn có
thể...”

“Vẫn có thể cái gì?” Giọng Maryse


lạc đi. “Gọi Hội đồng Clave ư? Chúng ta
không có nhiều ngày, nhiều giờ để họ kịp
tới đây. Nếu chúng ta định đối đầu với
Valentine... mà Chúa biết chúng ta nào
có lựa chọn...”
“Chúng ta phải làm ngay bây giờ,”
một giọng trầm ấm xen ngang. Đằng sau
Alec, đang quắc mắt nhìn, là Robert
Lightwood.

Alec nhìn bố. Đã nhiều năm nay anh


mới thấy bố mặc đồ đi săn; lâu nay ông
bận bịu chuyện quản lý, với việc điều
hành Conclave và giải quyết những xung
đột của Thế Giới Ngầm. Nhìn bố trong
bộ giáp màu đen nặng trịch, thanh kiếm
lớn đeo sau lưng, khiến Alec nhớ lại thời
thơ ấu, khi trong mắt anh, bố là người
lớn nhất, mạnh nhất và đáng sợ nhất. Mà
giờ ông vẫn đáng sợ đấy thôi. Anh chưa
gặp lại bố kể từ sau vụ đáng xấu hổ tại
nhà chú Luke. Anh cố nhìn vào mặt bố,
nhưng bố đang nhìn mẹ. “Conclave đã
sẵn sàng,” Robert nói. “Thuyền đang đợi
ngoài bến tàu.”

Bàn tay Điều Tra Viên vẫy vẫy quanh


mặt. “Không được,” bà ta nói. “Chúng ta
không có đủ người... chúng ta không
thể...”

Robert lờ bà ta đi. Thay vào đó, ông


vẫn nhìn bà Maryse. “Chúng ta phải đi
ngay,” ông nói, và trong giọng ông có sự
tôn trọng mà lúc nói chuyện với Điều Tra
Viên không hề có.

“Nhưng còn Hội đồng Clave,” Điều


Tra Viên cất tiếng. “Họ phải được thông
báo.”

Maryse đẩy điện thoại cho Điều Tra


Viên, thật mạnh. “Bà đi mà nói. Nói với
họ điều bà đã làm. Dù sao đây cũng là
việc của bà.”

Điều Tra Viên không nói gì, chỉ nhìn


chằm chằm vào chiếc điện thoại, một tay
che miệng.

Trước khi Alec kịp cảm thấy tội


nghiệp bà ta, cánh cửa lại bật mở và
Isabelle bước vào, trong bộ đồ Thợ Săn
Bóng Tối, với ngọn roi vàng trong tay và
thanh kiếm gỗ naginata bên tay kia. Cô
nhíu mày nhìn anh trai mình. “Đi chuẩn
bị đi,” cô nói. “Chúng ta sẽ ngay lập tức
tới chỗ Valentine.”

Alec không thể ngừng được; khóe


miệng anh hơi nhếch lên. Isabelle luôn là
người thật quả quyết. “Cho anh hả?” anh
nói, ám chỉ thanh naginata.

Isabelle giằng lại. “Đi mà tự tìm đồ!”

Có nhiều thứ không bao giờ thay


đổi. Alec đi tới cửa, nhưng dừng lại vì
có người đặt tay lên vai. Anh ngạc nhiên
nhìn lên.
Bố. Ông đang nhìn Alec, và dù không
cười, nhưng có vẻ tự hào trên khuôn mặt
hằn những nếp nhăn và mệt mỏi của ông.
“Nếu con cần một thanh kiếm,
Alexander, thanh guisarme của bố ở
ngoài lối vào đó. Nếu con muốn dùng.”

Alec nuốt khan và gật đầu, nhưng


trước khi anh kịp cám ơn, Isabelle đã nói
sau lưng:

“Của mẹ này,” cô nàng nói. Alec quay


lại thấy em đang trao thanh naginata cho
mẹ, bà cầm lấy nó và xoay chuyển điêu
luyện trong tay.

“Cám ơn, Isabelle,” bà Maryse nói và


với một cử động linh hoạt như cô con
gái, bà hạ lưỡi dao xuống để nó chĩa
thẳng vào tim Điều Tra Viên.

Imogen Herondale ngước nhìn bà


Maryse bằng đôi mắt trống rỗng, hoảng
hốt như của một bức tượng bị hỏng. “Cô
định giết tôi sao, Maryse?”

Bà Maryse rít qua kẽ răng. “Không


phải lúc này,” bà nói. “Chúng tôi cần
mọi Thợ Săn Bóng Tối trong thành phố,
và lúc này, kể cả bà. Đứng dậy ngay,
Imogen, và chuẩn bị chiến đấu đi. Từ
giờ, mọi mệnh lệnh quanh đây phải là từ
tôi.” Bà cười nghiệt ngã. “Và điều đầu
tiên bà cần làm là thả con trai tôi ra khỏi
cái vòng Malachi chết tiệt kia ra.”

Trông mẹ nói mới tuyệt làm sao, Alec


tự hào nghĩ, một chiến binh Thợ Săn
Bóng Tối thực sự, mỗi lời nói của bà
phừng phừng sự giận dữ chính đáng.

Anh ghét phải phá ngang thời khắc


đẹp này - nhưng họ không chóng thì chầy
sẽ phát hiện ra rằng Jace đã biến mất.
Tốt nhất nên có người khiến họ bớt sốc.

Anh húng hắng. “Thực ra,” cậu nói,


“có điều mà mọi người nên biết...”
18. Bóng tối bủa vây

Clary luôn ghét chơi trò tàu lượn


cao tốc, ghét cảm giác dạ dày rớt thẳng
xuống chân khi con tàu lượn xuống. Cảm
giác bị quắp khỏi xe và lủng lẳng trong
không khí như một con chuột dưới móng
vuốt đại bàng còn tệ hơn gấp mười lần.
Cô hét lên rầm rĩ khi chân rời khỏi xe và
cơ thể bị nhấc bổng lên, nhanh tới khó
tin. Cô hét và vặn vẹo - tới khi cô nhìn
xuống và thấy mình đã ở cao xa mặt
nước ra sao và nhận ra chuyện gì sẽ xảy
đến khi con quỷ biết bay thả cô ra.
Cô dừng bặt. Chiếc xe bán tải trông
như một thứ đồ chơi nho nhỏ phía dưới
kia, đang trôi nổi bất thường trên sóng
nước. Thành phố chao liệng chung quanh
cô, những bức tường ánh đèn lấp lánh
nhạt nhòa. Cảnh sẽ đẹp nếu như cô không
quá sợ hãi. Con quỷ chao cánh hạ xuống,
và đột nhiên thay vì bay lên cô lại rơi
xuống. Cô nghĩ tới cái thứ kia thả cô rơi
xuống từ độ cao hàng trăm mét, chới với
trong không khí tới khi đụng xuống mặt
nước đen lạnh băng. Cô nhắm tịt mắt -
nhưng rơi xuống qua bóng tối mịt mùng
còn đáng sợ hơn nhiều. Cô lại mở mắt và
thấy boong tàu sơn đen từ dưới mình
dâng lên như một bàn tay sắp cướp cả cô
lẫn con quỷ khỏi bầu trời. Cô hét lần thứ
hai khi họ hạ xuống boong tàu - và qua
một màn đen bao quanh mặt tàu. Giờ họ
đã ở trong tàu.

©DTV: http://www.dtv-ebook.com

Sinh vật bay đập cánh chậm lại. Họ


đang rơi qua giữa tàu, bao quanh bởi
hàng bao lơn sắt. Clary thoáng thấy
những máy móc màu đen, hình như không
cái nào hoạt động hết, và có rất nhiều đồ
phụ tùng và dụng cụ sửa chữa vứt lung
tung khắp nơi. Nếu như trước ở đây có
đèn điện thì giờ chúng cũng không hoạt
động, nhưng vẫn có luồng ánh sáng ảm
đạm tỏa lên khắp mọi thứ. Dù trước đó
có nguồn năng lượng gì cung cấp điện
cho con tàu, thì giờ Valentine đã sử dụng
một loại năng lượng khác.

Có thứ gì đó hút hết hơi ấm khỏi


không khí. Những cơn gió lạnh buốt băng
giá phả vào mặt cô khi con quỷ chạm
xuống sàn tàu và chui vào một hành lang
dài, tranh tối tranh sáng. Con quỷ chẳng
để ý nhiều tới cô. Đầu gối cô đập vào
đường ống khi sinh vật quặt vào một góc,
khiến cơn đau chạy dọc chân cô. Cô hét
lên và nghe tiếng nó cười re ré sung
sướng. Sau đó nó thả cô rơi xuống. Chới
với trong không khí, Clary cố sao để hạ
cánh bằng chân và tay. Gần được. Cô
chạm nền nhà cái rầm và lăn người sang
một bên, choáng váng.
Cô đang nằm trên nền kim loại cứng,
trong vùng tranh tối tranh sáng. Chắc
chắn nơi đây từng được sử dụng làm nhà
kho, vì tường láng o không có cửa. Có
một khoảng trống hình vuông phía trên để
ánh sáng chiếu vào. Cả người cô như một
khối bầm tím to tướng.

“Clary?” một giọng thì thào vang lên.


Cô lăn sang bên, nhăn mặt. Một bóng đen
quỳ bên cô. Khi mắt cô điều chỉnh được
với bóng tối, cô thấy một dáng người nho
nhỏ, phổng phao, tóc tết, mắt nâu sậm.
Maia. “Clary, phải cậu không?”

Clary ngồi thẳng dậy, lờ đi cơn đau ê


ẩm nơi lưng. “Maia. Maia, ôi Chúa ơi.”
Cô nhìn cô gái kia đi rồi vội vã nhìn
quanh quất. Trong phòng không còn ai
ngoài hai người bọn họ. “Simon, cậu ấy
đâu? Simon đâu rồi?”

Maia cắn môi. Clary nhận thấy cổ tay


Maia đang chảy máu, mặt cô bé vẫn còn
vết tích của những dòng nước mắt đã
khô. “Clary, mình rất tiếc,” cô nói, lí nhí
khều khào. “Simon chết rồi.”

Ướt nhẹp và gần như đóng băng, Jace


đổ sụp xuống boong tàu, nước nhỏ thành
dòng xuống tóc và quần áo. Anh nhìn lên
bầu trời đêm nhiều mây, thở hổn hển lấy
hơi. Không hề dễ khi leo lên cái thang
sắt rỉ bên thân tàu, đặc biệt khi tay thì
ướt mà quần áo nặng trịch cứ chực kéo
anh xuống.

Jace nghĩ lại, nếu không nhờ có chữ


rune Can Trường, chắc hẳn anh đã lo
rằng một con quỷ bay kia sẽ tóm anh khỏi
thang như chim bắt một con bọ trên
nhánh dây leo vậy. May thay, dường như
chúng đã quay về tàu ngay khi bắt được
Clary. Jace không hiểu vì sao, nhưng anh
đã từ bỏ việc cố tìm hiểu lý do cho bất
cứ hành động nào của bố từ lâu rồi.

Một cái đầu thò ra bên trên anh, bóng


tối ngược trên bầu trời. Chú Luke đã lên
được đầu thang. Chú nhanh nhẹn trèo lên
bao lơn và nhảy sang bên kia. Chú cúi
nhìn Jace. “Cháu ổn không?”

“Ổn ạ.” Jace đứng dậy. Anh đang run.


Trên thuyền quá lạnh, lạnh hơn cả ở dưới
nước - mà áo khoác của anh chẳng còn.
Anh đã đưa cho Clary.

Jace nhìn quanh. “Đâu đó có một cánh


cửa dẫn vào trong tàu. Lần trước cháu đã
thấy nó. Chúng ta chỉ việc đi vòng quanh
boong tàu đến khi tìm thấy.”

Chú Luke dợm bước.

“Cháu đi trước cho,” Jace nói và


bước lên trước. Chú Luke ném cho anh
cái nhìn bối rối, dường như định nói gì
đó, nhưng cuối cùng chỉ bước cạnh Jace
khi đi quanh mũi thuyền cong cong, nơi
Jace đã từng đứng cùng Valentine vào
đêm trước. Anh có thể nghe tiếng sóng
nước vỗ ì oạp vào mạn thuyền, ở xa xa
bên dưới.

“Bố cháu,” chú Luke nói, “ông ta đã


nói gì khi cháu gặp ông ta? Ông ta đã hứa
gì với cháu?”

“Ồ, chú biết rồi đấy. Vẫn mấy điều cũ


rích ấy mà. Vé Knicks trọn đời này.”
Jace nói nhẹ bẫng nhưng ký ức về nó
khiến anh đau hơn cả cơn đau do những
cơn gió lạnh buốt đang quất vào da thịt.
“Ông ấy nói sẽ không để cháu hay những
người cháu yêu thương bị tổn hại, nếu
cháu rời Hội đồng Clave và trở về Idris
với ông ta.”

“Cháu có nghĩ...” chú Luke ngần ngừ.


“Cháu có nghĩ ông ta sẽ làm hại Clary để
trả thù cháu không?”

Họ đi quanh boong và Jace thoáng


thấy bức tượng Nữ Thần Tự Do như một
cột sáng ở đằng xa. “Không. Cháu nghĩ
bố bắt em ấy để bắt chúng ta phải lên
thuyền, để chúng ta phải chịu thiệt khi
mặc cả với bố. Thế thôi.”
“Chú không nghĩ ông ấy mồi trao đổi
đâu.” Chú Luke nói nhỏ khi rút thanh
kindjal. Jace quay lại nhìn theo, và trong
thoáng chốc, anh chỉ có thể nhìn mà thôi.

Có một lỗ hổng màu đen trên boong


về phía tây, một cái lỗ hình vuông như
thể được cắt vào kim loại, và từ đó đang
trào ra một đám mây đen với không biết
bao nhiêu quỷ. Jace nhớ lại lần cuối
đứng nơi đây, với Thanh Kiếm Thánh
trên tay, sợ hãi nhìn quanh khi bầu trời
trên đầu và biển dưới chân biến thành
đại dương ác mộng. Giờ chúng, đám hổ
lốn đủ loại quỷ, đã đứng trước mặt anh:
những con Raum trắng ởn từng tấn công
họ ở nhà chú Luke, những con quỷ Oni
với làn da xanh lá, miệng rộng và có
sừng; những con quỷ Kuri đen đúa èo
uột, những con quỷ nhện tám cái chân
như tám cái gọng kìm, mang những răng
nhễu độc thò ra từ hốc mắt...

Jace không thể đếm hết. Anh lần đến


thanh Camael và kéo ra khỏi thắt lưng,
lưỡi dao trắng lòe sáng trên tàu. Những
con quỷ rít lên khi trông thấy dao, nhưng
chúng không hề lùi lại. Chữ Can Trường
trên vai Jace bắt đầu bỏng cháy. Anh
không biết mình sẽ giết được bao con
quỷ trước khi chữ rune đó biến mất.

“Dừng lại! Dừng lại!” Bàn tay chú


Luke nắm chặt lấy áo Jace, kéo lùi cậu
lại. “Đông quá, Jace ạ. Nếu chúng ta có
thể trở lại thang...”

“Chúng ta không thể.” Jace giằng ra


khỏi nắm tay của chú Luke và chỉ.
“Chúng đã chặn hết đường lui của chúng
ta rồi.”

Đúng thế thật. Một đội quỷ Moloch,


với ngọn lửa cháy rừng rực trong hốc
mắt trống vốc, đã chặn đường lui của họ.
Chú Luke chửi thề, rủa sa sả cay cú.
“Vậy nhảy sang một bên đi. Chú sẽ chặn
chúng lại.”

“Chú nhảy đi,” Jace nói. “Cháu ổn


mà.”
Chú Luke ngẩng đầu. Tai chú nhọn lên
và rồi khi chú gầm ghè với Jace, môi chú
vén lên để lộ những chiếc răng nanh đột
nhiên sắc nhọn. “Cháu...” Chú ngừng lại
khi một con quỷ Moloch nhảy tới, móng
vuốt xòe ra. Jace cắm phập con dao vào
lưng nó khi nó vừa vọt qua, thế rồi nó rít
lên và loạng choạng tiến tới chỗ chú
Luke. Chú Luke tóm lấy bàn tay móng
vuốt của nó và quẳng qua bao lơn. “Cháu
dùng chữ rune Can Trường đó, đúng
không?” chú Luke nói, quay sang nhìn
Jace bằng đôi mắt màu hổ phách rực
sáng trong bóng tối.

Có tiếng tõm văng vẳng đằng xa.


“Chú không sai,” Jace thừa nhận.

“Chúa ơi,” chú Luke kêu lên. “Và


cháu tự vẽ lên người à?”

“Không. Clary vẽ hộ cháu.” Con dao


thiên thần của Jace xé gió bằng ngọn lửa
trắng; hai con quỷ Drevak ngã xuống. Có
hàng tá con khác đang lao tới, xông vào,
với những bàn tay mang móng vuốt nhọn
như đầu mũi kim vươn ra. “Chú biết là
cô ấy vẽ giỏi mà.”

“Đám loai choai mấy người,” chú


Luke cảm thán, như thể đó là từ bẩn thỉu
nhất chú từng biết, thế rồi lao mình vào
bầy quỷ đang xông tới.

“Chết ư?” Clary nhìn Maia như thể cô


nàng vừa nói tiếng Bungary. “Cậu ấy
không thể chết được.”

Maia không nói gì, chỉ nhìn cô bằng


đôi mắt đen u buồn.

“Tớ sẽ biết ngay.” Clary ngồi thẳng


dậy mà áp tay, đã nắm chặt thành nắm
đấm, vào ngực. “Tớ biết ở đây.”

“Tớ cũng đã nghĩ vậy,” Maia nói.


“Từng nghĩ vậy. Nhưng cậu không biết
đâu. Cậu không bao giờ biết đâu.”

Clary loạng choạng đứng dậy. Chiếc


áo khoác của Jace vẫn đeo trên vai, dù
lưng áo rách gần hết. Cô nóng nảy hất nó
rơi xuống sàn. Áo đã hỏng, lưng áo thủng
cả tá những vết móng cào sắc lẹm. Jace
chắc sẽ bực lắm vì mình làm hỏng áo
anh rồi, cô nghĩ. Mình nên mua áo mới
cho anh ấy. Mình nên...

Cô thở dài thườn thượt. Cô có thể


nghe thấy tiếng tim mình, nhưng dường
như nó cũng từ xa vẳng tới. “Cậu ấy
gặp... gặp chuyện gì?”

Maia vẫn quỳ trên bàn. “Valentine bắt


được cả hai bọn tớ,” cô ta nói. “Hắn
xích bọn tớ trong phòng này. Rồi hắn tới
cùng một món vũ khí... một thanh kiếm,
thật là dài và sáng, như thể tự nó phát
sáng được vậy. Hắn ném bột bạc vào
người tớ làm tớ không chống trả được,
rồi hắn... hắn đâm vào cổ họng Simon.”
Giọng cô chỉ còn là tiếng thì thầm. “Hắn
cắt cổ tay cậu ấy rồi hứng máu vào trong
những cái bát. Một vài con quỷ tới giúp
hắn lấy máu. Sau đó hắn bỏ Simon nằm
đấy, như một món đồ chơi đã bị đứt tung
không cần tới nữa. Tớ hét lên - nhưng tớ
biết cậu ấy đã chết. Rồi một con quỷ bắt
tớ lên và lôi tớ xuống dưới này.”

Clary chèn chặt tay lên miệng, ấn


chặt, ấn chặt tới khi cảm nhận tới vị máu
mằn mặn. Vị máu gắt đã giúp cô tỉnh táo
lại. “Chúng ta phải thoát khỏi đây.”

“Không phải chứ, nhưng rõ ràng là


chúng ta phải tìm đường thoát rồi.” Maia
đứng dậy, nhăn mặt. “Nhưng quanh đây
không có lối ra. Kể cả đối với một Thợ
Săn Bóng Tối. Có lẽ nếu cậu là...”

“Nếu tớ là cái gì?” Clary hỏi, bước đi


bước lại trong xà lim. “Jace ư? Ừm, tớ
không phải rồi.” Cô đá bức tường. Nó
vang lại nghe trầm trầm. Cô đút tay vào
túi và rút thanh stele ra. “Nhưng tớ có
khả năng riêng.”
Cô dí đầu mũi stele vào tường và bắt
đầu vẽ. Những đường nét dường như
đang bay ra từ trong cô, những đường vẽ
đen giống than củi, nóng hực như cơn
giận của cô lúc này. Cô đập thanh stele
mải miết lên vách và những đường nét
màu đen phóng ra từ mũi thanh stele cháy
lên như lửa. Khi cô lùi lại, thở dốc, cô
thấy Maia đang kinh ngạc nhìn mình.

“Trời,” cô nàng nói, “cậu đã làm gì


vậy?”

Clary không chắc. Trông như thể cô


đã đổ cả xô a xít lên tường. Phần kim
loại quanh chữ rune đã hóa lỏng và chảy
xuống như kem trong ngày nóng. Cô lùi
lại, cẩn trọng nhìn cái lỗ kích thước bằng
con chó to trên tường. Clary có thể thấy
những thanh giằng thép ở đằng sau, và cả
những bộ phận bên trong con tàu nữa.
Mép cái hố vẫn đang kêu xì xì, nhưng nó
không còn mở rộng thêm nữa. Maia tiến
lên một bước, đẩy tay Clary sang bên.

“Đợi đã.” Clary đột nhiên thấy lo


lắng. “Kim loại tan chảy - nó có thể
giống cặn a xít, hay gì đó.”

Maia khụt khịt mũi. “Tớ là dân New


Jersey. Tớ được sinh ra trong đống cặn
độc hại đấy.” Cô ta tiến về phía cái lỗ và
nhìn qua đó. “Bên kia có một lối đi hẹp
kìa,” cô bảo. “Này... tớ sẽ chui sang đó
đây.” Cô quay lại và thò bàn chân qua
hố, rồi dấn cả hai chân, chầm chậm thụt
lùi. Cô nàng hơi nhăn mặt khi nghiêng
người chui qua, rồi đứng im lại. “Ối! Vai
tớ bị vướng rồi. Đẩy tớ qua nhé?” cô giơ
tay ra.

Clary nắm lấy hai tay cô và đẩy.


Gương mặt Maia chuyển trắng, rồi đỏ -
và đột nhiên cô thoát hẳn, như nắp chai
sâm panh bật khỏi cổ chai. Với một tiếng
ré, cô nàng ngã xuống. Có tiếng rầm và
rồi Clary thò đầu lo lắng nhìn xuống.
“Cậu ổn không?”

Maia đang nằm trên lối đi hẹp bên


dưới vài mét. Cô ta từ từ lăn người và
ngồi dậy, nhăn mặt. “Cổ chân tớ... nhưng
tớ ổn,” cô nói thêm khi nhìn thấy nét mặt
Clary. “Cậu biết đấy, bọn tớ lành cũng
nhanh mà.”

“Tớ biết. Được rồi, tới lượt tớ.”


Thanh stele chọc vào bụng khiến Clary
khó chịu khi chuẩn bị trượt xuống hố theo
Maia. Rơi xuống dưới kia chẳng hay ho
gì cho cam, nhưng còn hơn là ngồi trong
nhà kho đợi bất cứ thứ gì có thể tới với
họ. Cô lăn nằm sấp xuống, cho chân vào
hố...

Rồi có gì đó nắm lấy lưng áo, kéo cô


ngược lên. Thanh stele rơi khỏi thắt lưng
và kêu lanh canh trên sàn nhà. Cô thở
dốc vì đột ngột bị choáng và đau; cổ áo
len thít vào cổ làm cô nghẹt thở. Một lát
sau cô được thả ra. Cô rơi xuống sàn,
đầu gối đập mạnh xuống sàn kim loại. Cô
sặc sụa, lăn nằm ngửa ra mà nhìn lên,
thừa biết mình sẽ thấy gì.

