Professional Documents
Culture Documents
Hồi năm 1890, một công ti điện đã cám dỗ nhà vật lí người Đức Max Planck hỗ trợ họ trong
những nỗ lực của họ nhằm sản xuất các bóng đèn hiệu quả hơn. Planck, với tư cách là một nhà lí
thuyết, đương nhiên đã bắt đầu với những điều cơ bản và sớm trở nên bị vướng vào vấn đề gai góc là
giải thích phổ của bức xạ vật đen, bài toán cuối cùng ông đã giải bằng cách đưa ra quan niệm – một
giả thuyết “hoàn toàn mang tính hình thức”, như khi đó ông nhìn nhận – rằng năng lượng điện từ chỉ
có thể phát ra hoặc bị hấp thụ thành từng lượng tử rời rạc. Cái còn lại là lịch sử. Các bóng đèn điện
và quy luật toán học tất yếu đã đưa Planck đến khám phá ra lí thuyết lượng tử và đã kích hoạt cuộc
cách mạng khoa học lớn nhất của thế kỉ 20.
Max Planck (trái) và Wilhelm Röntgen (phải) đều có những khám phá quan trọng hết sức bất ngờ (Ảnh [trái]: American
Institute of Physics/Science Photo Library; [phải]: Jean-Loup Charmet/Science Photo Library)
Transistor (trái) và laser (phải) cũng là những sản phẩm của sự may mắn (Ảnh [trái]: Ton Kinsbergen/Science Photo
Library; [phải]:Giphotostock/Science Photo Library)
Đây là cách thức sự khám phá được thực hiện: các phản hồi của sự đầu tư cho nghiên cứu
không đến một cách đều đặn và tiên liệu được, mà đến một cách thất thường và không thể đoán
trước, theo kiểu giống như những trận động đất trí tuệ. Thật vậy, quan điểm này có vẻ không hẳn chỉ
đơn thuần là định tính. Dữ liệu về sự phát minh của loài người, cho dù về khoa học cơ bản hoặc công
nghệ hoặc kinh doanh, cho thấy các tiến bộ xuất hiện từ một quá trình thất thường đi cùng với tính
không thể tiên đoán nỗi. Chẳng hạn như nhà vật lí Didier Sornette thuộc trường ETH ở Zurich và các
cộng sự chỉ ra cách nay vài năm trước, rằng số liệu thống kê mô tả những khoản thu kếch sù của
những bộ phim Hollywood trong 20 năm qua không tuân theo tập hợp thống kê bình thường mà tuân
theo một đường cong quy luật hàm số mũ – rất giống với định luật nổi tiếng Gutenberg— Richter
cho những trận động đất – với một cái đuôi dài cho những bộ phim thu nhập cao. Một hình ảnh
tương tự mô tả sự phản hồi tài chính cho những loại thuốc mới được sản xuất ra bởi ngành công
nghiệp công nghệ sinh học, cho những khoản tiền đầu tư mà các trường đại học được tài trợ, hay cho
các phản hồi thị trường chứng khoán từ các công ti khởi nghiệp công nghệ cao.
Cái chúng ta biết về những quá trình có động lực học tuân theo quy luật hàm mũ là những sự
kiện lớn nhất rất không tương xứng với các hệ quả của chúng. Theo phép ẩn dụ của cuốn sách best
seller năm 2007 của Nassim Nicholas Taleb, Cánh hạc đen, đó không phải là những sự kiện bình
thường, “những cánh hạc trắng” trần tục và như đa số mọi người trông đợi, mà là “những cánh hạc
đen” nằm cách biệt, hoàn toàn không báo trước. Trong ngữ cảnh lịch sử, bạn hãy nghĩ tới sự kiện
ngày 11 tháng 9 năm 2001 hoặc sự phát minh ra web. Tương tự, lịch sử khoa học dường như xoay
Cuộc sống tầm thường nằm ngoài sự cách tân, đổi mới
Tất cả những yếu tố đó, như Sornett đã tranh luận trong nhiều năm, có hàm ý quan trọng đối
với cách thức chúng ta suy nghĩ và phán xét các đầu tư cho nghiên cứu. Nếu con đường dẫn đến
khám phá là hoàn toàn bất ngờ, và nếu đa số thành tựu có được chỉ xuất hiện trong một nhóm sự
kiện hiếm có và đặc biệt, thì cả việc phán xét một chương trình nghiên cứu có được thai nghén tốt
hay không là cả một vấn đề. “Hầu như bất kì nỗ lực nào nhằm ước định tác động của nghiên cứu
trong một thời gian hữu hạn”, Sornett nói, “cũng sẽ chỉ bao gồm một vài khám phá chủ yếu và vì thế
không đáng tin cậy cho lắm, cho dù là có một xu hướng tích cực lâu dài đi chăng nữa”.
Vấn đề này làm phát sinh một câu hỏi quan trọng: nền văn hóa khoa học ngày nay có tôn
trọng thực tại này hay không? Chúng ta có đang làm những gì tốt đẹp nhất để cho những khám phá
quan trọng nhất và đột phá nhất xuất hiện hay không? Hay chúng ta có đang trở nên quá bảo thủ và
bị gượng ép bởi áp lực xã hội và nhu cầu phản hồi nhanh chóng và dễ đo đạc hay không? Khả năng
thứ hai, dường như thế, thuộc về một vấn đề đang phát sinh đối với nhiều nhà khoa học, họ cho rằng
nền khoa học hiện đại đang ở trong trạng thái nguy hiểm mất tính sáng tạo của nó, trừ khi chúng ta
có thể tìm ra một phương pháp có hệ thống xây dựng một nền văn hóa kiểm soát rủi ro tốt hơn.
Lí lẽ đưa ra lập luận này có nhiều bất đồng.Ví dụ, nhà vật lí Geoffrey West, người hiện là
chủ tịch Viện Santa Fe (SFI) ở New Mexico, Mĩ, chỉ ra rằng trong những năm sau Thế chiến thứ hai,
nền công nghiệp Mĩ đã tạo ra một luồng ổn định những cách tân làm thay đổi kiểu thức, trong đó có
transistor và laser, và điều đó xảy ra vì những nơi như Phòng thí nghiệm Bell đã thai nghén ra một
nền văn hóa đổi mới hết sức tự do. “Họ đã mang những nhà khoa học lớn – nhà vật lí, kĩ sư và nhà
toán học – lại với nhau từ những ngành khoa học khác nhau”, West nói, “và đã tạo ra một nền văn
hóa tự do suy nghĩ mà không có nó thì thật khó mà tưởng tượng nổi làm thế nào những ý tưởng này
có thể xoay chuyển bất ngờ tình thế như vậy”.
Thật đáng tiếc, các nền văn hóa hàn lâm và hợp tác ngày nay dường như đang tiến triển theo
xu hướng ngược lại, với thói quen dập tắt ngay những người không theo lề thói mà có một quan
điểm rộng về khoa học. Tại các trường đại học và các cơ quan tài trợ nghiên cứu, chẳng hạn, giới
lãnh đạo và các ủy ban tai to mặt lớn đưa ra quyết định dựa trên những điều kiện hẹp hòi (tập trung
vào cách danh sách đã công bố, danh sách trích dẫn và hệ số tác động) hoặc dựa trên những kế hoạch
đặc biệt cho những kết quả ngắn hạn, tất cả vốn dĩ nghiêng về những người đang làm việc trong
những lĩnh vực đã hiểu rõ với mẫu hình được chấp nhận rộng rãi. Trong những năm qua, các thói
quen thương mại gò bó và những nỗ lực nhằm cải thiện hiệu quả cũng đã chi phối các chương trình
hợp tác theo chiều hướng tương tự. “Điều đó có thể tốt trong khâu quản lí hành chính”, West nói,
“nhưng cuộc sống tầm thường thì nằm ngoài sự cách tân”.
Một vấn đề thiết yếu, như đề xuất của nhà vật lí toán Eric Weinstein thuộc Nhóm Natron,
một cơ quan tài trợ ở New York, là thật quá dễ dàng cho các nhà khoa học trong bất kì lĩnh vực nào
“đã xác lập” đưa ra những ý tưởng mới, và họ làm như thế mà thật sự chẳng chịu chút rủi ro nào, từ
đó đưa đến một nền văn hóa có thiên hướng nghiêng lệch một cách có hệ thống về phía thận trọng.
“Nền khoa học rủi ro cao đồng hành nhiều hơn với những nhân vật từ quá khứ”, ông nói.
Kết quả, ông đề xuất, là khoa học đang trở thành một sự nghiệp khảo sát bánh-xe-tự-do kém
mang tính “từ dưới lên” hơn – như loại suy nghĩ đã đưa Einstein đến thuyết tương đối – và là một
quá trình “từ trên xuống” nhiều hơn bị trói buộc bởi ý chí xã hội, với tiền chi cho tài trợ khoa học
tuân theo những lộ trình hợp mốt. Nguyên tắc công-bố-hay-là-chết, đặc biệt, thưởng công xứng đáng
cho những nhà khoa học tiến hành kĩ thuật ít hay nhiều mang tính thường lệ trong những lĩnh vực đã
xác lập rõ ràng, và đối xử không tốt với sự nghiên cứu rủi ro hơn đang khảo sát những ý tưởng chưa
được chứng minh có thể mất một khoảng thời gian lớn để đạt tới chín muồi.
Vấn đề này đặc biệt đang gây hại cho những lợi ích không tương xứng phát sinh từ những
khám phá quan trọng nhất, cái dường như vốn dĩ không có khả năng đoán trước được cả về thời gian
lẫn bản chất. Như Taleb biện luận hết sức thuyết phục trong Cánh hạc đen, bất kì chiến lược lâu dài
có thể nhận thức được nào trong một thế giới bị thống trị bởi những sự kiện cực độ và không thể tiên
đoán cũng phải chấp nhận, và thậm chí phải tóm bắt lấy, tính không thể tiên đoán ấy. Ông minh họa
quan điểm này trong ngữ cảnh tài chính. Những người đang đầu tư vào những công ti khởi nghiệp tư
bản mạo hiểm, chẳng hạn, phải đặt kì vọng vào những đợt thua lỗ liên tiếp trong thời gian ngắn, và
đầu tư tiền của vào thực tế rằng cuối cùng họ sẽ thu xếp xong những thua lỗ ấy bằng cách tác động
lên một vài kẻ chiến thắng thật sự to lớn trong cuộc đua dài hơi.
Nói chung, chiến lược đầu tư cơ bản của Taleb – có thể dễ dàng dịch sang các thuật ngữ
nghiên cứu – là đưa một phần hợp lí nguồn quỹ vào những quá trình rất thận trọng sẽ không đánh
mất giá trị của chúng, cho dù chúng có ít cơ hội tạo ra những món lợi lớn; và đưa một phần nhỏ
nhưng hợp lí vào những tiến trình rủi ro cao, mang lại phần thưởng lớn, từ đó thu được sự quảng bá
những món lợi kếch sù có thể có từ những khoản đầu tư này. Những tiến trình này không thể dự
đoán trước một cách tường tận, nhưng thống kê đưa ra tỉ suất về lâu dài là rất cao.
Tuy vậy, cần có tinh thần kỉ luật và tính chịu đựng để trung thành với chiến lược này. Như
Taleb vạch rõ, nếu mọi người xung quanh bạn tin vào ưu thế của số liệu thống kê bình thường, thì họ
sẽ nghĩ rằng bạn thật dại dột, và bằng chứng trước mắt có thể sẽ ủng hộ họ. Bạn sẽ mất tiền trong
cuộc đua ngắn hạn, chẳng nhìn thấy phản hồi gì, và điều này có thể tiếp diễn trong một khoảng thời
gian đáng kể. Điều tương tự xảy ra đối với nền khoa học rủi ro cao so với nghiên cứu theo đuổi
những mục tiêu ngắn hạn hơn. Trong cuộc đua ngắn hạn, cái do kẻ cuồng ngông làm sẽ dường như
hoàn toàn kém thành công, có lẽ còn làm lãng phí thời gian của họ, và người ta dễ nghĩ rằng đây là
loại nghiên cứu chúng ta không nên theo đuổi, cho dù đây thật sự rất có khả năng là sai lầm.
Đây là một cái bẫy, West đề xuất, mànhững người làm kế hoạch khoa học hiện đại đã rơi
vào. “Lo ngại của tôi”, ông nói, “là khi loại trừ những kẻ cuồng ngông không theo quy tắc, chúng ta
cũng đã đặt dấu chấm hết cho khả năng của chúng ta phát hiện ra những ý tưởng mới, to tát –
transistor thế hệ tiếp theo. Đó là một sai lầm nghiêm trọng và thật bi kịch”.
Vậy người ta đã làm gì? Một số cơ quan tài trợ, tất nhiên, từ lâu đã nhận ra nhu cầu tài trợ
cho nghiên cứu “bầu trời xanh” – công trình có thể rủi ro cao nhưng đồng thời mang lại giải thưởng
lớn. Ở Mĩ, chẳng hạn, Quỹ Khoa học quốc gia có những chương trình rủi ro cao dành cho những lĩnh
vực đa dạng từ vật lí cho đến nhân chủng học. Tương tự, Ủy ban châu Âu, còn dành cho cả lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông mang tính thực tiễn cao, có hẳn một chương trình cho những
công nghệ tương lai và công nghệ đang xuất hiện chỉ tài trợ cho nghiên cứu được nhận ra là có tiềm
năng đánh đổ những mô hình hiện có. Có lẽ trung tâm nổi tiếng nhất ủng hộ cho nghiên cứu khoa
học dài hạn mang tính rủi ro cao là Viện Santa Fe (SFI), được cá nhân tài trợ. Trong vài năm qua,
SFI đã được hậu thuẫn bởi ông chủ của những trung tâm mới, ví dụ như Viện Vật lí Lí thuyết
Peremeter ở Waterloo, Canada, một sáng kiến cá nhân được chính phủ Canada hỗ trợ và thành lập
vào năm 1999 bởi Mike Lazaridis, ông chủ cơ quan Research in Motion, nơi chế tạo ra BlackBerry.
Nhưng nhà vật lí Lee Smolin, hiện ở Viện Peremeter, cho rằng nền khoa học nói chung đòi
hỏi một cách tiếp cận rộng rãi hơn và đồng nhất hơn với nền khoa học rủi ro. Để xem loại chính sách
nào là cần thiết, ông đề nghị, thật hữu ích là hãy lưu ý rằng các nhà khoa học, ít nhất là trong chừng
mực nào đó, theo đuổi những phong cách làm việc thuộc hai loại rất khác nhau, phản ánh sự khác
biệt của Kuhn giữa khoa học bình thường và khoa học cách mạng.
Một số nhà khoa học, ông đề xuất, là cái chúng ta có thể gọi là “người leo đồi”. Họ có
khuynh hướng thành thạo về thao tác kĩ thuật và công việc của họ chủ yếu đi theo những lối đã có
sẵn đưa họ tiến xa hơn; họ leo lên trên những ngọn đồi trong không gian có phần trừu tượng của
trạng thái khoa học, luôn luôn tiến những bước nhỏ để cải thiện sự ăn khớp của lí thuyết và quan sát.
Những nhà khoa học này làm khoa học “bình thường”. Trái lại, các nhà khoa học khác thì có tinh
thần phiêu lưu và quyết liệt hơn, và họ có thể xem là “những kẻ băng qua thung”. Họ có thể kém kĩ
Để đạt hiệu quả nhất, Smolin tranh luận, khoa học cần đến một sự phối hợp của những người
leo đồi và kẻ băng qua thung. Có quá nhiều người leo đồi đang làm khoa học bình thường, thì sớm
hay muộn bạn sẽ thấy rất nhiều trong số họ bị mắc kẹt trên những ngọn đồi cục bộ, mỗi người phòng
thủ một lãnh thổ riêng của họ. Nền khoa học khi đó sẽ thiếu những người băng qua thung có khả
năng bứt phá ra khỏi tình thế ngăn nắp trí tuệ đó để thám hiểm những vùng đất xa hơn và tìm thấy
những đỉnh cao hơn.
“Đây là tình huống tôi tin rằng chúng ta đang ở trong đó”, Smolin nói, “và chúng ta ở trong
đó vì khoa học đã trở nên chuyên nghiệp hóa theo kiểu những đặc điểm của một người leo đồi giỏi là
tiêu biểu cho đặc điểm của một nhà khoa học giỏi, hay triển vọng. Những người băng qua thung mà
chúng ta cần đã bị ngăn chặn hoặc tống khứ ra rìa”.
Smolin cho rằng chúng ta cần phải dịch chuyển cán cân sao cho có nhiều kẻ băng qua thung
hơn, và việc này thật ra chẳng quá khó thực hiện nếu chúng ta có phương pháp làm việc rõ ràng, dứt
khoát. Cái chúng ta cần, nói chung, là đặt ra các chính sách ở nơi sẽ đánh giá các nhà khoa học trẻ
không phải xem họ có dính líu vào những chương trình đã được thiết lập hàng thập kỉ trước đây bởi
các nhà khoa học thâm niên hiện nay hay không, mà chỉ dựa trên cơ sở năng lực cá nhân, sự sáng tạo
và tính độc lập của họ. Có thể có một số bước đặc biệt nào đó, ông đề xuất, để đảm bảo rằng các
khoa mạnh về những lĩnh vực đã có nào đó cũng có các nhà khoa học với các quan điểm chia rẽ.
Tương tự, các hội nghị tập trung vào một chương trình nghiên cứu nên khuyến khích sự tham gia của
các đối tác đến từ những chương trình đang cạnh tranh sống còn.
Ngoài ra, các cơ quan tài trợ nên phát triển một phương tiện trừng phạt các nhà khoa học vì
bỏ qua những vấn đề thật sự “khó”, và trao giải cho những ai công phá vào những vấn đề mở tồn tại
từ lâu. Có lẽ, Smolin đề xuất, cơ quan hay quỹ tài trợ nên có một số suất học bổng thật sự dài hơi để
tài trợ các nhà nghiên cứu trẻ, nói ví dụ, trong 10 năm, như vậy sẽ cho phép họ theo đuổi những ý
tưởng sâu sắc mà không bị gây áp lực cho các kết quả nhanh chóng.
Weinstein đề xuất một ý tưởng khác – cái chúng ta sẽ phải vay mượn một số ý tưởng từ kĩ
thuật tài chính và lại làm cho các nhà khoa học hồi sinh những chỉ trích của họ khi xem xét những
rủi ro tài chính thật sự. Bạn nghĩ rằng lí thuyết có phần mới đó thật hết sức vô giá trị và đáng bị giễu
cợt? Trong thế giới Weinstein hình dung ra, bạn không thể vứt một nghiên cứu vào sọt rác trong một
bài đánh giá nặc danh, nhưng bạn sẽ mua một số loại lựa chọn cho bạn món cược tài chính vào
tương lai khoa học của nó, một món hời sẽ tuột khỏi tay nếu, như bạn trông đợi, công trình trôi êm ả
vào trong tăm tối. Tiền sẽ đến từ những người đề xướng của lí thuyết đó, họ cũng thu lợi như vậy
nếu cát đã được đãi thành vàng.
Quan điểm của Weinstein là thị trường, ít nhất là trên lí thuyết, hoạt động hiệu quả và - hãy
đặt cuộc suy thoái tài chính hiện nay sang một bên – dẫn tới sự định giá chính xác của các sản phẩm.
Họ khai thác “sự từng trải của đám đông”, như một quyển sách nổi tiếng cùng tên gần đây đã nêu ra.
Hãy xét thị trường dự báo điện tử tại trường Đại học Iowa, gồm quan điểm của hàng nghìn cá nhân
Điều tương tự có thể nào thực hiện đối với việc cân đong giá trị của các ý tưởng khoa học
hay không? Những ý tưởng đó, Weinstein tranh luận, ngày nay không nặng cân lắm. Như ông chỉ rõ,
những kẻ cuồng ngông vô tổ chức có những bài báo của họ thường bị từ chối vì cái họ cảm thấy là
những lí do không hợp lí, và họ thường cảm thấy bị cản trở bởi cộng đồng đang xuôi theo dòng chảy
chung, trong khi các nhà khoa học đang xuôi dòng chính đó nghĩ thật hoàn toàn hiển nhiên rằng các
ý tưởng của họ thật buồn cười và không nên lãng phí thời gian của cộng đồng. Thực tiễn nghiên cứu
hiện nay thiếu cơ chế sắp xếp một cuộc gặp hiệu quả giữa hai bên – khiến cho ý tưởng của những kẻ
vô tổ chức kia bị chèn ép tự do trong khi đó thì những người phê bình tha hồ vung búa vung đe dựa
trên kiến thức của riêng họ.
“Bạn sẽ làm gì khi bạn đối mặt với một số người cuồng ngông với một ý tưởng rồ dại?”, ông
hỏi. “Bạn đã thử, học trò của bạn đã thử, và bạn biết hầu như chắc chắn nó thất bại. Tại sao bạn
không sử dụngkiến thức này làm lợi thế của riêng bạn? Hiện tại, bạn chỉ không thể trình bày quan
điểm của bạn một cách hiệu quả trước công chúng”.
Tình huống na ná như một người kinh doanh trên thị trường vốn nghe biết được rằng, ví dụ,
một tài sản nhất định nào đó hiện bị đánh giá thấp, nhưng, vì những lí do gì đó, không thể nào mua
nó và hưởng lợi từ sự hiểu biết đó. Trong lí thuyết tài chính, một thị trường thuộc loại này được gọi
là “không đầy đủ”, và tính không đầy đủ của nó dẫn đến sự không hiệu quả, vì mọi kiến thức có liên
quan không được thể hiện trong thị trường.
Để đối phó với tính không hiệu quả tương tự trong trường hợp khoa học, Weinstein đề xuất,
có thể cho nhà phê bình chọn một chỗ đứng trên ý tưởng đó. “Sẽ hiệu quả hơn”, ông nói, “nếu kẻ
ngông cuồng có thể yêu cầu nhà phê bình, nếu lí thuyết của tôi hiển nhiên sai như vậy, thì tại sao ông
không định lượng nó bằng cách viết cho tôi hợp đồng cá cược dựa trên những trích dẫn tương lai
trên top 20 tạp chí hàng đầu được đảm bảo bởi nhà cửa, nội thất, nhà nghỉ và lương hưu của ông?”
Mang những cơ hội như vậy vào cuộc chơi, Weinstein đề xuất, sẽ đưa thực tiễn nghiên cứu
đến gần hơn với “tiền tuyến hiệu quả” – nơi các ý tưởng được phán xét công bằng dựa trên toàn bộ
những kiến thức đã có, thay vì phải chịu sức ép từ lề thói xã hội, khuyến khích những người đặt cược
tài chính vào hàng loạt hệ quả tiềm tàng của sự thành công của chúng. Những cơ chế như vậy,
Weinstein đề xuất, sẽ giúp tranh đi sự kiểm duyệt đang tồn tại thường gây khó cho việc đánh giá
ngang hàng, và hiện giữ nghiên cứu ở trên phía thận trọng của tiền tuyến hiệu quả.
Là một ý tưởng đặc biệt, Weinstein hình dung ra cái ông gọi là sự chiếm hữu tổng hợp, cái
cộng hưởng với lời kêu gọi của Smolin cho những suất học bổng dài hạn. Ngày ngay, ông đề xuất,
các nhà khoa học trẻ có thể dễ dàng thoái chí từ việc xử lí những vấn đề thật sự khó vì họ lo sợ cho
sự nghiệp của họ nếu như họ nghiên cứu một vấn đề trong một thập kỉ và không đạt được sự tiến bộ
đáng kể nào. Để mang lại cho các nhà nghiên cứu ngoại hạng sự yên tâm xử lí những vấn đề khó,
ông đề xuất rằng cơ quan hay quỹ tài trợ có thể đưa ra một thỏa thuận trong đó họ hoan nghênh
người nào có được địa vị tốt trong tương lai trong một số lĩnh vực hào hứng nào đó, nếu dự án của
họ không đi tới kết quả cuối cùng.
Đây đúng là thứ cần thiết, Smolin tranh luận. Nếu như có người nhà khoa học trở lại với nền
khoa học độc lập, chi phối bởi sự ham hiểu biết, thì điều này còn có thể khuyến khích các cơ quan tài
trợ lớn và những nguồn quỹ cá nhân mới, ví dụ như Viện Peremeter hay Howard Hughes and Gates
Foundations. Thật vậy, Weinstein đề xuấ, những cấu trúc mới này có thể có những tương tự với
những phát triển gần đây trong kĩ thuật tài chính với những cấu trúc mới đang xuất hiện là “nguồn
quỹ rào cản trí tuệ” đối phó với sự không hiệu quả nhận thấy được của việc có nhiều tác nhân truyền
thống hơn, cái giữ vai trò của các nguồn quỹ tương trợ chống rủi ro.
Cái giá phải trả cho việc không chuyển sang thiết lập lại sự độc lập như thế sẽ nằm ở sự thất
bại trước việc nhận ra những khám phá lớn và không thể đoán trước làm chuyển dịch nền khoa học
về trước nhiều nhất trong thời gian dài –những khám phá chỉ có thể thực hiện khi các cá nhân thoát
ra khỏi cái tiện nghi và được chấp nhận, và tha thẩn vào những không gian chưa biết. Đó là tầm vóc
thật sự của những món lợi tiềm tàng làm cho mục tiêu đạt tới “tiền tuyến hiệu quả này” thật quan
trọng. Nếu ngày nay dường như chúng ta có quá ít những Einstein mới, Smolin đề xuất, thì điều này
có lẽ chỉ phản ánh rằng chúng ta đã trở thành kẻ chống rủi ro hơi nhiều.
Những Einstein mới, ông chỉ rõ, sẽ không hoạt động trong những lĩnh vực đã được thiết lập
sẵn trong hàng thập kỉ qua. Họ có lẽ cũng không hoạt động trong một lĩnh vực liên quan đến tên tuổi
của bất kì nhà khoa học chủ đạo, đã có danh tiếng nào. Những Einstein mới có thể đi trượt quan
điểm và bị đẩy ra khỏi khoa học hoàn toàn chỉ bởi vì nền văn hóa khoa học của chúng ta hiện nay
đơn giản là chẳng có phương thức nào khuyến khích họ cả.
Mark Buchanan là một nhà viết sách khoa học sinh sống ở Anh. Cuốn sách gần đây nhất của
ông là Nguyên tử Xã hội(2007, Cyan Books).
Mặt trời có lẽ đã hình thành từ sự co sập hấp dẫn một đám mây khí và bụi. Các mô hình ban
đầu của sự hình thành sao giả sử sự đối xứng cầu, nhưng nếu bạn biết nói đùa với điểm nút là “hãy
xét một con bò hình cầu”, thì bạn sẽ nghi ngờ đây là một sự đơn giản hóa quá mức nguy hiểm. Thật
vậy, xung lượng góc giữ một vai trò quan trọng. Khi một đám mây như thế co sập do hấp dẫn, thì nó
phải hình thành nên một “đĩa bồi tụ” xoay tít.
Khi tâm của cái đĩa này trở nên đủ đậm đặc cho áp suất của nó giữ nó lại, thì Mặt trời của
chúng ta ra đời dạng một “tiền sao”. Pha này tồn tại khoảng chừng 100 000 năm; sau đó nhiệt độ
tăng đến điểm mà sự phun trào của khí nóng ngăn cản Mặt trời bồi tụ thêm bất kì chất liệu gì nữa.
Tại điểm này, Mặt trời trở thành cái chúng ta gọi là “sao Tauri T”, được cấp nguồn chỉ bởi năng
lượng hấp dẫn khi nó từ từ co lại. Sau chừng 100 triệu năm nữa, nó trở thành một ngôi sao bình
thường khi hydrogen tại tâm của nó bắt đầu chịu sự nhiệt hạch.
Một số bụi xoay tròn xung quanh Mặt trời sơ khai trở nên nóng bỏng và tan đi, và một số
trong những giọt tan chảy này sau đó đông lại thành “cục” – những quả cầu kích cỡ milimet của
những khoáng chất đơn giản, như pyroxene và olivine, chủ yếu cấu thành từ sodium, calcium,
magnesium, nhôm, sắt, silicon và oxygen. Những cục này là thành phần chính của một số trong
những vật thể nguyên thủy nhất vẫn miệt mài hành trình của chúng trong hệ mặt trời: các thiên thạch
phủ đá gọi là “chondrite”.
Bụi quay xung quanh Mặt trời sơ khai bắt đầu hình thành nên các tảng gọi là “tảng hành
tinh”. Khi các tảng này va chạm nhau, chúng trở nên to hơn, cuối cùng hình thành nên các tiểu hành
tinh và hành tinh và chúng ta thấy ngày nay. Một số tảng đã tan chảy, để các kim loại nặng co vào
trong lõi của chúng trong khi vật chất nhẹ hơn vẫn ở trên bề mặt. Và một số tảng đâm sầm vào nhau,
vỡ tan ra và hình thành nên chondrite và những thiên thạch khác, ví dụ như các thiên thạch sắt-nickel
và các thiên thạch phủ đá gọi là “achondrite”.
Bằng cách sử dụng các kĩ thuật định tuổi phóng xạ trên thiên thạch, các nhà nghiên cứu
khẳng định một kiến thức chính xác bất ngờ về thời điểm khi toàn bộ những sự kiện này xảy ra: đâu
đó giữa 4,56 và 4,55 tỉ năm trước. Cho nên, Trái đất có khả năng đã hình thành đâu đó khoảng thời
gian trên – và câu chuyện của chúng ta chính thức bắt đầu từ chỗ này.
Lịch sử của Trái đất được phân chia thành bốn kỉ nguyên: Hadean, Archean, Proterozoic và
Phanerozoic. Khi tôi còn nhỏ thì “kỉ Cambri” đã lùi xa vào dĩ vãng như sách vở của tôi bảo thế,
ngoại trừ “kỉ Tiền Cambri” u ám. Nhưng kỉ Cambri chỉ mới bắt đầu 540 triệu năm trước. Kỉ Cambri
đánh dấu sự bắt đầu của thời kì hiện đại, Phanerozoic, nghĩa là “tuổi của sự sống khả kiến”. Đây là
lúc các sinh vật đa bào thống lĩnh thế giới, để lại các hóa thạch mà chúng ta thấy ngày nay. Nhưng
chúng ta sẽ đào sâu thêm nhiều nữa: đại Phanerozoic sẽ kết thúc câu chuyện của chúng ta.
Ngược thời gian về đại Hadean. Đúng như tên gọi của nó, đây là thời điểm khi Trái đất cực
kì nóng bỏng. Nó bắt đầu với một sự kiện hình thành nên Mặt trăng cách nay khoảng 4,53 tỉ năm.
Cái gì đã tạo ra Mặt trăng? Lời giải thích phổ biến nhất hiện nay là “lí thuyết va chạm lớn” – thỉnh
thoảng được gọi là lí thuyết “miếng ván lưng ghế lớn”.
Một mô phỏng máy tinh cho thấy sự va chạm giữa Theia và Trái đất. Theo lí thuyết “miếng ván lưng ghế lớn”, Theia là
một hành tinh hình thành tại điểm Lagrange của Trái đất. Là kết quả của cú va chạm hành tinh này, Mặt trăng đã ra đời
(Ảnh: Robin Canup, Viện Nghiên cứu Tây Nam)
Thật là một lí thuyết ngoạn mục, nhưng có một trường hợp chắc chắn cho nó, được mô tả đẹp
đẽ trong cuốn sách mới đây của nhà văn khoa học Dana Mackenzie, Miếng ván lưng ghế lớn, Hay
Mặt trăng của chúng ta đã đến như thế nào. Ví dụ, ma sát thủy triều đang làm cho Mặt trăng dần
tiến xa ra khỏi Trái đất. Chúng ta biết nó đang di chuyển ra xa ở tốc độ chừng 3,8 cm mỗi năm. Các
lớp trầm tích cổ đại ghi lại vết thủy triều và cho thấy các tháng đã dài hơn ít nhất là kể từ thời kì tiền
Cambri. Việc ngoại suy ngược trở lại chúng ta tìm thấy trong đại Hadean Mặt trăng ở rất gần Trái
đất. Có thể nào nó bị vứt ra khỏi Trái đất bởi lực li tâm, hoặc là hình thành gần Trái đất ở nơi đầu
tiên, hoặc là bị bắt giữ bởi trường hấp dẫn của Trái đất? Toàn bộ những lí thuyết này phải được xem
xét, nhưng lí thuyết va chạm lớn dường như phù hợp tốt nhất với số liệu. Người ta xem xét nó một
Đại Archean bắt đầu với sự hình thành của những tảng đất đá đầu tiên tồn tại cho đến ngày
nay. Chuyện này xảy ra khoảng 4 tỉ năm trước. Nhiều tảng đá lửa, đặc biệt là ba-zan, phải hình thành
trước thời kì này. Thật ra, các đại dương có lẽ đã hình thành cách nay 4,2 tỉ năm. Nhưng chúng ta
không thấy bất kì vết tích nào của địa mạo sơ khai này. Một lí do có thể là sự bắt đầu của đại
Archean không phải là một thời điểm hòa bình.
Sau khi Mặt trăng hình thành, Trái đất tiếp tục chịu nhiều cú va chạm. Thật kì lạ, thay vì tần
suất đều đặn của chúng theo thời gian, nó có thể bị bắn phá trong một thời kì gọi là đợt bắn phá
muộn nặng nề, xảy ra chừng 4 đến 3,8 tỉ năm trước. Rất nhiều miệng hố lớn trên Mặt trăng có niên
đại trong thời kì nay, cho nên có khả năng là Trái đất cũng chịu sự va chạm – nhưng ở đây, những
miệng hố cũ như thế đã bị mất do hoạt động thời tiết và hoạt động địa chấn. Cho nên, Mặt trăng là
chỉ dẫn của chúng ta.
Trong đợt bắn phá muộn nặng nề, Mặt trăng bị bắn phá bởi 1700 thiên thạch tạo ra những
miệng hố rộng hơn 100 km. Trái đất có thể dễ dàng nhận nhiều gấp 10 lần những cú va chạm thuộc
cỡ này, với một số hố lớn hơn nhiều. Để hình dung ra cường độ của đợt bắn phá túi bụi này, hãy nhớ
lại cú va chạm thiên thạch có lẽ đã làm tiệt diệt loài khủng long vào cuối kỉ Phấn trắng cách nay 65
triệu năm. Cú va chạm này để lại một miệng hố rộng 180 km. Những cú va chạm thuộc cỡ này xảy
ra như cơm bữa trong thời kì bắn phá muộn nặng nề.
Người ta tin rằng bề mặt của Trái đất đủ lạnh để hình thành nên một lớp vỏ ngay trước đợt
bắn phá muộn nặng nề đó. Trong khi đó, hoạt động núi lửa sẽ giải phóng rất nhiều hơi nước, carbon
dioxiode và ammonia. Hoạt động này hình thành nên cái gọi là “khí quyển thứ hai” của Trái đất.
“Khí quyển thứ nhất” của Trái đất, chủ yếu gồm hydrogen và helium, đã bị thoát vào trong không
gian. Khí quyển thứ hai chủ yếu gồm carbon dioxide và hơi nước, với một phần nitrogen nhưng có
khả năng không có nhiều oxygen. Khí quyển thứ hai này có nhiều chất khí hơn gấp 10 lần so với
“khí quyển thứ ba” ngày nay.
