You are on page 1of 6

Chương IV

Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại

Từ đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương
Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai
trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý.
Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản
chống lại chế độ phong kiến, thần học và chủ nghĩa kinh viện. Trong cuộc đấu tranh
của giai cấp tư sản nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư bản, chống chuyên chế
phong kiến thì chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai
trò lịch sử tiến bộ.
Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển
mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại "tự do, bình đẳng, bác ái". Trái lại, nó còn dẫn đến các
cuộc khủng hoảng xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng
nhân cách ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào tình trạng tha hóa toàn diện và nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và sự đối
lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Trào lưu duy khoa học và trào lưu
nhân bản phi duy lý dường như là đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung cho nhau,
vì chúng đều đều phản ánh những mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện
đại.

1. Chủ nghĩa thực chứng


Các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học
theo mô hình "các khoa học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu
những vấn đề như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v.v. mà đi tìm
phương pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của
việc nghiên cứu triết học.
Trong các trường phái theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có ảnh hưởng
lớn và lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng.
Các nhà triết học thực chứng cho rằng, chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là
"cái thực chứng", do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa
nhận bản chất của sự vật, họ muốn lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học, muốn loại trừ
vấn đề thế giới quan ra khỏi triết học truyền thống. Ôguýt Côngtơ cho rằng, triết học
phải lấy các sự vật "thực chứng", "xác thực" làm căn cứ.
Chủ nghĩa thực chứng ra đời từ thế kỷ XIX. Cùng với sự phát triển của khoa học
65
tự nhiên ở thế kỷ XX, nhất là sự ra đời hình học phi Ơclít, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử, phương thức tư duy truyền thống đã bị tác động rất mạnh. Các phương pháp
toán học, phương pháp lôgíc toán trở thành phương pháp đặc biệt quan trọng trong khoa
học tự nhiên. Tuyệt đối hóa điều đó, một số nhà triết học đã cho rằng, chính việc nghiên
cứu các phương pháp đó mới là nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của triết học. Thậm chí có
nhà triết học còn cho rằng, việc toán học hóa, lôgíc học hóa triết học mới là lối thoát của
triết học hiện đại.
Trong các nhà triết học chủ trương lôgíc học hóa triết học có một số người nhấn
mạnh việc phân tích ngôn ngữ. Trường phái coi việc phân tích lôgíc ngôn ngữ là nội
dung trung tâm của triết học được gọi là chủ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân
tích.
Triết học phân tích được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Trong số các nhà sáng
lập thì Rơtxơn* và Uýtgen Xten là hai người có ảnh hưởng lớn. Rớtxơn coi nhiệm vụ phân
tích hình thức và phân tích lôgíc là nội dung chủ yếu của triết học. Ông chủ trương lấy
lôgíc toán - lý hiện đại làm cơ sở sáng tạo ra ngôn ngữ nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí
giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và hình thức lôgíc của nó.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong triết học phân tích đã xuất hiện một chi
phái lớn: Chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng lôgíc.
Chủ nghĩa thực chứng lôgíc sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là
của lôgíc toán lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh
đề có thể dùng lôgíc toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành
sự phân tích kết cấu lôgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu thực
chứng (kinh nghiệm).
Trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích đã xuất hiện phái
ngôn ngữ học thường ngày. Các đại biểu của phái này đều là các giáo sư trường Đại học
Oxpho (Oxford) cho nên trường phái đó cũng được gọi là trường phái Oxpho. Những
người theo chủ nghĩa thực chứng lôgíc thường phê phán các khái niệm của ngôn ngữ tự
nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư duy chính xác. Trái lại, trường
phái ngôn ngữ lại nhấn mạnh tính phong phú của khái niệm và sự phân biệt tỉ mỉ giữa
các khái niệm trong ngôn ngữ tự nhiên. Nếu chủ nghĩa thực chứng lôgíc quy nhiệm vụ
triết học thành sự phân tích lôgíc, thì trường phái ngôn ngữ luôn luôn quy triết học thành
sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ định ý nghĩa thế giới quan của triết học.
Các trường phái triết học khoa học có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây,
bao gồm các đại biểu như Pốppơ, Cun và Lacatốt, v.v.. Học thuyết, quan điểm của họ
không giống hệt nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ nghĩa thực chứng
lôgíc, vì chủ nghĩa thực chứng lôgíc chỉ tiến hành phân tích lôgíc ở trạng thái tĩnh đối

