Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 3
Thành viên trong nhóm
Trước hết phải hiểu cho đúng khái niệm cơ bản này: Việc này (đưa ra
sự ước tính) bản chất là một quá trình so sánh và xử lý thông tin để sàng
lọc ra các kết quả mang tính chất gần đúng, không quá sai lệch so với thực
tế. Các kết quả sau khi được sàng lọc được sử dụng cho một mục đích đặc
biệt nào đó. Cho dù các thông tin đầu vào của chúng ta không đầy đủ,
không chắc chắn, không khả thi, và thậm chí là không bền vững. Nhắc lại,
nó là một quá trình. Quá trình tức là gồm nhiều bước.
Đó là khái niệm dễ hiểu nhất có thể. Vậy khi một Tester làm việc, họ sẽ
phải dự đoán, nhẩm tính xem thử với một lượng công việc như vậy, công
sức của họ phải bỏ ra là khoảng bao nhiêu (ngày, giờ, tháng, năm, hoặc cái
gì đó tương đương).
Thỉnh thoảng việc này cũng mang tính chất tương đương với việc Dự
báo/Dự đoán trước. Tuy nhiên để đạt tới trình độ này đòi hỏi Tester phải làm việc
với nhiều dự án phức tạp, lớn bé khác nhau. Cần một thời gian đủ dài để Tester
có thể lãnh ngộ được khả năng Dự báo/Dự đoán này. Lấy ví dụ về chương trình
Dự báo thời tiết bạn có dễ hình dung không?
Thông thường thì Tester sẽ sử dụng cách đơn giản nhất là kinh nghiệm, kiến
thức của mình để tính toán. Mình nhắc lại hai từ: Tính toán. Vâng, bạn không
nhầm đâu. Nói cách khác, Sự ước lượng của bạn vốn dĩ là sự tính toán tổng hợp
dựa trên những yếu tố thường thấy sau:
Kinh nghiệm cũ trước đó.
Thông tin và kiến thức sẵn có trước đó.
Tự đặt ra giả thuyết.
Tính toán các rủi ro (Cấp độ này còn cao và nhiều thông tin chuyên sâu nên
không đề cập ở bài này).
Vậy tại sao chúng ta – Tester – phải làm cái việc này?
Câu trả lời vô cùng đơn giản: Để lan toả sự hiểu biết và chúng ta có cảm giác
rằng dự án sẽ thành công. Nhưng sự thật không chỉ có thế. Khi chúng ta làm dự
án web hay sản phẩm web, chúng ta đều mong muốn trông thấy sản phẩm đó
chạy tốt đến mức nào, chúng ta có thể cảm nhận được bản thân cảm thấy hài
lòng thế nào khi tính năng đó chạy được hay không.
Làm web không phải chỉ đơn giản là lập trình, xây tính năng. Làm web còn là
một quá trình win-win: Bạn ước lượng, bạn học được giá trị nào đó khi việc đã
xảy ra. Cứ thế, nó tiếp tục phát triển.
Đây mới là ý nghĩa thực sự của việc một Tester làm việc gọi là Ước lượng.
1.Kỹ thuật cơ bản
Một số yêu cầu đầu vào được gọi là kim chỉ nam bỏ túi của Tester:
Kiểm tra kỹ tất cả các yêu cầu của dự án đã được xác nhận hay chưa.
Nếu chưa thì xem lại tần suất thay đổi của các yêu cầu này (có thể tầm
2-3 tuần là cập nhật 1 lần).
Các mong muốn về kết quả trả về của yêu cầu đều rõ ràng.
Kiểm tra xem các yêu cầu không cần thiết phải test.
Kiểm tra lần cuối các giả thuyết từ yêu cầu đều rõ ràng và được xác
nhận.
Done. Mời bạn tham khảo 4 kỹ thuật cơ bản dưới đây. Thông tin mang
tính lý thuyết chút và không đi chuyên sâu về thực hành.
2. Kỹ thuật Delphi
Cái này thì không cần thiết phải biết sâu làm
gì, vốn dĩ nó được sử dụng cho phần mềm nhiều
hơn, do tính chất đặc thù của nó. Việc áp dụng
phương pháp này nó chỉ phù hợp ở các công ty
dạng enterprise hoặc có định hướng về làm
Research chuyên nghiệp. Khi đó các phương pháp
research có thể áp dụng một cách hiệu quả vào kỹ
thuật Delphi này.
Cơ bản phương pháp này dùng survey, gởi cho các chuyên gia và tiến hành xoay
vòng để thu thập thông tin. Thường thì nếu có kinh nghiệm lâu dài thì có thể áp dụng
kỹ thuật này với các phương pháp khác cho hiệu quả.
Tất nhiên, Tester làm Web thì không cần dùng cái này rồi. Chi tiết mời bạn tra
Google và nghiên cứu thêm để mở mang.
3. Kỹ thuật WBS (Work Breakdown Structure)
Ngày nay thì các kỹ thuật như Planning Poker và Delphi là rất phổ biến. Chúng ta rất có
thể sẽ không bao giờ có cơ hội thực hiện kỹ thuật Delphi này vì nó tốn kém và tốn thời gian.
Rất may là ET đã và đang áp dụng kỹ thuật còn lại là Planning Poker hehe.
Ở khía cạnh công việc thì có một số tool hỗ trợ sẵn kỹ thuật này, nó tự tính toán giúp
chúng ta luôn. JIRA là 1 tool như vậy.
