Professional Documents
Culture Documents
- Theo mình được biết ở Việt Nam các công ty thường triển khai theo dạng 2 sử dụng
BTS mini (như vina công suất phát thường 16W, và 50W của mobifone và viettel).
- Một hệ thống IBS có cấu trúc như sau:
Ở đây:
+ Hybrid Combiner (hoặc POI):Có tác dụng kết hợp từ 2 nhà khai thác mạng dùng chung
một hệ thống.
+ Đối với những tòa nhà lớn phải dùng Amlifier để khếch đại tín hiệu (đồng nghĩa với
việc nếu Amplifier không tốt sẽ khếch đại cả nhiễu).
+ Sau khi qua Feeder cable sẽ dẫn đến hệ thống anten
- Ở Việt Nam cái khó nhất là cơ sở hạ tầng, không nhà khai thác nào chịu dùng chung cả
nên xảy ra hiện tượng mỗi nhà khai thác dùng một tủ BTS cho riêng mình. Vì vậy việc
kết hợp các nhà khai thác đi chung vào hệ thống IBS là cả 1 vấn đề....
Nếu công suất phát BTS là 16 hoặc 40W như bạn nói thì không thể gọi là BTS "mini"
được, dù là vina, mobile hay viettel thì việc lựa chọn cấu hình cell (marco,
normal,micro,pico cell) đều dựa vào tech.spec quy định công suất phát để định nghĩa là
BTS đó có phải là mini hay không . Thông thường giải pháp inbuiding thường dùng
các micro hoặc picocell với công suất phát nằm trong khoảng 5 - 10 W (thường phải là
những buiding lớn) hoặc 2,5 - 5W thôi. Ngoài ra có thể dùng giải pháp DAS (Distributed
Antenna System) dùng 1 BTS nhưng được chia đến nhiều anten khác nhau (mỗt tầng 1
anten chẳng hạn) để đảm bảo cover cho các tầng đó. Còn hybrid combiner để sử dụng
repeater kết hợp giữa các operator khác nhau phải đảm bảo làm sao mà module TRX
(Tranceiver) chỉ thu/phát trên tần số/băng tần số của mình thôi. Có nghĩa là dùng các BPF
chặn không cho tín hiệu của operator này chui vào receiver của operator kia. CÒn
amplifier thì nó chỉ biết khuyếch đại tất cả cái gì đưa vào nó, kể cả can nhiễu. Viêc sử
dụng repeater nếu thiết kế không tốt rất dễ xảy ra nhiễu đồng kênh cho các khu vực lân
cận.
inbuilding solution
Tôi đã bảo vệ luận văn thạc sỹ về đề tài này, tôi có thể trả lời cho bạn. Tôi cũng có một
bài báo viết về IBS (inbuilding solution) trên tạp chí Bưu chính viễn thông và công nghệ
thông tin (Kỳ 1-tháng 11/2007), chi tiết bạn có thể tham khảo ở đây. Dưới đây tôi chỉ đưa
ra một số điểm chính về hệ thống IBS, hy vọng sẽ giúp ích cho bạn được ít nhiều.
1. Lý do cần có IBS
Đối với các công ty cung cấp dịch vụ di động đã phủ sóng 64/64 tỉnh thành có một vấn đề
cần quan tâm là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…chất lượng phủ
sóng trong các toà nhà, đặc biệt là các toà nhà cao tầng của khách sạn, văn phòng…chưa
được đảm bảo. Tại các tầng thấp thường có tình trạng sóng yếu, chập chờn, ở các tầng
cao thì nhiễu (nhất là đối với các nhà khai thác chia sẻ chung băng tần GSM) dẫn đến khó
thực hiện và rớt cuộc gọi. Tuy nhiên, do đặc trưng vùng phủ của những khu vực này rộng
hoặc trải dài theo chiều dọc, sóng vô tuyến từ trạm BTS outdoor macro bị suy hao nhiều
khi xuyên qua các bức tường bê tông dẫn đến cường độ tín hiệu không đạt yêu cầu, nên
giải pháp phủ sóng trong tòa nhà (inbuilding) hiện nay được nhiều nhà cung cấp dịch vụ
di động lựa chọn.
2. Sơ đồ khối
Hệ thống inbuilding bao gồm 3 phần chính là: nguồn tín hiệu, hệ thống phân phối tín hiệu
và phần tử bức xạ. Trong đó hệ thống phân phối tín hiệu là điểm khác biệt điển hình giữa
hệ thống inbuilding so với hệ thống mạng BTS outdoor macro thông thường.
Hình 2: Vùng phủ cho in-building từ một tÕ bµo macro trong mạng BTS outdoor macro
Ưu điểm của giải pháp này là chi phí thấp, không mất nhiều thời gian trong triển khai, có
thể phủ cả ngoài nhà (outdoor) và trong nhà (indoor). Nhược điểm của giải pháp này là
vùng phủ hạn chế, tốc độ bit thấp đối với các dịch vụ dữ liệu, dung lượng thấp và chất
lượng không thể chấp nhận được ở một số phần trong toà nhà. Suy hao tăng dần khi tần
số càng cao, do vậy khó cung cấp vùng phủ cho toà nhà mức tín hiệu tốt. Suy hao có thể
khắc phục bằng cách tăng công suất từ các trạm outdoor nhưng nhiễu sẽ tăng. Việc thiết
kế tần số gặp nhiều khó khăn do quỹ tần số hạn hẹp (nhất là đối với các nhà khai thác
chia sẻ chung băng tần GSM).