Khi Trái đất lạnh đi, các đại dương hình thành. Chúng có lẽ đã sôi hết hoàn toàn trong một số
cú va chạm lớn nhưng sau đó đã định hình lại. Cuối cùng, phần nhiều carbon dioxide trong khí
quyển hòa tan vào trong biển nước. Hoạt động này sau đó làm kết tủa carbonate, từ đó bắt đầu một
pha mới trong cái nhà địa chất học Robert Hazen thuộc Viện Carnegie ở Phòng thí nghiệm vật lí địa
cầu Washington gọi là “sự tiến hóa khoáng chất”. Đây không phải là sự tiến hóa theo ý nghĩa
Darwin luận, mà chỉ là sự đa dạng hóa dần dần của các kháng chất trong lịch sử Trái đất. Năm 2008,
một đội các nhà địa chất đứng đầu là Hazen đã ước tính 350 loại khoáng chất có thể tìm thấy trên
Trái đất trong đại Hadean. Nhưng khi lịch sử Trái đất tiếp diễn, con số đếm của họ lại tăng lên. Vào
Bắt đầu khoảng 850 triệu năm trước, một số điều kì diệu đã xảy ra: giai đoạn đóng băng
khủng khiếp trong đó phần lớn hay toàn bộ Trái đất phủ đầy băng tuyết. Những người ủng hộ phiên
Theo giả thuyết “quả cầu tuyết Trái đất”, cách đây 850 triệu năm, bề mặt hành tinh của chúng ta hoàn toàn băng giá
(Ảnh: Simon Terrey/Science Photo Library)
Vào cuối những chu kì băng giá này, người ta tin rằng oxygen đã tăng từ 2% khí quyển lên
15% (Bây giờ nó là 21%). Đây có thể là nguyên do các sinh vật đa bào hít thở oxygen có tuổi từ thời
kì này. Những người khác thì cho rằng chu kì “băng khô” gây áp lực tiến hóa dữ dội lên sự sống và
dẫn đến sự phát triển của các sinh vật đa bào. Cả hai lí thuyết này đều có thể đúng (Muốn tìm hiểu
chi tiết, hãy đọc quyển Quả cầu tuyết Trái đất của Gabrielle Walker).
Sự biến đổi khí hậu mà chúng ta đang chịu hiện nay gây ra bởi sự gia tăng lượng khí nhà
kính do các hoạt động của con người, đáng kể nhất là việc đốt các nhiên liệu hóa thạch, thâm canh
nông nghiệp và tàn phá rừng. Mặc dù sự ấm lên toàn cầu đã có mặt trong tác phẩm khoa học kể từ
một bài báo đánh dấu bước ngoặc của nhà vật lí người Thụy Điển, Svante Arrhenius, viết hồi năm
1896, nhưng chỉ đến những thập niên gần đây thì kiến thức khoa học của chúng ta về hệ thống khí
hậu mới làm sáng tỏ được rằng một sự ấm lên toàn cầu cao hơn 2oC so với mức thời kì tiền công
nghiệp có thể là nguy hiểm và vì thế cần nên tránh.
Các thí dụ công nghệ có thể sử dụng để làm biến đổi các điều kiện khí quyển của Trái đất nhằm làm giảm các tác dụng
của sự biến đổi khí hậu. Từ trên xuống: hai loại kính phản xạ mặt trời; một khí cầu gieo mầm cho mây và máy bay thả
hơi nước; du thuyền gieo mầm cho mây; các bộ phản xạ mặt trời trên biển và trên đất liền; và bón chất dinh dưỡng cho
sinh vật phù du trên biển sinh sôi. (Ảnh: Henning Dalhoff/Bonnier Publications/Science Photo Library)
Trong khi các chất khí nhà kính không chỉ có cacbon đi-ôxit (CO2) mà còn cả mêtan, ni-tơ
ôxit, ô-zôn và CFC, thì những cuộc thương thuyết chính trị quốc tế lại tập trung vào nhu cầu cắt
Cách tiếp cận dễ thấy nhất để loại trừ CO2 là rừng cây xanh, nhưng cách này tương đối
không hiệu quả và yêu cầu những diện tích đất đai lớn. Một đề xuất triệt để hơn là chăm bón đại
dương với một chất dinh dưỡng hạn định ví dụ như sắt trong niềm hi vọng tăng cường bồn chứa
cacbon đại dương (đối tượng hiện nay hấp thụ khoảng 25% lượng khí thải CO2 do con người). Các
thí nghiệm chăm bón đại dương quy mô nhỏ đã tạo ra những bông hoa nhân tạo trôi nổi trên biển
qua việc thêm sắt, nhưng điều đáng ngờ là không biết hoạt động này có chuyển thành sự cải thiện lâu
dài bể chứa cacbon hay không. Một rủi ro lớn với phương thức tiếp cận này là các dòng hải lưu
khiến người ta không thể xử lí khu vực trên đó các hệ sinh vật biển bị biến đổi bởi việc bón chất dinh
dưỡng.
Một phương pháp an toàn hơn lọc bỏ cacbon đi-ôxit là bẫy không khí, sử dụng phương pháp
chiết tách bằng hóa chất hoặc bằng tác nhân vật lí lọc CO2 ra khỏi không khí và chôn cacbon trong
các kho địa chất. Bộ phận trữ của phương pháp này giống với phương pháp bắt và trữ cacbon thông
thường, nhắm tới việc loại CO2 ra khỏi các chất khí thải của các nhà máy điện nhiên liệu hóa thạch.
Bẫy không khí trên nguyên tắc có thể thực hiện ở bất kì địa điểm nào, mặc dù nó hữu dụng nhất là ở
gần các kho trữ địa chất. Các phương pháp hóa học của bẫy không khí thường đi cùng với phản ứng
của cacbon đi-ôxit với natri hyđrôxit để tạo ra natri cacbonat, trong khi phương pháp bẫy vật lí sử
dụng các chất nhựa trao đổi ion có khả năng lọc CO2 ra khỏi không khí, sau đó có thể rửa sạch chúng
từ các bộ lọc với nước. Có những ưu điểm nổi trội đối với các kĩ thuật bẫy không khí vì chúng loại
bỏ được nguyên do chính của sự ấm lên toàn cầu và, không giống như các phương pháp khác, nó
mang lại khả năng hạ hàm lượng CO2 xuống dưới mức hiện nay. Tuy nhiên, những kĩ thuật này hiện
nay thật tốn kém và còn gặp khó khăn ở chỗ tìm các kho trữ địa chất ổn định thích hợp cho cacbon.
Chắn bớt mặt trời hoặc làm cho hành tinh sáng hơn
Một phương pháp khác lọc loại cacbon đi-ôxit là điều khiển bức xạ mặt trời, bao gồm việc
làm giảm lượng ánh sáng mặt trời bị hấp thụ bởi Trái đất như một tổng thể. Nhiệt độ trung bình toàn
cầu của hành tinh được xác định bởi sự cân bằng giữa bức xạ mặt trời bị hấp thụ và bức xạ hồng
ngoại bị mất bởi Trái đất vào trong không gian. Người ta có thể làm nguội hành tinh bằng cách hoặc
tăng lượng bức xạ hồng ngoại bị mất vào trong không gian (như trong các kĩ thuật lọc loại CO2),
hoặc giảm lượng bức xạ mặt trời bị hành tinh hấp thụ. Điểu khiển bức xạ mặt trời là hoặc chặn bớt
Một lá chắn mặt trời có diện tích khoảng 3 × 106 km2 đặt cao 1.5 × 103 km phía trên hành tinh chúng ta
sẽ là cần thiết để chống lại sự tăng gấp đôi hàm lượng cacbon đi-ôxit trong khí quyển của Trái đất. (Ảnh:
Victor Habbick Visions/Science Photo Library)
Có nhiều kĩ thuật khác nhau để làm chủ bức xạ mặt trời đặt trên mặt đất: cái gọi là phương
pháp nóc nhà trắng, trong đó những công trình ở của con người, chủ yếu là mái nhà và mặt đường
lát, được sơn những chất liệu phản xạ; chọn trồng các loại hoa màu sáng hơn và nuôi động vật chăn
thả; và những kế hoạch triệt để hơn còn đề xuất phủ lên các sa mạc những tấm plastic có hệ số phản
xạ cao. Lợi ích về mặt khí hậu của những kĩ thuật này thay đổi theo khu vực được cải tạo. Ví dụ, các
Những rủi ro tương tự đi cùng với các kĩ thuật trên là làm cho các đám mây sáng lên, vì những
kĩ thuật này rõ ràng chỉ hoạt động nơi tồn tại các đám mây. Tuy nhiên, việc cải tạo suất phản chiếu
của mây có khả năng là một đòn bẩy lớn đối với khí hậu có thể mang lại sự nguội đi toàn cầu để bù
trừ sự gấp đôi hàm lượng cacbon đi-ôxit khí quyển. Đề xuất cải tạo mây tiên tiến nhất là gieo rắc
thêm muối biển để cung cấp thêm nhân ngưng tụ mây có thể làm cho những đám mây tích đại dương
sáng hơn lên – đây là những đám mây thấp trên các vùng duyên hải và đại dương. Đề xuất cải tạo
mây còn tiến xa đến chỗ thiết kế những con tàu tự động phân phối muối biển cho những đám mây
tích tầng thấp. Chi phí cho phương pháp này thì không rõ, nhưng chúng có khả năng thấp hơn đáng
kể so với phương pháp làm nguội tương tự bằng những kĩ thuật hạ nhiệt thông thường khác.
Một kĩ thuật còn rẻ tiền hơn nữa có thể là bắt chước các tác động lên khí hậu của những đợt
phun trào núi lửa quan trọng bằng cách bơm các hạt nhỏ li ti hay "aerosol" vào tầng bình lưu của
Trái đất (khí quyển tầng trên). Những hạt aerosol này sẽ phản xạ ánh sáng mặt trời giống hệt như
chúng đã làm sau đợt phun trào của núi lửa Pinatubo hồi năm 1991, dẫn đến sự nguội đi toàn cầu
chừng 0,5oC. Các ý tưởng thuộc loại này có khả năng xuất phát từ nhà vật lí người Nga Mikhail
Budyko vào những năm 1970, người đề xuất sử dụng sunphua làm cơ sở cho aerosol tầng bình lưu
như trong trường hợp núi lửa phun. Khái niệm địa kĩ thuật thông qua các hạt aerosol tầng bình lưu
sau đó được theo đuổi vào những năm 1990 bởi nhà vật lí và là người phát minh ra bom H, Edward
Teller, người đã dự tính tới các hạt phản xạ phức tạp hơn. Nhưng việc bàn tới các đề xuất địa kĩ thuật
vẫn là thứ cấm kị trong số các nhà khoa học khí hậu chính thống mãi cho đến năm 2006, khi nhà hóa
học đoạt giải Nobel Paul Crutzen đánh giá lại lợi ích của việc bơm sunphua vào tầng bình lưu bắt
chước các tác động lên khí hậu của đợt phun trào núi lửa Pinatubo. Các e ngại còn lại là những sự
không chắc chắn ở phản ứng vùng của lượng mưa đối với sự kết hợp của việc lọc loại CO2 và làm
giảm ánh sáng mặt trời, và ở tác động tiềm tàng của việc thêm aeosol đối với sự hồi phục của lỗ
thủng tầng ô-zôn. Tuy nhiên, chi phí theo ước tính của việc duy trì một tấm chắn aerosol sunphat, có
khả năng nhất là thông qua một số máy bay tầm cao chuyên dụng, rẻ hơn đáng kể so với chi phí thỏa
ước cắt giảm đến hàng trăm hay hàng nghìn lần. Vì những lí do đó, các kĩ thuật aerosol tầng bình lưu
được nhiều người xem là giải pháp thay thế hứa hẹn nhất cho thỏa ước cắt giảm.
Mang tính khoa học viễn tưởng nhất trong số các kĩ thuật điều khiển bức xạ mặt trời ở trên là
việc đặt những lá chắn mặt trời giữa Mặt trời và Trái đất. Vị trí đặt tấm chắn triển vọng nhất hình
như là tại điểm Lagrange L1, nơi cách Trái đất khoảng 1.5 × 106 km về phía Mặt trời, tại đó lực hút
hấp dẫn của hai thiên thể triệt tiêu nhau. Tại điểm này, những tấm chắn khoảng chừng 3 × 106 km2 sẽ
là cần thiết để chống lại sự tăng gấp đôi lượng CO2. Có những thách thức ghê gớm đi cùng với việc
thiết kế và sản xuất các chất liệu nhẹ, bền có thể dùng cho các tấm chắn mặt trời, nhưng sự tốn kém
lâu dài có thể đi cùng với việc phóng các bộ phận của tấm chắn cũng như việc sửa chữa và thay thế
định kì của chúng. Cho dù một phương pháp địa kĩ thuật như vậy tỏ ra khả thi về mặt công nghệ và
Bớt cấm kị
Theo Stern Riview, xuất bản hồi năm 2006 và là một trong những tư liệu có sức ảnh hưởng
nhất về tính kinh tế của sự biến đổi khí hậu, việc sử dụng thỏa ước cắt giảm để tránh một sự ấm lên
toàn cầu có khả năng nguy hiểm cỡ 2oC là tiêu tốn tới 1% tổng GDP toàn cầu, khoảng chừng 350 tỉ
đôla mỗi năm ở thời giá hiện nay. Con số trên tổng kết tiềm năng của các đề xuất địa kĩ thuật khác
nhau xây dựng trên một bản đánh giá do Hội Hoàng gia Anh công bố trong tháng này. Ngoài ra, nó
còn so sánh từng kĩ thuật với thỏa ước cắt giảm, vì đây là giải pháp rõ ràng nhất đối với sự ấm lên
toàn cầu và nó nằm tại trọng tâm của những cuộc đàm phán khí hậu quốc tế.
So sánh giá thành theo lợi ích của các đề xuất địa kĩ thuật với thỏa ước biến đổi khí hậu. Những rủi ro đi cùng với những
đề xuất này được biểu thị là thấp (màu xanh), trung bình (màu vàng) và cao (màu đỏ). Lựa chọn thay thế an toàn nhất đối
với thỏa ước cắt giảm là bẫy cacbon đi-ôxit không khí, nhưng giải pháp bơm aerosol tầng bình lưu có tỉ số lợi ích trên
giá thành cao nhất.
Tỉ số lợi ích trên giá thành dường như là lớn nhất đối với giải pháp bơm aerosol tầng bình
lưu, mặc dù phương pháp này mang lại rủi ro là làm biến đổi khí hậu vùng miền và làm chậm sự hồi
phục của lỗ thủng tầng ô-zôn. Ngoài ra, các kĩ thuật hiệu quả cao đối với việc làm chủ bức xạ mặt
trời ví dụ như bơm aerosol sunphua mang lại cái đôi khi gọi là “rủi ro chết người”, nghĩa là rủi ro
của việc ấm lên toàn cầu một cách đột ngột nếu như phương pháp địa kĩ thuật đó không thành công.
Mặt đối lập của rủi ro chết người này là những phương pháp như thế có thể cho dừng lại có cân
nhắc nếu xuất hiện những hệ quả không như dự tính.
Lựa chọn an toàn nhất cho thỏa ước cắt giảm là bẫy CO2 không khí, loại bỏ nguyên do chủ
yếu của sự ấm lên toàn cầu và do đó tránh được những rủi ro đi cùng với sự biến đổi vùng miền chết
người và sự axit hóa đại dương. Tuy nhiên, hiện nay, bẫy không khí dường như tương đối tốn kém
so với thỏa ước cắt giảm và rất đắt tiền so với các kĩ thuật quy mô lớn nhằm làm chủ bức xạ mặt trời.
Nguyên do chính khiến ít có sự tranh luận về địa kĩ thuật giữa các nhà khoa học khí hậu là
người ta e ngại rằng một cuộc tranh luận như thế sẽ ngụ ý một lựa chọn khác để làm giảm trách
nhiệm phát thải cacbon của con người. Trong trường hợp tệ hơn, điều này có thể làm chậm tiến trình
đàm phán khí hậu quốc tế. Nhưng hiện nay có cảm giác đang tăng lên là thời gian đã nâng điều cấm
kị địa kĩ thuật đến chỗ những nghiên cứu khoa học thích hợp có thể được thực hiện trước khi có bất
kì sự thực thi quy mô lớn có khả năng gây nguy hại nào lên hệ khí hậu, như bản báo cáo trong tháng
này của Hội Hoàng gia Anh nêu bật. Ưu tiên nghiên cứu lúc này sẽ là việc đánh giá tác động của các
kĩ thuật làm chủ bức xạ mặt trời lên khí hậu vùng miền, sử dụng các mô hình khí hậu và những cái
tương tự như các đợt phun trào núi lửa từ quá khứ của Trái đất, và sự phát triển ngày càng nhanh của
các kĩ thuật bẫy không khí, bao gồm cả ngành khoa học vật liệu hết sức tinh vi. Đối với các nhà khoa
học muốn cứu lấy hành tinh, thì không có lĩnh vực nghiên cứu nào có sức cuốn hút hơn là địa kĩ
thuật.
Tóm tắt
• Ngày nay, dường như việc nghiêm khắc cắt giảm 50% lượng khí thải cacbon đi-ôxit vào năm
2050 là không đủ để ngăn cản sự ấm lên toàn cầu nguy hiểm.
• Địa kĩ thuật mang lại một giải pháp thay thế nhằm cắt giảm phát thải cacbon đi-ôxit, mặc dù
cần có thêm nhiều nghiên cứu được thực hiện để xác thực tính hiệu quả và rủi ro đi cùng với
những sự can thiệp quy mô lớn lên hệ khí hậu.
• Có hai loại đề xuất địa kĩ thuật: lọc loại cacbon đi-ôxit trực tiếp và làm chủ bức xạ mặt trời.
• Nhiều đề xuất địa kĩ thuật có tỉ số lợi ích khí hậu trên giá thành thường niên cao hơn thỏa ước
cắt giảm.
Các thế giới đất đá, kiểu địa cầu giống như các hành tinh nhóm trong trong hệ mặt trời của chúng ta có thể
vừa phong phú, vừa đa dạng trong phần còn lại của vũ trụ, như các minh họa ấn tượng ở đây. (Ảnh:
NASA/JPL-Caltech)
Ai từng sử dụng soda thay cho bột nổi khi làm bánh đều biết một sự thật đơn giản: công thức
pha chế là cả một vấn đề. Điều đó cũng đúng đối với sự hình thành hành tinh. Các hành tinh cấu
thành từ những chất liệu kết tập trong một đĩa quay tròn xung quanh những ngôi sao trẻ - về cơ bản
“phần thừa còn lại” khi bản thân các ngôi sao hình thành qua sự co sập hấp dẫn của đám mây khí và
bụi đang quay tròn. Do đó, cái đĩa sinh ra hành tinh ấy ban đầu phải có tỉ số khí-trên-bụi bằng với
môi trường giữa các sao: khoảng chừng 100 trên 1, tính theo khối lượng. Tương tự, có vẻ thật hợp lí
là thành phần cơ bản của cái đĩa ấy phải phù hợp với thành phần cơ bản của ngôi sao, phản ánh các
điều kiện ban đầu lại nơi đặc biệt đó trong thiên hà.
Nhưng chúng ta thấy một sự đa dạng lớn ở thành phần hóa học của các hành tinh trong hệ mặt
trời của chúng ta, là hàm của cả khối lượng hành tinh và khoảng cách tính từ Mặt trời ra (hai biến tự
chúng không hoàn toàn độc lập nhau). Hãy xét hệ mặt trời nhóm trong, nơi là vương quốc của các
hành tinh “đất đá” – Hỏa tinh, Trái đất, Kim tinh và Thủy tinh. Trong chừng mực chúng ta có thể
Mộc tinh và Thổ tinh thì ở xa bên ngoài, lần lượt quay ở bán kính bằng 5 và 10 lần khoảng
cách trung bình giữa Trái đất và Mặt trời (một đơn vị thiên văn, hay AU). Chúng cũng khác hoàn
toàn với những anh em đất đá của chúng. Giống như Mặt trời, những hành tinh “khí khổng lồ” này
chủ yếu là hydrogen và helium. Tuy nhiên, các phép đo phức tạp của trường hấp dẫn của Mộc tinh,
suy luận từ phi thuyền bay trên quỹ đạo, cho thấy nó chứa hơn 30 khối lượng Trái đất các nguyên tố
nặng hơn helium. Điều này có nghĩa là Mộc tinh – hành tinh lớn nhất của hệ mặt trời nặng khoảng
318 lần Trái đất – giàu hơn Mặt trời ở những nguyên tố này đến 3 lần. Điều tương tự cũng đúng đối
với Thổ tinh.
Bên ngoài Thổ tinh trong hệ mặt trời nhóm ngoài là Thiên vương tinh và Hải vương tinh.
Những cái gọi là những kẻ khổng lồ băng giá này hình thành ở bán kính tại đó người ta cho rằng
cacbon, nitrogen và oxygen đều ngưng tu từ pha khí để hình thành nên băng ở thể rắn. Hai hành tinh
xa xôi này cấu thành từ hydrogen và helium ở tỉ lệ đại khái bằng ới các nguyên tố nặng. Điều này
cho thấy lõi của chúng được tạo ra ngay sau khi đĩa khí từ đó Mộc tinh và Thổ tinh hình thành bay
hơi ra phía ngoài. Sự kiện này được cho là xảy ra lúc hơn 10 triệu năm sau khi sự cô đặc tiền sao đầu
tiên hình thành từ đám mây phân tử đang quay tròn, đang co lại để trở thành Mặt trời.
Các nhà thiên văn có thể thu được nhiều manh mối khác cho sự hình thành và tiến hóa của hệ
mặt trời từ việc nghiên cứu thành phần của các vệ tinh hành tinh, các hành tin lùn trong vành đai
Kuiper nằm ngoài Hải vương tinh, các sao chổi, những mảnh vụn khác, và chính bản thân Mặt trời.
Nhưng suốt thập niên vừa qua, chúng ta cũng đã bắt đầu học được thêm nhiều điều về các hành tinh
nằm ngoài hệ mặt trời của chúng ta, đang quay xung quanh những ngôi sao vừa giống như Mặt trời
vừa kì lạ (Xem bài “Đi tìm những thế giới mới” của Alan Boss, Physics World tháng 3/2009). Điều
này có nghĩa là lần đầu tiên chúng ta đã có thể nghiên cứu các hệ hành tinh tiến hóa độc lập với hệ
hành tinh của chúng ta. Cái chúng ta đang tìm kiếm là ở trong gian bếp này, các thành phần pha chế
cho những loại bánh khác nhau được giữ riêng biệt, và mang lại những loại bánh có hương vị rất
khác nhau.
Mặc dù quyển Thú vui bếp núc với các hành tinh cho đến nay vẫn chưa được viết xong,
nhưng chúng ta thật sự có một số gợi ý từ các “bếp trưởng” làm bếp hành tinh thuộc ngân hà. Công
thức cổ điển làm món hành tinh có thể đọc ra như sau.
Bắt đầu với một đĩa khí và bụi, ban đầu chừng 10-20% khối lượng của ngôi sao trẻ. Cái đĩa
sẽ nóng nhất ở bán kính nhỏ (vài lần bán kính của ngôi sao) và lạnh nhất ở bán kính lớn nhất (thường
hơn 10 AU) do các tác dụng kết hợp của sự giải phóng thế năng hấp dẫn và sự chiếu xạ giữa các sao.
Nếu cái đĩa đủ nặng, bạn có thể quan sát thấy các sóng mật độ xoắn ốc đang phát triển, không
hẳn không giống như các xoắn trông thấy ở những thiên hà có những cánh tay xoắn ốc rõ rệt. Đừng
lo lắng gì cả. Điều này thật ra có thể giúp thu thập các hạt chất rắn cần thiết để hình thành nên những
mảng hành tinh lớn, hay thậm chí lõi của những hành tinh khổng lồ, như mô tả dưới đây.
Ảnh giản đồ của đĩa tiền hành tinh đang quay xung quanh một ngôi sao trẻ thể hiện những vùng khác nhau, nơi các hành
tinh có thể hình thành. Ở bán kính nhỏ nhất (< 0,05 AU), khoảng trống hình thành trong đĩa đang quay tròn do các tương
tác từ với ngôi sao trẻ. Đĩa bên trong (0,05 < r < 0,1 AU) gồm chủ yếu là chất khí vì nhiệt độ ở những bán kính này làm
cho các hạt bụi bị thăng hoa. Nằm ngoài vùng này là phần đĩa ngoài, nơi bụi và khí trộn lẫn vào nhau. Các chất bồi tụ sền
sệt trong đĩa ở bán kính lên tới 1 AU. Ở ngoài nữa, sự bồi tụ chỉ có thể xảy ra trong một lớp mặt, để lại một “vùng chết”
ở phía trong của đĩa. Đường băng tuyến, nơi cacbon, nitrogen và oxygen ngưng tụ, nằm ngoài 3 AU. Ảnh: C P
Dullemond, 2001 ApJ 560 957)
Tiếp theo, xảy ra chuyển động khuấy hỗn loạn khi hệ trải qua sự bồi tụ sền sệt. Cơ chế mang
lại sự nhớt cần thiết không hoàn toàn rõ ràng. Tuy nhiên, nếu cái đĩa bị ion hóa đủ mức, thì lí thuyết
cho thấy một sự mất cân bằng cố hữu trong các đĩa Kepler của chất khí dẫn – gọi là sự mất cân bằng
magneto-quay (MRI) – có thể tạo ra sự xáo trộn cần thiết. Nếu cái đĩa dày về mặt quang tính (như đa
số như thế khi bạn bắt đầu), thì một “vùng chết” có thể hình thành trong mặt phẳng giữa của đĩa từ
chưa tới 1 AU cho đến hơn 190 Au, nơi MRI không thể hoạt động do sự ion hóa thấp. Tuy nhiên, bề
mặt đĩa phải bị ion hóa đủ mức để cho phép sự bồi tụ sền sệt: đa số chất liệu chuyển động vào trong
hướng về phía ngôi sao trong khi một số chất liệu chuyển động ra phía ngoài, làm bảo toàn xung
lượng góc. Trong suốt quá trình pha trộn này, các hạt bụi nhỏ va chạm và dính vào nhau, hình thành
nên những vật thể lớn hơn theo thời gian. Khi điều này xảy ra, cái đĩa sẽ trở nên kém trong suốt hơn,
vì các hạt lớn có tỉ số khối lượng trên diện tích bề mặt lớn hơn so với các hạt nhỏ.
Nhưng ít nhất cũng có một cách tránh được vấn đề trên. Ken Rice thuộc trường Đại học
Edinburgh ở Anh, Anders Johansen thuộc trường Đại học Leiden ở Hà Lan, và các nhà khoa học
hành tinh khác, đã đề xuất rằng các bếp trưởng hành tinh có thể sử dụng lưỡi kéo chất khí làm lợi thế
của mình. Hễ nơi nào có sự tăng cường mật độ trong chất khí, các nhà nghiên cứu đề xuất, thì các
hạt rắn cũng sẽ có xu hướng tập trung lại. Và bên trong những vùng đậm đặc hơn này của đĩa vật
chất, những vật thể lớn hơn có thể được tạo ra thông qua các va chạm ở tốc độ nhanh hơn nhiều so
với tốc độ chúng bị thất thoát do lưỡi kéo chất khí.
Nếu quá trình này thành công, nó sẽ để lại một vài vật thể lớn chừng 100 km đường kính sẵn
sàng cho việc nhào nặn tiền hành tinh. Sự kết tập hấp dẫn, trong đó quỹ đạo của các hạt nhỏ bị nhiễu
loạn đáng kể bởi sự chạm trán với những vật thể lớn hơn, có thể làm tăng tốc quá trình này, dẫn đến
sự tăng trưởng phi mã trong đó các vật thể to ngày một to hơn. Nhưng một khi các tiền hành tinh đã
lớn hơn Mặt trăng, thì còn có một vấn đề nữa: sự kết hợp của mômen quay và cộng hưởng giữa các
tiền hành tinh đá và chất khí còn lại có thể đẩy và hút phôi mầm hành tinh vào một quỹ đạo xoắn ốc
hướng vào trong, một hiện tượng gọi là sự di trú loại I. Điều này có thể mang lại sự thất thoát thêm
chất liệu rắn cần thiết vì nó rơi vào bên trong ngôi sao trẻ. Tuy nhiên, nếu phần đĩa bên trong có thể
duy trì sự xáo trộn MRI cảm ứng, thì Richard Nelson ở trường Đại học Nữ hoàng Mary ở London đề
xuất rằng sự tăng mật độ cục bộ có thể tạo ra một hiệu ứng “bắn bi”, làm tán xạ các tiền hành tinh ra
xung quanh và làm chậm dần sự mất mát chất liệu rắn. Điều này còn có thể dẫn đến sự va vào nhau
của các vật thể cỡ mặt trăng tại nơi chuyển tiếp giữa vùng bồi tụ mạnh và vùng chết của đĩa vật chất.
Đường băng tuyến, nơi các nguyên tốt nặng quan trọng đặc lại thành băng, là một nơi nữa để
tìm kiếm dấu hiệu của sự hình thành hành tinh sơ khai. Nếu toàn cacbon, nitrogen và oxygen trong
vùng ấy chuyển từ thể khí sang pha rắn, thì mật độ mặt của các chất rắn (bụi cộng với băng) trong
đĩa sẽ tăng gấp bốn lần, do đó đẩy mạnh sự hình thành của các lõi hành tinh khổng lồ. Cuối cùng,
vùng này sẽ để lại một số lượng nhỏ các tiền hành tinh “đầu sỏ” lớn, thành phần của chúng sẽ tùy
thuộc vào các điều kiện địa phương của từng vùng trong đĩa. Đây là những viên gạch cấu trúc cho sự
hình thành hành tinh khác nữa. Trong hệ mặt trời phía trong, những vật thể này sẽ có khối lượng nhỏ
hơn khối lượng của Hỏa tinh, dẫn đến sự hình thành sau rốt của các hành tinh cỡ Trái đất trong hàng
chục triệu năm. Tuy nhiên, các tiền hành tinh trong đĩa bên ngoài có thể lớn như Trái đất.
Bốn chiếc kính thiên văn quang học/hồng ngoại 8,2 m tạo nên trận địa Kính thiên văn Rất
lớn tại Đài thiên văn Paranal, Chile, có thể phân biệt những vật thể 4 tỉ lần mờ hơn so với
cái mắt trần có thể trông thấy. Ảnh: ESO
Tuy nhiên, những tiền hành tinh đang hình thành chỉ là bước đầu tiên. Nếu bạn muốn hình
thành một hành tinh khí khổng lồ, bạn cần phải xây dựng một cái lõi cỡ chừng 1-10 khối lượng Trái
đất trước khi đĩa khí biến mất. Từ 0,1 đến 10 triệu năm sau khi cái đĩa trên hình thành, mật độ khối
lượng mặt của nó sản xuất giảm vì vật chất bị mất vào ngôi sao ở giữa, và vì bán kính ngoài của đĩa
tăng lên do vật chất phân tán ra để bảo toàn xung lượng góc. Đồng thời, bức xạ tử ngoại năng lượng
cao và tia X phát ra ngôi sao trẻ có thể làm phân li các phân tử và ion hóa các nguyên tử, chúng có
thể giải phóng một số vật chất có động năng đủ mức để thoát ra khỏi hệ hoàn toàn. Quá trình này
được gọi là quang bay hơi. Các quan sát cho thấy cái đĩa khí thường sẽ biến mất trong vòng 10 triệu
năm – cho nên cánh cửa cho sự hình thành các hành tinh giàu chất khí khá ngắn ngủi xét theo các
tiêu chuẩn thiên văn.
Tuy nhiên, nếu bạn có thể tạo ra phần lõi của hành tinh khí khổng lồ của bạn đủ nhanh, thì
bạn có thể kích hoạt sự bồi tụ nhanh của chất khí, dẫn tới sự hình thành một hành tinh khổng lồ.
Nhưng ngay cả khi đó, hành tinh khí khổng lồ của bạn có thể vẫn không an toàn! Hành tinh ấy có thể
bị kéo lê theo đĩa bồi tụ sền sệt kia theo mộ kiểu quá trình di cư khác, gọi là di cư loại II. Nếu điều
này xảy ra, hành tinh của bạn có thể đi đến “đỗ lại” trong phần đĩa ở sâu bên trong (giống như cái
gọi là Mộc tinh nóng người ta tìm thấy ở rất gần ngôi sao chủ của chúng) hoặc thậm chí bị đẩy vào
chính ngôi sao trẻ ấy.
Toàn bộ những hoạt động mạnh mẽ và năng động này có tác động nổi bật lên hóa học của cái
đĩa và do đó lên thành phần của các hành tinh hình thành ở bất cứ chỗ đặc biệt nào. Hans Peter Gail
ở trường Đại học Heidelberg và các cộng sự đã tính toán được rằng ở nhiệt độ trên 800 K, các phân
tử hydroxide giúp chuyển hóa các chất rắn giàu cacbon thành những dạng khác, làm giảm thành
phần cacbon của chúng trong quá trình trên. Các nguyên tử cacbon “tự do” này nhanh chóng phản
ứng với đĩa khí giàu oxygen, hình thành nên cacbon monoxide.
Về nguyên tắc, việc hình thành một hành tinh cỡ Trái đất qua các va chạm sẽ dễ hơn nhiều so
với hình thành một hành tinh khí khổng lồ (cái đòi hòi hình thành nên lõi hành tinh trước khi chất
khí biến mất), cho bạn khả năng giải bài toán chất khí kéo theo và sự di trú loại I của các chất rắn.
Theo các mô hình của John Chambers tại Viện Carnegie ở Washington, Scott Kenyon thuộc Trung
tâm Thiên văn Vật lí Harvard-Smithsonian và những người khác, thì sẽ mất khoảng đâu đó chừng 10
đến 100 triệu năm để hình thành ên một hành tinh với khối lượng cỡ Trái đất ở bán kính chưa tới 3
AU. Nếu quá trình này tỏ ra phổ biến, thì nó sẽ dẫn đến sự dồi dào các hành tinh đất đá trong thiên
hà – chứ chưa nói tới toàn thể vũ trụ.
Cuối cùng, trong khi dường như khá dễ tạo ra các hành tinh “siêu Trái đất” với khối lượng
lớn hơn Trái đất vài lần – những hành tinh như thế đã được quan sát thấy đang quay xung quanh
chừng 30% các ngôi sao trong chương trình kháoats HARPS do Đài thiên văn Geneva đứng đầu –
thì có thể có một “khe trống khối lượng” khiến khó hình thành những hành tinh nhẹ hơn Thổ tinh
nhưng nặng hơn Hải vương tinh. Một khe trống như thế đã được tiên đoán trong các mô hình của
Shigeru Ida thuộc trường Đại học Tokyo, Doug Lin thuộc trường Đại học California, Santa Cruz,
cũng như Willy Benz ở trường Đại học Bern và các đồng sự. Chúng ta vẫn thiếu một công thức có
sức thuyết phục cho sự hình thành những hành tinh băng giá khổng lồ trong hệ mặt trời của chúng ta.
May thay, những quan sát mới về các hành tinh ngoại đang diễn ra ngày một nhanh chóng và
dồn dập. Càng lúc chúng ta càng học được nhiều điều về thành phần của chúng - và, trong một vài
trường hợp, cả cấu trúc hệ hành tinh của chúng. Hành tinh ngoại đầu tiên được tìm thấy đang quay
xung quanh một ngôi sao giống như Mặt trời được phát hiện ra vào giữa thập niên 1990, bởi Michel
Mayor ở Đài thiên văn Geneva và các cộng sự, họ đã sàng lọc qua quang phổ sao nhằm tìm kiếm sự
dịch chuyển Doppler trong các vạch phổ hấp thụ của các nguyên tử và phân tử. Những dịch chuyển
ấy có thể phát sinh do chuyển động lắc lư của ngôi sao phản ứng với lực hút hấp dẫn của một hành
tinh ở gần. Sử dụng kĩ thuật này, các nhà nghiên cứu tìm thấy ngôi sao 51 Pegasi có một hành tinh
đồng hành cỡ Mộc tinh nằm tại một bán kính quỹ đạo đưa nó tiến gần ngôi sao của nó hơn với Thủy
tinh trong hệ Mặt trời.