Valentine đang đứng nhìn cô. Một tay


hắn cầm con dao thiên thần, lóe sáng như
một ánh sáng trắng gay gắt. Tay kia, lúc
nãy nắm lấy lưng áo cô, giờ nắm thành
nắm đấm. Gương mặt trắng, góc cạnh
mang nụ cười khinh bỉ. “Luôn luôn là
con gái của mẹ, Clarissa nhỉ,” hắn nói.
“Con đã gây ra gì rồi?”

Clary đau đớn ngồi dậy. Miệng cô


toàn những máu vì môi bị rách. Khi cô
nhìn Valentine, cơn giận đang sôi sục nở
tung như một bông hoa độc trong ngực.
Người đàn ông này, người bố của cô, đã
giết Simon và để cậu ấy chết trên sàn
như rác rưởi. Cô từng nghĩ trước đây
mình ghét một số người trong đời mình;
cô đã nhầm. Đây mới là thù ghét này.

“Cô gái sói,” Valentine nói tiếp, nhíu


mày, “đâu rồi?”

Clary vươn người nhổ máu vào giày


Valentine. Với tiếng thét kinh tởm và
ngạc nhiên, hắn ta lùi lại và giơ con dao
lên, và trong chốc lát, Clary thấy được
sự tức giận không hề được che đậy trong
mắt hắn; cô nghĩ hắn sẽ thực sự ra tay,
thực sự giết chết cô trong khi cô ngồi co
ro dưới chân hắn, vì dám nhổ nước bọt
xuống đôi giày đó.

Từ từ, hắn hạ con dao xuống. Không


nói lấy một lời, hắn đi qua Clary, và nhìn
vào cái lỗ do cô tạo ra. Thật chậm rãi,
cô quay lại, ánh mắt lướt qua sàn nhà
cho đến khi thấy nó. Thấy thanh stele của
mẹ. Cô vươn tay lấy, nín thở...

Valentine đã quay lại, thấy điều cô


đang làm. Với một cú sải chân, hắn băng
ngang phòng. Hắn đá thanh stele ra xa
tầm với của cô; nó xoay tròn trên nền
kim loại và rơi qua cái hố trên tường. Cô
nhắm hờ mắt, cảm thấy mất thanh stele
giống như một lần nữa mất mẹ.

“Những con quỷ sẽ tìm ra cô bạn


thuộc Thế Giới Ngầm của con,”
Valentine nói, vẫn bằng cái giọng lạnh
lùng, vô cảm trong khi nhét con dao thiên
thần vào vỏ nơi thắt lưng. “Con bé không
còn đường trốn đâu. Tất cả bọn con đều
không thể trốn khỏi nơi này. Giờ đứng
dậy đi, Clarissa.”

Clary chậm chạp đứng dậy. Toàn bộ


cơ thể cô đau nhừ vì bị bầm dập từ nãy
tới giờ. Một lát sau cô nín thở vì ngạc
nhiên khi Valentine trấn trụ lấy vai cô,
quay người cô lại để cô quay lưng vào
hắn. Hắn huýt sáo; một âm thanh cao, sắc
và chói cả tai. Không khí trên đầu rung
rung và cô nghe tiếng đập cánh của
những đôi cánh da, nghe thật ghê sợ. Hét
lên khe khẽ, cô cố thoát ra, nhưng
Valentine quá khỏe. Đôi cánh ôm trọn lấy
hai người và sau đó họ cùng nhau bay
lên, Valentine vẫn ôm cô trong tay, như
thể hắn thực sự là bố vậy.

Jace nghĩ mình và chú Luke đáng ra


phải chết rồi. Anh không hiểu vì sao họ
vẫn còn đứng nơi đây. Boong thuyền trơn
trượt những máu. Người anh bẩn thỉu.
Ngay cả tóc cũng rũ xuống và bết bát
máu khô, mắt cay xè vì máu và mồ hôi.
Có một vết cắt sâu ở cánh tay phải, và
giờ anh chẳng có thời gian để vẽ thêm
chữ Rune Trị Thương vào da nữa. Mỗi
lần giơ tay là anh thấy cơn đau chạy dọc
nửa thân.

Họ đã lùi được tới hốc của bức tường


kim loại, từ trong chỗ trú đánh trả những
con quỷ đang lao tới. Jace đã dùng cả
hai lưỡi chakhram, hiện đang sử dụng
con dao thiên thần cuối cùng và con dao
găm lấy từ chỗ Isabelle. Chẳng nhiều
nhặn gì - anh sẽ không bao giờ ra ngoài
đấm đá với vài con quỷ trong khi có vỏn
vẹn vài thứ vũ khí thế này, vậy mà giờ
anh dùng chúng để chống lại cả một đoàn
quân. Anh biết mình nên sợ, nhưng anh
hầu như chẳng cảm thấy gì hết - chỉ thấy
kinh tởm với lũ quỷ, những sinh vật
không thuộc về thế giới này, và phẫn nộ
với Valentine, kẻ đã triệu chúng tới đây.
Anh láng máng nhận thức ra rằng không
biết sợ không hoàn toàn là điều tốt. Anh
thậm chí chẳng biết sợ việc tay mình
đang mất máu nhiều tới thế nào.

Một con quỷ nhện đang bò về chỗ


Jace, kêu rin rít và phun phì phì thứ chất
độc vàng khè. Anh lùi tránh, nhưng
không đủ nhanh nên một chút độc vẩy lên
áo sơ mi. Chất độc rít lên xèo xèo khi ăn
qua lớp vải; Jace thấy nhói đau khi chất
độc ấy đốt bỏng da anh như cả tá mũi
kim nhỏ xíu nóng cực độ.
Con quỷ nhện kêu lách cách hài lòng,
và tiếp tục nhổ độc. Jace thụp xuống né,
thế là chất độc nhắm trúng con quỷ Oni
đang tiến tới từ bên kia; con quỷ Oni
giận dữ gầm ghè rồi lao vào con quỷ
nhện, móng vuốt giương hết cả ra. Hai
con chộp lấy nhau quần thảo, lăn lộn trên
boong tàu.

Những con quỷ chung quanh tránh xa


chất độc, và như vậy, độc quỷ đã tạo ra
một hàng rào chắn giữa lũ quỷ và Thợ
Săn Bóng Tối. Jace tranh thủ giây phút
xả hơi đó để quay sang nhìn chú Luke
đang đứng bên cạnh. Giờ khó ai nhận ra
sinh vật bên cạnh kia là chú Luke. Tai
chú dựng lên nhọn như tai sói; môi cong
lên gầm ghè liên hồi, đôi bàn tay đầy
móng vuốt đen lại vì máu quỷ.

“Chúng ta phải tới chỗ bao lơn.”


Giọng chú Luke nghe hơi giống tiếng thú.
“Thoát khỏi tàu. Chúng ta không thể giết
hết bọn chúng được. Có lẽ Magnus...”

“Chúng ta chiến đấu cũng đâu tệ lắm.”


Jace xoay con dao thiên thần trong tay -
không hay chút nào; tay anh nhớp nháp
máu và con dao suýt trượt đi mất.
“Chúng ta vẫn lo liệu ổn mà.”

Chú Luke khò khè nghe vừa giống


tiếng gầm vừa giống tiếng cười, hoặc là
cả hai cái kết hợp lại. Thế rồi có gì đó
khổng lồ, không xác định được hình
dạng, từ trên trời rơi xuống, đánh ngã cả
hai xuống đất.

Jace ngã mạnh, con dao thiên thần bay


khỏi tay. Nó rơi lanh canh trên nền kim
loại, rồi trượt về phía ngoài rìa tàu, biến
đâu mất hút. Jace chửi thề và loạng
choạng đứng dậy.

Cái thứ đậu trên người họ là quỷ Oni.


Nó to không bình thường kể cả so với
đồng loại - đấy là chưa kể tới trí thông
minh bất thường khi nó nghĩ tới việc trèo
lên nóc và nhảy đè xuống cả hai người
bọn họ. Giờ nó đang ngồi trên người chú
Luke, xả từng nhát xuống người chú bằng
những cái ngà sắc lẹm trên trán. Chú
Luke chống cự hết mức có thể bằng móng
vuốt, nhưng máu chú cũng đã chảy thành
vũng; thanh kindjal đang nằm cách chú
cả mét. Chú Luke tóm lấy dao khi con
quỷ Oni nắm lấy chân chú trong bàn tay
như cái thuổng, vặn chân chú như vặn
cành cây. Jace nghe có tiếng xương gãy
ngọt lịm cùng với tiếng hét kinh hãi của
chú Luke.

Jace lao về phía thanh kindjal, nắm


lấy nó, và lộn người ngồi dậy, đâm ngọt
dao vào gáy quỷ Oni. Con dao chém đứt
cổ sinh vật, làm đầu nó lăn lông lốc, máu
đen túa ra từ cái cổ bị cắt ngọt. Một giây
sau con quỷ biến mất. Thanh kindjal rơi
xuống cạnh chú Luke.

Jace chạy tới quỳ bên chú. “Chân


chú...”

“Gãy rồi.” Chú Luke cố ngồi lên. Mặt


chú nhăn nhó vì đau.

“Nhưng chú lành nhanh mà.”

Chú Luke nhìn quanh, nét mặt ảm


đạm. Quỷ Oni có thể đã chết, nhưng
những con quỷ khác đã học được đôi
chút từ kẻ xấu số kia. Chúng đồng loạt
leo lên mái nhà. Dưới ánh trăng mờ mờ
ảo ảo này, Jace không biết có bao nhiêu
con nữa - vài tá chăng? Hay vài trăm?
Số má không quan trọng nữa rồi.

Chú Luke nắm lấy thanh kindjal.


“Không đủ nhanh.”

Jace rút con dao của Isabelle ra khỏi


thắt lưng. Đó là thứ vũ khí cuối cùng và
nó đột nhiên nhỏ bé tới đáng thương.
Trong anh đột nhói lên một thứ cảm xúc -
không phải sợ, tới giờ cậu vẫn chưa biết
sợ, mà là buồn. Anh thấy Alec và
Isabelle như thể họ đang đứng ngay
trước mặt, cười với anh, và rồi anh thấy
Clary đang giang tay như thể chào đón
anh trở về.
Anh đứng dậy ngay khi những con quỷ
từ nóc cabin lao xuống như vũ bão, như
một cơn thủy triều màu đen che khuất mặt
trăng. Jace cố che chắn cho chú Luke,
nhưng vô dụng; bọn quỷ ở khắp nơi. Một
con lao trực diện tới. Nó là một bộ
xương cao một mét tám, ngoác cái miệng
đầy những chiếc răng gãy vụn mà cười
nhăn nhở. Mấy mảnh vụn vải từ những lá
cờ sáng màu của dân Tây Tạng mắc
quanh khung xương thối rữa. Nó cầm
thanh katana trong bàn tay xương,
chuyện này kỳ thật - vì bình thường quỷ
không dùng vũ khí. Thanh kiếm, được
khắc những chữ rune quỷ, dài hơn tay
Jace, cong, sắc lẹm và nguy hiểm chết
người.
Jace phi dao. Dao cắm trúng lồng
ngực xương của con quỷ và kẹt ở đó.
Con quỷ còn chẳng buồn để ý; nó cứ đi
tiếp, lầm lũi tiến đến như cái chết. Không
khí xung quanh nó bốc mùi chết chóc và
nghĩa địa. Nó giơ thanh katana bằng bàn
tay đầy móng vuốt...

Một bóng xám xen ngang, che chắn


trước mặt Jace, bằng động tác uyển
chuyển, chính xác nhưng nguy hiểm chết
người. Thanh katana chém trúng một vũ
khí khác kêu rin rít; bóng người kia phi
trả thanh katana về phía con quỷ, tay kia
đâm ngược lên trên với một sự uyển
chuyển nhanh nhẹn tới mắt Jace cũng khó
lòng theo kịp. Con quỷ ngã xuống, đầu
vỡ tan trước khi tan biến vào hư vô. Anh
nghe thấy tiếng lũ quỷ chung quanh gầm
thét vì đau đớn và bất ngờ. Quay người
nhìn, anh thấy rất nhiều bóng - bóng
người - đang bò qua lan can, nhảy xuống
boong và lao về phía đám quỷ đang bò,
đang trườn, đang rít, đang bay kia. Họ
mang theo những lưỡi kiếm ánh sáng và
mặc bộ đồ đen, dày chắc của...

“Thợ Săn Bóng Tối?” Jace nói, giật


mình vì mình nói quá lớn.

“Không thì còn ai nữa?” Một nụ cười


sáng lên trong bóng tối.

“Chú Malik? Phải chú không?”


Malik cúi đầu. “Xin lỗi vì chuyện lúc
nãy nhé,” ông ta nói. “Chú phải nghe
theo mệnh lệnh cấp trên mà.”

Jace đang định nói với Malik rằng


việc chú vừa mới cứu mạng anh đã bù
đắp lại nhiều lần hơn việc chú ngăn cậu
rời khỏi Học Viện, thì một nhóm quỷ
Raum nhào tới, những xúc tu múa máy
trong không khí. Malik quay người và hét
lên rồi lao tới, con dao thiên thần lấp
lánh ánh sao. Jace định chạy theo thì một
bàn tay tóm lấy anh mà kéo lại.

Là một Thợ Săn Bóng Tối khác, mặc


toàn đồ đen, chiếc mũ trùm che giấu
khuôn mặt bên dưới. “Đi cùng tôi.”

Bàn tay nắm chắc lấy cổ tay áo Jace.

“Tôi cần tới chỗ chú Luke. Chú ấy đã


bị thương.” Anh giật tay lại. “Thả tôi
ra.”

“Ồ, vì Thiên Thần chứ...” Người kia


thả cậu ra rồi kéo chiếc mũ trùm xuống,
để lộ khuôn mặt trắng và đôi mắt xám
sáng như kim cương. “Giờ cậu sẽ làm
theo điều cậu được bảo chứ, Jonathan?”

Là Điều Tra Viên.


Dù bay vèo vèo trong không khí,
Clary vẫn sẽ đá Valentine nếu có thể.
Nhưng hắn ta giữ cô bằng vòng tay như
gọng kiềm. Chân cô đá lung tung, nhưng
dù cố tới mấy, cô vẫn không thể chạm
nổi tới gì khác.

Khi con quỷ đột nhiên nghiêng người


bay vòng quanh, cô ré lên. Valentine phá
ra cười. Sau đó họ chui qua một đường
hầm kim loại hẹp đi vào một căn phòng
lớn hơn, rộng hơn. Thay vì thô lỗ thả
phịch họ xuống, con quỷ bay đặt họ nhẹ
nhàng xuống đất.

Clary càng ngạc nhiên hơn Valentine


thả cô ra. Cô vội tránh ra và lao ra giữa
phòng, hoảng loạn nhìn quanh. Nơi đây
khá rộng, có lẽ giống phòng máy. Những
máy móc vẫn nằm dọc tường, bị đẩy gọn
lại để tạo một không gian vuông vức
rộng rãi ở giữa. Sàn nhà bằng kim loại
đen dày, đôi chỗ dính những vết bẩn sậm
màu hơn. Ở giữa đó là bốn cái chậu lớn,
đủ lớn để tắm cho một con chó. Hai chậu
đầu đựng thứ chất lỏng màu nâu gỉ sậm.
Chậu thứ ba đầy ắp chất lỏng đỏ sậm.
Chậu thứ tư không đựng gì.

Đằng sau những cái chậu đó là một


cái tủ sắt. Một tấm vải màu sậm phủ lên
trên. Khi cô tới gần hơn, cô thấy trên đó
là một thanh kiếm bạc tỏa thứ ánh sáng
đen đen, không hề rực rỡ chút nào: bóng
tối chói lòa, hiển hiện.

Clary quay lại nhìn Valentine, người


đang im lặng quan sát cô. “Sao ông có
thể làm vậy?” cô hỏi. “Sao ông có thể
giết Simon chứ? Cậu ấy chỉ là một... cậu
ấy chỉ là một cậu bé, chỉ là một con
người bình thường...”

“Nó không còn là người nữa rồi,”


Valentine nói bằng cái giọng mềm mượt
như lụa của mình. “Nó đã trở thành một
con quái vật. Chỉ là con không nhìn ra
thôi, Clarissa, vì nó mang gương mặt của
bạn con.”

“Cậu ấy không phải là quái vật.” Cô


tiến thêm chút nữa tới Thanh Kiếm. Nó
trông có vẻ lớn và nặng. Cô không biết
mình có nhấc nổi không - và cứ cho là có
đi, cô có vung nổi không? “Cậu ấy vẫn là
Simon.”

“Đừng nghĩ bố không nghĩ cho hoàn


cảnh của con,” Valentine nói. Hắn đứng
im giữa một tia sáng duy nhất chiếu
xuống từ cửa sập trên nóc. “Ta cũng có
cảm giác y như con, hồi Lucian bị cắn.”

“Chú ấy đã kể cho tôi,” cô quát. “Ông


đã đưa dao để chú ấy tự kết liễu đời
mình.”

“Đó là sai lầm của ta,” Valentine nói.


“Ít nhất ông cũng dám thừa nhận...”

“Đáng ra ta phải tự tay giết anh ấy.


Thế mới thể hiện lòng quan tâm của ta.”

Clary lắc đầu. “Nhưng ông không giết.


Ông chưa bao giờ quan tâm tới một ai.
Kể cả mẹ. Kể cả Jace. Họ chỉ là những
đồ vật thuộc về ông mà thôi.”

“Nhưng bản chất của tình yêu không


phải vậy sao, Clarissa? Tính sở hữu?
‘Tôi thuộc về lương nhân tôi, Và lương
nhân tôi thuộc về tôi’, như Nhã Ca đã
tụng[1].”
[1] Sách Nhã Ca được viết trong những năm
đầu trị vì của vua Salômôn. Bối cảnh là cung vua
tại Giêrusalem và những vùng lân cận trên đường
đến nhà lương nhân (người yêu). Nhã ca là những
bài thơ đặc biệt để diễn tả về tình yêu trai gái và
vợ chồng. Có rất nhiều cách để giải nghĩa những
câu truyện trong Nhã ca, nhưng ý nghĩa quan
trọng là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho con
dân Ngài, hay là tình yêu của Đức Chúa dành cho
Hội thánh. Câu Valentine trích là câu thứ 3 trong
khúc Nhã ca 6, nhằm khen ngợi vẻ đẹp của người
yêu.

“Không. Đừng trích dẫn Kinh Thánh


với tôi. Tôi không nghĩ ông hiểu nó.” Cô
đang đứng rất gần cái tủ, chuôi Kiếm
ngay trong tầm với. Những ngón tay cô
ướt rượt mồ hôi và cô len lén chùi vào
quần. “Không phải chỉ đơn giản là ai đó
thuộc về ông mà là ông phải trao bản
thân mình cho người ta. Tôi không nghĩ
ông dám trao bất cứ thứ gì cho bất cứ ai.
Trừ những cơn ác mộng.”

“Trao bản thân cho ai đó?” Nụ cười


mỏng trên môi không thay đổi. “Như con
đã dâng hiến mình cho Jonathan?”

Tay cô, đang giơ về Thanh Kiếm, giờ


nắm lại thành nắm đấm. Cô ôm tay trước
ngực, nhìn hắn ta thất kinh. “Cái gì?”

“Con nghĩ ta không thấy cái cách hai


con nhìn nhau sao? Cái cách thằng bé gọi
tên con ấy? Con có thể nghĩ ta không có
cảm xúc, nhưng không có nghĩa ta không
nhận ra cảm xúc của người khác.” Giọng
điệu Valentine vẫn bình tĩnh, mỗi từ như
một mảnh băng đâm vào tai cô. “Ta nghĩ
chúng ta đành đổ lỗi cho chính mình thôi,
cả ta và mẹ con; vì đã để hai con sống xa
nhau quá lâu, nên các con không bao giờ
phát triển ra thứ tình cảm chống phá nhau
vốn dĩ rất tự nhiên giữa anh chị em ruột.”

“Tôi không hiểu ý ông.” Răng Clary


va lập cập.

“Ta nghĩ mình đã nói đủ để con hiểu.”


Hắn đã tránh khỏi vùng sáng. Mặt hắn ẩn
trong bóng tối. “Con biết rằng ta đã thấy
Jonathan sau khi thằng bé đối diện với
con quỷ của nỗi sợ hãi. Nó đã hiện ra
trước mặt Jonathan trong hình dáng của
con. Thế là ta đã hiểu rồi. Nỗi sợ lớn
nhất trong đời Jonathan là tình yêu dành
cho người em gái.”

“Tôi không làm theo điều được bảo,”


Jace nói. “Nhưng có thể tôi sẽ làm theo
điều bà muốn nếu như bà tử tế yêu cầu.”

Điều Tra Viên có vẻ như muốn đảo


mắt nhưng lại quên mất cách. “Ta cần nói
chuyện với cậu.”

Jace nhìn Điều Tra Viên. “Ngay giờ


sao?”

Bà ta đặt tay lên tay cậu. “Ngay bây


giờ.”

“Bà điên rồi.” Jace nhìn suốt chiều


dài con tàu. Quang cảnh trông như một
bức họa về địa ngục của Bosch. Trong
bóng tối đầy những con quỷ: đang chồng
chất lên nhau, gào thét, rú rít, giương
nanh múa vuốt. Các Nephilim cứ lao lên
tới tấp, vũ khí sáng choang trong bóng
tối. Jace đã nhận ra không có đủ Thợ Săn
Bóng Tối rồi. Gần đủ cũng không phải.
“Không thể nào... chúng ta đang giữa trận
chiến...”

Bàn tay xương xẩu của Điều Tra Viên


nắm chắc kinh khủng. “Ngay bây giờ.”
Bà ta đẩy anh, anh lùi lại, quá ngạc nhiên
không thể làm gì khác, rồi lùi thêm một
bước nữa, tới khi họ đứng trong hốc
tường. Bà ta thả Jace và cho tay vào
trong áo choàng đen, rút ra hai con dao
thiên thần. Bà ta thì thầm đặt tên cho
chúng, và rồi vài từ khác mà Jace không
biết, và phi xuống boong tàu, cắm hai
bên người cậu. Chúng cắm phập mũi
xuống, và một vùng sáng xanh vọt lên,
bao quanh Jace và Điều Tra Viên khỏi
những kẻ khác trên tàu.

“Bà lại nhốt tôi sao?” Jace hỏi, nhìn


chằm chằm vào Điều Tra Viên với vẻ
không tin nổi.

“Đây không phải Vòng Malachi. Cậu


có thể ra ngoài nếu muốn.” Bàn tay gầy
gò của bà ta đan chặt vào nhau.
“Jonathan...”

“Bà muốn nói Jace.” Anh không thể


nhìn trận chiến qua tấm màn ánh sáng
trắng, nhưng vẫn nghe thấy những âm
thanh, những tiếng gào thét, rú rít của lũ
quỷ. Nếu quay đầu, anh có thể thoáng
thấy một phần biển lấp lánh sáng như bột
kim cương rắc lên mặt gương. Có khoảng
một tá thuyền trên đó, những con thuyền
ba thân đẹp đẽ được sử dụng trên những
hồ nước tại Idris. Những chiếc thuyền
của Thợ Săn Bóng Tối. “Điều Tra Viên,
bà làm gì ở đây? Vì sao bà lại tới?”
“Cậu nói đúng,” bà ta nói. “Về
Valentine. Hắn không chịu trao đổi.”

“Ông ta bảo bà cứ cho tôi chết đi.”


Jace đột nhiên thấy choáng váng.

“Tất nhiên, ngay khi hắn từ chối, ta đã


triệu tập Conclave và đưa họ tới đây.
Ta... ta nợ cậu và gia đình cậu một lời
xin lỗi.”

“Đã ghi nhận,” Jace nói. Anh ghét


nghe mấy lời xin lỗi. “Alec và Isabelle
đâu? Họ có ở đây không? Họ không bị
trừng trị vì giúp tôi đấy chứ?”
“Họ có ở đây, và tất nhiên, không bị
trừng phạt gì hết.” Bà vẫn nhìn cậu bằng
ánh mắt thăm dò. “Tôi không hiểu nổi
Valentine,” bà ta nói. “Vì sao một người
bố lại đang tâm vứt bỏ mạng sống của
con mình, đứa con trai duy nhất...”

