You are on page 1of 346

TỪ MẶT TRẬN HÀ NỘI ĐẾN CÁC CHIẾN TRƯỜNG

Vương Thừa Vũ

Lời tựa

Tướng Vương Thừa Vũ sinh ra ở Hà Nội, ra đi làm cách mạng từ Hà Nội, rồi bị đế
quốc Pháp bắt giam tại Hoả Lò - Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945 ông là Khu truởng
Khu XI - Hà Nội, rồi làm chỉ huy truởng mặt trận Hà Nội. Mở đầu Toàn quốc kháng chiến là cuộc
chiến đấu 60 ngày đêm tại Hà Nội thắng lợi, rồi ông đi các chiến truờng…Năm 1954 ông chỉ huy
các lực luợng trở về tiếp quản Hà Nội với cuơng vị Chủ tịch Uỷ ban quân chính thành phố…Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nuớc, Tướng Vuơng Thừa Vũ làm việc ở Hà Nội với cương vị Phó
tổng tham mưu truởng ở Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thật may mắn gần 50 năm phục vụ trong quân ngũ có 18 năm tôi đuợc đi theo giúp
việc Tướng Vương Thừa Vũ. Chúng tôi có ý định sau này sẽ viết về ông. Vì vậy, khi ông còn
đang làm việc ở Bộ Tổng tham mưu, chúng tôi đã sưu tầm, cất giữ một số tác phẩm, tài liệu và
hình ảnh của ông.

Năm 1960, sau khi tốt nghiệp Truờng Trung cao chính trị (nay là Học viện Chính trị -
Quân sự), tôi về đơn vị công tác. Một lần, tôi đang theo dõi hai tiểu đoàn diễn tập đối kháng có
thực binh ở Rịa, thuộc tỉnh Ninh Bình thì cấp trên gọi lên giới thiệu tôi với Tuớng Vương Thừa
Vũ và nói sau cuộc diễn tập này tôi sẽ về quân khu làm thư ký giúp việc ông.

Ở quân khu, ngoài giúp việc ông về nghiệp vụ văn phòng và quân sự như huấn luyện,
diễn tập, viết, vẽ bản đồ tác chiến... tôi đuợc giao nhiệm vụ cùng phòng văn hoá giúp ông học văn
hoá phổ thông trung học. Anh Phạm Tiến Đại, nay là đại tá công tác ở Xuởng phim Quân đội
chuyên việc giúp ông học toán.

Năm 1964, ông đuợc điều động về Bộ Tổng tham mưu với cuơng vị là Phó tổng tham
mưu trưởng kiêm Giám đốc Truờng Trung cao cấp quân sự. Từ đây có lẽ ông thấy trọng trách của
mình đã khác truớc, ông càng ra sức học tập. Theo yêu cầu của ông, tôi sưu tầm đuợc 6 tập luận
văn quân sự của Ăng-ghen. Ông đọc rất kỹ, đọc đi đọc lại từng đoạn. Đoạn nào ông thấy tâm đắc
đều gạch duới dòng và kẹp giấy đánh dấu. Đến nay, tôi còn lưu giữ cẩn thận đuợc 5 tập với trên
1.300 trang mà ông đã đọc, có bút tích của ông. Lúc đó, ông yêu cầu tôi tìm lại tập tài liệu mấy
chục trang in rô-nê-ô do Trần Độ viết về tư tuởng, học thuyết quân sự Xô Viết từ những năm
1960. Thật hiếm có một cán bộ quân sự đọc kỹ hơn ngàn trang sách về tư tuởng, học thuyết quân
sự của Mác, Ăng-ghen... Thời đó, tôi rất thích đọc tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Chống
Đuy-rinh, Hệ tư tưởng Đức... nên thường xuyên được mạn đàm với ông một cách bình đẳng.

Ông yêu cầu tôi sưu tầm các nghị quyết về quân sự của Đảng, ông đọc và đánh dấu
như đọc luận văn quân sự Ăng-ghen. Đến nay, tôi cũng còn lưu giữ đuợc hai cuốn Nghị quyết
quân sự của Đảng từ năm 1930-1945 và 1930-1960 với 500 trang in.

Từ chiến truờng Tây Nguyên ở miền Nam, Tướng Hoàng Minh Thảo viết cuốn "Tổ
tiên ta đánh giặc" gửi ra Hà Nội tặng Tướng Vương Thừa Vũ. Ở miền Bắc, Tuớng Đỗ Trình cũng
viết một tác phẩm "Tổ tiên ta đánh giặc" in rô-nê-ô trên giấy nến. Mặc dầu rất khó đọc, nhưng
Tướng Vương Thừa Vũ cũng đọc đi đọc lại nhiều lần.

Ông thuờng xuyên mời anh Phạm Ngọc Phụng là giáo viên Học viện Quân sự tới nhà
riêng, trình bày các tác phẩm của anh và Nguyễn Lương Bích viết về Nguyễn Huệ và "Toàn tập
Nguyễn Trãi" của Viện Sử học v.v...

Hàng ngày, nhận đuợc điện báo cáo trận đánh từ chiến truờng về, ông yêu cầu Cục Tác
chiến vẽ lên bản đồ, ông đặt ra một số câu hỏi, yêu cầu đơn vị trả lời cụ thể. Sau đó, ông cùng
Cục Khoa học quân sự, Cục Quân huấn và Cục Nhà truờng nghiên cứu trao đổi rút ra kết luận
khách quan, theo sự chỉ đạo của ông điện phổ biến ngay các chiến trường, kể cả việc làm thành
phim giáo khoa quân sự để huấn luyện bộ đội.

Trên đường đi công tác, ông thường hỏi chúng tôi về kinh nghiệm chiến đấu của người
chiến sĩ, về chỉ huy của cấp phân đội nhỏ. Ông rất chăm chú nghe và bảo: "Không nên đổ khuyết
điểm cho người lính. Nguời chỉ huy phải chịu trách nhiệm phần dốt nát, hoặc luời nhác, thiếu
trách nhiệm hoặc nhát gan hoặc không sâu sát cụ thể, tỉ mỉ, không biết chỉ dẫn cho chiến sĩ...".

Ông nhấn mạnh: Tình thuơng đối với chiến sĩ là phải giúp họ có bản lĩnh chiến đấu để
chiến thắng kẻ thù mà họ vẫn sống trở về với đồng đội, với gia đình. Do đó phải luyện, phải rèn,
phải nghiêm khắc; còn nguời chỉ huy thì phải học, phải tập, phải lắng nghe, phải chịu khó, chịu
khổ, phải luôn nghĩ tới trách nhiệm của mình truớc bộ đội, truớc nhân dân...

Đến bây giờ nghĩ lại, đọc tiểu sử, xem hồi ký của Tướng Vương Thừa Vũ, biết ông đã
đuợc học võ nghệ từ nhỏ. Ở Trung Quốc, được đào tạo gần 4 năm tại một truờng sĩ quan ở Côn
Minh, sau đó được học tiếp tại Học viện quân sự Nam Kinh. Nhưng những người sống bên ông,
mới biết sự tự học của ông thật rất đáng kính phục và hiếm có.
Ông yêu cầu tôi xếp lịch làm việc, hạn chế tối đa "buộc chân" vào ghế họp, hội nghị
liên miên - theo ngôn ngữ nói vui của ông, nhưng cũng hạn chế tối đa "chạy lăng xăng". Do đó,
một tuần trừ hai ngày họp với cấp trên, với tập thể thủ truởng Bộ hoặc họp với cơ quan cấp duới,
phải dành hai ngày đi đơn vị cơ sở, xuống tận thao truờng, bãi tập (chứ không phải đến nghe báo
cáo nhận quà cáp rồi về) còn xếp lịch hai ngày để học tập. Thời chiến tranh quyết liệt, căng thẳng
như thế, nhưng thực hiện chỉ thị của Đại tuớng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Quốc phòng, cứ thứ
bảy hàng tuần, sau khi giao ban, dành nửa ngày, tập thể tướng lĩnh ở Bộ học tập một số chuyên đề
như vũ khí hoá học và vũ khí hạt nhân, vũ khí lade, ứng dụng điều khiển học, tâm lý học trong
quân sự v.v... Sau khi nghe chung, có điều gì chưa rõ, Tướng Vũ lại mời anh em đến nhà trình bày
thêm...

Hàng ngày, sau giờ làm việc với các tuớng lĩnh ở Bộ Tổng tham mưu, ông rất coi trọng
tập thể dục và chơi thể thao: người đi bộ, nguời chơi bóng chuyền, quần vợt... Tướng Vương
Thừa Vũ rất thích môn bóng bàn. Tướng Vũ Yên mặc quần đùi, cởi trần - người đen như tuợng
đồng thuờng xuyên đấu với ông và cười thoải mái (bù lại khi trận đánh Pheo - tỉnh Hoà Bình
năm 1952 không thành công, cả hai ông đều khóc nức nở sau khi xé tan tấm bản đồ). Mỗi lúc bàn
về chiến thuật, ông kể lại kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu để minh hoạ cho chúng tôi nghe, trao
đổi với chúng tôi về những bài học khái quát mới loé lên trong đầu ông.

Mặc dầu bận nhiều việc, ông vẫn dành thời gian dạy anh em lái xe nghề mộc, nề và gò,
ông bảo: Làm lính rồi cũng có lúc làm dân nên phải học thêm nghề. Riêng vệ sĩ được đi học võ
lớp dài hạn, còn chúng tôi, ông dạy một số thế, miếng võ như: cộng lực, chống bắt cóc (gỡ), điểm
một số huyệt cần thiết để tự vệ (không nhằm mục đích tấn công hại người...).

Hình ảnh ông dừng xe giữa đoạn đường ở Phủ Lý, Hà Nam dúi vào tay chiến sĩ nấu ăn
ít tiền để anh về thăm con làm chúng tôi nhớ mãi. Nhất là khi anh Việt Hồng đi mô tô từ Hà Nội
xuống Nam Định gặp ông, trình bày về những nỗi oan của Quốc Đảm (cho đến nay, tôi vẫn chưa
hề gặp, biết anh Quốc Đảm). Tướng Vuơng Thừa Vũ bảo tôi mở tủ lấy đôi giầy đen mới đóng
(chưa đi), một máy ảnh (do Đoàn quân sự nước ngoài tặng), mảnh vải Tô Châu chưa may thành
quân phục... đưa Việt Hồng đem cho Quốc Đảm bán tạm lấy tiền ăn. Rồi ông còn bảo sẽ gặp cấp
có thẩm quyền để xem xét cụ thể, nếu oan thì sẽ đuợc giải.

Tướng Vương Thừa Vũ là người chỉ huy sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể và có tác phong rất quyết
đoán. Cả đời ông phục vụ trong quân ngũ và hầu như lúc nào ông cũng suy nghĩ về cách đánh -
chiến thuật mà thuờng chúng ta phải thực hiện trong hoàn cảnh "yếu đánh mạnh, ít địch nhiều"
với quan điểm chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên về chiến thuật tấn công, ông chỉ đạo tập trung ưu
thế đúng mức để đạt đuợc tư tưởng "một diệt, bốn cắt". Quan trọng là phải diệt đuợc chỉ huy, phá
vỡ thông tin của đối phương; phải đánh viện binh địch để cắt địch bên ngoài với bên trong, phải
cắt được pháo binh với bộ binh địch, cắt không quân địch với mặt đất, cắt xe tăng cơ giới địch với
bộ binh địch... Từ bài học chiến dịch Điện Biên Phủ đến các trận đánh Mỹ trên chiến truờng miền
Nam, ông rút ra bảy chữ: "Quyết, vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt"...

Thời gian giúp việc Tướng Vương Thừa Vũ, tôi được đi theo ông từ Khu III, Khu IV,
đến bờ sông Bến Hải và một số nơi khác để tổ chức bố trí các khu phòng thủ, các trận địa phòng
ngự, đến từng điểm tựa thế chân kiềng (từng chốt), thậm chí từng hoả điểm, ụ súng (lô cốt), các
loại công sự dã chiến, nguyên khối, công sự moi, đuờng hầm...tôi học tập ở ông phuơng pháp lập
các kế hoạch tấn công với các loại hình chiến thuật khác nhau. Tất cả đều thể hiện mưu kế hay,
nghi binh, thế trận hiểm (vững chắc) và lực tổng hợp; mưu cao, thế hiểm sẽ tạo thêm lực mạnh.
Tướng Vũ cực lực phê phán hữu dũng vô mưu, cũng như chân phương khờ dại, ngây ngô, "lạy
ông tôi ở bụi này". Chính vì vậy mà Tướng Vương Thừa Vũ nêu ra tư tưởng chỉ đạo cách đánh:
"Giữ bí mật, tạo bất ngờ, giành chủ động, đánh tiêu diệt". Bí mật là sức mạnh to lớn, có giữ đuợc
bí mật mới tạo đuợc bất ngờ; bất ngờ thì ít thành nhiều, yếu thành mạnh, giữ đuợc bí mật, tạo
được bất ngờ thì dành được chủ động và thực hiện được đánh tiêu diệt. Có tư tưởng chỉ đạo chiến
thuật đúng, bài binh bố trận hay, theo Tướng Vũ còn điều quan trọng nữa của người chỉ huy đó là
"Điều binh khiển tướng".

Đọc lại các bài viết của ông về chiến dịch Biên Giới thu đông 1950 tiêu diệt 2 binh
đoàn lính Pháp, bắt sống Lơ-pa-giơ và Sác-tông, chiến dịch Tây Bắc 1952 diệt đồn Pú Chạng,
Nghĩa Lộ bắt sống quan tư Ti-ri-rông v.v... thấy rõ tài điều binh khiển tướng của ông. Đúng là
suốt cuộc đời binh nghiệp của Tướng Vũ, hầu như lúc nào ông cũng suy nghĩ về cách đánh, về
chiến thuật. Tôi nhớ mãi khi Tướng Vũ nằm trên giường bệnh khoa A1, Viện quân y 108. Biết
mình không còn ở dương thế được bao lâu nữa, ông yêu cầu tôi gọi cán bộ chỉ huy Sư đoàn 308
tới. Lúc này ông đã không ngồi dậy được, mà nằm nghiêng cũng phải có người đỡ. Ông cho đặt
những điếu thuốc lá nối đuôi nhau dọc thành giường, rồi nói: "Sư đoàn ta đã thành sư đoàn bộ
binh cơ giới, có trên một ngàn xe pháo các loại. Nhưng địa hình nước ta rất phức tạp, có một bên
là sườn núi cao, một bên là vực sâu hoặc ruộng lầy, rất khó triển khai đội hình chiến đấu. Quân
địch tiến công chặt đội hình ta ra từng khúc". Ông lấy tay hất từng điếu thuốc lá rơi xuống đất -
nói tiếp: "Thấy đấy, nhiều xe pháo hiện đại mà không có cách đánh đúng thì sẽ bại trận". Nghĩ
một lúc, ông lại nói: "Bất cứ binh khí kỹ thuật hiện đại đến thế nào nhưng đã đến Việt Nam phải
dùng theo cách đánh của Việt Nam".

Tướng Vương Thừa Vũ đã thanh thản ra đi về cõi Vĩnh Hằng. Ông để lại một tài sản
vô giá - theo ông: "Kim bất hoán" nghĩa là "Vàng không đổi". Đó là những kinh nghiệm huấn
luyện, chỉ huy và chiến đấu được đúc kết từ mồ hôi, xương máu của bộ đội, của chỉ huy trên các
chiến trường và của chính bản thân mình, từ Hà Nội mùa đông năm 1946 đến các chiến trường
đánh Pháp, đánh Mỹ, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, với 11 cuốn sách và 119 trang viết tay còn
dang dở...

Thiếu tướng. TS NGUYỄN CHU PHÁC

HÀ NỘI 60 NGÀY KHÓI LỬA

(In theo bản in năm 1976 của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.)

Phần 1. Vài nét về Hà Nội

Hà Nội, Thăng Long Xưa

Năm 1010 (tức năm Canh Tuất), Lý Công Uẩn tức LýThái Tổ đã thiên đô từ thành Hoa
Lư về Thăng Long.

(Hoa Lư là kinh đô nước ta dưới thời Đinh và Tiền Lê, nay thuộchuyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình).

Thăng Long nghĩa là Rồng bay. Con Rồng là tượngtrưng cho sức mạnh vô địch, khi
trở mình thì rungchuyển trời đất, khi phủ phục thì uy nghi và kiên cường.

Thủ đô nước ta mang cái tên đẹp đẽ và oai hùng đóhơn 800 năm, mãi đến năm 1831
mới đổi là Hà Nội. Hà Nội nằm bên hữu ngạn sông Hồng, phía trước có các sông Cầu, sông Kinh
Thầy, sông Thái Bình che chở. Sau lưng tựa vào dãy núi Tam Đảo cao ngất, quanh năm mây mù
bao phủ. Bên trái, bên phải có dãy núi ĐôngTriều và Trường Sơn, Tam Điệp chạy dài ra sát biển
đông, như hai cánh tay rắn chắc, khuỳnh ra sẵn sàng bảo vê thủ đô yêu dấu. Và Nội là hợp điểm
của các đường giao thông thủy bộ, nối liền trung du với đồng bằng, núi rừng với bờ biển. Có lẽ,
đó cũng là yếu tố quan trọng để Hà Nội bền vững và phát triển. Và có lẽ đó cũng là nguyên nhân
trực tiếp khiến các đội quân xâm lược trước kia cố tình đánh chiếm Hà Nội rồi toả ra xâm chiếm
dần cả nước ta.

Hà Nội, 36 phố phường. Đó là những nơi tiêu biểu cho cố đô Thăng Long. Và đó cũng
là những "đám lửa" thiêu quân giặc ngay trong lòng Hà Nội những ngày đầu kháng chiến. Xung
quanh những phố phường chi chít ấy, ở phía nam và phía tây, biết bao nhiêu biệt thự, lâu đài vừa
kiên cố, vừa lộng lẫy, có đường lớn rộng thênh thang, có vườn hoa đủ màu sắc, có những hàng
cây cổ thụ xoè bóng mát che kín mặt đường. Trước Cách mạng tháng Tám, đây không phải là
những nơi nhân dân ta được ở mà lại là những nơi bọn viên chức trong chính quyền thực dân
Pháp chiếm cứ.

Hà Nội qua các triều đại, sự phát triển có khác nhau, nhưng đến năm 1946 thì có diện
tích khoảng 152 cây số vuông bao gồm: 20 chợ, 4 bến sông, 4 bến ô tô, 3 ga xe lửa, 18 đường
phố, 4 dốc và 24 đại lộ, 249 phố, 55 ngõ với trên 30 vạn người. (Hà Nội năm 1964, dân số
khoảng hơn một triệu người và thành phố đã mở rộng hơn hai lần diện tích trước kia). Trong đó
có trên một vạn năm ngàn đồng bào theo đạo Thiên Chúa và một số đồng bào theo đạo Cao Đài,
Tin Lành. Ở Hà Nội lúc này, ngoài nhân dân ta, còn có trên một vạn Hoa kiều và hàng trăm ngoại
kiều Ấn, Pháp, Anh, Nhật, v.v. cư trú.

Từ xưa, Hà Nội đã có nhiều danh lam thắng cảnh và đã là đầu mối sản xuất và lưu
thông hàng hoá của bốn phương. Hà Nội ngày càng thịnh vượng, dân số ngày càng đông đúc, phố
phường ngày càng phát triển.

Từ Thăng Long đến Hà Nội, thủ đô của ta có gần một ngàn năm lịch sử. Đó là một
niềm tự hào của dân tộc ta một dân tộc anh hùng có truyền thống đấu tranh bất khuất, đã từng
"lấy ít dịch nhiều, lấy yếu thắng mạnh".