Kể từ đó, hàng trăm hành tinh ngoại đã được phát hiện ra bởi các nhà nghiên cứu trên khắp
thế giới, sử dụng kĩ thuật “vận tốc hướng tâm” (RV) này, nhiều hành tinh trong các hệ đa hành tinh
thỉnh thoảng nằm trong quỹ đạo cộng hưởng với nhau. Biết được chu kì quỹ đạo và vận tốc cực đại
quan sát thấy đối với một hệ, người ta có thể suy luận ra khối lượng của hành tinh (giả sử đã biết
khối lượng của ngôi sao). Thường thì độ nghiêng chưa rõ của quỹ đạo mang đến một số thứ nhập
nhằng, vì vận tốc quan sát thấy chỉ là thành phần chuyển động chiếu lên đường nhìn.
Một kĩ thuật nữa dùng trong mô tả đặc trưng các hành tinh ngoài hệ mặt trời được phát triển
tiên phong bởi các nhà khoa học nghiên cứu số liệu từ kính thiên văn vũ trụ Spitzer và Hubble. Bằng
cách chia sự phát xạ của hệ sao-hành tinh thành sự phát xạ của riêng ngôi sao, khi hành tinh đi qua
phía sau nó, chúng ta có thể phát hiện ra những hành tinh ngoài hệ mặt trời một cách trực tiếp, thay
vì suy ra sự tồn tại của chúng từ sự chao đảo hấp dẫn của ngôi sao chủ của chúng. Hồi năm ngoái,
các nhà thiên văn còn xem xét những bức ảnh chụp trực tiếp đầu tiên của những hành tinh ngoại từ
kính thiên văn mặt đất lẫn kính thiên văn vũ trụ. Những phát hiện trực tiếp này mang lại thông tin
độc nhất vô nhị về nhiệt độ và thành phần của những thế giới mới này. Đối với những hành tinh nằm
xa ngôi sao chủ của chúng, xa đến mức nguồn quỹ năng lượng của chúng không bị thống trị bởi “ánh
sáng sao” mà chúng nhận được, các quan sát phổ phát xạ của các hành tinh đã cung cấp các ước tính
năng lượng nội tại của bản thân các hành tinh – một ràng buộc quan trọng đối với các mô hình về sự
hình thành và tiến hóa của chúng.
Dưới sự chỉ dẫn của kĩ thuật RV, và gần đây được cách mạng hóa trở lại bởi những phát hiện
sự đi qua, ngành khoa học nghiên cứu hành tinh ngoại đã phát triển nhanh chóng khi các kĩ thuật
chụp ảnh trực tiếp, vi thấu kính và trắc sao đã trở thành thủ tục hàng ngày. Sự khám phá ra những
hành tinh ngoại mới từ mặt đất và không gian sẽ tiếp tục tăng tốc. Trong năm nay, sứ mệnh Kepler
của NASA đã hợp nhất với sứ mệnh chung CNES/Cơ quan Không gian châu Âu, CoRoT, trong việc
tiến hành những cuộc khảo sát sự đi qua từ trên không gian. Vệ tinh MOST của Canada và dự án
EPOCh của NASA, cùng với các kính thiên văn Hubble và Spitzer, sẽ tiếp tục đóng góp qua những
quan trắc sự đi qua chuyên dụng.
Trong khi Kepler có khả năng xác định tần số của các hành tinh đất đá trong vòng 1 AU xung
quanh các ngôi sao giống Mặt trời, thì những cuộc khảo sát vi thấu kính có thể cung cấp các thống
kê về tần số của các hành tinh đá nhỏ cỡ Hỏa tinh trong khoảng cách 1 – 10 AU. Thật trêu ngươi,
các thiết bị đang phát triển cho những chiếc kính thiên văn lớn nhất thế giới có lẽ có khả năng, chỉ
vừa vặn, trông thấy các hành tinh kiểu Trái đất đang quay xung quanh một số ngôi sao ở gần. Trong
thời gian vài ba năm, Kính thiên văn vũ trụ James Webb của NASA sẽ mang lại những khả năng
hồng ngoại không có tiền lệ ở độ phân giải góc tăng thêm so với Spitzer. Nhiều sứ mệnh không gian
mới trên cơ sở trắc sao, nhật hoa phổ, vi thấu kính, và truyền qua đang phát triển có thể đặt nền tảng
cho những khám phá trong tương lai. Việc đạt tới mục tiêu tối hậu của chúng ta là thu được những
bức ảnh và phổ của các hành tinh đất đá quay xung quanh những ngôi sao ở gần sẽ đòi hòi phát triển
những thiết bị mới cho một thế hệ tương lai của những thiết bị cực lớn đặt trên mặt đất, ví dụ như
Kính thiên văn Cực Lớn của châu Âu, cũng như các kính thiên văn vũ trụ phức tạp sẽ được xây dựng
trên di sản phong phú của sự khám phá.
Số liệu thống kê của những khám phá hành tinh ngoại tiết lộ một số chiều hướng thú vị.
Andrew Cumming thuộc trường Đại học McGill và các cộng sự mới đây đã tiến đoán rằng khoảng
20% các ngôi sao kiểu Mặt trời hóa ra sẽ có các hành tinh khí khổng lồ. Tiên đoán của họ dựa trên
cơ sở ngoại suy tần số và phân bố khối lượng của các hành tinh (như đã quan sát với các phép đo vận
tốc hướng tâm) quay trên quỹ đạo trong vòng 3 AU tính từ ngôi sao chủ của cúng với bán kính quỹ
đạo từ 3 đến 20 AU (1 AU là khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trời). Tuy nhiên, có một số yếu tố có
thể làm tăng thêm lợi thế của những bếp trưởng sẽ-là-hành-tinh-khí-khổng-lồ. Ví dụ, những cái đĩa
quay xung quanh những ngôi sao nặng hơn thì to hơn, do đó, làm cho quá trình hình thành một lõi
hành tinh khí khổng lồ dễ dàng hơn, ít nhất là trên nguyên tắc. Mặt hạn chế là những cái đĩa quay
xung quanh những ngôi sao như vậy không tồn tại được lâu: mối liên hệ giữa những kết cục trông
đợi từ các mô hình hình thành hành tinh là hàm của khối lượng sao là không rõ ràng. Như thế, dường
như những ngôi sao khối lượng lớn hơn hình thành nên những hành tinh lớn hơn ở bán kính quỹ đạo
lớn hơn so với những ngôi sao khối lượng nhỏ hơn.
Mặt khác, đối với những cái đĩa cực nặng có thể nguội đi rất hiệu quả ở bán kính lớn, các mô
hình của Lucio Mayer thuộc trường Đại học Zurich và những người khác cho thấy các bếp trưởng
hành tinh có thể tránh qua nhiều vấn đề hình thành lõi đối với những hành tinh khí lớn, và thay vào
đó tạo ra những hành tinh khổng lồ thông qua sự mất cân bằng hấp dẫn tức thời. Nhưng sự khan
hiếm những hành tinh khí khổng lồ quan sát thấy ở bán kính lớn bằng các kính thiên văn mặt đất (ví
dụ như Kính thiên văn Rất Lớn, Gemini, Keck, và Kính thiên văn Gương bội) cho thấy những
trường hợp được điều chỉnh tinh vi như thế có lẽ tương đối hiếm. Tuy nhiên, có một vài phản thí dụ
thật lạ lùng, trong đó có những bức ảnh mới đây của các hành tinh quay xung quanh những ngôi sao
ví dụ như HR 8799, Fomalhaut và Beta Pictoris.
Còn hấp dẫn hơn nữa là thực tế trong khí quyển của một ngôi sao càng phong phú nguyên tố
nặng, thì nó càng có khả năng có một hành tinh khí khổng lồ kiểu như Mộc tinh. Điều này phù hợp
với một lí thuyết đã biết của sự hình thành hành tinh khí khổng lồ, nó đòi hỏi một lõi đá hình thành
khi một vị trí tạo hạt nhân cho các hành tinh khổng lồ xuất hiện trong những cái đĩa giàu chất khí.
Với độ chính xác vận tốc của những phép đo RV đạt tới 10 cm/s (chậm hơn 20 lần so với tốc độ đi
bộ trung bình điển hình của một người), các hành tinh nhỏ cỡ vài lần khối lượng Trái đất đã được
nhận ra đang quay xung quanh một số ngôi sao tĩnh lặng kiểu Mặt trời. Như đối với quy luật những
hành tinh khí khổng lồ càng có khả năng hình thành ở xung quanh những ngôi sao kiểu Mặt trời với
nhiều nguyên tố nặng, còn có bằng chứng cho thấy có thể phá vỡ quy luật cho những hành tinh nhỏ
hơn hình thành xung quanh những ngôi sao khối lượng nhỏ hơn.
Michael R. Meyer là người đứng đầu Nhóm nghiên cứu hình thành sao và hành tinh tại Viện Thiên văn học, Đại
học Zurich, Thụy Sĩ.
Khi tham gia thám hiểm vũ trụ, cả con người lẫn rô-bôt đều có những lợi thế riêng. (Ảnh” NASA)
Vào hôm 20 tháng 7 năm 1969, sứ mệnh Apollo 11 của NASA đã hạ cánh xuống bề mặt Mặt
trăng. Apollo đã thành công, như tổng thống Mĩ John F Kennedy diễn giải dông dài, vì công việc ấy
thật khó, và chuyến bay không gian có người lái vẫn là cái rất khó. Thật vậy, kể từ chuyến hạ cánh
mặt trăng Apollo thứ sáu và cuối cùng vào tháng 12 năm 1972, toàn bộ những chuyến bay có người
lái chỉ hạn chế với quỹ đạo tầm thấp xung quanh Trái đất – chỉ cách mặt đất vài ba trăm dặm.
Nhưng cũng trong khoảng thời gian đó, những sứ mệnh khoa học rô-bôt đã nghiên cứu Mặt
trời, các sao chổi, tiểu hành tinh và các vệ tinh, và đã đi đến mỗi hành tinh trong hệ mặt trời. (Chúng
ta vẫn đang chờ đợi sự xuất hiện của sứ mệnh Chân trời Mới gần đây đã giáng cấp Diêm vương
tinh). Chúng cũng đã khảo sát gió mặt trời và thám hiểm phần còn lại của vũ trụ trong vùng phổ điện
từ, từ vô tuyến cho đến tia gamma – truy ngược lại đến Big Bang và phông nền vi sóng vũ trụ.
Trong khi Apollo mang lại thông tin sâu sắc về địa chất của sáu vùng nhỏ trên Mặt trăng, thì
phần kiến thức khoa học thu được kể từ đấy thực hiện bởi một sứ mệnh có người lái thật quá khiêm
tốn. Có nhiều nguyên do, nhưng vấn đề chính là khó khăn của việc giữ con người sống sót trong
không gian và đưa họ trở về Trái đất an toàn. An toàn cho phi hành đoàn phải là ưu tiên số một, cho
nên khoa học không bao giờ ưu tiên cho một sứ mệnh có người lái. Khoa học luôn luôn phải lùi
bước khi cần thiết phải cắt giảm cái gì đó, trước khi xảy ra cái có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của
phi hành đoàn.
Các sứ mệnh khoa học không gian và chuyến bay vũ trụ có người lái diễn ra ở những quy mô
rất khác nhau. Apollo ước tính tiêu tốn khoảng 25 tỉ đô la với thời giá năm 1969, tương đương với
Lấy thí dụ, các tàu thám hiểm Spirit và Opportunity đã và đang chạy trên Hỏa tinh trong 5
năm qua. Cho đến nay, sứ mệnh ấy tiêu tốn chưa tới 1 tỉ đô la. Mặc dù mỗi cỗ xe chỉ di chuyển
khoảng 10 dặm trên hành tinh đỏ, nhưng với chi phí của một sứ mệnh có con người lên sao Hỏa
chúng ta có thể gửi khoảng 600 cỗ xe như thế và tiến hành cái gì đó gần như là một cuộc khảo sát
địa chất của toàn hành tinh (tất nhiên, ở đây bỏ qua lạm phát kinh tế và những tiến bộ công nghệ kể
từ khi những cỗ xe được thiết kế). Đây là cái mà một sứ mệnh có con người lên sao Hỏa, ngay cả với
nhiều tháng ở trên bề mặt hành tinh đỏ, không thể đạt được.
Ngay cả những câu chuyện thành công kết hợp chuyến bay vũ trụ có người lái với khoa học
cũng không trụ vững qua sự thẩm tra chặt chẽ. Nổi tiếng nhất trong số này là Kính thiên văn vũ trụ
Hubble, thiết bị nhiều năm qua đã mang lại những bức ảnh ngoạn mục của vũ trụ. Tất nhiên, nó là
một sứ mệnh rô-bôt, nhưng nó đã được sửa chữa và nâng cấp 5 lần bởi các nhà du hành, bằng tàu
con thoi. Chi phí ban đầu của Hubble là khoảng 1,5 tỉ đô la, gồm sự đóng góp từ NASA lẫn Cơ quan
Không gian châu Âu. Các sứ mệnh dịch vụ sau đó tiêu tốn thêm khoảng 3 – 4,5 tỉ đô la nữa, phần
lớn là chi phí đắt đỏ của việc phóng tàu con thoi. Với chi phí nâng cấp và sửa chữa ấy, chúng ta có
thể phóng hai hoặc ba Kính thiên văn vũ trụ Hubble nữa. Hậu duệ của Hubble, Kính thiên văn vũ trụ
James Webb, sẽ không cần phải cung ứng dịch vụ, chủ yếu vì nó sẽ nằm xa hơn cả Mặt trăng, cách
Trái đất chừng 1,5 triệu kilomet.
Biết tất cả những điều trên, nói thẳng ra thì tại sao chúng ta cứ phải quan tâm đến chuyến bay
vũ trụ có con người chứ. Rõ ràng nó không mang lại nhiều khoa học trên mỗi bảng, mỗi đô la, hay
mỗi euro như các sứ mệnh rô-bôt. Vấn đề là chuyến bay vũ trụ có con người chưa bao giờ mang tính
khoa học. Từ lúc bắt đầu, với sứ mệnh Vostok của Liên Xô và dự án Mercury của NASA, mỗi bên đi
tìm phương án đưa con người vào vũ trụ, nó là, và vẫn là, uy thế và tiềm lực quốc gia chứ không
phải khoa học. Khoa học có thể là một nhãn mác có ích giúp quảng bá một sứ mệnh không gian,
nhưng uy thế quốc gia luôn luôn là động cơ chính. Một sứ mệnh có con người lên Hỏa tinh hay Mặt
trăng cuối cùng sẽ là một chương trình trình diễn TV trực tiếp, nhưng nó có đáng giá trị hàng trăm tỉ
đô la mà nó tiêu tốn hay không? Đây là câu hỏi mà Ủy ban Augustine đang nêu ra ở Mĩ, và câu trả
lời của nó có thể làm thất vọng cộng đồng ủng hộ những chuyến bay vũ trụ có người lái.
Phải thừa nhận rằng chuyến bay vũ trụ có con người là một trong những thành tựu ngoạn
mục nhất của thế kỉ 20, nhưng khoa học chưa bao giờ, và có khả năng không bao giờ trở thành, động
lực chính cho một chương trình có con người. Con đường hiệu quả nhất thu được những mục tiêu
khoa học trong vũ trụ là qua việc sử dụng các tàu thăm dò rô-bôt không người lái.
Du hành vũ trụ có người lái có xu hướng là một vấn đề gây tranh luận, vì nhiều nhà khoa học
tin rằng các nguồn tài nguyên hạn chế sẵn có cho thám hiểm không gian nên tốt hơn là đầu tư cho
các sứ mệnh rô-bôt. Mặt khác, chỉ có con người mới đủ điều kiện tiến hành nột vài nghiên cứu khoa
Đúng là đa số các quan trắc thiên văn, kể từ khi bắt đầu cuộc chạy đua không gian, thu được
lợi ích từ phi thuyền rô-bôt đặt cao phía trên tác dụng mờ đục của bầu khí quyển của Trái đất. Tuy
nhiên, một trong những bài học chính rút ra từ sự thành công lớn nhất trong số những thiết bị này,
Kính thiên văn vũ trụ Hubble, là việc tiếp cận đến một hạ tầng du hành vũ trụ có người lái có thể làm
tăng đáng kể thời gian tồn tại và hiệu quả của các thiết bị thiên văn đặt trên không gian. Kể từ khi
phóng lên vào năm 1990, Hubble đã được phục vụ bởi 5 sứ mệnh tàu con thoi, mà nếu không có thì
nó đã đoản thọ hơn nhiều, và kém linh hoạt hơn nhiều.
Có lẽ những sứ mệnh Apollo lên Mặt trăng là sự trình diễn tốt nhất của các nhà du hành với
tư cách là những người thám hiểm bề mặt hành tinh. Chúng đã nhấn mạnh cách thức con người
mang sự nhanh nhẹn, tháo vát và thông minh của mình để thám hiểm theo một kiểu mà các rô-bôt
không thể làm được. Mặc dù đúng là con người sẽ phải đối mặt trước nhiều nguy hiểm và trở ngại
khi hoạt động trên những hành tinh khác, nhưng chủ yếu do những giới hạn tâm sinh lí của họ khi so
sánh với rô-bôt, cho nên khả năng phản hồi khoa học (thu được từ sự thu mẫu nhanh chóng, khả
năng đưa dữ liệu và kinh nghiệm đã qua vào một bức tranh kết hợp, và khả năng trực giác nhận ra
những quan sát có tầm quan trọng) hiệu quả hơn đó bào chữa cho việc sử dụng các nhà du hành làm
các nhà khoa học tiên phong trên những hành tinh khác.
Thật vậy, những ưu điểm này được ghi nhận trong một bản báo cáo của Hội Thiên văn học
Hoàng gia Anh hồi năm 2005, trong đó kết luận rằng “những câu hỏi khoa học nổi bật liên quan đến
lịch sử của hệ mặt trời và sự tồn tại của sự sống ngoài Trái đất có thể, chỉ có lẽ, thu được tốt nhất bởi
con người thám hiểm trên Mặt trăng hay Hỏa tinh, được hỗ trợ bởi những hệ thống tự động thích
hợp”.
Gần địa cầu hơn, môi trường không trọng lượng của quỹ đạo Trái đất tầm thấp như môi
trường trên Trạm Không gian quốc tế (ISS) mang lại một cơ hội vô song dành cho nghiên cứu các
khoa học sự sống (kể cả sinh lí học người và y khoa), khoa học vật liệu và vật lí học cơ bản. Loại
môi trường này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc có một không hai vào những lĩnh vực như biểu hiện
gen, chức năng miễn dịch, sinh lí học xương và chức năng tim mạch, chúng quan trọng cho việc tìm
hiểu nhiều chứng bệnh dưới địa cầu như chứng loãng xương, teo cơ và suy tim. Vì con người là đối
tượng của những thí nghiệm sinh lí học này, nên rô-bôt không thể nào là vật thay thế được. Sự tiến
bộ trong những lĩnh vực này sẽ dựa trên sự tài trợ cho ISS duy trì hoạt động trong những thập kỉ tới.
Mặc dù khoa học sẽ không phải là kẻ thừa hưởng chính của việc có con người trong không gian,
nhưng nó không phải, vừa không bao giờ có thể, là động cơ chính cho sự thám hiểm không gian có
con người. Những lợi ích khác của việc đầu tư vào sự thám hiểm không gian có con người bao gồm
việc kích thích nó vì mục tiêu giáo dục khoa học và kĩ thuật: thám hiểm không gian vốn gây hấp dẫn,
và là một phương thức rõ ràng truyền cảm hứng cho những người trẻ tuổi tăng thêm niềm yêu thích
đối với khoa học và công nghệ. Du hành vũ trụ có con người cũng tốt đối với những ngành nghề
công nghệ cao và có thể thúc đẩy sự đổi mới. Cuối cùng, nó cung cấp một tiêu điểm cho sự hợp tác
quốc tế có thể giúp xây dựng một môi trường địa chính trị ổn định hơn.
Ích lợi nhiều mặt của sự thám hiểm vũ trụ có con người được ghi nhận bởi ấn phẩm hồi tháng
5 năm 2007 của bản báo cáo Chiến lược Thám hiểm Toàn cầu của 14 cơ quan không gian trên thế
David Clement là giảng viên thiên văn học vật lí tại trường Imperial College London. Ian Crawford là một độc giả yêu
thích khoa học hành tinh và sinh vật học vũ trụ, tại trường Birkbeck College, London.
Khi đa số chúng ta nghĩ tới việc tìm kiếm nền vật lí ngoài Mô hình Chuẩn – mô hình thống
trị của ngành vật lí hạt cơ bản – điều đầu tiên nảy ra trong đầu có lẽ là một cỗ máy gia tốc hạt khổng
lồ kiểu như Máy Va chạm Hadron Lớn (LHC) của CERN. Bên trong vòng tròn 27 km của cỗ máy va
chạm hạt số một hành tinh này, các proton lao vào nhau ở tốc độ 99.9999991% tốc độ ánh sáng.
Những detector kích cỡ bằng tòa nhà tạo ra hàng terabyte dữ liệu cho các nhà vật lí sàng lọc, tìm
kiếm vết tích khó nắm bắt của những loại hạt mới.
Nhưng còn có một loại tìm kiếm nền vật lí mới đang diễn ra khá suôn sẻ, lần này ở trong
phòng thí nghiệm vật lí nguyên tử. Sử dụng các thiết bị kích cỡ không hơn vài ba mét, và năng lượng
một nghìn tỉ lần thấp hơn năng lượng tại LHC, những nhà thực nghiệm này cũng đang cố gắng phát
hiện ra những hạt mới – bằng cách đo mô men lưỡng cực điện (EDM) của electron.
Cơ sở cho sự tìm kiếm của họ là theo Mô hình Chuẩn, một EDM electron có thể phát hiện ra
là bị cấm. Vì thế, việc tìm ra một EDM nhỏ xíu những hữu hạn sẽ cho biết rằng Mô hình Chuẩn cần
Hình 1. (a) Một điện tích đang quay tròn tác dụng giống như một vòng dây điện tạo ra một mô men lưỡng cực từ (mũi
tên màu lam). (b) Việc làm biến dạng sự phân bố điện tích của electron tạo ra một mô men lưỡng cực điện có cùng
hướng (mũi tên đỏ). (c) Nếu thời gian đảo ngược lại, thì điện tích quay tròn theo hướng ngược lại. Hệ quả là làm đảo
hướng lưỡng cực từ, nhưng lưỡng cực điện thì không, cho nên hai lưỡng cực không còn thẳng hướng với nhau nữa – vi
phạm đối xứng nghịch đảo thời gian và ngăn cấm electron có một mô men lưỡng cực điện vĩnh cửu, theo Mô hình Chuẩn
cơ bản của ngành vật lí hạt.
Tương tác electron với trường điện từ được mô tả theo ‘giản đồ Feynman’, những hình ảnh thể hiện những chuỗi sự kiện
có thể xảy ra khi electron tương tác với môi trường của nó. Mỗi hình đại diện cho một phép tính góp phần vào năng
Hình 3. Giản đồ đơn giản này (hình trên) thể hiện cấu trúc cơ bản của một thí nghiệm mô men lưỡng cực điện (EDM) do
chùm hạt gây ra. Một cái lò nóng với một lỗ trống trên nó tạo ra một chùm nguyên tử (hay phân tử) truyền đi theo cùng
một hướng. Sau đó, các nguyên tử đi qua một vùng “chuẩn bị trạng thái” trong đó laser kích thích chúng từ trạng thái
cơ bản sang sự chồng chất ngang nhau của hai trạng thái khác nhau có cùng năng lượng. Mỗi nguyên tử đồng thời ở cả
hai trạng thái, giống như con mèo trong thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng của Schrödinger đồng thời vừa sống vừa chết.
Tiếp theo đó, các nguyên tử đi qua một vùng chứa một từ trường khiêm tốn và một điện trường lớn có cùng trục. Tại đây,
chúng tương tác với laser làm đảo ngược hoạt động đã chuẩn bị trạng thái chồng chất. Trong sự vắng mặt của EDM
electron, hai electron, hai trạng thái trong sự chồng chất có cùng năng lượng. Vì thế, hoạt động cuối cùng sẽ phục hồi
sự chồng chất, và 100% nguyên tử sẽ kết thúc ở trạng thái cơ bản. Tuy nhiên, sự có mặt của một EDM sẽ làm chuyển
dịch năng lượng của một trong hai trạng thái lên một lượng nhỏ, và làm chuyển dịch trạng thái kia xuống một lượng
nhỏ. Sự chênh lệch năng lượng thu được sẽ làm cho hai trạng thái tiến triển ở những tốc hơi khác nhau một chút, và làm
thay đổi số nguyên tử đi đến trạng thái cơ bản.
Một cách hình dung ra điều này là hãy tượng tượng hai trạng thái ở trong sự chồng chất đó giống như những cái đồng
hồ bấm giờ nhỏ xíu, chúng khởi đầu với những cái kim của chúng chỉ theo cùng một hướng (hình dưới bên trái). Tốc độ
những cái đồng điểm ‘tíc tắc’ phụ thuộc vào năng lượng: trạng thái chuyển dịch năng lượng lên thêm ‘tíc tắc’ hơi nhanh
hơn trạng thái chuyển dịch năng lượng xuống bớt. Sau một thời gian nào đó, những cái đồng hồ sẽ không còn đồng bộ
với nhau – hay, theo ngôn ngữ lượng tử, các phần của hàm sóng tương ứng với hai trạng thái khác nhau đã phát triển
lệch pha nhau. Chừng nào độ lệch pha là nhỏ, thì các nguyên tử có thể vẫn trở lại trạng thái cơ bản, nhưng nếu độ lệch
pha đạt tới 180o – nếu những cái kim đồng hồ chỉ ngược hướng nhau – thì sẽ có sự giao thoa giữa hai phần của hàm
sóng, sao cho không có nguyên tử nào có thể quay về trạng thái cơ bản. Khi độ lệch pha lớn hơn nữa (hoặc do sự chuyển
Nhà lãnh đạo dự án Eugene Commins trước thí nghiệm EDM tại trường Đại học California, Berkeley.
Hình 4. Các thí nghiệm tiến hành vào năm 2002 tại trường Đại học California, Berkeley, cho thấy nếu mô men lưỡng
cực điện (EDM) tồn tại, thì nó phải nhỏ hơn 10–27 e cm. Kết quả này bác bỏ lí thuyết “siêu đối xứng chất phác” (naive
SUSY). Những lí thuyết khác sẽ chịu áp lực nếu những cuộc tìm kiếm đang diễn ra tại Đại học Yale và Imperial College
London không tìm ra một EDM dưới mức độ nhạy cực đại hiện nay của họ (đường liền nét thẳng đứng). Đường đứt nét
thể hiện độ nhạy ước tính có thể có với thế hệ tiếp theo của các thí nghiệm phân tử lạnh, trong khi đường chấm chấm là
độ nhạy tối đa theo ước tính của một thí nghiệm Yale/Harvard đã đề xuất, sử dụng thorium monoxide làm “phân tử kiểm
tra”.
Đối với đa số các kịch bản lí thuyết, các thí nghiệm dựa trên máy va chạm và tìm kiếm EDM
là bổ sung cho nhau. Các máy va chạm, chẳng hạn, có thể tạo ra và phát hiện ra những loại hạt mới,
cái những cuộc tìm kiếm EDM không thể làm được, nhưng mặt khác, LHC không thể đo các tính
chất vi phạm đối xứng của các hạt. Độ nhạy của hai phương pháp còn tương đương nhau: nếu như có
những loại hạt mới trong tầm với của LHC, thì cũng sẽ có một EDM electron trong tầm với của thế
Martin Soljačić (trái), tác giả hiện nay (ở giữa) và John Joannopoulos ở Viện Công nghệ Massachusetts, cùng với minh
chứng phòng thí nghiệm của công nghệ của họ - ở đây sử dụng một bóng đèn 60W. (Ảnh: Donna Coveney/MIT)
Trong chế độ hoạt động bước sóng dài của chúng tôi (bước sóng 30 m ở 10 MHz so với các
cuộn dây 60 cm), điện năng được truyền từ vật này sang vật kia bởi sự phân tán khởi bộ cộng hưởng
nguồn và rồi “tập trung” trở lại vào dụng cụ cộng hưởng. Trái với ở những tần số cao, trong đó điện
năng sẽ phát xạ như một chùm hội tụ với tiết diện nhỏ hơn nhiều, cơ chế trước hàm ý rằng, trong hệ
của chúng tôi, mật độ năng lượng cục bộ và do đó các trường sẽ nhỏ hơn đáng kể tại mọi điểm,
ngoại trừ có lẽ là những điểm ở gần các cuộn dây. Những trường nhỏ hơn rõ ràng ngụ ý sự thực hiện
an toàn hơn.
Ngoài ra, phương pháp điện không dây của chúng tôi sử dụng từ trường, thay vì điện trường,
để truyền năng lượng. Từ điểm nhìn từ trường, đa số các chất dẫn điện nghèo nàn, ví dụ nưh gỗ,
gạch, plastic và con người, trông rất giống như không khí. Mặt khác, điện trường thật sự có mối
Ngày xưa, có một người đàn ông mù sống cùng vợ anh ta trong bụi rậm. Mỗi ngày, anh bảo
vợ đi ra ngoài săn trứng chim emu về cho anh ta ăn. Mặc dù vợ anh đã hết sức cố gắng làm
hài lòng người chồng, nhưng anh ta luôn nổi giận với cô, bảo cô rằng các trứng chim sao mà
nhỏ quá.
Một ngày nọ, trong khi đang đi săn, cô vợ bắt gặp những vết chân chim emu rất lớn. Cô nghĩ
tới người chồng ở nhà và có lẽ anh ta đã đói lắm rồi, và cô đi theo những vết chân ấy dẫn tới
tổ chim. Cô thấy một con emu khổng lồ ở đó và ném đá vào nó để cướp lấy trứng, nhưng nó
đã đứng dậy và chạy về phía cô vợ, giết chết cô ta.
Người đàn ông mù ở nhà cảm thấy đói và lo lắng cho cô vợ của anh ta. Anh mò mẫm xung
quanh lều trại cho đến khi anh đến được một bụi rậm với những quả mọng và anh đã ăn một
số quả. Bất ngờ, anh có thể nhìn thấy. Anh tự tạo một số mũi giáo và một cái woomera, rồi đi
tìm vợ. Anh đi theo vết chân của vợ và cuối cùng nhìn thấy con emu khổng lồ và xác của
người vợ. Anh dùng giáo đâm chết con emu và trục xuất linh hồn của nó lên Dải Ngân hà,
nơi nó vẫn được trông thấy cho đến ngày nay.
- một câu chuyện kể của người Papunya, Bắc Territory
Emu trên Trời trải ngang qua Dải Ngân hà. (Ảnh: Barnaby Norris)
Nếu ngước nhìn lên bầu trời đêm nay, bạn có thể vẫn phát hiện ra Emu [loài đà điểu châu
Úc] trên Trời. Hầu như chắc chắn bạn đã từng nhìn vào nó rồi, nhưng có lẽ bạn chưa bao giờ trông
thấy nó.
Emu trải ngang qua một trong những vật thể quen thuộc nhất trên bầu trời đêm, đó là Dải
Ngân hà. Hãy nhìn kĩ vào Bội tinh phương Nam, bạn sẽ thấy cái đầu của nó là một vết tối gấp nếp ở
gần góc dưới bên trái của chòm sao. Cổ của nó nối giữa hai ngôi sao chỉ hướng, và thân thể tối của
nó trải theo chiều dài của thiên hà rực rỡ của chúng ta.
Emu trên Trời đã được mô tả trong truyền thuyết Thổ dân Úc châu trong hàng nghìn năm
qua.
Nhiều nhóm ngôn ngữ khác có lời giải thích riêng của họ cho số phận thiên định của Emu,
cùng với những câu chuyện phong phú và đa dạng về đà điểu, vẹt, cá, cá đuối gai độc, người đi săn,
đàn ông, phụ nữ, con gái và con trai.
Một khi bạn đã nghe qua những câu chuyện này, thì bầu trời đêm sẽ không bao giờ còn trông
như cũ nữa. Và nó không chỉ là những câu chuyện bạn sẽ tìm gặp – nền thiên văn học Thổ dân có
một bản đồ để bạn tìm hiểu, tồn tại và sống dung hòa với mảnh đất phương nam rộng lớn này.
Những mảng tối trên bầu trời
Không giống như truyền thống thiên văn Hi Lạp, nơi hầu như tập trung chủ yếu vào những
ngôi sao, nền thiên văn học Thổ dân tập trung vào Dải Ngân hà và thường hợp nhất những mảng tối
giữa các vì sao.
Chàng thợ săn Orion mang tên Djulpan đối với người Yolngu
ở Bắc Territory. (Ảnh: Ray Norris)
Trong một trong những câu chuyện của họ, thần mặt trời Walu là một phụ nữ thắp lửa mỗi
buổi sáng và gieo rắc đất đỏ trên những đám mây, tạo ra bình mình. Rồi vị nữ thần mang đuốc của
mình trên khắp bầu trời, tạo ra ánh sáng ban ngày. Lúc cuối ngày, vị nữ thần lùi xuống, tắt đuốc đi,
và đi xuống đất qua đêm tối trở lại doanh trại ban mai của mình.
Nhà vật lí thiên văn Ray Norris đã sưu tập và lắng nghe những câu chuyện kể Thổ dân về bầu
trời đêm trên khắp lục địa Australia.
Roland Ennos
Bất chấp hàng thế kỉ nghiên cứu, cơ chế hoạt động của cơ thể con người vẫn giữ trong nó một số
bất ngờ. Vấn đề là nêu ra những câu hỏi thích hợp, và đi trả lời chúng.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những cấu hình phiến khác nhau để kiểm tra xem hình dạng răng
ảnh hưởng như thế nào đến năng lượng cần thiết để nhai. (Ảnh: P S L Anderson 2009 J. Exp. Biol.
212 3627)
Tại sao chúng ta phải nhai thức ăn ?
Nhưng tại sao bằng mọi giá chúng ta phải nghiền nhỏ thức ăn ra? Đa số sách vở nói là để
tăng diện tích bề mặt và vì thế tăng tốc độ tiêu hóa, và nhai thức ăn đủ nhỏ để nuốt mà không bị mắc
lại ở thực quản. Những giả thuyết này đã bị nghi ngờ hồi giữa thập niên 1990 bởi Jon Prinz và
Lucas, khi đó họ đang làm việc tại khoa giải phẫu của trường đại học Hong Kong. Họ trình bày rằng,
khi động vật có vú nuốt, thức ăn đi qua con đường thở vào đường xuống dạ dày, cho nên có một
nguy cơ tiềm tàng là các hạt thức ăn đi nhầm đường. Vì thế, họ đề xuất, việc nhai cho phép chúng ta
nén thức ăn thành viên nhỏ - thuật ngữ kĩ thuật gọi là bolus - ở phía trên của miệng với lưỡi. Khi đó,
nó có thể được nuốt xuống một cách an toàn.
Để kiểm tra ý tưởng này, họ đã yêu cầu các tình nguyện viên ăn cà rốt thái nhỏ và đậu hạt,
đếm số lần các đối tượng nhai thức ăn trước khi nuốt nó. Sau đó, họ lập mô hình cường độ cố kết của
Ảnh hiển vi của một bề mặt móng tay bị rách cho thấy những lớp sợi khác nhau mang lại cho móng
tay sức bền của chúng.
Steve Connor
Người ta đồn đại với nhau rằng ngài Isaac Newton đã khám phá ra lực hấp dẫn trong khi ngồi
trong mảnh vườn nhà của mẹ ông ở Lincolnshire.
Đó là một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học. Chàng trai trẻ Isaac
Newton đang ngồi trong vườn nhà mình khi một quả táo rơi trúng đầu anh ta và, trong một lóe sáng
của trí tuệ tột đỉnh, anh đột ngột đi tới lí thuyết của mình về sự hấp dẫn. Câu chuyện trên chắc chắn
đã bị thêm mắm dặm muối, bởi chính Newton lẫn nhiều thế hệ nhà viết truyện về ông. Nhưng từ
hôm nay, bất kì ai truy cập Internet đều có thể tự tìm thấy lời giải thích căn bản làm thế nào một quả
táo rơi có thể truyền cảm hứng cho sự tìm hiểu lực hấp dẫn.