“Đúng,” Jace nói. Đầu anh đau và anh


ước gì bà ta ngậm miệng lại, hoặc là có
một con quỷ nào sẽ tấn công họ. “Đấy là
một câu hỏi lớn không lời đáp, tôi hiểu.”

“Trừ khi...”

Giờ thì anh ngạc nhiên nhìn bà ta.


“Trừ gì?”
Bà ta chọc ngón tay vào vai cậu. “Cậu
có cái này từ khi nào?”

Jace nhìn xuống và thấy chất độc của


quỷ nhện ăn một cái lỗ trên áo, để lộ hẳn
phần vai trái. “Cái áo này á? Ở cửa hiệu
Macy. Giảm giá nhân mùa đông.”

“Vết sẹo cơ. Vết sẹo ngay trên vai cậu


ấy?”

“À cái đó à.” Jace ngạc nhiên khi thấy


cảm xúc mãnh liệt trong ánh mắt bà ta.
“Tôi không nhớ rõ. Bố tôi bảo có chuyện
xảy ra từ hồi tôi còn bé tí. Hình như gặp
tai nạn gì đó thì phải. Thế thì sao?”
Điều Tra Viên rít lên. “Không thể
nào,” bà ta lầm bầm. “Cháu không thể
là...”

“Tôi không thể là gì nào?”

Giọng nói của Điều Tra Viên có vẻ


không chắc lắm. “Suốt bao nhiêu năm
qua,” bà ta nói, “khi cậu lớn lên... cậu
thực sự nghĩ mình là con trai Michael
Wayland...?”

Cơn giận bùng lên trong Jace, khiến


mọi nỗi đau do thất vọng dâng lên theo.
“Thề có Thiên Thần,” anh lớn giọng, “bà
lôi tôi ra đây giữa trận chiến chỉ để hỏi
tôi cùng câu hỏi ngớ ngẩn đó sao? Bà
không tin tôi ngay từ đầu và giờ bà vẫn
không tin tôi. Bà sẽ không bao giờ tin tôi,
dù cho mọi việc đã xảy ra, kể cả mọi
điều tôi nói với bà đều là sự thật.” Anh
chỉ tay qua tấm màn về khung cảnh những
gì đang diễn ra bên kia bức tường ánh
sáng. “Tôi nên ở ngoài kia chiến đấu. Vì
sao bà giữ tôi ở trong này? Để sau khi tất
cả mọi chuyện qua đi, nếu còn ai trong
chúng ta sống sót, bà có thể tới Hội đồng
Clave và nói với họ tôi không đứng về
phía bà chống lại bố tôi chứ gì? Hay
lắm.”
Bà ta trắng bệch hơn cả bình thường.
“Jonathan, đó không phải điều ta...”

“Tên tôi là Jace!” anh hét lên. Điều


Tra Viên giật mình, miệng há ra như định
nói gì đó. Jace không nghe. Anh phăm
phăm đi vượt qua, xém chút xô ngã bà ta,
co chân đá bay một con dao thiên thần
găm trên boong. Nó hơi lung lay và bức
tường ánh sáng biến mất.

Bên ngoài là một chảo lửa. Những


bóng đen lao đi lao lại trên boong tàu,
những con quỷ leo lên trên những xác
chết co quắp, và không khí tràn ngập mùi
khói và âm âm tiếng hét. Anh căng mắt
tìm xem có ai mình quen trong trận hỗn
chiến này không. Alec đâu rồi? Còn
Isabelle đâu?

“Jace!” Điều Tra Viên vội vã đuổi


theo, mặt nhăn lại vì sợ. “Jace, cậu
không có vũ khí, ít nhất hãy cầm lấy...”

Bà ta ngừng lời khi một con quỷ nhảy


ra khỏi bóng tối trước Jace như một tảng
bay nảy lên boong tàu. Nó không phải
con quỷ anh từng thấy; con này mặt nhăn
nheo và tay lanh lợi như tay khỉ, nhưng
có đuôi ngạnh dài của bọ cạp. Mắt nó
tròn và màu vàng. Nó rít lên với anh qua
những cái răng nham nhở sắc nhọn như
kim. Trước khi Jace kịp cúi xuống né, nó
phóng đuôi tới nhanh như một con rắn hổ
mang vồ mồi. Anh thấy mũi kim phóng
thẳng vào mặt mình...

Và lần thứ hai trong đêm, một bóng


đen đã chen ngang giữa anh và tử thần.
Điều Tra Viên rút con dao lưỡi dài, xông
lên chắn trước mặt anh, vừa đúng lúc
nọc độc bọ cạp cắm vào ngực bà.

Bà ta hét lên, nhưng đứng nguyên tại


chỗ. Cái đuôi quỷ giật lại, sẵn sàng cho
cú phóng độc thứ hai... Nhưng con dao
của Điều Tra Viên đang nắm trên tay đã
bay thẳng và găm trúng đích. Những chữ
rune khắc trên lưỡi dao sáng lên khi nó
chém ngọt qua cổ họng con quỷ. Với một
tiếng rít như tiếng không khí xì khỏi quả
bóng bị châm kim, con quỷ teo tóp lại,
cái đuôi giật giật trước khi biến mất.

Điều Tra Viên đổ sập xuống sàn. Jace


quỳ xuống bên cạnh và đặt tay vào vai bà
ta, lật bà ta ngửa ra. Máu đang loang
khắp ngực áo màu xám. Khuôn mặt bà ta
chùng xuống và vàng ệch, trong thoáng
chốc Jace nghĩ bà đã chết.

“Điều Tra Viên?” Anh không thể gọi


tên bà ta, ngay cả trong giây phút này.

Mắt bà ta vụt mở. Lòng trắng mắt đã


đục ngầu. Với chút hơi tàn, bà ta ra hiệu
cho anh về phía mình. Anh cúi thấp hơn,
đủ thấp để lắng nghe lời thì thầm vào tai
mình, tiếng thì thầm lẫn trong cơn hấp
hối...

“Sao cơ?” Jace bối rối. “Thế là sao?”

Không có câu trả lời. Điều Tra Viên


đã sụp người xuống, mắt mở rộng nhìn
chằm chằm, miệng cong lên, khá giống
một nụ cười.

Jace ngồi trên gót giày, tê dại trân


trối. Bà ấy đã chết. Chết vì anh.

Có gì đó kéo lưng áo anh bắt anh


đứng dậy. Anh đặt tay vào thắt lưng... và
nhận ra mình không còn một thứ vũ khí
nào... và quay lại nhìn thấy một đôi mắt
xanh quen thuộc đang nhìn mình với vẻ
không thể nào tin vào mắt mình được.

“Cậu còn sống,” Alec nói - ba từ cụt


lủn, nhưng trong đó chan chứa biết bao
nhiêu cung bậc cảm xúc. Trên nét mặt
cậu bạn chất chứa nhẹ nhõm, cũng như
kiệt sức. Dù không khí lạnh cóng, nhưng
mái tóc đen vẫn bết vào má và trán Alec.
Quần áo và da Alec lốm đốm máu, trên
tay áo giáp khoác có một vết rạch chạy
dài, như thể có gì đó nham nhở và sắc
lẹm đã xé toạc nó ra. Một tay Alec cầm
thanh guisarme đẫm máu còn tay kia
đang nắm lấy cổ áo Jace.
“Có vẻ vậy,” Jace thừa nhận. “Nhưng
tớ cũng chẳng còn sống được lâu nếu như
cậu không đưa vũ khí cho tớ.”

Vội liếc nhìn quanh, Alec thả Jace ra,


lấy một con dao thiên thần nơi thắt lưng
trao cho Jace. “Đây,” anh nói. “Nó tên là
Samandiriel nhé.”

Jace vừa mới cầm được con dao thì


một con quỷ Drevak cỡ trung bình lao
tới, kêu gào một cách độc ác. Jace giơ
thanh Samadiriel, nhưng Alec đã kịp
dùng thanh guisarme đâm nó chết tươi.
“Vũ khí tốt đấy,” Jace nói, nhưng
Alec đang nhìn qua anh, về phía con
người xám xịt nằm trên sàn tàu.

“Có phải Điều Tra Viên đấy không?


Bà ấy...?”

“Bà ấy chết rồi,” Jace nói.

Quai hàm Alec bạnh ra. “Mừng ghê.


Sao bà ta lại chết?”

Jace định trả lời thì bị xen ngang bởi


tiếng la toáng. “Alec! Jace!” Là Isabelle,
đang hớt hải chạy lại qua màn khói và
giữa những mùi tanh tưởi đang bốc lên.
Cô nàng mặc áo khoác bó sát đen, dính
máu vàng ệch. Những sợi xích vàng treo
những bùa chú vẽ chữ rune đeo quanh cổ
tay và cổ chân, và chiếc roi đeo quanh
người như mạng dây điện.

Cô dang tay ra. “Jace, bọn em cứ


tưởng...”

“Không.” Có gì đó khiến Jace lùi lại,


tránh khỏi cú chạm kia. “Người anh dính
toàn máu thôi, Isabelle. Đừng.”

Cô biểu lộ vẻ mặt bị tổn thương.


“Nhưng cả nhà đang tìm anh... Bố mẹ,
họ...”
“Isabelle!” Jace hét, nhưng đã quá
muộn: một con quỷ nhện to tướng đang
lao lên từ đằng sau, phì chất độc vàng
khè qua những chiếc răng nanh. Isabelle
hét lên khi độc bắn trúng người, nhưng
cái roi đã vung lên với tốc độ không thể
nhìn thấy bằng mắt thường, chẻ đôi con
quỷ. Nó rơi xuống đất thành hai mảnh,
sau đó biến mất.

Jace chạy vội tới chỗ Isabelle cùng


lúc với khi cô em đổ người về trước.
Sợi roi tuột khỏi tay khi anh đỡ kịp, lóng
ngóng ôm cô trong lòng. Anh có thể thấy
chất độc đã làm gì cô em: độc bám chủ
yếu vào áo khoác, nhưng một ít đã té lên
cổ cô bé, và chỗ nào dính độc, da chỗ đó
bị cháy xèo xèo. Cô rên rỉ, chẳng nghe
thành tiếng - một Isabelle, người chưa
bao giờ để người khác thấy mình đau.

“Đưa con bé cho tớ.” Alec thả rơi vũ


khí khi vội vàng tới giúp cô em gái. Anh
đỡ lấy Isabelle từ vòng tay Jace và nhẹ
nhàng đặt em xuống sàn. Quỳ xuống bên
cạnh, thanh stele chắc trong tay, anh nhìn
Jace. “Ngăn chặn bất cứ thứ gì xông tới
trong khi tớ chữa trị cho con bé.”

Jace không thể rời mắt khỏi Isabelle.


Máu chảy từ cổ xuống áo khoác, thấm
ướt tóc cô bé. “Chúng ta phải đưa con bé
rời tàu,” anh khàn khàn nói. “Nếu còn ở
đây...”
“Con bé sẽ chết ư?” Alec nhẹ nhàng
di chuyển thanh stele trên cổ cô em gái.
“Chúng ta rồi cũng sẽ chết. Có quá nhiều
quỷ. Chúng ta sẽ bị giết sạch. Điều Tra
Viên đáng phải chết vì chuyện này... tất
cả đều là lỗi của bà ta.”

“Con quỷ Bọ Cạp định giết mình,”


Jace nói, không hiểu vì lý gì mình lại nói
ra, vì lý gì mình lại đi bảo vệ cho người
mình ghét. “Điều Tra Viên đã chắn ngang
đường nó. Bà ấy đã cứu mạng tớ.”

“Thật sao?” Alec rõ ràng bị kinh


ngạc. “Vì sao?”
“Tớ nghĩ bà ta quyết định tớ xứng
đáng được cứu.”

“Nhưng bà ấy luôn...” Alec ngừng lại,


biểu hiện chuyển thành kinh hãi. “Jace,
đằng sau cậu... hai con...”

Jace quay phắt lại. Hai con quỷ đang


tiến tới: một con Ravener, với cơ thể như
cá sấu và hàm răng lổn nhổn, cái đuôi bọ
cạp cong từ sau ra trước, cùng một con
Drevak, với nước da trắng ởn như giòi
dưới ánh trăng. Jace nghe tiếng Alec
đằng sau, nghe thấy hơi thở sợ hãi và
nghẹn lại; sau đó thanh Samadiriel rời
tay anh, đi một đường màu bạc sáng
loáng trong không khí. Nó cắt đứt cái
đuôi của quỷ Ravener, ngay dưới túi độc
của con quỷ.

Con Ravener rú lên. Con Drevak bối


rối quay lại - và hứng trọn túi độc vào
mặt. Túi độc vỡ ra, con Drevak đẫm
mình trong độc. Nó chỉ kịp kêu ặc lên
một tiếng trước khi nằm co quắp xuống,
cái đầu bị ăn mòn tới tận xương. Máu và
chất độc lênh láng trên sàn trong khi quỷ
Drevak biến mất. Con Ravener, máu
chảy ào ạt từ đuôi, lê mình thêm được
vài bước rồi cũng tan biến.

Jace cúi xuống thận trọng nhặt con


dao Samandiriel lên. Sàn kim loại vẫn
kêu xèo xèo ở nơi dính độc Ravener, tạo
nên những lỗ nhỏ li ti như lỗ trên mảnh
vải thưa.

“Jace.” Alec đã đứng dậy, đỡ lấy


Isabelle, lúc này mặt vẫn trắng bệch.
“Chúng ta cần đưa Isabelle ra khỏi đây.”

“Đồng ý,” Jace nói. “Cậu đưa con


nhỏ tránh khỏi đây. Tớ sẽ giải quyết nó.”

“Nó nào?” Alec bối rối hỏi lại.

“Nó đó,” Jace nói và chỉ. Có gì đó


đang tiến tới chỗ họ qua màn khói lửa,
một thứ gì đó to lớn, hơi gù, và khổng lồ.
Dễ phải to gấp năm lần những con quỷ
khác trên tàu, với thân hình rắn chắc,
nhiều đốt, mỗi chân phụ đều kết thúc
bằng những móng vuốt cứng. Chân nó
giống chân voi, lớn và to bè. Nó có cái
đầu của một con muỗi khổng lồ, khi nó
tới gần hơn Jace thấy nó có những mắt
côn trùng và cái vòi hút máu lủng lẳng.

Alec nghẹn thở. “Cái quái gì thế kia?”

Jace nghĩ một lúc. “Bé bự,” cuối cùng


anh nói. “Rất bự.”

“Jace...”

Jace quay sang nhìn Alec, và rồi nhìn


Isabelle. Có gì đó trong anh mách bảo
rằng có thể đây là lần cuối anh được thấy
họ, nhưng anh vẫn không hề sợ, chẳng lo
lắng gì cho bản thân. Anh muốn nói gì đó
với họ, có thể là anh yêu họ, rằng hai
người đối với anh còn quý giá hơn cả
ngàn Bảo Bối cùng quyền năng của
chúng. Nhưng anh không nói nên lời.

“Alec,” anh nghe tiếng mình vang lên.


“Đưa Isabelle xuống thang, ngay lập tức,
hoặc không chúng ta sẽ chết hết.”

Alec nhìn thẳng vào mắt Jace một tích


tắc. Rồi anh gật đầu và kéo Isabelle, vẫn
còn chống cự, về phía bao lơn. Anh giúp
cô em trèo lên rồi trèo qua, và Jae nhẹ
nhõm vô ngần khi thấy mái tóc đen của
Isabelle biến mất khi cô em bước xuống
thang. Giờ đến lượt cậu đấy, Alec, Jace
nghĩ. Đi đi.

Nhưng Alec không đi. Isabelle giờ đã


khuất khỏi tầm mắt, hét lên khi ông anh
nhảy khỏi bao lơn, chạy lên boong tàu.
Thanh guisarme vẫn nằm trên sàn tàu nơi
anh thả xuống; giờ anh nắm chặt lấy nó
và tới đứng cạnh Jace đối diện với con
quỷ đang tới.

Nhưng anh không thể tới bên Jace


được. Con quỷ, đang nhắm tới Jace, đột
ngột đổi hướng đuổi theo Alec, cái vòi
hút máu quăng quật lộ vẻ đói khát. Jace
quay người cố che chắn cho Alec, nhưng
sàn tàu vốn đã mủn vì độc quỷ đã vỡ vụn
dưới chân anh. Chân anh thọt hố và anh
ngã lăn xuống sàn.

Alec chỉ kịp gọi tên Jace thì con quỷ


đã tới chỗ anh ấy. Alec đâm lún chuôi
thanh guisarme vào con quỷ. Sinh vật lùi
lại, hét lên nghe giống tiếng hét của con
người tới lạ thường, máu đen túa ra từ
vết thương. Alec lùi lại, tìm thêm vũ khí,
ngay lúc móng vuốt con quỷ giương ra,
đánh ngã anh xuống. Rồi cái vòi hút máu
của nó cuốn lấy anh.

Ở đâu đó, Isabelle đang hét. Jace


tuyệt vọng cố gắng kéo chân ra khỏi sàn
tàu; miếng kim loại lởm chởm sắc nhọn
chọc vào chân anh khi anh giằng thoát ra
và loạng choạng đứng dậy.

Anh giơ thanh Samandiriel. Ánh sáng


lóe lên từ lưỡi dao thiên thần, sáng như
thể sao băng. Con quỷ lùi lại, gầm ghè rít
lên. Nó nới lỏng Alec ra và trong chốc
lát, Jace nghĩ nó sẽ thả Alec. Nhưng đột
nhiên nó bỗng quay lại, nhanh tới giật
mình, và ném Alec bay đi bằng một lực
mạnh vô cùng. Alec đập mạnh xuống sàn
tàu trơn trượt máu, trượt đi... và rơi
xuống, kèm theo tiếng hét trong cơn
hoảng loạn, khỏi tàu.

Isabelle đang hét gọi Alec; tiếng hét


của cô em như những mũi giáo chọc vào
tai Jace. Samandiriel vẫn sáng lên trên
tay anh. Ánh sáng nó tỏa chiếu con quỷ
đang dò dẫm tiến tới, đôi mắt bọ của nó
sáng và như muốn ăn tươi nuốt sống anh,
nhưng Jace chỉ thấy Alec; Alec đang rơi
khỏi tàu, Alec đang chết chìm dưới làn
nước đen kịt dưới kia. Jace nghĩ mình
cảm nhận được vị nước biển mằn mặn
trong miệng, hay có thể là vị máu. Con
quỷ sắp tiến tới chỗ anh; anh giơ thanh
Samandiriel mà phóng đi - con quỷ rít
lên âm thanh the thé đau đớn - và rồi mặt
thuyền vỡ tan dưới chân Jace để anh rơi
vào bóng tối.
19. Ngày phán xét

“Ông sai rồi,” Clary nói nhưng


giọng không có chút thuyết phục. “Ông
chẳng hiểu gì về tôi hay Jace hết. Ông
chỉ đang cố...”

“Cố sao? Ta đang cố hàn gắn tình cảm


bố con thôi, Clarissa. Để con hiểu.”
Trong giọng Valentine không có chút tình
cảm nào, ngoài một chút vui vẻ.

“Ông đang cười nhạo chúng tôi. Ông


nghĩ ông có thể dùng tôi để làm tổn
thương tới Jace, vì thế ông cười nhạo
chúng tôi. Thậm chí ông còn chẳng giận
gì hết,” cô nói thêm. “Một người bố thực
thụ thì sẽ tức giận.”

“Ta thực sự là bố con chứ. Dòng máu


chảy trong huyết quản ta cũng chảy trong
người con.”

“Ông không phải bố tôi. Chú Luke


mới là bố tôi,” Clary mệt mỏi nói.
“Chúng ta đã nói chuyện này rồi cơ mà.”

“Con chỉ tìm kiếm ở Luke hình bóng


một người bố vì anh ta có quan hệ với
mẹ con...”

Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com


“Mối quan hệ ư?” Clary cười lớn.
“Chú Luke và mẹ chỉ là bạn.”

Trong chốc lát, cô chắc chắn mình


thấy nét ngạc nhiên trên khuôn mặt
Valentine. Nhưng rồi, “Thế thật sao?”.
Và rồi. “Con nghĩ anh ta... ta đang nói tới
Lucian... chịu đựng cái cuộc đời này,
cuộc đời sống trong im lặng và lẩn trốn,
hết lòng bảo vệ một bí mật mà chính anh
ta cũng không hiểu hết, chỉ vì tình bạn
sao? Con hiểu quá ít về con người đấy,
Clary ạ, ở tuổi con, và còn hiểu ít hơn về
đàn ông.”

“Ông thích nói xấu chú Luke thế nào


thì tùy ông. Chuyện cũng không khác đi
đâu. Ông đã nhầm về chú ấy, cũng như
ông đã nhầm về Jace. Ông phải gán cho
mọi người những động cơ xấu xa cho
mọi hành động của họ, vì ông chỉ hiểu
nổi những động cơ xấu xa mà thôi.”

“Nếu anh ta yêu mẹ con thì chẳng phải


vậy sao? Chẳng phải xấu xa sao?”
Valentine nói. “Tình yêu có gì xấu xa nhỉ,
Clarissa? Hay đó là điều con cảm nhận,
từ sâu thẳm trong tim, rằng chú Lucian
yêu quý của con chẳng phải người mà
cũng không hẳn biết cảm nhận như con
người chúng ta hiểu được chúng...”

“Chú Luke cũng người như tôi,” Clary


đáp trả. “Còn ông chỉ là một kẻ mù
quáng.”

“Ôi không,” Valentine nói. “Ta là gì


cũng được nhưng không phải một kẻ
cuồng tín.” Hắn tiến lại gần hơn một
chút, và cô bước tới, chắn giữa hắn và
Thanh Kiếm. “Con nghĩ vậy về ta vì con
nhìn ta lẫn những gì ta làm qua lăng kính
của một người thường nhìn nhận thế giới
này. Những người thường tạo ra sự khác
biệt giữa họ với nhau, những sự khác
biệt có vẻ lố bịch đối với những Thợ
Săn Bóng Tối. Những sự khác biệt của
họ dựa trên chủng tộc, tôn giáo, quốc
tịch, và rất nhiều những điều tiểu tiết vớ
vẩn khác. Với người thường, những thứ
đó dường như hợp lẽ lắm, vì dù người
thường không thể nhìn thấy, hiểu biết hay
thừa nhận thế giới quỷ, nhưng sâu trong
ký ức nguyên thủy của họ, họ vẫn biết có
những thứ khác bước đi trên thế giới này.
Những thứ đó không thuộc về thế giới
này chỉ biết làm hại và hủy hoại mọi thứ.
Vì mối họa quỷ dữ mắt thường không
nhìn thấy được, họ phải đổ những mối
họa ấy cho những người khác thuộc giống
người. Họ đánh đồng khuôn mặt của kẻ
thù với khuôn mặt người láng giềng, và
vì thế hết thế hệ này đến thế hệ khác đều
sống trong khốn khổ.” Hắn ta lại bước
thêm bước nữa, và Clary vô thức lùi lại;
cô đã dựa lưng vào cái tủ rồi. “Ta không
giống vậy,” hắn nói tiếp. “Ta có thể nhìn
ra sự thực. Những người thường nhìn
mọi việc giống như nhìn qua một thấu
kính mờ, nhưng Thợ Săn Bóng Tối -
chúng ta nhìn trực diện bằng mắt mình.
Chúng ta biết về sự thật về cái ác, biết
rằng dù chúng đi lại giữa chúng ta nhưng
chúng không thuộc về thế giới của chúng
ta. Những thứ không thuộc về thế giới
của chúng ta không được phép bám rễ
nơi đây, không được giống như một loài
hoa độc chỉ biết sinh trưởng và tiêu diệt
hết mọi sự sống khác.”