* Russel Bertrand (1872 - 1970): Nhà toán học, triết học, xã hội học, nhân văn Anh. Giải thưởng Nôben Văn học
1950, từng là Chủ tịch Tòa án quốc tế xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam (B.T).
66
với lý luận khoa học, không quan tâm nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa học,
cho rằng các tri thức khoa học chỉ tích luỹ về lượng. Họ cho rằng khoa học tiến bộ thông
qua con đường cách mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa
học theo trạng thái động, thông qua giải quyết mâu thuẫn.
Pốppơ phủ định phép quy nạp, nhấn mạnh rằng khoa học bắt đầu từ vấn đề chứ
không phải bắt nguồn từ việc quan sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng, phương pháp
khoa học không phải là chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa, tức là
phê phán sai lầm của nó. Ông đưa ra nguyên tắc giả hóa của lý luận khoa học để bác bỏ
nguyên tắc về tính có thể chứng thực trực tiếp được của chủ nghĩa thực chứng lôgíc.
Theo ông thì sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính
quy ước, tiếp đó dùng thực nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng chứng thực nó bằng sự giả
hóa, sau đó lại xuất hiện vấn đề mới. Như vậy khoa học phát triển theo phương thức
"cách mạng không ngừng".
Cun dùng thuyết các giai đoạn phát triển của khoa học để thay thế cho thuyết
"cách mạng không ngừng" của sự tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia sự phát triển
khoa học thành hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ cách mạng. Theo
ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học đã xuất hiện những hiện
tượng trái với bình thường. Việc tích luỹ các hiện tượng trái với bình thường, đến một
chừng mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách
mạng khoa học.
Lacatốt, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm của Pốppơ và Cun đã nêu lên phương
pháp luận "cương lĩnh nghiên cứu khoa học", trả lời rõ câu hỏi thế nào là một khoa học,
thế nào là tính hợp lý trong sự phát triển của khoa học.
Chúng ta đều biết, trong xã hội tư sản hiện đại, một mặt đang tồn tại cuộc khủng
hoảng xã hội trầm trọng, nhưng mặt khác, khoa học tự nhiên lại có sự tiến bộ to lớn.
Đứng trước mâu thuẫn đó, một số nhà triết học cảm thấy bó tay không có cách gì giải
quyết. Về mặt lý luận, họ chán ghét loại triết học thuần túy tư biện, cho rằng loại triết
học này căn bản không thể góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra. Trong khi
đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lại đưa đến cho họ niềm hy vọng và
chỗ dựa tinh thần mới. Vì vậy, họ chuyển hướng nghiên cứu triết học từ phương diện
thế giới quan sang phương diện phương pháp luận của khoa học. Một loạt trường phái
và phong trào được gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Ngoài bối cảnh xã hội, còn một nguyên nhân nữa xuất phát từ đặc điểm của khoa
học tự nhiên hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của nhiều môn khoa học mới, sự phân
công trong nội bộ khoa học ngày càng tỷ mỷ hơn, sự ứng dụng rộng rãi toán học và
lôgíc toán, việc khoa học ngày càng đi sâu hơn vào kết cấu vật chất, vai trò của mô hình
và kết cấu lý luận tăng lên, v.v.. Tất cả những điều đó đòi hỏi các môn khoa học thực
chứng không những phải nghiên cứu những nội dung cụ thể mà còn phải nghiên cứu
những vấn đề chung của khoa học, đặc biệt là vấn đề phương pháp luận nhận thức của
67
khoa học. Chủ nghĩa duy khoa học dựa vào yêu cầu mới đó trong khoa học tự nhiên hiện
đại để đưa ra các quan điểm triết học thực chứng của mình.
Chủ nghĩa duy khoa học đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả
trong toán học và trong các khoa học tự nhiên hiện đại, nêu ra nhiều vấn đề mới cho
triết học, mở ra nhiều hướng mới cho sự phát triển triết học duy vật và phép biện chứng.
Trong đó, có thể nói những nhân tố tích cực, triết học Mác có thể tiếp thu và sử dụng. Tất
nhiên, trào lưu triết học này có một mâu thuẫn, do đó cũng là sai lầm không thể khắc
phục được: do muốn phá vỡ một số công thức của triết học truyền thống, nên đã cực
đoan phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản thân triết học.
Mặc dù những nhà triết học sau Pốppơ và Cun đã chú ý đến ý nghĩa thế giới quan của
triết học đối với khoa học, nhưng do thiếu quan điểm duy vật lịch sử nên họ không có
cách nào thoát khỏi tính hạn chế đó. Vì vậy chủ nghĩa duy khoa học không thể mở ra một
con đường mới thực sự đúng đắn cho sự phát triển của triết học.