Trở lại trang sử cũ, hẳn ta ai cũng còn nhớ vào năm 1258, sau trận Đông Bộ Đầu, (Nay
thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông ) cửa ngõ phía nam của kinh thành Thăng Long, quân ta
đã đánh cho quân Nguyên tan tác phải bỏ chạy về Vân Nam. Năm 1285, sát kinh thành, trong trận
Chương Dương lừng lẫy, 50 vạn quân Nguyên đại bại, quân dân ta giành lại Thăng Long. Lần thứ
ba, năm 1288. Trần Quốc Tuấn tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc ở sông Bạch Đằng. Chủ
tướng quân Nguyên là Thoát Hoan hồn bay phách lạc, phải rời bỏ Thăng Long đem quân bộ tháo
chạy. Tuy nhiều lần thất bại, nhưng bọn phong kiến phương Bắc vẫn không chịu từ bỏ dã tâm
xâm lược của chúng. Năm 1406, nhà Minh lại đem quân giày xéo đất nước ta. Cha con Hồ Quý
Ly không được nhân dân và các tầng lớp xã hội tiến bộ lúc ấy ủng hộ nên có chống cự song thất
bại. Không chịu khuất phục dưới ách thống trị hà khắc của quân Minh, năm 1418, Lê Lợi, tiêu
biểu cho lực lượng xã hội tiến bộ đương thời, dấy cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn.

Năm 1426, sau chín năm kháng chiến gian khổ, quân ta đã chiếm lại hầu khắp đất đai
cả nước và tiến tới vây hãm quân Mình tại kinh thành Thăng Long. Cuộc chiến đấu bao vây địch
ở thủ đô diễn ra suốt một năm trời. Vòng vây của quân dân ta ngày càng siết chặt. Trong lúc vây
hãm địch, quân dân ta đã tổ chức nhiều đợt tấn công vào thành và đã ba lần đánh tan viện binh
của giặc từ Trung Quốc kéo sang. Quân Minh càng đánh càng thua, cuối cùng chúng phải xin
giảng hoà và rút về nước. Mùa xuân năm 1428, vừa tròn 10 năm kiên trì chống giặc, dân tộc ta
đại thắng, thủ đô yêu quý lại được giải phóng.

Hơn 300 năm sau, Thăng Long lại ghi vào sử sách những chiến công vô cùng oanh
liệt. Năm 1788 , nhà Thanh đã cho Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược nước ta và đánh
chiếm Thăng Long. Nhân dân cả nước ta vùng dậy chống giặc. Sau một năm anh dũng kháng
chiến, quân ta đã tiến về giải phóng Thăng Long. Sáng mùng 5 tháng giêng (âm lịch) năm 1789,
sau khi quân ta diệt các đồn Hạ Hồi và Ngọc Hồi, Nguyễn Huệ đốc quân đánh thẳng vào kinh
thành. Tại đồn Loa Sơn (gò Đống Đa), xác giặc chất cao như núi, 20 vạn quân Thanh tan vỡ, xéo
lên nhau mà chạy. Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào thành Thăng Long, ăn mừng
thắng trận.

Chiến công hiển hách ấy đã chấm dứt nạn xâm lược của phong kiến Trung Quốc đồng
thời cũng thủ tiêu tận gốc nạn tương tàn giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn đã
diễn ra trong mấy trăm năm, mở đường cho cuộc khôi phục nền thống nhất nước nhà ở đầu thế kỷ
XIX.

Gần 100 năm sau khi thoát khỏi ách chiếm đóng của nhà Thanh, ngày 20 tháng 11 năm
1873, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Mặc dầu nhà nước phong kiến
chống cự yếu ớt, nhưng cả Hà Nội vẫn vùng lên chống giặc.

Ngày 25 tháng 1 năm 1882, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Ngay từ
phút đầu, người dân Hà Nội đã tự tay châm lửa đốt nhà mình, hàng dãy phố lửa bốc ngùn ngụt
cản bước tiến của giặc. Hàng ngàn người tự vũ trang bằng giáo mác, gậy gộc kẻo đến trước đình
Quảng Văn (Cửa Nam bây giờ) xin đi đánh giặc. Mặt khác, khắp nơi đều nhất loạt đánh chiêng,
khua trống, gõ mõ, hò reo để hư trương thanh thế và hỗ trợ cho tinh thần chiến đấu của quan quân
trong thành. Tướng sĩ của Hoàng Diệu xông lên mặt thành chém đầu quân giặc đến phút cuối
cùng.

Nhưng, căm giận thay! Triều đình nhà Nguyễn Gia Long đã phản bội dân tộc, quỳ gối
đầu hàng, dâng Tổ quốc ta cho giặc. Hà Nội nung nấu hận thù. Sau đó các phong trào yêu nước,
các tổ chức chống thực dân Pháp thống trị liên tiếp nổi lên. Đông Kinh Nghĩa Thục, nhóm sĩ phu
yêu nước tiến bộ xuất. hiện khoảng tháng 3 năm 1907. Năm 1908, vụ Hà thành đầu độc của binh
sĩ Việt Nam làm nội ứng phối hợp với nghĩa quân Đề Thám đã làm cho thực dân Pháp giật mình
hoảng sợ. Tiếp đó, Nguyễn Văn Túy - một công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm và một chiến sĩ
Việt Nam quang phục Hội ném bom khách sạn "Gà Vàng” (Con d’or) ở phố Tràng Tiền ngày 26
tháng 4 năm 1913 giết hai tên trung tá Pháp Mông-gơ-răn (Montgrand), Sa-puy (Chapuis) và một
số lính Pháp. Hành động đó đã gây chấn động trong toàn quốc.

Tư bản Pháp đặt chân tới Hà Nội. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và bắt đầu bổ
nhát cuốc đầu tiên đào mồ chôn giai cấp bóc lột và bọn đế quốc xâm lược. Các cuộc đấu tranh từ
thấp đến cao của công nhân liên tiếp nổ ra. Năm 1919, đã có bãi công của công nhân một số nhà
in ở Hà Nội. Năm 1924, công nhân nhà máy rượu bãi công đòi đuổi một tên giám đốc người
Pháp. Đặc biệt thời kỳ này, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội - tiền thân chủ yếu của
Đảng Cộng sản Đông Dương - xuất hiện và năm 1926, đặt trụ sở bí mật của Kỳ bộ Bắc Kỳ tại Hà
Nội. Từ đó phong trào bãi công ngày càng lan rộng. Ngày 9 tháng 5 năm 1927, Ở Hà Nội, đã nổ
ra mấy cuộc biểu tình của khoảng một vạn rưỡi lao động, học sinh và những người buôn bán
nhỏ… phản đối tờ "Dân báo" thóa mạ các chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu tranh của
quần chúng phát triển. Tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam được củng cố. Đến
nay, nhìn lại dĩ vãng, giai cấp công nhân và nhân dân thủ đô lấy làm tự hào về những sự kiện lịch
sử còn lưu truyền: Tháng 3 năm 1929, tại số nhà 5D phố Hàm Long, chi bộ Cộng sản đầu tiên của
Đông Dương được thành lập và sau đó Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời trong một cuộc hội
nghị vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 ở phố Khâm Thiên. (Thời kỳ này 3 tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ chưa hợp nhất ). Từ đó, phong trào đấu tranh lại nổ ra liên tục với mục đích
và tính chất rõ rệt hơn hẳn các năm về trước. Ở Hà Nội, bọn thực dân Pháp giăng ra cả một mạng
lưới nhà tù, cảnh sát, mật thám, v.v. tưởng như không ai có thể lọt được qua mắt chúng. Vậy mà
đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương đã viết bản luận cương
chính trị nổi tiếng ở ngay trong căn nhà của một tên công chức cao cấp Pháp - số 90, Hàng Bông
Thợ Nhuộm. Người bồi của tên Pháp nhận đồng chí là người nhà. Sự việc ấy nói lên rằng dù
trong hoàn cảnh nào, người chiến sĩ cách mạng cũng luôn luôn được sự ủng hộ của quần chúng
cần lao.

Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Bọn thực dân Pháp thẳng tay đàn áp nhân dân ta.
Hà Nội những ngày này tràn ngập không khí khủng bố, nhưng các chiến sĩ cộng sản vẫn một lòng
một dạ trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, của dân tộc. Năm 1936,
chính phủ mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền; lợi dụng thuận lợi khách quan đó, phong trào
cách mạng ở Hà Nội được đẩy mạnh. Nhóm cộng sản công khai ra tờ báo "Lao động" (Le travail)
viết bằng chữ Pháp. Hàng loạt tổ chức cơ sở của Đảng, tổ chức quần chúng được thành lập trong
hàng ngũ công nhân. Đốm lửa đấu tranh ngày càng lan rộng. Uy tín của Đảng ngày càng cao. Đế
quốc Pháp thống trị và bóc lột nhân dân và giai cấp vô sản Việt Nam thì giai cấp vô sản Việt Nam
và giai cấp vô sản Pháp càng siết chặt hàng ngũ vừng bước đấu tranh. Nhân dân Pháp nhiệt tình
ủng hộ nhân dân Việt Nam.

Ngày mồng 1 tháng 5 năm 1938, trên 2 vạn người thuộc đủ các tầng lớp nhân dân Hà
Nội tham dự cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, hô vang khẩu hiệu đấu tranh cho tự do
dân chủ.

Những năm sau, mặc gông cùm, máy chém, mặc lưỡi lê họng súng dã man của kẻ thù,
phong trào cách mạng ở Hà Nội không hề lùi bước. Lòng dân Hà Nội hận thù càng chứa chất, khí
thế đấu tranh càng sôi sục. Tấm gương hy sinh cao cả với khí phách anh hùng của đồng chí
Hoàng Văn Thụ, Tổng Bí thư của Đảng, mãi mãi còn sáng chói. Tại Hoàng Mai, trước giờ bị xử
bắn, đồng chí đã lớn tiếng tố cáo, lên án giai cấp thống trị và bọn đế quốc thực dân xâm lược,
đồng chí vẫn vừng lòng tin: Cách mạng của giai cấp vô sản nhất định thành công, dân tộc Việt
Nam nhất định thắng!

Sang thời kỳ tiền khởi nghĩa, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, phong
trào cách mạng ở Hà Nội cuồn cuộn dâng lên như bão biển. Thời cơ đã đến? Cả dân tộc vùng lên?
Cả Hà Nội quật khởi! Các cuộc mít tinh tuần hành thị uy liên tiếp nổ ra, bừng bừng khí thế khởi
nghĩa.

Bão táp cách mạng nổi lên như trời long đất lở. Sáng sớm ngày 19 tháng Tám năm
1945, cùng với lực lượng vũ trang cách mạng, hơn 20 vạn nhân dân Hà Nội vùng lên khởi nghĩa
đập tan chính quyền bù nhìn. Chính quyền cách mạng ra đời. Bầu trời thủ đô Hà Nội rực sáng.
Ngàn vạn cờ đỏ sao vàng tung bay. Hà Nội giải phóng! Giai cấp vô sản đã mở ra cho Hà Nội một
trang sử mới, một trang sử mà nhân dân lao động nắm chính quyền.

Nhớ lại những chiến công hiển hách, những sự tích anh hùng của thủ đô Việt Nam, ta
sẽ thấy trong "60 ngày khói lửa" nhân dân Hà Nội đã tỏ ra xứng đáng với truyền thống kiên
cường, bất khuất của cha ông.

Trước ngày khởi chiến.

Năm 1945, đồng minh thắng Đức - Ý - Nhật. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc.
Ở Việt Nam, cách mạng tháng Tám thành công. Theo hiệp ước của Đồng minh, quân đội Tưởng
Giới Thạch vào giải giáp quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc; quân
đội Anh giải giáp quân đội phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam. Nhưng sự thật không phải
chỉ có như thế. Con cú vọ bị đánh đuổi bay xa, nhưng vẫn quay cổ lại tiếc miếng mồi béo bở.
Quân Pháp theo sau quân Anh trở lại Nam Bộ với mục đích lập lại nền đô hộ cũ. Được quân Anh
dung túng, giúp sức, quân Pháp khiêu khích và tiến đánh Sài Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945.
Nhưng giặc Pháp đã lầm. Sài Gòn không bao giờ khoanh tay khuất phục. Cả Nam Bộ
đứng lên kháng chiến. Nhân dân cả nước chi viện cho Nam Bộ, quyết không bao giờ để cho thực
dân Pháp chiếm miền Nam ruột thịt của mình .

Ngày 19 tháng 11 năm 1945 quân Pháp đổ bộ vào Nha Trang. Đầu tháng 5 năm 1946,
chúng huy động 15.000 quân đánh chiếm Tây Nguyên và dùng miền này làm bàn đạp tiến đánh
các miền khác ở Trung Bộ. Giặc Pháp sấn sổ như một tên cướp giật. Trong khoảng thời gian
ngắn, chúng tung quân đi đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ…

Trước hành động xâm lược của giặc Pháp, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng
sản Đông Dương ra chỉ thị kháng chiến, kiến quốc, vạch ra đường lối kháng chiến và chỉ rõ cần
triệt để vận dụng chiến tranh du kích trên khắp miền Nam.

Ở Bắc Bộ, hai mươi vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào, đem theo “một đàn chó sói"
- bọn "cõng rắn cắn gà nhà" - Việt Nam quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh của
Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần với mưu đồ: Lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính quyền
bù nhìn tay sai đế quốc.

Trong lúc đó, 3.000 tàn binh Pháp đã bị Nhật đánh bại ngày 9 tháng 3 năm 1945, phải
chạy trốn sang đất Trung Quốc, nay lại vượt biên giới tiến vào Lai Châu rồi tiến đánh Quỳnh
Nhai, Tuần Giáo. Bọn Pháp từ Thượng Lào tiến qua Điện Biên Phủ, rồi dần dần lấn tới Sơn La,
Hoà Bình.

Giữa lúc Tổ quốc lâm vào cảnh vô cùng hiểm nghèo, tình hình trở nên vô cùng phức
tạp: nước ta sau gần một thế kỷ bị đế quốc Pháp thống trị, bị vơ vét tận xương tuỷ chính quyền
nhân dân mới thành lập, lực lượng vũ trang của ta mới tổ chức, quần chúng mới thoát khỏi gông
cùm nô lệ, tuy bừng bừng khí thế đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, nhưng tổ chức đội ngũ chưa được
củng cố thì thù trong giặc ngoài xúm lại định xâu xé nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ
Chủ tịch đã khéo léo lái con thuyền Tổ quốc vượt qua cơn sóng gió. Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp
được ký kết ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946. Ta hoà hoãn với Pháp để tranh thủ thời gian xây
dựng đất nước, xây dựng lực lượng, đồng thời gạt 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra ngoài. Bọn
chó săn bàng hoàng như bị sét đánh ngang đầu, một số trở về con đường chính nghĩa, một số
cuốn gói chạy theo quân Tưởng, một số ngoan cố dần dần bị ta tiễu trừ, số còn lại quay ra bí mật
bắt tay với giặc Pháp.

Nhưng, như mọi người đều biết, bọn đế quốc không dễ đàng nhả miếng mồi ngon.

Theo Hiệp định sơ bộ, quân đội Pháp cùng với quân đội nước Việt Nam dân chủ còng
hoà làm nhiệm vụ tiếp phòng thay cho quân Tưởng Giới Thạch rút về nước. Ngày 1 tháng 3 năm
1946, quân Pháp, do tướng Lơ-cléc (Leclerc) chỉ huy, xuất phát từ Nam Bộ đổ bộ lên Hải Phòng,
gồm các đơn vị sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9 (9e DIC), sư đoàn thiết giáp thứ 2 (2e DB) và
một lữ đoàn lính thủy đánh bộ, tổng cộng là 15.000 tên. Sớm ngày 6 tháng 3, chúng vào Hải
Phòng… Đến ngày 18 tháng 3, Lơ-cléc tiến vào Hà Nội cùng với một số đơn vị của sư đoàn thiết
giáp thứ 2 gồm khoảng 1.000 tên với 200 xe. Sau đó 4.000 quân Pháp bị Nhật giam trong thành
được giải thoát. (Tường Giăng Mác-săng, Thảm kịch Đông Dương (Le drame Indochinois). Nhà
xuất bản J.Peyronnet, Pa-ri, 10 1953, tr.61, 62, 63. Về số 4.000 quân Pháp bị giam trong thành,
trong cuốn Số phận Đông Dương (Le destin de l'indochine) của Xa-bát-chi-ê cũng nói như vậy.)

Bản chất ăn cướp, dù khoác áo cà sa, nói năng dịu dàng đến thế nào chăng nữa thì sớm
muộn vẫn lòi mặt ăn cướp. Hiệp định sơ bộ ký chưa ráo mực, thực dân Pháp đã tiến hành hàng
loạt âm mưu lật đổ Chính phủ ta, định đánh úp Hà Nội để tiến tới thôn tính cả nước ta. Tờ báo
"Đề huề" (L'Entente) của chúng xuất bản tại Hà Nội trắng trợn vu khống Chính phủ ta. Chúng
liên tiếp tăng quân tới Hà Nội, nhưng vẫn già mồm chối cãi quanh co. Tại nước Pháp, báo "Giải
phóng", báo "Du kích" và báo "Chiến đấu cũng tố cáo hành động mập mờ bỉ ổi ấy của bọn Pháp ở
Việt Nam.

Trước ngày khởi chiến Ở Hà Nội, lực lượng của giặc Pháp lên tới khoảng 6.500 quân,
đa số là lính lê dương, lính tinh nhuệ thiện chiến, và 62 xe tăng, xe bọc sắt, 19 máy bay, 42 pháo,
5.000 súng trường, 600 liên thanh nhẹ, 180 liên thanh nặng.( Xem phụ lục “Vị trí và lực lượng
địch trước ngày khởi chiến”). Chúng bố trí các cứ điểm, chẹn các cửa ngõ của thành phố, thành
một vành đai bao vây Hà Nội, khống chế các vị trí chiến thuật. Giặc Pháp âm mưu dùng quân cơ
động mạnh trong thành tấn công chia cắt Hà Nội ra từng mảng, bao vây tiêu diệt ta ở từng khu
vực. Nơi nào có cơ quan đầu não, có nhà máy, hoặc bộ đội của ta thì chúng đưa nhiều lực lượng
đến đóng kèm ngay bên cạnh, với lý do để bảo vệ an ninh(!), nhưng thực chất là để thực hiện âm
mưu bất ngờ, nhanh chóng tiêu diệt quân đội và cơ quan Chính phủ ta. Ví dụ như giặc Pháp đưa
200 quân tới chiếm đóng khách sạn Mê-tơ-rô-pôn (Sau là Khách sạn "Thống Nhất") cách Bắc Bộ
phủ (Sau là Vụ Lễ tân, Bộ Ngoại giao) vài chục thước. Vì Bắc Bộ phủ là nơi làm việc của Hồ
Chủ tịch và một số cơ quan Chính phủ ta. Ngoài ra chúng còn đưa quân tới chiếm đóng nhiều nơi
khác như nhà ngân hàng, máy điện, máy nước, ga xe lửa, cầu Long Biên, v.v. cũng với âm mưu
đen tối như vậy.