Clary định tới cướp Thanh Kiếm rồi


lao vào Valentine, nhưng những lời nói
của hắn làm cô rúng động. Giọng hắn quá
êm tai, quá thuyết phục, và cô cũng nghĩ
lũ quỷ không được sống trên trái đất này,
không được phép biến tất cả thành tro
bụi như chúng đã biến những thế giới
khác thành cát bụi... Những gì hắn nói,
gần như là nghĩa lý lắm, nhưng...

“Chú Luke không phải một con quỷ,”


cô nói.

“Hình như ta thấy là, Clarissa ạ,”


Valentine nói, “con còn quá non nớt nên
chưa hiểu được thế nào là quỷ và thế nào
là không. Con chỉ mới gặp vài người
thuộc Thế Giới Ngầm có vẻ đối xử tốt
với con, và con cứ nghĩ tất cả bọn họ đều
tốt cả. Với con, quỷ là những sinh vật
xấu xí, nhảy ra khỏi bóng tối cắn xé và
tấn công con người. Đúng là có những
con quỷ như vậy. Nhưng còn có những
con quỷ khác sống ẩn mình trong bí mật,
những con quỷ đi lại trong chúng ta mà
chúng ta không hề nhận ra và cũng không
gặp trở ngại gì. Nhưng ta đã thấy chúng
làm những điều tệ hại khiến cho những
đồng bạn xấu xí của chúng trở thành
những kẻ tốt nếu đem ra so sánh. Ta từng
biết những con quỷ ở Luân Đôn, đóng vai
một doanh nhân rất có tầm ảnh hưởng.
Hắn ta chưa bao giờ ở một mình, vì thế
ta rất khó tiếp cận để giết hắn, dù ta biết
hắn là gì. Hắn sẽ cho người mang tới cho
hắn động vật và những đứa trẻ... bất cứ
thứ gì nhỏ bé và chịu thúc thủ trước
hắn...”
“Dừng lại.” Clary bịt tai. “Tôi không
muốn nghe.”

Nhưng giọng nói của Valentine vẫn


đều đều vang lên, rót vào tai cô rõ mồn
một. “Hắn sẽ từ từ thưởng thức chúng,
suốt bao nhiêu ngày tháng. Hắn có nhiều
cách, nhiều trò để giữ chúng sống sót qua
những trò tra tấn tệ nhất mà con không
thể tưởng tượng nổi. Nếu con nghĩ ra nổi
hình ảnh một đứa bé còn nửa người bò
tới chỗ con...”

“Dừng lại!” Clary bỏ tay xuống. “Đủ


rồi, đủ rồi!”

“Quỷ tồn tại nhờ cái chết, đau đớn và


sự điên loạn,” Valentine nói. “Khi ta giết
chóc, đó là vì ta phải làm thế. Con lớn
lên trong thiên đường đẹp đẽ giả tạo,
được bao quanh bởi những bức tường
thủy tinh mong manh, con gái ạ. Mẹ con
tạo ra cho con một thế giới bà ta muốn
sống ở đó, và bà ta nuôi nấng con trong
đó, bà ta chưa bao giờ nói với con rằng
đó chỉ là ảo ảnh. Và trong suốt thời gian
đó những con quỷ đứng ngoài với vũ khí
làm từ máu và nỗi sợ hãi để đập vỡ lớp
kính và kéo con khỏi sự dối trá.”

“Chính ông đã đập vỡ những bức


tường ấy,” Clary thì thầm. “Chính ông
đã lôi tôi vào chuyện này. Chính là ông
chứ không phải ai khác.”
“Và những tấm kính đã cắt vào da thịt
con, con đã cảm nhận thấy đau và nhìn
thấy máu chảy đúng không? Con đổ lỗi
cho ta vì cả những điều đó sao? Ta không
phải người nhốt con vào tù.”

“Dừng lại. Đừng nói nữa.” Đầu Clary


ong ong. Cô muốn hét lên với hắn ta
rằng. Ông đã bắt cóc mẹ tôi, ông đã làm
chuyện đó, đó là lỗi của ông! Nhưng cô
bắt đầu hiểu ý chú Luke khi chú bảo
không có cách gì tranh cãi với Valentine
được. Không hiểu bằng cách nào hắn đã
khiến cho cô thấy khó lòng không đồng
tình với hắn mà không có cảm giác cô
bênh vực cho lũ quỷ có thể cắn trẻ con
làm đôi. Cô tự hỏi làm sao Jace có thể
giữ được chính kiến suốt bao năm qua,
sống dưới cái bóng của một con người
luôn lấn lướt, hách dịch như thế. Cô bắt
đầu hiểu tính ngang tàng của Jace từ đâu
mà tới, sự ngang tàng cùng với những
cảm xúc được kiềm chế cẩn mật.

Cạnh tủ đằng sau chọc vào bắp đùi


Clary. Cô có thể cảm nhận hơi lạnh tới từ
Thanh Kiếm, khiến cho tóc gáy dựng
đứng. “Ông muốn gì ở tôi?”

“Sao con nghĩ ta muốn gì đó từ con


chứ?”

“Nếu không ông sẽ không nói chuyện


với tôi. Ông sẽ đánh vào đầu tôi và chờ
đợi... đợi một điều gì đó sau bước này.”

“Bước tiếp theo,” Valentine nói, “là


đợi những người bạn trong giới Thợ Săn
Bóng Tối của con tìm tới đây và đợi ta
nói với họ rằng nếu họ muốn con sống
sót ra khỏi đây, họ phải giao nộp cô gái
sói ra. Ta vẫn cần máu con bé đó.”

“Họ sẽ không bao giờ đổi Maia lấy


tôi!”

“Con sai ở đó đó,” Valentine nói. “Họ


thừa hiểu giá trị của một kẻ thuộc Thế
Giới Ngầm so với một Thợ Săn Bóng
Tối ra sao. Họ sẽ trao đổi. Hội đồng
Clave buộc họ phải trao đổi.”

“Hội đồng Clave? Ý ông là... đó là


một phần trong Luật sao?”

“Định ra từ trong cốt lõi đấy,”


Valentine nói. “Giờ con thấy chưa?
Chúng ta không quá khác nhau đâu, Hội
đồng Clave và ta, hay Jonathan và ta,
thậm chí ta và con, Clarissa ạ. Chúng ta
chỉ hơi khác nhau về phương pháp hành
xử thôi.” Hắn mỉm cười, dấn thêm một
bước rút ngắn khoảng cách giữa họ lại.

Di chuyển nhanh hơn cô nghĩ mình có


thể, Clary với lấy Thanh Kiếm Linh Hồn
sau lưng. Nó nặng đúng như cô tưởng,
quá nặng khiến cô chúi người. Cô giơ tay
để đứng cho vững rồi nâng nó lên, chĩa
thẳng vào Valentine.

Cú ngã của Jace đột ngột chấm dứt


khi anh chạm xuống mặt sàn kim loại với
một lực mạnh làm ê cả răng. Anh sặc ho,
nếm thấy vị máu trong miệng và loạng
choạng đau đớn cố đứng dậy.

Anh đang đứng trên một lối đi hẹp


sơn xanh lá cây nhạt. Bên trong con tàu
chẳng có gì, chỉ là một căn phòng lớn
bằng kim loại với những bức tường cong
ra phía ngoài tạo hiệu ứng vang lớn.
Nhìn lên trên, Jace có thể thấy một
khoảnh trời sao nhỏ xíu thông qua lỗ
thông khói trên thân tàu xa xa.

Lòng tàu là một mê cung những lối đi


hẹp và những cầu thang dường như chẳng
dẫn tới đâu, chồng chéo lên nhau như
ruột một con rắn khổng lồ. Không khí
trong này lạnh cóng. Jace có thể thấy hơi
thở mình biến thành từng làn khói trắng
khi anh thở ra. Ở đây hầu như chẳng có
chút ánh sáng nào chiếu tới. Anh nheo
mắt nhìn vào bóng tối, rồi cho tay vào túi
lấy viên đá phù thủy ra.

Ánh sáng trắng nhàn nhạt tỏa khắp


bóng tối. Hành lang hẹp khá dài, với một
cầu thang ở cuối đường dẫn xuống tầng
thấp hơn. Khi Jace tiến lên, có gì đó lấp
lánh dưới chân.

Anh cúi xuống. Là một thanh stele.


Anh không thể nào không nhìn xung
quanh, nửa ngờ có ai đó sẽ nhảy ra từ
bóng tối; làm thế quái nào mà một thanh
stele của Thợ Săn Bóng Tối lại xuống
được đây nhỉ? Anh cẩn thận nhặt lên. Tất
cả các thanh stele đều có một thần thái
quanh nó, một dấu ấn mờ nhạt của người
sở hữu chúng. Cái này khiến anh giật
mình đau đớn. Clary.

Một tiếng cười khe khẽ đột nhiên cất


lên, phá tan sự im lặng. Jace quay phắt
lại, nhét thanh stele vào thắt lưng. Dưới
ánh đèn phù thủy, Jace có thể thấy một
bóng đen đang đứng cuối hành lang hẹp.
Khuôn mặt người đó ẩn trong bóng tối.

“Ai đó?” anh gọi.

Không có tiếng trả lời, chỉ là cảm


giác có ai đó đang cười nhạo anh. Tay
Jace vô thức đưa xuống thắt lưng, nhưng
anh đã làm rơi mất con dao thiên thần khi
ngã xuống đây rồi. Giờ trong tay anh
không có lấy một thứ vũ khí.

Nhưng bố đã luôn dạy anh gì nào?


Nếu biết sử dụng đúng cách, hầu như thứ
gì cũng dùng làm vũ khí được. Anh cẩn
trọng tiến tới chỗ bóng đen kia, mắt nhìn
từng thứ chung quanh - một thanh giằng
giúp anh bám và bay người sang, giơ
chân đá kẻ kia; một miếng kim loại gãy
có thể dùng để ném vào kẻ thù, đâm gãy
xương sống hắn. Tất cả những ý tưởng đó
chạy rần rần trong đầu anh chỉ trong một
tích tắc, một tích tắc trước khi bóng đen
cuối hành lang hẹp quay người, mái tóc
trắng sáng lên dưới ánh đèn phù thủy, và
Jace nhận ra ông ta.

Jace đứng im như phỗng. “Bố? Có


phải bố không?”

Điều đầu tiên Alec cảm nhận được là


cái lạnh tới cóng người. Điều thứ hai là
anh không thở được. Anh cố hít vào
nhưng cơ thể anh co thắt. Anh ngồi thẳng
dậy, phun phì phì nước sông bẩn khi nãy
tràn vào phổi anh như thác lũ làm anh
ngộp thở sặc sụa.

Cuối cùng anh cũng thở được, dù phổi


đau như phải bỏng. Anh há hốc miệng và
nhìn quanh. Anh đang ngồi trên một mặt
tôn múi... không, trên thùng xe. Một
chiếc xe bán tải, nổi lềnh bềnh trên mặt
nước. Tóc và quần áo đẫm nước lạnh.
Và Magnus Bane đang ngồi đối diện anh,
nhìn ngắm anh bằng đôi mắt mèo màu hổ
phách sáng lên trong bóng tối.

Răng anh bắt đầu đập lập cập.


“Chuyện... chuyện gì xảy ra vậy?”
“Cậu thử uống nước sông Đông,”
Magnus nói, và Alec thấy, như thể chỉ
mới thấy thôi, quần áo Magnus cũng ướt
sũng, dính sát vào cơ thể như lớp da thứ
hai. “Tôi kéo cậu lên.”

Đầu Alec đau như búa bổ. Anh lần


thắt lưng lấy thanh stele, nhưng nó đã
biến mất. Anh cố nghĩ lại - con tàu, tràn
ngập quỷ; Isabelle ngã xuống và Jace đỡ
lấy; máu, lênh láng dưới chân, quỷ tấn
công...

“Isabelle! Con bé đang trèo xuống khi


tôi rơi...”

“Con bé vẫn ổn. Nó xuống thuyền rồi.


Tôi đã thấy con bé.” Magnus chạm tay
lên đầu Alec. “Còn cậu thì khác, có lẽ bị
chấn thương sọ não rồi.”

“Tôi cần trở lại trận đánh.” Alec hất


tay anh ra. “Anh là một pháp sư. Tôi
không biết nữa, anh có thể đưa tôi bay về
thuyền hay gì gì đó không? Và chữa cơn
chấn thương cho tôi khi đang giúp tôi
bay ấy?”

Magnus, tay vẫn đưa ra, ngồi xổm


xuống thùng xe. Dưới ánh sao, đôi mắt
Đại Pháp sư Brooklyn như hai viên ngọc
màu xanh vàng, cứng, dèn dẹt.

“Xin lỗi,” Alec nói, nhận ra mình nói


năng như thế nào, dù anh vẫn thấy
Magnus phải biết chuyện trở lại tàu mới
là quan trọng nhất. “Tôi biết anh không
cần phải giúp chúng tôi... anh chỉ đang
gia ơn cho chúng tôi...”

“Dừng ngay. Tôi không gia ơn cho


cậu, Alec. Tôi làm mọi điều cho cậu vì...
hừm, cậu nghĩ vì sao tôi làm chứ?”

Có gì đó nghẹn lại trong cổ họng


Alec, không cho anh trả lời. Lúc ở bên
Magnus anh luôn có cảm giác đó. Như
thể có một quả bóng nỗi đau hay sự hối
hận sống trong tim anh, và khi anh muốn
nói gì đó, bất cứ điều gì, có vẻ như có
nghĩa hay thật tình, thì quả bóng đó lại
dâng lên và làm nghẹn mọi lời nói lại.
“Tôi cần trở lại tàu,” cuối cùng anh nói.

Magnus quá mệt mỏi chẳng buồn tức


giận nữa. “Tôi sẽ giúp cậu,” anh ta nói.
“Nhưng tôi không thể. Tháo bỏ lớp kết
giới khỏi tàu đã quá mệt mỏi rồi... nó là
phép thuật rất, rất mạnh, loại phép thuật
của quỷ dữ... nhưng khi cậu rơi xuống,
tôi phải vội đọc thần chú ếm lên xe để nó
không chìm khi tôi ngất đi. Và tôi rồi sẽ
ngất đi, Alec. Chỉ là vấn đề thời gian
thôi.” Magnus đặt tay ngang mắt. “Tôi
không muốn cậu chết chìm,” anh ta nói.
“Câu thần chú sẽ giữ con thuyền nổi tới
khi chiếc xe trở lại đất liền.”
“Tôi... không biết.” Alec nhìn
Magnus, người đã ba trăm tuổi nhưng
vẫn trẻ mãi, như thể anh ta đã ngừng lớn
lên từ hồi mười chín tuổi. Giờ đây tại
vùng da quanh mắt và miệng xuất hiện
những đường hằn rõ nét. Phần tóc trên
trán mỏng đi, và vai xuôi xuống không
theo kiểu bất cần hàng ngày, mà là kiệt
sức thực sự.

Alec giơ tay ra. Bàn tay anh trắng


xanh dưới ánh trăng, nhăn nheo vì ngâm
nước và lốm đốm những vết sẹo bạc.
Magnus nhìn chúng, và rồi nhìn Alec, sự
bối rối tối lại trong đôi mắt.

“Cầm tay tôi đi,” Alec nói. “Và nhận


lấy sức mạnh từ tôi. Bất cứ gì anh có thể
sử dụng... để giúp anh cầm cự.”

Magnus không nhúc nhích. “Tôi nghĩ


cậu phải trở lại tàu.”

“Tôi phải chiến đấu,” Alec nói.


“Nhưng không phải anh cũng vậy sao?
Anh là một phần của trận chiến này, như
bất cứ một Thợ Săn Bóng Tối nào trên
tàu - và tôi biết anh có thể rút chút sức
mạnh từ tôi, tôi nghe nói các pháp sư có
thể làm điều đó... vì thế tôi dành tặng anh
này. Hãy nhận lấy nó. Nó là của anh.”

Valentine mỉm cười. Hắn mặc bộ giáp


đen, găng tay sắt sáng như lớp vỏ cứng
của con côn trùng đen. “Con trai.”

“Đừng gọi tôi như vậy,” Jace nói, rồi


thấy tay bắt đầu run, “Clary đâu?”

Valentine vẫn mỉm cười. “Con bé dám


hỗn với ta,” hắn nói. “Ta phải dạy cho nó
một bài học.”

“Ông đã làm gì em ấy?”

“Chẳng làm gì cả.” Valentine tới gần


Jace hơn, đủ gần để chạm vào anh nếu
giơ tay ra. Nhưng hắn không làm vậy.
“Chỉ những gì mà con bé sẽ hồi phục
được thôi.”
Jace nắm chặt tay lại để bố không
nhìn thấy tay anh đang run. “Tôi muốn
gặp em ấy.”

“Thật sao? Với mọi chuyện đang diễn


ra ư?” Valentine liếc lên trên, như thể
hắn có thể nhìn xuyên qua vỏ tàu, tới trận
hỗn chiến trên boong. “Ta cứ nghĩ con
muốn lên kia sánh vai chiến đấu cùng
những người bạn Thợ Săn Bóng Tối chứ
nhỉ. Thương thay cho họ, dù cố mấy cũng
vậy thôi.”

“Ông không biết được đâu.”

“Ồ ta biết chứ. Cứ mỗi một người


trong bọn họ, ta có thể gọi cả ngàn con
quỷ đến đối phó. Kể cả một Nephilim
giỏi nhất cũng không thể chống lại tỷ lệ
chọi ấy được. Giống như trường hợp,”
Valentine nói thêm, “của Imogen đáng
thương.”

“Sao ông...”

“Ta thấy mọi chuyện xảy ra trên tàu


của mình,” Valentine nheo mắt lại. “Con
thừa hiểu vì con mà bà ta chết, đúng
không?”

Jace nén thở. Anh biết tim đang đập


thình thịch như muốn xé toạc lồng ngực.
“Nếu không vì con, chẳng ai trong số
họ sẽ lên tàu. Họ nghĩ họ đang giải cứu
con, con biết đấy. Còn nếu chỉ là hai kẻ
thuộc Thế Giới Ngầm kia, họ sẽ chẳng
màng đâu.”

Jace gần như quên mất. “Simon và


Maia...”

“Ồ, chúng chết rồi.” Valentine vẫn nói


đều đều, có phần nhẹ nhàng là đằng khác.
“Bao nhiêu kẻ phải chết đây Jace, trước
khi con nhận ra sự thực?”

Đầu Jace có cảm giác như đầy khói


cuộn. Vai anh nhức nhối vì đau. “Chúng
ta đã từng nói về vấn đề này rồi. Bố đã
sai. Bố có thể đúng về quỷ dữ, bố thậm
chí có thể đúng về Hội đồng Clave,
nhưng đây không phải là cách...”

“Ta đang muốn nói,” Valentine cắt lời,


“khi nào con mới nhận ra được rằng con
giống ta chứ?”

Dù lạnh nhưng Jace đã bắt đầu đổ mồ


hôi. “Cái gì?”

“Con và ta, chúng ta giống nhau thôi,”


Valentine nói. “Đúng như con từng nói
trước kia, con thế nào là do ta nhào nặn,
và ta đã nhào nặn con thành một bản sao
của mình. Con có tính cách ngang tàng
của ta. Con có lòng dũng cảm của ta. Và
con có những phẩm chất khiến người
khác sẵn sàng dâng hiến mạng sống cho
con mà không đòi hỏi gì.”

Có gì đó đập mạnh trong đầu Jace. Có


gì đó anh phải biết, hoặc đã quên - vai
anh đau nhói - “Tôi không muốn người
ta dâng hiến mạng sống cho tôi,” anh hét
lên.

“Không. Con có đó. Con thừa biết


Alec và Isabelle sẵn sàng chết vì con.
Em gái con cũng vậy. Điều Tra Viên đã
chết vì con, đúng không Jonathan? Và
con đứng đó trơ mắt nhìn bà ta...”

“Không!”
“Con cũng giống ta thôi... không phải
điều đáng ngạc nhiên lắm nhỉ? Chúng ta
là bố con, sao chúng ta lại không giống
nhau chứ?”

“Không!” Tay Jace vung ra chộp lấy


thanh giằng kim loại cong queo. Nó bị bẻ
gãy và giờ nằm trong tay anh với một
tiếng soạt sắc lạnh, đầu ống lởm chởm và
sắc lẹm. “Tôi không giống ông!” anh hét
lên, và nhắm thẳng thanh giằng vào ngực
bố mình.

Miệng Valentien há ra. Hắn loạng


choạng lùi lại, một đầu thanh giằng trồi
lên từ ngực hắn. Trong lúc đó Jace chỉ
đứng nhìn, nghĩ, Mình sai rồi - đó thực
sự là bố - thì Valentine dường như đổ
sập xuống, cơ thể sụm lại như cát. Không
khí sặc mùi cháy khét khi cơ thể
Valentine biến thành tro, bay đi trong cơn
gió lạnh.

Jace đặt tay lên vai. Phần da nơi ngự


trị chữ rune Can Trường đã tiêu hao hẳn
đi giờ nóng rẫy. Anh đột nhiên thấy yếu
ớt vô cùng. “Agramon,” anh thì thào và
ngã khuỵu xuống.

Jace chỉ quỳ xuống sàn một lúc khi


cảm giác đau đầu giảm bớt, nhưng
khoảnh khắc đó dường như kéo dài vô
tận. Khi anh đứng lên, hai chân anh cứng
lại vì lạnh. Những đầu ngón tay xanh lại.
Không khí vẫn còn cái mùi ngai ngái của
thứ gì đó bị đốt cháy, dù chẳng còn dấu
hiệu gì của Agramon.

Vẫn nắm lấy thanh giằng gãy, Jace


trèo xuống thang cuối hành lang hẹp. Nỗ
lực trèo xuống bằng một tay đã khiến anh
tỉnh táo lại. Anh thả mình xuống đứng
trong hành lang thứ hai chạy dọc một bên
căn phòng kim loại rộng mênh mông. Có
hàng tá những hành lang khác với những
cầu thang bám theo tường và rất nhiều
ống khói cùng máy móc. Những tiếng đì
đùng vang lên từ trong những đường ống,
và thi thoảng ống khói lại phun ra một
cái gì đó giống như hơi nước, nhưng
không khí vẫn rét buốt.

Bố chọn đúng nơi để ở lắm, Jace


nghĩ. Khối nội thất tuyền công nghiệp
trong khoang thuyền không hề hợp với
một Valentine mà anh biết, người tỉ mỉ
đến từng loại thủy tinh làm ra bình pha lê
của mình. Jace liếc nhìn quanh. Dưới này
đúng là một mê cung; anh chẳng biết
mình nên đi đường nào. Anh quay người
trèo xuống cầu thang tiếp theo dẫn xuống
dưới và nhận ra một vệt máu đỏ sậm trên
nền nhà.

Máu. Anh di di mũi giày qua đó. Máu


vẫn còn ấm, hơi dinh dính. Máu tươi.
Mạch anh đập nhanh hơn. Giữa chừng lối
đi, anh nhìn thấy một vệt đỏ rồi xa hơn
lại thêm một vệt nữa, trông như vụn bánh
mỳ dẫn đường trong những câu chuyện cổ
vậy.

Jace đi theo vết máu, tiếng giày vọng


âm vang trên hành lang hẹp bằng kim
loại. Vết máu vương cũng đặc biệt lắm,
không giống như kiểu đã có vụ ẩu đả, mà
giống như có ai đó bị kéo lê đi trong tình
trạng chảy máu, ngay trên hành lang này...

Anh tới chỗ cánh cửa. Cửa được làm


bằng kim loại đen, thi thoảng tán thêm
những núm bạc. Trên nắm đấm cửa có
dấu tay máu. Anh nắm chặt lấy thanh
giằng gãy và đẩy cửa bước vào.
Một đợt không khí giá buốt hơn ùa tới
làm anh nín thở. Căn phòng hoàn toàn
trống không, trừ có một đường ống kim
loại chạy dọc một bên tường và một ở
góc có gì đó giống túi vải bố. Một chút
sáng lọt qua lỗ thông gió cao cao trên
tường. Khi Jace thận trọng tiến lên, ánh
sáng từ lỗ thông gió chiếu vào đống túi ở
góc phòng và anh nhận ra đó không phải
một đống rác, mà là một cái xác.