Hội Hoàng gia ở London đang đưa ra công khai ở dạng kĩ thuật số một bản thảo gốc quan
trọng mô tả cách thức Newton nghĩ ra lí thuyết của ông về sự hấp dẫn sau khi chứng kiến một quả
Đó là vào năm 1666, và dịch bệnh đã làm đóng cửa nhiều công sở và những cuộc hội họp.
Newton phải bỏ Cambridge đến Woolsthorpe Manor, gần Grantham ở Lincolnshire, ngôi nhà khiêm
tốn nơi ông chào đời, để chiêm nghiệm những vấn đề hóc búa mà ông đã và đang theo đuổi ở trường
đại học.
Ông đặc biệt bị ám ảnh bởi quỹ đạo của Mặt trăng xung quanh Trái đất, và cuối cùng đã lí
giải rằng tác dụng của trọng lực phải trải rộng đến những khoảng cách rất lớn. Sau khi trông thấy
làm thế nào những quả táo luôn luôn rơi thẳng đứng xuống mặt đất, ông đã bỏ ra nhiều năm nghiên
cứu cơ sở toán học chứng tỏ trọng lực giảm tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách.
Nhưng có bằng chứng nào cho thấy Newton thật sự được truyền cảm hứng bởi một quả táo
đang rơi hay không? Ông không để lại bản viết tay nào cho thấy điều này, mặc dù có những tư liệu
khác cho rằng ông đã từng nói với những người khác như thế lúc ông đã là một người lớn tuổi.
Các nhà sử học hướng tới một tư liệu đặc biệt viết bởi một trong những người đương thời trẻ
tuổi hơn của Newton, một nhà sưu tầm đồ cổ và là nhà tiền khảo cổ học tên gọi William Stukeley,
người đồng thời là tác giả đã viết quyển tiểu sử đầu tiên của nhà khoa học vĩ đại người Anh, mang
tựa đề Hồi kí về Cuộc đời của Ngài Isaac Newton.
Stukeley cũng sinh ra ở Lincolnshire, và đã sử dụng quan hệ này để kết bạn với Newton vốn
khét tiếng hay gắt gỏng. Stukeley đã vài lần trò chuyện với anh bạn thâm niên hơn kia, và hai người
gặp nhau đều đặn vì là thành viên của Hội Hoàng gia, và trao đổi với nhau. Vào một dịp đặc biệt
trong năm 1726, Stukeley và Newton đã có một buổi ăn tối chung với nhau ở London.
“Sau buổi tối, tiết trời đang ấm áp, chúng tôi đã tản bộ ra vườn và uống trà dưới tán một số
cây táo, chỉ có ông và tôi”, Stukeley viết trong tập bản thảo viết tay kĩ càng mà Hội Hoàng gia cho
công bố.
“Giữa những bài thuyết giảng khác, ông bảo tôi, ông lại ở trong tình huống tương tự, như
trước đây khi quan điểm lực hấp dẫn xuất hiện trong đầu của ông. Tại sao quả táo đó luôn luôn rớt
thẳng đứng xuống đất, ông tự nghĩ mãi; nhân lúc một quả táo rơi xuống, khi ông ngồi trong tư thế
suy tư.
“Tại sao nó không rớt sang bên, hay rớt lên trên cao? Mà cứ luôn phải rớt xuống tâm Trái
đất? Nhất định lí do là Trái đất đã hút nó xuống. Phải có một sức mạnh hút kéo nào đó ở vật chất. Và
tổng sức mạnh hút kéo trong vật chất của Trái đất phải nằm ở tâm của Trái đất, chứ không nằm ở bất
kì chỗ nào khác của Trái đất.
“Vì thế, quả táo này có rơi vuông góc hay tiến về phía tâm ấy hay không? Nếu vật chất theo
cách đó hút lấy vật chất, thì nó phải tỉ lệ với lượng của nó. Do đó, quả táo hút lấy Trái đất, đồng thời
Trái đất hút lấy quả táo”.
“Tại sao không cao đến Mặt trăng kia chứ, ông tự bảo mình, và nếu như thế, thì sức mạnh đó
phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ duy trì quỹ đạo của nó, từ đó ông lao vào
tính toán xem kết quả của giả thiết đó sẽ là gì”.
Cả hai bản viết về tình tiết quả táo đều được Newton nhắc lại khoảng 50 năm sau này. Liệu
nó có thật sự xảy ra, hay nó chỉ là một câu chuyện mà Newton đã thêm thắt hay thậm chí là bịa ra?
“Newton đã khéo léo mài giũa giai thoại này cho tồn tại với thời gian”, phát biểu của Keith
Moore, trưởng phòng lưu trữ tại Hội Hoàng gia. “Câu chuyện ấy nhất định có thật, nhưng chắc là đã
bị thêm bớt nhiều”. Câu chuyện quả táo phù hợp với quan điểm rằng một vật hình quả đất bị hút về
phía Trái đất. Nó còn cộng hưởng với bản viết trong kinh thánh về ba cây kiến thức, và được biết
Newton là người có quan điểm tôn giáo cực đoan, ông Moore nói.
Tại Woolsthorpe Manor, ngày nay thuộc sở hữu quốc gia, người quản gia, Margaret Winn,
cho biết chính cây táo ấy vẫn lớn lên ở phía trước ngôi nhà, ngay trước cửa sổ phòng ngủ của
Newton.
“Ông đã từng kể câu chuyện ấy lúc về già nhưng bạn thật sự nghi vấn không biết nó thật sự
có xảy ra hay không nhỉ”, cô Winn, người từng buôn chuyện với những quả táo, nói. Nhưng cho dù
câu chuyện có là sức tưởng tượng đồng bóng của một ông cụ già, thì câu chuyện quả táo rơi đã đi
vào lịch sử với vai trò là “thời khắc eureka” thứ hai trong khoa học, sau sự kiện Archimedes phát
hiện ra cách xác định thể tích của các vật khi ông ở trong nhà tắm.
Những thời khắc eureka: Làm thế nào họ ‘có được nó’
* Archimedes được cho là nhà khoa học đầu tiên hét toáng câu nói Hi Lạp "Eureka!" đánh
dấu một bước đột phá, khi ông phát hiện ra nguyên lí của ông về sự nổi. Nhà văn La Mã Vitruvius đã
viết rằng Archimedes đang tắm khi ông nhận ra rằng lúc ông bước vào trong bồn tắm, khối lượng cơ
thể của ông thay thế cho một trọng lượng nước nhất định. Người ta nói nhà khoa học đã nhảy ra khỏi
bồn tắm và trần truồng chạy ra đường phố Syracuse ở Sicily, hét toáng lên: "Eureka, eureka!" (Tôi
tìm ra rồi!). Tính xác thực của câu chuyện này bị nghi ngờ, vì rằng Vitruvius viết về nó gần 200 năm
sau này.
* Otto Loewi, nhà sinh lí học người Đức, bỏ ra 17 năm cố gắng tìm ra bằng chứng dứt khoát
rằng các xung thần kinh được truyền bằng hóa chất, và cuối cùng đã bắt gặp sức mạnh sáng tạo trong
một đêm khi ông nằm mơ thấy mình tiến hành một thí nghiệm quan trọng sử dụng trái tim của con
ếch. Ông lập tức đi vào phòng thí nghiệm của mình thực hiện thí nghiệm trên, để ý thấy dây thần
* Mặc dù người ta thường bảo rằng Charles Darwin đã đi tới lí thuyết của ông về sự chọn
lọc tự nhiên trong khi ở trên quần đảo Galapagos vào năm 1835, nhưng ông chỉ bắt đầu tin vào sự
tiến hóa sau khi ông trở lại Anh. Thay vì có một “thời khắc Eureka”, nhà khoa học đã bỏ ra hai thập
kỉ cân nhắc những quan sát của ông, cuối cùng trình bày lí thuyết gây tranh cãi của ông trong quyển
sách năm 1859 Về nguồn gốc của các loài.
Theo independent.co.uk
Michael Hanlon
Những con quái vật trơn ướt có sáu mắt. Những kẻ khủng bố có xúc tu. Chỉ nghe tả đã gợn
tóc gáy rồi. Nhưng như các nhà khoa học tranh luận, Michael Hanlon nói rất có khả năng
chúng ta không đơn độc trong Vũ trụ...
Hồi năm 1960, nhà thiên văn Frank Drake đã điều khiển một kính thiên văn vô tuyến ở Tây
Virginia và hướng nó vào một ngôi sao giống mặt trời tên gọi là Tau Ceti, nằm cách xa 66
nghìn tỉ dặm, để xem ông có thể nghe được những gì.
Trong tuần này, một hội nghị được tổ chức tại Hội Hoàng gia Anh nhằm kỉ niệm chương
trình Tìm kiếm Sự sống thông minh Ngoài địa cầu, gọi tắt là SETI, nhằm lắng nghe bằng chứng ủng
hộ và phản bác khả năng có sự sống ngoài địa cầu.
Có những dấu hiệu trêu ngươi của sự sống vi khuẩn trên sao Hỏa. Nhưng, chừng nào còn đề
cập đến sự sống thông minh, thì chúng ta vẫn chưa tìm thấy gì.
Thật vậy, thật hiếm một cách bất ngờ nếu tìm ra một nhà khoa học vũ trụ đáng kính nghĩ rằng
chúng ta là đơn độc trong vũ trụ.
Bản thân Drake bị thuyết phục rằng có ‘khoảng 10.000’ nền văn minh nằm ngay trong thiên
hà của chúng ta.
Quan điểm chung là ‘họ có ở ngoài kia, nhưng đơn giản là vì chúng ta chưa tìm thấy họ, và
họ cũng chưa tìm thấy chúng ta mà thôi’.
Chúng ta có thể bỏ qua một cách an toàn lí thuyết cho rằng chúng ta đã tìm thấy người ngoài
hành tinh rồi, và chính phủ đã giấu nhẹm thông tin đó. Bất chấp mọi khẳng định kiểu X-File và
những lí thuyết thông đồng, vẫn chẳng có lời giải thích đáng tin nào của một chuyến viếng thăm
bằng đĩa bay từ ngoài địa cầu đến Trái đất.
Vũ trụ, rốt cuộc, là rất, rất lớn. Ngay cả những tín hiệu vô tuyến, truyền đi ở tốc độ ánh sáng,
cũng mất hàng năm hoặc hàng thập kỉ để đi đến hoặc đến từ những ngôi sao gần nhất.
Phobos là cái tên bạn sẽ nghe nói nhiều trong những năm sắp tới. Nó có lẽ chẳng gì hơn là
một tiểu hành tinh – chỉ nặng bằng hai phần tỉ khối lượng hành tinh chúng ta, không có khí quyển và
lực hấp dẫn thì tệ hại – nhưng vệ tinh lớn nhất trong hai vệ tinh của sao Hỏa này đã sẵn sàng trở
thành trạm tiền đồn tiếp theo của chúng ta trong vũ trụ, ngôi nhà thứ hai của chúng ta.
Mặc dù mặt trời của chúng ta thật sự hấp dẫn, nhưng lực hấp dẫn của nó đòi hỏi phải sử dụng
những tên lửa tương đối lớn để đưa các nhà du hành đi lên và đáp xuống bề mặt. Điều tương tự đúng
đối với sao Hỏa, khiến việc phóng các sứ mệnh vũ trụ từ đó cũng tốn kém – có lẽ còn đắt tới mức
không đạt tới nổi nếu tổng thống Obama xét lại chính sách thám hiểm vũ trụ có người lái của NASA.
Tháng 10 năm ngoái, một ủy ban gồm các chuyên gia độc lập do nhà tư bản công nghiệp Norman
Augustine chủ trì đã kết luận rằng NASA sẽ phải đối mặt trước một sự thâm hụt khoảng 3 tỉ đô la
mỗi năm nếu cơ quan này vẫn dự tính đưa các nhà du hành trở lại mặt trăng vào năm 2020. Nhưng
điều đó không có nghĩa là con người chẳng còn có nơi nào để đi.
Một lựa chọn mà bản báo cáo Augustine đưa ra là đưa phi hành đoàn NASA đến những tiểu
hành tinh ở gần và đến các vệ tinh của sao Hỏa. Pascal Lee, viện trưởng Viện Sao Hỏa ở Moffett
Field, California, nói: “Nếu bạn chờ cho mọi thứ sẵn sàng, thì sẽ mất hàng thập kỉ. Phobos mang lại
cho chúng ta một cách tiến đến một ngưỡng cửa rất gần của sao Hỏa”.
Từ Phobos, chúng ta có thể dễ dàng khảo sát bề mặt Hỏa tinh bằng kính thiên văn hoặc
những cỗ xe điều khiển từ xa trước khi đáp xuống bề mặt hành tinh lúc chi phí cho phép.
Scott Maxwell nghiên cứu sự luân phiên đêm sao Hỏa. Ông làm việc tại Phòng thí nghiệm
Sức đẩy Phản lực của NASA ở Pasadena, California, và là một trong những người điều
khiển hai cỗ xe tự hành thám hiểm sao Hỏa Spirit và Opportunity. Được cấp điện bằng năng
lượng mặt trời, hai cỗ xe ngừng hoạt động mỗi khi mặt trời lặn trên sao Hỏa, nơi có “ngày”
kéo dài 24,6 giờ. Việc cuối cùng các cỗ xe làm trước khi đi ngủ là gửi những tấm ảnh chụp
nơi chúng đang ở về, để Maxwell và các đồng sự có thể tính xem sẽ yêu cầu chúng làm
những việc gì trong ngày hôm sau. Khi chúng thật sự di chuyển, mỗi ngày chúng thận trọng
nhích lên chỉ vài mét.
Việc lái các cỗ xe tương tác tức thời từ Trái đất là điều không thể. Ngay cả ở điểm cận nhất
của Hỏa tinh, thì tổng thời gian đi về cho các tín hiệu chưa bao giờ ngắn hơn 8 phút. “Lúc
bạn trông thấy vách đá xuất hiện, là bạn đã tông lên nó rồi”, Maxwell nói. Cho nên mọi thứ
phải được vạch kế hoạch và lên chương trình với những sai số an toàn nhất định. Thí dụ, nếu
cỗ xe nghiêng hơn trông đợi hoặc bắt đầu trượt trên bụi mịn, thì nó sẽ tự dừng lại và những
người điều khiển sẽ định mức lại vào ngày hôm sau.
Một quá trình cần cù như thế sẽ không nhất thiết nếu như cỗ xe được điều khiển bởi các nhà
du hành sống trên Phobos. Do vị trí của nó ở gần sao Hỏa, nên tín hiệu lệnh sẽ mất chỉ vài
phần trăm của một giây là tới được cỗ xe. “Nó giống như lực lượng hải quân điều khiển tàu
ngầm rô bôt; nó sẽ là một phương thức điều khiển hoạt động hiệu quả hơn nhiều”, Maxwell
nói.
Những lữ đoàn xe như thế có thể sục sạo khắp bề mặt hành tinh đỏ, bảo vệ hành tinh khỏi sự
ô nhiễm sinh học do con người cho đến khi một cuộc tìm kiếm sự sống thật kĩ lưỡng diễn ra.
Khi đó, chúng có thể tiếp tục do thám tìm nơi tốt nhất cho sự hạ cánh có người lái cuối cùng.
Nhưng Phobos không chỉ là một điểm chân tiện lợi mà thôi đâu. Bản thân Phobos là một bí
ẩn thiên thể lớn. “Chúng ta biết mọi vật thể thuộc hệ mặt trời mà chúng ta đã khảo sát là cái gì, trừ
Phobos”, Lee nói. “Chúng ta thật sự không biết nó hình thành như thế nào”.
Phobos đã được khám phá, cùng với vệ tinh Deimos nhỏ hơn của sao Hỏa, vào năm 1877 bởi
nhà thiên văn học người Mĩ Asaph Hall tại Đài Thiên văn Hải quân Mĩ ở thủ đô Washington. Trong
phần lớn lịch sử sau đó của chúng, kích cỡ bé xíu của hai vệ tinh đã đưa chúng xuống những lời chú
thích cuối trang trong các sách vở thiên văn học. Phobos là một khối đá hình thù kì dị chưa tới 28
km bề ngang, trong khi Deimos còn nhỏ hơn nữa (xem biểu đồ). Cho nên chúng được cho là những
tảng đá vũ trụ nhỏ đã đi lạc quá gần sao Hỏa và không đủ may mắn nên bị lực hấp dẫn của Hỏa tinh
bắt giữ lại.
Quan điểm này được ủng hộ bởi những phép đầu tiên của thành phần Phobos, thực hiện bởi
phi thuyền Mariner 9 và Vikings 1 và 2 trong thập niên 1970. Ánh sáng mặt trời phản xạ khỏi bề mặt
Vậy thì có phải các tiểu hành tinh trên là tù binh bị bắt giữ hay không? Chưa chắc. Quỹ đạo
những vệ tinh này không phải là cái bạn trông đợi cho những vật bị bắt giữ. Thay vì quay trong
những quỹ đạo nghiêng ngẫu nhiên, như cái xảy ra nếu chúng bị thu tóm ở những thời điểm khác
nhau, cả Phobos lẫn Deimos đều đi theo quỹ đạo nằm gần với mặt phẳng xích đạo của Hỏa tinh. Cái
gì đang diễn ra thế?
Những quỹ đạo gần xích đạo gợi ý rằng những vệ tinh này hình thành ngay chỗ của nó từ
chính đám mây hợp nhất đã hình thành nên sao Hỏa. Nhưng đúng là trường hợp này, thì thành phần
của các vệ tinh lại không mang lại ý nghĩa gì; Phobos và Deimos phải giống đất đá sao Hỏa, chứ
không phải chondrite chứa carbon. Nhằm tìm hiểu thành phần và do đó nguồn gốc của Phobos, phi
thuyền châu Âu Mars Express đã thực hiện một loạt chuyến bay cận táo bạo, sà xuống trong cự li
460 kilo mét của vệ tinh trên vào năm 2006 và 270 km vào năm 2008.
Tiếp cận như thế, lực hấp dẫn nhỏ của Phobos làm thay đổi vận tốc của phi thuyền đi chỉ một
vài mili mét trên giây. Tuy nhiên, những người điều khiển sứ mệnh trên Trái đất đã thành công trong
việc nhận ra tác động của nó lên tín hiệu theo dõi vô tuyến – một sự biến thiên một phần nghìn tỉ
trên tín hiệu mang thông tin.
“Thật là một thành tựu khó tin với người tham gia”, phát biểu của Martin Pätzold tại trường
Đại học Cologne ở Đức và là người lãnh đạo thí nghiệm Khoa học Vô tuyến Mars Express. Nó cho
phép khối lượng của Phobos được đo chính xác hơn 100 so với trước đây, và còn tăng khả năng vệ
tinh trên có thể là một phi thuyền ủy nhiệm chi việc khảo sát cấu trúc bên trong của sao Hỏa.
Trong những chuyến bay phớt qua, Camera Ảnh nổi và Phân giải Cao của Mars Express đã
lập bản đồ bề mặt của Phobos, đưa đến mô hình 3D chính xác nhất từ trước đến nay từng xây dựng
và một số đo thể tích của nó. Mặc dù khối lượng tính được kém chính xác hơn, nhưng biết được thể
tích cho phép tính ra mật độ trung bình bằng con số khối lượng cực kì chính xác. Cái xuất hiện là
nghịch lí hấp dẫn nhất hết thảy.
“Mật độ trung bình thấp đến bất ngờ. Nó phải là một vật thể xốp tổ ong”, Pätzold nói. Thay
vì là một cục đá rắn chắc, có khả năng có những hang động lớn bên trong vệ tinh trên, chúng có thể
che chắn những vị khách tương lai trước sự xâm hại của bức xạ vũ trụ.
Phi thuyền Mars Express đã chụp ảnh Phobos từ mọi khoảng cách để các nhà nghiên cứu
có thể hiểu nhiều hơn về quỹ đạo của nó. Kế hoạch của họ là đo khối lượng của vệ tinh
Bằng cách theo dõi sự uốn lượn trong quỹ đạo của nó, chúng ta có thể suy luận ra sự
phân bố khối lượng bên trong sao Hỏa. Thí dụ, khi Phobos đi qua trên đỉnh Tharsis huyền
thoại trên sao Hỏa, thì nó bị hạ thấp xuống một chút vì nó bị hút xuống dưới bởi khối
lượng núi non bên dưới.
Phi thuyền sao Hỏa hiện nay không được định vị tốt cho lắm để làm công việc này vì
chúng quay vòng quanh phía trên các cực của hành tinh đỏ. Việc hé lộ sự phân bố bên
trong của khối lượng sao Hỏa thu được tốt nhất từ quỹ đạo gần xích đạo mà Phobos tuân
theo.
Một khi kĩ thuật trên được hoàn chỉnh, nó sẽ cho chúng ta biết lõi của sao Hỏa có tan
chảy hay không và giúp chúng ta theo dõi các mùa trên hành tinh. Đến 30% bầu khí
quyển sao Hỏa bị nhốt trong những khối băng vùng cực trong mùa đông nhưng sẽ giải
phóng trở lại vào mùa hè, làm ảnh hưởng đến quỹ đạo của Phobos. Việc theo dõi các mùa
sẽ giúp chúng ta tìm hiểu khí hậu thời quá khứ của sao Hỏa và cung cấp những manh mối
quan trọng về bản chất lịch sử ẩm ướt của nó. Nó còn có thể cho chúng ta biết về kiểu
thời tiết hiện tại và chỉ ra những vùng mà tàu hạ cánh tương lai sẽ đi theo nhằm tránh
những cơn bão bụi hung ác.
Nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. “Có khả năng làm những việc này nhưng rất cam
go”, phát biểu của Pascal Rosenblatt thuộc Đài thiên văn Hoàng gia Bỉ ở Brussels. Các
phép đo của chúng ta về quỹ đạo Phobos cần chính xác hơn 5 đến 10 lần, ông nói.
Phobos là một khối đá sao Hỏa xưa cũ bị văng ra, hay là một tiểu hành bị bắt giữ cho đến nay
vẫn là câu hỏi gây tranh luận. (Ảnh: Detlev Van Ravenswaay/SPL)
Không có mẫu thật từ vệ tinh trên, thành phần của nó vẫn tương đối không rõ ràng. Nếu nó là
tiểu hành tinh bị bắt giữ, thì vật chất cấu thành nó sẽ kém đậm đặc hơn đá bình thường, dẫn đến tỉ lệ
rỗng xốp có khả năng khoảng chừng 15%. Tuy nhiên, nếu vệ tinh trên cấu tạo tương đương như đá
sao Hỏa, thì phần rỗng xốp của Phobos phải cao hơn nhiều: lên tới 45%.
Đây là cái khiến các nhà khoa học hành tinh nhức óc. Nếu Phobos hóa ra cấu tạo từ đất đá
sao Hỏa, thì kích cỡ phần rỗng có nghĩa là vệ tinh trên không có khả năng hình thành từ những hạt
bụi nhỏ xíu tích góp trong quỹ đạo thành sao Hỏa hình thành bên dưới nó, vì như thế này sẽ dẫn đến
một vật thể rắn. Thay vì thế, Pätzold và Pascal Rosenblatt thuộc Đài thiên văn Hoàng gia Bỉ ở
Brussels nghiêng về một chuỗi sự kiện trong đó một cú va chạm lớn đập lên sao Hỏa đã ném những
khối vỡ lớn vào quỹ đạo. Những mảnh vỡ này sau đó tích góp lại với nhau ở những góc lộn xộn,
hình thành nên khối đá kết ngày nay chúng ta gọi là Phobos.
Để kiểm tra đề xuất này, Mars Express sẽ đến thăm vệ tinh trên lần nữa vào tháng 3 trong
chuyến bay tiếp cận gần nhất của nó từ trước đến nay. Phi thuyền sẽ tiếp cận trong cự li cách bề mặt
cằn cỗi ấy 60 km, mang lại cho đội khoa học những gợi ý đầu tiên về trường hấp dẫn của Phobos.
Họ cũng sẽ sử dụng Radar sao Hỏa Tiên tiến trên thiết bị Ghi âm Tầng Điện li và Dưới Bề
mặt (MARSIS) để khảo sát bên trong Phobos. Trong những chuyến bay gần trước đây, đội MARSIS
đã biết làm thế nào cho phản xạ tín hiệu radar từ vệ tinh trên. Giờ thì họ có kế hoạch sử dụng radar
đâm xuyên mặt đất để săm soi phần bên trong. “Chúng tôi hi vọng nhìn thấy cấu trúc dưới bề mặt
vào tháng 3 tới, nhưng còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố”, phát biểu của Andrea Cicchetti, thuộc Viện
Vật lí Khoa học Liên hành tinh Italy ở Rome, một thành viên của đội MARSIS.
Đội nghiên cứu đặc biệt thông thạo việc tóm bắt thành phần của vệ tinh có quang phổ cho
biết nó có là một tiểu hành bị bắt giữ hay không. Tuy nhiên, Rosenblatt phương pháp có thể không
chính xác. “Phổ bề mặt có thể kết quả của hàng tỉ năm thời tiết vũ trụ”, ông nói. Không có bầu khí
quyển bảo vệ chúng, đất đá Hỏa tinh kết tập hình thành nên Phobos có thể bị biến đổi bề mặt bởi các
hạt tích điện mà chúng hứng chịu từ mặt trời trong hàng tỉ năm, che đậy mất nhân dạng thật sự của
chúng và đánh lừa các quang phổ kế. Làm thế nào giải quyết vấn đề này? Hạ cánh lên Phobos và
mang mẫu về cho chúng ta nghiên cứu trên Trái đất này.
Đây chính là cái nước Nga có kế hoạch làm vào cuối năm 2011 với sứ mệnh Phobos-Grunt
(theo tiếng Nga có nghĩa là đất Phobos). “Chúng ta không thể hiểu được nguồn gốc của Phobos nếu
không biết vệ tinh trên cấu tạo từ cái gì, và Phobos-Grunt sẽ cho chúng ta biết điều đó”, Rosenblatt
nói.
Phobos-Grunt có thể còn mang lại cho các nhà khoa học hành tinh thông tin thiết yếu về bản
thân sao Hỏa. Trong bốn tỉ năm qua, những cú va chạm thiên thạch với sao Hỏa đã đánh bật những
mảnh vỡ vào quỹ đạo. Phobos phải hứng chịu những dòng mảnh vụn này, một vài trong số chúng
gồm những khối lớn, như minh họa bởi miệng hố Stickney rộng 9 km của vệ tinh trên.
Đa số những cú va chạm sẽ nhỏ hơn nhiều, lời giải thích hợp lí cho những đường rãnh thẳng
hàng trên bề mặt Phobos. Bản đồ lập mới đây của Mars Express cho thấy những đường rãnh đó xuất
phát từ điểm apex của Phobos, điểm luôn luôn hướng về phía chuyển động của vệ tinh trên và vì thế
là miếng mồi ngon tự nhiên cho những mảnh vụn bay đến.
Thực tế hiện nay là tự nhiên đã và đang thu thập mẫu của Hỏa tinh trong hàng tỉ năm trời và
trữ chúng trên Phobos – một trong những nơi dễ dàng nhất trong toàn hệ mặt trời cho chúng ta đến
thăm. Mọi thứ chúng ta phải làm là đi đến đó và lấy chúng về. “Phobos là một thư viện Alexandria
của sao Hỏa”, Lee nói. “Các mẫu từ Hỏa tinh sơ khai có lẽ được bảo tồn tốt hơn nhiều trên Phobos
so với trên bản thân sao Hỏa”. Chúng có thể còn chứa dấu hiệu hóa học của sự sống sao Hỏa, mặc dù
Lee nhấn mạnh nhiều vào từ “có thể” trong phát biểu đó.
Và Phobos-Grunt có thể chỉ là sứ mệnh đầu tiên trong một loạt sứ mệnh nhiều tham vọng đến
viếng vệ tinh lớn nhất của sao Hỏa. “Sao Hỏa vẫn là đích đến tối hậu cho sự thám hiểm không gian
có người lái”, nhà cựu du hành vũ trụ, Leroy Chiao, và là thành viên của Ủy ban Augustine, nói.
“Nhưng nếu chúng tôi [ủy ban trên] công khai yêu cầu chi tiền cho việc hạ cánh lên sao Hỏa, thì
chúng tôi sẽ bị mất uy tín”.
Ông nêu rõ rằng việc đi lên Phobos sẽ cho phép các nhà du hành thực hành những kĩ thuật
quan trọng cho việc tiếp cận quỹ đạo sao Hỏa, ví dụ như phanh khí động học, trong đó một phi
thuyền giảm tốc độ bằng cách lướt qua bầu khí quyển của hành tinh.
Ngoài ra, vệ tinh trên có thể chứa một nhà kho các bộ phận tên lửa và thiết bị khác, xây dựng
dần dần bởi những sứ mệnh thám hiểm rô bôt bay ngang qua. Khi các nhà du hành đến nơi, mọi thiết
bị trục trặc hoặc hư hỏng có thể nhanh chóng được thay thế.
Nếu sứ mệnh NASA trên được triển khai suôn sẻ, nó sẽ nhắm đến một cấu trúc gây ngạc
nhiên trên Phobos gọi là phiến đá nguyên khối. Phiến đá rắn chắc này bám dốc ngược trên bề mặt và
vút lên 90 mét vào trong không gian. “Nó là tòa nhà Empire State của Phobos”, Lee nói đùa.
Phi thuyền trên sẽ hạ cánh xuống gần phiến đá khối, để nó có thể nghiên cứu khối đá trước
mặt, sau đó bay đến một chỗ khác của vệ tinh và thu thập thêm một số mẫu nữa. Sau đó, nó sẽ cất
cánh và bay sang Deimos, thu gom mẫu từ vệ tinh nhỏ hơn này. Cuối cùng, nó sẽ quay trở về Trái
đất. “Đó sẽ là một sứ mệnh hấp dẫn”, Lee nói. “Chúng ta có thể bay trong vòng 5 năm tới nếu có
kinh phí tài trợ”.
Hiện nay, lời giải của bài toán nằm trong tay Nhà Trắng, khi họ xem xét Bản báo cáo
Augustine. Ngay cả Chiao cũng không biết trước kết cục của sự xem xét thận trọng đó. Giống như
mọi người khác, tôi đang chờ đợi ban quản trị đưa ra phán xét cuối cùng, ông nói.
Hạ cánh lên Phobos là một cách tiếp cận với sao Hỏa. Nhưng chắc chắn nó sẽ có chút nguy
hiểm. Có khi nào bạn sẽ lên đường tiến đến mục tiêu và sau đó không dám mở cửa bước ra hay
không? Không đâu, theo như Lee nói. “Có nhiều người muốn đi lắm, trong đó có tôi”, ông nói.
Tuy nhiên, Chiao nói ông thấy một hành trình duy-Phobos chắc không ổn. “Thật khó cho tôi
tưởng tượng người ta đi theo lộ trình đó mà không ghé qua thăm bề mặt của sao Hỏa”, ông nói.
“Nhưng nếu đó là một sự chọn lựa một-hoặc-không-gì-hết, thì tôi chọn Phobos ngay!”
Hình 2. Enh chFp hiHn vi ca nhTng chuLi trân châu b7c thu 3Dc b\i kính hi5n vi i2n t? quét phát x7
tr3Xng. CCu trúc phong phú ca chuLi hình thành t phát qua s l`ng i2n và không c
n khuôn mOu, chCt
ho7t tính, hoAc chCt phs gia nào. a thang bc nhh nhCt, các chuLi có m*t cCu trúc tu
n hoàn có th5 th ra hTu
dsng trong các fng dsng. (knh: Wang Mu, Phòng thí nghi2m quc gia Vi cCu trúc Bán dOn, 7i h1c Nam
Kinh)
Tirn tài trD có giá trj lên t4i 600.000 nhân dân t2, t3yng 3yng 88.000 ô la M theo t-
giá hi oái chính thfc. Ging nh3 cy quan g
n nh3 t3yng 3yng \ M, NSTC thqm jnh
các r xuCt bwng s ánh giá ngang hàng.
Chính quyrn các t-nh và chính quyrn ja ph3yng cJng tài trD cho khoa h1c. An
Huy, t-nh At trs s\ ca USTC, cCp tài trD cho sinh viên theo h1c tr3Xng 7i h1c danh tibng
này. Suzhou, m*t thành ph \ t-nh Giang Tô láng girng, dành Ct ai ngo7i ô cho trs s\
m4i Software College ca USTC.
Vi2n Hàn lâm Khoa h1c Trung Hoa (CAS) 3Dc thành lp n"m 1949. Ging nh3 tirn
thân ca nó \ Trung Hoa 7i lsc, Academica Sinica, và mô hình gc ca nó, Vi2n Hàn lâm
Khoa h1c Liên Xô, CAS vGa giT m*t vai trò m*t t chfc chuyên nghi2p cho nhTng nhà
khoa h1c xuCt s`c nhCt ca quc gia, vGa tibn hành nghiên cfu t7i các h1c vi2n chuyên môn
riêng ca nó. Các h1c vi2n CAS, con s lên t4i khoIng 100, bao quát toàn b* các lnh vc
khoa h1c t nhiên, gQm
y các ngành vt lí h1c. CAS còn trông nom m*t vài cy s\
nghiên cfu l4n, gQm Máy Va ch7m Electron-Positron B`c Kinh (BEPC), Thibt bj Nghiên
cfu Ion NAng \ Lanzhou (HIRFL), Tokamak Siêu dOn Thc nghi2m Tiên tibn (EAST) \
Hefei, và Thibt bj Bfc x7 Synchrotron Th3Dng HIi (SSRF). M*t h1c vi2n CAS, eài Thiên
v"n h1c quc gia Trung Quc, iru hành nhTng chibc kính thiên v"n l4n ca Trung Quc.
Hình 3. SJ KLu t0 gLn Kây c,a Trung Quc cho vt lí h1c 3Dc phIn ánh trong kibn trúc ca các trs s\ vt lí.
Tòa nhà D t7i Vi2n Vt lí \ B`c Kính (trái) gQm các v"n phòng và m*t h*i tr3Xng. Nó 3Dc xây dng n"m
2004. knh bên phIi là tòa nhà vt lí m4i t7i tr3Xng 7i h1c Fudan \ Th3Dng HIi, gQm các phòng thí nghi2m
và v"n phòng. Nó 3Dc xây dng n"m 2008.
Các nhà nghiên cfu t7i m*t h1c vi2n CAS — thí ds Vi2n Vt lí \ B`c Kinh — th3Xng có
nhTng phòng thí nghi2m 3Dc trang bj tt và 3Dc s? dsng các sinh viên tt nghi2p tG
nhTng ngôi tr3Xng CAS, nh3ng không có trách nhi2m phIi giIng d7y. Vi2n Vt lí, cy quan
tp trung các nghiên cfu lí thuybt và thc nghi2m vr vt chCt ng3ng ts, ang i
u trong
vi2c giIi thích nhTng tính chCt ca các chCt siêu dOn gc s`t m4i phát hi2n ra g
n ây.
Nhi2t * Tc cao nhCt hi2n nay, 55 K, thu 3Dc t7i Vi2n Vt lí. Hình 3 là Inh chsp trs s\
chính ca Vi2n.
Hình 4. M<t h<i th7o quc t3 vr thiên v"n vt lí hành tinh h1c 3Dc t chfc vào tháng 12 n"m ngoái t7i Vi2n
Thiên v"n h1c và Thiên v"n Vt lí Kavli t7i tr3Xng 7i h1c Peking. KIAA là m*t trong hai h1c vi2n Kavli \
châu Á. CI hai vi2n ru \ B`c Kinh.
Charles Day — Tr
n Nghiêm djch (thuvienvatly.con)
Tham kh7o
1. 1. X. H. Chen, T. Wu, G. Wu, R. H. Liu, H. Chen, D. F. Fang, Nature 453, 761 (2008) [MEDLINE].
2. 2. National Science Board, Science and Engineering Indicators 2010, National Science Foundation,
Arlington, VA (2010); available at http://www.nsf.gov/statistics/seind10.
