Dàn Ý Tư Tư NG H Chí Minh

You might also like

You are on page 1of 10

Trần Gia Lộc

Dàn ý chi tiết


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh


1. Giá trị truyền thống dân tộc
– Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền thống của nhân dân, là sự kế thừa và
phát triển các giá trị văn hoá dân tộc.
– Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo lập cho dân tộc Việt Nam một nền văn
hoá phong phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, cao quý. Trong
nguồn giá trị tinh thần đó, chủ nghĩa yêu nước luôn là cốt lõi, là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử,
là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước trở thành tư tưởng
tình cảm, thấm sâu vào lối sống của mỗi con người Việt Nam.* Người khẳng định: “Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”. Chủ nghĩa yêu nước là tài sản quý báu nhất
trong hành trang cách mạng của Người, là động lực chính thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, vượt
qua bao gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
– Dân tộc ta còn có truyền thống đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân với gia đình, với làng xóm, với đất
nước, tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, đùm bọc nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Truyền thống
đó được hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh đấu tranh quyết liệt để chinh phục thiên
nhiên và đánh đổ ngoại xâm.*
– Dân tộc ta là dân tộc có tinh thần nhân nghĩa, nhân ái, thuỷ chung, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý.
Người Việt Nam sống có tình có nghĩa, chan hoà, gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tình nghĩa
đồng bào, tình đồng chí, tình anh em năm châu bốn bể một nhà.*
– Dân tộc ta có truyền thống lạc quan, yêu đời. Người Việt Nam vẫn động viên nhau “chớ thấy sống cả mà
ngả tay chèo”. Cơ sở của sự lạc quan, yêu đời đó là niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất thắng của chân
lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ. Ở Hồ Chí Minh, ta thấy được một trái
tim lạc quan ngời sáng ấy. Người vẫn luôn tin vào sức mạnh của dân tộc, sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam cho dù con đường này còn nhiều chông gai.*
– Dân tộc ta là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và trong chiến đấu.
Đồng thời dân tộc ta quý hiền tài, trọng hiếu học, luôn cầu thị, ham học hỏi, mở rộng cửa để đón nhận tinh
hoa văn hoá nhân loại làm giàu cho văn hoá Việt Nam.
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
– Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hoá phương Đông với các thành tựu của văn minh phương
Tây, đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hoá Hồ Chí Minh.
– Về văn hoá phương Đông, Người đã tiếp thu những mặt tích cực của tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo
và chắc lọc những tinh tuý của các triết thuyết khác như Lão Tử, Mặc Tử, ...
– Vốn sinh ra trong gia đình sĩ phu nho học, vì vậy ngay từ nhỏ Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người.
Nho giáo là học thuyết về đạo đức và phép ứng xử, triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị, hoà
mục, có vua sáng tôi hiền, có cha từ con thảo. Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo, nhân nghĩa và coi trọng
truyền thống hiếu học. Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực đó của Nho giáo, về triết lý nhân sinh, về
tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Do đó, trong nhiều tác phẩm của mình, Người sử dụng nhiều
khái niệm của Nho giáo nhưng mang vào đó những ý nghĩa mới cách mạng hơn như “vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân) hay chữ “trung –
hiếu” đối với dân với nước. Tuy nhiên, Người cũng phê phán Nho giáo có những tư tưởng tiêu cực, yếu tố
lạc hậu như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp quân tử và tiểu nhân, xem thường lao động chân
tay, trọng nam khinh nữ.