Rõ ràng kẻ cướp đã lộ mặt? Chúng đã đem vào Hà Nội một lực lượng quân sự lớn
mạnh, chuẩn bị một màn cướp đoạt chớp nhoáng, với thái độ hung hăng kẻ cả, chủ quan kiêu
ngạo. Nhưng, cũng từ đó chúng bắt đầu chuẩn bị lao đầu vào một rừng lửa rực cháy ngất trời, để
tự thiêu huỷ mình một cách thảm hại.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta đã chủ động chuẩn bị mọi
mặt về chính trị, kinh tế và quốc phòng, để sẵn sàng đánh lại một cuộc chiến tranh xâm lược mới
do lòng tham vô đáy của bọn đế quốc quay lại hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ của
chúng ta. Đảng và Chính phủ đã phát triển mau chóng các lực lượng vũ trang chủ lực và tự vệ, lập
các kho dự trữ lương thực, các xưởng chế tạo vũ khí đạn dược theo phương pháp thủ công, đã kêu
gọi nhân dân tự rèn đúc vũ khí thô sơ, sẵn sàng xông ra tiền tuyến bảo vệ Tổ quốc. Các lớp đào
tạo cán bộ quân sự và chính trị liên tiếp được mở ra ở các địa phương và Trung ương. Cho tới
tháng 12 năm 1946, Ở Hà Nội, chúng ta đã xây dựng được một lực lượng vũ trang tập trung - Vệ
quốc đoàn - có 5 tiểu đoàn gồm 2.515 người, 1.500 súng trường (trong đó có một nửa là súng
khai hậu và súng bắn chim, một nửa gồm đủ các loại súng trường Nhật, Mỹ, Mút-cơ-tông, Anh-
đô-si-noa, v.v). Trung, đại liên có 4 khẩu, bom ba càng (Là 1oại bom do công binh xưởng Việt
Nam chế tạo, có cán dài khoảng 3 mét, dùng sức người lao vào xe tăng, xe bọc sắt của địch. Bom
nổ, xe cơ giới của địch bị phá huỷ.) 80 quả, lựu đạn 1.000 quả, đạn các loại 20.000 viên, badôca 1
khẩu, ét-xăng cờ-rếp 200 chai, 7 khẩu pháo cao xạ 75mm cũ của Pháp ta đem dùng làm pháo mặt
đất để bắn gián tiếp và một sơn pháo 75mm, 1 pháo 25mm đặt ở các pháo đài Láng, Xuân Tảo,
Xuân Canh, Ba Đê, Thủ Khối. Ngoài số súng nói trên, phần lớn các đơn vị bộ đội chủ lực đều
trang bị bằng dao găm mã tấu, giáo, mác, kiếm và các loại vũ khí cũ. Nếu tính trung bình thì 2
người mới có 1 khẩu súng trường, mỗi chiến sĩ có được 8 viên đạn, 5 chiến sĩ mới có 2 quả lựu
đạn, 600 người mới có 1 khẩu súng máy. Lúc ấy, lực lượng chính quy chỉ khác các lực lượng dân
quân tự vệ là sống tập trung, còn các mặt trang bị, học tập, chế độ, v.v. thì mỗi đơn vị một vẻ.
Ngay cả đến việc ăn, mặc cũng mỗi người, mỗi đơn vị tùy khả năng của mình, của địa phương mà
cải tiến. Các chiến sĩ đều là những thanh niên mới nhập ngũ được một vài tháng, mới học tập
được một số động tác chiến đấu lăn, lê, bò, bắn súng, ném lựu đạn... đã phải phân tán nơi 5 người,
nơi 1 tiểu đội, 1 trung đội để canh gác bảo vệ cơ quan, công xưởng, nhà máy (Phụ lục - Vị trí và
lực lượng của ta trước ngày giặc Pháp khởi chiến). Cấp chỉ huy trừ một vài đồng chí hoạt động
cách mạng từ thời kỳ bí mật có học tại Trường Hoàng Phố hoặc Liễu Châu ở Trung Quốc và một
số là cựu binh tiến bộ, còn phần lớn là những thanh niên và hội viên cứu quốc mới chỉ được huấn
luyện cấp tốc từ 15 đến 30 ngày. Hồi đó, theo chủ trương của trên, đồng chí Trần Độ có mở lớp
huấn luyện ngắn ngày cho các chính trị viên đại đội, trung đội Vệ quốc đoàn lấy tên là Trường
Bắc Sơn, chương trình huấn luyện gồm tài liệu "Công tác chính trị trong bộ đội" và cuốn sách
"Chính trị giáo đạo viên" dịch của Trung quốc do đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa cho. Nhưng
cũng có nhiều đồng chí không được qua lớp huấn luyện nào.

Ngoài lực lượng Vệ quốc đoàn kể trên, ở Hà Nội còn có 8 trung đội "công an xung
phong" do mặt trận Việt Minh tổ chức lãnh đạo và có khoảng 6.000 thanh niên yêu nước xung
phong gia nhập tự vệ chiến đấu. Dần dần tới trước ngày nổ súng, lực lượng tự vệ ở Hà Nội có tới
8.500 người. Các chiến sĩ tự vệ chủ yếu lấy tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm và mưu mẹo, sử
dụng phương tiện, vũ khí thô sơ sẵn có hoặc do mình tạo ra để đánh lại xe tăng, pháo binh và máy
bay chiến đấu của giặc. Cán bộ chỉ huy do anh em bầu ra, có một số được học quân sự hoặc chính
trị từ 2 đến 3 ngày, còn hầu hết không học qua trường, lớp nào.

Xem như vậy thì về mặt quân số và trang bị rõ ràng bộ đội tập trung của ta lúc ấy còn
rất yếu. Nếu so sánh với giặc Pháp thì binh lực của chúng hơn ta 3 lần. Vũ khí bộ binh của chúng
không những tối tân hơn, tốt hơn, mà còn nhiều hơn ta gấp 9 lần, pháo binh gấp 6 lần. Còn xe
tăng và máy bay thì giặc Pháp hoàn toàn chiếm ưu thế tuyệt đối, ta chưa có gì. Về phương tiện
vận chuyển cơ động, giặc Pháp có ô tô vận tải, ca nô, tàu thuỷ. . . Phía Việt Nam dựa vào đôi vai
để gồng gánh, đeo, vác và đôi chân đi bộ. Giặc Pháp còn hơn ta về mặt kỹ thuật và tổ chức chỉ
huy. Vì chúng là một quân đội nhà nghề chuyên đi xâm lược, có bộ máy chỉ đạo chiến tranh và cơ
quan tham mưu giàu kinh nghiệm... Nếu theo đường lối quân sự tiến hành chiến tranh tự vệ bằng
cách lấy chính quy chọi chính quy, lấy chủ lực chọi chủ lực, đánh giá quân đội ta chỉ ở mấy khẩu
súng kíp, mấy con dao thì quả là dễ mất tin tưởng đi đến đầu hàng thoả hiệp hoặc ngược lại "dốc
túi đánh một canh" đi đến khánh kiệt lực lượng. Và nếu làm như vậy thì cuộc chiến đấu tự vệ của
chúng ta sẽ đi đến đâu? Thủ đô của chúng ta sẽ nằm trong tình trạng như thế nào?

Nhưng Đảng ta đã vận dụng tài tình tư tưởng quân sự Mác-lênin vào hoàn canh cụ thể
của nước nhà, đã tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng và đã động viên toàn dân vũ trang đứng
lên kháng chiến lâu dài, đánh giặc trên mọi mặt, bằng mọi hình thức quyết giành thắng lợi cuối
cùng.

Giặc Pháp trở mặt

Ngày nay ai tin rằng bọn tư bản đế quốc đã thay đổi bản chất bóc lột và xâm lược thì
không khác gì gà trống vì nghe lời đường mật của cáo già nên đã thiệt thân, cừu non tin lời nịnh
hót của chó sói nên đã bị cắn xé.

Vừa đặt chân tới Hà Nội, giặc Pháp đã trở mặt xé bỏ Hiệp định sơ bộ. Ngày 27 tháng 3
năm 1946, chúng đánh chiếm Nha Tài chính Việt Nam (Nay là trụ sở Bộ Ngoại giao) hạ cờ đỏ sao
vàng xuống, kẻo cờ tam tài lên. Thật là một hành động vô Cùng láo xược? Nếu ta lùi bước này, kẻ
thù sẽ tiến thêm bước nữa. Nhưng không, chúng ta không lùi bước. Suốt ngày 29 tháng 3 làn sóng
công phẫn của nhân dân Hà Nội dâng lên cuồn cuộn, hàng chục vạn người đã xuống đường biểu
tình phản đối hành động xâm lược của giặc Pháp. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân thủ
đô, giặc Pháp đã phải hạ cờ tam tài và rút khỏi Nha Tài chính. Tuy nhiên chúng vẫn tiến hành
những mưu đồ thâm độc, chúng vạch ra một chương trình hành động tháng 5 năm 1946 theo kiểu
"ném đá giấu tay":

" - Ngày 6 tháng 5 năm 1946 lúc quân Tàu rút khỏi Việt Nam, sẽ ám sát một số Tàu
quan trọng để gây ác cảm giữa Tàu và Việt Nam. (Những chữ Tàu Ở đây là chỉ quân đội Tưởng
Giới Thạch).

- Ngày 19 tháng 5 năm 1946, ra lệnh cho đàn bà, trẻ con, người già yếu (Pháp kiều)
vào Sài Gòn để đến ngày 10 tháng 6 năm 1946, đợi khi Tàu rút sẽ uy hiếp Việt Nam. Tiếp tục tích
trữ lương thực và phân phối vũ khí cho các địa điểm trong Hà Nội.

- Ngày 22 tháng 5 năm 1946, đợi khi Tàu rút lui sẽ can thiệp vào nội trị Việt Nam, giữ
sự trị an.

- Phiên họp ngày 25 tháng 5 năm 1946, bàn về chủ trương đánh chiếm Trung, Bắc Bộ.

- Vì không thể chỉ chờ mong ở Pháp quốc tiếp tế cho quân đội Pháp ở đây, ngày 29
tháng 5 năm 1946 bàn đến vấn đề tự túc ở Đông Dương". (Tài liệu ta bắt được của Pháp năm
1946).

Chương trình hành động của giặc Pháp như thế, nhưng chúng vẫn la lối ầm ĩ là "bị
khiêu khích, bị tấn công!". Với thủ đoạn "vừa ăn cướp vừa la làng" ấy, giặc Pháp cũng không thể
lừa bịp được ai. Kẻ cướp vẫn hiện nguyên hình là kẻ cướp. Ngày 2 tháng 5 năm 1946, chúng bắt
giam 15 công nhân trong thành , lập tức 2.000 anh chị em công nhân khác đấu tranh đình công
kéo dài 2 tuần lễ. Ngày 18 tháng 5, giặc Pháp phải nhượng bộ, thả tất cả 15 người. Trong tháng 5
năm 1946, giặc Pháp đã phân phát đầy đủ vũ khí cho các kiều dân và công chức Pháp. Ngày 8
tháng 5 năm 1946 nhiều sĩ quan và binh lính Pháp mặc thường phục giả là kiều dân đến xem xét
các vị trí quan trọng, bí mật bố trí thành ổ chiến đấu. “ở khách sạn Xpơ-lăng-đít (Splendide),
khách sạn Mê-tơ-rô-pôn (Métropole) đều có bố trí súng trường, súng máy và rất đông quân.
Khách sạn Công-ti-năng-tan (Continental, trước ga xe lửa), khách sạn Téc-mi-nuýt-đờ-la-ga
(Terminus de la gare) mỗi nơi có 40 súng trường. Tiệm ăn Giê-răn (Gérand) phố Triệu Quang
Phục (trước cửa trại Vệ quốc đoàn) và nhà phái đoàn Anh (Mission Anglaise) đều có vũ khí đạn
dược. Nhà ăng-giê (Anger) - 17 Trần Hưng Đạo - nhà số 9 phố Nguyễn Văn Trạch và nhà thờ
Liễu Giai, mỗi nơi đều có từ 2 đến 4 súng máy loại nặng". (Tài liệu ta bắt được của Pháp năm
1946).

Song song với việc bí mật lập các ổ tác chiến ở các khu phố, hành động khiêu khích
của giặc Pháp ngày càng trắng trợn. Chúng cho quân lấn sang chiếm đóng phủ toàn quyền cũ. Xe
tăng, xe bọc sắt kéo đến trước cổng Bắc Bộ phủ, nơi Chính phủ ta làm việc, gầm gừ lồng lộn như
một bầy thú dữ hòng đe dọa, uy hiếp ta. Tháng 6, chúng ra sức vận động, thúc ép thanh niên kiều
dân Pháp vào quân đội thực dân Pháp và tiếp tục bí mật đưa quân đến ở rải rác trong các nhà bọn
tay chân của chúng trong thành phố. Hành động lén lút ấy giấu sao nổi những người dân đang
cảnh giác theo dõi kẻ thù và sẵn sàng chiến đấu, thà chết không chịu làm nô lệ Nhưng toàn dân ta
vẫn làm theo yêu cầu của Đảng và Bác Hồ nén căm giận, tránh âm mưu khiêu khích của giặc,
kiên trì tranh thủ điều kiện hoà bình để gấp rút xây dựng đất nước, xây dựng lực lượng. Đảng ta
kịp thời đề ra những khẩu hiệu đấu tranh: “Quân đội Pháp không được khiêu khích để lấy cớ
nhúng tay vào nội trị Việt Nam, quân đội Pháp phải tôn trọng nền độc lập của Việt Nam", "Phản
đối chiến tranh xâm lược, binh lính Pháp hãy đòi hồi hương!", "Nhân dân Việt - Pháp đoàn kết
đấu tranh chống thực dân phản động Pháp âm mưu xâm chiếm Việt Nam”.

Ngày 6 tháng 7, hội nghị Việt - Pháp họp ở Phông- ten-nơ-bơ-lô (Fontainebleau). Tại
hội nghị này, trưởng phái đoàn nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đồng chí Phạm Văn Đồng lên
tiếng phản đối việc thành lập chính phủ Nam kỳ tự trị và việc Đác-giăng-li-ơ (Cao ủy Pháp Ở
Đông Dương ) thừa nhận chính phủ ấy. Trong khi đó Ở Hà Nội, quân đội thực dân Pháp chuẩn bị
đánh úp Chính phủ ta vào ngày 14 tháng 7. Đó là một kế hoạch xâm lược dưới hình thức một trò
hề đảo chính do bọn thực dân Pháp chủ mưu và được bọn phản động tay sai giúp sức thực hiện.
Kế hoạch ấy rất dã man, không những vì âm mưu đen tối xâm lược nước ta mà còn biểu hiện sự
phân biệt chủng tộc một cách độc ác: Quân Pháp sẽ tổ chức lễ kỷ niệm cách mạng tư sản dân
quyền Pháp ở Hà Nội một cách rầm rộ. Chúng sẽ diễu binh trên khắp các đường phố, chủ yếu ở
khu vực tập trung các cơ quan của Đảng và Chính phủ ta. Các lực lượng vũ trang của Pháp sẵn
sàng chiến đấu, nhân cơ hội đó sẽ hành động. Bọn Đại Việt (Đảng phái phản động làm tay sai cho
giặc Pháp) đã đưa mìn và lựu đạn bố trí sẵn ở một số nơi trong thành phố. Khi quân Pháp diễu
qua, một số tên Đại Việt sẽ ném lựu đạn và bắn súng vào các đoàn diễu binh, nhưng chỉ được bắn
vào các toán gồm lính Ma-rốc và Xê-nê-gan, tuyệt đối không được bắn vào lính Pháp. Bọn Pháp
nhân việc ấy mà đổ vấy cho ta cố tình đánh chúng và lập tức tiến quân bao vây các cơ quan Chính
phủ tạ, bắt các nhà lãnh đạo và nhân viên Chính phủ, đồng thời bọn Đại Việt tuyên bố đảo chính,
lập chính phủ bù nhìn, v.v.

Nhưng "Vỏ quýt này có móng tay nhọn". Giặc Pháp không ngờ sự việc diễn ra đã hoàn
toàn ngược lại. Ngày 12 tháng 7 nhân dân và công an Hà Nội đã khám phá và tóm cổ những tên
đầu sỏ phản động trong các vụ ôn Như Hầu (Phụ lục - vụ ôn Như Hầu...) khu vực đường Quán
Thánh, Châu Long. Tất cả những truyền đơn, báo cáo, yết thị và kế hoạch lật đổ của bọn phản
động Quốc dân đảng làm tay sai cho giặc Pháp đều bị phơi trần. (Lúc này bọn Đại Việt và Quốc
dân đảng đã hợp nhất và lấy tên Quốc dân đảng. Chi tiết xem phụ lục, vụ ôn Như Hầu...). Cả
"thầy" lẫn "tớ" hết đường chối cãi. Ngày 14 tháng 7, không thấy mặt Xanh-tơ-ni bén mảng đến
khẩn khoản đề nghị với Chính phủ ta xin "diễu binh khắp thành phố Hà Nội" như mấy hôm trước
nữa. Âm mưu đó đã bị thất bại nhưng quân Pháp vẫn xúc tiến âm mưu đen tối khác: tiếp tục bãi
bỏ lệnh thuyên chuyển quân đội ở Bắc Bộ và Nam Bộ, tiếp tục tăng quân và vũ khí đưa từ Nam
Bộ ra Bắc. Ngoài ra chúng còn tạm(?) bãi bỏ việc hồi hương binh lính hết hạn tại ngũ, còn tiếp
tục tuyển thổ phỉ, tuyển tay sai. "Vụ Tham Hoan" là một chứng cớ. Tên Tham Hoan là một công
chức cao cấp ngành bưu điện trong thời kỳ Pháp còn đô hộ nước ta. Hắn là tư sản, bố vợ là tổng
đốc. Tham Hoan chuyên nghề tuyển người làm nội ứng cho giặc Pháp. Chính Xanh-tơ-ni trực tiếp
giao nhiệm vụ cho hắn: "Ai muốn theo Pháp thì chỉ cần ký tên vào một bản danh sách là sẽ được
Pháp cấp ngay 500 đồng và một tạ gạo". Khi bắt Tham Hoan, ta bắt được cả bản danh sách ấy
giấu trong người hắn.

Nhằm vào thời cơ chính quyền ta mới thành lập chưa được một năm, mọi tổ chức của
ta chưa kịp củng cố vững chắc, chúng vẫn ráo riết chuẩn bị một cuộc tấn công chớp nhoáng, tiếp
tục khiêu khích, lấn dần. Bốn giờ chiều ngày 29 tháng 8 năm 1946, chúng chiếm Nha Thuế quan
của ta. Xe nhà binh Pháp chạy khắp thành phố, cán người, bắt cóc, bắn bừa bãi vào nhân dân đi
qua đường phố.

Để làm dịu bớt không khí căng thẳng và tranh thủ thời gian xây dựng đất nước, xây
dựng lực lượng quốc phòng, sẵn sàng đối phó với đế quốc Pháp bất ngờ trở mặt tấn công xâm
lược nước ta một lần nữa, ngày 14 tháng 9 năm 1946 Hồ Chủ tịch ký với Mu-tê (Marius Moutet),
bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp, một tạm ước. Nhưng tạm ước vừa ký xong, giặc Pháp lại xúc tiến
những âm mưu mới. "Ngày 29 tháng 9 năm 1946 một phái đoàn kinh tế Pháp do Lô-răng
(Laurent) làm trưởng đoàn đã sang Xanh-ga-po điều đình với nhà đương cục Anh, ký một bản
hiệp ước cùng nhau chia sẻ quyền lợi kinh tế ở Á Đông và thoả thuận để một đại biểu Anh được
dự vào phần kiểm soát tài chính các ngân hàng Việt Nam. Viên đại biểu Anh đó là Tơ-ri-bo Uyn-
sơn (Tribor Wilson)" (Tài liệu lưu trữ cơ quan Bộ Tổng tham mưu). Bọn thực dân Pháp lại ký kết
với bọn Tưởng Giới Thạch một hiệp ước thương mại nhằm bóp nghẹt kinh tế của ta, che chở cho
bọn Tưởng Giới Thạch tự do xuất, nhập khẩu những hàng hoá mà Chính phủ ta ngăn cấm, giúp
đỡ bọn đặc vụ, thổ phỉ hoạt động phá hoại. Giặc Pháp còn "thành lập một ủy ban kiểm soát hàng
hoá xuất nhập cảng ở Việt Nam. ủy ban này bắt đầu làm việc ngày 15 tháng 10 năm 1946... và
thành lập cơ quan thương chính song hành với Nha Thuế quan Việt Nam" (Thông tư của Bộ Kinh
tế Pháp ngày 14 tháng 10 năm 1946). Chúng đòi những hàng hoá của ta phải có giấy phép của
Pháp cấp mới được vận chuyển trên miền duyên hải. Ta muốn thông thương với nước ngoài phải
cho Pháp kiểm soát, phải đưa sổ cho Pháp ký thuận mới được đi. Thật là những hành động hoàn
toàn vô lý của những tên cướp biển. Ô các nơi khác, giặc Pháp ráo riết mở rộng phạm vi chiếm
đóng hòng cô lập Hà Nội. Tại Sơn La, suốt bốn ngày, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 11, hai máy bay
khu trục của giặc Pháp mỗi ngày hai lần bắn phá vào nhân dân và các làng mạc; quân Pháp ở
Mường Krieng tấn công xuống bản Mong. Tại Hòn Gai, ngày 8 tháng 11, giặc Pháp đổ bộ vào
làng Tài Xá gần vùng Cẩm Phả bến. Ở Hải Ninh, giặc Pháp cho máy bay bắn xuống những vùng
đồng bào ta đang gặt, đồng thời chúng đưa bọn thổ phỉ đi cướp phá 270 mẫu lúa của nhân dân.