Ngoài cách phủ sóng inbuilding bằng trạm outdoor ta có thể sử dụng trạm lặp (repeater)
làm nguồn vô tuyến cung cấp cho hệ thống phân phối. Khi đó vùng phủ của trạm outdoor
hiện có được mở rộng. Nhưng giải pháp này ít được sử dụng trong thực tế vì cường độ tín
hiệu, chất lượng, sự ổn định, dung lượng phụ thuộc vào trạm BTS donor và việc thiết kế
cho trạm lặp (quỹ đường truyền, mức độ cách ly 2 hướng) mặc dù giá thành thấp, triển
khai nhanh, dễ dàng.
Vì có nhiều nhược điểm nói trên nên trên thực tế rất ít nhà cung cấp dịch vụ di động sử
dụng giải pháp này, trừ trường hợp bất khả kháng.
Nguồn tín hiệu bằng trạm indoor dành riêng:
Hình 3: Vùng phủ cho toµ nhµ được cung cấp bởi trạm indoor dành riêng
Giải pháp này có thể tăng thêm dung lượng cho những vùng indoor yêu cầu lưu lượng
cao. Vấn đề chính ở đây là cung cấp dung lượng yêu cầu trong khi vẫn đảm bảo vùng phủ
tốt của toà nhà mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ của mạng BTS outdoor
macro. Vì vậy giải pháp này được các nhà cung cấp dịch vụ di động sử dụng chủ yếu
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác trong khu vực: Singapo (hãng Singtel),
Malaysia (hãng Digi)...
Ưu điểm: nguồn tín hiệu donor ổn định, mức tín hiệu tốt, mở rộng dung lượng hệ thống
dễ dàng. Nhược điểm: giá thành cao, yêu cầu phải có cách bố trí tần số/kênh cụ thể và
xây dựng hệ thống truyền dẫn đảm bảo tính mỹ thuật.
b. Hệ thống phân phối tín hiệu
Hệ thống phân phối tín hiệu có nhiệm vụ phân phối tín hiệu từ nguồn cung cấp đi đến các
anten hoặc phần tử bức xạ khác và được phân loại thành:
Hệ thống thụ động:
Hệ thống thụ động là hệ thống anten được phân phối bằng cáp đồng trục và các phần tử
thụ động. Đây là giải pháp phổ biến nhất cho các khu vực phủ sóng inbuilding không quá
rộng, có đặc điểm:
Hình 4: Giải pháp hệ thống anten phân phối cáp đồng thụ động
- Trạm gốc được dành riêng cho toà nhà. Tín hiệu vô tuyến từ trạm gốc được phân phối
qua hệ thống đến các anten. Vùng phủ cho toà nhà được giới hạn đồng thời không làm
ảnh hưởng đến chất lượng mạng BTS outdoor macro. Nhưng yêu cầu kỹ sư thiết kế phải
tính toán quỹ đường truyền cẩn thận vì mức công suất ở mỗi anten phụ thuộc vào sự tổn
hao mà các thiết bị thụ động được sử dụng, đặc biệt là chiều dài cáp.
- Các thiết bị chính gồm: cáp đồng trục, bộ chia (splitter/tapper), bộ lọc (filter), bộ kết
hợp (combiner), anten.
Hệ thống chủ động:
Hệ thống chủ động là hệ thống anten phân phối sử dụng cáp quang và các thành phần chủ
động (bộ khuếch đại công suất). Việc sử dụng cáp quang từ BTS tới khối điều khiển từ xa
có thể mở rộng tới từng vị trí anten riêng lẻ bằng cách: tín hiệu RF từ BTS được chuyển
đổi thành tín hiệu quang rồi truyền đến và được biến đổi ngược lại thành tín hiệu RF tại
khối điều khiển từ xa trước khi được phân phối tới một hệ thống cáp đồng nhỏ. Ngoài ra,
hệ thống còn sử dụng các thiết bị khác trong việc phân phối tín hiệu: Hub quang chính,
cáp quang, Hub mở rộng, khối anten từ xa.
Hình 5 (a): Sơ đồ một hệ thống anten phân phối chủ động cho khu trường sở
RAU: Remote bi-direction antenna unit.
Giải pháp này thường được sử dụng cho những khu vực phủ sóng inbuilding rất rộng, khi
mà hệ thống thụ động không đáp ứng được chỉ tiêu kỹ thuật suy hao cho phép. Khi đó
một BTS phục vụ được nhiều tòa nhà trong một vùng, thường là các khu trường sở. Các
kết nối khoảng cách xa (hơn 1km) sử dụng cáp quang, sự phân phối giữa một tầng và các
phần trong toà nhà có thể dùng cáp xoắn đôi dây. Nhưng nhược điểm dễ nhận thấy là chi
phí đắt.
