Professional Documents
Culture Documents
Từ đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương
Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai
trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý.
Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản
chống lại chế độ phong kiến, thần học và chủ nghĩa kinh viện. Trong cuộc đấu tranh
của giai cấp tư sản nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư bản, chống chuyên chế
phong kiến thì chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai
trò lịch sử tiến bộ.
Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển
mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại "tự do, bình đẳng, bác ái". Trái lại, nó còn dẫn đến các
cuộc khủng hoảng xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng
nhân cách ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào tình trạng tha hóa toàn diện và nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và sự đối
lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Trào lưu duy khoa học và trào lưu
nhân bản phi duy lý dường như là đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung cho nhau,
vì chúng đều đều phản ánh những mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện
đại.
* Russel Bertrand (1872 - 1970): Nhà toán học, triết học, xã hội học, nhân văn Anh. Giải thưởng Nôben Văn học
1950, từng là Chủ tịch Tòa án quốc tế xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam (B.T).
66
với lý luận khoa học, không quan tâm nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa học,
cho rằng các tri thức khoa học chỉ tích luỹ về lượng. Họ cho rằng khoa học tiến bộ thông
qua con đường cách mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa
học theo trạng thái động, thông qua giải quyết mâu thuẫn.
Pốppơ phủ định phép quy nạp, nhấn mạnh rằng khoa học bắt đầu từ vấn đề chứ
không phải bắt nguồn từ việc quan sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng, phương pháp
khoa học không phải là chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa, tức là
phê phán sai lầm của nó. Ông đưa ra nguyên tắc giả hóa của lý luận khoa học để bác bỏ
nguyên tắc về tính có thể chứng thực trực tiếp được của chủ nghĩa thực chứng lôgíc.
Theo ông thì sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính
quy ước, tiếp đó dùng thực nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng chứng thực nó bằng sự giả
hóa, sau đó lại xuất hiện vấn đề mới. Như vậy khoa học phát triển theo phương thức
"cách mạng không ngừng".
Cun dùng thuyết các giai đoạn phát triển của khoa học để thay thế cho thuyết
"cách mạng không ngừng" của sự tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia sự phát triển
khoa học thành hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ cách mạng. Theo
ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đã xuất hiện những hiện
tượng trái với bình thường. Việc tích luỹ các hiện tượng trái với bình thường, đến một
chừng mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách
mạng khoa học.
Lacatốt, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm của Pốppơ và Cun đã nêu lên phương
pháp luận "cương lĩnh nghiên cứu khoa học", trả lời rõ câu hỏi thế nào là một khoa học,
thế nào là tính hợp lý trong sự phát triển của khoa học.
Chúng ta đều biết, trong xã hội tư sản hiện đại, một mặt đang tồn tại cuộc khủng
hoảng xã hội trầm trọng, nhưng mặt khác, khoa học tự nhiên lại có sự tiến bộ to lớn.
Đứng trước mâu thuẫn đó, một số nhà triết học cảm thấy bó tay không có cách gì giải
quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện, cho rằng loại triết
học này căn bản không thể góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra. Trong khi
đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lại đưa đến cho họ niềm hy vọng và
chỗ dựa tinh thần mới. Vì vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học từ phương diện
thế giới quan sang phương diện phương pháp luận của khoa học. Một loạt trường phái
và phong trào được gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Ngoài bối cảnh xã hội, còn một nguyên nhân nữa xuất phát từ đặc điểm của khoa
học tự nhiên hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học mới, sự phân
công trong nội bộ khoa học ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi toán học và
lôgíc toán, việc khoa học ngày càng đi sâu hơn vào kết cấu vật chất, vai trò của mô hình
và kết cấu lý luận tăng lên, v.v.. Tất cả những điều đó đòi hỏi các môn khoa học thực
chứng không những phải nghiên cứu những nội dung cụ thể mà còn phải nghiên cứu
những vấn đề chung của khoa học, đặc biệt là vấn đề phương pháp luận nhận thức của
67
khoa học. Chủ nghĩa duy khoa học dựa vào yêu cầu mới đó trong khoa học tự nhiên hiện
đại để đưa ra các quan điểm triết học thực chứng của mình.
Chủ nghĩa duy khoa học đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả
trong toán học và trong các khoa học tự nhiên hiện đại, nêu ra nhiều vấn đề mới cho
triết học, mở ra nhiều hướng mới cho sự phát triển triết học duy vật và phép biện chứng.