Tình hình ấy buộc chúng ta phải hết sức cảnh giác chuẩn bị đề phòng, sẵn sàng đối
phó với mọi tình thế mà giặc Pháp có thể gây ra.

Hà Nội nằm trong tình trạng bị thúc ép, đe dọa và uy hiếp nghiêm trọng.

Phần 2. Hà Nội những ngày đầu kháng chiến

Hà Nội sục sôi

Giặc Pháp tổ chức ngày càng nhiều những cuộc diễu binh thị uy trên các đường phố và
nhiều cuộc tập trận giả chiến thuật tấn công ở các vườn hoa Hà Nội. Chúng vẫn âm mưu dùng áp
lực quân sự bắt ta phải nhượng bộ từng bước, và cuối cùng phải đầu hàng(!), nếu không, một màn
kịch xâm lăng chớp nhoáng và tàn bạo sẽ xảy ra. Tháng 11 năm 1946, không khí thủ đô Hà Nội
đã trở nên vô cùng căng thẳng. Giữa lúc ấy, tại ngôi nhà ở gần đầu cầu thị xã Hà Đông về phía Hà
Nội, có một cuộc họp quan trọng. Sau khi phân tích tình hình, đồng chí Trường Chinh nói: "Giặc
Pháp chuẩn bị gấp rút lắm, trước sau thế nào nó cũng đánh ta. Trung ương giao cho đồng chí
Vương thừa Vũ làm khu trưởng Khu XI (khu Hà Nội), tổ chức chuẩn bị sẵn sàng đề phòng chúng
trở mặt gây chiến". Tại cuộc họp đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đã nhấn mạnh: "Nếu giặc
Pháp cố tình tấn công đánh chiếm Hà Nội, thì ta phải làm thế nào cho khéo, giữ được lực lượng
để đánh lâu dài và phải hết sức tranh thủ chuẩn bị, nhưng cũng hết sức tránh mắc mưu khiêu
khích của giặc, vì để kháng chiến bùng nổ sớm là không có lợi".

Bảy ngày sau, 20 tháng 10 năm 1946, tại Lò Lợn, Hà Nội, trụ sở của cơ quan chỉ huy
Khu XI, Lê Quảng Ba, nguyên chỉ huy trưởng của khu, chính thức bàn giao nhiệm vụ. Các cán
bộ, chiến sĩ đứng trước quốc kỳ màu đỏ chói lọi nghiêm trang làm lễ chào cờ, đọc mười lời thề
danh dự. Những tiếng hô "Xin thề!" thốt ra từ đáy lòng các chiến sĩ, những cánh tay rắn chắc, bàn
tay nắm chặt nhất loạt giơ lên: “... thắng không kiêu bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng
không sờn lòng, vào sống ra chết. cũng không nản chí... ". (Một đoạn của lời thề thứ 3, trong 10
lời thê danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam) Lòng mọi người sôi sục căm thù khi nghĩ tới
một ngày nào đó, giặc Pháp man rợ sẽ nổ súng đánh úp Chính phủ, quân đội và nhân dân ta. Bom
đạn của chúng sẽ trút xuống phố xá làng mạc yên lành. Hà Nội, khói lửa sẽ nghi ngút bốc lên rực
trời. Cảnh tàn khốc sẽ diễn ra...

Nhưng không! Hà Nội nhất định không chịu khoanh tay đợi giờ chết. Thủ đô Hà Nội
sẽ đứng lên! Cả nước sẽ đứng lên! Quyết không cam tâm chịu làm thân trâu ngựa. Hà Nội nhất
định thắng.

Mỗi người dân Hà Nội, đều sẵn có trong mình một dòng máu anh hùng: "Đánh giặc,
cứu nước!". Giặc Pháp càng lấn tới, nhân dân Hà Nội càng căm thù sôi sục.

Hàng ngày, nhân dân các khu phố kéo đến gặp cơ quan chính quyền, gặp Bộ chỉ huy
khu tình nguyện xin đi đánh giặc. Người nào cũng biểu lộ ý chí sắt đá của mình. "Giặc Pháp lấn
át ta quá lắm, không chịu được nữa rồi. Trước sau thế nào nó cũng đánh mình. Đánh! Nhất định ta
phải đánh!". Đó là lời nói của một cụ già đã ngoại 60 tuổi, khi cụ đến xin chính quyền cho đi
đánh giặc. Ở Hà Nội, không riêng gì người lớn mà cả các em nhỏ cũng rất căm thù hành động
hung bạo của quân cướp nước. Em Minh, 15 tuổi, cũng như trăm ngàn em bé khác, sẵn có trong
người dòng máu của Trần Quốc Toản, trước cảnh Tổ quốc lâm nguy đã nhất quyết xin gia nhập
đội ngũ chiến đấu. Khi được vào tự vệ, Minh sung sướng tìm đến tâm tình với chính trị ủy viên
Trần Độ (và là cậu của Minh): "Cậu ạ, cháu được vào tự vệ khu phố rồi. Cháu có hai quả lựu đạn
và một con dao găm. Bọn Tây gặp cháu mà sinh sự là cháu choảng liền”. Thật đáng tự hào, mặc
dầu trang bị, kỹ thuật quân sự của ta còn rất thô sơ, nhưng từ em bé đến ông già, với tinh thần yêu
nước rất cao chẳng ai sợ giặc Pháp. Toàn dân một lòng nhất định không chịu làm nô lệ. Giữa lúc
nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược sắp nổ ra ngày càng rõ rệt, lòng căm thù của nhân dân Hà
Nội đối với giặc Pháp ngày càng sôi sục thì Đảng ủy mặt trận Hà Nội được thành lập gồm đồng
chí Nguyễn Văn Trân (bí thư) và các đồng chí Lê Hoàng, Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo,
Nguyễn Tài, Ngô Ngọc Du (ủy viên). Đồng chí Trần Quốc Hoàn hồi đó là Phó bí thư xứ ủy Bắc
Kỳ được Trung ương cử về làm phái viên chỉ đạo và trực tiếp tham gia Đảng ủy mặt trận Hà Nội.
Cùng lúc ấy, ủy ban bảo vệ thành phố cũng được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Trân
(chủ tịch), Vương Thừa Vũ (phó chủ tịch kiêm chỉ huy trưởng Khu XI), Trần Độ (chính trị ủy
viên), Lê Hữu Qua (công an). Cơ quan giúp Bộ chỉ huy có đồng chí Khánh làm tham mưu phó,
đồng chí Trương Công Cẩn làm chủ nhiệm chính trị và một số đồng chí khác.

Cơ quan lãnh đạo của Hà Nội được kiện toàn, quần chúng nhân dân các tầng lớp đoàn
kết gắn bó xung quanh Đảng, Chính phủ và Bác Hồ, tin tưởng vô bờ bến vào Đảng và Bác. Trung
ương trực tiếp chỉ đạo, hàng ngày, hàng giờ chăm lo tới tình hình Hà Nội. Một chỉ thị phát ra,
muôn người như một, nhất tề hưởng ứng. Chúng ta kiên trì hoà bình nhưng sẵn sàng đánh trả lại,
nếu giặc Pháp cố tình nổ súng hòng cướp đoạt thủ đô của ta, xâm chiếm Tổ quốc chúng ta.

Chúng ta kiên quyết giữ vững chủ quyền, thành thật hợp tác với Pháp trên nguyên tắc
tự do và bình đẳng. Nhưng thực dân Pháp lại không muốn thế. Chúng tiếp tục uy hiếp và tấn công
ta về mọi mặt: Ngày 20 tháng 11 năm 1946, chúng khiêu khích phá rối trị an, gây chuyện đánh
chiếm Hải Phòng, khống chế cửa ngõ ngoại thương, chiếm lĩnh một số vị trí quân sự quan trọng ở
miền Bắc nước ta. Và cũng trong ngày đó (20- 11- 1946), quân Pháp ngang nhiên đánh chiếm
Lạng Sơn, khống chế đường biên giới Việt - Trung. Tháng 11 Ở Tiên Yên, giặc Pháp đánh về
Đình Lập, Móng Cái nhằm kiểm soát miền bờ biển và làm chủ con đường giao thông chiến lược
Hải Phòng - Móng Cái - Lạng Sơn. Ngoài ra, thực dân Pháp còn nổ súng đánh chiếm nhiều nơi
khác để cô lập Hà Nội và khống chế khu tam giác đồng bằng Bắc Bộ. Ở Hà Nội, giặc Pháp ngang
nhiên phá rối trật tự trị an. Lính Pháp đi chơi, bỗng nhiên xả hàng tràng súng máy vào làng Nhân
Thôn, đốt làng Ái Mộ (Gia Lâm). Chúng còn láo xược dùng vũ lực đuổi các chiến sĩ của ta gác
nhà Đông Dương ngân hàng ra vỉa hè. Một xe gíp của Pháp qua Bờ hồ Hoàn Kiếm bắn súng
trường vào đồn công an, nhà Gô-đa, ném lựu đạn vào chỗ chiến sĩ ta gác ở Toà Thị chính. Hàng
ngày, xảy ra hàng chục vụ xe nhà binh Pháp phóng bạt mạng trong thành phố đâm vào xe của Vệ
quốc đoàn, đè bẹp xe bò, xe xích lô, chồm lên vỉa hè húc đổ tủ kính, quán hàng. Mỗi ngày xảy ra
hàng chục vụ lính Pháp đi cướp thuốc lá, cướp quần áo, mua hàng không trả tiền còn đánh đập
người có của, chẹn đường ăn cướp, bắt cóc phụ nữ bỏ lên ô tô chạy vào thành. Tại phố Hàng
Bông, lính Pháp giơ súng hăm dọa rồi lột áo, móc túi cướp tất cả tiền bạc của một thanh niên, liền
sau đó chúng xộc vào cướp 27 chiếc đồng hồ trong một cửa hàng của người Hoa kiều. Mặt khác,
xe tăng, xe bọc sắt của chúng luôn luôn gầm rú trên các đường phố để khiêu khích. Lòng căm hờn
uất ức của đồng bào thủ đô dâng lên tột độ. Có anh đạp xích lô đã rút guốc đập vào mặt tên giặc
Pháp. Có những chủ hàng đã dùng chai lọ ném nhau với bọn cướp của, ăn quỵt. Không khí Hà
Nội ngày càng ngột ngạt. Tình hình ngày càng khẩn cấp. Âm mưu gây chiến tranh cướp nước ta
một lần nữa của bọn thực dân Pháp ngày càng trắng trợn. Sự sống còn của Tổ quốc ta chỉ trong
gang tấc. Ta đã nhiều lần lên tiếng phản đối chúng. Dân tộc ta có lịch sử ngàn năm chống ngoại
xâm, chúng ta không thể để cho giặc Pháp muốn sao được vậy.

Phải chiến đấu để tự vệ!

…Một số người Pháp ngoan cố và tham lam bất chấp cả công lý và tự do đã chống lại
ý muốn hoà bình của nhân dân Pháp, từ Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 đến Tạm ước 14 tháng
9. Họ cố theo đuổi chính sách thực dân hòng bắt dân Việt Nam trở lại đời nô lệ. Họ tuyên bố thân
thiện nhưng vẫn hành động xâm lấn. Họ nói hoà bình hôm trước rồi gây chiến hôm sau...
Máu người Việt và Pháp đang đổ ở Hải Phòng, Kiến An, Sơn La và Lạng Sơn.

La-mi, người Pháp có trách nhiệm dàn xếp sự xung đột ở đây cũng đã công nhiên vỗ
trắng chữ ký của mình và thừa nhận việc làm ngang ngược của quân đội Pháp.

Hỡi toàn thể nhân dân Việt Nam! Chúng ta tin ớ tình thân thiện giữa hai dân tộc Việt -
Pháp, nhưng chúng ta phải ngờ vực thái độ của một số những nhà đại diện Pháp ở đây.

Tình thế bắt buộc chúng ta phải chuẩn bị chiến đấu để tự vệ Hãy đoàn kết muôn người
như một. Hãy sẵn sàng chờ lệnh Chính phủ. Hãy nghiêng mình trước cái chết anh dũng của đồng
bào Hải Phòng, Kiến An và Lạng Sơn. Chúng ta hãy noi gương hy sinh cảm tử để bảo vệ chủ
quyền của đồng bào những nơi đó, chúng ta hết sức tránh khiêu khích, nhưng một khi cần phải
chiến đấu để tự vệ, chúng ta phải chiến đấu thực oanh liệt, thực bền bỉ, làm cho những kẻ gây
chiến phải lìa bỏ chính sách võ lực của họ, làm cho họ phải tôn trọng chủ quyền Việt Nam". (Báo
Cứu quốc, số 416, ngày 25 tháng 11 năm 1946.)

Theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, lòng căm thù giặc Pháp của nhân dân thủ đô,
cũng như nhân dân cả nước càng sôi sục. Khắp nơi rầm rộ chuẩn bị kháng chiến. Từ trẻ đến già,
người sắm dao, người đúc kiếm, mỗi người tự tìm lấy một thứ vũ khí để sẵn sàng chiến đấu bảo
vệ thủ đô. Tại trụ sở ủy ban các khu phố, hàng ngày người kéo đến đông nghịt, nô nức xung
phong vào tự vệ, cứu thương. Nhân dân xe thóc, gánh gạo, vận chuyển quần áo, thuốc men rầm
rập trên các đường phố đem đến ủy ban, ủng hộ Chính phủ làm quỹ kháng chiến. Chị em phụ nữ
hăng hái không kém gì nam giới. Có chị cắt tóc ngắn, mặc âu phục, nai nịt gọn gàng cũng vác
súng luyện tập, tuần tra canh gác ngày đêm. Nhiều phụ nữ Hoa kiều cũng xung phong đi cứu
thương, nấu ăn và vào tự vệ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức các bà mẹ và các chị em phụ
nữ đi quyên bông, quyên vải, quyên len, may chăn, đan áo gửi tặng bộ đội.

“…

Để cho chiến sĩ anh hùng,

Mùa đông tháng giá lạnh lùng sao đang?

Chị em! Nào hãy sửa sang

Người giúp của, kẻ sẵn sàng giúp công.

Đan, may chăn áo mùa đông

Tặng người chiến sĩ tỏ lòng biết ơn"

(Báo Cứu quốc, số 416, ngày 25 tháng 11 năm 1946).


Trong những ngày căng thẳng ấy, Đảng ủy, ủy ban và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội làm
việc suốt ngày, suốt đêm với tinh thần khẩn trương để tránh bị động lúng túng. Đồng chí Trần
Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân lăn lộn với quần chúng, tổ chức các đoàn thể, giáo dục, vận động
nhân dân sẵn sàng kháng chiến. Mỗi người một việc mải mê quên ăn, quên ngủ. Đồng chí Võ
Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy và đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng trực tiếp tới
thực địa duyệt những ý định chuẩn bị chiến đấu tự vệ của Bộ chỉ huy mặt trận.

Cứ sau ba ngày, Bộ chỉ huy mặt trận báo cáo tổng hợp tình hình với Bộ Tổng chỉ huy
một lần. Đồng chí Tổng chỉ huy luôn luôn nhắc nhở: "Nếu giặc Pháp cố tình đánh chiếm Hà Nội,
thì nhiệm vụ của mặt trận Hà Nội là phải chiến đấu giam chân địch tại Hà Nội một thời gian nhất
định để hậu phương ta kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, phải tiêu hao địch, hết sức giữ
gìn lực lượng mình để còn chiến đấu lâu dài, thực hiện phương châm chiến lược: toàn dân, toàn
diện, trường kỳ kháng chiến".

Sau mỗi lần nhận chỉ thị trực tiếp của đồng chí Tổng chỉ huy, các đồng chí trong Bộ
chỉ huy Hà Nội người nào cũng tăng thêm tin tưởng, quyết tâm càng thêm vững chắc nhất là tinh
thần làm việc cụ thể, sâu sát của các đồng chí cấp trên đã nhắc nhở những cán bộ chỉ huy mặt trận
Hà Nội càng phải đề cao trách nhiệm hơn nữa.

Hồi ấy, có một sĩ quan trong quân đội phát xít Nhật sang hàng ta được ở gần Bộ chỉ
huy Hà Nội để góp ý kiến, sĩ quan hàng binh ấy lấy tên Việt Nam là Ái Việt. Khi được tham gia
bàn bạc kế hoạch tác chiến với Bộ chỉ huy ở ngôi nhà hai tầng, phía bắc Ngã Tư Sở chừng hai
trăm mét, Ái Việt đề ra ý kiến chia thành từng tuyến để chiến đấu:

- Tuyến thứ nhất bám sát lấy các cửa ô, như Ô Đống Mác, Ô Cầu Dền, Ô Chợ Dừa, Ô
Yên Phụ.

- Tuyến thứ hai: Đường Đuôi Cá, Giáp Bát, Thanh Liệt, vòng ra Mọc Quan Nhân, Cầu
Giấy, Chèm.

- Tuyến thứ ba: Văn Điển, sông Nhuệ, Hà Đông...

Mỗi lần mọi người đứng xúm quanh bản đồ là một lần tranh luận sôi nổi, gay gắt. Bộ
chỉ huy mặt trận và đồng chí Trần Quốc Hoàn đều không đồng ý đánh như thế. Vì mấy lý do sau
đây: một là hoả lực của ta còn yếu, toàn là súng kíp, súng trường, dao găm, mã tấu và diện đối
diện với kẻ thù có vũ khí tối tân thì hoàn toàn không có lợi; hai là địa hình rộng mênh mông mỗi
vòng cung từ 15 đến 30 cây số, lực lượng ta vẻn vẹn có 5 tiểu đoàn, rải mành mành ra như vậy
biết bao nhiêu cho vừa, nhất định không thể giam chân giặc ở Hà Nội được; ba là bộ đội ta hầu
hết là những thanh niên hôm qua còn trong nhà máy, ngoài đồng ruộng, trên ghế nhà trường...,
hôm nay cầm súng đánh giặc, tuy rất giàu lòng yêu nước nhưng kỹ thuật chiến thuật còn hết sức
non yếu. Mặt khác toàn dân ta ai ai cũng kháng chiến, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều có
nhiệm vụ đánh giặc cứu nước, như vậy lại càng không thể "bày binh bố trận” theo kiểu vỗ ngực,
khoa đao, múa kiếm được.

Tuy nhiên sau đó Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội vẫn đem ý kiến của Ái Việt báo cáo lên
Bộ Tổng tham mưu.

Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nói:

- Ái Việt bố trí như thế không phù hợp với quan điểm và cách đánh của ta. Ý kiến đó
để tham khảo. Còn ý kiến quyết định là tùy ở Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận. Sau đó báo cáo lên
Bộ Tổng chỉ huy để duyệt.

Nhận được chỉ thị của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt
trận lại họp bàn bạc cặn kẽ, nghe ngóng ý kiến của cán bộ và chiến sĩ. Có ý kiến là tập trung lực
lượng tấn công vào thành, tiêu diệt địch để giành chủ động. Lại có ý kiến khác là tập trung một
phần lực lượng tiêu diệt địch ở Trường Bưởi. Lực lượng còn lại để một phần bảo vệ các cơ quan,
công xưởng, một phần làm đội dự bị.