3. 3. Z. Wang, Osiris 17, 291 (2002).
4. 4. P. Li, Isis 76, 366 (1985).
5. 5. H. Xin, R. Stone, Science 322, 363 (2008).
N*a th+ k, -ã trôi qua k1 t2 khi ch34ng trình 6y b7t -8u kh9i -:ng, nh3ng cu:c truy tìm s= s>ng 9
-âu -ó trong vA trB h8u nh3 vCn mang lDi k+t quE là con s> không. Paul Davies kêu gIi ti+p tBc
cu:c tìm ki+m 6y bJng cách khEo sát không ch, các tín hiKu vô tuy+n mà còn cE nhMng dN th3ng vOt
lí và thiên vPn hIc.
Chúng ta có yn *c hay không trong vJ trs này là m*t trong nhTng câu hhi l4n
ch3a có lXi giIi áp ca s tQn t7i. Trong hàng nghìn n"m, câu hhi ó ch- h7n chb v4i lnh
vc tribt h1c và th
n h1c, nh3ng cách nay 50 n"m, nó ã tr\ thành m*t ph
n ca khoa h1c.
Tháng 4 n"m 1960, m*t nhà thiên v"n trz ng3Xi M, Frank Drake, b`t
u s? dsng m*t
SETI phát sinh tG s bành tr34ng thXi hu chibn ca thiên v"n h1c vô tuybn, và s
nhn thfc sy b* rwng các kính thiên v"n vô tuybn có sfc m7nh truyrn 7t thông tin xuyên
khoIng cách giTa các sao. M*t bài báo b34c ngoAc công b n"m 1959 trên t7p chí Nature
ca Giuseppe Cocconi và Philip Morrison ã thôi thúc các nhà nghiên cfu thc hi2n m*t
cu*c tìm kibm có h2 thng toàn b
u trXi nhwm tìm dCu hi2u ca s giao th3yng vô tuybn
ngoài hành tinh (184 844). Drake ã 3yng
u v4i th? thách, s? dsng cái a 26 m t7i
Green Bank \ Tây Virginia, và nhTng ng3Xi khác trên kh`p thb gi4i s4m tham gia cùng
ông.
Ph
n nhiru ho7t *ng này ngày nay 3Dc phi hDp b\i Vi2n SETI \ California nwm
g
n Phòng thí nghi2m Ames NASA, nyi chuyên vr sinh vt h1c vJ trs. Nghiên cfu trên
h
u nh3 3Dc tài trD t3 nhân toàn b*. Viên á quý g`n trên v3yng mi2n SETI là Ma trn
Kính thiên v"n Allen, m*t h2 thng gQm 350 cái a nhh ni m7ng v4i nhau ang 3Dc
tri5n khai xây dng \ B`c California và 3Dc At tên theo nhà tài trD chính ca nó, nhà
Qng sáng lp Microsoft, Paul Allen. Cho bn nay, 42 cái a ã i vào ho7t *ng. Còn có
m*t ch3yng trình quang h1c SETI quy mô nhh, tìm kibm nhTng lóe sáng laser ng`n ngi,
và chúng ta không nên quên là vô s nhà nghiên cfu nghi2p d3 ang tham gia trong các
d án trên nrn Internet ki5u nh3 SETI@home.
Khái ni2m SETI ã 3Dc 7i chúng hóa nhX Carl Sagan, nhà hành tinh h1c t7i tr3Xng
7i h1c Cornell danh tibng và là tác giI quy5n Contact (Ti+p xúc), tác phqm sau ó tr\ thành
m*t b* phim Hollywood v4i ngôi sao i2n Inh Jodie Foster th vai nhà thiên v"n vô tuybn
ã b`t 3Dc m*t tin nh`n ca ng3Xi ngoài hành tinh. Sagan Cu tranh cho quan i5m rwng
m*t nrn v"n minh * l3Dng âu ó trong thiên hà có lc ang h34ng nhTng chùm tín hi2u
vô tuybn vr phía Trái Ct 5 khng jnh m*t s uyên thâm kibn thfc vJ trs hoAc thibt lp
m*t cu*c i tho7i. Tht là m*t quan i5m r*ng l3Dng, nh3ng nó có áng tin hay không?
M*t tr\ ng7i chính v4i lun i5m ca Sagan là nbu có bCt kì ging loài ngoài hành
tinh nào \ ngoài kia, thì h
u nh3 ch`c ch`n h1 chng có ý t3\ng rwng Trái Ct l7i có chfa
eiru này có ngha SETI là m*t s lãng phí thXi gian à? Không nhCt thibt nh3 vy. Có
lc có nhTng luQng vô tuybn khác chúng ta có th5 phát hi2n ra. Tht không may, nhTng
anten l4n nhCt trên Trái Ct hi2n nay không nh7y 5 nhAt ra nhTng máy phát truyrn
hình \ khoIng cách giTa các sao, và trG khi thiên hà chúng ta ang nhung nhúc nhTng nrn
v"n minh ang iên cuQng trao i nhTng tin nh`n vô tuybn, chúng ta sc không tài nào có
cy h*i ‘vô phúc’ b`t dính m*t tin nh`n h34ng bn m*t hành tinh khác i xuyên qua hành
trình vJ trs ca chúng ta m*t cách tình cX. M*t hi v1ng thc tb hyn là m*t nrn v"n minh
ngoài ja c
u ã xây dng m*t èn hi2u m7nh quét qua mAt phng thiên hà ging nh3 m*t
ng1n hIi "ng. M*t èn hi2u có th5 phsc vs nhiru msc ích a d7ng: là t3Dng ài cho nrn
v"n hóa ã bibn mCt tG lâu; là m*t cách thu hút s chú ý và thc hi2n s tibp xúc
u tiên;
là m*t bi5u t3Dng ngh2 thut, v"n hóa hoAc tôn giáo; hoAc là t3yng 3yng vJ trs ca ngh2
thut grafito [hình vc, chT vibt trên t3Xng c]. Nó thm chí có th5 là m*t tibng kêu cfu,
hoAc, nh3 v4i giI thuybt ng1n hIi "ng khiêm t, nó là m*t s cInh báo.
Trong nhTng n"m qua, ã có nhiru xung vô tuybn ch3a giIi thích 3Dc. Ni tibng
nhCt là cái g1i là tín hi2u Wow!, phát hi2n ra ngày 15 tháng 8, 1977, b\i Jerry Ehman s?
dsng kính thiên v"n vô tuybn Big Ear ca tr3Xng 7i h1c Bang Ohio. Tín hi2u kéo dài trong
72 s (thay vì m*t xung dài), và không 3Dc phát hi2n ra l
n nào nTa. Ehman ã phát hi2n
ra nó trong khi ang xem xét bIn in fax qua máy tính ca anten, và bj kích *ng bn mfc
ông vibt tG “Wow!” \ lr trang. Tín hi2u ó ch3a bao giX 3Dc giIi thích thha mãn là m*t
hi2n t3Dng nhân t7o hay m*t hi2n t3Dng t nhiên.
Tht không may, thiên v"n h1c vô tuybn hi2n nay không thích fng tt l`m 5 ánh
giá nhTng cái th3Xng 3Dc cho là èn hi2u. Cách tibp cn SETI truyrn thng là l`ng nghe
VCn r là toàn b* công vi2c này tht mCt thXi gian: m*t tibng rít ng`n ngi phát ra tG
m*t èn hi2u không th5 nào ki5m tra chéo và không th5 xuCt hi2n tr\ l7i trong hàng tháng
hoAc thm chí hàng n"m trXi. Nó có khI n"ng bj lo7i trG khhi nguQn gc t nhiên d} dàng
nh3 m*t bí qn vy. Trên lí t3\ng, m*t cu*c tìm kibm nhTng èn hi2u sc liên quan bn m*t
tp hDp nhTng thibt bj chuyên dsng nhìn chwm chwm vr h34ng vùng dQi dào sao thu*c DIi
Ngân hà trong nhiru n"m liên tsc. Ph
n này ca thiên hà là nyi a s nhTng ngôi sao c -
và có lc là nhTng nrn v"n minh x3a cJ nhCt và thjnh v3Dng nhCt — 3Dc tìm thCy. Nh3ng
m*t d án có t
m r*ng l4n nh3 thb này không th5 3Dc tài trD trong t3yng lai tr34c m`t.
Ma trn Kính thiên v"n Allen \ B`c California (trái) ang dOn
u cu*c tìm kibm s sng ngoài ja c
u ã b`t
u vào n"m 1960 b\i Frank Drake (phIi). knh: Seth Shostak/Science Photo Library
Khi Frank Drake dCn thân vào ch3yng trình SETI vô tuybn, ông ã vibt ra m*t
ph3yng trình jnh l3Dng con s hi v1ng, N, ca nhTng nrn v"n minh truyrn thông trong
thiên hà. Nó không hn là m*t ph3yng trình theo ý ngha toán h1c thông th3Xng, mà là
m*t cách jnh l3Dng s ngu dt ca chúng ta. Nó là N = R*fpneflfifcL, trong ó R* là tc *
hình thành nhTng ngôi sao ki5u MAt trXi trong thiên hà, fp là t- l2 nhTng ngôi sao ó có
hành tinh, là ne s trung bình nhTng hành tinh ki5u Trái Ct trong mLi h2 hành tinh, fl là t-
M*t s trong nhTng thut ngT này, thí ds nh3 t- l2 nhTng ngôi sao có hành tinh,
ngày nay có th5 3Dc jnh l3Dng khá tt — các nhà thiên v"n 34c tính fp là l4n hyn 0,5.
Ngoài ra, sf m2nh Kepler tìm kibm hành tinh ca NASA, phóng lên qu 7o hQi tháng 3
n"m 2009, sc s4m cung cCp m*t s dCu hi2u xác nhn xem có bao nhiêu hành tinh ki5u Trái
Ct, tfc là ne. Tuy nhiên, * bCt jnh trong N bj thng trj hoàn toàn b\i hai bibn khng lQ: fl
và fi. Các nhà khoa h1c hi2n nay không có lí thuybt áng tin cy nào ca nguQn gc s
sng, cho nên vi2c At ra m*t xác suCt trên nó là vô ngha. Khi SETI b`t
u, nhiru ng3Xi
tin rwng s sng trên Trái Ct là m*t s may m`n rCt khó có khI n"ng xIy ra, m*t tai n7n
hóa chCt có xác suCt thCp nh3 thb chúng ta sc không trông Di nó xIy ra \ âu ó khác
trong vJ trs có th5 quan sát. Ngày nay, con l`c quan i5m ang ong 3a bn chL nhiru
nhà sinh vt h1c vJ trs tuyên b rwng s sng phát sinh m*t cách d} dàng và h
u nh3 ch`c
ch`n xIy ra bCt k5 khi nào m*t hành tinh có nhTng iru ki2n ging nh3 Trái Ct. Nbu nh3
h1 úng, thì thiên hà phIi ang nhung nhúc nhTng thb gi4i có th5 \ 3Dc. Nhà sinh vt h1c
7t giIi Nobel Christian de Duve thm chí còn i xa bn mfc g1i s sng là “m*t nhu c
u
vJ trs”.
Tht không may, giI thuybt vr tính tCt jnh sinh h1c, trong khi tht hDp thXi, l7i
không có s ng h* quan sát nào vào lúc này. Có m*t cách chúng ta có th5 ki5m tra nó,
mAc dù, tht s không c
n phát hi2n ra sinh vt trên m*t hành tinh khác. Nbu s sng tht
s d} dàng xIy ra bCt ngX trong nhTng iru ki2n ging Trái Ct, thì không có hành tinh
nào ging Trái Ct hyn bIn thân ja c
u, cho nên ch`c ch`n nó phIi hình thành nhiru l
n
t7i nyi ây, trên hành tinh thân yêu ca chúng ta. Và làm thb nào chúng ta bibt nó không
xIy ra chf?
Cho dù s sng là ph bibn trong vJ trs, thì khI n"ng có s sng thông minh — fi
trong ph3yng trình Drake — vOn sc rCt thCp. Các nhà sinh h1c bCt Qng gay g`t \ chL h1
ánh giá s sng có là m*t s l
m l7c không quan tr1ng, ki5u nh3 cái vòi ca con voi, hay
thu*c vr lo7i nhTng nét tiêu bi5u, thí ds ôi cánh và ôi m`t, cái áp fng m*t vai trò sinh
h1c cy bIn bn mfc chúng ã 3Dc “phát minh” ra b\i s tibn hóa lAp i lAp l7i nhiru l
n
trong ljch s?. Tuy nhiên, nbu s sng ang tibn di}n \ m*t nyi nào khác, thì ít nhCt nó cJng
có m*t cy h*i tibn hóa thành s sng thông minh. Cho nên theo quan i5m ca tôi, qn s
l4n trong ph3yng trình Drake vOn là f1. Cho bn khi chúng ta có m*t ý t3\ng tt hyn vr t- l2
ó bwng bao nhiêu, thì bCt kì m*t s c g`ng nào At ra m*t giá trj s “hDp lí” lên N là iru
t3\ng t3Dng mà thôi.
Vi khuqn Extremophile có th5 sng sót trong m*t s iru ki2n kh`c nghi2t, k5 cI nhi2t * cao và thCp, * pH
cc cao hoAc cc thCp, trong iru ki2n khô cwn cJng nh3 * mAn cao. Sinh vt này có th5 chju 3Dc nhTng
liru l3Dng bfc x7 cc cao. (knh: Michael J Daly/Science Photo Library)
Cho dù vi2c thu nhn m*t tin nh`n tG loài ng3Xi hóa ra là m*t hi v1ng mong manh,
nh3ng chúng ta có th5 vOn góp nhAt bwng chfng, có lc là gián tibp, cho thCy chúng ta
không yn *c trong vJ trs. Ch- duy nhCt chúng ta suy lun ra trí thông minh tQn t7i, hoAc
ã tGng tQn t7i, bên ngoài Trái Ct, là thông qua vbt tích công ngh2 ca nó. Vì chúng ta
không bibt nhTng Ac tr3ng ca công ngh2 tiên tibn cao ngoài ja c
u, cho nên h34ng khIo
sát này hi hhi rCt nhiru kibn thfc d oán. eQng thXi, m*t nrn v"n minh ngoài ja c
u có
th5 sc không tibn hành m*t nL lc có cân nh`c nhwm gây s chú ý, cho nên nhTng vbt tích
ho7t *ng ca nó có th5 rCt huyrn Io và òi hhi vi2n bn nhTng ph3yng pháp khoa h1c
phfc t7p.
Loài ng3Xi ã cIi t7o áng k5 hành tinh ca mình trong ch- m*t vài nghìn n"m, cho
nên chng có gì khó t3\ng t3Dng là m*t c*ng Qng công ngh2 nhiru tri2u n"m ã làm thay
i áng k5 môi tr3Xng thiên v"n ca nó. Cách nay ã lâu, nhà vt lí Freeman Dyson r
xuCt rwng m*t nrn v"n minh ói n"ng l3Dng có th5 t7o ra l4p vh vt chCt xung quanh ngôi
sao ch ca nó 5 b`t lCy a ph
n bfc x7. Nbu m*t “quI c
u Dyson” nh3 thb tQn t7i, thì nó
sc 5 l7i m*t dCu hi2u Ac tr3ng trong vùng hQng ngo7i. Ng3Xi ta ã b`t tay vào tìm kibm
nhTng i t3Dng này trên b
u trXi, nh3ng cho bn nay vOn ch3a thu 3Dc thành quI gì.
NhTng d án thiên v"n k thut quy mô l4n khác có th5 bao gQm vi2c cIi t7o ngôi
sao ch bwng m*t cách nào ó, nhX ó làm thay i các Ac tr3ng ph và nhi2t ca nó, và
do ó khibn nó xuCt hi2n nh3 m*t dj th3Xng tr34c m*t nhà thiên v"n có ôi m`t s`c bén
trên ja c
u. Ngay cI nhTng thay i g`n lirn v4i br mAt ca m*t hành tinh cJng có th5
3Dc phát hi2n ra trong t3yng lai không quá xa xôi \ d7ng nhTng chCt ô nhi}m công
nghi2p hoAc nhTng phân t? kì l7 khác trong quang ph ca khí quy5n ca hành tinh. Sf
m2nh Kepler sc s4m mang l7i m*t bIng kê chi tibt nhTng hành tinh ngoài h2 mAt trXi ging
Trái Ct, ó sc là m*t danh sách msc tiêu t nhiên cho m*t h2 thng quang h1c At trên vJ
trs t3yng lai có khI n"ng này. Chúng ta cJng nên thn tr1ng tr34c khI n"ng m*t c*ng
Qng ngoài hành tinh có th5 t7o ra nhTng sIn phqm rCt khác v4i nhân lo7i — có lc là nhTng
neutrino n"ng l3Dng cc cao trong ng3ng peta-electron-volt (1015 eV) hoAc nhTng xung
photon tia gamma c3Xng * m7nh tG s phân hy vt chCt-phIn vt chCt tp trung quá
mfc so v4i cái phát ra tG bCt kì nguQn phát t nhiên hDp lí nào.
Cách d} hyn là i tìm vbt tích ca công ngh2 ngoài hành tinh trong sân sau thiên v"n
ca chúng ta. N"m 1950, Enrico Fermi nêu ý kibn ni tibng rwng m*t nrn v"n minh c3 trú
trong vJ trs sc có th5 di c3 trên kh`p thiên hà trong khoIng thXi gian nhh hyn tui ca
thiên hà ó, và ch- c
n m*t c*ng Qng bùng n nh3 thb cho Trái Ct 3Dc “tibp quIn” cách
Có nhiru lXi giIi ca nghjch lí Fermi ngoài kbt lun hi5n nhiên rwng chng có ng3Xi
ngoài hành tinh nào hbt. Thí ds, du hành vJ trs có lc quá tn kém hoAc m7o hi5m áng 5
liru lình, hoAc nhTng nrn v"n minh ngoài ja c
u có lc ã t hy di2t hoàn toàn tr34c khi
h1 b`t tay vào thu*c ja hóa nhTng thb gi4i khác. Nh3ng m*t lXi giIi hCp dOn hyn áng
ki5m tra là s di c3 giTa các sao ã và ang di}n ra, mAc dù theo m*t ngha phfc t7p hyn
cái Fermi ngh t4i. Robin Hanson, m*t nhà kinh tb h1c t7i tr3Xng 7i h1c George Mason, ã
s? dsng m*t mô hình di dân kinh tb trong ó các c*ng Qng tIn ra khhi hành tinh quê
h3yng ca h1 và thu*c ja hóa nhTng hành tinh khác — m*t ph
n \ l7i, m*t ph
n tibp tsc
di c3 — hình thành nên m*t m7ng l34i phfc t7p ca s jnh c3 và di c3, trong ó luôn luôn
có m*t làn sóng di c3 nhanh nhCt t7i “tirn tuybn” dCn thân vào nhTng mirn Ct ch3a 3Dc
khai phá. Mô hình ca Hanson r xuCt m*t kjch bIn khI d trong ó m*t làn sóng di c3 có
th5 ã lan qua vùng thiên hà ca chúng ta nh3ng sau ó ã tibp tsc lan i, có lc 5 l7i m*t
s dCu hi2u mách bIo \ d7ng Q t7o tác, chCt thIi công nghi2p hoAc ho7t *ng khai
khoáng.
S di c3 này ã xIy ra khi nào? M*t trong nhTng ri ro phIn ánh trên SETI là sfc
cám dL ca ý ngh trong m*t khoIng thXi gian quy mô quá ng`n ngi. Tui ca h2 mAt trXi
ch- bwng m*t ph
n tui ca thiên hà, các hành tinh ging Trái Ct có lc ã tQn t7i hàng t-
n"m thm chí tr34c khi Trái Ct hình thành. Khi không có lí do nào phIn i, ng3Xi ta nên,
v4i s g
n úng bc m*t, giI s? m*t s phân b xác suCt 7i khái Qng ru trong nhiru t-
n"m cho tc * xuCt hi2n ca nhTng nrn v"n minh công ngh2. Nbu nh3 vy, thì niên 7i
ljch s? nh3 trông Di ca m*t làn sóng di c3 không o 3Dc trong hàng nghìn hay thm chí
hàng tri2u n"m, mà là hàng t- n"m.
Nói cách khác, không phIi không t3\ng t3Dng rwng h2 mAt trXi ã tGng 3Dc th"m
vibng, nói thí ds, cách nay 3 t- n"m tr34c. Nbu s phân b xác suCt tht s t"ng lên theo
thXi gian, iru d3Xng nh3 thc tb hyn, thì có lc chính xác hyn là hãy ngh theo hàng chsc
bn hàng tr"m tri2u n"m. Nh3ng nhTng cy h*i ca vi2c Trái Ct 3Dc th"m vibng trong vài
nghìn n"m qua — chCt li2u ca a s truy2n khoa h1c vi}n t3\ng — là hbt sfc thCp, và sc tiêu
bi5u cho m*t s trùng hDp ngOu nhiên m*t cách l7 kì. T7i sao hành tinh chúng ta l7i tình cX
3Dc th"m vibng úng ngay lúc nrn v"n minh nhân lo7i b`t
u chú ý t4i iru ó chf?
Nbu nh3 ng3Xi ngoài hành tinh ã bn th"m hành tinh ca chúng ta cách nay m*t
tri2u n"m tr34c, thì vbt tích công ngh2 ca h1 có còn l7i chút gì cho bn ngày nay hay
không? M1i thf trên br mAt Trái Ct sc bj phong hóa gay g`t b\i thXi tibt, ho7t *ng kibn
t7o, b"ng hà và vân vân. Tuy nhiên, vbt tích ca s khai khoáng quy mô l4n hoAc khai thác
ã có th5 vOn còn l7i, mAc dù có lc bj chôn vùi sâu d34i các v-a á và ch- có th5 phát hi2n ra
trong nhTng cu*c khIo sát ja chCt cqn tr1ng. M*t món Q t7o tác 3Dc chôn có ch ý trên
Trái Ct hay, còn tuy2t vXi hyn, trên MAt tr"ng, có th5 d} dàng bj bh qua, không phát hi2n
3Dc. Các Qng vj phóng x7 phát ra tG nhTng vs n h7t nhân hoAc công ngh2 h7t nhân có
th5 xuCt hi2n nh3 nhTng dj th3Xng ja chCt.
Sao chi và ti5u hành tinh sc là m*t nguQn tuy2t vXi cung cCp vt li2u thô, và có th5
bi5u hi2n nhTng dCu hi2u ca s cIi t7o, thí ds s v`ng mAt bCt th3Xng hoAc s phân b
thu*c nhTng lo7i nhCt jnh. Tuy nhiên, bCt kì cCu trúc k thut nào còn l7i trong vành ai
ti5u hành tinh sc rCt khó l
n ra nbu không có nhTng cu*c tìm kibm thCu áo. M*t công
M*t ý t3\ng 3Dc các nhà nghiên cfu SETI khIo sát là tìm kibm m*t sIn phqm t7o
tác ngoài hành tinh t7i các i5m cân bwng brn Lagrange Trái Ct — MAt trXi L4 và L5 —
nhTng cái túi trong không gian trong ó m*t vt có th5 giT nhjp b34c cùng v4i Trái Ct khi
nó quay xung quanh MAt trXi. M*t tàu khIo sát 3Dc g?i bn tG ch s\ hTu m*t hành tinh
bên ngoài, hay m*t dsng cs theo dõi còn l7i sau m*t chuybn thám hi5m ã rXi gót ra i, có
th5 còn neo u \ ó mà không c
n hi2u ch-nh qu 7o. Ng3Xi ta thm chí còn r xuCt
rwng m*t con tàu khIo sát nh3 vt có th5 c g`ng thibt lp tibp xúc v4i chúng ta bwng sóng
vô tuybn hoAc thông qua Internet. Tuy nhiên, do tr\ ng7i ca tc * hTu h7n ca ánh sáng,
cái làm nIn chí các nhà nghiên cfu SETI truyrn thng, có th5 làm cho kb ho7ch ó bj phá
v.
Là m*t thí ds cui cùng ca cái chúng ta có th5 tìm kibm, m*t chuybn thám hi5m
hoAc m*t làn sóng di c3 ca ng3Xi ngoài hành tinh có th5 làm xáo tr*n vi sinh vt h1c ja
c
u, có lc t7o ra sinh quy5n d34i bóng riêng ca nó hL trD cho quá trình khai khoáng, cIi
t7o Ct, hoAc sIn xuCt n"ng l3Dng. eQng thXi, nbu ng3Xi ngoài hành tinh tht s mun 5
l7i tin nh`n cho hu thb, thì vi2c 5 l7i dCu vbt trong h2 gen ca các vi sinh vt có lc là chibn
l3Dc tt hyn so v4i g?i i nhTng tín hi2u vô tuybn tG m*t ng1n èn hi2u. S? dsng virus
hoAc tb bào sng làm hu du2 thông tin có nhiru 3u i5m: các h2 sinh vt nano có th5 t
sao chép và t s?a chTa, và có tirm n"ng bIo tQn thông tin trong hàng tri2u n"m. M*t s h2
gen, chng h7n, vOn không thay i gì l4n trong hyn m*t t- n"m.
Tranh lun vr SETI th3Xng sa vào cái bOy ca h1c thuybt loài ng3Xi là trung tâm —
m*t khuynh h34ng s? dsng nrn v"n minh nhân lo7i thb k- 21 làm mô hình cho nrn v"n
minh ngoài ja c
u có lc trông nh3 vy. Nh3ng khi nhìn vào m*t công ngh2 nhiru tri2u
n"m, s phân lo7i ca con ng3Xi h
u nh3 ch`c ch`n là sai l
m. Có lc giI thuybt áng ngX
nhCt là chúng ta sc i phó v4i nhTng sinh vt sng máu-thjt. Có khI n"ng trí thông minh
sinh h1c là nh3 vy, nh3ng là m*t pha ng`n ngi trong s tibn hóa ca trí thông minh
trong vJ trs; thm chí trên Trái Ct, chúng ta có th5 tiên oán s phát tri5n ca trí thông
minh “nhân t7o” và thoáng nhìn t4i m*t t3yng lai trong ó các h2 thng x? lí thông tin k
thut và các m7ng l34i th
n kinh bibn i gen sc hDp nhCt l7i 5 t7o ra nhTng “h2 suy
ngh” m4i l7 v3Dt xa s tinh thông trí tu2 ca nhân lo7i.
SETI có sfc hCp dOn rCt l4n i v4i công chúng. BIn chCt tr1ng 7i ca m*t kbt quI
ch`c ch`n òi hhi phIi 3Dc giIi thích rõ ràng. Tht không may, vCn r ó vCp phIi s
tranh lun thm chí khác th3Xng b\i các tiêu chuqn ca nrn vt lí lí thuybt 3yng thXi, và
hóa ra nó có th5 là vi2c ui b`t vjt trXi mà thôi. Tuy nhiên, nh3 Cocconi và Morrison trình
bày trong bài báo tiên phong ca h1, nbu chúng ta không buQn tìm kibm trí thông minh
ngoài ja c
u, thì cy h*i tìm ra nó là bwng không.
Tr
n Nghiêm djch (theo Physics World, tháng 3/2010)
n v
o là m7t trong nh,ng
Mc trng lí thú nht c3a khoa hNc. Chúng là “cPu nQi”
gi,a th2 giSi kinh nghi;m ch3 nghTa c3a các hi;n tng vt lí và th2 giSi trUu tng phi kinh
nghi;m tính c3a toán hNc, cho phép chúng ta di chuyWn tSi lui gi,a hai th2 giSi y. ã có lPn
trong lch sY, nhi5u cu nQi thu7c v5 nh,ng bi2n thW khác nhau
ã t.n tZi
7c lp vSi nhau.
hNc c{ng sI không b -nh hvng trong h; MGS, tuy nhiên các
n v
i;n
7ng l0c hNc, nh
chi5u dài Planck, khQi lng và th`i gian, sI ph-i gi-m cu. u
iWm c3a h; MGS là nó sI hp
nht h; CGS và h; MKS (mét-kilogram-giây), “c\n b;nh nhBc
Pu cho các nhà vt lí và sinh
viên c3a hN trong hn m7t th2 kD”. Nhng Bogan không hi vNng gì nhi5u r<ng mNi thB sI thay
pi sSm vì cái ông
Mt tên là “lòng trung thành tuy;t
Qi” vSi chun l0c newton c3a h; SI. “ThY
làm thay
pi chun này giQng nh là chi2n
u vSi tòa th chính vy”, ông phàn nàn.
Tôi nêu ý ki2n này vSi Richard Davis, trvng khoa khQi lng thu7c BIPM và là ng`i
am hiWu các
n v SI (và là ng`i có
n v ngoài SI yêu thích là sào vì lí do tình c-m;
W nhS
ngôi nhà c{ c3a ông v th3
ô Washington có các kích cu
i theo
n v
ó). Câu tr- l`i hai
Ngày-con-bò, firkin và lít — m7t vài
n v trong nhi5u
n v không chun
a dZng bZn có thW chNn làm
n v
yêu thích c3a mình. (Jnh: Photolibrary)
PhPn kia c3a câu tr- l`i, Davis nói, liên quan
2n “tính chMt chI”, theo ý nghTa
Mc bi;t
mà “sách SI” trao cho thut ng, này. “N2u bZn có bt kì phng trình vt lí nào, bZn có thW
a các giá tr SI vào cho mNi
Zi lng và nó t0
7ng hoZt
7ng nh nó ph-i nh vy; nghTa
là, trong m7t h; chMt chI nh SI, không bao gi` cPn
a thêm nh,ng h<ng sQ ban
Pu không
có mMt trong phng trình”, ông nói. H; MGS thì không chMt chI, trong con mlt c3a Davis.
“Ly thí dF phng trình yêu thích c3a mNi ng`i: E = mc2," ông gi-i thích. “N2u, v v2 ph-i,
tôi tính khQi lng theo kilogram và tQc
7 ánh sáng theo mét trên giây, thì k2t qu- c3a tôi t0
7ng xut hi;n là joule. Nhng trong h; MGS, h; thBc Einstein sI trv thành E = km mc2,
trong
ó m
o b<ng gram, c là mét trên giây, E là joule, và km là thUa sQ chuyWn
pi b<ng 10—
3
kg g—1. Nhi5u ý tvng sáng giá muQn c-i cách h; SI sI d?n tSi tính không chMt chI nh vy”.
Yêu cPu c3a tính chMt chI, Davis bp sung, giúp chD d?n phng thBc cho nh,ng
n v c sv
khác, ví dF nh ampere và kelvin,
c
a vào SI. Tòa th chính có nh,ng lí do c3a nó.
Thomas Yeung, sQng v Suffolk, nSc Anh, là m7t ng`i tán thành
n v lít (10—3 m3) —
m7t thí dF khác c3a m7t
n v ngoài SI “
c chp nhn sY dFng”. (n v SI chMt chI c3a
thW tích là m3,
n v này không có tên gNi
Mc bi;t nào. Lít không ph-i là m7t
n v SI chMt
chI, vì 1 l = 10—3 m3 — m7t phng trình chBa thêm m7t h; sQ không b<ng m7t). Tht vy,
Yeung
o công sut tiêu thF x\ng c3a chi2c xe hi c3a ông theo dMm trên lít, gi nhS tSi
n
v c{ dMm trên gallon, vì nhiên li;u v Anh hi;n nay th`ng
c báo giá theo lít. “Tôi bi2t nó
Chân muAi v<n và C7t Nelson — các n v ngoài SI. (Jnh: Photolibrary)
Trong khi
ó, Matthew Evans kh@ng
nh ng`i anh trai c3a ông, giQng nh ông vy,
ly b<ng vt lí tU tr`ng
Zi hNc Southampton,
ã ch2 ra m7t h;
n v hoàn toàn d0a trên
mol: m7t mol cht khí là lng có thW chBa
Py m7t túi trSc khi nó np, m7t mol chi5u dài là
kho-ng cách mà túi bm
Py hi
ang x- hi t0
y nó
i, m7t mol di;n tích là mBc
7 mong
mà bZn có thW tr-i m7t túi SI chun ra, và vân vân. “ThuPn túy lí thuy2t”, Evans cQ cãi, e r<ng
tp chBc quy5n
7ng vt PETA sI thêm
nh nghTa
n v vào chng trình ngh s0 c3a mình.
Giáo dsc và t do t3 t3\ng là nhTng ybu t quan tr1ng 5 các quc gia
HQi giáo tr\ thành nhTng ng3Xi i
u trong khoa h1c. knh:
Photolibrary
Có hyn m*t t- ng3Xi HQi giáo trên thb gi4i hi2n nay — chibm hyn m*t ph
n n"m tng
dân s thb gi4i — sinh sng \ hyn 57 quc gia và khu vc trc thu*c T chfc H*i nghj HQi
giáo (OIC), trong ó 7o HQi là tôn giáo chính. Trong s này có m*t s quc gia giàu có
nhCt thb gi4i, nh3 Saudi Arabia và Kuwait, và nhTng n34c nghèo nhCt, nh3 Somalia và
Sudan. Nrn kinh tb ca m*t s quc gia này — nh3 Liên bang Vùng vjnh, Iran, Th Nh Kì,
Tr
ng=i phát triHn
M*t tr\ ng7i là có quá nhiru ng3Xi HQi giáo xem khoa h1c hi2n 7i là ho7t *ng tr
n
tsc, thm chí là vô th
n, là do ph3yng Tây xây dng, và ã lãng quên nhiru óng góp
tuy2t v4i do nhTng h1c giI 7o HQi mang l7i vào lúc cao -nh ca m*t thXi kì vàng son b`t
u vào n?a ru thb k- thf 9 và tibp di}n trong vài thb k-. NhTng tibn b* xuCt s`c ã 3Dc
thc hi2n trong m1i lnh vc tG toán h1c, thiên v"n h1c cho bn y khoa, bn vt lí h1c, hóa
h1c, k thut và tribt h1c. eó là m*t thXi kì mOu mc cho tinh th
n thqm tra hDp lí vào lúc
mà a ph
n châu Âu ang `m mình trong ThXi kì T"m ti.