Trái tim Jace bắt đầu đập rộn rã như


cánh cửa bị cơn giông xô sập từng hồi.

Sàn kim loại nhớp nháp máu. Giày


của anh tạo ra những tiếng lép nhép khó
chịu khi anh đi tới và quỳ bên cái xác
nằm co quắp trong góc. Một cậu thiếu
niên, tóc đen mặc quần bò và áo phông
xanh sũng máu.

Jace đỡ vai cái xác và nhấc lên. Cái


xác lật lại, lõng thõng không còn chút
sinh khí, đôi mắt nâu mở lớn nhưng vô
hồn. Jace nghẹn thở. Đó là Simon. Cậu ta
trắng bệch như giấy. Có một vết cứa xấu
xí trên cổ họng, hai cổ tay đều bị rạch,
để lại những vết thương lam nham toang
hoác.

Jace quỳ xuống, vẫn ôm chắc vai


Simon. Anh tuyệt vọng nghĩ tới Clary, tới
nỗi đau của cô khi cô biết chuyện, cái
cách cô bóp chặt lấy tay anh trong tay cô,
trong những ngón tay nhỏ bé đó nhiều
sức mạnh tới thế nào. Tìm Simon. Em
biết anh sẽ tìm thấy.

Và anh đã tìm thấy thật. Nhưng đã quá


muộn.

Khi Jace lên mười, bố đã giải thích


cho cậu mọi cách để giết chết ma cà
rồng. Đóng cọc vào tim. Cắt đầu rồi đốt
như đốt ngọn đèn lồng bí ngô. Để mặt
trời biến họ thành tro bụi. Hoặc hút sạch
máu họ. Họ cần máu để sống, họ hoạt
động nhờ nó, giống như xe chạy bằng
xăng vậy. Nhìn thấy vết thương nham nhở
nơi cổ họng Simon, không khó để biết
Valentine đã làm gì.

Jace vuốt mắt cho Simon. Nếu Clary


buộc phải thấy xác cậu bạn, tốt nhất cô
ấy không nên thấy cậu ấy thế này. Anh
đưa tay xuống cổ áo, định đóng cúc áo
lại, che đi vết thương.

Simon nhúc nhích. Mí mắt hơi giật


giật và mở ra, mắt toàn lòng trắng. Sau
đó cậu ta lại kêu khùng khục khe khẽ,
môi vén lên để lộ cặp răng nanh ma cà
rồng. Hơi thở đứt quãng từng hồi trong
cổ họng bị xẻ tung.

Jace thấy lợm giọng, tay nắm chặt lấy


cổ áo Simon. Cậu ta chưa chết. Nhưng
Chúa ơi, cơn đau này, nó phải quá sức
chịu đựng chứ. Cậu ta không thể lành
được, không thể sống lại, nếu không có...

Nếu không có máu. Jace thả áo Simon


ra và dùng răng xắn tay áo mình. Sử dụng
đầu ống lởm chởm, anh rạch một đường
sâu theo chiều dọc cổ tay. Máu ứa trên
bề mặt. Anh thả thanh giằng xuống; nó
kêu lanh canh trên sàn nhà. Anh có thể
ngửi thấy mùi máu của mình trong không
khí, tanh tanh nồng nồng.

Anh cúi nhìn Simon vẫn nằm im bất


động. Máu đang chạy xuống cánh tay
Jace, cổ tay nhoi nhói. Anh giơ tay trên
mặt Simon, để máu chảy xuống qua
những ngón tay vào miệng Simon. Không
có phản ứng. Simon không động đậy.
Jace cho tay xuống gần hơn; giờ anh đang
quỳ ngay trên Simon, hơi thở tạo nên
những luồng khói trắng trong không khí.
Anh nhoài người cúi xuống, ép cổ tay
chảy máu lên miệng Simon. “Cậu ngốc
này, uống máu tôi đi,” anh thì thào.
“Uống đi.”

Lúc đầu không có chuyện gì xảy ra.


Rồi mắt Simon nhắm tịt lại. Jace cảm
thấy cổ tay nhói đau rõ rệt, kiểu như có
một lực hút mạnh... và bàn tay phải của
Simon bám chắc lấy tay Jace, ngay trên
cổ tay. Lưng Simon ưỡn cong khỏi sàn,
và lực hút lên cổ tay Jace tăng lên khi
răng nanh cắm sâu hơn. Cơn đau chạy
dọc cánh tay Jace. “Được rồi,” Jace nói.
“Đủ rồi.”

Simon mở choàng mắt. Lòng trắng đã


biến mất, giờ đôi đồng tử nâu sậm đang
dán vào Jace. Trên má cậu ta đã có chút
huyết sắc, đỏ như người lên cơn sốt. Môi
cậu ta hơi hé mở, răng nanh trắng ởn đỏ
những máu.

“Simon?” Jace gọi.

Simon đứng dậy. Cậu ta di chuyển với


tốc độ nhanh tới khó tin, đánh ngã Jace
và ngồi lên người anh. Đầu Jace đập
xuống nền nhà, tai ong ong khi răng
Simon cắm vào cổ. Anh cố đẩy ra, nhưng
cánh tay cậu con trai kia như gọng kìm,
ấn chết anh xuống sàn, những móng tay
cắm sâu vào bả vai.

Nhưng Simon không làm anh bị


thương - không hẳn - cơn đau nhức lúc
đầu dần chuyển sang một dạng dễ chịu
theo cách vết bỏng của thanh stele đôi
khi đem lại. Cảm giác buồn ngủ êm đềm
chạy theo mạch máu và anh thấy cơ bắp
thả lỏng; bàn tay đang cố đẩy Simon lúc
trước giờ nắm kéo cậu ta lại gần hơn.
Anh nghe được nhịp tim của mình, cảm
thấy nó đang đập chậm lại, nhịp vang
như búa nện nay biến thành tiếng vọng
nhẹ nhàng. Một màu đen sang sáng len
lỏi vào góc mắt anh, đẹp đẽ và kỳ lạ.
Jace nhắm mắt.

Cơn đau nhói nơi cổ. Anh thở dốc và


mở choàng mắt; Simon đang ngồi trên
người anh, nhìn chằm chằm, mắt mở to,
tay quệt ngang miệng. Vết thương của cậu
ta đã biến mất, dù máu tươi dính đầy áo
trước.

Jace lại thấy đau ở phần vai bị thâm,


ở vết rạch nơi cổ tay và ở cổ họng vừa
bị cắn. Anh không còn nghe thấy nhịp
tim, nhưng biết nó đang đập rộn rã trong
lồng ngực.

Simon bỏ tay xuống. Răng nanh biến


mất . “Tôi có thể giết anh,” cậu ta nói.
Trong đó, có chút hài lòng.

“Nếu tôi đồng ý,” Jace trả lời.

Simon cúi nhìn, rồi húng hắng gì đó


trong cổ họng. Cậu ta lăn người tránh
khỏi Jace rồi ngồi bó gối. Jace thấy
những đường mạch máu tối màu trên cần
cổ trắng xanh, với những đường gân xanh
tím. Những đường huyết mạch đầy máu.

Máu của mình. Jace ngồi dậy. Anh


lần tìm thanh stele. Kéo nó dọc theo tay
như cảm giác kéo một cái ống chỉ dọc
theo sân bóng bầu dục vậy. Đầu anh đau
nhức. Khi vẽ xong chữ iratze, anh dựa
đầu vào bức tường sau lưng, thở dốc,
cơn đau rời khỏi anh khi chữ rune có
hiệu lực. Máu mình chạy trong huyết
quản cậu ta.

“Tôi xin lỗi,” Simon nói. “Tôi vô


cùng xin lỗi.”

Chữ rune trị thương đã có hiệu quả.


Đầu Jace dần dần tỉnh táo và nhịp tim đã
ổn định lại. Anh cẩn trọng đứng dậy, cứ
ngỡ một cơn choáng váng sẽ ập tới,
nhưng anh chỉ cảm thấy hơi mệt và yếu
người. Simon vẫn ngồi, nhìn chăm chú
xuống đôi tay. Jace cúi xuống nắm lấy
lưng áo cậu ta, kéo cậu ta đứng dậy.
“Đừng xin lỗi,” anh nói và thả Simon ra.
“Đi thôi. Valentine đã bắt được Clary và
chúng ta không còn nhiều thời gian đâu.”

Ngay khi nắm lấy chuôi thanh


Maellartach, một cảm giác lạnh buốt
chạy dọc cánh tay Clary. Valentine hứng
thú quan sát trong khi cô thở dốc vì đau,
những ngón tay trở nên lóng ngóng. Cô
tuyệt vọng nắm chặt Thanh Kiếm, nhưng
nó trượt khỏi tay cô và rơi loảng xoảng
xuống đất.

Cô gần như không thấy Valentine di


chuyển. Một tích tắc sau hắn đã đứng
trước mặt cô với Thanh Kiếm trong tay.
Tay Clary ê buốt. Cô liếc xuống và thấy
lằn đỏ chạy dọc lòng bàn tay.
“Con thực sự nghĩ,” Valentine khinh
ghét nói, “rằng ta sẽ để con tới gần thứ
vũ khí con sử dụng được sao?” Hắn lắc
đầu. “Con không hiểu lấy một từ ta nói,
đúng không? Có vẻ như trong hai đứa
con của ta, chỉ một đứa có khả năng thấy
được sự thật.”

Clary nắm bàn tay bị thương lại gần


như chào đón cơn đau. “Nếu ông muốn
ám chỉ Jace, thì anh ấy cũng ghét ông
đấy.”

Valentine vung Thanh Kiếm lên, để


mũi kiếm ngang xương đòn của Clary.
“Đủ rồi,” hắn bảo, “nói xong rồi đấy.”
Mũi Kiếm sắc nhọn; khi cô thở, nó
chọc vào cổ họng cô, và một dòng máu
nhỏ chảy xuống ngực. Cái chạm của
Thanh Kiếm dường như đưa cái lạnh
chạy vào các mạch máu, khiến cái lạnh
cắt da cắt thịt chạy vào tay chân cô, làm
tay cô cứng tê cóng.

“Đúng là con hư tại mẹ,” Valentine


nói. “Mẹ con lúc nào cũng cứng đầu
cứng cổ. Hồi đầu mới yêu, ta rất thích
tính cách đó của mẹ con. Ta nghĩ mẹ con
sẽ luôn trung thành với lý tưởng.”

Thật là lạ, Clary nghĩ mà hơi hoảng,


rằng khi cô gặp bố mình ở điền trang
Renwick, vẻ hùng biện đáng kính của
hắn phơi ra để dụ Jace. Thế mà giờ thì
hắn chẳng buồn mất công làm gì, và
không có lớp quyến rũ bề mặt ấy, hắn ta
có vẻ… trống rỗng. Giống như một bức
tượng rỗng ruột, đôi mắt bị lôi ra cho
người ta thấy khoảng tối bên trong.

“Nói cho ta nghe, Clarissa… mẹ con


có bao giờ nhắc tới ta không?”

“Mẹ nói với tôi rằng bố tôi đã chết.”


Đừng nói thêm gì nữa, cô tự nhủ, nhưng
cô thừa hiểu hắn có thể đã đọc được
những gì cô muốn nói tiếp. Và tôi ước gì
mẹ tôi nói thật.
“Và mẹ chưa bao giờ nói con khác
biệt? Đặc biệt?”

Clary nuốt nước bọt, và đầu mũi kiếm


lại tiến sâu hơn một chút. Thêm nhiều
máu chảy xuống ngực. “Mẹ chưa bao giờ
bảo tôi là một Thợ Săn Bóng Tối.”

“Con có biết vì sao,” Valentine nói và


nhìn theo chiều dài thanh kiếm về phía
cô, “mẹ bỏ bố mà đi không?”

Nước mắt nóng bỏng trong cổ họng


Clary. Cô kêu nghen ứ trong họng. “Ý
ông là chỉ có một nguyên nhân thôi sao?”
“Mẹ con nói với ta,” hắn nói tiếp, như
thể Clary chưa từng cất lời, “rằng ta đã
biến đứa con đầu lòng của mẹ con thành
một con quái vật. Mẹ con bỏ ta trước khi
ta kịp làm điều tương tự với đứa con thứ
hai. Đó là con. Nhưng mẹ con đã quá
trễ rồi.”

Cái lạnh chạy trong cổ họng, trong


từng thớ thịt, quá mạnh mẽ khiến cô
không thể nào rùng mình được nữa. Cô
có cảm giác Thanh Kiếm đã biến cô
thành băng đá. “Mẹ chưa từng nói vậy,”
Clary thì thào. “Jace không phải quái
vật. Tôi cũng vậy.”

“Ta không nói về…”


Cửa sập trên đầu họ bật mở và hai
bóng đen nhảy xuống, ngay đằng sau
Valentine. Người đầu tiên, Clary nhìn
thấy mà hân hoan nhẹ nhõm, là Jace, bay
xuống như một mũi tên bắn ra khỏi cung,
nhắm thẳng mục tiêu. Anh chạm đất nhẹ
như lông hồng. Anh đang nắm trong tay
một thanh giằng be bết máu, một đầu bẻ
gãy nhọn nham nhở.

Người thứ hai hạ cánh xuống cạnh


Jace cũng nhẹ nhàng nhưng không uyển
chuyển như anh. Clary thấy loáng thoáng
một cậu thiếu niên gầy gò tóc đen và nghĩ
tới, Alec. Chỉ đến khi cậu ta đứng thẳng
dậy thì cô mới nhận ra khuôn mặt quen
thuộc và biết được đấy là ai.

Cô quên đi Thanh Kiếm, quên đi cái


lạnh, quên đi vết thương trên cổ họng,
quên đi mọi thứ. “Simon!”

Simon cũng đưa mắt nhìn cô. Ánh mắt


họ gặp nhau trong chốc lát và Clary
mong cậu hiểu những gì cô muốn nói và
đột nhiên thấy an tâm hơn rất nhiều.
Nước mắt nãy giờ đang chực tràn giờ cứ
thế trào ra, chảy tràn xuống khuôn mặt.
Cô không thèm quệt nước mắt.

Valentien quay đầu nhìn về sau, và


mồm há hốc theo kiểu ngạc nhiên thật sự
nhất Clary từng thấy nơi hắn. Hắn quay
phắt lại đối mặt với Jace và Simon.

Ngay khi mũi kiếm rời khỏi cổ Clary,


cơn lạnh buốt cũng theo đó biến mất,
mang theo toàn bộ sức mạnh của cô. Cô
khuỵu xuống, run rẩy không thể kiểm soát
được. Khi cô đưa tay lau nước mắt trên
mặt, cô thấy đầu ngón tay trắng bệch với
những triệu chứng bị phát cước.

Jace kinh hãi nhìn cô, rồi nhìn người


bố. “Ông đã làm gì em ấy?”

“Chẳng làm gì cả,” Valentine nói và


lấy lại bình tĩnh như cũ. “Chưa làm gì
hết.”
Clary ngạc nhiên khi thấy mặt Jace tái
đi, như thể lời bố nói làm anh choáng.

“Ta mới là người nên hỏi con đã làm


gì, Jonathan ạ,” Valentine nói, và dù hắn
nói với Jace nhưng ánh mắt lại dán lên
Simon. “Vì sao cái thứ kia còn sống?
Những con ma hút máu kia có thể tái sinh
nhưng không phải chỉ với một chút máu
còn sót lại.”

“Ý ông nói tôi ấy hả?” Simon hỏi.

Clary nhìn trân trối. Simon nói nghe


có vẻ khang khác. Cậu ấy không nói theo
kiểu trứng đòi khôn hơn vịt; cậu ấy nói
với tư thế một người có thể đối chọi
ngang tầm với Valentine Morgenstern.
Giống như một người xứng đáng được
đứng ngang hàng với ông ta. “Ồ, đúng
rồi, ông bỏ tôi chết ở đó mà. À, chết hơn
mới đúng.”

“Im ngay.” Jace lườm Simon; mắt anh


tối sầm. “Để tôi trả lời hộ cho.” Anh
quay sang bố. “Con cho Simon uống máu
con,” cậu nói. “Vì thế cậu ta không chết.”

Khuôn mặt rất đỗi nghiêm trọng của


Valentine hằn thêm vài nếp nhăn, như thể
xương đang trồi qua da thịt. “Con
nguyện ý để ma cà rồng uống máu con?”

Jace hình như hơi lưỡng lự trong giây


lát - anh liếc Simon, người đang dán mắt
nhìn Valentine với thái độ thù địch sâu
sắc. Rồi anh cẩn trọng cất lời. “Đúng.”

“Con không biết mình đã làm gì đâu,


Jonathan,” Valentine nói giọng kinh hãi.
“Con không hiểu đâu.”

“Con cứu mạng kẻ khác,” Jace nói.


“Kẻ mà bố cố giết. Con chỉ cần biết
vậy.”

“Không phải mạng người,” Valentine


nói. “Con đã hồi sinh một con quỷ chỉ
biết giết người hút máu. Giống loài
chúng lúc nào cũng đói khát…”
“Giờ tôi đang đói khát đây,” Simon
nói, và cười nhe những chiếc răng nanh
thòi khỏi lợi. Chúng trắng sáng và nhọn
hoắt thọc ra khỏi môi dưới của cậu. “Tôi
uống thêm chút máu nữa cũng đâu sao.
Tất nhiên máu ông có thể làm tôi mắc
nghẹn, đồ thứ độc địa chó…”

Valentine cười lớn. “Ta muốn mi làm


có được không đấy, tên hút máu kia. Khi
Thanh Kiếm Linh Hồn cắt phăng mi, mi
sẽ chết cháy thôi.”

Clary thấy ánh mắt Jace nhìn về thanh


kiếm rồi nhìn cô. Trong đó ẩn chứa một
câu hỏi không cần nói thành lời. Cô vội
nói. “Thanh Kiếm chưa biến đổi. Chưa
hẳn. Hắn chưa có được máu của Maia, vì
thế chưa hoàn thành nghi lễ…”

Valentine quay sang cô, thanh kiếm


trong tay, và cô thấy hắn mỉm cười.
Thanh Kiếm lóe sáng và có gì đánh trúng
cô - giống như khi bạn bị một cơn sóng
biển xô ngã, rồi lại nâng bạn lên ném bật
lên trời. Cô lăn lộn trên sàn, vô vọng cố
dừng lại, cho tới khi đập trúng vách ngăn
với lực mạnh tới thâm mình mẩy. Cô nằm
co quắp, há hốc miệng thở dốc và đau
đớn.

Simon lao tới bên cô. Valentine phạt


kiếm, và một vạt lửa sáng loáng chiếu
thẳng đứng bốc lên, sức nóng của nó
đánh bật Simon làm cậu ta loạng choạng
lùi lại.

Clary cố chống khuỷu tay ngồi dậy.


Miệng cô toàn máu là máu. Mọi thứ xung
quanh quay cuồng và cô tự hỏi mình đã
đập đầu mạnh thế nào và liệu cô có ngất
đi không. Cô vận hết ý chí để giữ được
tỉnh táo.

Ngọn lửa tàn đi nhưng Simon vẫn co


người trên sàn, có vẻ choáng. Valentine
chỉ liếc qua rồi nhìn sang Jace. “Nếu giờ
con giết con quỷ hút máu kia đi,” ông ta
nói, “con vẫn xóa được những tội lỗi của
mình.”
“Không,” Jace nói khẽ.

“Chỉ cần dùng thứ vũ khí trên tay con


và đâm xuyên tim hắn,” giọng Valentine
vẫn nhẹ nhàng. “Đơn giản thôi mà.
Không phải điều gì mới mẻ.”

Jace nhìn thẳng vào mắt bố mình.


“Con đã thấy Agramon,” anh nói. “Nó
mang khuôn mặt bố.”

“Con đã thấy Agarmon?” Thanh


Kiếm Linh Hồn sáng chói lọi khi
Valentine tiến về phía cậu con trai. “Và
con còn sống?”
“Con đã giết nó.”

“Con giết Con Quỷ của Nỗi Sợ, nhưng


con không giết một con ma cà rồng, kể cả
khi ta ra lệnh?”

Jace vẫn đứng quan sát Valentine, mặt


không có lấy một nét biểu cảm. “Cậu ta
quả thực là ma cà rồng,” anh nói.
“Nhưng tên cậu ta là Simon.”

Valentine dừng trước mặt Jace, tay


vẫn cầm chắc Thanh Kiếm Linh Hồn
đang tỏa ánh sáng hắc ám. Trong giây
phút kinh hoàng Clary tự nhiên sợ rằng
Valentine muốn đâm anh ngay tại chỗ, và
liệu Jace có để cho hắn ta toại ý không.
“Vậy ta nên hiểu,” Valentine nói,
“rằng con không thay đổi quan điểm nhỉ?
Những gì con nói với ta vào lần trước
tới đây, là câu trả lời cuối cùng của con,
hay giờ con đã hối hận vì không nghe lời
ta?”

Jace chậm rãi lắc đầu. Một tay anh


vẫn nắm chắc thanh giằng, nhưng tay kia
- tay phải - đặt ở thắt lưng, rút ra thứ gì
đó. Thế nhưng, mắt anh chưa bao giờ rời
khỏi Valentine, nhưng Clary không chắc
Valentine thấy điều anh đang làm. Cô hy
vọng là không.

“Đúng,” Jace nói, “con hối hận vì


không nghe lời bố.”

Không! Clary nghĩ, nhưng trái tim cô


chùng xuống. Có phải anh đang đầu hàng,
vì anh nghĩ đó là cách duy nhất để anh
cứu cô và Simon?

Nét mặt Valentine dịu lại.


“Jonathan…”

“Đặc biệt là,” Jace nói, “khi con định


làm lại điều đó. Ngay lúc này.” Tay anh
di chuyển, nhanh như ánh chớp, và có gì
đó bay trong không khí hướng về phía
Clary. Nó chỉ cách cô vài phân, rơi lanh
canh và lăn trên sàn nhà. Mắt cô mở lớn.
Thanh stele của mẹ.

Valentine bắt đầu cười dữ dội. “Một


thanh stele? Jace, con đùa ta hả? Hay
cuối cùng con cũng…”

Clary không nghe thấy ông ta nói gì


nữa; cô cố đứng lên, thở dốc khi cơn đau
chạy thẳng lên đầu. Mắt cô ngấn nước,
tầm nhìn mờ đi; cô vươn bàn tay run rẩy
nắm lấy thanh stele… và khi ngón tay cô
chạm tới nó, cô nghe thấy có giọng nói
trong đầu rõ ràng như thể mẹ đang đứng
bên cô. Nắm lấy thanh stele đi Clary.
Sử dụng nó đi. Con biết mình cần làm
gì mà.
Những ngón tay cô co giật nắm chặt
lấy thanh stele. Cô ngồi thẳng dậy, bỏ
qua cơn đau đang chạy rần rần trong đầu,
dọc xuống sống lưng. Cô là Thợ Săn
Bóng Tối, đau đớn là điều cô phải chịu
cả đời. Cô nghe tiếng văng vẳng đâu đây
tiếng Valentine gọi tên cô, nghe thấy
tiếng bước chân hắn đang tới gần hơn…
thế là cô lao người về phía vách ngăn, xả
thanh stele về phía trước với lực mạnh
nhất có thể, ngay khi mũi nó chạm vào
kim loại, cô nghĩ mình nghe thấy tiếng
kim loại nóng chảy kêu xèo xèo.

Cô bắt đầu vẽ. Như thường lệ khi cô


vẽ, thế giới như không tồn tại, mà chỉ còn
cô với thanh stele cùng vách ngăn kim
loại kia. Cô nhớ mình đã đứng bên ngoài
xà lim giam Jace và thì thầm nói với
mình, Mở ra, mở ra, mở ra, và cô biết
rằng mình dùng hết sức mạnh để tạo nên
chữ rune đã giật tung tất cả xiềng xích
giam Jace. Và cô biết rằng sức mạnh cô
dùng khi đó không bằng một phần mười,
một phần một trăm so với lần này. Tay
cô như bị bỏng và cô hét lên khi kéo lê
thanh stele trên bức tường kim loại, để
lại con chữ đen lớn như vệt than trên đó.
Mở ra.