1
Trần Gia Lộc

– Phật giáo vào Việt Nam từ rất lâu đời, ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống hằng ngày của nhân dân, để lại
nhiều dấu ấn từ tâm tư, tình cảm đến lối sống, nếp nghĩ, trong phong tục, tập quán hay tín ngưỡng Việt
Nam. Hồ Chí Minh sớm tiếp thu và khai thác những ưu điểm của Phật giáo. Đó là tư tưởng vị tha, lòng từ
bi bác ái “thương người như thể thương thân”, tinh thần bình đẳng chúng sinh, tình yêu bao la đến chim
muông cây cỏ. Phật giáo cũng đề cao nếp sống đạo đức, lối sống trong sạch, chăm lo điều thiện, coi trọng
lao động. Phật giáo vào Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dân, hoà vào cộng đồng
chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân.
– Người cũng đã tìm thấy ở Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn những điều phù hợp với điều kiện của
cách mạng nước ta. Đó là tư tưởng dân chủ tiến bộ: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do – Dân sinh hạnh
phúc.
– Về văn hoá phương Tây, trong suốt hành trình bôn ba nơi viễn xứ để tìm đường cứu nước, chủ yếu là các
nước châu Âu, Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá phương Tây như. Trước hết,
đó là tư tưởng tự do – bình đẳng – bác ái ở Pháp, là tư tưởng dân chủ về quyền sống, quyền tự do và mưu
cầu hạnh phúc của Mĩ. Người tiếp thu dân chủ tư sản qua tư tưởng tiến bộ của những nhà Khai sáng Pháp
như Voltaire, Rousso, Montesquieu, …
– Công giáo, nhất là Thiên chúa giáo, là tôn giáo lớn của phương Tây cũng tác động mạnh đến sự
nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người tiếp thu mặt tích cực của Công giáo, đó là lòng nhân ái,
là tấm gương nhân từ của Chúa hi sinh vì sự nghiệp cứu rỗi con người.
– Như vậy, trên con đường hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời
đại, từ Đông đến Tây, từ cổ chí kim, vừa thâu hái tiếp nhận, vừa gạn lọc lựa chọn, và kế thừa, vận dụng
sáng tạo, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư tưởng của Người. Người dẫn lời của Lenin: “Chỉ
có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để
lại”.
3. Chủ nghĩa Marx–Lenin
– Nói về chủ nghĩa Marx–Lenin, đó là chủ nghĩa cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất. Chủ nghĩa
Marx–Lenin là bộ phận tinh tuý nhất của nhân loại, là đỉnh cao tư tưởng của con người.
– Người khẳng định: Chủ nghĩa Marx–Lenin không chỉ là cuốn cẩm nang thần kì, kim chỉ nam, mà còn là
mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
– Chủ nghĩa Marx–Lenin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định cho bước phát triển về chất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giác ngộ dân tộc kết hợp với giác
ngộ giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản. Chủ nghĩa Marx–Lenin trở
thành nền tảng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời tư tưởng
của Người góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Marx–Lenin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên
giành độc lập, tự do.
– Thật vậy, chủ nghĩa Marx–Lenin là học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp, thể hiện tư tưởng của
giai cấp tiên tiến nhất – giai cấp công nhân, và khẳng định xu hướng tất yếu của nhân loại, dù sớm hay
muộn các nước đều tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Marx–Lenin, Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống dân tộc, phát huy các giá trị văn
hoá tốt đẹp của cha ông, tiếp thu tinh hoa thời đại để hình thành nên hệ tư tưởng đặc sắc của mình. Từ đó,
Người tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phân tích một cách đúng đắn con đường cứu nước của dân tộc: đó
là con đường cách mạng vô sản. Chủ nghĩa Marx–Lenin đã nâng chủ nghĩa yêu nước lên một tầm cao mới,
một bước phát triển mới phù hợp với yêu cầu của dân tộc và t hời đại.
4. Phẩm chất cá nhân
– Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân tố
chủ quan đó thuộc về nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh.
– Trước hết, ta thấy ở Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và
sáng suốt trong việc nghiên cứu lý luận, tìm hiểu các cuộc cách mạng trong nước và trên thế giới.
2
Trần Gia Lộc