Hội nghị cho rằng, ý kiến thứ nhất thì hơi mạo hiểm, vả lại cũng không đủ sức tấn
công tiêu diệt tức khắc một ngàn tên giặc trong thành, ý kiến thứ hai cũng không thực hiện được
tiêu hao địch và đánh lâu dài giam chân địch tại Hà Nội. Vì lực lượng ta có hạn, mà còn phải canh
gác bao vệ nhiều nơi quan trọng, và đánh như thế tự mình sẽ tạo nhiều sơ hở cho địch phát huy
ưu thế trang bị kỹ thuật, phát triển tấn công nhanh chóng. Sau đó được Trung ương trực tiếp giúp
đỡ ý kiến, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đi đến nhất trí là chuẩn bị làm sao để khi địch
nổ súng gây chiến, ta có thể nhanh chóng quật trả lại giành chủ động tiêu diệt một bộ phận địch,
rồi thu quân để có lực lượng trong đánh ra, ngoài đánh vào, giằng co như giàn gai mây để giam
chân địch. Bố trí lực lượng để lại trong lòng địch, hồi đó ta gọi là thuật "trùng độc chiến". Có lực
lượng ta ở bên trong thì địch không rảnh tay đánh thúc ra hậu phương ta. Ngược lại, có lực lượng
bên ngoài thì địch cũng không rảnh tay tiêu diệt lực lượng bên trong của ta. Vấn đề chia liên khu
cũng được bàn bạc rất sôi nổi. Để liên khu như khu hành chính hiện thời hay chia lại? Để như khu
hành chính thì Liên khu I rộng lên tới đường Cổ Ngư, Yên Phụ (Nay là đường Thanh Niên). Chia
lại cũng có 3 ý kiến khác nhau. Một là chia cắt ngang từ tây sang đông làm 3 liên khu. Hai là chia
dọc từ nam lên bắc, lấy đường xe điện và xe hoả phân chia làm ba. Để như khu hành chính và hai
cách chia như trên đều không thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch, không phá được ý định
tốc quyết, tốc thắng của địch, không thực hiện được trong đánh ra ngoài đánh vào, giằng co phân
tán lực lượng địch. Cuối cùng chỉ có cách chia thứ ba là được nhiều cán bộ đồng ý và biến thành
quyết định của ủy ban bảo vệ thành phố và Bộ chỉ huy mặt trận:

Liên khu I, khi nổ súng, vẫn giữ như khu hành chính cũ là phía nam và tây nam theo
đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi và đường Cột Cờ, phía tây bắc từ đường Cổ Ngư tới
Yên Phụ (Nhân dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1964), ủy ban hành chính
thành phố Hà Nội đã quyết định đổi tên đường Cột Cờ là đường Điện Biên Phủ). Phía bắc và
đông bắc là dọc sông Hồng từ Yên Phụ đến Nhà hát lớn. Sau 3 ngày chiến đấu tiêu hao địch, Liên
khu I thu hẹp lại. Giới tuyến phía nam dọc theo đường phố Hàng Thùng, Cầu Gỗ, Hàng Gai,
Hàng Bông; phía tây theo đại lộ Phùng Hưng; phía bắc và đông bắc theo đường xe lửa tới cầu
Long Biên, ven theo sông Hồng trở về Lò Sũ. Khu này dân cư đông đúc, nhà cửa liền nhau san
sát. Bộ binh theo đường đục tường từ nhà nọ sang nhà kia để cơ động, có thể liên hoàn tác chiến
hỗ trợ lẫn nhau và có thể len lỏi quật những đòn bất ngờ vào sau lưng địch. Ở đây đường sá lại
chật hẹp, ngang, dọc phức tạp, cơ giới khó vận chuyển, tiện cho ta bố trí chướng ngại ngăn chặn
xe tăng địch. Độ chênh mặt đất cao hơn các khu khác cũng có tác dụng quan sát và khống chế
rộng, do đó hình thành hạt nhân bên trong tổ chức phòng thủ kiên cố để thu hút lực lượng địch rất
tốt. Sau khi chiến đấu tự vệ ba ngày tại những khu vực của mình, tiểu đoàn 101 rút vào Liên khu I
thực hiện ý định "trùng độc chiến", cố gắng chiến đấu trong lòng địch 15 ngày để phối hợp với
ngoại tuyến. Về quân sự do đồng chí Nguyễn Văn Triệu và đồng chí Toàn Vinh phụ trách. Về
Đảng và chính quyền do đồng chí Lê Trung Toản và đồng chí Hoàng Phương phụ trách. Căn cứ
chỉ huy của tiểu đoàn đặt ở Hàng Bè.

Liên khu II, phía tây lấy dọc phố Hàng Lọng (Nay là đường Lê Duẩn), Kim Liên làm
giới tuyến; phía bắc giáp Liên khu I; phía đông ven sông Hồng về Vĩnh Tuy; phía nam tiếp giáp
các làng mạc ngoại thành. Phần lớn khu này do bọn viên chức lớp trên và kiều dân Pháp ở, nên
nhà cửa thưa, kiểu kiến trúc kiên cố và rộng rãi, có nhiều đại lộ vận chuyển chiến xa thuận lợi. Ô
đây, ta có tiểu đoàn 77 và 212 phụ trách. Về quân sự có đồng chí Bùi Sinh và Quang Tuần chỉ
huy. Về Đảng và chính quyền có đồng chí Đào và đồng chí Hồng Cơ phụ trách. Căn cứ chỉ huy
đặt tại chợ Hôm và trại Hàn Lâm.

Liên khu III lấy đường phố Hàng Lọng và đại lộ Phùng Hưng làm giới tuyến phía
đông, bao gồm các khu phố phía tây và tây bắc Hà Nội, đặc điểm chung giống Liên khu II và do
tiểu đoàn 145, 523 phụ trách; về quân sự có đồng chí An Giao chỉ huy; về Đảng và chính quyền
có đồng chí Phong và Trinh phụ trách. Căn cứ chỉ huy đặt tại Ô Cầu Giấy.

Sau khi chiến đấu 3 ngày tại khu vực bố trí của mình, trừ tiểu đoàn 101 theo kế hoạch
sẽ rút vào Liên khu I, còn bốn tiểu đoàn thu gọn lực lượng rút ra bám các cửa ô, riêng phía tây và
tây bắc rút ra phía Kim Mã, Ngọc Hà, Yên Phụ, bắt đầu thực hiện kế hoạch đánh ép từ ngoài vào.
Như vậy tiểu đoàn 101 ở lại Liên khu I như hạt nhân. Quân địch ở bao quanh như củi. Bốn tiểu
đoàn của ta bọc xung quanh như vỏ. Đó là một ý định tác chiến táo bạo và rất nguy hiểm cho
địch. Trước mặt, sau lưng chúng đều có lực lượng của ta giằng co lôi kéo chúng, làm cho kẻ địch
phải hao tổn lực lượng, bị động lúng túng, như thế ta sẽ giam chân kẻ địch được lâu hơn. Ý định
phòng thủ Hà Nội vô cùng độc đáo ấy được Trung ương trực tiếp chỉ đạo và Bộ chỉ huy mặt trận
Hà Nội tiến hành, kẻ địch không bao giờ nghĩ tới. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà
giặc Pháp từ chủ động lâm vào thế bị động.

Theo chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, tiểu đoàn 101 vừa chiến đấu, vừa lấy quân số tại
chỗ để xây dựng lực lượng, tác chiến giam chân địch khoảng 2 tuần lễ thì rời Liên khu I ra ngoài.
Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận dự kiến phương án cho đơn vị đó, sau khi làm tròn nhiệm vụ sẽ
rời Liên khu I ra ngoài theo ba đường: Một là mở đường máu phá vây rút về Vĩnh Tuy. Hai là
phân tán nhỏ rút theo đường cống ngầm và các phố hẻo lánh. Ba là bí mật rút qua sông Hồng về
phía đông hoặc đông bắc. Bộ chỉ huy bàn bạc nhiều và có thỉnh thị ý kiến của trên. nhưng không
thể quyết định dứt khoát được, chủ yếu căn cứ vào tình hình thực tế lúc đó, do Liên khu I báo cáo,
sẽ quyết định.

Từ đầu tháng 12 năm 1946, hành động cướp bóc khiêu khích của giặc Pháp càng tăng
lên gấp bội. Ở Hà Nội, không ngày nào là không có những vụ giặc Pháp đi cướp của, bắt cóc phụ
nữ, nổ súng vào tự vệ, v.v. Trắng trợn hơn là giặc Pháp xâm phạm thẳng vào các cơ quan Nhà
nước ta. Năm giờ chiều ngày 2 tháng 12, lính Pháp tới phá Phòng thông tin Hà Nội ở phố Tràng
Tiền, xé các bản tin, xé báo "Nhân dân (Le peuple), viết bậy lên tường (in bằng tiếng Pháp). Hai
giờ chiều ngày 3 tháng 12, chúng lại tới xé cờ đỏ sao vàng, treo cờ tam tài lên và còn viết láo
xược rằng: "nếu ai bỏ lá cờ này thì nhà mày sẽ bị đốt". Ngày mùng 4, hồi 7 giờ 25 phút, giặc
Pháp lại kéo tới đốt phòng thông tin. Tình hình căng thẳng vì hành động ngang ngược của quân
Pháp, đến nỗi chính một số binh lính Pháp cũng không chịu nổi. Bảy giờ sáng ngày 5 tháng 12
năm 1946, một tốp 5 người lính Pháp đi rải truyền đơn phản đối chiến tranh xâm lược ở các phố
trong tiểu khu 6 (mạn Đồn Thủy, Hà Nội):

“Hỡi anh em binh lính đóng ở Việt Nam! Các bạn? Vì lợi ích của các bạn, những đứa
con hiên ngang và can đảm của nước Pháp yêu quý, mà chúng tôi gửi các bạn những lời hăng
hái này thốt tự đáy con tim.

Nhận được lệnh rời nước Pháp sang đây để giải giáp quân đội Nhật, chúng ta đã làm
tròn nhiệm vụ. Nhiệm vụ xong, người ta phải hồi hương chúng ta.
Phải hồi hương chúng ta.

Chúng sắp tiêu phí sinh mệnh chúng ta bằng cách đẩy chúng ta vào cuộc chiến tranh
với một dân tộc chỉ muốn có hoà bình và cộng tác thành thật thân thiện với nước Pháp. Như thế
thật là trái hẳn với tạm ước mà hai nước vừa ký xong. Những việc xảy ra từ trước đến nay, từ
Bắc chí Nam ở Việt Nam đã cho ta thấy rõ chứng cớ và bảo rằng: Chúng ta, những người Pháp,
chúng ta đã đau khổ nhiều về tai họa chiến tranh Pháp - Đức trước đây tại sao chúng ta lại còn
nhảy vào một cuộc chém giết khác. Thật đã là quá lắm đối với chúng ta rồi, những người chỉ
muốn có hoà bình.

- Hoà bình cho người Pháp chúng ta!

- Đả đảo chiến tranh xâm lược thảm khốc giữa loài người

- Đả đảo bọn thực dân!".

(Báo Cứu quốc, số 430, ngày 9 tháng 12 năm 1946).

Những truyền đơn này vừa được tung ra đường phố, lập tức bọn thực dân khủng bố bắt
giam hàng loạt binh lính Pháp mà chúng tình nghi là phản chiến. Ba giờ chiều ngày 7 tháng 12,
bọn chỉ huy lại dẫn quân tới ngang nhiên chiếm đóng Nhà ngân hàng Pháp - Hoa. Ngày 8 tháng
12, giặc Pháp nổ súng, ném lựu đạn ở khắp các đường phố, anh Phạm Văn Quang 18 tuổi ở số
nhà 19 phố Hàng Đậu bị đạn xuyên qua hông. Ông Nguyễn Hai ở số nhà 67 phố Mai Hắc Đế bị
chúng đánh gần chết. Anh Lê Ngọc Chúc Ở phố Tô Tịch bị cướp phá hết đồ đạc. Hồi 8 giờ 30
phút tối, một xe nhà binh Pháp chạy qua phố Bắc Ninh đến phố Bình Chuẩn vô cớ nổ súng vào
thường dân làm cho chị Vũ Thị Gái, 19 tuổi, bị trúng đạn gãy xương hông và ông Vũ Tự, 39 tuổi,
bị gãy chân trái. Mười một giờ đêm, lính Pháp ném lựu đạn ở phố Hàng Khoai, nổ súng khiêu
khích tự vệ phố Hàng Gà. Từ đó, giặc Pháp ngày càng hành động ngang ngược hơn. Chúng cố
tình gây nên không khí căng thẳng để mượn cớ dùng áp lực quân sự bắt Chính phủ ta phải
nhượng chủ quyền cho chúng(!). Để không cho giặc Pháp phán đoán được thực chất lực lượng
của ta và cũng làm cho chúng phải dè chừng không dám nổ súng đánh úp ta sớm, Bộ chỉ huy mặt
trận đã tiến hành một cuộc nghi binh lớn, điều động hàng ngàn dân quân du kích các xã thuộc hai
tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, trời nhá nhem tối rầm rập từ các cửa Ô kéo vào Hà Nội, đóng xen kẽ
vào các vị trí Vệ quốc đoàn. Nửa đêm về sáng lại lặng lẽ bí mật rút ra ngoại thành. Suốt một tuần
lễ, ta làm như vậy. Giặc Pháp hoài nghi. Chúng cho là ta đã điều về Hà Nội tới 4 vạn bộ đội và
dân quân.

Sau khi Đảng ủy mặt trận Hà Nội đã thông qua toàn bộ kế hoạch chuẩn bị và được
đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy trực tiếp duyệt y và chỉ thị bổ sung cụ thể, chấp hành chỉ
thị của Bộ Tổng chỉ huy và nghị quyết của Đảng ủy mặt trận, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội bắt đầu
bố trí quân lại, điều chỉnh lực lượng cho thích hợp với nhiệm vụ chiến đấu phòng thủ. Tuy nhiên,
5 tiểu đoàn vẫn còn đóng rải rác ở 65 địa điểm để làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ các cơ quan, xí
nghiệp, kho tàng trong và ngoài thành phố. Theo yêu cầu của nhiệm vụ và cũng là yêu cầu của
quần chúng, mặt trận tổ chức được 12 đội quyết tử quân, nhiệm vụ chủ yếu là dùng bom ba càng
phá xe tăng, xe bọc sắt của địch. Và có 36 tổ du kích mỗi tổ từ 3 đến 5 người bố trí ở những nhà
gác và những góc phố quan trọng làm nhiệm vụ nghi binh, quấy rối, bắn tỉa, lưu động phục kích.
Để bảo đảm đầy đủ vật chất chiến đấu độc lập và lâu dài, Bộ chỉ huy chia cho Liên khu 1 mỗi loại
vũ khí một nửa trong tổng số của mặt trận, còn lại một nửa vừa chia cho hai liên khu vừa để dự
bị. Liên khu I có lương thực dự trữ ăn ba tháng, một vạn viên đạn, 500 quả lựu đạn, 100 chai ét-
xăng cờ-rếp, 2 máy vô tuyến điện.

Trong khi đó, đồng chí Nguyễn Văn Trân trực tiếp tổ chức lãnh đạo chuẩn bị cho các
trí thức, cán bộ kỹ thuật đi kháng chiến, chuẩn bị cho cơ quan Nhà nước, các kho tàng, xí nghiệp
như: bưu điện, nhà in giấy bạc, kho kinh tế Bắc Bộ, Viện bào chế Trung ương, v.v. bí mật lần lượt
rút ra ngoài để tránh bị địch bất ngờ phá hoại. Công binh xưởng về Vạn Phúc, Hà Đông để chế
tạo bom ba càng, lựu đạn và sửa chữa vũ khí. Các bệnh viện, quân y viện được đưa về Văn Điển,
Cự Đà, Phúc Thủy và Vân Đình. Việc cung cấp lương thực cho bộ đội và tự vệ do nhân dân các
nơi tự nguyện náo nức xung phong đi tiếp tế và ủng hộ. Các xã, các huyện đều có ủy ban tiếp tế.
Các kho lương thực đặt ở các khu vực xung quanh Hà Nội, chủ yếu là vùng Thanh Liệt, Mễ Trì
và vùng sông Nhuệ. Tổ chức thông tin liên lạc, do đồng chí Soạn phụ trách, có hai mạng điện
thoại, một của mặt trận, một của cơ quan chính quyền, làm thành hai vòng đai quanh Hà Nội. Mọi
việc chuẩn bị, tuy là để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của mình, nhưng vẫn phải tiến hành
lặng lẽ, vì nếu ta chuẩn bị lộ liễu, giặc Pháp mượn cớ đó sẽ nổ súng tấn công ta sớm thì cuộc
chiến đấu tự vệ của ta sẽ không có lợi trong lúc mọi việc chuẩn bị còn bề bộn. Ngược lại, nếu ta
không chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu tự vệ, bất ngờ giặc Pháp đánh úp, thì ta không chống cự được
lâu chiến tranh sẽ lan rộng nhanh chóng. Vì trên thực tế, hành động gây chiến của giặc Pháp ngày
càng trắng trợn, nên ngày 9 tháng 12, Bộ Tổng tham mưu buộc lòng phải ra lệnh chuẩn bị phá
hoại cầu cống, đường sá, sắp đặt kế hoạch rõ ràng, phân công khu vực cụ thể giữa nhân dân và bộ
đội, khi cần thiết mới bắt tay thực hiện (Xem phụ lục: Chỉ thị về việc chuẩn bị phá hoại cầu cống
đường sá của Bộ Tổng tham mưu). Phía bộ đội do đồng chí Trần Quốc Cư phụ trách cùng một
tiểu đoàn công binh do đồng chí Hoàng Đạo Thuý chỉ huy làm nòng cốt. Ngoài công tác chuẩn bị
chiến đấu, bộ đội và dân quân tự vệ còn tham gia công tác tuyên truyền vận động quần chúng tin
tưởng vào đường lối sách lược của Đảng và Chính phủ. Hầu hết nhân dân, nhất là nhân dân lao
động, vô cùng phẫn uất, kiên trì đấu tranh, tích cực chuẩn bị kháng chiến- Nhưng có một số người
nóng vội lại muốn đánh đuổi giặc Pháp đi ngay. Số ít thuộc tầng lớp trên muốn thoả hiệp với
Pháp, thực chất cũng là đầu hàng, làm tôi tớ cho giặc, hoặc có người còn lừng chừng không tin là
ta kháng chiến thắng lợi. Số nhỏ khác thì tiếc của, không muốn rời khỏi Hà Nội. Nhưng đến khi
tình hình đã quá rõ ràng, nguy cơ giặc Pháp xâm lược hàng ngày, hàng giờ đe dọa, thì đa số trong
những người lừng chừng cũng tỉnh ngộ. Còn nhân dân thủ đô thì ngày càng đề cao cảnh giác, sẵn
sàng chiến đấu. Các cụ già và trẻ em chuẩn bị lánh ra vùng nông thôn theo kế hoạch của ủy ban
tản cư, di cư. Hà Nội rầm rập chuẩn bị kháng chiến. Anh em công nhân chuẩn bị sẵn những toa xe
hoả, xe điện để lúc khởi sự đánh đổ ngang đường chặn chiến xa của giặc. Các nhà máy, công
xưởng đều chuẩn bị biến thành ổ tác chiến cố thủ. Đêm đêm, nhân dân thành phố đem từng đoàn
xe bò, xe xích lô bí mật chuyên chở đất cát về các khu phố để sẵn sàng đắp ụ làm chướng ngại vật
chắn ngang đường. Những ban công lịch sự, những cửa sổ, những mái nhà bằng đều trở thành vị
trí bắn. Trong gia đình, người đục tường, khoét vách làm lỗ châu mai, người đào nền nhà làm hố
chiến đấu. Nhà nọ đục thông luôn sang nhà kia làm thành những con đường bí mật lưu thông
khắp thành phố. Các cửa hiệu, các gia đình thu dọn đồ đạc chuẩn bị sẵn những bàn ghế, giường
tủ, quầy hàng, bao cát để lúc cần thiết sẽ tung ra đường tạo thành hàng cây số chướng ngại vật và
xây đắp thêm ụ súng mới. Nhiều cụ già nhất định không chịu tản cư, các cụ ở lại, thành lập đội
lão tự vệ, suốt đêm này qua đêm khác cùng con cháu chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Giặc Pháp ngày càng hành động ngang ngược, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt chạy
khiêu khích ta trên các phố và húc bừa vào các nhà đồng bào. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn
chúng. Có một cụ ở phố Hàng Bông uất ức quá tay cầm dao, tay cầm lựu đạn, xông thẳng vào xe
tăng của chúng. Bọn chúng phải bỏ chạy. Nhiều em thiếu nhi cũng xin ở lại cùng các anh chị
tham gia chiến đấu bảo vệ thành phố. Các em đã luồn lỏi vào trong trại lính Pháp lấy tin tức về kế
hoạch chuẩn bị tấn công của chúng, báo cho bộ đội ta. Nhiều em đã xung phong vào các đơn vị
quyết tử. Em Tâm 13 tuổi không được vào đội quyết tử đã khóc mấy buổi liền và không ăn cơm.
Các anh lớn giải thích:

- Em còn bé, không vác nổi bom ba càng đâu.