NhTng cu*c truy tìm kibn thfc t do suy ngh, do tính tò mò chi phi này tG tG i
vào tàn lsi. Tôi sc làm sáng th rwng s thoái trào này xIy ra mu*n hyn vài thb k- so v4i
nhiru ng3Xi ph3yng Tây ngh, vì nhTng tibn b* ban
u trong lnh vc y khoa, toán h1c và
thiên v"n h1c tibp tsc di}n ra tt cho bn sang thb k- 15. Tuy nhiên, s thoái trào d
n d
n là
do nhiru nguyên do, ch ybu vì s tan v quyrn lc ca b chb HQi giáo và nhTng kz
thng trj non ybu không còn hfng thú bIo trD cho gi4i h1c giI và vCn r h1c thut. Toàn
b* xu thb này xIy ra Qng thXi v4i Phong trào Phsc h3ng \ châu Âu ang di}n ra theo
h34ng ng3Dc l7i, cái ã kích ngòi cho cu*c cách m7ng khoa h1c thb k- 16 và 17. C*ng thêm
vào nTa là nhTng tác *ng sau ó ca ch ngha thc dân dOn t4i m*t lo7i bCt n và s
lãng quên tp th5 bên trong thb gi4i HQi giáo vr di sIn v"n hóa giàu có ca riêng mình, và
Thí ds ca nhTng d án m4i \ Trung eông gQm m*t chi nhánh ca tr3Xng 7i h1c Carnegie Mellon \ Qatar
(Inh trái) và tr3Xng 7i h1c Khoa h1c và Công ngh2 Nhà vua Abdullah (Inh phIi). knh: Carnegie Mellon
Qatar/Matin Durrani
(Trái sang phIi), m*t nhà thiên v"n h1c ng3Xi HQi giáo nghiên cfu chuy5n *ng ca MAt trXi, s? dsng m*t
quI c
u c
m tay và kim la bàn; jnh lut Snell, có lc nên g1i là jnh lut Sahl, 5 vinh danh con ng3Xi
u
tiên tht s ã tìm hi5u nó; và m*t dsng cs o sao bwng Qng thau tG khoIng 1350-1450, nó 3Dc dùng 5 o
vj trí ca các ngôi sao. NguQn: Phòng Tr3ng bày Ngh2 thut/Th3 vi2n tr3Xng e7i h1c Istanbul/Gianni Dagli
Orti/David Parker/Th3 vi2n knh Khoa h1c
Tr
n Nghiêm djch (theo Physics World, tháng 4/2010)
James Bond bị bắt giữ bởi Goldfinger và laser đỏ khoa học viễn tưởng của ông có thể cắt xuyên qua vàng. (Ảnh:
Danjaq/EON/UA/The Kobal Collection)
Có một cảnh đặc biệt trong câu chuyện viễn tưởng năm 1989 của H G Wells, Chiến tranh
giữa các thế giới, mà nếu tôi nhớ đến nó, thì có lẽ nó đã giúp tôi tránh được một thời khắc tồi tệ
trong phòng thí nghiệm laser của mình hồi năm 1980. Trong câu chuyện ấy – xuất bản từ lâu trước
Tiên đoán táo bạo của Wells về một thứ vũ khí hủy diệt dạng tia đã truyền cảm hứng sang
những người khác trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Từ những năm 1920 đến 1930, Buck Rogers
và Flash Gordon đã sử dụng súng bắn tia dễ gây chú ý nghệ thuật trong những chuyến phiêu lưu vũ
trụ của họ như thể hiện trong truyện tranh và trong phim ảnh. Năm 1951, con rô bôt quyền năng Gort
đã chiếu ra một tia hạ răm rắp những loại vũ khí đe dọa khác trong bộ phim Ngày Trái đất Vẫn Tồn
tại. Những màn trình diễn như vậy đã đưa những dụng cụ kiểu laser vào trong trí não của công
chúng ngay trước khi chúng được phát minh ra. Nhưng vào lúc Đế chế xấu xa trong bộ phim Chiến
tranh giữa các vì sao Phần IV: Niềm hi vọng mới (1977) sử dụng laser Ngôi sao Chết của nó để phá
hủy toàn bộ một hành tinh, thì các laser đã là cái của thực tế, chứ không chỉ trong truyện viễn tưởng
nữa. Các laser đang làm thay đổi cách chúng ta sinh sống, thỉnh thoảng theo những kiểu kịch tính
đến mức người ta có thể hỏi đâu là sự thật và đâu và viễn tưởng chứ?
Giống như truyện khoa học viễn tưởng, cơ sở vật lí thực của các laser có lịch sử dài ngày của
riêng nó. Một điểm xuất phát căn bản là năm 1917, khi Eistein, sau những thành công xuất chúng
của ông với thuyết tương đối và thuyết lượng tử ánh sáng, đã nêu ý tưởng sự phát xạ cảm ứng, trong
đó một photon cảm ứng một nguyên tử kích thích phát ra một photon giống hệt. Gần bốn thập kỉ sau
đó, trong những năm 1950, nhà vật lí người Mĩ Charles Townes đã sử dụng hiện tượng này để tạo ra
những vi sóng cường độ mạnh từ một môi trường phân tử giữ trong một cái hộp. Ông đã tóm tắt quá
trình cơ bản trên – sự khuếch đại vi sóng bằng sự phát bức xạ cảm ứng – trong tên gọi “maser”.
Sau khi Townes và người đồng nghiệp của ông, Arthur Schawlow, đề xuất một khuôn khổ
tương tự cho ánh sáng khả kiến, thì Theodore Maiman, thuộc Phòng Nghiên cứu Hughes ở
California, đã làm cho nó hoạt động. Năm 1960, ông đã khuếch đại ánh sáng đỏ bên trong một thỏi
ruby rắn để tạo ra laser đầu tiên. Tên gọi laser được đặt ra bởi Gordon Gould, một nghiên cứu sinh
tại trường đại học Columbia, ông đã dùng từ “maser” và thay thế “vi sóng” với “ánh sáng”, và sau
này nhận bằng phát minh cho những đóng góp của riêng ông cho ngành khoa học laser.
Sau minh chứng của Maiman cho laser đầu tiên, đã có nhiều sự hứng thú và hăng hái trong
lĩnh vực trên, và laser ruby sớm được tiếp nối bởi laser helium neon hay laser HeNe, phát minh tại
Phòng thí nghiệm Bell vào năm 1960. Có khả năng hoạt động như những đơn vị nhỏ, công suất thấp,
nó phát ra ánh sáng đều đặn, màu đỏ sáng, ở bước sóng 633 nm. Tuy nhiên, một loại laser còn dễ
thao tác hơn nữa được khám phá ra hai năm sau đó khi một nhóm nghiên cứu tại công ti điện
General Electric nhìn thấy hoạt động laser từ một diode điện chế tạo từ chất bán dẫn gallium
arsenide. Diode laser đầu tiên đó đã làm sinh sôi nảy nở cả một họ hàng đa năng, đa dụng của những
dụng cụ nhỏ bao quát một ngưỡng rộng bước sóng và công suất. Diode laser nhanh chóng trở thành
loại laser thịnh hành nhất, và vẫn dùng nhiều cho đến ngày nay – theo một khảo sát thị trường mới
đây, 733 triệu diode laser được bán ra vào năm 2004.
Khi những loại laser đa dạng có mặt trên thị trường, và những ứng dụng khác nhau dành cho
chúng được phát triển, thì những dụng cụ này đã đi vào đời sống của chúng ta đến mức đặc biệt khác
thường. Trong khi Maiman đã bị mất tinh thần rằng phát minh của ông lập tức bị gọi là “tia chết
chóc” trong một tít báo gây giật gân, thì các laser đủ mạnh được sử dụng làm vũ khí sẽ không có mặt
trong 20 năm sau đó. Thật vậy, những phiên bản thịnh hành nhất là những đơn vị nhỏ gọn thường
sản sinh ra chỉ hàng miliwatt.
Một thập kỉ rưỡi sau khi phát minh ra chúng, laser HeNe, và sau đó là diode laser, trở thành
cơ sở cho máy quét mã vạch – mẫu ghi điện toán hóa của vân trắng đen nhận dạng một sản phẩm
theo mã sản phẩm toàn cầu (UPC) của nó. Ý tưởng tự động hóa những dữ liệu như thế dùng trong
buôn bán và kiểm kê đã phát sinh từ những năm 1930, nhưng mãi cho đến năm 1974 thì máy quét
laser dịch vụ đầu tiên của một khoản ghi với một kí hiệu UPC – một gói kẹo cao su Wrigley – mới
xuất hiện tại quầy tính tiền siêu thị ở Ohio. Ngày nay được sử dụng rộng khắp trong hàng tá ngành
công nghiệp, các mã vạch được quét hàng tỉ lần mỗi ngày và được khẳng định đã tiết kiệm hàng tỉ đô
la mỗi năm cho các khách hàng, nhà bán lẻ, cũng như nhà sản xuất.
Trái: quét mã vạch. (Ảnh: Photolibrary). Phải: truyền thông tin qua sợi quang. (Ảnh: TEK Image/Science Photo Library)
Các laser cũng sẽ thống trị phương thức chúng ta truyền thông. Ngày nay, chúng nối kết
nhiều triệu máy tính trên khắp thế giới bẳng cách gửi những xung sáng bit nhị phân vào trong mạng
lưới sợi quang thủy tinh tinh khiết ở tốc độ hàng terabyte mỗi giây. Các công ti điện thoại bắt đầu
lắp đặt hạ tầng sợi quang vào cuối những năm 1970 và tuyến cáp quang xuyên đại dương đầu tiên
bắt đầu hoạt động giữa Mĩ và châu Âu vào năm 1988, với hàng chục nghìn kilomet cáp quang dưới
biển hiện hữu trên thế giới hiện nay. Mạng lưới toàn cầu này được kích hoạt bởi các diode laser,
chúng phân phối ánh sáng vào trong những sợi quang có đường kính lõi vài micromet ở những bước
sóng chỉ tắt đi trên những cự li xa. Trong vai trò này, laser đã trở thành không thể thiếu trong thế
giới đa liên kết của chúng ta.
Khi các laser ngày một trở nên quan trọng, thì các phiên bản viễn tưởng của chúng vẫn tiếp
tục chung sống hòa bình – và thậm chí còn củng cố thêm – với thực tại. Chỉ 4 năm sau khi laser
Laser đó chiếu ánh sáng màu đỏ để tăng thêm sự xúc cảm thị giác, nhưng khả năng cắt xuyên
kim loại của nó báo hiệu trước cho chùm hồng ngoại vô hình của laser carbon-dioxide (CO2) đầy sức
mạnh sau này – loại đã từng thiêu rụi cái áo sơ mi của tôi. Được phát minh ra vào năm 1964, laser
CO2 phát ra hàng trăm watt hoạt động liên tục được đưa vào làm công cụ cắt công nghiệp vào những
năm 1970. Ngày nay, những phiên bản kilowatt đã có để dùng, thí dụ như “hàn từ xa” trong ngành
công nghiệp ô tô, trong đó một chùm laser được điều khiển bằng cơ chế quang học có thể nhanh
chóng hoàn thành nhiều mối hàn kim loại cùng một lúc. Các laser công suất cao thích hợp cho
những nhiệm vụ công nghiệp đa dạng khác, và thậm chí dùng cho việc mở đai ốc.
Ngoài những công dụng hữu ích và thực tiễn của laser, chúng còn làm được những gì để
phục vụ chúng ta nữa? Trước hết, các laser có thể điều khiển chính xác các sóng ánh sáng, cho phép
sóng âm được ghi lại dưới dạng những vết nhỏ xíu trong định dạng kĩ thuật số và âm thanh được
chơi trở lại với độ trung thực cao. Vào cuối những năm 1970, hãng Sony và Philips đã bắt đầu phát
triển âm nhạc kĩ thuật số mã hóa trên những “đĩa compact” (CD) sáng bóng bằng plastic có đường
kính 12 cm. Các bit số được biểu diễn bằng những cái lỗ kích cỡ micromet khắc vào plastic và được
quét khi phát lại bằng một diode laser trong một máy hát CD. Trong hồi tưởng, công nghệ mới này
xứng đáng được tôn vinh với kèn trống nhạc họa của riêng nó, nhưng đĩa CD đầu tiên được công bố,
vào năm 1982, là album thương mại Đường số 52 của nghệ sĩ rock Billy Joel.
Vào giữa thập niên 1990, dung lượng 74 phút nhạc của các đĩa CD đã được mở rộng đáng kể
qua các đĩa số đa năng hay đĩa video kĩ thuật số (DVD) có thể chứa toàn bộ một bộ phim dài và chất
lượng cao. Năm 2009, các đĩa Blu-ray (BD) xuất hiện là một chuẩn mới có thể lưu trữ 50 gigabyte,
đủ để chứa một bộ phim với độ phân giải cao ngoại hạng. Sự khác biệt giữa những định dạng này là
bước sóng laser dùng để ghi và đọc chúng – 780 nm cho CD, 650 nm cho DVD và 405 nm cho BD.
Bước sóng càng ngắn cho các đốm laser giới hạn nhiễu xạ càng nhỏ, cho phép nhiều dữ liệu hơn gói
ghém vào một không gian cho trước.
Mặc dù cơn lốc download đã dẫn tới sự suy tàn của thị trường CD – 27% lợi tức âm nhạc hồi
năm ngoái là từ download kĩ thuật số - nhưng các laser vẫn cần thiết cho ngành giải trí của chúng ta.
Chúng mang âm nhạc, phim ảnh và mọi thứ tuôn tràn hoặc có thể tải xuống qua Internet và các kênh
viễn thông, lưu chúng vào trong máy vi tính, điện thoại thông minh và những dụng cụ kĩ thuật số
khác của chúng ta.
Trong số những bộ phim mà bạn có thể chọn để tải về trên Internet là một số phim trong đó
laser đóng vai trò là dụng cụ hủy diệt, kích thích ý nghĩ tiêu cực. Trong bộ phim Thiên tài Đích thực
(1985), một nhà khoa học kết nạp hai chàng sinh viên trẻ xuất sắc để phát triển một thứ vũ khí ám
sát bằng laser đặt trên máy bay dùng cho quân sự và CIA. Hai chàng sinh viên đã trả thù bằng cách
Quân đội Mĩ đã nghĩ tới các vũ khí laser trước khi có các laser CO2 công nghiệp công suất
cao có thể làm tan chảy kim loại. Khi Chiến tranh Lạnh làm tăng thêm những lo ngại về sự mâu
thuẫn toàn cục với Liên Xô, thì tiềm năng của một thứ vũ khí công nghệ cao mới đã thôi thúc Lầu
Năm góc tài trợ cho nghiên cứu laser ngay trước khi có kết quả của Maiman. Nhưng khó mà tạo ra
công suất chùm tia đủ mạnh với một dụng cụ có kích cỡ hợp lí – những laser CO2 sơ khai với công
suất phát hàng kilowatt to quá cỡ để dùng trên chiến trường. Cuối cùng, năm 1980, Laser Hóa học
Tiên tiến Hồng ngoại Trung đã đạt tới công suất xung hàng megawatt, nhưng vẫn là một thiết bị đồ
sộ. Tệ hơn nữa, sự hấp thụ và những hiệu ứng khí quyển khác làm cho chùm tia của nó mất hiệu quả
lúc nó đi tới mục tiêu.
Tuy nhiên, người ta bắt đầu quan tâm đến các laser chiếu lên không gian để phá hủy các tên
lửa đạn đạo liên lục địa có đầu đạn hạt nhân (ICBM) trước khi chúng đi trở vào khí quyển. Sự phát
triển các laser có sức mạnh thích hợp thí dụ như các laser phát ra tia X trở thành bộ phận của Sáng
kiến Phòng thủ Chiến lược chống ICBM (SDI) tiêu tốn nhiều tỉ đô la do Reagan đề xuất vào năm
1983. Được công chúng, cũng như các nhà khoa học và chính phủ, biết tới là “Chiến tranh giữa các
vì sao” thời hậu phim ảnh, kế hoạch trên phảng phất hương vị khoa học viễn tưởng không thể chối
cãi. Nhưng sự vũ trang hóa không gian của nước Mĩ chưa bao giờ được hiện thực hóa – vào những
năm 1990, những khó khăn kĩ thuật và sự sụp đổ của Liên Xô đã chuyển hướng các phát triển vũ khí
laser sang hướng khác. Giờ thì chủ yếu người ta tập trung vào những thứ vũ khí nhỏ hơn như các
laser gắn trên máy bay có tầm hoạt động hàng trăm kilomet.
Trong khi tính luân lí liên quan đến các loại vũ khí có thể là vấn đề gây tranh cãi, thì các
laser đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác tốt một cách không thể phủ nhận, thí dụ như trong y
khoa. Công dụng y khoa đầu tiên của laser là vào năm 1961, khi các bác sĩ tại Trung tâm Y khoa Đại
học Columbia ở New York phá hủy một khối u trên võng mạc của một bệnh nhân với một laser
ruby. Vì một chùm laser có thể đi vào mắt mà không gây thương tổn, nên chuyên khoa mắt đã được
hưởng lợi ích đặc biệt từ các phương pháp laser, nhưng tính đa dạng của chúng còn mang đến sự
chẩn đoán và điều trị bằng laser trong những lĩnh vực y khoa khác.
Sử dụng laser CO2 và những loại laser khác với bước sóng, mức độ công suất và tốc độ xung
biến thiên, các bác sĩ có thể làm bốc hơi chính xác khối u bướu, và còn có thể cắt khối u đồng thời
đốt nó để làm giảm sự thương tổn do phẫu thuật. Một thí dụ của công dụng y khoa là phẫu thuật
LASIK trong đó một chùm tia laser định hình lại giác mạc để khắc phục tật khúc xạ của mắt. Năm
2007, chừng 17 triệu người trên khắp thế giới đã trải qua thủ tục y khoa trên.
Trong khoa da liễu, các laser thường được sử dụng để điều trị các khối u da lành tính và ác
tính, và còn giúp cải thiện sắc đẹp như loại bỏ vết bớt hoặc những hình xăm không mong muốn.
Những công dụng y khoa khác đa dạng như điều trị các khối u não khó tiếp cận với ánh sáng laser
dẫn hướng bằng sợi quang, đả thông các tuyến ống bị tắt nghẽn hoặc bị hỏng và xử lí các đĩa thoát vị
để xoa dịu chứng đau bụng dưới, một thủ tục được thực hiện trên 500.000 bệnh nhân mỗi năm ở Mĩ.
Nhưng còn một mục tiêu cao cả nữa của việc sử dụng laser là trong nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng. Một thí dụ nổi tiếng là Thiết bị Đánh lửa Quốc gia (NIF) tại Phòng thí nghiệm
quốc gia Lawrence Livermore ở California, Mĩ. 192 chùm laser tử ngoại của NIF, chứa trong một
tòa nhà 10 tầng, cỡ bằng một sân vận động, được thiết kế để phân phối một xung laser ngắn cường
độ hàng trăm terawatt vào một viên nhiên liệu deutrium kích cỡ milimet. Người ta hi vọng thiết bị
này tạo ra được những điều kiện giống như những điều kiện bên trong một ngôi sao hay một vụ nổ
hạt nhân, cho phép nghiên cứu các quá trình thiên văn học lẫn các loại vũ khí hạt nhân.
Một mục tiêu được công chúng biết tới rộng rãi hơn là kích thích hạt nhân hydrogen để tổng
hợp thành helium, như cái xảy ra bên trong Mặt trời, để tạo ra năng lượng khổng lồ. Sau chừng 60
năm nỗ lực sử dụng các cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học vẫn chưa làm chủ được sức mạnh
nhiệt hạch để xây dựng các nhà máy điện công suất lớn hơn. Nếu sự nhiệt hạch bằng laser mang đến
thành công nguồn năng lượng không độc hại và vô tận này, thì chi phí vượt mức 3,5 tỉ đô la đầu tư
cho NIF là chẳng thấm vào đâu. Mặc dù một số người chỉ trích xem sự nhiệt hạch laser là cuộc đua
dài ngày trong vô vọng, nhưng nghiên cứu gần đây tại NIF đã hiện thực hóa một số bước ban đầu
của nó, làm tăng thêm lợi thế cho sự nhiệt hạch thành công.
Nền văn hóa công chúng còn hi vọng về vai trò của laser là nguồn năng lượng “xanh”. Mặc
dù bộ phim Phản ứng Dây chuyền (1996) chỉ trích khoa học một cách tồi tệ, nhưng nó thật sự thể
hiện một laser giải phóng những lượng khổng lồ năng lượng sạch từ hydrogen ở trong nước. Trong
bộ phim Người nhện 2 (2004), nhà vật lí tiến sĩ Octavius sử dụng laser để kích hoạt sự nhiệt hạch
hydrogen được cho là sẽ giúp ích cho nhân loại; thật không may, đây không phải sự quảng bá cho
những lợi ích của năng lượng nhiệt hạch, mà phản ứng ấy đã không kiểm soát được và phá hủy
phòng thí nghiệm của ông.
Nằm giữa những laser cực mạnh có khả năng kích thích sự nhiệt hạch và những đơn vị công
suất thấp tại các máy tính tiền là những laser với công suất trung bình có thể cung cấp những ứng
dụng dễ thấy trong nghệ thuật và giải trí, như các nghệ sĩ đã nhanh chóng hiện thực hóa. Một cuộc
triển lãm nghệ thuật laser đã được tổ chức tại Bảo tàng Nghệ thuật Cincinati hồi năm 1969, và năm
1971 một tác phẩm điêu khắc thực hiện từ các chùm laser đã là bộ phận của phòng trưng bày “Nghệ
thuật và Công nghệ” tại Bảo tàng Nghệ thuật Hạt Los Angeles. Năm 1970, nghệ sĩ danh tiếng người
Mĩ Bruce Nauman đã trình diễn "Making Faces", một loạt chân dung tự họa laser toàn kí, tại Bảo
tàng Nghệ thuật Finch College ở thành phố New York.
Các nghệ sĩ khác cũng nối tiếp sau đó, nhưng các laser rõ ràng có những hướng phát triển
rộng lớn hơn nữa. Bắt đầu vào cuối những năm 1960, các hệ quét chùm tia đã được phát minh ra,
cho phép các chùm laser sôi nổi nhảy theo điệu nhạc và để lại những hình ảnh nổi bật trong không
gian. Điều này đã dẫn tới những sô diễn thí dụ như tại Hội chợ quốc tế Expo ’70 ở Osaka, Nhật Bản,
và những trình diễn trong các cung thiên văn. Một loại âm nhạc “không gian” được yêu thích, giống
như trong Chiến tranh giữa các vì sao, đi cùng với các hiệu ứng laser.
Nghệ sĩ Hiro Yamagata đã liên hệ khoa học với nghệ thuật trong màn trình diễn “Photon 999” của ông, trong đó nhiều hệ
laser nhận chìm các khán giả trong một số diễn ánh sáng linh động. (Ảnh: Hiro Yamagata)
Đã 50 năm trôi qua, những màn trình diễn laser ngoạn mục tuy vậy vẫn còn gợi lên sự sợ hãi,
và các laser vẫn mang một sắc thái nhuốm màu khoa học viễn tưởng, như chứng minh bởi các nhà
đam mê chế tạo súng bắn tia giả từ các diode laser xanh lam. Thật không may, không khí thần bí ấy
còn thu hút các sản phẩm như cái gọi là laser hàn lạnh lượng tử, tên gọi của nó sử dụng thuật ngữ
khoa học để gây ấn tượng với khách hàng. Nhà sản xuất của nó, Scalar Wave Lasers, khăng khăng
cho rằng 16 diode laser đỏ và hồng ngoại của mình mang lại những lợi ích sức khỏe thật sự và sự trẻ
hóa. Thậm chí, từ “laser” còn thích hợp để nhấn mạnh tốc độ hay sức mạnh, thí dụ như loại thuyền
buồm nhỏ nổi tiếng hiệu Laser và các xe hơi thể thao Chrysler và Plymouth Laser được bán từ giữa
thập niên 1980 đến đầu thập niên 1990.
Các tính chất đặc trưng của laser còn được cất trữ trong ngôn ngữ. Từ khóa tìm kiếm của kho
cơ sở dữ liệu nghiên cứu đồ sộ Lexis Nexis Academic (chứa đựng hàng nghìn bài báo, dịch vụ điện
tín, bản thảo phát thanh và các nguồn tài nguyên khác) trong hai năm gần đây có tới gần 400 tham
khảo đến các cụm từ như “tập trung kiểu laser”, “chính xác kiểu laser”, “rõ ràng kiểu laser” và, trong
một mô tả của thủ tướng Nga Vladimir Putin thể hiện sự bực dọc của ông với một thương nhân đặc
biệt, “cái nhìn kiểu laser”.
Các laser có sức ảnh hưởng to lớn cả trong đời sống thường nhật và trong khoa học. Với các
maser, chúng là bộ phận của nghiên cứu, kể cả nghiên cứu ngoài khoa học laser, góp phần cho hơn
10 giải thưởng Nobel, bắt đầu với giải thưởng vật lí năm 1964 trao cho Charles Townes cùng
Alexsandr Prokhorov và Nicolay Basov cho công trình cơ bản của họ về laser. Những nghiên cứu
đạt giải Nobel khác bao gồm phát minh ra ảnh toàn kí và việc tạo ra ngưng tụ Bose-Einstein đầu
tiên, thực hiện bằng laser làm lạnh một đám mây nguyên tử xuống những nhiệt độ cực thấp. Đồng
thời, trong hàng tá ứng dụng từ quang phổ kế Raman cho đến quang học thích nghi dùng cho các
kính thiên văn, các laser liên tục đóng góp cho các phương pháp nghiên cứu khoa học. Chúng còn
thiết yếu cho nghiên cứu trong những lĩnh vực mới xuất hiện như sự rối lượng tử và làm chậm ánh
sáng.
Thật đáng tôn vinh trí tưởng tượng khoa học của các nhà tiên phong laser, cũng như sức hư
cấu văn chương của các nhà văn như H G Wells, nhờ đó mà một ý tưởng khoa học viễn tưởng cũ kĩ
đã đi trọn vẹn vào trong đời sống. Nhưng ngay cả những nhà văn có sức tưởng tượng phong phú
nhất cũng không thể nhìn thấy trước phát minh của Maiman sẽ làm thay đổi thị trường âm nhạc,
sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và hoạt động trong các siêu thị trên khắp toàn cầu.
Nhìn ở góc độ tác động văn hóa của laser, chí ít thì sự thật đã thật sự vượt ra ngoài tầm viễn tưởng.
Claire Max
Claire Max là nhà thiên văn học và là giám đốc Trung tâm Quang học Thích nghi tại trường Đại
học California, Santa Cruz, Mĩ.
Chúng ta ai cũng biết rằng các nhiễu loạn trong khí quyển làm cho các ngôi sao nhấp nháy,
nhưng nó còn làm mờ đi nghiêm trọng đối với các ảnh chụp thiên văn. Newton đã nhận ra điều này
tận hồi năm 1730, khi ông viết trong quyển Opticks rằng “Không khí mà qua đó chúng ta nhìn lên
các Ngôi sao, luôn luôn bị Rung động... Phương thức chữa duy nhất là Không khí trong trẻo nhất và
William D Phillips
William D Philips là một nhà vật lí tại Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia Hoa Kì (NIST) ở
Gaithersburg, Maryland, Mĩ. Ông đạt giải thưởng Nobel vật lí năm 1997 cùng với Claude Cohen-
Tannoudji và Steven Chu cho kĩ thuật làm lạnh và bẫy nguyên tử bằng ánh sáng laser.
Vào đầu những năm 1970, tôi là một nghiên cứu sinh trẻ trong nhóm nghiên cứu của Dan
Kleppner tại Viện Công nghệ Massachusetts, thực hiện một luận án liên quan đến việc tiến hành các
phép đo chính xác với một maser hydrogen từ trường cao (maser là tiền thân dạng vi sóng của laser,
cái ban đầu được gọi là “maser quang học”). Kleppner và Norman Ramsey đã phát minh ra một
phiên bản trường thấp của maser hydrogen trước đó hơn một thập kỉ, và phiên bản trường cao đang
tạo ra những phép đo chính xác không có tiền lệ của các mômen từ trong nguyên tử - một loại đỉnh
cao thuộc loại này của ngành vật lí nguyên tử.
Nhưng rồi xuất hiện một phát triển mới sẽ làm thay đổi xu hướng nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm của Dan, trong sự nghiệp của tôi và trong tổng thể ngành vật lí nguyên tử: laser thương mại,
sóng liên tục, màu tùy chỉnh đầu tiên. Môi trường phát laser trong những dụng cụ này là một chất
nhuộm hữu cơ phát ra trên một ngưỡng rộng bước sóng hơn, thí dụ, một laser helium-neon, trong đó
môi trường khuếch đại là một chất khí nguyên tử. Sự xuất hiện của những dụng cụ này có nghĩa là
ngay cả những người không phải chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế và chế tạo laser cũng có thể,
bằng cách điều khiển một laser đến một chuyển tiếp cộng hưởng nguyên tử, khảo sát một lĩnh vực
mới của việc thao tác trên nguyên tử nơi ánh sáng kết hợp là công cụ chủ chốt.
Hăm hở trước những món đồ chơi mới này, tôi nhờ Dan đề xuất một thí nghiệm nữa cho luận
án sử dụng laser. Ông đồng ý, và đề nghị tôi nghiên cứu các va chạm của các nguyên tử sodium
[natri] bị kích thích quang học. Tôi bắt đầu chế tạo thiết bị. Các sinh viên và nghiên cứu sinh hậu
tiến sĩ khác trong nhóm đồng thời bắt đầu những thí nghiệm mới. Mỗi số mới ra của các tạp chí
nghiên cứu mang đến số bài báo liên quan đến laser ngày một nhiều, và mỗi hội nghị lại chứng kiến
những bản báo cáo về những thí nghiệm laser mới.
Đối với tôi, sự nhộn nhịp mà tôi cảm nhận trong những năm 1970 ở phòng thí nghiệm của
Dan chưa bao giờ vơi đi. Những loại laser mới với bước sóng khác nhau, độ dài xung ngày càng
ngắn đi, công suất ngày một cao hơn, bề rộng phổ ngày một hẹp hơn và tính ổn định ngày một tốt
hơn làm cho những loại thí nghiệm mới đã có thể thực hiện được. Sự làm lạnh bằng laser của nhiều
loại nguyên tử và ion, cộng với những chiếc đồng hồ nguyên tử, phân tử lạnh khổng lồ gõ nhịp ở tần
số quang học, và các trạng thái phi cổ điển của ánh sáng chỉ là một số lộ trình trong đó các laser đã
dẫn hướng cho ngành vật lí nguyên tử, phân tử và quang học (AMO).
Ngoài ra, các laser còn cho phép các nhà vật lí AMO hiện thực hóa ngưng tụ Bose-Einstein,
để tạo ra những mạng quang và để nghiên cứu các chất khí Fermi cực lạnh. Mỗi một nghiên cứu
trong số này đã khắc sâu thêm các quan hệ giữa AMO và ngành vật lí vật chất ngưng tụ. Có thể các
laser và các nguyên tử lạnh sẽ giúp làm sáng tỏ một số vấn đề nổi cộm trong ngành vật chất ngưng
tụ, thí dụ như nguồn gốc của sự siêu dẫn nhiệt độ cao, và bản chất của các trạng thái Hall lượng tử
phân số vốn hữu ích cho lĩnh vực điện toán lượng tử.
Kể từ khi lần đầu tiên chúng có mặt trên thị trường, các laser đã củng cố và tăng cường thêm
sinh khí cho ngành vật lí nguyên tử, và sự phiêu lưu khám phá không có dấu hiệu ngừng lại.
Vật lí y sinh
Steven Block
Steven Block là một nhà sinh lí học tại trường đại học Stanford, California, Hoa Kì.
Hơn 10 năm qua, người ta đã có thể tiến hành những thí nghiệm trong lĩnh vực vật lí y sinh
mà trước đây chỉ là những giấc mơ hão huyền. Thí dụ, tôi làm việc trong một lĩnh vực gọi là sinh lí
học đơn phân tử. Trong lĩnh vực này, thách thức là nghiên cứu các phân tử của sự sống – các protein,
acid nucleic, carbohydrate và những hóa chất khác cấu tạo nên cơ thể chúng ta – theo kiểu đúng
Jeff Hecht
Jeff Hecht là nhà văn viết về khoa học và công nghệ, hành nghề tự do ở Auburndale, Massachusetts,
Mĩ, người đã quan tâm đến các vũ khí laser kể từ năm 1980.
Các loại vũ khí laser năng lượng cao – lâu nay vẫn là chất liệu của truyện khoa học viễn
tưởng – mới đây đã đạt tới điểm bước ngoặc. Nhưng đó không phải là thứ mà bạn trông đợi nếu bạn
có xem những đoạn clip mới của Boeing 747 trang bị laser bắn xuống một tên lửa mục tiêu hồi tháng
2 năm nay. Thay vào đó, quân đội Mĩ đang trong kế hoạch tập trung vào việc cản trở những đợt tấn
công từ những mục tiêu tầm ngắn như tên lửa, súng cối và đạn pháo binh.
136 Tuyển những bài báo vật lí hay Vol.3
Các vũ khí laser hiện đại có giấy khai sinh khoảng năm 1980, khi mục tiêu chính là phát triển
những hệ laser năng lượng cao có khả năng phá hủy các tên lửa phóng lên từ cách xa hàng trăm hoặc
hàng nghìn kilo mét. Thật vậy, chương trình "Star Wars" của tổng thống Mĩ Ronald Reagan đã chi
hàng tỉ đô la cho các kế hoạch xây dựng trạm chiến đấu laser trên quỹ đạo. Nhưng các trở ngại công
nghệ dai dẳng và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã làm thay đổi các nhu cầu. Kết quả là Airborne
Laser (ABL): một chiếc Boeing 747 được trang bị một laser hóa chất oxygen–iodine cỡ megawatt và
được thiết kế để bắn xuống các tên lửa phóng lên từ phía “kẻ thù”.
Nhưng vào tháng 5/2009, thư kí quốc phòng Mĩ Robert Gates báo cáo rằng ABL (lâu nay bị
chỉ trích vì bội chi ngân sách và thời gian) có tầm hoạt động chưa tới 140 km – quá ngắn cho cự li
tối thiểu theo kế hoạch là 200 km. Cho nên, sau nhiều lần thử (tiến hành bí mật), các nỗ lực đạt tới
công suất megawatt sẽ bắt đầu trở lại với các laser sử dụng hơi kim loại kiềm bơm diode. Các laser
thuộc loại này hiện chỉ phát ra hàng chục watt nhưng cuối cùng chúng có thể mang lại tỉ lệ công-
suất-trên-kích-thước lớn hơn so với ABL.
Cho đến khi những kế hoạch đó triển khai vào thực tế - nếu thành công – thì tương lai mới
chắc chắn cho các vũ khí laser sẽ là các laser rắn phát ra 100 kW hoặc lớn hơn trong một chùm tia
đều đặn hoặc dạng xung ngắn lặp lại tuần hoàn. Người ta đã chứng minh được rằng các laser họ
hàng kilowatt có thể làm nổ tung những thứ quân nhu chưa nổ trên chiến trường bằng cách chiếu vào
nó từ một khoảng cách an toàn. Hi vọng là các laser trong ngưỡng 100–400 kW cũng có thể phá hủy
các tên lửa, súng cối và đạn pháo ở khoảng cách lên tới vài km. Cự li gần của những mục tiêu này sẽ
làm dịu đi đáng kể những trở ngại đối với việc truyền chùm tia gây cồng kềnh cho các hệ thống
phòng thủ tên lửa gốc laser. Ngoài ra, bằng cách cho phát nổ các chất nổ trong không khí với laser
làm nóng, thay vì nã đạn vào chúng, các vũ khí laser có thể làm giảm mức “thiệt hại phụ” cho quân
lính và những người không tham gia chiến trận.
Tháng 3/2009, kẻ khổng lồ quốc phòng Mĩ Northrop Grumman đã báo cáo sự phát xạ liên tục
hơn 100 kW trong 5 phút từ một laser bơm diode trong phòng thí nghiệm. Tháng 2 năm nay, Hệ
thống Textron đã đạt tới mục tiêu ngang ngửa như vậy với thiết kế riêng của mình. Đây là những
công suất phát liên tục cao nhất từng đạt được đối với một laser rắn. Bước tiếp theo sẽ là thiết kế một
laser 100 kW hoạt động trên tàu biển, xe tải và máy bay. Quân đội Mĩ đang di chuyển dụng cụ của
Northrop Grumman đến Cơ sở Kiểm tra Hệ thống Laser Năng lượng cao ở Bãi thử Tên lửa Cát trắng
(White Sands), New Mexico, nơi theo kế hoạch sẽ thử một phiên bản di động lắp đặt trên một cỗ xe
chiến đấu hạng nặng. Một cơ quan quốc phòng khác, DARPA, hiện đang chế tạo một laser rắn hạng
nhẹ 150 kW dùng cho máy bay chiến đấu, còn Hải quân Mĩ thì đang trong kế hoạch kiểm tra các vũ
khí laser tương tự ở trên biển.
Các laser sử dụng trong những dự án này đánh dấu một sự khởi đầu hoàn toàn mới trong thiết
kế vũ khí laser. Các laser loại vũ khí trước đây được cấp nhiên liệu hóa chất, nhưng các tướng lĩnh
không muốn dùng chúng trên chiến trường vì việc xử lí các nhiên liệu hóa chất đòi hỏi các vấn đề
hậu cần phức tạp. Họ cũng muốn các laser có thể được cấp nguồn bằng các máy phát diesel. Nhưng
vẫn còn đó những thách thức ghê gớm, bao gồm sự thiệt hại đối với bản thân laser, nhu cầu hoạt
động trong môi trường chiến trường mờ mịt bụi bặm và chi phí cao ngất trời của những dụng cụ trên.