2. Chủ nghĩa hiện sinh


Chủ nghĩa hiện sinh đầu thế kỷ XX có cội nguồn tư tưởng sâu xa mà trực tiếp nhất
là triết học phi duy lý ở thế kỷ XIX. Đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là các nhà
triết học Hâyđơgơ, Xáctơrơ, Giaxpơ, Macxen.
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Quan điểm của
những đại biểu của triết học này thường có sự khác nhau rất lớn. Ngoài sự phân biệt
về quốc gia như chủ nghĩa hiện sinh của Đức, chủ nghĩa hiện sinh của Pháp và chủ
nghĩa hiện sinh của Mỹ, còn có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh theo thái độ đối với
tôn giáo như chủ nghĩa hiện sinh vô thần và chủ nghĩa hiện sinh hữu thần. Trên những
vấn đề chính trị to lớn, giữa những nhà triết học hiện sinh cũng có những khác biệt lớn.
Nhưng tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều coi sự hiện sinh của cá nhân là
nội dung cơ bản trong triết học của mình.
Các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu (hiện sinh). Hữu
thể là khái niệm chỉ một cái gì đó (một vật, một người) đang tồn tại, đang có mặt, nhưng
chưa là một cái gì đó cụ thể cả, chưa có diện mạo, chưa có cá tính. Đó là một tồn tại
chưa sống đích thực, vô hồn, tức là chưa hiện hữu. Còn hiện hữu là một khái niệm chỉ
một cái gì đó không những là đang có mặt (tồn tại) mà còn đang sống đích thực với diện
mạo riêng.
Do đó hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người. Bởi vì
chỉ có con người mới có thể hiểu được sự tồn tại của bản thân và của sự vật khác, chỉ có
con người mới hiện sinh. Do đó nhiệm vụ hàng đầu của triết học là phân tích về mặt bản
thể luận đối với hiện sinh, tức là mô tả sự tồn tại bản chất của con người trong hoạt
động ý thức phi duy lý của các cá nhân. Theo chủ nghĩa hiện sinh, đó mới là bản thể
luận duy nhất đúng. Thực chất đây là bản thể luận triết học duy tâm chủ quan.
Về mặt nhận thức luận, do đã coi vấn đề bản thể luận trung tâm của triết học là sự
68
cảm thụ chủ quan và thái độ ứng xử của cá nhân nên chủ nghĩa hiện sinh không chú
trọng nghiên cứu nhận thức khoa học. Trái lại chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, những tri
thức thu được bằng khoa học dựa trên lý tính là hư ảo. Người ta càng dựa vào lý tính và
khoa học thì càng khiến mình bị chi phối, từ đó bị tha hóa. Theo họ, để đạt đến hiện sinh
chân chính thì chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính. Chỉ có trong cuộc sống đau khổ,
cô đơn, tuyệt vọng, sợ hãi... con người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự tồn tại
của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ
quan phi duy lý.
Về luân lý, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo
đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con
người. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn tự do của cá nhân.
Tự do của cá nhân không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào và cũng
không chịu sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào. Nó là tuyệt đối. Như
vậy quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực
đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt
đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức
hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh không chân thực. Bởi vì, khi
giữa xã hội và cá nhân có liên hệ chặt chẽ thì sự tồn tại của cá nhân sẽ không còn là cá
nhân thực sự mà là cá nhân đã bị đối tượng hóa, bị mất cá tính do bị ràng buộc với
người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập thể, xã hội và người khác lấn át. Do đó, tồn
tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Để khôi phục sự hiện sinh
của mình, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của những người khác và xã hội. Xã
hội chính là sản vật tha hóa của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách
quan tự thân phát triển theo quy luật, mà chỉ là một mớ ngẫu nhiên những con người bị
tha hóa. Động lực phát triển của lịch sử tất nhiên là không nằm trong xã hội, mà là ở
hiện sinh mỗi con người và nó cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng rãi đối với thế giới
phương Tây, và cả một số châu lục khác.
Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 thế kỷ XX, chủ nghĩa hiện sinh tuy đã
suy thoái nhưng những tư tưởng của nó vẫn tiếp tục có ảnh hưởng trong khoa học nhân
văn, triết học và khoa học xã hội ở nhiều nước phương Tây. Giải pháp của chủ nghĩa
hiện sinh đối với các vấn đề xã hội về cơ bản là tiêu cực. Nhưng các nhà hiện sinh đã
đóng vai trò tích cực khi họ đặt ra và đề cao nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề bản chất
con người, về sự tha hóa do sự thống trị của kỹ thuật, v.v.. Đặc biệt cũng như việc họ
thức tỉnh mọi người phải trăn trở về ý nghĩa của cuộc sống và về các hiện tượng bất hợp
lý trong xã hội tư bản hiện đại.