Tâm cãi lại:

- Các anh lớn mang bom lớn. Em bé vác bom bé. Nếu không, thiếu niên chúng em
thành lập đội quyết tử riêng vậy.

Cuối cùng, rất nhiều em được nhận vào làm liên lạc, trinh sát cho đội quyết tử.

Lúc ấy, chị em phụ nữ thủ đô cũng là một lực lượng tham gia chuẩn bị kháng chiến
đông đảo và hăng hái không kém gì nam giới. Từ những sóng tóc dài duyên dáng, chị em đã búi
tó, quấn đuôi sam, có chị cắt ngắn như nam giới. Từ những tà áo màu tha thướt, chị em đã thay
bằng áo nâu, áo xanh, có chị mặc quân phục, âu phục như nam giới. Một bên sườn đeo kiếm, một
bên đeo lựu đạn hiên ngang đứng gác bên ụ chướng ngại giữa đường phố.

Suốt ngày đêm các đội nữ cứu thương, các đội hoả thực (Đội nấu cơm), đội tuyên
truyền, uý lạo... làm việc, rộn ràng tíu tít, có chị vừa làm vừa hát để động viên anh em. Các chị
đem nước, đem bánh đi tới từng ụ súng, chiến hào suốt ngày không biết mệt mỏi. Nhân dân Hà
Nội náo nhiệt, nô nức chuẩn bị, chỉ vài ngày trước khi giặc Pháp nổ súng tấn công đánh úp ta thì
thủ đô Hà Nội đã trở thành chiến luỹ, sẵn sàng kháng chiến. Nhân dân tự tay viết lên tường nhà
nhưng khẩu hiệu: "Thà chết không làm nô lệ!", "Chết vinh còn hơn sống nhục?". Tính từ ngày 21
tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã gây ra 47 vụ khiêu khích làm chết 15 người, bị
thương 41 người và nhiều nhà bị phá huỷ. Ngày 16 tháng 12 năm 1946. Ở Hải Phòng. bọn trùm
thực dân Pháp Ở Đông Dương là Đác-giăng-li-ơ, Va-luy. Moóc-li-e. Xanh-tơ- ni họp lần cuối
cùng bàn kế hoạch cụ thể để đánh úp Hà Nội và toả ra xâm chiếm các vùng khác. Cùng ngày hôm
đó, tại Ngã Tư Sở, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Văn Thái nghe Bộ chỉ huy mặt
trận Hà Nội báo cáo toàn bộ công tác chuẩn bị lần cuối cùng.

Sau khi duyệt kế hoạch, đồng chí Võ Nguyên Giáp với thái độ thận trọng và kiên
quyết, căn dặn Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội:

"- Phải hết sức tỉnh táo, hết sức kỷ luật đề phòng sự khiêu khích. Nếu quân Pháp trở
mặt đánh ta thì chiến đấu phải hết sức ngoan cường. Vận dụng chiến thuật phải hết sức linh hoạt,
nhưng phải bảo tồn lực lượng”.

Sau khi nhận chỉ thị của cấp trên, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận lại tiếp tục đi động
viên nhân dân, các đơn vị dân quân tự vệ và bộ đội. Các đồng chí Đảng ủy viên trực tiếp tới chi
bộ cơ sở để truyền đạt quyết tâm. Chính trị ủy viên Trần Độ cho biết: chi bộ đầu tiên của bộ đội ở
thủ đô Hà Nội có hơn mười đảng viên. Cuộc họp lần thứ nhất được đồng chí Trường Chinh, Tổng
Bí thư Đảng trực tiếp tới dự. Đến khi chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Hà Nội thì số lượng đảng viên
mỗi khu có một chi bộ, nhiều nhất là 32 đồng chí, ít nhất là 6. Lúc đó, các đảng viên đều biểu lộ
đạo đức cộng sản cao quý của mình, tận tuỵ, gương mẫu, dũng cảm làm đầu tàu lôi cuốn quần
chúng. Quần chúng kính yêu Đảng và tin tưởng vô bờ bến vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tại đình làng Mọc Quan Nhân, các chiến sĩ quyết tử đứng trước bàn thờ Tổ quốc,
trước cờ đỏ sao vàng chói lọi, trước chân dung Bác Hồ, nắm chắc tay giơ lên xin thề: "Quyết sống
chết với thủ đô?", "Quyết tử để bảo vệ Tổ quốc?'!, "Thà chết quyết không chịu làm nô lệ!". Tiếng
hát quốc ca hùng tráng và lời thề đanh thép của những chiến sĩ quyết tử trẻ tuổi đã vang mãi mãi
trong tâm trí mọi người và đã củng cố quyết tâm, tăng thêm niềm tin sắt đá cho Bộ chỉ huy mặt
trận. Ở Bắc Bộ phủ, sau khi đội quyết tử làm lễ tuyên thệ, một số công chức cũ và nhân dân đã thì
thầm rằng: "Quyết tử quân làm lễ tế sống, những người như thế không bao giờ họ chết”.

Bộ chỉ huy mặt trận cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp tới pháo đài Láng thăm các khẩu
đội. Đồng chí Đôn, chỉ huy pháo binh cho biết là không có phương tiện đo đạc tính toán, anh em
khắc phục bằng cách vẽ một vòng tròn chia độ vào một tấm bìa rồi đặt vào bản đồ lấy hướng bắn.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp tươi cười căn dặn: "Các đồng chí cố gắng nghiên cứu sáng tạo nhiều
hơn nữa và khi cần thiết phải hạ nòng pháo xuống bắn thẳng vào quân địch. Nhưng phải luôn
luôn chú ý giữ gìn bảo vệ vũ khí" .

Trước lúc đồng chí Tổng chỉ huy ra về, Bộ chỉ huy mặt trận hứa hẹn quyết tâm thực
hiện ba điều:

- Kiên quyết chiến đấu giam chân địch tại Hà Nội một thời gian.

- Vừa chiến đấu, vừa tổ chức xây dựng lực lượng.

- Bền bỉ hoạt động nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận địch.

Đồng chí Tổng chỉ huy siết chặt tay từng người và nhấn mạnh: "Luôn luôn cảnh giác,
sẵn sàng đối phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra".

Khắc sâu căm thù

Ngày nay, tại ngã ba đường phố Yên Ninh và Hàng Bún, có một tấm bia cao mang
những dòng chữ: "Khắc sâu căm thù thực dân xâm lược Pháp đã tàn sát đồng bào ta tại nơi đây,
ngày 17 tháng 12 năm 1946 mở đầu cuộc gây hấn của chúng ở thủ đô Hà Nội".

Chập tối ngày 16 tháng 12 năm 1946, một chiếc xe ô tô nhà binh Pháp sầm sầm chạy
tới Hàng Bún rồi dừng lại chĩa súng bắn chết một tự vệ đang đứng gác. Mấy tên lính mũ đỏ nhảy
xuống bắt cóc một chiến sĩ tự vệ khác quăng lên xe. Tất nhiên chiến sĩ tự vệ không chịu ngoan
ngoãn đầu hàng như chúng tưởng. Lập tức đồng chí tự vệ đấm đá, quật mạnh văng mấy tên lính
mũ đỏ ra, rồi hô hoán để nhân dân đến cứu. Nhân dân kéo đến, mấy tên lính Pháp nhảy lên xe
chạy vào thành. Sáng sớm hôm sau, ngày 17 tháng 12, giặc Pháp cho máy bay thám thính bay
lượn khắp bầu trời Hà Nội. Dưới đường phố, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt, lính mũ đỏ mang tiểu
liên vây chặt phố Yên Ninh và Hàng Bún. Chúng bắt hơn 40 người tập trung ở ngã ba hai phố
trên. Những khẩu súng trên xe tăng nhằm chĩa vào đồng bào. Một tên quan năm và một tên quan
ba người Pháp vênh vênh cái mặt. Ngồi trên xe bọc sắt, tên quan năm sai tên Việt gian đứng ra
hỏi:
- Trong đám mày, có thằng nào, con nào là Việt Minh không?

Mọi người im lặng. Nó hỏi lần thứ hai, lần thứ ba mọi người vẫn im lặng. Sau đó tên
Việt gian gần lính đi sục từng nhà. Một tên Pháp nói trọ trẹ:

- Có ai biết tiếng Pháp không?

Một thanh niên trong số người vừa bị bắt đứng lên trả lời: "Có!", lập tức chúng lôi anh
ra đánh đập túi bụi rồi bắt anh làm thông ngôn cho chúng.

Tên quan năm hỏi:

- Ở đây có bao nhiêu Việt Minh?

Mọi người vẫn im lặng, hắn quát tháo ầm ĩ rồi lại hỏi:

- Ai muốn theo chúng tao thì đứng sang một bên.

Hắn hỏi gặng hai, ba lần chẳng ai thèm nhúc nhích. Thấy không dụ được đồng bào,
bọn chúng giở trò khám xét lục túi từng người, cướp đoạt tiền bạc, đồng hồ, bút máy. Sau đó,
chúng bắt 15 phụ nữ đưa lên ô tô vận tải. Lập tức đồng bào xô lên đấu tranh đòi chúng phải trả
con em mình. Xe tăng, xe bọc sắt gầm rú lên như hổ đói, lùi ra xa và không một chút ngần ngại,
giặc Pháp liền quạt súng máy lia lịa nhả đạn tàn sát đồng bào ta. Tiếng nguyền rủa, tiếng kêu uất
ức của các cụ già, tiếng trẻ em kinh hoảng hét thất thanh, người còn sống sót chạy tán loạn. Trong
nháy mắt đầu phố Yên Ninh máu tràn lênh láng, hơn 20 người vừa chết vừa bị thương nằm ngổn
ngang giữa đường, ngã vật trên vỉa hè. Giặc Pháp lại cho lính lê dương ùa vào đường phố, vào
từng nhà để tàn sát đồng bào ta và đập phá đồ đạc. Có em bé 3 tuổi bị chúng xọc lưỡi lê xuyên
qua bụng vất xác giữa nhà. Có cụ già bị chúng bắn vỡ đầu chết gục dưới bếp. Chúng châm lửa
vào quần áo, chăn màn làm mồi để đốt nhà. Đứng trước cảnh tang tóc đau thương của cha mẹ, vợ
con bị giặc tàn sát, của cải bị giặc cướp, đồ đạc nhà cửa bốc cháy ngùn ngụt, anh em tự vệ lòng
tràn ngập căm thù, kẻ tay dao, người tay kiếm xông vào đuổi giặc để cứu gia đình.

Bọn chúng hoảng sợ trước lòng căm hờn sôi sục của nhân dân, kéo nhau rút chạy vào
thành. Ngay sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Trân trực tiếp tới phố Hàng Bún để xem xét tình hình
và thăm hỏi đồng bào bị nạn. Giữa lúc nhân dân trở về dọn dẹp, chôn cất người bị nạn, thì pháo
binh, súng cối của giặc Pháp ở trong thành bắn liên tiếp từng loạt vào phố Yên Ninh và Hàng Bún
làm sụp đổ hàng dãy nhà, làm cho một số người nữa bị chết và bị thương. Cũng trong ngày 17
tháng 12, hồi 10 giờ, 3 xe bọc sắt, xe húc đất và xe cần trục của giặc Pháp tới phá ụ đất và công
sự của nhân dân phố Lò Đúc, dỡ gỗ bốc lên xe. Đồng thời một toán lính Pháp đi bắn phá lung
tung ở phố Hàng Bột. Hàng trăm lính Pháp có xe tăng yểm hộ bao vây Đồn công an Quận 2, v.v...
Không khí ngột ngạt của ngày 17 tháng 12 chưa tan thì ngày 18 tháng 12 giặc Pháp lại
nã súng bắn vào nhân dân phố Hàng Khoai, chợ Đồng Xuân. 6 giờ 40 phút sáng, lính lê dương lại
đến bao vây Trụ sở công an Hàng Đậu. Hai giờ chiều, quân Pháp chiếm đóng Nha Tài chính và
Trụ sở Bộ Giao thông. Đến 21 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12 quân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính
phủ ta đòi tước vũ khí Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an và đòi kiểm soát trật tự an ninh trong thành
phố. Nếu sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946 những điều kiện đó không được chấp thuận thì quân
đội Pháp chuyển sang hành động(!).

Thật rõ như ban ngày, thực dân Pháp đã mở đầu cuộc gây hấn ở thủ đô Hà Nội. Chúng
dùng vũ lực định bóp chết một chính quyền còn trứng nước, một quân đội mới sơ sinh, hòng đè
đầu cưỡi cổ nhân dân ta một lần nữa. Ngày 18 tháng 12, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra mệnh lệnh
chuẩn bị (Xem phụ lục: Mệnh lệnh chuẩn bị). Trong mệnh lệnh có nói:

“Những sự chuẩn bị ráo riết và hành động khiêu khích ấy là một triệu chứng chúng
sắp đánh úp ta thực sự.

Vì danh dự của Tổ quốc, vì quyền lợi của dân tộc, chúng ta quyết không chịu lùi
bước”.

Khoảng 2 giờ chiều ngày 19 tháng 12 năm 1946, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội về Thái
Hà Ấp (Lăng Hoàng Cao Khải) để nghe Bộ Tổng chỉ huy phổ biến tình hình và nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu tự vệ. Các đồng chí cấp trên phân tích tình hình, vạch rõ âm mưu bội ước và hành
động tàn ác của giặc. Mọi người đều vô cùng phẫn uất trước thái độ hống hách, kẻ cả của bọn
thực dân xâm lược. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nói:

- Chúng đưa tối hậu thư cho ta, bắt ta nộp vũ khí, giao quyền trị an cho chúng. Ta
muốn tranh thủ hoà bình để xây dựng đất nước. Nhưng nếu giao quyền cho chúng thì Chính phủ
ta nằm trong tay giặc, nó muốn diệt lúc nào thì diệt và nếu không thì sáng ngày 20 tháng 12
chúng sẽ mở rộng những hành động quân sự với quy mô lớn, đánh úp, bắt toàn bộ cơ quan Chính
phủ ta. Tất nhiên, chúng ta không thể để như vậy được.

Đồng chí Trần Quốc Hoàn nói thêm:

- Vừa qua Trung ương có họp, Bác (Hồ Chủ tịch) phân tích tình hình Mỹ, Pháp và khả
năng của ta. Bác giải thích rõ ràng và tỉ mỉ là cuộc kháng chiến lâu dài của ta nhất định thắng lợi.
Cuối cùng Bác còn hỏi kỹ thêm về tình hình mùa màng và sinh hoạt của nhân dân. Khi biết chắc
chắn năm nay được mùa, nhân dân no đủ, Bác mới an tâm.
Ngay sau đó, Bộ chỉ huy mặt trận cấp tốc triệu tập hội nghị để phổ biến tình hình
nhiệm vụ cho các tiểu đoàn trưởng và cán bộ của các liên khu. Cuộc họp tiến hành tại tầng gác
hai của một ngôi nhà ở sát đường cái, phía đông bắc cầu xi măng gần sân bay Bạch Mai. Suốt hơn
2 tiếng đồng hồ bàn bạc, mọi người đều sôi sục căm hờn, đều một lòng một dạ: "Sẵn sàng kháng
chiến đến thắng lợi, kiên quyết chiến đấu bảo vệ thủ đô".

Khoảng 6 giờ chiều, cuộc họp bế mạc. Các cán bộ, người đi xe đạp, người đi bộ toả về
đơn vị. Ở các khu phố vẫn có lác đác tiếng súng khiêu khích của giặc. Trong những giờ phút vô
cùng quyết liệt này, hàng vạn đồng bào đủ các giới nam, phụ, lão, ấu người cầm dao, kẻ cầm
súng, rầm rập trên các đường phố tình nguyện ở lại cùng với các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo
vệ thủ đô, bảo vệ Hà Nội yêu dấu.

Hà Nội sẵn sàng kháng chiến!

Giờ cứu nước đã đến!

Khoảng 8 giờ tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, cả thành phố Hà Nội đèn điện phụt tắt.
Giặc Pháp nổ súng tấn công đánh úp ta ở Trụ sở liên lạc Việt - Pháp, ga Hàng Cỏ, cầu Long Biên,
v.v. để mở đầu cho mưu toan tấn công toàn diện vào cơ quan Chính phủ và quân đội ta ở thủ đô
Hà Nội vào sớm ngày 20 tháng 12.

Tổ quốc lâm nguy! Giờ cứu nước đã đến!

Không còn con đường nào khác, chúng ta phải vùng dậy kháng chiến chống xâm lăng.
Bản mệnh lệnh lịch sử của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp được nhanh chóng truyền đi
khắp mặt trận (Xem phụ lục - Mệnh lệnh của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp). Pháo của
ta ở pháo đài Láng và Xuân Tảo gầm thét trút căm hờn bắn vào đầu giặc trong thành Hà Nội.
Tiếng súng lớn, súng nhỏ ầm vang. Từng đám lửa bùng cháy đỏ rực thành phố. Các tổ tuyên
truyền sục sôi phát đi những lời kêu gọi cứu nước:

"A-lô! A-lô! Giặc Pháp nổ súng tấn công chúng ta. Thưa toàn thể đồng bào? Giờ cứu
nước đã đến...". Tiếng loa vang đi, khắp nơi đồng bào vùng dậy sát cánh với quân đội tham gia
chiến đấu, như được trút tất cả những căm hờn uất hận, dồn nén lại từ bao lâu nay lên đầu quân
xâm lược. Khắp nơi nhân dân nhộn nhịp khuân bàn ghế, tủ chè, sập gụ, quầy hàng, hương án,
hòm xiểng và hàng trăm đồ đạc quý giá khác quăng ra đường. Anh em tự vệ nổ mìn, chặt cây, ngả
cột đèn chắn ngang đường phố làm thành hàng cây số chướng ngại để cản trở cơ giới của giặc.
Công nhân xe lửa, xe điện đánh đổ đầu tàu, toa tàu để ngăn các ngả đường Cửa Nam, Khâm
Thiên, Phố Huế. Ở nhiều nơi nhân dân đã cùng các chiến sĩ tự vệ khu phố tiếp tục đào hào, xếp
các bao cát thành các ụ súng. Tại chỉ huy sở tiền phương (Nhà gạch hai tầng, đông bắc cầu xi
măng, phía sân bay Bạch Mai) của Bộ chỉ huy mặt trận, chuông điện thoại réo liên hồi. Đồng chí
Võ Nguyên Giáp luôn theo dõi tình hình, ra chỉ thị và động viên các cán bộ, chiến sĩ đang ngoan
cường anh dũng chiến đấu trên toàn mặt trận. Đồng chí Nguyễn Văn Tân ở chỉ huy sở cơ bản, qua
đường dây điện thoại luôn luôn nhắc nhở, củng cố quyết tâm cho cán bộ chỉ huy mặt trận: Kiên
quyết chấp hành sáng tạo quyết tâm của Đảng ủy. Sau đó đồng chí trực tiếp đi kiểm tra, động viên
bộ đội ở pháo đài Láng. Tin chiến sự từ các liên khu tới tấp báo cáo về chỉ huy sở. Ngay từ phút
đầu, cuộc chiến đấu đã diễn ra vô cùng ác liệt. Tại trụ sở liên lạc Việt - Pháp, ta có tiểu đội gác
chung với địch. Trừ người đang làm nhiệm vụ, còn các chiến sĩ vẫn vui chơi ca hát, đọc báo, xem
truyện. Bỗng xe bọc sắt và bộ binh địch ập đến khép chặt vòng vây. Chúng xả súng máy, ném lựu
đạn liên hồi vào các chiến sĩ. Đồng chí chỉ huy hy sinh ngay từ phút đầu. Một chiến sĩ lập tức rút
chốt lựu đạn lăn xả vào chúng. Chiến sĩ khác tay không lao tới giằng súng tiểu liên của một tên
lính lê dương, bắn lia lịa vào những tên giặc khát máu và xe bọc sắt của chúng. Lưỡi lê xốc tới,
các chiến sĩ hét vang: "Giết! Giết!". Trong khoảng đất nhỏ hẹp và trong căn nhà tối om xảy ra
cuộc vật lộn vô cùng ác liệt! Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ rất dai dẳng. Sau này một số lính Pháp
bị ta bắt được kể lại rằng. "Các chiến sĩ ở đây chỉ còn một người họ cũng chống cự, vừa bắn súng
vừa luôn mồm chửi rủa bọn thực dân và họ đã chống cự đến viên đạn cuối cùng". Ở nhà dầu Shell
Khâm Thiên (Số 1, phố Khâm Thiên), giặc Pháp cũng bất ngờ bao vây nổ súng đánh úp một đơn
vị bộ đội ta. Nằm trong tình thế bất lợi, để bảo toàn lực lượng, các chiến sĩ đã phá vây rút lui an
toàn về phía Thổ Quan, Mỹ Đức. Ở ga Hàng Cỏ, giặc Pháp bất ngờ nổ súng vào các chiến sĩ Vệ
quốc đoàn. Bọn địch ở phía nhà dầu Shell phối hợp gánh ngược lên, bọn ở nhà Si-ta-ga (Sau là
một cơ sở của Xưởng sửa chữa Ô tô Chiến Thắng) phía trước cũng đánh tạt sang. Bị bất ngờ, đại
đội tự vệ nhà ga không tiếp ứng kịp. Ở vào thế bất lợi, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn phải rút lui về
phía nam phố Quốc Tử Giám. Ở đầu cầu Long Biên về phía Gia Lâm, trung đội Vệ quốc đoàn
đang phân tán sinh hoạt, vui chơi. Đột nhiên súng nổ, lựu đạn rơi tới tấp vào doanh trại làm 6
chiến sĩ hy sinh, 2 bị thương. Các chiến sĩ lao ra ngoài đâm lê, ném lựu đạn vật lộn với giặc, phá
vây rút về phía Gia Lâm sáp nhập với đơn vị bạn tấn công sân bay.