– Ở Người có sự khổ công học tập, rèn luyện chăm chỉ nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân
loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp
cận đến chủ nghĩa Marx–Lenin với tư cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản.
– Ở Người có tâm hồn của một nhà yêu nước vĩ đại, có ý chí của một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành với
cách mạng. Trái tim Người là một trái tim yêu nước thương dân bao la, thương người cùng khổ, sẵn sàng
hy sinh vì độc lập của dân tộc, của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, của đồng bào. Cùng với những
phẩm chất hiếm có ấy, Hồ Chí Minh từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho
cả dân tộc đi theo.
5. Tổng kết
– Trong các nguồn gốc lý luận thì nguồn gốc chủ nghĩa Marx–Lenin là quan trọng nhất, quyết định bước
ngoặt cách mạng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Giữa nguồn gốc lý luận với nhân tố chủ quan
thì không thể xác định yếu tố nào quan trọng hơn, bởi thiếu một trong hai nội dung đó sẽ không có tư tưởng
Hồ Chí Minh.
– Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng truyền thống của
dân tộc, tinh hoa văn hoá của nhân loại chủ nghĩa Marx–Lenin làm nền tảng, cùng với thực tiễn của dân
tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh – một con người có tư duy sáng tạo, có nhân
cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Ở Người, ta thấy được đức từ bi của Phật Thích Ca, lòng bác
ái của Chúa Jesus, tình nhân nghĩa của Khổng tử, phương pháp biện chứng của Marx và tinh thần cách
mạng của Lenin, tất cả đều hài hoà hội tụ trong một dáng dấp tự nhiên – dáng dấp vị lãnh tụ đáng kính của
dân tộc và nhân loại!

Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
– Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ cách mạng
chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Người nhận định, con đường bạo động của Phan
Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng
khác nào “xin giặc rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt
cách phong kiến; con đường của Nguyễn Thái Học theo hệ tư tưởng tư sản nhưng vẫn thất bại, chứng tỏ giai
cấp tư sản Việt Nam không đảm đương được sứ mệnh dân tộc.
– Người nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng, điển hình là cách mạng giải phóng dân tộc của Mỹ năm 1776,
cách mạng Pháp 1789 và đi đến kết luận thực chất đây là cuộc cách mạng tư bản, không đến nơi, nửa vời,
nhân dân vẫn bị bóc lột, áp bức đói khổ, “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
– Hồ Chí Minh vượt lên trên những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước, đến với học thuyết cách
mạng vô sản. Người khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
– Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao hàm nội dung sau:
+ Một là, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để giải phóng dân tộc, giành
chính quyền, tiến tới chủ cộng sản.
+ Hai là, nhiệm vụ cách mạng hàng đầu là phải đánh đổ Đế quốc và bè lũ tay sai để giành lấy độc lập
cho dân tộc, phải đánh đổ chế độ phong kiến để giành lấy ruộng đất cho dân cày.
+ Ba là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
+ Bốn là, lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.

3
Trần Gia Lộc

+ Năm là, cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Cách mạng thuộc địa
phải gắn chặt với cách mạng vô sản chính quốc. Cách mạng Việt Nam phải hết sức liên lạc với các dân
tộc bị áp bức trên thế giới, đoàn kết với giai cấp vô sản ở mọi nơi, nhất là vô sản Pháp.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
– Hồ Chí Minh khẳng định làm cách mạng là làm cho dân giác ngộ, là giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho
nhân dân hiểu. Do đó, để làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có đảng cách
mệnh”, “đảng có vững cách mệnh mới thành công”. Để đảng vững mạnh, phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ
nghĩa đó chắc chắn phải là chủ nghĩa Marx–Lenin.
– Cách mạng giải phóng dân tộc phải có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc đảng kiểu
mới của Lenin. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự
thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Bác cho rằng các tổ chức
cách mạng theo kiểu cũ không thể đưa cách mạng đến thành công vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn và phương pháp cách mạng khoa học.* Các lãnh tụ yêu nước tiền bối tuy đã ý thức được tầm quan
trọng của chính đảng cách mạng và một đường lối chính trị đúng đắn, song họ chưa làm được.
– 2/1930, Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng của phong trào cách mạng nước ta. Một
đảng có tổ chức chặc chẽ, kỉ luật nghiêm minh, liên hệ mật thiết với quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời,
Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã qui tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân
tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm
ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông
– Con người là sản phẩm của lịch sử, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Đây là những quan điểm đã được chủ nghĩa Marx–Lenin khẳng định.
– Kế thừa những quan điểm đó, đồng thời kết hợp với nghiên cứu điều kiện, hoàn cảnh của các dân tộc
thuộc địa trên toàn thế giới, đặc biệt là tình hình thực tế trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định:
cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải của riêng một hay hai người, và sự nghiệp
ấy phải luôn khẳng định công nông là “gốc cách mệnh”, là “chủ cách mệnh”; kẻ thù của dân tộc Việt Nam
là bọn Đế quốc và bè lũ tay sai phản cách mạng, vì vậy cần phải tập trung, đoàn kết lực lượng toàn dân để
đánh đổ chúng, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.*
– Để thực hiện được nhiệm vụ lớn lao ấy, Hồ Chí Minh nhấn mạnh người lãnh đạo cuộc cách mạng này
phải là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
– Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Quan điểm này vô hình trung
đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê phán
và chỉ ra sai lầm của quan điểm đó.
– Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có
mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan hệ chính – phụ.
Người nhận định sinh động về chủ nghĩa đế quốc như sau: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có 2 vòi, một
vòi bám vào hút máu người dân trong nước, vòi kia bám vào hút máu nhân dân lao động ở thuộc địa. Muốn
diệt được con đỉa ấy, cần phải cắt đồng thời cả 2 vòi. Nếu chỉ cắt một vòi thôi, con vật vẫn sống, và cái vòi
bị cắt kia sẽ lại mọc ra!
– Nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, đánh giá đúng đắn sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Để làm được
điều đó, cách mạng thuộc địa trước hết phải tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính, tiến hành chủ động
4
Trần Gia Lộc