69
3. Chủ nghĩa Phơrớt
Chủ nghĩa Phơrớt cũng là một trường phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu
chủ nghĩa nhân bản phi duy lý do nhà bệnh học tinh thần, nhà tâm lý học người áo, Phơrớt
sáng lập. Học thuyết và phương pháp của Phơrớt, có ý nghĩa thế giới quan và nhân sinh
quan triết học, có ảnh hưởng rộng lớn đối với các trường phái của chủ nghĩa nhân bản
triết học phương Tây hiện đại.
Chủ nghĩa Phơrớt hình thành vào đầu thế kỷ XX trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản
đang đi vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, bệnh
tâm thần trong xã hội phát triển nhanh. Sinh học, sinh lý học, tâm lý học, v.v., cũng có
bước phát triển mạnh mẽ, khiến cho những lý luận giải thích các hiện tượng sinh lý và
tâm lý của con người bằng quan điểm cơ giới dần dần được thay thế bằng những lý luận
mới.
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu tiên
của Phơrớt. Ông chia quá trình tâm lý của con người thành ba bậc: ý thức, tiềm thức và
vô thức. Sự suy nghĩ của con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức.
ý thức là tâm lý nhận biết của con người. Thí dụ, một người nói với mình rằng trời sắp
mưa, phải mau mau về nhà thì suy nghĩ đó tiến hành trong trạng thái ý thức, tuân theo
những hình thức lôgíc. Còn vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí,
do bản năng, thói quen và dục vọng của con người gây ra. Hoạt động tâm lý này tiến
hành theo nguyên tắc khoái cảm, tức là do tình cảm và dục vọng chi phối, không bị hạn
chế về thời gian, không gian và quy tắc lôgíc của lý trí. Con người thường suy nghĩ
trong tình trạng vô thức như vô cớ bực bội.
Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở giữa ý thức và vô thức, hoạt động theo nguyên
tắc của tính hiện thực. Phơrớt cho rằng, trong vô thức ẩn giấu những xung đột bản năng,
phải thông qua sự lựa chọn và phê chuẩn của "tiềm thức" mới có thể trở thành ý thức.
Theo ông, ý thức không phải là thực chất của hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính
không ổn định của hoạt động tâm lý. Vô thức mới là căn cứ hành vi con người. Phơrớt
đánh giá cao tác dụng quan trọng của vô thức đối với hành vi con người. Ông phân tích
những hành vi vô thức thường ngày như nói nhịu, viết sai, quên lãng, đưa nhầm, lấy nhầm,
đánh mất, v.v. và cho rằng nguyên nhân tâm lý của những hành vi đó chính là kết quả
của những ước vọng bị dồn nén.
Phơrớt có cống hiến quan trọng trong việc đề xuất và nghiên cứu vai trò của vô
thức trong hệ thống phân tích tâm lý, nhưng ông sai lầm là đã khuếch đại tác dụng của
vô thức đối với hành vi của con người, không đánh giá đúng vai trò của ý thức và các
điều kiện xã hội.
Trong lý luận về nhân cách, Phơrớt đưa ra ba khái niệm "cái ấy", "cái tôi" và "cái
siêu tôi". Theo ông, "cái ấy" chính là sự thể hiện của libiđô (tính dục), là bản năng đầu
tiên có từ lúc con người sinh ra. Nó là nguồn năng lượng tâm lý đòi hỏi bộc lộ và đòi
hỏi được thỏa mãn một cách mãnh liệt. Nó là kết cấu phi lý tính, chỉ tuân theo nguyên
70

You might also like