Bao sự thất vọng, tức tối, tất cả sự


giận dữ trong cô tràn qua đầu ngón tay
tan chảy vào thanh stele và nhập vào chữ
rune. Mở ra. Tất cả tình yêu, tất cả sự
nhẹ nhõm khi nhìn thấy Simon còn sống,
tất cả niềm hy vọng rằng họ sẽ sống sót.
Mở ra!

Tay cô, vẫn nắm lấy thanh stele, rơi


phịch xuống. Trong thoáng chốc chỉ có
nỗi im lặng bao trùm tất cả bọn họ -
Jace, Valentine, kể cả Simon - nhìn chăm
chú vào chữ rune đang cháy lên trên
thành tàu.

Simon quay sang Jace, lên tiếng, “Nó


nghĩa gì thế?”

Nhưng Valentine mới là người trả lời,


mắt vẫn dán vào bức tường. Trên mặt
hắn có một biểu cảm gì đó - không giống
kiểu Clary từng đoán, mà là một sự pha
trộn giữa khải hoàn và kinh sợ, tuyệt
vọng và hân hoan. “Nó có nghĩa,” hắn
nói, “Mene mene tekel upharsin[1].”

[1] Trích trong Kinh thánh - Sách Daniel 5.


Vua Belshazzar nước Babylon trong một lần mở
tiệc, đã ra lệnh cho mang những chiếc cốc bằng
vàng bạc mà phụ vương ngài, Đức vua
Nebuchadnezzar, đã lấy từ đền thờ tại Jerusalem,
để cho ngài cùng vương tôn quý tộc sử dụng.
Trong khi uống, họ cùng nhau ca ngợi các vị thần
của vàng và bạc, của đồng, sắt, gỗ và đá.

Đúng lúc đó, trong điện xuất hiện một bàn tay
người viết vài dòng chữ lên vách tường quét vôi
của hoàng cung đằng sau trụ đèn. Kinh hoảng,
nhà vua cho truyền ông Daniel tới giải nghĩa. Ông
Daniel giải nghĩa, hành động sử dụng ly chén
trong thánh điện của nhà vua đã trái lại ý Chúa.
Ly chén trong Đền Thờ của Chúa, người ta đã
mang đến trước mặt ngài; ngài đã dùng các ly
chén ấy mà uống cùng với các đại thần, cung phi
và cung nữ. Ngài đã ngợi khen các thần bằng bạc,
vàng, đồng, sắt, gỗ và đá là những vật không thấy,
không nghe, không biết. Còn Thiên Chúa là Đấng
nắm trong tay sinh khí của ngài và điều khiển mọi
đường đi nước bước của ngài, ngài lại chẳng tôn
vinh. Vì thế Thiên Chúa mới cho bàn tay tới viết
hàng chữ kia: MENE, MENE, TEKEL, UPHARSIN -
nghĩa là:

MENE - đến - Thiên Chúa đã đến và chấm dứt


những ngày của triều đại ngài

TEKEL - cân - ngài đã bị đặt lên bàn cân và


thấy không đủ

UPHARSIN - phân chia - vương quốc của ngài


sẽ bị phân chia và rơi vào tay người Mede và
người Ba Tư
Đêm hôm đó, Đức Vua Belshazzar đã bị sát hại
và Darius người Mede đã lên trị vì vương quốc.

Và dòng chữ trên, được người đời biết đến là


Dòng chữ trên Tường.

Clary loạng choạng đứng dậy. “Không


phải,” cô thều thào. “Nó có nghĩa là mở
ra.”

Valentine nhìn thẳng vào mắt cô.


“Clary…”

Tiếng kim loại bị xé toạc vang lên


chói tai nhấn chìm lời hắn. Bức tường có
chữ rune của Clary, bức tường làm từ
kim loại đặc quánh, giờ vặn vọ rồi rùng
rùng. Đinh ốc bật ra khỏi lỗ tán và từng
vòi từng vòi nước bắn tràn vào phòng.

Cô nghe tiếng Valentine gọi, nhưng


giọng hắn nhận chìm trong âm thanh điếc
tai của kim loại bị giằng khỏi kim loại
khi những bu loong, những ốc vít, và mọi
đinh tán giữ các bộ phận trong con tàu
khổng lồ này với nhau bị giật tung ra.

Cô cố chạy tới chỗ Jace và Simon,


nhưng cô ngã quỵ xuống khi một đợt
nước trào qua cái lỗ hổng đang lớn dần
đánh trúng. Lần này nước lạnh băng nhấn
chìm cô xuống. Ở đâu đó Jace đang gọi
tên cô, giọng anh lớn và tuyệt vọng át
tiếng rít rền của con tàu. Cô chỉ kịp hét
gọi tên anh một lần duy nhất trước khi bị
cuốn phăng qua cái lỗ lởm chởm ra
ngoài sông.

Cô quay tròn và đấm đá loạn lên trong


dòng nước đen. Nỗi sợ hãi bóp nghẹt lấy
cô, nỗi sợ bóng tối mịt mùng cùng độ sâu
của dòng sông, sợ hàng triệu triệu tấn
nước xung quanh, đè lên người cô, rút
hết không khí khỏi phổi cô. Cô không
biết sao để ngoi lên và cũng không biết
nên bơi theo hướng nào. Cô không còn
nín thở nổi. Cô hít vào cả phổi nước bẩn,
ngực muốn nổ tung vì đau, sao nổ tung
trong mắt. Trong tai cô, thay vì tiếng
nước đang rần rần chảy tới là một giọng
hát ngọt ngào, ngân nga tới khó tin, Mình
đang chết, cô mơ màng nghĩ. Một bàn
tay trắng bệch thò xuống mặt nước đen
và kéo cô lại gần. Mái tóc dài ôm quanh
mặt bà. Mẹ, Clary nghĩ, nhưng trước khi
cô kịp thấy rõ khuôn mặt mẹ, bóng tối đã
vuốt mắt cô nhắm lại.

Clary tỉnh lại khi những giọng nói


vang lên chung quanh và ánh sáng chiếu
vào mắt. Cô nằm ệp lưng trên nền xe
bằng tôn sóng của xe chú Luke. Bầu trời
đen xám lừng lững trên đầu. Cô ngửi thấy
mùi nước sông xung quanh lẫn với mùi
khói và máu. Những khuôn mặt trắng
bệch nhìn cô trông như những quả bóng
bay cột vào dây. Chúng chụm lại khi cô
chớp mắt.
Chú Luke. Và Simon. Cả hai đang
nhìn cô với sự quan tâm lo lắng. Cô nghĩ
hình như tóc chú Luke đã bạc trắng; rồi,
chớp mắt, cô nhận ra trên tóc chú dính
toàn tro. Thật ra, trong không khí cũng
vậy - nó có vị của tro bụi nữa - và quần
áo lẫn tay chân họ đều lốm đốm bụi tro
đen kít.

Cô ho hắng, nếm thấy vị tro trong


miệng. “Jace đâu rồi?”

“Anh ấy…” Simon nhìn chú Luke và


Clary cảm thấy như tim lỗi nhịp.
“Anh ấy ổn chứ ạ?” cô hỏi. Cô cố
ngồi thẳng dậy và đột nhiên đầu cô đau
vô cùng. “Anh ấy đâu? Anh ấy đâu?”

“Anh đây.” Jace hiện ra, khuôn mặt bị


bóng tối phủ lấy. Anh quỳ xuống bên
cạnh. “Anh xin lỗi. Anh nên ở đây khi em
tỉnh lại. Chỉ là…”

Giọng anh lạc đi.

“Chỉ là sao?” Cô chăm chú nhìn,


ngược sáng với ánh sao, tóc anh mang
màu bạc chứ không hẳn vàng, mắt anh
không còn chút màu sắc. Còn làn da anh
vằn vện vệt đen vệt xám.
“Thằng bé cũng tưởng cháu đã chết,”
chú Luke nói và đột nhiên đứng dậy. Chú
nhìn ra dòng sông, nhìn vào thứ gì đó
Clary không thấy. Những cuộn khói xoáy
tròn màu đen và đỏ sậm bốc lên, như thể
ở kia đang có một đám mây.

“Cũng chết ư? Vậy còn ai…?” Cô


ngừng nói vì cơn đau ghê gớm bóp nghẹt
lấy cô. Jace thấy nét mặt cô liền cho tay
vào túi, rút thanh stele ra.

“Nằm im nào, Clary.” Cẳng tay cô


bỏng rẫy, và rồi đầu óc cô tỉnh táo lại.
Cô ngồi dậy và thấy mình đang ngồi trên
tấm ván ướt được đặt sát đầu thùng xe.
Nước tràn vào tới vài phân, hòa cùng
những cuộn tro đang bay lả tả từ trên trời
xuống như một cơn mưa đen đẹp mắt.

Cô nhìn xuống nơi Jace đã vẽ Ấn Ký


trị thương trong bụng cánh tay. Cô đã bớt
yếu hơn, như thể anh đã truyền sức mạnh
vào mạch máu cô.

Anh lần ngón tay theo chữ iratze anh


vẽ cho cô rồi rụt tay lại. Tay anh lạnh và
ướt như da cô vậy. Phần người còn lại
của anh cũng ướt; tóc ướt sũng còn quần
áo dính chặt vào người.

Trong miệng cô có vị hăng hăng cay


cay như thể liếm đáy gạt tàn thuốc lá vậy.
“Có chuyện gì vậy? Có hỏa hoạn à?”
Jace nhìn sang chú Luke, người đang
nhìn xuống dòng sông nhấp nhô sóng
đen-xám. Trên mặt nước thấp thoáng
những con thuyền nhỏ, nhưng không còn
tàu của Valentine. “Ừ,” chú nói. “Tàu
của Valentine đã cháy rụi trên mặt nước.
Không còn sót lại lấy một mảnh.”

“Còn mọi người đâu?” Clary nhìn


sang Simon, người duy nhất khô ráo.
Trên nước da vốn đã tái xanh của cậu ấy
giờ có thêm chút sắc xanh, như thể bị ốm
hay lên cơn sốt vậy. “Isabelle và Alec
đâu?”

“Họ lên thuyền của Thợ Săn Bóng Tối


rồi. Họ vẫn bình an.”

“Còn Magnus?” cô quay đầu nhìn


khoang xe, nhưng trong đó không có ai.

“Anh ta cần đi trị thương cho một số


Thợ Săn Bóng Tối bị thương nặng,” chú
Luke trả lời.

“Nhưng mọi người vẫn ổn cả chứ ạ?


Alec, Isabelle, Maia… họ ổn hết chứ
ạ?” Giọng Clary lí nhí và yếu ớt kể cả
đối với cô.

“Isabelle bị thương,” chú Luke nói.


“Robert Lightwood cũng vậy. Ông ấy cần
một thời gian dài mới khỏe lại được. Rất
nhiều Thợ Săn Bóng Tối, kể cả Malik và
Imogen đã tử trận. Đây là một trận chiến
khó khăn, Clary, chúng ta cũng tổn thất
nhiều. Valentine đã biến mất. Thanh
Kiếm cũng vậy. Đội Conclave tả tơi.
Chú không biết…”

Chú ngừng bặt. Clary nhìn chú chăm


chú. Có gì đó trong giọng nói của chú
làm cô sợ. “Cháu xin lỗi. Đây là lỗi của
cháu. Nếu cháu không…”

“Nếu em không làm những gì em đã


làm, Valentine sẽ giết chết tất cả mọi
người trên tàu,” Jace khẳng định. “Em
làm điều duy nhất giúp chúng ta tránh
khỏi vụ thảm sát.”

Clary nhìn anh. “Anh muốn nói đến


điều em làm với chữ rune ư?”

“Cháu đã xé con thuyền ra thành nhiều


mảnh vụn,” chú Luke nói. “Mọi cái bu
lông, mọi cái đinh tán, tất cả những thứ
ghép nối con thuyền lại với nhau, đều rời
ra hết. Cái thứ kia phút chốc tan tành
trăm ngả. Những thùng dầu cũng vỡ ra.
Hầu hết bọn chú chỉ kịp nhảy xuống nước
trước khi nó cháy. Điều cháu đã làm…
chưa ai từng thấy bao giờ.”

“Ồ,” Clary lí nhí nói. “Có ai… cháu


có làm ai bị thương không?”
“Vài con quỷ bị chết chìm theo con
thuyền,” Jace nói. “Nhưng không một
Thợ Săn Bóng Tối nào bị thương cả,
không hề.”

“Vì họ biết bơi ư?”

“Vì họ được cứu. Những tinh linh


nước kéo bọn anh lên.”

Clary nghĩ tới những bàn tay trong


nước, tới giọng hát ngọt ngào khó tin
chung quanh mình. Thì ra đúng là không
phải mẹ. “Ý anh là các tiên nước á?”
“Nữ Hoàng Seelie đã tới, theo cách
của bà ta,” Jace nói. “Bà ta từng hứa
giúp chúng ta trong khả năng có thể.”

“Nhưng sao bà ta…” Sao bà ta biết?


Clary định nói, nhưng bỗng nhớ tới ánh
mắt thông thái và tinh ranh của Nữ
Hoàng, và chuyện Jace ném mẩu giấy
trắng xuống dòng nước bên bờ biển tại
Red Hook, và quyết định không hỏi nữa.

“Thuyền của Thợ Săn Bóng Tối bắt


đầu di chuyển rồi kìa,” Simon nói khi
nhìn ra sông. “Tớ nghĩ họ đã trục vớt tất
cả những ai có thể rồi.”

“Đúng.” Chú Luke đứng thẳng vai.


“Giờ chúng ta cũng đi thôi.”

Chú từ từ tiến về phía khoang xe…


chú hơi tập tễnh, dù trông hầu như không
hề hấn gì.

Chú Luke chui vào ghế tài xế, và


trong một lát động cơ lại nổ máy. Họ rẽ
nước rời đi, những giọt nước bắn tung
tóe trong khi bánh xe xoay tròn trên mặt
nước màu xám bạc, trong ánh mặt trời
đang lên.

“Thật là lạ,” Simon nói. “Tớ cứ nghĩ


tới việc chiếc xe sẽ chìm cơ.”
“Tôi không thể tin nổi cậu vừa trải
qua tất cả những chuyện vừa qua mà vẫn
nghĩ vụ này có gì kỳ quặc,” Jace nói
nhưng trong giọng anh không có chút khó
chịu hay ác ý nào. Anh chỉ rất, rất mệt.

“Nhà Lightwood rồi sẽ ra sao?”


Clary hỏi. “Sau mọi chuyện đã xảy ra…
Hội đồng Clave…”

Jace nhún vai. “Cung cách làm việc


của Hội đồng Clave bí ẩn lắm. Anh
không biết họ sẽ làm gì. Nhưng họ sẽ rất
hứng thú với em đấy. Và với khả năng
của em.”

Simon khụt khịt. Clary ngay lập tức


nghĩ đó là tiếng ám chỉ sự phản đối,
nhưng khi cô nhìn kỹ hơn, cô chưa thấy
cậu ấy xanh xao tới nhường đó. “Sao thế
Simon?”

“Do dòng sông,” cậu ấy nói. “Dòng


nước lưu chuyển không tốt cho ma cà
rồng. Nó quá thanh khiết… còn bọn tớ
thì không.”

“Dòng sông Đông khó nói là thanh


khiết được,” Clary nói nhưng cô vẫn
vươn tay nhẹ nhàng chạm vào tay bạn.
Cậu cười với cô. “Cậu không rơi xuống
nước khi thuyền tan ra à?”

“Không. Có một mảnh kim loại nổi


trên mặt nước và Jace ném tớ lên trên
đó. Tớ tránh xa dòng sông.”

Clary liếc nhìn Jace. Cô có thể thấy


anh rõ hơn đôi chút; bóng tối đã nhạt
dần. “Cám ơn anh,” cô nói. “Anh có
nghĩ…”

Anh nhíu mày. “Anh có nghĩ gì?”

“Rằng Valentine có thể bị chết đuối


không?”

“Đừng tin rằng kẻ xấu sẽ chết trừ khi


cậu thấy thi thể hắn,” Simon nói. “Làm
thế chỉ dẫn tới những tình huống không
vui hay bị đánh lén bất ngờ thôi.”

“Cậu nói không sai,” Jace bảo. “Anh


đoán là ông ta chưa chết. Nếu không
chúng ta đã tìm thấy các Bảo Bối rồi.”

“Hội đồng Clave có thể tiếp tục hoạt


động mà không có chúng không? Dù
Valentine còn sống hay đã chết?” Clary
phân vân.

“Hội đồng Clave sẽ vẫn tiếp tục hoạt


động,” Jace nói. “Họ luôn biết cách hoạt
động mà.” Anh quay về phía chân trời
hướng đông. “Mặt trời đang lên.”
Simon đờ người. Clary nhìn bạn hơi
ngạc nhiên, rồi sợ hãi tới choáng váng.
Cô quay phắt người nhìn theo Jace. Anh
nói đúng - đường chân trời phía đông là
một vệt màu đỏ máu loang ra từ chiếc
đĩa vàng. Clary có thể thấy mặt trời bắt
đầu nhô lên, nhuộm mặt nước quanh họ
sang thứ màu trộn lẫn giữa xanh lá cây,
đỏ sậm và vàng cam quai quái.

“Không!” Cô thì thào.

Jace ngạc nhiên nhìn cô, và rồi nhìn


Simon, người đang ngồi im bất động,
nhìn mặt trời đang lên như một con chuột
không còn đường thoát giương mắt nhìn
mèo. Jace vội đứng dậy và nhảy lên mui
xe. Anh thì thào nói gì đó. Clary thấy chú
Luke quay sang nhìn cô và Simon, rồi lại
nhìn Jace. Chú lắc đầu.

Chiếc xe lao lên. Hẳn chú Luke đã


nhấn mạnh chân ga. Clary nắm lấy thanh
xe để ngồi cho vững. Phía trên, Jace
đang hét bảo chú Luke tìm cách cho cái
xe chết tiệt này chạy nhanh hơn, nhưng
Clary biết họ không thể chạy nhanh hơn
ánh sáng được.

“Phải có cách gì đó chứ,” cô nói với


Simon. Cô không tin rằng chỉ năm phút
nữa cô sẽ từ nhẹ nhõm không bút nào tả
xiết thành kinh hoàng không sao diễn tả.
“Có thể bọn mình sẽ che chắn được cho
cậu, bằng quần áo…”

Simon vẫn nhìn mặt trời, mặt trắng


bệch. “Một đống giẻ rách không ăn thua
gì đâu,” cậu nói. “Raphael giải thích -
chúng mình cần tường mới tránh được
ánh mặt trời. Mặt trời vẫn thiêu rụi tụi
mình qua quần áo.”

“Nhưng phải có cách gì chứ…”

“Clary.” Giờ cô đã nhìn rõ hơn trong


ánh hừng đông xám xịt, mắt cậu mở lớn
và đen thẫm, nổi bật trên khuôn mặt trắng
bệch. Cậu chìa tay cho cô. “Tới đây.”
Cô nhào vào lòng cậu, cô dùng cơ thể
cô để che chắn cho bạn, càng nhiều càng
tốt. Cô biết là vô dụng. Khi mặt trời
chạm tới Simon, cậu sẽ biến thành tro
bụi.

Họ ngồi im lặng một lúc, những cánh


tay ôm choàng lấy nhau. Clary cảm nhận
lồng ngực cậu bạn trồi lên hạ xuống -
như một thói quen, nhưng không cần
thiết. Cậu có thể không thở, nhưng cậu
vẫn có thể chết.

“Mình không để cậu chết đâu,” cô nói.

“Mình không nghĩ cậu có quyền


chọn.” Cô thấy bạn mình cười. “Mình
không nghĩ mình còn nhìn thấy mặt trời
nữa,” cậu nói. “Nhưng mình đã sai.”

“Simon…”

Jace hét gì đó. Clary ngước lên. Bầu


trời nhuộm màu hoa hồng, giống như
thuốc nhuộm hòa vào nước trong. Simon
căng thẳng trong tay cô. “Mình yêu cậu,”
Simon nói. “Mình chưa bao giờ yêu ai
ngoài cậu.”

Những sợi chỉ vàng chiếu qua bầu trời


màu hồng nhạt giống như những đường
gân vàng kim chạy trên loại đá hoa
cương đắt tiền. Mặt nước xung quanh lấp
lánh ánh sáng và Simon đờ đẫn, ngửng
đầu, đôi mắt mở to đong đầy ánh vàng
như chất lỏng nấu chảy đang dâng lên
trong đáy mắt. Những đường đen xuất
hiện trên da cậu giống như những vết nứt
trên một bức tượng hỏng.

“Simon!” Clary hét vang. Cô vươn tay


về phía cậu nhưng thấy đột ngột bị kéo ra
sau; là Jace, hai tay nắm lấy vai cô. Cô
cố thoát ra nhưng anh giữ cô rất chặt; anh
thì thầm gì đó vào tai cô, nói đi nói lại,
và mãi một lúc sau cô mới hiểu anh vừa
nói gì.

“Clary, nhìn đi. Nhìn đi.”

“Không!” Cô đưa tay lên che mặt. Cô


có thể cảm nhận vị nước lờ lợ trong lòng
bàn tay. Nó có vị mặn, như nước mắt.
“Em không muốn nhìn. Em không
muốn…”

“Clary.” Jace nắm lấy cổ tay cô, gỡ


tay cô khỏi mặt. Ánh bình minh làm cô
cay mắt.

“Nhìn đi.”

Cô nhìn theo. Và nghe thấy hơi thở


mình khò khè trong phổi khi cô há hốc.
Simon ngồi thẳng người dựa lưng vào ca
bin, người nhuộm trong ánh nắng, mồm
há ra và đang cúi xuống nhìn mình. Mặt
trời nhảy múa trên mặt nước đằng sau
cậu và đuôi tóc cậu lấp lánh như vàng.
Cậu ấy không thể bị biến thành tro bụi,
mà ngồi yên lành trong ánh nắng, và
nước da trắng xanh của khuôn mặt và bàn
tay không hề bị tổn thương.

Bên ngoài Học Viện, màn đêm đã


buông xuống. Ánh hoàng hôn đỏ nhờ
chiếu vào cửa sổ phòng ngủ của Jace khi
anh đang ngồi nhìn đống đồ đạc chất trên
giường. Đống đồ đạc đó nhỏ hơn anh
nghĩ. Suốt bảy năm sống ở nơi đây mà
anh cũng chỉ có thế: một nửa ba lô là
quần áo, một chồng sách nhỏ và vài thứ
vũ khí.

Anh phân vân về chuyện có nên mang


vài thứ mình giữ lại được từ căn nhà nhỏ
tại Idris đi cùng không. Magnus đã trả lại
cho anh cái nhẫn bạc của bố, nhưng giờ
anh chẳng muốn đeo nó chút nào nữa.
Anh cho nó vào chiếc dây chuyền đeo
trên cổ. Cuối cùng, anh quyết định cầm
theo mọi thứ: Không việc gì phải để lại
bất cứ thứ gì tại cái nơi này.

Anh đang chất đồ thì nghe có tiếng gõ


cửa. Anh ra mở cửa, nghĩ là Alec hoặc
Isabelle.

Là bà Maryse. Bà mặc bộ váy đen


tuyền và tóc buộc gọn không rơi ra lấy
một sợi. Trông bà già hơn bình thường.
Hai đường hằn sâu chạy theo khóe miệng
xuống cằm. Chỉ có đôi mắt là còn chút
màu sắc. “Jace,” bà nói. “Ta vào được
không?”

“Mẹ thích làm gì thì làm,” anh nói và


trở lại giường. “Đây là nhà mẹ cơ mà.”
Anh nắm lấy một đống áo sơ mi tống vào
ba lô với một lực mạnh không cần thiết.