và sáng tạo. Thắng lợi của cách mạng thuộc địa sẽ thúc đẩy cách mạng ở chính quốc, từ đó cách mạng ở
chính quốc sớm đi đến thành công. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Marx–Lenin,
đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng (tự làm)
6. Vận dụng
a) Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
– Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để
xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan trọng
nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người Việt Nam biến thành động lực để chiến thắng kẻ
thù, hôm nay xây dựng và phát triển kinh tế.
b) Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp
– Đối với Việt Nam, trong công cuộc đổi mới, quan điểm xem xét vấn đề dân tộc tách rời vấn đề giai cấp
cũng được bộc lộ dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Điều quan trọng hơn cả, chúng ta cần khắc
phục những quan điểm sơ cứng, giáo điều trong việc nhìn nhận vấn đề giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” vì mục tiêu đó vừa đảm bảo tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.
– Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đi đôi với việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác–Lênin,
chúng ta cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong toàn Đảng, toàn dân ta, lấy đó làm định hướng cho việc nhận
thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và thời đại ngày nay.
c) Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam
– Văn kiện Đại hội IX nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng. Trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải huy động được sức người, sức của của đồng
bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài góp sức cho sự thành công của công cuộc đổi mới. Phải chăm
lo giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam vi đại đoàn
kết các dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng
nước và giữ nước.
– Trong công tác dân tộc Hồ Chí Minh chỉ thị các cấp bộ Đảng phải thi hành đúng chính sách dân tộc, thực
hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc sao cho đạt mục tiêu: nhân dân no ấm hơn, mạnh
khoẻ hơn. Văn hoá sẽ cao hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng
hơn.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
1. Mục tiêu
– Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân: làm cho ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đây cũng là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội.
– Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử: dân tộc được giải phóng, giai cấp được
giải phóng và mỗi cá nhân con người được giải phóng, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do toàn diện của
con người.
– Từ đó, Hồ Chí Minh xác định các mục tiêu cụ thể của chủ nghĩa xã hội trên tất cả lĩnh vực đời sống xã
hội:
5
Trần Gia Lộc