Việc hạ gục một vài tên lửa thử sẽ thật dễ dàng. Việc thao tác kĩ thuật trên các laser di động
hoạt động xác thực ở những nơi lộn xộn, nơi người ta bắn vào chúng, mới là vấn đề khó nuốt hơn
Laser electron tự do
John Madey
John Madey là giám đốc phòng thí nghiệm FEL tại trường đại học Hawaii, Mĩ, và đã đóng góp cho
sự phát triển của laser electron tự do.
Giống như mọi laser, laser electron tự do (FEL) hoạt động trên nguyên tắc phát xạ cảm ứng
để khuếch đại một chùm ánh sáng khi nó đi qua một vùng không gian. Nói cách khác, khi các
electron chuyển động từ một trạng thái năng lượng cao sang trạng thái năng lượng thấp, thì chúng
phát ra các photon ánh sáng có bước sóng đồng loạt giống hệt nhau và chuyển động cùng hướng với
nhau. Nhưng không giống như các chuyển tiếp giữa các trạng thái điện tử liên kết trong những laser
khác, FEL khai thác một trong những khám phá chủ chốt khác của Einstein – thuyết tương đối đặc
biệt – để cung cấp bức xạ điện từ tùy chỉnh từ một chùm electron tự do tương đối tính khi chúng
chuyển động qua một từ trường tuần hoàn nằm ngang trong không gian.
Theo thuyết tương đối đặc biệt, các electron nhận một trường như vậy là một sóng mạnh
đang lan truyền trong hệ quy chiếu nghỉ của chúng, với một bước sóng giảm tỉ lệ với động năng của
chúng. Các photon bị tán xạ bởi các electron phát ra từ xung này theo hướng chuyển động của chúng
bị giảm bước sóng một lần nữa khi nhìn từ hệ quy chiếu phòng thí nghiệm. Kết quả là các electron
với động năng 50 MeV phát ra bức xạ hồng ngoại gần khi chuyển động qua một trường có chu kì
tuần hoàn 2 cm. Ánh sáng có bước sóng dài hơn hoặc ngắn hơn có thể được tạo ra đơn giản bằng
cách biến đổi năng lượng của các electron. FEL có thể cung cấp đều đặn ánh sáng laser với khoảng
1% công suất tức thời của chùm electron – hàng megawatt hoặc lớn hơn – và độ dài xung của chúng
có thể biến thiên từ chưa tới một pico giây đến hoạt động sóng liên tục hoàn toàn. Sự kết hợp pha
đặc biệt cũng có thể thu được qua việc sử dụng các hệ cộng hưởng giao thoa thích hợp.
Những nỗ lực nghiêm túc nhằm khảo sát các ứng dụng khả dĩ của FEL đã bắt đầu không bao
lâu sau khi các đồng nghiệp và tôi tại trường đại học Stanford chứng minh thành công các bộ khuếch
đại và dao động tử FEL bước sóng quang đầu tiên, tương ứng vào năm 1974 và 1976. Tâm điểm tập
trung kể từ đó là sử dụng FEL để làm những việc khó thực hiện bằng những phương tiện khác. Có lẽ
ứng dụng được biết tới nhiều nhất là phát ra các xung tia X tùy chỉnh, công suất đỉnh cao, kết hợp,
cỡ femto giây, ở năng lượng trên 1 keV dể thực hiện các nghiên cứu cấu trúc và chức năng phân giải
Eric Gustafson
Eric Gustafson hiện làm việc tại Viện Công nghệ California, Hoa Kì, và đứng đầu nhóm khoa học
thiết bị của đài thiên văn sóng hấp dẫn LIGO.
Thường được xem là “những gợn sóng trong không-thời gian”, sóng hấp dẫn sinh ra trong
những sự kiện thiên văn vật lí cực kì dữ dội trong đó vận tốc của các vật như sao neutron hoặc lỗ đen
thay đổi những lượng thật sự bằng vài phần của tốc độ ánh sáng trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Việc dò tìm các sóng ấy là một nhiệm vụ đầy thử thách vì, đối với các máy dò đặt trên mặt đất,
những biến đổi này đối với vận tốc xảy ra trên quy mô thời gian từ một phần của một mili giây cho
đến vài chục mili giây. Việc đo những thăng giáng nhỏ xíu này trong sự cong của không-thời gian
đòi hỏi sử dụng các giao thoa kế laser rất nhạy, trong đó các chùm ánh sáng truyền xuống các cánh
tay vuông góc của thiết bị, phản xạ khỏi các gương nằm tại cuối mỗi cánh tay và sau đó quay trở lại
giao thoa với nhau. Ý tưởng là một sóng hấp dẫn đi qua sẽ làm thay đổi hình ảnh giao thoa theo một
kiểu đặc trưng.
Khi công nghệ laser phát triển, các laser sử dụng trong các thí nghiệm sóng hấp dẫn đã thay
đổi theo với nó. Thí nghiệm giao thoa kế đầu tiên được thiết kế để dò tìm những sóng này, do Robert
Forward tại Phòng nghiên cứu Hughes ở California xây dựng vào đầu những năm 1970, sử dụng một
laser helium-neon 75 mW và có kích cỡ bằng một bàn cờ. Rồi với độ nhạy ấn tượng của dụng cụ
này, việc đo những chuyển dịch dao động nhỏ nhất đã từng phát hiện với một laser tính cho đến nay:
1,3 × 10–14 m Hz–1/2 – tương đương với việc đo những biến đổi chưa tới 2 mm trong khoảng cách từ
Trái đất đến Mặt trời. Tuy nhiên, các tính chất cỡ công suất nghèo nàn của laser helium–neon khiến
nó không có tương lai trong giao thoa kế sóng hấp dẫn ngoài các thí nghiệm trên bàn.
Trong thập niên 1980, một vài nhóm trên khắp thế giới đã xây dựng các giao thoa kế trong
các hệ chân không cực cao, với hệ thống quang của chúng treo lơ lửng để cách li chúng khỏi sự
nhiễu nền. Những thí nghiệm này có kích thước từ một đến vài chục mét và sử dụng các laser ion
argon, chúng hoạt động ở bước sóng 514 nm và công suất phát vài watt. Các giao thoa kế như vậy
thường được thiết kế ra để nghiên cứu những vấn đề đặc biệt trong giao thoa kế sóng hấp dẫn, thí dụ
như so sánh các cấu hình quang khác nhau, tìm các phương thức điều khiển hệ thống quang lơ lửng
và mô tả đặc trưng sự nhiễu ở các hệ con như các gương, và phát triển các tín hiệu điều khiển chiều
dài và canh chỉnh cho hệ thống quang treo lơ lửng.
Thật không may, các ống plasma sử dụng trong các laser ion argon, cùng với nước làm nguội
mà chúng cần, tạo ra mức cao của sự nhiễu tần số laser. Ngoài ra, thời gian sống tương đối ngắn của
140 Tuyển những bài báo vật lí hay Vol.3
những ống này khiến chúng không thực tế cho sử dụng trong đài thiên văn. Cuối cùng, công suất
phát của các laser trên – trong khi cao hơn laser helium-neon – là nhỏ so với cỡ hàng trăm watt mà
các máy dò tiên tiến hơn đòi hỏi, nhờ thực tế là ở các tần số cao, độ nhạy của máy dò bị hạn chế bởi
sự nhiễu bắn phá.
Vào thập niên 1990, khi nhóm hiện nay của các đài thiên văn cỡ km (LIGO ở Mĩ, VIRGO ở
Italy và GEO ở Đức) đã và đang được lên kế hoạch và triển khai xây dựng, các laser bán dẫn bơm
diode đã có sẵn trên thị trường. Những laser này không chỉ có mức nhiễu tần số thấp hơn nhiều so
với các laser ion argon, mà chúng còn có tiềm năng tạo ra công suất cao hơn nhiều. Thoạt đầu, công
suất phát cực đại của chúng là khoảng 10 W, nhưng các laser bơm diode cải tiến và sử dụng các dao
động tử công suất bơm-khóa hoặc các cấu hình dao động tử chủ - bộ khuếch đại công suất biến các
laser loại 100 W sẵn sàng cho một thế hệ mới của các giao thoa kế. Những giao thoa kế mới này sẽ
đưa vào sử dụng trong vài năm tới tại LIGO và VIRGO, và sẽ sử dụng các laser 200 W. Đồng thời,
GEO sẽ sử dụng một kĩ thuật ánh sáng nén để tạo ra hiệu suất nhiễu tốt hơn ở mức công suất laser
thấp. Đối với các thiết bị đặt trên không gian như Anten Vũ trụ Giao thoa kế Laser (LISA), các laser
bán dẫn bơm diode được chọn không phải vì tiềm năng công suất cao của chúng, mà vì hiệu suất và
tính xác thực rất cao của chúng, các đặc điểm đặc biệt quan trọng cho một sứ mệnh đặt trên không
gian.
Không rõ chính xác thì những laser nào hoặc những bước sóng nào sẽ là cần thiết cho các
máy dò đặt trên mặt đất trong tương lai. Chúng ta có thể thấy những bước sóng hơi dài hơn một chút
được chọn có thể dùng với các vật liệu làm chất gương mới hoạt động ở 1064 nm; hoặc chúng ta có
thể thấy những bước sóng ngắn hơn cho phép chúng ta sử dụng các lớp tráng gương mỏng hơn, do
đó làm giảm sự nhiễu nhiệt sinh ra. Có lẽ khi các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm kiếm bước sóng “thích
hợp” để tối ưu hóa độ nhạy, thì chúng ta sẽ thấy chúng ta cần những bước sóng chỉ có thể được tạo
ra qua sự biến đổi tần số phi tuyến của các laser bán dẫn – và vì thế sự chọn lựa các laser của chúng
ta có thể tiếp tục phát triển.
Trần Nghiêm dịch, theo Physics World, tháng 5/2010
Ảnh nhìn bên trong buồng bia tại Cơ sở Đánh lửa Quốc gia Hoa Kì. (Ảnh: Cơ sở Đánh lửa
Quốc gia Hoa Kì)
Ba ngày sau khi Theodore Maiman chứng minh được laser ruby đầu tiên của tại phòng thí
nghiệm của ông ở Malibu, California, vào tháng 5/1960, một nhà khoa học làm việc cách đấy vài
dặm đường tại Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore đã đi đến ý tưởng sử dụng laser kể
khai thác nguồn năng lượng của các sao. Mặc dù các chi tiết cụ thể của dụng cụ của Maiman sẽ
không xuất hiện trong vài tuần, nhưng các nhà khoa học đã biết rằng khả năng tập trung năng lượng
của laser trong thời gian và không gian sẽ là không có tiền lệ. Một nhà khoa học Livermore tự hỏi,
không biết có thể sử dụng laser để hợp nhất các nguyên tử nhỏ lại với nhau để tạo ra một nguyên tử
nặng hơn, bền hơn – đồng thời giải phóng những lượng lớn năng lượng trong quá trình đó?
Do mức độ giữ kín bí mật thịnh hành khi ấy về vật chất nguyên tử, nên mất thêm 12 năm nữa
thì nhà khoa học trong câu hỏi, John Nuckolls, mới công bố rõ ràng các ý tưởng của ông về sự nhiệt
hạch bằng laser trước cộng đồng khoa học rộng rãi hơn. Viết trên tạp chí Nature, Nuckolls và các
đồng sự của ông giải thích rằng để cho cơ cấu của họ hoạt động, thì phải xây dựng một laser cỡ lớn –
loại có thể nén và làm nóng nhiên liệu nhiệt hạch đến nhiệt độ 108 K và mật độ gấp 1000 lần mật độ
chất lỏng, các điều kiện vượt cả những cái tìm thấy tại tâm của Mặt trời.
Đội của Nuckolls tiên đoán rằng một laser với năng lượng 1 kJ và độ dài xung vài ba nano
giây sẽ là đủ để kích hoạt quá trình trên, mặc dù một laser lớn hơn nhiều (một vài mega jun, như ước
tính) sẽ là cần thiết để tạo ra công suất thực. Thật không may, những thí nghiệm này chứng tỏ rằng
Cơ sở Đánh lửa Quốc gia Hoa Kì (NIF) là laser lớn nhất thế giới. Đặt tại Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence
Livermore ở California, nó chiếm 70,000 m2 (xấp xỉ hai sân bóng đá) và chứa 8000 đơn vị quang cỡ lớn (mỗi đơn vị
đường kính 1m) và 30.000 đơn vị quang nhỏ hơn. Những bộ phận này và bộ phận khác được chứa trong chừng 6000 đơn
vị dạng mô đun có thể thay thế nhanh chóng khi cần thiết để đảm bảo sự hoạt động liên tục của cơ sở.
Phối hợp với nhau, 192 chùm laser của cơ sở có thể phân phát 1,8 MJ năng lượng với công suất kết hợp 500 TW
(500 × 1012 W). Giá trị này bằng khoảng 40 lần công suất tiêu thụ trung bình của toàn thế giới, và lớn hơn vài lần so với
công suất của toàn bộ ánh sáng mặt trời rơi lên Trái đất. Tất nhiên, công suất này chỉ tồn tại trong một vài nano giây,
nên nó chỉ chứa một lượng năng lượng không đáng kể. Nhưng khi năng lượng này được phân phát qua nhiều đường
truyền của gian sảnh dài 100 m và tập trung xuống cỡ mili mét tại chính giữa của “buồng bia” đường kính 10 m, thì nó
đủ để tạo ra các sóng xung kích với áp suất hàng chục triệu atmosphere.
Áp suất này làm cho viên nhiên liệu nổ tung, buộc các nguyên tử deuterium và tritium bên trong hợp nhất lại với nhau.
Để xảy ra như vậy đòi hỏi rất nhiều nỗ lực; chẳng hạn, buồng bia phải giữ chân không để cho phép laser tập trung vào
những đốm đường kính chỉ 1 mm, và bản thân viên nhiên liệu phải cực kì tròn và nhẵn, vì bất kì khiếm khuyết nào cũng
sẽ khuếch đại theo hàm mũ sau khi nổ.
Ảnh: Cơ sở Đánh lửa Quốc gia Hoa Kì
Con đường laser dẫn đến sự nhiệt hạch kết hợp chặt chẽ với hai trong số những đóng góp nổi
tiếng nhất của Einstein cho khoa học: giải thích của ông về sự phát xạ cảm ứng; và sự định lượng
của ông về sự tương đương của khối lượng và năng lượng. Cách tiếp cận cơ bản là một hệ xoay vòng
trong đó các viên nhiên liệu deuterium–tritium cỡ bằng bi ổ được đưa vào chính giữa một cái buồng
chân không, lớn. Một số chùm laser mạnh được sử dụng để nén nhiên liệu đến mật độ 1000 g cm–3,
hay khoảng bằng 100 lần mật độ của chì, trong vài phần triệu của một phần triệu của một giây (10-12
s). Tất nhiên, viên nhiên liệu mật độ cao này sau đó sẽ bị thổi tung ra – nhưng không tức thì. Nó sẽ
kiên trì ở mật độ cao trong khoảng thời gian được xác định bởi quán tính của nó và được đặc trưng
bởi thời gian cần thiết cho một sóng âm truyền qua đơn vị nổ. Hiện tượng “tự giam cầm” này đưa
đến quá trình gọi là “nhiệt hạch giam cầm-quán tính”, và nó cho hệ thời gian vừa đủ để cho phép
một phần nhiên liệu (thường khoảng 30%) thật sự biến đổi thành helium và neutron.
Phản ứng nhiệt hạch đầu tiên tạo ra một ion helium để lại năng lượng của nó trong phần
nhiên liệu lân cận, nhờ đó cho phép nhiệt độ cao được duy trì và phản ứng nhiệt hạch lan truyền qua
khối nhiên liệu. Tuy nhiên, neutron năng lượng cao thì thoát ra, vì nó chỉ tương tác yếu với plasma
tích điện. Năng lượng của neutron, do đó, mang vào một “tấm chăn” vật liệu dày bao xung quanh
buồng tương tác, làm nóng tấm chăn đó lên khoảng 1000 K. Trong nhà máy điện nhiệt hạch, quá
Cơ sở Đánh lửa Quốc gia (NIF) được thiết kế để cung cấp bằng chứng khoa học rằng các laser cỡ lớn có thể đánh lửa
và châm ngòi một viên nang nhiên liệu nhiệt hạch, sản sinh “năng lượng nhiệt hạch ra” gấp 10 đến 100 lần so với lượng
“năng lượng laser vào” cần thiết để khởi phát phản ứng. Để khai thác năng lượng này làm một nguồn điện, các laser tại
NIF sẽ phải hoạt động khoảng 10 lần mỗi giây, với mỗi chùm phân phối một công suất trung bình 10-100 kW và hiệu
suất laser (được định nghĩa là “điện năng vào” trên mỗi “năng lượng laser ra”) khoảng 10%. Những mức cao như vậy
không thể thực hiện tại NIF, nơi hiệu suất laser chưa tới 1% và công suất trung bình chỉ xấp xỉ 1 W.
Tuy nhiên, các công nghệ laser hiện nay cho thấy có khả năng cải thiện những con số này.
NIF sử dụng công nghệ đèn flash để bơm các bộ khuếch đại của nó – các dụng cụ biến đổi ánh sáng
“bình thường” không kết hợp thành chùm laser năng lượng cao qua quá trình phát xạ cảm ứng. Các
bộ khuếch đại bán dẫn bơm bằng diode laser, trái lại, đã được chứng tỏ hoạt động được tới 100 kW
với hiệu suất lớn hơn 10%, mặc dù hiện nay chúng được tối ưu hóa cho chế độ hoạt động sóng liên
tục, chứ không phải dạng xung. Các hệ laser xung tiên tiến hiện nay hoạt động ở mức kilowatt. Ảnh
trên cho thấy một hệ laser xung tại cơ sở Laboratoire pour l'Utilisation des Lasers Intenses của Pháp,
nhìn qua hệ thống quang hội tụ và dẫn hướng đến bộ khuếch đại được bơm phía trước.
Bill Shankly, cựu quản lí của câu lạc bộ bóng đá Liverpool, từng nói: “Bóng đá không phải là
cuộc sống hay cái chết. Nó còn quan trọng hơn cả thế”. Tháng này tại World Cup ở Nam Phi, hàng
triệu người hâm mộ bóng đá sẽ chia sẻ cảm giác tương tự trong vài một vài tuần lễ ngắn ngủi. Rồi sự
kiện ấy sẽ đi qua, và tất cả những gì còn lại sẽ là một vài lần nhắc lại trên truyền hình và sự tranh
luận không ngớt về cái có thể đã xảy ra. Ở khía cạnh này của bóng đá những người hâm hộ thấy
thích, thì những người khác lại không thích. Quả phạt penalty đó có đúng không? Nếu một cầu thủ
nào đó không rời sân thì sao? Cục diện mùa giải sẽ thế nào nếu cú sút ấy không bị bật trúng xà
ngang mà bay thẳng vào trong lưới?
Roberto Carlos của đội Brazil ghi bàn trong trận đấu với Pháp với cú sút hoàn hảo. (Ảnh: Press Association)
Rõ ràng Carlos đã tập luyện cú đá này vô số lần trong các buổi tập. Anh biết bằng trực giác
làm thế nào đánh lượn quả bóng bằng cách đá vào nó ở một vận tốc đặc biệt và với một chuyển động
xoay đặc biệt. Tuy nhiên, có lẽ anh không biết cơ sở vật lí ẩn sau cú đá ấy.
Khí động lực học của các quả cầu thể thao
Lời giải thích đầu tiên của sự lệch theo phương ngang của một vật đang quay tròn được
Rayleigh ghi nhận là công trình do nhà vật lí người Đức Gustav Magnus thực hiện vào năm 1852.
Thật ra thì Magnus đã cố gắng xác định nguyên do vì sao các quả đạn pháo và đạn súng đang xoay
tròn bị lệch sang một bên, nhưng lời giải thích của ông chỉ áp dụng tốt cho các quả cầu. Thật vậy, cơ
chế cơ bản của một quả bóng uốn cong trên sân bóng đá hầu như giống hệt như những môn thể thao
khác như bóng rỗ, golf, cricket, và tennis.
Ảnh nhìn từ trên xuống của một quả bóng đá đang xoay tròn xung quanh một trục vuông góc với dòng không khí băng
qua nó. Không khí chuyển động nhanh hơn so với phần giữa quả bóng nơi ngoại vi của quả bóng đang chuyển động theo
cùng chiều với dòng không khí (trái). Điều này làm giảm áp suất, theo nguyên lí Bernoulli. Áp suất tăng lên ở phía bên
kia của quả bóng, nơi không khí chuyển động chậm hơn so với phần giữa của quả bóng (phải). Do đó, có một sự mất cân
bằng lực, và quả bóng bị lệch theo cùng chiều như chuyển động quay – từ phía dưới bên phải sang phía trên bên trái. Lực
nâng này còn gọi là “lực Magnus”, mang tên nhà vật lí người Đức thế kỉ 19 Gustav Magnus.
Các lực tác dụng một quả bóng xoay tròn đang bay trong không khí thường chia làm hai loại:
một lực nâng và một lực kéo theo. Lực nâng hướng lên trên hoặc các lực hướng sang bên là nguyên
nhân cho hiệu ứng Magnus. Lực kéo theo tác dụng theo hướng ngược lại với đường đi của quả bóng.
Chúng ta hãy tính các lực tác dụng trong một cú sút. Giả sử tốc độ của quả bóng là 25-30 ms-
1
(khoảng 70 dặm/giờ) và chuyển động quay là khoảng 8-10 vòng/giây, thì lực nâng thành ra là
khoảng 3,5 N. Luật thi đấu quy định rằng một quả bóng đá chuyên nghiệp phải có khối lượng 410-
450 g, nghĩa là nó gia tốc khoảng 8 ms-2. Và vì quả bóng trong 1 s bay đi được 30 m trên quỹ đạo
của nó, nên lực nâng có thể làm quả bóng lệch đi đến 4 m khỏi đường đi thẳng ban đầu của nó. Thế
là đủ để gây rắc rối cho các tay thủ môn rồi!
Hệ số kéo theo của một quả cầu vẽ theo số Reynold – một thông số không chiều liên quan đến cả vận tốc và đường kính
của quả cầu. Hệ số kéo theo giảm đột ngột khi dòng không khí tại bề mặt của quả cầu thay đổi từ chảy thành lớp sang
chuyển động xoáy. Vị trí của điểm gián đoạn phụ thuộc vào độ gồ ghề của bề mặt quả cầu. Các quả bóng đá thì tương
đối nhẵn và vì thế cần phải đá tương đối mạnh để thu đủ tốc độ để chuyển động trong pha xoáy.
Khi dòng không khí ở ngoài quả bóng chuyển động xoáy, thì lớp ranh giới dính vào quả bóng gần như cho đến khi không
khí đã hoàn toàn đi qua khỏi quả bóng. Điều này mang lại sự phân tách muộn và một lực kéo theo nhỏ.
Khi dòng không khí chảy thành lớp và hệ số kéo theo cao, lớp ranh giới của không khí trên
bề mặt của quả bóng “tách khỏi” tương đối sớm khi nó chảy qua quả bóng, tạo ra các xoáy cuộn ở
phía sau nó. Tuy nhiên, khi dòng không khí chuyển động xoáy, thì lớp ranh giới bám vào quả bóng
lâu hơn. Điều này mang lại sự phân tách muộn và một lực kéo theo nhỏ.
Số Reynold tại đó hệ số kéo theo giảm, do đó, phụ thuộc vào độ gồ ghề bề mặt của quả cầu.
Chẳng hạn, các quả bóng golf, có lỗ khoét sâu, có độ gồ ghề bề mặt khá cao và hệ số kéo theo giảm
tại một giá trị số Reynold tương đối thấp (~2 × 104). Tuy nhiên, một quả bóng đá thì nhẵn hơn quả
bóng golf và sự chuyển tiếp tới hạn đó đạt được ở một giá trị số Reynold cao hơn nhiều (~4 × 105).
Kết quả của tất cả những điều này là một quả bóng đá đang chuyển động chậm chịu một lực
hãm tương đối cao. Nhưng nếu bạn có thể đá quả bóng đủ nhanh đến mức dòng không khí phía phía
ngoài nó chuyển động xoáy, thì quả bóng chịu một lực hãm nhỏ. Vì thế, một quả bóng đá đang
chuyển động nhanh làm tăng gấp đôi sự rắc rối cho tay thủ môn muốn bắt lấy nó – không những là
quả bóng đang chuyển động ở tốc độ cao, mà nó còn không chậm lại nhiều như người ta có thể trông
đợi. Có lẽ những tay thủ môn cừ khôi nhất bằng trực giác hiểu nhiều cơ sở vật lí hơn cái họ biết.
Năm 1976, Peter Bearman và các đồng nghiệp ở trường Imperial College, London, đã thực
hiện một loạt thí nghiệm cổ điển trên các quả bóng golf. Họ nhận thấy việc tăng chuyển động quay
trên quả bóng tạo ra một hệ số nâng cao hơn và vì thế lực Magnus lớn hơn. Tuy nhiên, việc tăng tốc
độ với một chuyển động quay cho trước làm giảm hệ số nâng. Ý nghĩa mà điều này mang lại đối với
một quả bóng đá là một quả bóng đang chuyển động chậm với chuyển động quay nhanh sẽ có lực
sang bên lớn hơn so với một quả bóng đang chuyển động nhanh với chuyển động quay bằng như
vậy. Cho nên, khi quả bóng chuyển động chậm xuống tới cuối quỹ đạo của nó, thì độ cong [quỹ đạo]
trở nên rõ nét hơn.
Tất cả những điều này giải thích như thế nào về cú sút của Roberto Carlos? Mặc dù chúng ta
không thể chắc chắn hoàn toàn, nhưng sau đây có lẽ là lời giải thích hợp lí của cái đã diễn ra.
Carlos đã vào quả bóng với má ngoài chân trái của anh để làm cho nó quay tròn ngược chiều
kim đồng hồ theo hướng anh nhìn xuống nó. Thời tiết khô ráo, nên lượng chuyển động quay mà anh
trao cho quả bóng là cao, có lẽ hơn 10 vòng/giây. Việc đá nó với má ngoài bàn chân cho phép anh đá
quả bóng thật mạnh, có lẽ hơn 30 ms-1. Dòng không khí phía ngoài bề mặt quả bóng bị xoáy, gây
cho quả bóng một lực kéo theo tương đối thấp. Đi vào quỹ đạo của nó – có lẽ khoảng tại vạch 10 m
(hoặc khoảng tại vị trí của hàng rào hậu vệ) – vận tốc của quả bóng giảm nên nó đi vào chế độ chảy
thành lớp. Điều này về cơ bản làm tăng lực kéo theo tác dụng lên quả bóng, làm cho nó chậm đi nữa.
Sự chậm đi này cho phép lực Magnus hướng sang bên, lực đang bẻ quả bóng về hướng khung thành,
tham gia vào hiệu ứng. Giả sử lượng chuyển động quay không bị mất quá nhiều, thì hệ số kéo theo
tăng lên. Điều này gây ra lực hướng sang bên còn lớn hơn nữa và làm cho quả bóng bẻ cong hơn
nữa. Cuối cùng, khi quả bóng chậm lại, độ cong ấy còn rõ nét hơn (có lẽ do sự tăng hệ số nâng) cho
đến khi nó chạm vào lưới khung thành – trước sự hân hoan của các nhà vật lí trong đám đông khán
giả.
Có nhiều nghiên cứu về bóng đá hơn việc chỉ đơn giản nghiên cứu chuyển động của quả cầu
đang bay. Các nhà nghiên cứu còn háo hức tìm hiểu xem một cầu thủ thật ra đá quả bóng như thế
nào. Chẳng hạn, Stanley Plagenhof tại Đại học Massachusetts ở Mĩ đã nghiên cứu động học của cú
sút – nói cách khác, bỏ qua các lực có liên quan. Các nhà nghiên cứu khác, như Elizabeth Roberts
cùng các cộng sự tại Đại học Wisconsin, thì thực hiện các phân tích động lực học của cú sút, tính
đến các lực có liên quan.
Những cách tiếp cận thực nghiệm này đã mang lại một số kết quả thú vị, mặc dù nhiều thách
thức vẫn còn đó. Một trong những trở ngại quan trọng nhất là sự khó khăn của việc đo chuyển động
vật lí của con người, một phần vì chuyển động của họ quá khó tiên đoán trước. Tuy nhiên, những
tiến bộ gần đây trong việc phân tích chuyển động với sự hỗ trợ của máy tính đã thu hút nhiều sự chú
ý vào khoa học thể thao, và, với sự hỗ trợ của các phương pháp khoa học mới, hiện nay người ta đã
có thể thực hiện các phép đo chính xác ở mức hợp lí của chuyển động của con người.
Thí dụ, hai trong các tác giả (TA và TA) và một đội nghiên cứu tại Đại học Yamagata ở Nhật
Bản đã sử dụng một phương pháp khoa học điện toán phối hợp với các phương pháp động lực học
mang tính truyền thống hơn để mô phỏng cách thức các chân sút đá vào quả bóng. Những mô phỏng
này đã cho phép tạo ra các cầu thủ bóng đá “ảo” thuộc những hạng khác nhau – từ những mới tập
chơi và trẻ con cho đến giới chuyên nghiệp – để chơi trong không gian và thời gian ảo trên máy tính.
Các nhà sản xuất dụng cụ thể thao, như ASICS Corporation, hãng tài trợ cho dự án Yamagata, cũng
thấy hứng thú với công việc đó. Họ hi vọng sử dụng các kết quả để thiết kế ra những dụng cụ thể
thao an toàn hơn và hiệu quả hơn có thể hoạt động nhanh hơn và kinh tế hơn so với các sản phẩm
hiện có.
Chuyển động của các cầu thủ được theo dõi bằng video tốc độ cao 4500 khung hình/giây, và
tác dụng của bàn chân lên quả bóng khi đó được nghiên cứu với phương pháp phân tích phần tử hữu
hạn. Các thí nghiệm ban đầu chứng tỏ cái đa số các cầu thủ đều biết: nếu bạn đá quả bóng thẳng
hướng với mu bàn chân của bạn sao cho bàn chân chạm vào quả bóng theo hướng xuyên tâm hấp
dẫn của quả bóng, thì quả bóng bay đi theo đường thẳng. Tuy nhiên, nếu bạn đá quả bóng với má
trước chân của bạn và với góc giữa chân bạn và quả bóng là 90o, thì nó sẽ bay theo đường cong.
Trong trường hợp này, tác dụng là lệch tâm. Điều này làm cho lực đặt vào tác dụng như một mômen
quay, vì thế làm cho quả bóng xoay tròn.
Các kết quả thực nghiệm cũng chứng tỏ rằng chuyển động xoay tròn mà quả bóng thu được
liên quan chặt chẽ với hệ số ma sát giữa bàn chân và quả bóng, và với khoảng cách thẳng góc [cánh
tay đòn] giữa chân và tâm hấp dẫn của quả bóng. Mô hình phần tử hữu hạn của tác dụng của bàn
chân lên quả bóng, viết bằng phần mềm DYTRAN và PATRAN của tập đoàn MacNeal Schwendler,
được sử dụng để phân tích những sự kiện này bằng phương pháp số. Nghiên cứu này cho thấy sự
tăng hệ số ma sát giữa quả bóng và bàn chân làm cho quả bóng thu nhiều chuyển động quay hơn.
Cũng sẽ có chuyển động quay nhiều hơn nếu điểm đặt của lực tính theo phương vuông góc càng xa
tâm hấp dẫn của quả bóng. Hai hiệu ứng thú vị khác cũng được quan sát thấy. Thứ nhất, nếu khoảng
cách tính theo phương vuông góc tăng lên, thì bàn chân chạm vào quả bóng trong một thời gian ngắn
hơn và trên một diện tích nhỏ hơn, làm cho chuyển động quay lẫn vận tốc của quả bóng chậm đi. Do
Hiệu ứng thú vị còn lại là cho dù hệ số ma sát bằng không, thì quả bóng vẫn thu được một ít
chuyển động quay nếu bạn đá vào nó với cánh tay đòn của lực đá khác không. Mặc dù trong trường
hợp này không có lực tiếp tuyến song song với chu vi của quả bóng (vì hệ số ma sát bằng không),
tuy nhiên quả bóng bị biến dạng về phía tâm của nó, làm cho một phần lực tác dụng đâu đó tại tâm
hấp dẫn của nó. Vì thế, có thể làm xoay tròn một quả bóng đá trong một ngày mưa, mặc dù chuyển
động quay đó sẽ kém hơn nhiều so với khi thời tiết khô ráo.
Tất nhiên, phân tích trên có một vài hạn chế. Không khí phía bên ngoài quả bóng đã bị bỏ
qua, và đã giả sử rằng không khí bên trong quả bóng hành xử theo một mô hình dòng chất lưu nhớt,
nén được. Trên lí tưởng thì cả không khí bên trong lẫn bên ngoài quả bóng phải được tính đến, và hệ
số nhớt mô phỏng bằng các phương trình Navier-Stokes. Cũng đã giả sử rằng bàn chân là đồng đều,
khi hiển nhiên rằng một bàn chân thực tế thì phức tạp hơn nhiều. Mặc dù không thể tạo ra một mô
hình hoàn hảo để đưa mỗi yếu tố vào tính toán, nhưng mô hình này thật sự bao gồm những đặc điểm
quan trọng nhất.
Nhìn về tương lai, hai trong số chúng ta (TA và TA) còn có kế hoạch nghiên cứu tác dụng
của các loại giày tất khác nhau đối với việc đá vào quả bóng. Đồng thời, ASICS đang kết hợp các
mô phỏng phần tử hữu hạn Yamagata với cơ sinh học, sinh lí học và khoa học vật liệu để thiết kế ra
các loại giày bóng đá. Tuy nhiên, điều tối hậu là người cầu thủ mới gây ra sự khác biệt – và không
có năng lực thì công nghệ cũng là vô dụng.
Vậy chúng ta có thể học được những gì từ Roberto Carlos? Nếu bạn đá vào quả bóng đủ
mạnh cho dòng không khí bên ngoài bề mặt trở thành xoáy, thì lực kéo theo vẫn nhỏ và quả bóng sẽ
thật sự bay đi. Nếu bạn muốn quả bóng bay theo đường cong, thì hãy cấp cho nó nhiều chuyển động
quay bằng cách đá vào nó lệch tâm. Yêu cầu dễ thực hiện vào một ngày khô ráo hơn là một ngày ẩm
ướt, nhưng vẫn có thể thực hiện bất kể thời tiết. Quả bóng sẽ chuyển động cong nhiều nhất khi nó
chuyển động chậm dần vào chế độ chảy thành lớp, nên bạn cần phải tập luyện để đảm bảo rằng sự
chuyển tiếp này xảy ra ở đúng chỗ thích hợp – thí dụ, ngay sau khi quả bóng đi qua hàng rào hậu vệ.
Nếu thời tiết ẩm ướt, bạn vẫn có thể làm cho quả bóng xoay, nhưng tốt hơn bạn nên giữ cho quả
bóng (và đôi giày của bạn) khô ráo.
Các đây gần 90 năm trước, J J Thomson đã thuyết giảng tại Viện Hoàng gia ở London về
động lực học của các quả bóng golf. Ông được trích dẫn đã nói như sau: “Nếu chúng ta có thể chấp
nhận những lời giải thích của hành vi của quả bóng do nhiều người đóng góp mang lại cho kho tài
liệu rất đồ sộ đã được sưu tập về trò chơi này... thì tôi sẽ trình bày trước quý vị trong buổi tối hôm
nay một cơ sở động lực học mới, và thông báo rằng vật chất, khi cấu tạo nên các quả bóng [golf]
tuân theo các định luật của một đối tượng hoàn toàn khác với các đối tượng chi phối hoạt động của
nó trong bất kì điều kiện nào khác”. Trong bóng đá, ít nhất, chúng ta có thể chắc chắn rằng mọi thứ
đã diễn ra hợp quy luật khoa học.