Trong đó, có thể nói những nhân tố tích cực, triết học Mác có thể tiếp thu và sử dụng. Tất
nhiên, trào lưu triết học này có một mâu thuẫn, do đó cũng là sai lầm không thể khắc
phục được: do muốn phá vỡ một số công thức của triết học truyền thống, nên đã cực
đoan phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản thân triết học.
Mặc dù những nhà triết học sau Pốppơ và Cun đã chú ý đến ý nghĩa thế giới quan của
triết học đối với khoa học, nhưng do thiếu quan điểm duy vật lịch sử nên họ không có
cách nào thoát khỏi tính hạn chế đó. Vì vậy chủ nghĩa duy khoa học không thể mở ra một
con đường mới thực sự đúng đắn cho sự phát triển của triết học.
69
3. Chủ nghĩa Phơrớt
Chủ nghĩa Phơrớt cũng là một trường phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu
chủ nghĩa nhân bản phi duy lý do nhà bệnh học tinh thần, nhà tâm lý học người áo, Phơrớt
sáng lập. Học thuyết và phương pháp của Phơrớt, có ý nghĩa thế giới quan và nhân sinh
quan triết học, có ảnh hưởng rộng lớn đối với các trường phái của chủ nghĩa nhân bản
triết học phương Tây hiện đại.
Chủ nghĩa Phơrớt hình thành vào đầu thế kỷ XX trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản
đang đi vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, bệnh
tâm thần trong xã hội phát triển nhanh. Sinh học, sinh lý học, tâm lý học, v.v., cũng có
bước phát triển mạnh mẽ, khiến cho những lý luận giải thích các hiện tượng sinh lý và
tâm lý của con người bằng quan điểm cơ giới dần dần được thay thế bằng những lý luận
mới.
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu tiên
của Phơrớt. Ông chia quá trình tâm lý của con người thành ba bậc: ý thức, tiềm thức và
vô thức. Sự suy nghĩ của con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức.
ý thức là tâm lý nhận biết của con người. Thí dụ, một người nói với mình rằng trời sắp
mưa, phải mau mau về nhà thì suy nghĩ đó tiến hành trong trạng thái ý thức, tuân theo
những hình thức lôgíc. Còn vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí,
do bản năng, thói quen và dục vọng của con người gây ra. Hoạt động tâm lý này tiến
hành theo nguyên tắc khoái cảm, tức là do tình cảm và dục vọng chi phối, không bị hạn
chế về thời gian, không gian và quy tắc lôgíc của lý trí. Con người thường suy nghĩ
trong tình trạng vô thức như vô cớ bực bội.
Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở giữa ý thức và vô thức, hoạt động theo nguyên
tắc của tính hiện thực. Phơrớt cho rằng, trong vô thức ẩn giấu những xung đột bản năng,
phải thông qua sự lựa chọn và phê chuẩn của "tiềm thức" mới có thể trở thành ý thức.
Theo ông, ý thức không phải là thực chất của hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính
không ổn định của hoạt động tâm lý. Vô thức mới là căn cứ hành vi con người. Phơrớt
đánh giá cao tác dụng quan trọng của vô thức đối với hành vi con người. Ông phân tích
những hành vi vô thức thường ngày như nói nhịu, viết sai, quên lãng, đưa nhầm, lấy nhầm,
đánh mất, v.v. và cho rằng nguyên nhân tâm lý của những hành vi đó chính là kết quả
của những ước vọng bị dồn nén.
Phơrớt có cống hiến quan trọng trong việc đề xuất và nghiên cứu vai trò của vô
thức trong hệ thống phân tích tâm lý, nhưng ông sai lầm là đã khuếch đại tác dụng của
vô thức đối với hành vi của con người, không đánh giá đúng vai trò của ý thức và các
điều kiện xã hội.
Trong lý luận về nhân cách, Phơrớt đưa ra ba khái niệm "cái ấy", "cái tôi" và "cái
siêu tôi". Theo ông, "cái ấy" chính là sự thể hiện của libiđô (tính dục), là bản năng đầu
tiên có từ lúc con người sinh ra. Nó là nguồn năng lượng tâm lý đòi hỏi bộc lộ và đòi
hỏi được thỏa mãn một cách mãnh liệt. Nó là kết cấu phi lý tính, chỉ tuân theo nguyên
70