+ Mục tiêu chính trị: là chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước là
của dân, do dân và vì dân, có chức năng dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù. Mọi công
dân đều có quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước, có quyền kiểm soát, giám sát
đại biểu, và có quyền bãi miễn các đại biểu nếu họ tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Dân là chủ thì chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người đòi hỏi cán bộ không ngừng rèn luyện đạo đực
cách mạng chăm lo gánh vác công việc, còn người dân phải hiểu rỏ nghĩa vụ của người làm chủ phải
tôn trọng và chấp hành pháp luật, nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng vai trò của người chủ.
+ Mục tiêu kinh tế: là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển cao với công–nông nghiệp hiện đại, khoa
học–kỹ thuật tiên tiến, xoá bỏ quan hệ bóc lột, cải thiện đời sống. Nền kinh tế ấy xây dựng trên cơ sở
lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong thời kỳ quá độ vẫn tồn tại bốn hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của
tư nhân, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán
đến người lao động.
+ Mục tiêu văn hoá: là nền văn hoá mới – nền văn hoá xã hội chủ nghĩa vì con người, vì lợi ích con
người. Nền văn hoá ấy phải đậm đà bản sắc dân tộc, có sự tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hoá
nhân loại, đồng thời kết hợp với kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã để
lại. Để xây dựng được nền văn hoá mới, mục tiêu cơ bản hàng đầu là xoá bỏ nạn mù chữ, phát triển nghệ
thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí, phải luôn lấy hạnh phúc của cộng đồng là mục tiêu vươn
tới của văn hóa.
+ Mục tiêu xã hội: là một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một xã hội có đạo đức, có lối sống lành
mạnh. Mọi chế độ, chính sách đều phải là chế độ, chính sách phục vụ lợi ích con người. Người luôn
quan tâm đến trau dồi phẩm chất đạo đức song cũng không xem nhẹ tài năng, luôn tạo kiện cho người
có tài được cống hiến.
2. Động lực
– Theo Hồ Chí Minh, tất cả những nhân tố, yếu tố thúc đẩy sự vân động và phát triển của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đều là động lực chủ nghĩa xã hội.
– Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú và đa
dạng, có động lực vật chất và tinh thần, có động lực bên trong và bên ngoài như: điều kiện tự nhiên và vị
trí địa lý thuận lợi; nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào; con người Việt Nam cần cù, sáng tạo; thành tựu
khoa học–công nghệ trên thế giới; … Trong đó, quan trọng nhất, bao trùm lên tất cả vẫn là động lực con
người. Các động lực khác muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua con người.
– Động lực con người được xét trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân.
+ Trên phương diện cộng đồng, đó là sức mạnh của cộng đồng, của toàn dân. Đây là động lực chính
để phát triển đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định phải ra sức xây dựng và phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết dân tộc, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động xây dựng chủ nghĩa xã hội của
toàn Đảng, toàn dân. Để phát huy tối đa động lực ấy, cần phải củng cố vai trò và nâng cao hiệu quả
của các tổ chức chính trị–xã hội, tạo điều kiện để các tổ chức ấy tham gia xây dựng và phát triển kinh
tế, văn hoá và xã hội; giúp đỡ các đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển.
+ Trên phương diện cá nhân, đó là sức mạnh của con người lao động với tư cách cá nhân từng người.
Xét cho cùng, sức mạnh của cộng đồng được hình thành từ sức mạnh của từng con người, thông qua
sức mạnh của từng con người. Do đó, muốn phát huy sức mạnh của cộng đồng, phải tìm ra các biện
pháp khơi dậy, phát huy sức mạnh của từng con người. Để phát huy nguồn lực con người trên phương
diện cá nhân, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều biện pháp trên cơ sở kích thích hành động gắn liền với lợi
ích vật chất chính đáng của người lao động: chăm lo đời sống của nhân dân từ chỗ ăn, chỗ ở, việc làm;
tìm tòi cơ chế, chính sách để kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội như khoán, thưởng, phạt
công minh.
– Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng
lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc, lợi dân gắn kinh tế với kỹ thuật, kinh
tế với xã hội. Bên cạnh đó, Người cũng chú ý các yếu tố tác động cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở
6
Trần Gia Lộc

phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và ý thức làm chủ, Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến văn
hóa, khoa học, giáo dục. Đó là những động lực bên trong, tiềm tàng của sự phát triển.
– Ngoài ra Hồ Chí Minh còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học kỹ thuật thế giới.
– Để thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thành công, bên cạnh việc tìm ra và tác động
vào các động lực, Hồ Chí Minh còn yêu cầu chúng ta phải nhận diện và khắc phục các trở lực kìm hãm sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, Người yêu cầu chúng ta phải kiên
quết đấu tranh chống lại các trở lực sau:
+ Phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh mẹ đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm.
+ Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật.
+ Phải chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới, ...
Theo Người các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp
cách mạng của Đảng, Người gọi đó là giặc nội xâm.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
1. Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một nhà nước hợp hiến.
– Vì vậy sau khi giành chính quyền, ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Từ đây, chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó
lập chính phủ và các cơ quan nhà nước mới.
– Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu, thành lập uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh
được Quốc hội nhất trí bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu
tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
2. Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm
cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
– Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên
mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật.
– Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối
quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ, có công lớn trong
sự nghiệp lập hiến và lập pháp: một mặt, Người chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của
nhà nước ta; mặt khác, Người chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật
được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của nhân dân.
– Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương
vị nào. Công tác giáo dục luật cho mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ quan trọng trong việc xây
dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi
trong cuộc sống.
3. Để nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là phải tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức của nhà nước có đủ đức và tài.
– Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Người cho rằng cần phải nhanh chóng đào
tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật,
thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức “cần kiệm liêm chính – chí công vô tư”, một