“Thực ra, đây là tài sản của Hội đồng


Clave,” bà Maryse nói. “Nhà mình chỉ là
những người bảo vệ nó thôi.”

Jace nhét sách vào túi. “Gì cũng


được.”
“Con đang làm gì đấy?” Nếu Jace
không nhầm thì giọng bà hình như hơi
run.

“Con đang dọn đồ,” anh đáp. “Mọi


người thường làm vậy khi họ dọn đi.”

Maryse tái nhợt đi. “Đừng đi,” bà nói.


“Nếu con muốn ở lại…”

“Con không muốn ở lại. Con không


thuộc về đây.”

“Con định đi đâu?”

“Nhà chú Luke,” anh nói và thấy bà


hơi giật mình. “Một thời gian. Sau đó
con cũng không biết. Có lẽ là về Idris.”

“Con nghĩ con thuộc về nơi đó ư?”


Giọng bà vương nét âu sầu đau đớn.

Jace ngừng xếp đồ một lát và nhìn cái


túi. “Con không biết con thuộc về đâu
nữa.”

“Thuộc về gia đình con.” Maryse lo


lắng bước thêm một bước. “Thuộc về
chúng ta.”

“Mẹ đã đẩy con ra.” Jace nghe trong


giọng mình có chút khắc nghiệt, và cố
nhẹ giọng hơn. “Con xin lỗi,” anh nói và
quay sang nhìn bà “Về mọi chuyện đã
xảy ra. Nhưng trước đây mẹ đã không
cần con thì giờ con cũng không nghĩ mẹ
cần gì con nữa. Bố Robert hẳn sẽ mệt
một thời gian; mẹ nên đi chăm sóc bố.
Con sẽ chỉ làm mẹ vướng víu tay chân
thôi.”

“Vướng víu tay chân ư?” Bà có vẻ


ngờ vực. “Robert muốn gặp con, Jace
à…”

“Con không nghĩ vậy.”

“Còn Alec thì sao? Isabelle, Max…


chúng cần con. Nếu con không tin rằng ta
muốn con sống ở đây… và ta không trách
gì con nếu con nghĩ vậy… con phải biết
rằng chúng cần con chứ. Chúng ta đã trải
qua những thời khắc khó khăn, Jace ạ.
Xin con đừng làm chúng tổn thương
nhiều hơn nữa.”

“Không công bằng.”

“Ta không trách con nếu con ghét ta.”


Giọng bà quả thực là run run. Jace ngạc
nhiên quay phắt lại nhìn bà. “Nhưng điều
ta đã làm - kể cả khi đuổi con đi - ta đã
đối xử với con như vậy, là để bảo vệ
con. Và vì ta sợ.”

“Sợ con ư?”


Bà gật đầu.

“Ừm, như thế còn làm con thấy khá


hơn nhiều lắm.”

Bà Maryse hít một hơi thật sâu. “Ta


nghĩ con sẽ làm ta đau lòng giống như
Valentine vậy,” bà nói. “Con biết không,
con là người đầu tiên, sau Valentine,
không có quan hệ ruột thịt với ta, nhưng
lại khiến ta yêu thương hết thảy. Con
người đầu tiên đó. Và con chỉ là một đứa
nhỏ…”

“Mẹ nghĩ con là một người khác.”


“Không. Ta luôn biết con là ai. Kể từ
lần đầu tiên đón con từ chuyến tàu đến từ
Idris, khi con mới lên mười - con đã
bước vào trái tim ta, cũng giống như
những đứa con ta dứt ruột đẻ ra.” Bà lắc
đầu. “Con không hiểu nổi đâu. Con chưa
làm cha mẹ. Con chưa bao giờ yêu ai
như yêu con mình. Và không gì có thể
làm con tức giận hơn.”

“Con hiểu về phần tức giận,” Jace


nói, sau một hồi im lặng.

“Ta không mong được con tha thứ,”


bà Maryse nói. “Nhưng nếu con ở lại vì
Isabelle, Alec và Max, ta rất biết ơn…”
Bà đã nói sai ở đó. “Con không cần
mẹ biết ơn,” Jace nói và tiếp tục nhét đồ
vào ba lô. Giờ chẳng còn gì để nhét vào
nữa. Anh kéo khóa.

“A la claire fontaine,” bà Maryse


nói, “m’en allent promener[2].”

[2] Bài hát nhạc Pháp - A La Claire Fontaine


(Bên Dòng Suối Trong Xanh)

Bên con suối nhỏ chảy trong veo. Tôi lang


thang vào một ngày mùa hạ… Mẹ đã yêu con từ
lâu lắm rồi. Mai này con sẽ mãi ở trong tim mẹ.

Anh quay qua nhìn. “Cái gì ạ?”


“Il y a longtemps que je t’aime.
Jamais je ne t’oublierai - đó là bài hát
ru ta thường hát cho Alec và Isabelle
nghe. Con đã hỏi ta bài hát đó.”

Giờ trong phòng chỉ còn ít ánh sáng,


và bóng tối, bà Maryse nhìn cậu như hồi
cậu lên mười, như thể bảy năm qua bà
chưa thay đổi chút nào. Bà có vẻ lo lắng,
căng thẳng và nghiêm trang - và hy vọng.
Bà giống như người mẹ duy nhất anh
từng biết.

“Con đã sai khi nói ta chưa từng hát


cho con nghe,” bà nói. “Chỉ là con chưa
bao giờ nghe ta hát.”
Jace không nói gì mà với lấy cái túi
mở tung khóa, đổ đồ đạc xuống giường.
Phần kết

“Clary!” mẹ Simon mặt mũi ngời


ngời khi thấy cô đứng ngoài cửa. “Lâu
lắm rồi bác không gặp con. Bác cứ lo là
con với Simon cãi nhau.”

“Dạ không có đâu ạ,” Clary nói. “Dạo


gần đây cháu bị ốm thôi ạ.” Kể cả khi
bạn được chữa trị bằng chữ rune trị
thương, nhưng bạn không phải là vạn
bệnh bất xâm. Cô không ngạc nhiên khi
tỉnh dậy vào sáng hôm sau trận chiến mà
đầu đau như búa bổ và lên cơn sốt; cô
nghĩ mình bị cảm lạnh - ai lại không bị
chứ, sau khi chết cóng trong quần áo ướt
giữa không gian mênh mang trời nước
trong nhiều giờ? - nhưng Magnus bảo cô
kiểu như bị kiệt sức sau khi đã tạo ra chữ
rune hủy diệt cả con tàu của Valentine.

Mẹ Simon tặc lưỡi thương cảm.


“Chắc con cũng sốt virus giống Simon
nhà bác hồi tuần trước rồi. Thằng bé còn
chẳng rời giường nổi cơ mà.”

“Nhưng giờ bạn ấy đỡ rồi chứ ạ?”


Clary nói. Cô biết là thế nhưng cô muốn
nghe lại.

“Ừ. Thằng bé đang ở ngoài vườn sau.


Cháu cứ đi qua cổng nhé.” Bác gái mỉm
cười. “Gặp cháu nó mừng lắm đấy.”

Những dãy nhà gạch đỏ trên khu phố


nhà Simon cách nhau bởi những hàng rào
sắt uốn sơn trắng đẹp đẽ, với một cánh
cổng dẫn ra một khu vườn nhỏ sau nhà.
Bầu trời trong xanh còn không khí hơi
lạnh, dù mặt trời lên rực rỡ. Clary cảm
nhận thấy sắp có tuyết rơi rồi.

Cô đóng cổng lại sau lưng và đi tìm


Simon. Quả là cậu đang ở sau vườn, nằm
trên chiếc ghế dài cùng một cuốn truyện
tranh mở trong lòng. Cậu bỏ nó sang bên
khi thấy Clary và ngồi thẳng dậy cười toe
toét. “Ê, bé yêu.”
“Bé yêu?” Cô ngồi xuống bên. “Cậu
đùa mình à?”

“Mình chỉ thử thôi. Không được à?”

“Không được,” cô khẳng định và


nhoài sang hôn lên môi bạn. Khi cô ngồi
dậy, những ngón tay Simon còn nán lại
trên tóc cô, nhưng ánh mắt lại tràn ngập
ưu tư.

“Mình mừng vì cậu sang,” Simon nói.

“Mình cũng vậy. Đáng ra tớ tới sớm


hơn, nhưng…”
“Cậu bị ốm. Mình biết.” Cô mất cả
tuần nằm trên ghế dài nhà chú Luke, trùm
trong chăn và nằm xem phần chiếu lại
của bộ phim truyền hình CSI và nhắn tin
cho bạn. Thật vui vẻ khi được sống trong
một thế giới mọi điều khúc mắc đều có
một câu trả lời khoa học, hợp lý.

“Giờ mình đỡ hơn rồi.” Cô liếc nhìn


xung quanh và rùng mình, kéo chiếc áo
cardigan trắng sát người hơn. “Sao cậu
lại nằm ngoài nhà trong thời tiết này
chứ? Cậu không lạnh à?”

Simon lắc đầu. “Giờ mình không còn


thấy lạnh hay nóng nữa. Hơn nữa,” đôi
môi Simon cong lên thành một nụ cười -
“tớ muốn hưởng thụ càng nhiều thời gian
dưới ánh mặt trời càng tốt. Mình vẫn
buồn ngủ vào ban ngày, nhưng mình đang
chống chọi lại.”

Cô vuốt ve má cậu. Má cậu được mặt


trời sưởi ấm, nhưng dưới đó da vẫn lạnh.
“Nhưng mọi chuyện khác vẫn… vẫn vậy
chứ?”

“Cậu nói mình vẫn là ma cà rồng hả?


Ừ. Hình như là vậy. Vẫn muốn uống máu.
Vẫn không có nhịp tim. Và mình phải
tránh bác sĩ, nhưng vì ma cà rồng không
bị ốm…” Cậu nhún vai.
Nguồn ebook: https://www.dtv-ebook.com

“Và cậu đã nói chuyện với Raphael?


Anh ta cũng không biết sao cậu ra ngoài
vào ban ngày được hả?”

“Ừ. Và anh ta hình như cũng bực vụ


ấy lắm.” Simon ngái ngủ chớp mắt với
cô, như thể bây giờ là hai giờ sáng chứ
không phải hai giờ chiều. “Mình nghĩ
mình làm anh ta bực vì những thứ tưởng
chừng như quy luật lại bị phá vỡ. Hơn
nữa, anh ta sẽ phải gặp nhiều khó khăn
hơn để bắt mình lang thang vào đêm
trong khi mình cứ thích đi chơi vào ban
ngày đấy.”
“Cậu nghĩ anh ta sẽ mừng bấn lên
mà.”

“Ma cà rồng không thích thay đổi. Họ


rất truyền thống.” Simon cười với Clary,
và cô nghĩ, Cậu ấy sẽ mãi thế này. Khi
mình năm mươi hoặc sáu mươi, cậu ấy
vẫn trông như mười sáu. Không hề vui
chút nào. “Nhưng mà, thế cũng tốt cho sự
nghiệp âm nhạc của mình. Nếu như bà
Anne Rice[1] đúng chỗ nào, thì đó là
chuyện ma cà rồng có thể trở thành những
ngôi sao nhạc rock cự phách.”

[1] Anne Rice: tiểu thuyết gia người Mỹ (1941),


thành công với cuốn sách lấy đề tài về ma cà rồng
Vampires Chroconicle, sau này được dựng thành 2
bộ phim Interview with the Vampire: The Vampire
Chronicle (1994) và Queen of the Damned (2002)

“Tớ không nghĩ thông tin đó đáng tin.”

Cậu dựa người vào ghế. “Cái đó hả?


Tất nhiên, ngoài cậu ra làm gì còn thứ gì
đáng tin.”

“Đáng tin á? Cậu nghĩ về mình vậy


hả?” cô chế giễu hỏi. “Không lãng mạn tí
nào.”

Mặt cậu bạn tối đi. “Clary…”

“Cái gì? Giờ là gì thế?” Cô nắm lấy


tay Simon. “Cậu đang sử dụng giọng báo
tin buồn rồi.”

Cậu không nhìn cô nữa. “Mình không


biết có phải tin buồn hay không.”

“Không buồn thì vui thôi,” Clary nói.


“Cứ nói với mình là cậu ổn đi.”

“Mình ổn,” Simon đáp. “Nhưng… tớ


không biết bọn mình còn nên gặp nhau
nữa không.”

Clary suýt rơi xuống ghế. “Cậu không


muốn làm bạn với mình nữa sao?”

“Clary…”
“Vì chuyện lũ quỷ ư? Vì mình khiến
cậu thành ma cà rồng à?” Giọng cô càng
lúc càng lên cao. “Mình biết mọi chuyện
gần đây khá điên rồ, nhưng mình có thể
giúp cậu tránh xa những chuyện đó. Mình
có thể…”

Simon nhăn mặt. “Cậu bắt đầu nói


nghe giống cá heo rồi đấy, cậu biết
không? Ngừng lại đi.”

Clary ngừng.

“Mình vẫn muốn chúng ta là bạn,” cậu


nói. “Chỉ là mình không chắc về chuyện
khác kia.”

“Chuyện khác nào?”

Simon bắt đầu đỏ mặt. Cô không biết


ma cà rồng cũng đỏ mặt được. Trông đối
lập kỳ lạ với nước da trắng xanh của cậu
bạn. “Chuyện bạn trai bạn gái ấy mà.”

Clary im lặng một lúc lâu, cố tìm lời


để nói. Cuối cùng, cô mở lời: “Ít nhất
cậu cũng không dùng từ ‘chuyện hôn hít’.
Mình sợ cậu sẽ gọi thế.”

Simon nhìn xuống hai bàn tay hai


người, đang đan vào nhau trên ghế nhựa.
Những ngón tay cô thật nhỏ nhắn giữa tay
cậu, nhưng lần đầu tiên, da cô sẫm màu
hơn. Simon lơ đãng dùng ngón tay cái
vuốt ve những đốt khớp ngón tay cô và
nói, “Mình sẽ không bao giờ gọi vậy
đâu.”

“Mình tưởng đó là điều cậu muốn,”


cô nói. “Mình tưởng cậu nói rằng…”

Simon ngước lên nhìn cô qua hàng


lông mi đen. “Rằng mình yêu cậu ư?
Mình vẫn yêu cậu. Nhưng đó không phải
mọi chuyện.”

“Vì Maia ư?” Răng cô đập vào nhau


lập cập, nhưng lạnh chỉ là một phần. “Vì
cậu thích cô ấy?”

Simon ngần ngừ. “Không. Ý mình là


có, mình thích cô ấy, nhưng không phải
theo cách cậu nghĩ. Chỉ là khi ở cạnh cô
ấy - mình biết cảm giác có ai đó yêu
thích mình vì chính bản thân mình là như
thế nào. Và không hề giống như khi mình
ở cạnh cậu.”

“Nhưng cậu không yêu cô ấy…”

“Có thể một ngày mình sẽ yêu.”

“Có thể một ngày nào đó mình cũng sẽ


có thể yêu cậu.”
“Nếu có ngày đó,” cậu nói, “hãy tới
và nói cho mình biết. Cậu biết phải tìm
mình ở đâu.”

Răng cô bắt đầu va vào nhau lập cập


lớn hơn. “Mình không thể mất cậu,
Simon ạ. Mình không thể.”

“Không bao giờ. Mình không bỏ rơi


cậu đâu. Nhưng mình thà là chúng ta vẫn
giữ nguyên mối quan hệ bây giờ, rất chân
thật và quan trọng, hơn là buộc cậu phải
vờ vịt khác đi. Khi mình ở bên cậu, mình
muốn biết mình đang ở với chính cậu,
với Clary thật sự kìa.”

Cô dựa đầu vào Simon, nhắm mắt lại.


Cậu vẫn cho cô cảm giác của Simon, dù
cho mọi chuyện đã xảy ra; vẫn có mùi vị
của Simon, giống như bột giặt. “Có lẽ
mình cũng không biết Clary thực sự là
ai.”

“Nhưng mình biết.”

Chiếc xe bán tải mới cóng của chú


Luke đang ở chế độ chờ bên lề đường
khi Clary rời nhà Simon, đóng cổng lại
sau lưng.

“Chú đã đưa cháu đến. Chú không cần


phải đón cháu đâu mà,” cô vừa nói vừa
vào ngồi bên cạnh chú. Cô biết ngay rằng
chú Luke sẽ thay chiếc xe cũ bị hỏng
toàn phần bằng chiếc mới y như xe trước
thôi mà.

“Bỏ qua cho chú vì chú quá lo lắng


như một bậc phụ huynh nhé,” chú Luke
đưa cho cô một cốc cà phê giấy. Cô nhấp
một ngụm - không sữa và thật nhiều
đường, đúng kiểu cô thích. “Dạo gần đây
chú cứ chộn rộn mỗi khi không thấy cháu
trong tầm mắt.”

“Ồ thế ư?” Clary cầm chặt cốc cà phê


để nó không sánh ra khi họ va phải ổ gà.
“Chú nghĩ tình hình này sẽ kéo dài trong
bao lâu nào?”

Chú Luke nghĩ ngợi một lúc. “Không


lâu đâu. Năm sáu năm gì đó thôi.”

“Trời chú Luke!”

“Chú định để cho cháu hẹn hò khi ba


mươi tuổi, nếu được.”

“Thực ra cháu thấy ý tưởng đó không


tồi đâu. Có thể tới khi ba mươi tuổi cháu
mới sẵn sàng.”

Chú Luke liếc nhìn sang. “Cháu và


Simon…?”

Cô vẫy bàn tay không cầm cốc. “Đừng


hỏi.”
“Hiểu rồi.” Có lẽ chú hiểu thật. “Cháu
có muốn chú cho cháu về nhà không?”

“Chú định vào bệnh viện ạ?” Cô có


thể nhận ra sự căng thẳng dưới câu nói
đùa của chú. “Cháu sẽ đi cùng chú.”

Họ đang chạy qua cầu, và Clary nhìn


ra dòng sông, trầm ngâm đong đưa cốc
cà phê. Cô chưa bao giờ chán quang
cảnh này, dòng sông hẹp chạy giữa những
bức tường sừng sững của Manhattan và
Brooklyn. Dòng nước lấp lánh dưới ánh
mặt trời trông như một mặt giấy tráng
bạc. Cô tự hỏi vì sao mình chưa bao giờ
thử vẽ cảnh này nhỉ. Cô nhớ từng hỏi mẹ
vì sao mẹ không dùng cô làm người mẫu,
không bao giờ vẽ con gái mình. “Vẽ một
cái gì đó giống như muốn nhốt nó lại mãi
mãi,” mẹ Jocelyn nói khi ngồi trên sàn,
tay cầm chiếc bút lông đang nhỏ mực
catmi xanh xuống quần bò. “Nếu con
thực sự thích một cái gì đó, con sẽ không
cố giữ nó trong hình dáng đó mãi mãi.
Con phải để nó tự do thay đổi.”

Nhưng con ghét thay đổi. Cô hít một


hơi sâu. “Chú Luke ơi,” cô nói.
“Valentine nói gì với cháu khi cháu lên
thuyền, về chuyện…”

“Cứ bắt đầu với cụm từ ‘Valentine


nói’ đều không hay ho gì cả,” chú Luke
lầm bầm.

“Có lẽ không thật. Nhưng hắn nói về


mẹ và chú. Hắn nói chú yêu mẹ cháu.”

Im lặng. Họ mắc kẹt giữa dòng xe cộ


trên cầu. Cô nghe có tiếng tàu Q chạy
rầm rầm qua. “Cháu có nghĩ vậy
không?” cuối cùng chú Luke hỏi.

“Ừm.” Clary nhận ra bầu không khí


có mùi căng thẳng nên cố chọn từ ngữ
cho cẩn thận. “Cháu không biết. Cháu
muốn nói là, trước đây hắn đã từng đề
cập đến nhưng cháu chỉ bỏ qua vì nghĩ
hắn hoang tưởng hay hận thù gì đó thôi.
Nhưng lần này cháu nghĩ kỹ hơn, và
ờm… cũng khá lạ khi chú luôn luôn ở
quanh mẹ con cháu, với cháu chú như
một người bố, chúng ta đã sống cùng
nhau trong trang trại vào mùa hè, và cả
mẹ cháu lẫn chú đều chẳng hẹn hò ai
khác hết. Vì thế cháu nghĩ có thể…”

“Cháu nghĩ có thể gì hả?”

“Rằng có thể hai người đã hẹn hò với


nhau bao nhiêu năm vậy nhưng không nói
với cháu. Có thể chú nghĩ cháu còn quá
nhỏ nên không hiểu. Có thể chú sợ cháu
hỏi về bố cháu. Nhưng cháu không còn
nhỏ dại nữa. Chú có thể nói với cháu.
Cháu nghĩ vậy đấy. Chú có thể nói với
cháu mọi điều.”
“Có thể không phải mọi điều.” Lại im
lặng khi chiếc xe tải nhích thêm từng chút
một trên đoạn đường tắc. Chú Luke nheo
mắt nhìn mặt trời, những ngón tay gõ gõ
trên vô lăng. Cuối cùng, chú nói. “Cháu
nói đúng. Chú yêu mẹ cháu.”

“Tuyệt quá,” Clary nói, cố tỏ vẻ nhiệt


tình ủng hộ, dù cho ý tưởng những người
bằng tuổi mẹ cô và chú Luke hẹn hò với
nhau nghe ghê ghê thế nào.

“Nhưng,” chú nói hết, “mẹ cháu không


biết.”
“Mẹ cháu không biết hả?” Clary hất
mạnh tay. May là cốc cà phê đã cạn.
“Sao mẹ cháu lại không biết chứ? Sao
chú không nói?”

“Thật ra,” chú Luke nói khi đạp chân


ga cho xe tiến lên, “là không.”

“Vì sao không?”

Chú Luke thở dài và mệt mỏi xoa xoa


cái cằm lởm chởm râu ria. “Vì,” chú nói.
“Dường như chẳng lúc nào là phù hợp
cả.”

“Thật là lý do vớ vẩn, chú thừa biết


rồi.”

Chú Luke khụt khịt gì đó nghe vừa


giống tiếng cười khúc khích vừa giống
tiếng rên rỉ vì khó chịu. “Có thể, nhưng
đó là sự thực. Khi lần đầu tiên chú nhận
ra mình có tình cảm với mẹ Jocelyn của
cháu, chú bằng tuổi cháu. Mười sáu tuổi.
Và lúc đó hai chúng ta vừa gặp
Valentine. Chú không thể nào so sánh với
hắn ta. Chú thậm chí còn hơi mừng vì mẹ
cháu không muốn chú, mà muốn một
người thực sự xứng đôi với mẹ cháu.”
Giọng chú đanh lại. “Khi chú ý thức
được mình đã sai lầm đến thế nào thì đã
quá muộn rồi. Khi bọn chú chạy trốn
khỏi Idris, và lúc đó mẹ cháu đang có
cháu, và chú đã đề nghị cưới mẹ cháu,
để chăm sóc cho mẹ cháu. Chú nói chú
không quan tâm cha đứa bé là ai, chú sẽ
nuôi nó như nuôi con đẻ của mình. Mẹ
cháu nghĩ chú thương hại mẹ con cháu.
Chú không thể thuyết phục mẹ cháu rằng
chú là một người ích kỷ. Mẹ cháu bảo
rằng mẹ cháu không muốn trở thành gánh
nặng cho chú, vì như thế là quá đáng với
bất cứ một ai. Sau khi mẹ cháu bỏ chú
lại tại Paris, chú trở lại Idris nhưng chú
luôn bồn chồn lo lắng không yên, không
bao giờ vui vẻ được. Chú luôn có cảm
giác như một phần trong chú bị mất, phần
đó là Jocelyn. Chú đã mơ rằng mẹ cháu
ở nơi nào đó cần chú giúp, đang gọi chú
mà chú không nghe thấy. Cuối cùng chú
đi tìm mẹ cháu.”