Tham khảo
C B Daish 1972 The Physics of Ball Games (The English University Press, London)
S J Haake (ed) 1996 The Engineering of Sport (A A Balkema, Rotterdam)
R D Mehta 1985 Aerodynamics of sports balls Ann. Rev. Fluid Mech. 17 151–189
Bất chấp sự gượng ép chúng ta nghĩ chúng ta thể hiện ra bên ngoài, hành vi của chúng ta
thật sự dễ tiên đoán hơn nhiều so với cái chúng ta muốn thừa nhận. Trong quyển sách mới
xuất bản mang tên Bùng nổ, được tóm tắt và biên tập lại ở đây, Albert-László Barabási cho
biết sự ngẫu nhiên không có vai trò gì trong cuộc sống của chúng ta, ngược hẳn với cái các
nhà khoa học trước nay vẫn nghĩ.
Điều gì xảy ra khi chúng ta đối mặt với quá nhiều thứ để làm trong khi không
có đủ thời gian? (Ảnh: Photolibrary)
Khi điều đó xảy ra với các hành động của những người bạn đồng chí của chúng ta, thì chuỗi
sự kiện chúng ta chứng kiến trong một ngày thường nhật có vẻ bí ẩn và khó hiểu như chuyển động
của các vì sao nhìn qua con mắt của một vị khách thời thế kỉ thứ 15. Vào những lúc khác, mặc dù
chúng ta tự do đưa ra các quyết định của riêng mình, nhưng phần lớn cuộc sống của chúng ta dường
như đã lập trình tự động. Xã hội của chúng ta đã phát triển từ những thời kì thịnh vượng cho đến
những thời kì khát vọng, từ chiến tranh đến hòa bình và rồi trở lại chiến tranh. Nó khiến người ta tự
hỏi không biết con người có tuân theo các định luật tiềm ẩn nào nữa khác hay không, ngoài những
thứ mà người ta đã biết. Có phải các hành động của chúng ta bị chi phối bởi các quy luật và cơ chế
có thể, ở dạng đơn giản của chúng, phù hợp với sức mạnh tiên đoán của định luật hấp dẫn Newton?
Lạy trời, chúng ta có thể tiến bao xa trong việc dự báo hành vi con người?
Trước đây, nếu bạn muốn hiểu con người làm gì và tại sao họ làm thế, bạn phải trở thành một
nhà triết học có đeo thẻ. Ngày nay, bạn có thể lấy bằng cấp vật lí hoặc khoa học máy tính trước: qua
phân tích dạng số của dữ liệu, các nhà khoa học nhận thấy nhiều khía cạnh của hành vi con người
tuân theo những khuôn mẫu đơn giản, sinh sôi, bị chi phối bởi các quy luật có tầm bao quát rộng.
Hãy quên đi các con xúc xắc hay các hộp sôcôla là những ẩn dụ cho cuộc sống. Hãy nghĩ về chính
bản thân bạn như một con rô bôt ước mơ được lập trình tự động, và bạn sẽ tiến gần hơn nhiều đến
với sự thật đấy.
Nghiên cứu của tôi về đề tài này thật ra đã bắt đầu vào mùa xuân năm 2004, khi tôi có diễm
phúc được truy xuất một cơ sở dữ liệu dạng số mà với nó tôi có thể kiểm tra một số mô hình. Nó là
một bản ghi ẩn danh các bức email gửi đi bởi hàng nghìn sinh viên, viên chức và quản trị viên các
trường đại học. Nếu kiểu hành vi của họ là ngẫu nhiên, thì thời gian giữa những bức email liên tiếp
được gửi đi bởi cùng một cá nhân sẽ phù hợp với một quá trình Poisson, nó chẳng gì hơn là một
chuỗi những sự kiện thật sự ngẫu nhiên. Nhưng hóa ra không có email của một người nào tuân theo
một quá trình Poisson ngẫu nhiên, đồng tiền sấp ngữa. Thay vào đó, kiểu email của mỗi người dùng
là “bùng phát” – một tiếng sấm email theo sau đó là những khoảng thời gian dài im lặng. Những sai
lệch như vậy khỏi một kiểu thuần túy ngẫu nhiên mang lại bằng chứng của một quy luật hay kiểu
mẫu sâu sắc hơn.
Thoạt nhìn, chúng ta sẽ không trông đợi kiểu email của mình thể hiện bất kì sự giống nhau
nào. Một số người chỉ gửi một vài email một tuần; những người khác thì gần một trăm email mỗi
ngày; một số gửi đi một email mỗi ngày. Tuy nhiên, một số người thì ăn ngủ cùng với máy tính của
họ. Đây là lí do vì sao thật bất ngờ, khi nó xảy ra với email, mọi người dường như tuân theo một
kiểu mẫu giống hệt nhau. Thật vậy, nhìn vào thời gian giữa những lần email, không ai tuân theo một
phân bố Poisson hết. Thay vào đó, bất kể là người nào, hành vi của họ tuân theo cái chúng ta gọi là
một “định luật hàm mũ”.
Một khi các định luật hàm mũ có mặt, thì các bùng phát là không thể tránh khỏi. Thật vậy,
một định luật hàm mũ tiên đoán rằng đa số các email gửi đi trong vòng một vài phút của một người,
xuất hiện dưới dạng một sự bùng phát hoạt động trong kiểu gửi email của chúng ta. Nhưng định luật
hàm mũ đó cũng thấy trước hàng giờ hay thậm chí hàng ngày im lặng email. Sau cùng, các kiểu gửi
email của chúng ta tuân theo một sự điều hòa nội, trong đó những sự trì hoãn ngắn hạn và dài hạn
hòa lẫn thành một định luật chính xác – một định luật có lẽ bạn chưa bao giờ ngờ tới mình là đối
tượng của nó, nên bạn chưa bao giờ cố gắng tuân theo, và có khả năng nhất là bạn chưa bao giờ biến
đến sự tồn tại của nó.
Tối hôm 2 tháng 7, 2004, tôi lên giường ngủ sớm, biết rằng tôi sẽ thức dậy trước lúc bình
minh buổi sáng tiếp theo để đi dự một hội nghị ở Bangalore. Nhưng, niềm hân hoan trước chuyến đi
đầu tiên của tôi đến đất nước Ấn Độ khiến tôi thao thức cả đêm không ngủ được. Và giữa lúc tranh
tối tranh sáng trí tuệ ấy, không phải đã ngủ cũng chẳng phải thật sự thức, tôi đột ngột bị đánh thức
bởi một giải thích đơn giản cho các bùng phát bắt gặp khắp nơi đã nói.
Ngày hôm sau, tôi trở lại với suy tưởng của đêm hôm trước. Ý tưởng lúc nửa tỉnh nửa mê của
tôi có một tiền đề đơn giản: chúng ta luôn luôn có một số việc để làm. Một số người sử dụng danh
sách việc-phải-làm để giữ hướng trách nhiệm của mình, còn những người khác thì hoàn toàn thoải
mái giữ mình trong đầu. Nhưng cho dù bạn lần theo công việc của mình như thế nào đi nữa, thì bạn
luôn luôn cần quyết định xem việc tiếp theo là cái gì. Câu hỏi là, chúng ta làm điều đó như thế nào?
Một khả năng là luôn luôn tập trung vào công việc xuất hiện trước trong danh sách của bạn.
Các nhân viên phục vụ quán ăn, nhân viên giao bánh pizza, nhân viên trung tâm dịch vụ điện thoại –
nói chung là những người làm việc trong ngành công nghiệp dịch vụ, luôn thực hiện chiến lược ưu-
tiên-người-đến-trước này. Đa số chúng ta sẽ cảm thấy sự bất công ghê gớm nếu ngân hàng, bác sĩ
hoặc siêu thị của chúng ta trao quyền ưu tiên cho khách hàng đến sau chúng ta. Một khả năng khác
là làm các công việc theo bậc quan trọng của chúng. Nói cách khác, đó là dành ưu tiên.
Ý tưởng tôi có được trong buổi tối tháng 7 ấy thật sự đơn giản: sự bùng phát có thể có căn
nguyên ở quá trình xác lập các ưu tiên. Lấy thí dụ, Izabella, người có sáu công việc trong danh sách
ưu tiên của cô. Cô chọn ra một công việc có độ ưu tiên cao nhất và giải quyết nó. Lúc ấy, cô có thể
nhớ đến một công việc khác và thêm nó vào danh sách của cô. Trong ngày, cô có thể lặp lại quá
trình này vô số lần, luôn luôn tập trung vào công việc có mức ưu tiên cao nhất và thay nó bằng một
số công việc khác một khi nó đã được giải quyết xong. Câu hỏi tôi muốn trả lời là như thế này: nếu
một trong các công việc trong danh sách của Izabella là gọi điện phản hồi cho bạn, thì bạn sẽ phải
chờ bao lâu thì điện thoại của mình mới reo?
Nếu Izabella chọn giao thức ưu-tiên-người-đến-trước, thì bạn sẽ phải chờ cô ta thực hiện
xong mọi công việc được xếp ưu tiên trước bạn. Chí ít thì bạn cũng biết rằng bạn sẽ được xét đến
một cách công bằng – tất cả những đối tượng khác trong danh sách của cô ta sẽ chờ đại khái trong
lượng thời gian ngang nhau.
Nhưng nếu Izabella chọn lựa công việc theo tầm quan trọng, thì sự công bằng đột ngột biến
mất. Nếu cô ta quy cho tin nhắn của bạn một sự ưu tiên cao, thì điện thoại của bạn sẽ reo chẳng bao
lâu sau đó. Tuy nhiên, nếu Izabella quyết định việc gọi cho bạn không phải là ưu tiên số một trong
danh sách của cô ta, thì bạn sẽ phải chờ cho đến khi cô tả giải quyết xong toàn bộ những công việc
Một khi tôi lập mô hình ưu tiên này thành một chương trình máy tính, thì trước sự hài lòng
của tôi, bất ngờ quy luật hàm mũ như mong muốn – dấu hiệu toán học của sự bùng phát – xuất hiện
trên màn hình của tôi. Mô hình trên gồm một danh sách các công việc, mỗi công việc được gán ngẫu
nhiên một độ ưu tiên nào đó. Rồi tôi cho lặp lại các bước say đây vô hạn lần: (a) Tôi chọn ra công
việc ưu tiên cao nhất và loại nó khỏi danh sách, bắt chước thói quen thật mà tôi có khi xử lí một
công việc; (b) Tôi thay công việc đã loại ra bằng một công việc mới, gán ngẫu nhiên cho nó một độ
ưu tiên, bắt chước thực tế tôi không biết tầm quan trọng của công việc tiếp theo nằm trong danh sách
của mình. Câu hỏi tôi nêu ra là, một công việc sẽ nằm lại bao lâu trong danh sách của tôi trước khi
nó bị loại ra?
Khi các công việc ưu tiên cao được giải quyết nhanh chóng, thì danh sách trở nên đông đảo
những công việc ưu tiên thấp. Điều này có nghĩa là những công việc mới thường thế chỗ nhiều công
việc ưu tiên thấp bị kẹt ở cuối danh sách và vì thế bị loại ra ngay tức thì. Do đó, các công việc có ưu
tiên thấp phải chờ thời gian lâu. Sau khi tôi đo xem mỗi công việc chờ bao lâu trên danh sách trước
khi bị loại ra, tôi tìm thấy định luật hàm mũ đã quan sát thấy trước đây trong việc gửi mỗi email,
duyệt web và in các bộ dữ liệu. Tin nhắn của mô hình thật đơn giản: nếu chúng ta xác lập các ưu
tiên, thì thời gian phản ứng của chúng ta trở nên khá không đồng đều, nghĩa là đa số các công việc bị
loại ra nhanh chóng còn một vài công việc phải chờ gần như mãi mãi trong danh sách của chúng ta.
Có lần tôi thấy một bức tranh hoạt họa New Yorker mô tả sự đa cảm này: một thương nhân kiểm tra
nhật kí của mình và từ tốn nói vào điện thoại của mình: “Không, thứ năm không được. Chắc chẳng
bao giờ tới lượt anh đâu nhé?”
Sau khi cho công bố mô hình ưu tiên trên, tôi bắt đầu tự hỏi không biết kiểu bùng phát có
phải là sản phẩm của kỉ nguyên điện tử hay có lẽ nó tiết lộ một số sự thật sâu sắc về hành vi con
người. Tất cả những thí dụ chúng tôi đã nghiên cứu cho đến bấy giờ - từ gửi email cho đến duyệt
web – bằng cách nào đó liên quan với máy tính, làm tăng thêm câu hỏi lôgic là các bùng phát có
trước sự gửi email hay không.
Tôi sớm nhận ra rằng sự trao đổi thư từ của các nhà trí thức nổi tiếng, được sưu tập cẩn thận
bởi các môn đồ tận tụy của họ, có thể mang câu trả lời cho câu hỏi này. Một tìm kiếm trực tuyến
hướng tôi đến với Phòng trưng bày Albert Einstein, một dự án đặt tại Đại học Hebrew Jerusalem tìm
cách phân danh mục toàn bộ thư từ của Einstein. Einstein để lại khoảng 14.500 bức thư ông đã viết
và hơn 16.000 bức thư ông đã nhận. Tính trung bình có hơn một bức thư được viết trên ngày, kể cả
cuối tuần, trong suốt quãng đời trưởng thành của ông. Mặc dù con số thật ấn tượng, nhưng không
phải khối lượng thư từ của ông là cái khêu gợi sự hứng thú của tôi. Theo tinh thần của mô hình ưu
tiên, tôi muốn tìm xem Einstein chờ đợi bao lâu trước khi ông trả lời các bức thư mà ông nhận được.
João Gama Oliveira, một sinh viên vật lí người Bồ Đào Nha, đến thăm nhóm nghiên cứu của
tôi theo học bổng tài trợ, là người đầu tiên người dữ liệu trên. Phân tích của anh ta cho thấy kiểu hồi
âm của Einstein không khác cho lắm với kiểu email của chúng ta: ông hồi âm đa số các bức thư ngay
tức thì, nghĩa là trong vòng một hoặc hai ngày. Tuy nhiên, một số bức thư phải chờ hàng tháng, thỉnh
thoảng hàng năm, trên bàn làm việc của ông trước khi ông có thời gian đặt bút viết hồi âm. Thật thú
vị, kết quả của Oliveira cho thấy sự phân bố thời gian hồi âm của Einstein tuân theo một định luật
hàm mũ, giống với thời gian hồi âm chúng tôi đã quan sát thấy trước đó với việc gửi email.
Nhưng không chỉ riêng thư từ của Einstein tuân theo khuôn mẫu trên. Từ Dự án Thư từ
Darwin, lưu giữ bởi Đại học Cambridge ở Anh, chúng tôi thu được một bản ghi đầy đủ các bức thư
của Darwin. Biết rằng Darwin vốn kĩ tính luôn giữ các bản sao của từng bức thư do ông viết hoặc
nhận, nên bản ghi của ông đặc biệt chính xác. Phân tích cho thấy ông cũng hồi âm ngay tức thì cho
đa số các bức thư và chỉ hoãn gửi một vài thư ít ỏi thôi. Nói chung, thời gian hồi âm của Darwin tuân
theo chính xác định luật hàm mũ như trường hợp Einstein.
Thực tế các bản ghi chép của hai trí tuệ kiệt xuất thuộc những thế hệ khác nhau (Einstein sinh
ra 3 năm trước khi Darwin qua đời) sống ở những đất nước khác nhau tuân theo một cùng định luật
ngụ ý rằng chúng tôi không chỉ nhìn vào khí chất của một cá nhân đặc biệt nào mà vào một kiểu mẫu
cơ bản của sự giao lưu thông tin thời kì tiền-điện tử. Nó cũng có nghĩa là hoàn toàn không liên quan
chuyện tin nhắn của chúng ta truyền đi trên Internet ở tốc độ ánh sáng hay mang đi từ từ băng qua
đại dương trên những con tàu chạy hơi nước. Vấn đề là, dẫu trong thời kì nào, chúng ta luôn luôn đối
Nhưng vẫn có một sự khác biệt kì lạ giữa email và trao đổi thư từ: số mũ, tham số quan trọng
đặc trưng cho bất kì định luật hàm mũ nào, là khác nhau đối với hai bộ dữ liệu. Hóa ra trong định
luật hàm mũ P(τ) ~ τ–δ, định luật mô tả xác suất P(τ) một tin nhắn chờ trong τ ngày để được hồi âm,
số mũ là δ = 1 đối với email và δ = 3/2 đối với quan hệ thư từ của Einstein lẫn Darwin. Sự khác biệt
này có nghĩa là thời gian chờ đợi email ngắn hơn thời gian chờ đợi thư từ - một kết quả không có gì
bất ngờ vì chúng ta đã quen thuộc với kỉ nguyên truyền thông điện tử rồi.
Tuy nhiên, sự thật là sự khác biệt đó không thể nào gán cho thời gian khác nhau để cho thư
từ và email được phát tận nơi người nhận. Nghiên cứu nhiều thập niên qua cho chúng tôi biết rằng số
mũ đặc trưng cho một định luật hàm mũ không thể có những giá trị tùy ý nhưng có sự liên hệ kì cục
với cơ chế ẩn sau tiến trình cơ bản này. Nghĩa là, nếu một định luật hàm mũ mô tả hai hiện tượng
nhưng các số mũ khác nhau, thì phải có một số sự khác biệt cơ bản giữa các cơ chế chi phối hai hệ
thống. Do đó, sự không thống nhất ở trên có nghĩa là cần có một mô hình mới nếu chúng ta hi vọng
giải thích được các kiểu viết thư của Einstein và của Darwin.
Trong mô hình ưu tiên của chúng tôi, chúng tôi giả sử rằng ngay khi công việc thuộc dạng ưu
tiên cao nhất đã được giải quyết, thì một công việc mới thuộc mức ưu tiên ngẫu nhiên chiếm chỗ của
nó. Để nhận được một mô hình chính xác của quan hệ thư từ của Einstein, chúng tôi cần sửa đổi mô
hình, đưa vào các nét đặc biệt của sự trao đổi thông tin qua thư từ. Với thư con rùa, mỗi ngày một số
lượng thư từ nhất định đưa đến qua bưu điện, xếp vào chồng thư đang chờ hồi âm. Và cứ thế, hễ khi
nào thời gian cho phép, Einstein chọn từ chồng thư ra những lá thư ông xem là quan trọng nhất và
hồi âm cho chúng, giữ phần còn lại sang một ngày khác. Cho nên, một mô hình của sự trao đổi thư
từ của Einstein có hai thành phần đơn giản. Thứ nhất là xác suất mà những lá thư nằm trên bàn làm
việc của Einstein được ông gán cho một mức ưu tiên nào đó, cái chúng tôi sẽ gọi là tốc độ đến.
(Những lá thư này làm tăng chiều dài chồng thư của ông, khác với mô hình email trước của chúng
tôi có một độ dài chờ cố định). Thành phần thứ hai trong mô hình là xác suất để ông chọn lá thư ưu
tiên cao nhất và hồi âm cho nó, cái chúng tôi sẽ gọi là tốc độ hồi âm.
Nếu tốc độ hồi âm của Einstein nhanh hơn tốc độ đến của các bức thư, thì bàn làm việc của
ông gần như trống không, vì ông có thể hồi âm cho đa số các bức thư ngay khi chúng vừa đến. Trong
chế độ “dưới tới hạn” này, mô hình cho biết thời gian hồi âm của Einstein tuân theo một phân bố
hàm mũ, không có những khoảng trễ kéo dài và rõ ràng không phù hợp với định luật lũy thừa đã
quan sát thấy.
Tuy nhiên, nếu Einstein hồi âm ở tốc độ chậm hơn tốc độ các bức thư được gửi đến, thì
chồng thư trên bàn của ông chất cao dần với mỗi ngày trôi qua. Thật thú vị, chỉ trong chế độ “siêu
tới hạn” này thì thời gian hồi âm mới tuân theo một định luật hàm mũ. Như vậy, sự bùng phát là một
dấu hiệu cho biết Einstein bị vùi trong chồng thư và buộc phải bỏ qua một tỉ lệ tăng dần của các bức
thư mà ông nhận được.
Einstein và Kaluza
Hiện tượng bùng phát, và các hệ quả của nó, rõ ràng được minh họa bởi quan hệ thư từ của
Einstein với nhà lí thuyết Theodor Kaluza. Mùa xuân năm 1919, Einstein nhận được một lá thư từ
Kaluza, khi đó chưa có tên tuổi, người vẫn làm việc cật lực để lặp lại sự bùng phát sáng tạo ông đã
yêu thích hồi năm 1908. Lúc ấy, là sinh viên của David Hilbert và Hermann Minkowski, ông đã viết
bài báo nghiên cứu đầu tiên và duy nhất của mình. Lúc này, một thập niên sau và ở tuổi 34, ông vẫn
còn ở nấc thấp nhất của chiếc thang hàn lâm tại Đại học Königsberg, Đức, cố gắng nuôi vợ nuôi con
với đồng lương thực tế không sống nổi. Sau cùng, khi ông hoàn thành bài báo thứ hai của mình, một
động cơ táo bạo đã xui khiến ông gửi nó cho Einstein, nhận được hồi âm khích lệ này vào ngày
21/04/1919: “Ý tưởng các điện trường bị xén bớt... cũng thường khiến tôi bận tâm. Nhưng ý tưởng
thu được điều này với một thế giới trụ năm chiều chưa từng xuất hiện với tôi và có lẽ hoàn toàn mới
mẻ”.
Lá thư của Kaluza đến nhà khoa học vĩ đại không dừng lại ở một cử chỉ nhã nhặn – ông nhờ
Einstein giúp đỡ công bố bản thảo đó. Vào thời ấy, các nhà khoa học nổi tiếng như Einstein là những
gác cổng cho những tạp chí khoa học tiên tiến. Nếu Einstein nhận thấy bài bào đó hấp dẫn, thì ông
có thể giới thiệu nó tại cuộc họp của Viện Hàn lâm Berlin, sau đó nó có thể được đăng trong tập san
của viện. Trước sự hân hoan của Kaluza, Einstein sẵn lòng giúp đỡ.
Rồi, một tuần sau, vào ngày 28/04, Einstein viết lá thư thứ hai cho Kaluza. Vừa khích lệ,
Einstein vừa thận trọng cảnh giác. Ông sẽ mở cánh cửa hàn lâm cho Kaluza với một điều kiện: “Tôi
có thể giới thiệu một phiên bản tóm tắt trước viện chỉ khi câu hỏi trên được làm sáng tỏ. Anh không
giữ kẽ với tôi nhé, vì khi giới thiệu bài báo, tôi gắn tên tôi cho nó”.
Hãy tưởng tượng cảm giác của Kaluza sau khi nhận hai lá thư trong nhiều tuần từ con người
được xem là nhà vật lí có sức ảnh hưởng nhất đang còn sống. Cả hai lá thư đều mang tính khích lệ,
và rất ít có khả năng Einstein bực mình khi viết thư hai lần cho thấy ông thật sự nghiêm túc xem xét
ý tưởng của nhà vật lí không tên tuổi kia. Nhưng các lá thư là một diễm phúc hỗn tạp và cuối cùng
đã ngăn cản việc công bố bài báo hàng năm trời.
166 Tuyển những bài báo vật lí hay Vol.3
Trong hồi âm của ông ngày 01/05/1919, Kaluza đã nhanh chóng xua tan các lo ngại của
Einstein, xin trích dẫn thêm một lá thư nữa từ Einstein ngày 05/05: “Đồng nghiệp thân mến, tôi rất
sẵn lòng trình bày một đoạn trích bài báo của anh trước Viện Hàn lâm Sitzungsberichte. Đồng thời,
tôi muốn khuyên anh nên công bố bản thảo anh đã gửi cho tôi với một tạp chí nào đó, thí dụ như tờ
Mathematische Zeitschrift hoặc Annalen der Physik. Tôi sẵn lòng đăng kí nó với tên của anh hễ như
anh muốn và viết một vài dòng giới thiệu về nó”.
Cái gì khiến Einstein thay đổi quan điểm của ông đột ngột như vậy? Lá thư của ông mang lại
một gợi ý: “Hiện tại tôi tin rằng, từ quan điểm của các thí nghiệm tương đối tính, lí thuyết của anh
chẳng gì đáng ngại”. Kaluza chẳng thể hi vọng một kết quả nào tốt hơn nữa. Einstein, nổi tiếng với
sự truy vấn không ngừng để đương đầu trước mọi phát triển toán học đi cùng với thực tại, đã đồng ý
với kết luận của ông rằng thế giới của chúng ta là năm chiều.
Được sự khích lệ của Einstein, Kaluza nhanh chóng thực hiện các thay đổi như yêu cầu và
gửi trả một phiên bản tóm tắt của bài báo, thích hợp cho việc trình bày tại viện hàn lâm. Trường hợp
của ông giờ trông thật sáng sủa – ông đã nhận bốn lá thư trong chưa tới bốn tuần, cho thấy nhà vật lí
nổi tiếng đã gán cho ông một sự ưu tiên cao bất thường. Nhưng rồi, trong một lá thư đề ngày
14/05/1919, Einstein bất ngờ đáp lại những lời lạnh nhạt. “Đồng nghiệp kính mến”, ông viết, “tôi
vừa nhận được bản thảo của anh cho viện hàn lâm. Tuy nhiên, hiện nay, dựa trên sự phản ánh thận
trọng hơn về các hệ quả của cách giải thích của anh, tôi vấp phải một khó khăn nữa, mà với nó tôi
không thể giải quyết được”. Sau đó, Einstein trình bày cụ thể các quan ngại của ông, rồi kết luận
Kaluza thực hiện một nỗ lực cuối cùng là thuyết phục Einstein về giá trị của cách tiếp cận
của ông, thậm chí dám vạch ra một sai sót trong các lập luận của Einstein. Kết quả là một hồi âm dứt
khoát từ phía Einstein hôm 29/05/1919 trong đó Einstein lịch sự bảo Kaluza rằng ông không thể ủng
hộ các ý tưởng của Kaluza vì vẫn còn có sự e dè, ông sẽ sẵn lòng viết một vài từ tốt đẹp nếu Kaluza
muốn công bố các kết quả của mình từ trước đến giờ. Mặc dù lời lẽ lịch sự, nhưng sự từ chối đã rõ
ràng, và chúng ta biết không còn có sự trao đổi nào nữa giữa Einstein và Kaluza trong năm đó hoặc
năm tiếp theo – và không phải vì bài báo của Kaluza đã công bố. Trái lại, các e ngại của Einstein gửi
một tin nhắn đáng tin cậy đến nhà khoa học trẻ: chiều không gian thứ năm là một sự sai lần, hoặc là
nóng vội hoặc là một kết thúc không đáng chú ý thêm nữa. Sau sự bùng phát trao đổi thông tin tấp
nập giữa hai người trong cả một tháng trọn là sự im lặng kéo dài hàng năm trời.
Ngày 22/09/1919, bốn tháng sau khi gửi lá thư cuối cùng của ông cho Kaluza, Einstein nổi
lên như cồn: lí thuyết tương đối rộng mà ông đề xuất hồi năm 1915 cuối cùng đã được xác nhận bởi
quan sát của Arthur Stanley Eddington rầngg bị bẻ cong khi nó đi qua gần Mặt trời. Trong thời gian
tính bằng ngày, tên tuổi Einstein xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo và tạp chí trên khắp thế
giới, và huyền thoại Einstein ra đời. Ông biến thành một siêu sao trên các phương tiện truyền thông
và trở thành một biểu tượng.
Danh tiếng bất ngờ của Einstein có những hệ quả rõ nét trong quan hệ thư từ của ông. Năm
1919, ông nhận 252 lá thư và viết 239 lá thư, cuộc sống của ông vẫn ở trong pha dưới tới hạn cho
phép ông hồi âm đa số các lá thư với độ trễ thấp. Năm sau đó, ông đã viết nhiều thư từ hơn bất kì
năm nào trước đó. Trước cơn lũ 519 lá thư ông nhận được, chúng ta có số liệu ghi chép rằng ông đã
hồi âm 331 trong số chúng – một tốc độ, mặc dù ghê gớm, nhưng không đủ để tiếp tục giữ phong độ
trao đổi vô khối thư từ của ông. Năm 1920, Einstein đã bước vào chế độ siêu tới hạn, và ông không
bao giờ thoát ra được. Cực đại xuất hiện năm 1953, hai năm trước khi ông qua đời, khi ông nhận 832
lá thư và hồi âm cho 476 trong số chúng. Khi quan hệ thư từ của Einstein bùng phát, công suất khoa
học của ông giảm đi. Ông trở nên bị lấn át, áp đảo bởi đống thư từ trễ hạn. Và với đó, số lần hồi âm
của ông chuyển thành bùng phát và bắt đầu tuân theo một định luật hàm mũ, giống hệt như sự trao
đổi email của chúng ta ngày nay.
Cho dẫu có quan hệ thư từ ngắn ngủi với Einstein, nhưng cuộc đời của Kaluza đã có cải thiện
đôi chút trong những năm tháng sau đó. Ông tiếp tục nghiên cứu hàn lâm nhưng không thể tìm được
một chỗ đứng vì thiếu các công bố. Sau đó, vào ngày 14/10/1921, ông bất ngờ nhận được một bưu
thiếp từ Einstein gửi đến: “ Tiến sĩ Kaluza đáng kính, tôi đã có những suy nghĩ thứ hai về việc anh
đã giữ lại không công bố quan điểm của anh về sự thống nhất lực hấp dẫn và điện học cách đây hai
năm trước. Phương pháp của anh dường như chắc chắn mang lại nhiều thứ hơn phương pháp của
Weyl [Hermann]. Nếu anh muốn, tôi sẽ giới thiệu bài báo của anh trước viện hàn lâm”. Và ông đã
làm như vậy, vào hôm 21/12/1921, hai năm rưỡi sau khi lần đầu tiên ông biết đến quan điểm của
Kaluza.
Lúc bài báo của Kaluza cuối cùng được công bố, thì đã quá muộn cho tác giả của nó. Thất
vọng trước sự từ chối của Einstein, Kaluza đã bỏ ngành vật lí học và một lần nữa quay về với toán
học. Nhưng sự chuyển ngoặc sự nghiệp đó cuối cùng đã được đền đáp – năm 1929, ông được mời
làm giáo sư toán học tại Đại học Kiel và năm 1935 trở thành giáo sư tại Göttingen, một trong những
trường đại học danh giá nhất vào thời ấy. Cuối cùng, vũ trụ đa chiều của Kaluza đã hồi sinh trong
những năm 1980 và trở thành nền tảng của lí thuyết dây, mà những người đề xuất của nó không còn
e ngại trước 5, 11, hay nhiều chiều không gian nữa.
Buồn thay, Kaluza không còn sống để trông thấy sự phục hưng của nghiên cứu của ông, vì
ông đã tạ thế vào năm 1954. Có lẽ ông đã trở thành một trong nhà trí tuệ vật lí lỗi lạc nếu như
Einstein cho phép ông công bố đột phá của mình ngay từ đầu chăng? Chúng ta sẽ không bao giờ biết
nữa. Nhưng có một điều rõ ràng từ sự chạm trán ngắn ngủi của Kaluza và Einstein. Sự ưu tiên không
phải không có những hệ quả của nó và dẫn đến sự tàn lụi sự nghiệp của một nhà vật lí trẻ khi các lí
thuyết của anh ta bị bỏ qua bởi một con người danh giá có quyền cho nó được công bố hay không.
Albert-László Barabási là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mạng Phức hợp tại Đại học Northeastern, và vừa
được bổ nhiệm vào Khoa Y, Đại học Y Harvard, và Viện Ung bướu Dana Farber, Boston, Hoa Kì.
Thuyết tương đối rộng: trí tuệ xuất chúng của Einstein
Năm 1905, ở tuổi 26, Albert Einstein đề xuất lí thuyết tương đối đặc biệt. Lí thuyết trên dung
hòa cơ sở vật lí của các vật đang chuyển động do Galileo Galilei và Newton phát triển với các định
luật của bức xạ điện từ. Nó thừa nhận rằng tốc độ của ánh sáng luôn luôn không đổi, bất kể chuyển
động của người đo nó như thế nào. Thuyết tương đối đặc biệt cho rằng không gian và thời gian hòa
quyện với nhau đến một mức độ trước đó chưa bao giờ người ta tưởng tượng ra.
Sang năm 1907, Einstein bắt đầu thử mở rộng thuyết tương đối đặc biệt để bao hàm cả sự
hấp dẫn. Đột phá đầu tiên của ông xuất hiện khi ông đang làm việc tại một phòng cấp bằng sáng chế
ở Bern, Thụy Sĩ. “Bất ngờ một ý tưởng nảy đến với tôi”, ông nhớ lại. “Nếu như một người rơi tự do,
anh ta sẽ không cảm nhận thấy sức nặng của mình... Thí nghiệm tưởng tượng đơn giản này... đã đưa
tới đến lí thuyết của sự hấp dẫn”. Ông nhận ra rằng có một mối liên hệ sâu sắc giữa các hệ bị ảnh
hưởng bởi sự hấp dẫn và các hệ đang gia tốc.
Bước phát triển lớn tiếp theo xuất hiện khi Einstein được giới thiệu cơ sở hình học phát triển
bởi các nhà toán học Đức thế kỉ thứ 19, Carl Friedrich Gauss và Bernhard Riemann. Einstein áp
dụng công trình của họ để viết nên các phương trình liên hệ hình học của không-thời gian với lượng
Đang rơi tự do sẽ không cảm nhận trọng lượng ? (Ảnh: Matt King/Getty)
Sử dụng thuyết tương đối rộng, Einstein đã đưa ra một loạt dự đoán. Thí dụ, ông chỉ ra lí
thuyết của ông sẽ dẫn đến sự trôi giạt quan sát thấy của quỹ đạo Thủy tinh như thế nào. Ông còn tiên
đoán rằng một vật khối lượng lớn, như mặt trời, sẽ làm méo hành trình của ánh sáng đi qua gần nó:
tóm lại, hình dạng của không gian sẽ tác dụng như một thấu kính và làm tập trung ánh sáng.
Einstein còn cho rằng bước sóng của ánh sáng phát ra ở gần một vật thể khối lượng lớn sẽ bị
kéo căng ra, hay lệch đỏ, khi nó trèo ra khỏi không-thời gian bị cuộn lại ở gần vật thể nặng đó.
Những tiên đoán này ngày nay được gọi là ba phép kiểm tra cổ điển của thuyết tương đối rộng.
động như thế nào và vật chất cho không gian biết
nên cong đi như thế nào (John Archibald
Wheeler)
Một dự án nhiều tham vọng hơn là Anten Vũ trụ Giao thoa kế Laser (LISA), gồm bộ ba vệ
tinh sẽ theo dõi Trái đất trong quỹ đạo của nó quay xung quanh Mặt trời. Chúng sẽ phát ra các chùm
laser được điều chỉnh hết sức chính xác về phía nhau, giống hệt như LIGO. Mọi con sóng hấp dẫn đi
sẽ làm biến dạng không-thời gian đi một chút và dẫn tới một sự dịch chuyển có thể phát hiện ra ở
các chùm laser. NASA và Cơ quan Vũ trụ châu Âu hi vọng phóng LISA lên quỹ đạo trong thập niên
kế tiếp.
Du hành thời gian
Lí thuyết của Einstein cho phép một khả năng làm say đắm lòng người là du hành thời gian.
Người ta đã đề xuất phương pháp thu được kì công này, gồm việc xây dựng các đường hầm gọi là lỗ
sâu đục nối liền những phần khác nhau của không gian ở những thời điểm khác nhau. Có thể xây
dựng các lỗ sâu đục – trên lí thuyết. Nhưng thật không may, chúng đòi hỏi vật chất có năng lượng
âm, và những tình huống vật lí không tự nhiên khác, không chỉ mở chúng ra mà còn cho phép chúng
đi qua được. Một khả năng khác là tạo ra một vùng không gian rộng lớn quay tròn, hoặc sử dụng các
đối tượng giả thuyết gọi là các dây vũ trụ.