7
Trần Gia Lộc

tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có đức và tài trong đó đức
là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả.
– Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy
chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm
vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật,
địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng
dân chủ, ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
4. Vận dụng
a) Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân
– Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước là phải đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thật
sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
– Phát huy dân chủ phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật.
Nhà nước phải tiếp tục thể chế hóa bằng pháp luật các quyền dân chủ của người dân trên mọi lĩnh vực, đồng
thời phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho công dân được bình đẳng
trước pháp luật.
b) Cải cách và kiện tòan bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh
– Cải cách kiện tòan bộ máy hành chính đang là một yêu cầu bức xúc. Sau nhiều năm đổi mới đất nước, nền
hành chính của ta còn nhiều hạn chế. Vì vậy phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong
sạch, vững mạnh. Phục vụ nhân dân đắc lực, hiệu quả. Kiên quyết khắc phục quan liêu, hách dịch, cửa
quyền.
– Xây dựng đội ngủ cán bộ có vừa tài, có vừa đức. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ phải đặt lên hàng đầu
và phải được tiến hành thường xuyên đảm bảo chất lượng.
c) Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
– Trong giai đọan hiện nay cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Thể hiện ở những nội
dung như: thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò
quản lý của Nhà nước. Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức


1. Trung với nước, hiếu với dân
– Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là
mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
– Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông,
xong có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con
đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. “Trung” là trung với nước, trung
thành với lợi ích của đất nước, của nhân dân; còn “hiếu” là hiếu với nhân dân, trong đó có cha mẹ mình.
– “Trung với nước” phải gằn liền “hiếu với dân”. Vì nước là của dân, còn dân là chủ của đất nước. Đây
là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
– Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, để thể hiện lòng trung với nước, hiếu với dân, mỗi cán bộ, đảng viên
và người dân, trên mọi lĩnh vực công tác và nghề nghiệp, phải làm tốt công việc chuyên môn, hoàn thành
tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính

8
Trần Gia Lộc

sách, pháp luật của Nhà nước, sống gần gũi, gắn bó với những người xung quanh mình, thân ái, giúp đỡ
những người gặp khó khăn, hoạn nạn.
– Đối với những người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại
phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Thực hiện được những điều đó,
nhất định người lãnh đạo sẽ được dân tin, dân yêu, dân kính, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho
cách mạng.
2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
– Hồ Chí Minh đã kế thừa những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư từ đạo đức phương Đông
và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những nội dung tốt đẹp, lọc bỏ những nội dung không
còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
– Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần
tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
– Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản
thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to. Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
– Liêm là trong sạch, không tham lam tiền tài, danh tiếng, địa vị. Liêm tức là “luôn tôn trọng giữ gìn của
công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Hành vi trái với
liêm là cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa
vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham
uý lạo. Khổng Tử nói: người mà không liêm, không bằng súc vật.
– Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu
tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh hót người
trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối
với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố
gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
– Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng. “lo cái lo của thiên hạ trước, vui cái vui của thiên hạ sau” (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc). Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm
hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ
nghĩa cá nhân.
3. Yêu thương con người
– Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
– Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí
Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng,
mới nói đến CNXH và CNCS.
– Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã
nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.

9
Trần Gia Lộc

– Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có
ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
– Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức không thể thiếu được đối với mỗi
Đảng cách mạng và mỗi người dân. Bản thân Người là một biểu tượng cao đẹp của tinh thần quốc tế trong
sáng.
– Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những
người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của
thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc, phân
biệt chủng tộc.

10

You might also like