“Cháu nhớ là mẹ cháu rất hạnh phúc,”


Clary nói nhỏ. “Khi chú tìm thấy mẹ
cháu.”

“Có và không. Mẹ cháu mừng vì gặp


lại chú, nhưng đồng thời với mẹ cháu,
chú lại là biểu trưng cho cái thế giới mẹ
cháu đã chạy trốn, và mẹ cháu không
muốn phần nào của nó. Mẹ cháu cho
phép chú ở lại khi chú hứa từ bỏ mọi
liên hệ với đàn, tới Hội đồng Clave,
Idris, tất cả mọi thứ. Lẽ ra chú đã đề
nghị dọn tới ở cùng cả hai mẹ con, nhưng
Jocelyn nghĩ việc chú biến hình khó lòng
giấu nổi cháu, và chú phải đồng ý. Chú
đã mua một hiệu sách, lấy tên mới, giả
vờ là Lucian Graymark đã chết. Mà quả
thực, Lucian đã chết thật.”

“Chú thực sự đã làm rất nhiều điều vì


mẹ cháu. Chú đã từ bỏ cả đời mình.”

“Chú sẽ làm nhiều hơn nữa,” chú


Luke thành thực nói. “Nhưng mẹ cháu
quá cương quyết không muốn liên quan
gì tới Hội đồng Clave hay Thế Giới
Ngầm, và dù chú vờ thế nào, chú vẫn là
một người sói. Chú là bằng chứng sống
cho tất cả. Còn mẹ cháu thì không muốn
cháu biết chút nào. Cháu biết đấy, chú
chưa bao giờ đồng tình với việc mẹ cháu
thỏa thuận với Magnus, để xóa trí nhớ
hay Tâm Nhãn của cháu, nhưng vì đó là
điều mẹ cháu muốn nên chú đành đồng ý,
nếu chú ngăn cản, mẹ cháu sẽ đuổi chú
đi. Và không còn cách nào - không còn
cách nào mẹ cháu cho chú kết hôn cùng
mẹ cháu, trở thành bố cháu mà không nói
cho cháu biết về bản chất của chú. Và
nếu điều đó xảy ra thì công sức bao lâu
nay, bao bức tường mỏng manh mẹ cháu
dựng lên giữa mẹ cháu về Thế Giới Vô
Hình đều sụp đổ hết. Chú không thể làm
vậy. Vì thế chú giữ im lặng.”

“Chú muốn nói là chú chưa bao giờ


nói cho mẹ cháu biết về cảm xúc của chú
ư?”
“Mẹ cháu không ngốc đâu, Clary,”
chú Luke nói. Chú bình tĩnh, nhưng trong
giọng nói có chút đay nghiến. “Mẹ cháu
hẳn phải biết chứ. Chú đã đề nghị kết
hôn cùng mẹ cháu cơ mà. Dù mẹ cháu từ
chối chú kiểu gì đi nữa, chú vẫn biết một
điều: Mẹ cháu biết chú cảm thấy thế nào,
và mẹ cháu không có cùng cảm xúc với
chú.”

Clary im lặng.

“Không sao đâu,” chú Luke cố tỏ như


không có gì. “Chú đã chấp nhận từ lâu
rồi.”

Những dây thần kinh trong đầu Clary


đột nhiên căng thẳng mà cô nghĩ không
phải do cốc cà phê không hề mang lại.
Cô gạt đi những suy nghĩ về đời mình.
“Chú đề nghị kết hôn với mẹ cháu, nhưng
chú có nói là vì chú yêu mẹ cháu không?
Cháu không nghe thấy đoạn đó.”

Chú Luke im lặng.

“Cháu nghĩ chú nên thú thật với mẹ


cháu. Cháu nghĩ chú đã sai về cảm xúc
của mẹ cháu rồi.”

“Chú không sai đâu Clary.” Giọng


chú Luke dứt khoát: Đủ rồi.
“Cháu nhớ có lần cháu hỏi vì sao mẹ
cháu không hẹn hò,” Clary nói, lờ tịt âm
giọng chỉ thị của chú. “Mẹ cháu nói vì
trong tim mẹ cháu có một hình bóng.
Cháu nghĩ mẹ cháu muốn nói tới bố,
nhưng giờ… giờ cháu không dám chắc.”

Chú Luke thực sự kinh ngạc. “Mẹ


cháu nói vậy sao?” Chú trấn tĩnh rồi nói
tiếp, “Có lẽ mẹ cháu thực sự muốn nói
tới Valentine.”

“Cháu không nghĩ vậy.” Cô liếc nhìn


chú. “Hơn nữa, chú không thấy bực sao?
Khi không bao giờ nói ra cảm nhận của
mình ấy?”
Lần này họ im lặng mãi tới khi xuống
cầu và bon bon chạy trên đường
Orchard, hai bên đường là những cửa
hàng và nhà hàng với những tấm bảng
hiệu có những chữ tiếng Hoa đẹp đẽ
cong cong màu vàng và đỏ. “Đúng, chú
bực lắm chứ,” chú Luke nói. “Nhưng lúc
đó, chú lại nghĩ thà cứ có những gì chú
đang có với mẹ cháu còn hơn không có
gì. Nhưng nếu cháu không thể nói sự thực
với người mà cháu yêu thương nhất, thì
rồi dần dà cháu sẽ không còn để cho bản
thân mình biết sự thực đó nữa.”

Có tiếng như tiếng nước chảy trong tai


Clary. Nhìn xuống, cô thấy mình đã bóp
chiếc cốc giấy thành khối tròn xấu xí.
“Đưa cháu tới Học Viện,” cô nói. “Đi
chú.”

Chú Luke ngạc nhiên nhìn cô. “Chú


tưởng cháu muốn tới bệnh viện mà?”

“Cháu sẽ gặp chú ở đó khi xong


việc,” cô nói.

“Cháu có việc phải làm trước đã.”

Tầng dưới Học Viện tràn ngập ánh


nắng mặt trời và những hạt bụi sáng màu
li ti bay trong nắng. Clary chạy trong
hành lang hẹp giữa hai hàng ghế, phóng
vào thang máy rồi nhấn nút. “Thôi nào,
thôi nào,” cô lầm bầm. “Thôi…”

Chiếc cửa vàng mở toang. Jace đang


đứng trong thang máy. Mắt anh mở lớn
khi thấy cô.

“… Nào,” Clary nói hết câu và hạ tay


xuống. “Ô. Chào.”

Anh nhìn cô trân trối. “Clary à?”

“Anh cắt tóc,” cô nói không kịp nghĩ.


Đúng thật - những lọn tóc vàng óng ánh
không còn rủ xuống mặt anh, mà đã cắt
bằng gọn ghẽ. Trông anh lịch lãm hơn, và
có phần hơi già dặn hơn. Anh cũng ăn
mặc gọn ghẽ, áo len xanh đen và quần
bò. Có gì đó màu bạc lấp lánh trên cổ
anh, ngay dưới cổ áo.

Anh giơ tay. “À đúng rồi. Maryse cắt


đấy.” Cánh cửa thang máy đóng lại; anh
giữ cửa. “Em có cần lên trên Học Viện
không?”

Cô lắc đầu. “Em muốn nói chuyện với


anh thôi.”

“À.” Nghe thế Jace hơi ngạc nhiên,


nhưng vẫn bước ra khỏi thang máy, để
cánh cửa đóng cạch sau lưng. “Anh đang
định tới tiệm Taki mua ít thức ăn. Không
ai muốn nấu nướng gì hết…”

“Em hiểu,” Clary nói rồi ước gì mình


không mở mồm. Nhà Lightwood thích
hay không thích nấu ăn có liên quan gì
tới cô đâu.

“Chúng ta nói chuyện ngoài này cũng


được,” Jace nói. Anh đi tới cửa rồi dừng
lại nhìn cô. Khi đứng giữa hai hàng nến
cháy, ánh sáng phủ ánh vàng nhạt lên tóc
và da, trông anh giống như một bức tranh
thiên thần vậy. Tim cô thắt lại. “Em đi
hay không?” anh hơi sẵng giọng, nghe
không giống một thiên thần tí nào.

“À, có. Em đi đây.” Cô vội vàng đuổi


theo.

Khi họ đi tới cửa hàng Taki, Clary cố


tránh những đề tài liên quan tới cô, Jace
hay cô và Jace. Thay vào đó cô chỉ hỏi
chuyện của Isabelle, Max và Alec.

Jace ngần ngừ. Họ đi qua Đại lộ Số


Một và cơn gió lạnh thổi qua. Trời trong
xanh, một ngày mùa thu đậm chất New
York.

“Em xin lỗi.” Clary nhăn mặt vì sự


ngu ngốc của mình. “Chắc giờ họ phải
đau khổ lắm. Những người họ biết đều
chết cả.”
“Thợ Săn Bóng Tối khác lắm,” Jace
nói. “Bọn anh là chiến binh. Bọn anh đón
chào cái chết theo cái cách em…”

Clary không thể ngăn tiếng thở dài. “


‘Những người thường các em không thấy
vậy.’ Anh định nói thế đúng không?”

“Ừ,” anh thừa nhận. “Thi thoảng anh


khó lòng biết em thực sự là gì.”

Họ dừng lại trước cửa hàng Taki’s


bên dưới mái hiên nhô ra và mặt tiền
không có lấy một ô cửa kính. Quỷ lửa
bảo vệ cửa nhìn họ bằng cặp mắt đỏ ngờ
vực.
“Em là Clary,” cô nói.

Jace nhìn xuống. Gió lạnh thổi tóc cô


bay bay. Cậu vươn tay kéo tóc cô lại,
gần như vô thức. “Anh biết.”

Bên trong, họ thấy một bốt đặt trong


góc và chui vào. Quán gần như chẳng có
ai: Kaelie, tiên phục vụ đang dựa người
vào quầy, đôi cánh trắng xanh lười nhác
rung động. Cô ta và Jace từng có một
thời gian hẹn hò. Một cặp người sói ngồi
trong một góc khác. Họ đang ăn những
đùi cừu sống và tranh cãi về việc ai
thắng trong trận chiến giữa Dumbledore
trong Harry Potter và Magnus Bane.
“Chắc chắn cụ Dumbledore sẽ thắng,”
gã đầu tiên nói. “Ông ấy biết Thần chú
Tử Vong sức mạnh ghê gớm.”

Người sói thứ hai ghi điểm. “Nhưng


Dumbledore không có thực.”

“Tôi cũng không nghĩ Magnus Bane


có thực,” người sói thứ hai phản đối.
“Anh gặp ông ta bao giờ chưa?”

“Lạ nhỉ,” Clary ngồi xuống và hỏi.


“Anh có nghe họ nói không.”

“Không, nghe trộm là mất lịch sự.”


Jace đang xem xét thực đơn, và thế là
Clary có cơ hội xem xét anh. Em chưa
bao giờ nhìn anh, cô đã nói với anh như
vậy. Câu đó đúng, hoặc ít nhất cô chưa
bao giờ nhìn anh theo cách cô muốn,
bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ. Cô
luôn bị mất tập trung vì một chi tiết:
đường cong của xương gò má, hàng lông
mi tuyệt đẹp, hình dáng khóe miệng anh.

“Em đang nhìn anh,” cậu nói và không


buồn nhìn lên. “Sao em lại nhìn anh thế?
Sao vậy?”

Nhờ Kaelie tới bàn mà Clary tránh


được câu trả lời. Cô để ý, chiếc bút của
cô nàng là bút lông ngỗng màu bạc. Cô
nàng tò mò xem xét Clary bằng đôi mắt
chỉ độc màu xanh. “Cô biết mình cần gì
chưa?”

Chưa chuẩn bị gì nên Clary gọi đại


vài món trong thực đơn. Jace gọi một đĩa
khoai lang rán và một số món được gói
mang về cho Lightwood. Kaedie rời đi,
để lại một mùi hương hoa nhàn nhạt.

“Nói với Alec và Isabelle là em rất


tiếc vì những chuyện vừa qua,” Clary nói
khi Kaedie ngoài tầm nghe. “Và nói với
Max là lúc nào em cũng sẵn lòng đưa nó
tới Fobidden Planet.”

“Chỉ có người thường mới nói họ rất


tiếc khi họ muốn nói ‘tôi chia sẻ nỗi
buồn với bạn’,” Jace nhận xét. “Em
chẳng có lỗi gì hết, Clary.” Mắt cậu đột
nhiên bừng lên nỗi thù hằn. “Đó là lỗi
của Valentine.”

“Em không thấy…?”

“Ông ta ở đâu? Không. Anh đoán ông


ta đã đục lỗ chui vào đâu đó để tiếp tục
cái kế hoạch ông ta định làm với Thanh
Kiếm rồi. Sau đó…” Jace nhún vai.

“Sau đó thì sao?”

“Anh không biết. Ông ta là một kẻ


điên. Khó mà đoán một kẻ điên sẽ làm gì
tiếp.”

Nhưng cậu tránh ánh nhìn của Clary,


và Clary biết cậu đang nghĩ gì: Chiến
tranh. Đó là thứ Valentine muốn. Cuộc
chiến với Thợ Săn Bóng Tối. Và ông ta
sẽ có nó. Chỉ là vấn đề thời gian trước
khi ông ta chọn địa điểm tấn công đầu
tiên. “Nhưng, anh không nghĩ em sẽ tới
chỉ để nói chuyện qua loa với anh nhỉ?”

“Không.” Giờ đã đến lúc, nhưng


Clary không biết phải nói thế nào. Cô
thoáng thấy hình phản chiếu của mình
trên miếng giữ khăn giấy màu bạc. Áo
cardigan trắng, mặt trắng bệch, má đỏ
lựng. Cô thấy mình như lên cơn sốt. Cô
cũng hơi cảm thấy sốt. “Em đã muốn nói
chuyện với anh từ mấy hôm trước…”

“Chắc em muốn lừa anh thôi.” Giọng


cậu sắc lạnh bất thường. “Mỗi khi anh
gọi điện cho em, chú Luke đều bảo rằng
em ốm. Anh nghĩ em lại muốn tránh mặt
anh. Một lần nữa.”

“Em không tránh mặt anh.” Cô cảm


giác giữa hai người là cả một khoảng
cách xa xôi, dù bàn không rộng lắm và
họ không ngồi xa nhau nhiều. “Em muốn
nói chuyện với anh. Em lúc nào cũng
nghĩ về anh.”

Cậu khụt khịt ngạc nhiên và giơ tay


sang bên kia bàn. Cô nắm lấy, và một
con sóng yên ổn tràn sang người cô.
“Anh cũng nghĩ về em.”

Bàn tay anh thật ấm, thật dễ chịu và cô


nhớ cô đã lôi mảnh vỡ dính máu của
Cổng Dịch Chuyển ra khỏi tay anh lúc ở
Renwick’s như thế nào - đó là mảnh vỡ
cuối cùng của cuộc sống trước đây của
anh - và anh đã ôm cô ra sao. “Em thực
sự bị ốm,” cô nói. “Em thề. Anh thừa
biết lúc trên thuyền em đã suýt chết mà.”

Cậu thả tay cô ra, nhưng cậu nhìn


chăm chú, như muốn khắc ghi khuôn mặt
cô trong trí nhớ mình. “Anh biết,” cậu
nói. “Mỗi lần em suýt chết là anh cũng
suýt muốn chết theo em.”

Lời anh làm trái tim cô đập thình thịch


như thể vừa uống một cốc đầy cà phê.
“Jace. Em đến để nói với anh rằng…”

“Đợi đã. Để anh nói trước.” Cậu giơ


tay như để ngăn lời nói tiếp theo của cô.
“Trước khi em nói gì, anh muốn xin lỗi
em đã.”

“Xin lỗi? Vì gì?”

“Vì đã không lắng nghe em.” Cậu


dùng cả hai tay vuốt tóc và cô thấy một
vết sẹo nhỏ, nhỏ xíu màu trăng trắng ở
một bên cổ họng. Trước đây không có.
“Em cứ mãi nói với anh rằng anh không
thể có điều anh muốn từ em, và anh cứ
dồn ép em mãi và không thèm nghe em
nói. Anh chỉ muốn em mà không quan
tâm xem người khác sẽ nói gì. Kể cả
em.”

Miệng cô đột nhiên khô khốc, nhưng


trước khi cô có thể nói gì, Kaelie đã
quay lại, với đĩa khoai chiên của Jace và
rất nhiều món khác cho Clary. Clary liếc
nhìn những món cô gọi. Một cốc sữa lắc
màu xanh, thứ gì đó trông giống thịt bò
hamburger sống, và một đĩa dế nhúng sô
cô la. Không vấn đề gì; vốn dạ dày cô đã
đầy lên không thể ăn nổi rồi. “Jace,” cô
nói, ngay khi người phục vụ bàn vừa đi.
“Anh không hề sai. Em…”

“Không. Để anh nói hết đã.” Cậu nhìn


xuống đĩa khoai rán như thể chúng chứa
bí mật của cả vũ trụ. “Clary. Anh phải
nói ngay bây giờ - hoặc sẽ không bao giờ
nói được.” Lời cậu cứ thế tuôn trào:
“Anh nghĩ mình đã mất cả gia đình. Anh
không nói tới Valentine. Anh muốn nói
tới nhà Lightwood. Anh nghĩ họ đã không
cần anh. Anh nghĩ trên thế giới này anh
chẳng còn ai ngoài em. Anh… anh điên
lên vì những mất mát và anh đã khiến em
mệt mỏi và anh xin lỗi. Em nói đúng.”

“Không. Em quá ngu ngốc. Em đã quá


độc ác với anh…”

“Em có quyền như vậy.” Cậu ngước


mắt nhìn cô và đột nhiên cô bỗng nghĩ về
hồi bốn tuổi ở ngoài biển, cô đã khóc khi
gió tới thổi bay lâu đài cô vừa xây xong.
Mẹ đã nói rằng mẹ sẽ xây cho cô một lâu
đài khác nếu cô muốn, nhưng cô không
thể ngừng khóc vì điều cô nghĩ sẽ tồn tại
mãi mãi hóa ra lại không mãi mãi, chúng
chỉ là cát và sẽ biến mất ngay khi gió hay
nước chạm tới. “Điều em nói là đúng.
Chúng ta không thể sống hoặc yêu không
thôi. Còn những người quan tâm tới
chúng ta sẽ bị tổn thương, có thể chết,
nếu họ để chúng ta cảm nhận điều chúng
ta muốn cảm nhận. Ích kỷ như thế, nó
sẽ… sẽ giống với Valentine.”

Cậu nói ra tên bố mình với sự dứt


khoát như thể dộng cánh cửa vào mặt
Clary.

“Giờ anh sẽ chỉ là anh trai của em


thôi,” cậu nói và nhìn cô với một biểu
hiện mong cô sẽ hài lòng, chỉ khiến cô
muốn hét lên rằng anh đã làm tan nát trái
tim cô và anh phải dừng lại ngay. “Đó là
điều em muốn phải không?”

Cô mất một lúc rất lâu mới trả lời nổi,


và khi cô nói, giọng cô như từ đâu đó xa
xôi vọng lại. “Đúng,” cô nói và cô nghe
thấy tiếng nước chảy rào rào trong tai, và
mắt cô cay xè như thể bụi hay cát bay
vào mắt. “Đó là điều em muốn.”

Clary đờ đẫn bước trên những bậc


thang rộng dẫn lên cánh cửa trước bằng
kính của bệnh viện Beth Israel. Cô mừng
vì mình ở nơi này chứ không phải nơi
nào khác. Cô chỉ muốn chui vào lòng mẹ
mà khóc, kể cả khi cô không thể giải
thích mình khóc vì gì. Từ khi cô không
thể làm thế, thì ngồi bên cạnh giường mẹ
và khóc dường như là giải pháp hữu hiệu
thứ hai.

Cô đã kiềm chế rất tốt lúc ở quán


Taki’s, kể cả khi ôm Jace chào tạm biệt.
Cô không hề khóc cho tới khi lên tàu
điện ngầm, rồi cô thấy mình khóc về mọi
chuyện mình chưa từng khóc, về chuyện
của Jace, Simon, chú Luke, mẹ cô và kể
cả Valentine. Cô khóc lớn tới nỗi người
đàn ông ngồi cạnh phải đưa khăn giấy
cho cô và cô đã hét lên, Lão kia lão
nghĩ mình nhìn gì chứ? vì đó là điều
bạn sẽ làm ở New York. Sau đó cô thấy
khá hơn đôi chút.

Khi gần đi hết bậc tam cấp, cô nhận ra


có một người phụ nữ đứng đó. Bà ta mặc
áo choàng đen dài ngoài váy, không phải
kiểu bạn thường thấy trên đường phố
Manhattan. Chiếc áo choàng làm bằng
vải nhung đen và có mũ rộng hiện đang
đội lên che kín khuôn mặt. Clary liếc
nhìn quanh và thấy không ai đứng trước
bệnh viện hay đứng cạnh cửa để ý tới
người phụ nữ kỳ lạ này. Vậy bà ta đang
dùng phép ẩn thân.

Cô tới bậc thang cao nhất và dừng lại,


ngước nhìn người phụ nữ. Cô vẫn không
nhìn ra khuôn mặt bà ta. Cô nói, “Nghe
này, nếu cô tới tìm cháu, hãy nói cho
cháu biết cô muốn gì. Cháu không có tâm
trạng cho mấy vụ ẩn thân này và những bí
mật đâu.”

Cô nhận ra mọi người xung quanh


đang dừng lại nhìn cô gái điên đang nói
chuyện một mình đây. Cô cố lắm mới
không quay ra mắng chửi bọn họ.
“Được rồi.” Một giọng nói nhẹ nhàng,
quen thuộc tới kỳ lạ vang lên. Người phụ
nữ vươn tay bỏ mũ xuống. Mái tóc bạc
rơi xuống vai như thác lũ. Đó là người
phụ nữ Clary đã nhìn thấy khi cô ở ngoài
sân của nghĩa trang Marble, người đã
cứu họ khỏi lưỡi dao của Malik lúc ở
Học Viện. Tới gần, Clary nhận ra bà ta
có khuôn mặt rất góc cạnh, quá góc cạnh
khó nói là xinh đẹp được, dù mắt bà ta
khá to và mang màu hạt dẻ đẹp đẽ. “Tên
cô là Madelein. Madelein Bellefleur.”

“Và…?” Clary nói. “Cô muốn gì ở


cháu?”
Người phụ nữ - Madelein - hơi ngần
ngại. “Cô biết mẹ cháu, Jocelyn,” bà ta
nói. “Hồi ở Idris chúng ta là bạn.”

“Cô không thể tới gặp mẹ cháu,”


Clary nói. “Không ai trừ người nhà được
phép vào thăm bệnh nhân tới khi tình
hình khá hơn.”

“Nhưng mẹ cháu sẽ không khá hơn.”

Clary cảm thấy như bị ăn tát. “Sao


cơ?”

“Cô xin lỗi,” Madelein nói. “Cô


không muốn làm cháu buồn. Chỉ là cô
biết chuyện gì đã xảy ra với Jocelyn, và
không một bệnh viện của người thường
nào có thể cứu chữa cho mẹ cháu hết.
Chuyện xảy ra với mẹ cháu - là do mẹ
cháu tự làm, Clarissa ạ.”

“Không. Cô không hiểu rồi.


Valentine…”

“Mẹ cháu đã tự làm trước khi


Valentine bắt được mẹ cháu. Vì thế ông
ta không thể có được thông tin từ mẹ
cháu. Mẹ cháu đã lên kế hoạch như vậy.
Đó là một bí mật, một bí mật mẹ cháu chỉ
nói với duy nhất một người, và mẹ cháu
cũng chỉ nói với duy nhất một người cách
phá vỡ câu thần chú đó. Người đó là
cô.”

“Cô muốn nói…”

“Đúng,” Madelein nói. “Cô muốn nói


cô có thể chỉ cháu cách đánh thức mẹ
cháu.”

Ebook phi lợi nhuận được làm


bởi DTV Forum. Để download
thêm các ebook truyện ngôn tình
khác, hãy truy cập: http://www.dtv-
ebook.com

You might also like