Giặc Pháp còn tiến quân phối hợp với lính gác ở Nhà máy điện, Nhà máy nước Yên
Phụ, Nhà in I-đeo hòng tiêu diệt công nhân và bộ đội ta. Tướng tá thực dân Pháp ở Hà Nội hí
hửng cho rằng chúng đánh úp Chính phủ ta, xâm chiếm thủ đô dễ như trở bàn tay, chỉ 24 tiếng
đồng hồ là nuốt chửng Hà Nội! Nhưng tiếng súng xâm lược của chúng vừa nổ, nhân dân Hà Nội
vạn người như một đã nhất tề đứng lên kháng chiến. Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội ra lệnh cho các
đơn vị Vệ quốc đoàn, công an, dân quân tự vệ lập tức đánh trả lại quân xâm lược trên toàn mặt
trận. Khu vực Bắc Bộ phủ đã diễn ra những đợt chiến đấu vô cùng ác liệt kéo dài suốt một đêm,
một ngày. Khi quân địch bắt đầu nổ súng, chiến sĩ ta nhanh chóng bấm điện trái bom 250kg theo
đường ngầm đã đặt sẵn ở dưới nền nhà khách sạn Mê-tơ-rô-pôn (Ngay từ khi giặc Pháp ráo riết
hành động mở đầu cuộc gây hấn xâm chiếm thủ đô thì tự vệ và Vệ quốc đoàn đã đào đường ngầm
chôn bom, sẵn sàng đánh lại khi bị chúng tấn công), nhưng rất tiếc là bom cũ, hỏng kíp nên
không nổ. Quân địch dùng sung máy bắn sang Bắc Bộ phủ rất dữ dội. Ta cũng dùng súng máy
bắn trả lại và cho bộ binh xung phong sang khách sạn... Ngay khi đó, ở nhà máy điện Bờ hồ,
trong chớp nhoáng, công nhân nhà máy đã cùng Vệ quốc đoàn quật cho bọn gây chiến ở đây
không sống sót một tên. Bộ chỉ huy Pháp ở trong thành tung lực lượng cơ động đi các hướng
hòng đè bẹp các lực lượng của ta trong chốc lát.

Cánh quân thứ nhất chừng 300 lính lê dương, 8 xe tăng, 10 xe bọc sắt có pháo binh,
súng cối yểm hộ, từ trong thành tiến ra khu vực Bờ hồ, hy vọng nhanh chóng bao vây, bắt sống,
tiêu diệt toàn bộ cơ quan đầu não của ta. Đoàn xe của địch tới ngã năm Cửa Nam, ta giật trái bom
chôn ngầm dưới đất nhưng bom không nổ. Bộ binh cơ giới dịch vượt qua được Cửa Nam. Chúng
hùng hổ tiến đến đầu phố Tràng Thi thì phải dừng lại, vì bị tủ chè, sập gụ, quầy hàng của nhân
dân vứt chồng chất như núi ở giữa đường. Tự vệ từ trên mái nhà, trên tầng gác lao bom, ném lựu
đạn, nã súng máy như đổ lửa xuống đầu địch. Bom nổ, một xe thiết giáp của địch bị tan tành.
Quân địch chạy tán loạn lùi trở lại bắn phá, đồng thời chúng tách một bộ phận theo đường phố
Hàng Bông, Thợ Nhuộm để đánh vòng sau lưng ta. Nhưng toán quân này cũng bị chặn lại. Pháo
binh, súng cối của chúng bắn phá rầm rầm vào hai dãy nhà bên đường phố. Hơn một giờ sau,
quân địch mới tới Bắc Bộ phủ. Một xe tăng án ngữ ở cửa nhà băng (Nay là Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam), một xe tăng trước cửa nhà Gô-đa (Nay là Mậu dịch Bách hoá tổng hợp), một xe tăng
ở phía trước cửa Nhà hát lớn, còn một số xe tăng và xe bọc sắt khác yểm hộ cho bộ binh tiến. Một
xe bọc sắt đến vườn hoa Chí Linh dừng lại, 3 tên lính Pháp nhảy xuống đặt súng máy trên nền đất
cao định bắn vào Toà Thị chính (Nay là trụ sở ủy ban Hành chính thành phố), bị bộ đội ta trên gác
bắn ra, 1 tên địch chết ngay tại chỗ, 2 tên khác rút chạy lên xe. Trong đêm 19 tháng 12, ở Bắc Bộ
phủ, quân ta chiến đấu vô cùng anh dũng, quân địch không thể nào tiến vào được. Một quyết tử
quân là cán bộ tiểu đội sắp được Bộ chỉ huy quyết định đề bạt lên trung đội trưởng đã ôm bom ba
càng lao tới phá hủy ngay tức khắc chiếc xe tăng địch đi đầu. Chiếc xe khác đi vòng sang bên
sườn bắn yểm hộ, đồng chí đã trở vào xin thêm bom. Nhanh như cắt, đồng chí lao cả người, cả
bom vào xe tăng địch. Nhưng bom không nổ, đồng chí đã hy sinh. Tinh thần chiến đấu anh dũng
ấy đã động viên các chiến sĩ ở Bắc Bộ phủ ngoan cường giờ từng cửa sổ, từng bức tường, quyết
không cho địch đánh chiếm dễ dàng. Quân địch đành phải tập trung quân tấn công đánh chiếm
Toà Thị chính, tạo thành thế bao vây phía tây bắc với Bắc Bộ phủ, chờ quân tiếp viện và chờ trời
sáng sẽ tiếp tục tấn công ta. Tám giờ sáng ngày 20 tháng 12, địch lại nã trọng pháo, súng cối vào
Bắc Bộ phủ, yểm hộ cho một cánh quân đánh thẳng chính diện, một cánh quân từ vườn hoa Chí
Linh đánh tạt sang, một cánh quân khác tiến đánh nhà bưu điện hình thành mũi bao vây phía sau
Bắc Bộ phủ, xe tăng địch lồng lên gầm rú nhằm vào cửa sổ, góc tường, ụ đất bắn phá hòng uy
hiếp tinh thần chiến sĩ ta. Các chiến sĩ vẫn giữ bí mật không hò reo, không bắn trả lại. Chúng
tưởng quân ta đã bị tê liệt. Nhưng vừa tới tầm lựu đạn, từ các góc tường, cửa sổ, hàng loạt bom,
chai cháy, lựu đạn ném ra; súng trường, tiểu liên bắn xả vào bộ binh địch. Bọn sống sót còn lại xô
đẩy nhau rút chạy. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ 30. Đạn dược gần hết, lựu đạn, chai cháy,
bom ba càng cũng không còn nữa. Các chiến sĩ đề nghị chiến đấu đến người cuối cùng. Lê Gia
Định, chính trị viên đại đội ra lệnh cho tất cả các chiến sĩ còn lại dìu thương binh theo giao thông
hào rút về nhà bưu điện. Các chiến sĩ nói: "Sống cùng sống, chết cùng chết, cho chúng tôi ở lại
đây chiến đấu với anh". Lê Gia Định giải thích: "Kháng chiến còn lâu dài, chúng ta không chủ
trương cố thủ mấy ngôi nhà này. Chiến đấu như vậy là các đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ. Các
đồng chí phải rút để bảo toàn lực lượng, nhiệm vụ các đồng chí còn nặng nề. Các đồng chí hãy
xứng đáng là những người chiến sĩ bảo vệ dinh Hồ Chủ tịch".

Giặc Pháp thấy quân ta bắn ra lẻ tẻ, chúng dùng xe tăng húc đổ hàng rào sắt, bộ binh
ào ạt xung phong, chúng tiến vào cầu thang, đánh lên gác. Bỗng, một tiếng nổ rầm trời (Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, quân ta rút ra khỏi Bắc Bộ phủ. Quân địch ập vào. Để giữ trọn lời thề trước
khi nổ súng: "Không cho địch nghênh ngang chiếm nhà Cha Hồ", Lê Gia Định đã nhanh nhẹn
xông ra đập kíp làm nổ quả bom lớn). Mười tên giặc tan xác. Lê Gia Định cũng không còn nữa.
Những tên giặc còn lại ù tai, hoa mắt chạy toé trở ra vô cùng khiếp đảm, run sợ trước tinh thần
chiến đấu quật cường của chiến sĩ ta, những người con của một dân tộc anh hùng "quyết không
chịu làm nô lệ" Bắc Bộ phủ lúc này chỉ còn là những căn phòng đổ nát, không người. Vì Bác và
cơ quan Chính phủ đã rời khỏi đây từ lâu, làm việc bí mật ở nơi khác và đã về căn cứ chỉ đạo
ngay từ khi quân địch sắp gây hấn. Giặc Pháp vừa run sợ trước tinh thần chiến đấu của quân dân
ta, vừa thất vọng vì phải trả một giá rất đắt mà cuối cùng vẫn không thực hiện được cuồng vọng
là đánh úp cơ quan lãnh đạo và lãnh tụ của ta. Chúng dè dặt, tiếp tục tấn công sang bưu điện. Ở
đây có hơn 20 nam nữ công nhân viên, một tiểu đội Vệ quốc đoàn và một số chiến sĩ ở Bắc Bộ
phủ rút về thành một lực lượng phòng thủ tương đối mạnh. quân địch tấn công đến chiều tối vẫn
không chiếm được, đành phải rút về nhà băng Đông Dương để củng cố. Sau một đêm ngày giao
chiến, giặc Pháp đã phải bỏ xác tại khu vực này 122 tên (số bị thương, chúng chuyển đi nên
không rõ), 2 xe tăng, 1 xe gíp, 2 xe vận tải bị phá hủy và 2 xe tăng khác bị đứt xích; bên ta gần
một trung đội Vệ quốc đoàn thuộc tiểu đoàn 101 đã anh dũng hy sinh. Các chiến sĩ Bắc Bộ phủ đã
làm cho kẻ địch bắt đầu dè chừng chùn bước.
Ngay giờ phút chiến đấu đầu tiên, những tên cáo già xâm lược đã lộ rõ bản chất yếu
hèn đáng hổ thẹn và nhục nhã. Xanh-tơ-ni và Moóc-li-e đã từng hùng hổ và kiêu ngạo, nhưng khi
bị một lực lượng nhỏ của ta đánh trả lại thì hai " vị tướng cướp" kia đã cuống quýt xô đẩy nhau,
lôi kéo nhau rút chạy trước tiên, rời bỏ "biệt thự" mát mẻ và lịch sự ở sát Bờ hồ Hoàn Kiếm (Nay
là Trụ sở báo Nhân dân). Súng máy của ta nhằm chúng bắn, nhưng súng máy bị tắc. Ta ném tiếp 4
quả lựu đạn, lựu đạn không nổ. Một chiến sĩ chạy lao theo ném tiếp quả lựu đạn thứ 5. Một tiếng
nổ như sét đánh bên ria đường. Xanh-tơ-ni bị thương, rên la ầm ĩ. Mấy chiếc xe tăng, xe bọc sắt
hối hả đến cứu chúng cũng vừa tới, tức tốc đưa hai tên "trùm thực dân" chạy vào thành, để mặc
những tên lính đánh thuê nằm lại đợi giờ chết.

Xanh-tơ-ni và Moóc-li-e vừa chết hụt ở Bờ hồ Hoàn Kiếm cắm đầu tháo chạy, vừa lọt
vào thành tưởng đã yên thân, ngờ đâu, thình lình có tiếng lựu dạn, tiểu liên, rồi đến tiếng súng
trường, súng máy nổ ran, lửa cháy nghi ngút ngay trong thành. Lính Pháp bị chết, bị thương, có
tiếng kêu rống lên như bò bị chọc tiết. Những tên chỉ huy xâm lược kia lại một phen kinh hoảng:
"Việt Minh đã tấn công được vào tận đây ư? ôi? Ghê sợ thật !". Một tên lính Pháp sau này bị ta
bắt được đã thuật lại câu nói và sự luống cuống run sợ của Xanh-tơ-ni và Moóc-li-e như vậy.

Sự thật thì hôm đó chỉ có ba đội viên tự vệ khu Đông thành thuộc Liên khu I đã bất
ngờ giết lính gác, lọt vào thành dùng lựu đạn, chai cháy, đốt phá kho tàng của địch. Súng nổ, lửa
cháy, bọn chúng chạy tán loạn bắn lẫn vào nhau. Đó là một cách đánh kỳ lạ mà bọn quân sự tư
sản không thể nào nghĩ tới.

Trong thành phố, khắp nơi đang diễn ra những trận kịch chiến quyết liệt giằng co từng
tấc đất. Bộ phận của ta tiến vào phá hoại sân bay Gia Lâm bị lộ, phải rút. Bộ phận phá hoại cầu
Long Biên cho bộc phá nổ ở chân cầu nhưng cầu không đổ. Các chiến sĩ nhanh chóng lật một số
tấm ván ở mặt cầu, vừa lúc đó một đoàn cơ giới của địch từ Gia Lâm tiến sang tiếp viện cho Hà
Nội đã rọi đèn pha rực sáng cả mặt cầu. Đồng thời, một cánh quân Pháp có chừng hơn 30 xe cơ
giới từ trong thành tiến ra Cửa Bắc tiếp viện cho bọn ở cầu Long Biên và định bắt liên lạc với bọn
ở Gia Lâm tiến sang. Các chiến sĩ phá cầu rút về Phúc Xá. Ngay lúc đó, ở đầu cầu Long Biên về
phía Hà Nội súng nổ dữ dội, lửa cháy rực trời. Toán địch ở Gia Lâm tiến sang đến giữa cầu, thấy
vậy dừng lại, mặc cho đồng đội của chúng đang bị quân ta chặn đánh ở phố Hàng Đậu. Như một
con rắn độc khổng lồ, đoàn xe của địch từ trong thành chạy vội vã về phía đầu cầu Long Biên.
Nhưng chiếc xe tăng đầu tiên vừa tới đầu phố Hồng Phúc thì bị tự vệ giật bom phá tan. Chiếc xe
thứ hai bị đứt xích đứng lại. Các xe sau đang đà phóng nhanh không hãm kịp, trong đêm tối mù
mịt, súng nổ dữ dội, bọn chúng càng thêm hốt hoảng, xe sau xô vào xe trước, đổ liểng xiểng. Bộ
binh địch nhảy xuống, núp vào gầm xe, vào vỉa hè chống cự. Ngay lúc đó, Vệ quốc quân, tự vệ và
nhân dân đã bố trí sẵn ở hai bên đường phố, nhảy ra đánh giáp lá cà với quân địch, đốt phá cơ
giới làm chúng hoang mang quay đầu chạy về thành, bỏ lại trên 70 xác chết. 2 xe tăng bị phá huỷ,
2 xe tăng khác và 2 ô tô vận tải bị hư hỏng. Bên ta chỉ có 5 tự vệ bị thương.

Cánh quân cơ động thứ ba của địch từ trong thành qua Cửa Bắc tiến ra định phối hợp
với lính gác ở Nhà máy điện, Nhà máy nước Yên Phụ, Nhà in I-đeo, tiêu diệt công nhân và bộ đội
ta đang chiến đấu ở những nơi trên, nhưng dọc đường bị bàn ghế, cây cối ngổn ngang chắn lối,
mặt khác lại bị tự vệ luôn luôn nổ súng ngăn chặn từng bước, nên hơn một giờ sau chúng mới tới.
Và ở đấy công nhân đã phá hủy máy móc xong, cùng bộ đội rút về tổ chức ổ đề kháng cố thủ tại
Nhà in I-đeo. Trong khi đó ở Yên Phụ, phía tây bắc Nhà máy điện chừng 800 mét, một trung đội
Vệ quốc đoàn, có công an, tự vệ phối hợp, xung phong giết được 5 tên địch ở nhà tắm cuối đường
Cổ Ngư, phá hủy một xe gíp làm cho bọn địch ở phía bắc Hà Nội càng thêm lúng túng. Bên ta 2
Vệ quốc quân và 1 công an hy sinh.

Cánh quân cơ động thứ tư của địch từ trong thành, qua Cửa Nam, với ý định .nhanh
chóng tiến ra chiếm ga Hàng Cỏ, bao vây tiêu diệt toàn bộ đại đội tự vệ của ta ở nhà Đấu Xảo
(Nay là Nhà hát Nhân dân). Nhưng từ đầu phố Hàng Lọng, cơ giới của địch bị toa xe lửa đổ chắn
ngang, không tiến được. Đội tự vệ ga Hàng Cỏ cùng tự vệ phố Hàng Lọng xuất kích đánh tạt
sườn địch, tiêu diệt 15 tên lính Pháp, phá hủy 1 xe tăng, 2 ô tô vận tải và làm hư hỏng 1 xe tăng
khác. Quân địch phải tìm đường vòng, mở một mũi tấn công đánh chiếm toà án, định tiêu diệt bộ
đội ta bố trí ở Hoả Lò. Nhưng các chiến sĩ Vệ quốc đoàn ở Hoả Lò đã phối hợp với một tiểu đội ở
quân y viện (Nay là Bệnh viện C) tấn công tiêu diệt quân địch ở Viện Ra- đi-om, tránh được đòn
tập kích bất ngờ của toán địch tấn công sau lưng. Cuộc chiến đấu ở khu vực này diễn ra giằng co,
xen kẽ, phức tạp. Đến nửa đêm về sáng, quân địch mới đánh chiếm được những khu nhà xung
quanh Đấu Xảo, hình thành ba mặt bao vây. Một mũi từ phố Trần Quốc Toản đánh quặt phía sau,
một mũi từ ga Hàng Cỏ đánh thẳng vào phía trước, một mũi từ phố Quán Sứ chiếm khu nhà Tổng
liên đoàn lao động đánh chéo sang. Mặc dầu đã hy sinh gần 20 người, đại đội tự vệ và một số
công an vẫn bám chắc ụ súng, bờ tường đánh bật các đợt xung phong của địch, tiêu diệt hơn 30
tên. Đến 4 giờ sáng, anh em tự vệ khéo léo nghi binh rồi bí mật rút về phố Nguyễn Du. Mờ sáng,
quân địch xung phong vào Đấu Xảo, ở đấy chỉ còn lại những vỏ đạn, gạch ngói đổ vỡ trong
những căn phòng trống rỗng.