Coupler/tapper về cơ bản cũng giống như splitter nhưng là bộ chia công suất không đều
nhau theo một tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ này cho biết công suất ở nhánh chính/nhánh phụ sau
bộ chia giảm đi bao nhiêu dB so với tín hiệu trước khi đi vào bộ chia.
Cả 2 cách phân phối trên đều có thể có công suất bức xạ đẳng hướng tương đương đồng
đều. Đối với Splitter thì thi công phức tạp hơn, chi phí cao hơn còn coupler/tapper thi
công dễ hơn, chi phí thấp hơn, nhưng nhiều rủi ro và suy hao hơn do có nhiều mối nối.
b. Bộ kết hợp
Bộ kết hợp dùng để ghép 2 hoặc nhiều thiết bị thu phát vô tuyến khác nhau sử dụng
chung một hệ thống inbulding, bao gồm:
Hình 7 : Sơ đồ đấu nối bên trong bộ Coupler lai ghép
- Coupler lai ghép dùng để kết hợp 2 trạm BTS 900 MHZ và 1800 MHz khi dung lượng 1
trạm BTS 900 không đủ phục vụ. Tổn hao của bộ Coupler lai ghép này thường là 3±0.5
dB.
- Bộ kết hợp nhiều trạm BTS (MCM) dùng để ghép nhiều trạm của nhiều nhà cung cấp di
động khác nhau sử dụng chung cùng một hệ thống inbuilding. Thiết bị này có thể ghép
tối đa được 4 trạm BTS với tổn hao vào khoảng 6.2±0.5 dB.
Hình 8 : Sơ đồ đấu nối bên trong bộ kết hợp nhiều trạm BTS
c. Bộ khuếch đại
Bộ khuếch đại được sử dụng trong trường hợp tuyến cáp dài, suy hao vượt quá tiêu chuẩn
cho phép.
c) Phần tử bức xạ
- Phần tử bức xạ có nhiệm vụ biến đổi năng lượng tín hiệu điện thành sóng điện từ phát ra
ngoài không gian và ngược lại. Do hệ thống inbuilding được sử dụng ở những khu vực có
vùng phủ sóng đặc biệt như đã nói ở trên nên đối với từng công trình cụ thể đòi hỏi phải
có phần tử bức xạ thích hợp. Cụ thể:
Anten: sử dụng thích hợp với những vùng phủ có khuynh hướng hình tròn hoặc hình chữ
nhật. Đó là vì anten cho vùng phủ sóng không đồng đều, việc tính quỹ đường truyền phụ
thuộc nhiều vào cấu trúc của toà nhà. Có 2 loại anten thường được sử dụng là anten vô
hướng (omni) và anten có hướng (yagi). Anten vô hướng có tính thẩm mỹ, nhỏ gọn dễ
lắp đặt nên có thể kết hợp hài hoà với môi trường trong toà nhà, còn anten có hướng có
độ tăng ích cao thích hợp khi phủ sóng trong thang máy.
Cáp rò: Đặc điểm của cáp rò (còn gọi là cáp tán xạ) là có cường độ tín hiệu đồng đều theo
một trục chính nên thường được dùng cho các vùng phủ phục vụ kéo dài đặc biệt như:
hành lang dài, xe điện ngầm, đường hầm...
5) Các thiết bị tích cực và thụ động được sử dụng trong hệ thống
- BTS, Micro BTS.
- Antenna: omni, sector , yagi.
- Feeder cable: 1/2”, 7/8”
- Coupler
- Connector
- Power Splitter: 1 in 2 out, 1 in 3 out, 1 in 4 out.
- Jumper Wire
- Combiner
- Attenuator
- Termination Loads
- Line Amplifier
- Repeater
(Sưu tầm)
Three types of in-building coverage solutions exist in the market: Passive, Active, and
Hybrid.
The figure below shows a typical in-building coverage system for a building. One signal
source feeds the distributed antenna system (DAS).
Category: KIẾN THỨC VIỄN THÔNG | Added by: AYENL (17-08-2009) | Author:
Unknown
Views: 1704
Total comments: 1
0
1 AYENL (13-10-2009 1:08:23)
2G to 3G in-building coverage migration path
The paper describes the operator alternatives when moving from 2G in-building
deployment to 3G in-building deployment.
90% of existing deployments inside buildings are for 2G systems and only 10% are for
3G deployments. New deployments are 90% for 3G and 10% for 2G. This is the 2G–to–
3G migration path that most GSM cellular operators are dealing with today.
When the operator would like to migrate from 2G to 3G there are two choices, to replace
the all in-building system with an active one, or to use the existing passive Distributed
Antenna System (DAS) while adding the 3G signal to the one point signal source.
The Active system is a more costly solution. However, the existing solution doesn’t
support remote diagnostics.
In the world of 3G, quality of service inside buildings is as critical to wireless revenue as
network performance on the open road. Therefore, remote diagnostics inside buildings
are vital for cellular operators.
Source: atto-sense