5. Kỹ thuật ước lượng dựa trên chức năng của dự án
Cái này cũng khó có cái tên tiếng Việt chính xác và ngắn gọn. Nôm na là Tester sẽ
kiểm tra dựa trên bộ tài liệu mô tả/yêu cầu, bản thiết kế, vân vân. Hình thức ước lượng
này sẽ dựa trên quan điểm của người dùng nhiều hơn.
Lấy ví dụ: ước lượng 1 tính năng tầm 3 ngày sử dụng kỹ thuật tam giác ở trên.
Tester còn nghĩ rằng người dùng sẽ dễ gây ra lỗi này ở vị trí X nào đó. Thế là phải thêm
tầm 2 ngày nữa để hoàn tất. Vị chi là 5 ngày. À mà quên, đây chỉ là ví dụ thôi. Có 3 cấp
độ ở kỹ thuật này: Phức tạp, Trung bình, Đơn giản. Mỗi cấp độ sẽ có các tiêu chí chấm
điểm khác nhau. Chúng ta sẽ có 5 nhóm chính, mỗi nhóm sẽ được cho điểm tương ứng
với 3 cấp độ trên.
Kỹ thuật cuối này thì ít được áp dụng nhất ở Việt Nam, một là do nó phức tạp,
hai là nó cần phải được thực nghiệm thời gian dài trước khi có được các bước làm
thực tiễn nhất.
3.2. Xác định ngân quỹ và lựa chọn dự án
Chi phí là tài nguyên đem vào sử dụng, tiêu hao kết chuyển giá trị vào
sản phẩm mong đợi.
Chi phí thường được đo bằng đơn vị tiền tệ
Quản lý chi phí dự án bao gồm các quy trình cần thiết để đảm bảo
rằng dự án được hoàn thành trong ngân sách đã được phê duyệt
Quy trình quản lý chi phí DA
- Lập kế hoạch:
+ Ước tính chi phí
Output: Ước tính chi phí các hoạt động, cơ sở ước tính, cập nhật tài liệu dự
án
+ Xác định ngân sách
Output: Chi phí thực hiện cơ bản, yêu cầu tài trợ dự án, cập nhật tài liệu sản
phẩm
- Giám sát và kiểm soát: Kiểm soát chi phí
Output: Đo lường hiệu suất công việc, dự báo ngân sách, cập nhật tài sản quy
trình tổ chức, yêu cầu thay đổi, cập nhật kế hoạch quản lý dự án, cập nhật tài
liệu dự án
Một số khái niệm cơ bản:
Lợi nhuận (Profits): Chênh lệch giữa doanh thu từ việc bán sản phẩm hàng hoá, cung cấp dịch
vụ với tổng giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ hoặc chi phí dịch vụ tiêu thụ trong kỳ;
Tỷ suất lợi nhuận (Profit margin): là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của
dự án
Chi phí hữu hình hoặc lợi ích có thể đo lường bằng tiền
Chi phí vô hình khó có thể đo lường bằng tiền
Chi phí trực tiếp
Chi phí gián tiếp
Chi phí chìm là tiền đã được chi tiêu trong quá khứ; khi quyết định đầu tư hoặc tiếp tục DA,
không nên tính bao gồm chi phí chìm
Theo curve theory, mặt hàng được sản xuất lặp đi lặp lại, trong mô hình nhiều đơn vị được sản
xuất thường xuyên thì đơn giá giảm.
Dự trữ được ước tính để giảm thiểu rủi ro chi phí:
+ Khoản dự phòng cho phép các tình huống trong tương lai được lên kế hoạch một phần (ẩn số
đã biết).
+ Quản lý dự trữ cho phép các tình huống trong tương lai có thể đoán trước (đôi khi được gọi là
ẩn số chưa biết).
3.2.1. Ước tính chi phí:
Quản lý dự án phải có dự toán chi phí một cách nghiêm túc nếu muốn hoàn thành dự án
trong phạm vi ràng buộc ngân sách.
Điều quan trọng là phải biết các loại dự toán chi phí, làm thế nào để chuẩn bị dự toán và các
vấn đề điển hình liên quan đến dự toán chi phí IT
Các loại dự toán chi phí
Kế hoạch quản lý chi phí:
- Kế hoạch quản lý chi phí là một tài liệu mô tả cách tổ chức sẽ quản lý chi phí chênh lệch của
dự án
- Phần lớn trong tổng chi phí dự án thường là chi phí cho nguồn lao động
Công cụ và kỹ thuật cơ bản ước tính chi phí
5. Ước tính từ trên xuống: Ước tính bắt đầu cho toàn bộ dự án sau đó chia ra
thành tỉ lệ đối với mỗi giai đoạn hay loại công việc dự án
6. Ước tính từ dưới lên: liên quan đến dự toán hạng mục công trình hoặc các hoạt
động cá nhân và tổng hợp chúng để có được tổng thể dự án
7. Ước tính theo tham số:
- Các DA lớn được tách thành các đơn vị công việc nhỏ và đưa vào một mô hình
toán học. Có 3 nguồn vào then chốt:
Thông tin lịch sử bằng đơn vị công việc làm cơ sở
Tập hợp các đặc tính, yêu cầu và kế hoạch chi tiết
Mô hình toán học được xây dựng cẩn thận – công thức theo tham số biểu diễn mối
quan hệ công việc
- Một số phương pháp ước lượng theo tham số phổ biến hiện nay: COCOMO (dựa
trên Kilo Lines of Code); COSMIC FFP; Function Point; UseCase Point; Feature
Point…
Các vấn đề điển hình với dự toán chi phí IT