Tiếng súng vẫn nổ ran. Các chị trong đại đội thông tin tuyên truyền, các em liên lạc
vẫn truyền tin chiến thắng tới khắp các khu phố Hà Nội. Có những nơi, chiến sĩ ta vừa chiến đấu
phòng thủ vừa hát bài quốc ca, bài "Diệt phát xít", bài "Chiến sĩ Việt Nam"... Tiếng hát hoà theo
tiếng đàn của đội tuyên truyền gần như át tiếng súng. Lúc đầu có những cụ già, trẻ em đột nhiên
thấy súng nổ dữ dội, giật mình tìm chỗ ẩn nấp tránh đạn. Sau thấy anh chị em tự vệ gọi loa báo
tin chiến thắng, thấy nam nữ tự vệ rầm rập tiếp tục đào hào đắp ụ, chặt cây làm chướng ngại vật
ngoài đường phố, các cụ và một số em cũng vùng dậy chạy ra tham gia mọi việc. Mỗi người, dù
chỉ ném ra đường một kiện hàng, một chiếc ghế hoặc chặt được một cành cây ngả ra đường làm
chướng ngại vật ngăn bước tiến của giặc Pháp, đều cảm thấy tự hào sung sướng. Không khí
kháng chiến bừng bừng khắp các đường phố thủ đô Hà Nội.

Các đơn vị Vệ quốc đoàn, dân quân tự vệ ở Liên khu II cũng liên tiếp đánh lại quân
địch ở các vị trí hãng Pho (Ford), Đồn Thuỷ, Phà Đen. Đến 7 giờ sáng ngày 20 tháng 12, chừng
200 bộ binh địch cùng một số ô tô vận tải từ Đồn Thuỷ, theo phố Nguyễn Công Trứ tiến về phố
Huế, tới khu nghĩa địa bị quân ta chặn đánh tiêu diệt 15 tên, phá hủy 1 ô tô vận tải. Đoàn xe của
địch phải quay trở lại Đồn Thuỷ. Quân ta không một ai việc gì. Ở phố Hàng Bài, hàng loạt ổ
chiến đấu bí mật của giặc Pháp trong các nhà Pháp kiều cũng bị tự vệ cùng nhân dân khu phố tiêu
diệt. Trung đội bộ đội đóng ở trại Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài) cử đồng chí Lưu
(hoặc Liệu) là một chiến sĩ quê ở miền núi, làm nhiệm vụ giật bom ngầm dưới nền nhà của Rạp
chiếu bóng Ma-giét-tích (Majestic) (Nay là Rạp chiếu bóng Tháng Tám) nhưng bom không nổ.
Bực mình quá, đồng chí Lưu chui vào đường hầm, lấy súng trường gí sát vào tận kíp bom để bắn,
mặc dầu đồng chí cũng biết rằng, nếu bom nổ thì mình cũng tan tành. Nhưng bom vẫn không nổ.
Lập tức, một tiểu đội Vệ quốc đoàn vượt qua đường phố xung quanh, tạt sườn Rạp Ma-giét-tích,
tiêu diệt địch, thu nhiều vũ khí đạn dược.

Ở Liên khu III, quân ta chiến đấu quyết liệt với địch tại Trường Bưởi, đánh bật địch ở
nhà bia O-men (Bière Hommel) (Nay là Nhà máy bia Hà Nội), tập kích cơ quan tình báo của địch
ở phố Ông Ích Khiêm, bắt sống tên trung uý tình báo. Đặc biệt, nhân dân phố Hàng Bột nô nức
xung phong đi theo anh em tự vệ phố, phối hợp với một đơn vị Vệ quốc đoàn, tiến đến bao vây
quân dịch chiếm đóng nhà Đề-lê-vô (Déléveaur) (Từ số 3 đến số 9 phố Cát Linh). Quân ta vừa nổ
súng tấn công uy hiếp, vừa gọi dịch vận. Quân địch ngoan cố không chịu hàng, chờ tiếp viện.
Nhưng quân tiếp viện suốt đêm bị ta chặn đứng ở Văn Miếu, đầu phố Hàng Bột. Bọn địch ở nhà
Đề-lê-vô hoàn toàn bị cô lập, tiếng súng chống cự của chúng mỗi lúc một thoi thóp...

Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội vừa nổ, Hà Nội lửa rực cháy thì nhân dân
ngoại thành và các vùng cách xa Hà Nội hàng chục cây số cũng ào ra sân, ra đầu làng hướng về
thủ đô. Các cấp lãnh đạo và chính quyền các địa phương đã cùng nhân dân rầm rập chuẩn bị suốt
đêm để chi viện cho Hà Nội. Các đội dân quân tự vệ tập trung ở các đình, chùa, điếm canh đầu
làng sẵn sàng giáo mác, chờ lệnh tiến vào chiến đấu để bảo vệ thủ đô yêu quý. Các đội nữ hoả
đầu quân chuẩn bị gạo nước, giết lợn, giết gà, sẵn sàng tiếp tế lương thực cho tiền tuyến. Các đội
uý lạo mặt trận gồm các chị và các cụ bà cũng tập trung chờ sáng để đem quà tặng bộ đội, thăm
hỏi thương binh. Mọi người thao thức suốt đêm chờ tin chiến thắng. Hà Nội bị xâm lăng, Hà Nội
đứng lên và cả nước cũng đứng lên bảo vệ Hà Nội.

Giặc Pháp định dùng áp lực bắt ta phải nộp vũ khí, trao quyền trị an cho chúng. Nếu
không, sau hành động khiêu khích quân sự thăm dò ta đêm 19 tháng 12, chúng sẽ bất ngờ tổng
công kích, thực hiện kế hoạch chiếm xong Hà Nội trong vòng 24 giờ đồng hồ ngày 20 tháng 12,
quân đội và cơ quan Chính phủ ta sẽ nằm gọn trong tay chúng. Chúng cho rằng một Nhà nước
vừa mới ra đời, một lực lượng quân đội còn non trẻ không thể nào chống cự nổi với một đội quân
xâm lược thiện chiến, trang bị tối tân.

Nhưng mọi việc đều xảy ra ngược lại, tình hình đã không cho phép bọn thực dân Pháp
muốn sao được vậy. Nhân dân ta vùng dậy kháng chiến, quật cho kẻ địch những đòn chí mạng,
khiến chúng mất thế chủ động ban đầu. Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội từ chỗ chủ
quan khinh thường ta đi đến hoang mang lúng túng, điều quân cơ động đi tiếp viện, phá vây. Âm
mưu bắt sống, tiêu diệt lãnh tụ và Trung ương Đảng ta hoàn toàn thất bại. Tinh thần binh lính địch
thì hoang mang, không hiểu tình thế ra sao. Sĩ khí của quân dân ta thì bừng bừng sôi sục, tin
tưởng thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về mình. Đêm kháng chiến đầu tiên ở Hà Nội, quân và dân
ta đã tiêu diệt trên 300 tên địch (chưa kể số bị thương và chưa kể một số trận của tự vệ khu phố,
của nhân dân đã tự động tiêu diệt các ổ chiến đấu bí mật của giặc Pháp ở nhà bọn phản động), phá
hủy 5 xe tăng, 2 xe gíp, 7 xe vận tải, làm hư hỏng 5 xe tăng và xe bọc sắt khác. Ta thu được một
số vũ khí, quân trang, quân dụng. Hồi ấy, nếu những loại vũ khí như bom, mìn, lựu đạn của ta tốt
hơn (tức là đảm bảo nổ) và chúng ta biết sử dụng tập trung ưu thế binh lực có trọng điểm hơn nữa
thì những trận chiến đấu đầu tiên của ta còn làm cho giặc Pháp phải thiệt hại đau đớn hơn nhiều.
Thắng lợi đêm kháng chiến đầu tiên ở thủ đô Hà Nội không những là ở chỗ tiêu diệt được một số
địch, phá hủy được một số cơ giới làm cho giặc Pháp từ chủ động chuyển thành bị động, mà
thắng lợi to lớn hơn nữa là làm cho giặc Pháp bắt đầu dè chừng trước ý chí bất khuất của một dân
tộc anh hùng ở thủ đô anh hùng, không cam tâm chịu khuất phục trước kẻ thù có sức mạnh hơn
mình gấp bội. Tiếng súng kháng chiến ở thủ đô Hà Nội mở đầu cho cuộc kháng chiến lâu dài trên
toàn quốc là thắng lợi đầu tiên của nhân dân ta.

Phát huy thắng lợi đầu tiên, quân và dân thủ đô Hà Nội sẵn sàng đánh lại các đợt tấn
công mới, với quy mô lớn hơn của giặc Pháp.

Quân thù bắt đầu chùn bước...


Tiếng súng chiến đấu tự vệ của quân và dân Hà Nội bắt đầu nổ. Ủy ban bảo vệ Hà Nội
đổi tên thành Ủy ban kháng chiến để lãnh đạo và chỉ huy cuộc kháng chiến ở thủ đô.

Cuộc chiến đấu vừa qua một đêm thì ngay ngày hôm sau: 20 tháng 12, Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch được truyền đi khắp thành phố, đến từng chiến sĩ trong
các chiến hào. Những lời kêu gọi của Người thật vô cùng cảm động, thống thiết:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình., chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ., tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta.

Việt nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Ngày 19 tháng 12 năm 1946

Hồ Chí Minh"

Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã truyền sức mạnh, lòng tha thiết yêu Tổ quốc tới nhân
dân và các chiến sĩ thủ đô. Chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ, đồng bào đọc đi đọc lại cho nhau nghe
từng lời từng chữ trong những chiến hào, giao thông hào, góc tường, cửa sổ... Nhiều chiến sĩ và
đồng bào vừa đọc, vừa rơi nước mắt vì cảm động.

Buổi sáng hôm ấy, bình minh vừa hé lên, không khí giá lạnh tan dần, cả Hà Nội tiếng
súng nổ thưa thớt, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận đã chia nhau mỗi người đi một nơi để truyền
đạt lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, động viên các chiến sĩ và đồng bào, đồng thời xem xét mặt trận.
Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn và một đồng chí trong Bộ chỉ huy
mặt trận vào Ô Chợ Dừa, tới thăm một đại đội công nhân bố trí ở phố Khâm Thiên. Sở dĩ gọi là
đại đội công nhân vì các chiến sĩ của đại đội này hầu hết là anh em công nhân xe lửa. Sau khi
thăm hỏi tình hình chiến đấu và sức khoẻ của các chiến sĩ, đồng chí Hoàn tươi cười nói: "Các
đồng chí ra đây, tôi đã đề nghị với đồng chí Tổng chỉ huy cùng tôi với anh Vương Thừa Vũ chụp
chung với các đồng chí một kiểu ảnh làm kỷ niệm". Đồng chí Hoàng Văn Thái và Trần Độ, đi
động viên các chiến sĩ ở pháo đài Láng. Trong lúc đang nói chuyện với các pháo thủ thì mấy
chiếc máy bay của giặc Pháp bay đến lượn mấy vòng rồi bắn phá, ném bom, khói lửa mù mịt cả
cánh đồng. Cũng từ hôm đó Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận ngày đêm đi sát tuyến chiến đấu, chỉ
huy sở tiền phương trở thành lưu động. Do đó, Bộ chỉ huy mặt trận làm thêm một vị trí chỉ huy có
hầm ẩn nấp ở phía tây làng Trung Phụng (tây bắc Kim Liên).

Sau một đêm thử lửa, nhiều người vẫn cho rằng sáng ngày 20 tháng 12, giặc Pháp có
thể mở những đợt tấn công quy mô lớn để lấy lại tinh thần binh lính của chúng và tiếp tục kế
hoạch 24 giờ đồng hồ đánh chiếm Hà Nội.

Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị sẵn sàng đánh lại địch, thực hiện thuật cang
chiến" tức là đánh chẹn địch ở các đường phố, bố trí các trận địa phục kích tiêu diệt địch ở những
địa hình hiểm yếu. Nhưng cả ngày 20 tháng 12, ngoài hai mũi tấn công hết sức dè dặt ra đường
Hoàng Hoa Thám và phố Ngọc Hà, giặc Pháp không có một cuộc tấn công nào đáng kể. Cánh
quân của địch tiến ra đường Hoàng Hoa Thám, gần một ngày rập rình ở vườn Bách Thảo rồi rút
lui. Còn bọn địch tiến ra phố Ngọc Hà thấy tiếng súng của tự vệ bắn lẻ tẻ, chúng chủ quan đốc
quân đuổi theo... Bất ngờ, chủ lực ta ở phố Đội Cấn xuất kích đánh thốc vào sau lưng chúng ở trại
Ngọc Hà. Địch trở tay không kịp, hàng ngũ rối loạn, chạy tung toé khắp ngả, một số không chạy
thoát bị ta tiêu diệt. Sau trận thất bại này, giặc Pháp càng thêm dè chừng và thận trọng. Hai mươi
bốn tiếng đồng hồ đã qua. Bọn tướng tá xâm lược bắt đầu vò đầu, bóp trán.

Về phía ta, sau ngày chiến đấu thắng lợi đầu tiên, các đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Hoàng Văn Thái trực tiếp tới gặp Bộ chỉ huy mặt trận để phổ biến nhận định và chỉ thị mới của
Bộ Tổng chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đặc biết nhấn mạnh: "Phải kiên quyết giam chân
quân địch ở Hà Nội, tiêu hao thật nhiều sinh lực địch, bảo toàn lực lượng ta để tạo điều kiện cho
nhân dân ta chuẩn bị kháng chiến lâu dài". Trong khi đó ở bên ngoài, toàn mặt trận hầu như lắng
xuống, chỉ lác đác nơi này nơi kia có tiếng súng nổ của quân ta bắn tỉa quân giặc. Quân địch sau
một ngày thất bại đang chấn chỉnh lực lượng để mở những cuộc tấn công mới. Quân dân thủ đô
thì với không khí bừng bừng chiến thắng, chuẩn bị để ngay đêm hôm ấy mở những đợt tập kích
quân địch trên toàn mặt trận. Sau đó sẽ thực hiện đúng như kế hoạch đã định: Bốn tiểu đoàn thu
gọn lực lượng ra các cửa ô, tiểu đoàn 101 vào Liên khu I; hình thành thuật "trùng độc chiến” để
thực hiện tiêu hao và giam chân địch. Đồng chí Võ Nguyên Giáp còn căn dặn thêm: "Cần nhắc
nhở các đơn vị, tuyệt đối không vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải sẵn sàng chiến đấu
trong điều kiện quyết liệt hơn, vì rằng sau khi thăm dò lực lượng ta, giặc Pháp có thể tấn công
quy mô lớn hơn".

Quả nhiên ngày 21 tháng 12, từ sáng sớm giặc Pháp đã cho máy bay đến ném bom,
bắn phá vào khu vực nhà Bộ Quốc phòng (Nay là số 28 phố Hàng Bài), trại Vệ quốc đoàn Trung
ương (Nay là số 40 phố Hàng Bài). Khói lửa bốc cháy mù mịt ở phố Hàng Bài. Xe tăng, xe bọc
sắt của chúng từ phía nhà Gô-đa tiến đến bắn pháo vào phía trước Bộ Quốc phòng. Một mũi từ
trụ sở cơ quan liên lạc Việt - Pháp (Nay là số 21 phố Bà Triệu) đánh thúc sau lưng nhà Bộ Quốc
phòng. Có thời gian chuẩn bị trước. quân ta đã đào hầm, đục lỗ châu mai đủ các hướng, nên quân
địch đánh phía nào cũng bị chặn lại. Chúng phải lui ra xa, dùng máy bay, pháo binh, súng cối bắn
phá. Nhà cửa đổ sập. Hầm hố bị phá hủy một số. Đến 10 giờ 15 phút, quân ta rút sang trại Vệ
quốc đoàn, lúc vượt qua đại lộ Lý Thường Kiệt bị một khẩu đại liên của địch ở đầu phố bất ngờ
bắn quét mặt đường làm một số chiến sĩ bị thương vong. Nhân lúc đó xe tăng địch tiến tháng đến
trước trại Vệ quốc đoàn, và một mũi khác cũng có xe tăng yểm hộ đánh chiếm các nhà Pháp kiều
phía tây, hình thành thế bao vây trại Vệ quốc đoàn. Phía trước một xe tăng địch tiến sát vào vỉa hè
giơ sườn về phía ta. Nhưng ta không có vũ khí bắn xe tăng. Các chiến sĩ ném hàng loạt lựu đạn,
nhưng lựu đạn quả nổ quả không. Xe tăng địch húc qua cửa trước tiến vào sân bên trái. Quân ta
cầm cự đến 12 giờ thì theo đường ngầm dưới đất qua đại lộ Trần Hưng Đạo bí mật rút sang nhà
cố vấn Vĩnh Thuỵ nổ súng chống cự (Nay là số nhà 51 . đại lộ Trần Hưng Đạo. Năm 1925, ngày
6 tháng 1 . Khải Định chết. Ngày 18 tháng 1 năm 1926 con trai là Vĩnh Thụy từ Pháp về nối ngôi
lấy hiệu là Bảo Đại rồi lại sang Pa-ri tiếp tục theo học. Năm 1932, Bảo Đại về nước chính thức
làm tên vua bù nhìn tay sai cho đế quốc Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp,
Bảo Đại nhận làm tay sai cho Nhật. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương
lãnh đạo nhân dân Việt Nam vùng dậy cướp chính quyền. Ngày 25 tháng 8 năm 1945 Bảo Đại
đọc chiếu thoái vị. Sau do chính sách liên hiệp của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
Bảo Đại được giữ chức "Cố vấn Chính phủ”. Ngày 16 tháng 3 năm 1946, Bảo Đại được cử đi
giao thiệp với chính phủ Tưởng Giới Thạch. Tới Côn Minh, y đáp máy bay đi Trùng Khánh rồi
chuồn thẳng... Cho đến 16 tháng 12 năm 1947, Bảo Đại lại trở về vịnh Hạ Long gặp Bô-la-e
(Bollaert), mặc cả với nhau để y trở về tiếp tục làm tay sai cho bọn thực dân Pháp. Năm 1954,
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, Bảo Đại cùng số
phận với đế quốc Pháp, bị đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diễm gạt ra khỏi miền Nam năm 1955).
Quân địch tiếp tục tấn công theo. Quân ta bí mật theo đường ngầm luồn trở lại trại Vệ quốc đoàn,
bất ngờ nổ súng đánh quặt vào sau lưng địch. Bị một đòn hiểm đột nhiên giáng vào sau gáy, giặc
Pháp không tài nào chống đỡ nổi. Quân ta đốt cháy 3 ô tô vận tải. Xác giặc chết ngổn ngang trên
những đống gạch ngói đổ vỡ.

Bài học kinh nghiệm trận đánh Ngọc Hà còn nóng hổi. Nhưng giặc Pháp vẫn mù
quáng chủ quan ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí, nhắm mắt lao đầu vào cạm bẫy của ta. Quân và
dân đường Yên Phụ bắn lẻ tẻ dụ địch tiến vào sâu rồi lợi dụng chướng ngại vật chặn chúng lại.
Hai trung đội Vệ quốc đoàn và hàng trăm dân quân tự vệ bố trí sẵn ở gần đó, bất ngờ xuất hiện
đánh quặt sau lưng địch, đốt phá cơ giới, tiêu diệt hàng chục tên giặc. Bên ta, 2 chiến sĩ bị
thương.

Hiệp đầu thử sức, quân ta chiến thắng giòn giã. Bộ đội phòng không ở ngoại thành bắn
rơi 2 máy bay của địch. Các chiến sĩ trong Liên khu I chặn đánh địch ở Bộ Giao thông công chính
(Số 164, phố Trần Quang Khải), Nha Thủy lâm (Số 47, phố Hàng Dầu), phố Bắc Ninh, phố Hàng
Vôi... làm cho quân địch thiệt hại nặng nề.

Lối đánh du kích của toàn dân ta tham gia kháng chiến cứu nước đã diễn ra muôn hình
muôn vẻ, làm cho quân xâm lược không những phải chùn bước mà còn nơm nớp lo sợ.

Quân ta phát huy thắng lợi bước đầu, đồng thời làm lạc hướng phán đoán của địch
trước khi thu gọn lực lượng chuyển sang hình thế mới, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị
tập kích 8 mục tiêu và quấy rối địch trên toàn mặt trận. Ngay trong đêm 21 tháng 12, quân và dân
phố Hàng Bột đã tiêu diệt một số địch và chiếm nhà Đề-lê-vô.

Một trung đội Vệ quốc đoàn tập kích đầu Ô Yên Phụ, giết 1 lính Pháp, bắt sống 2 tên
Việt gian. Một trung đội tập kích Nhà in I-đeo, gây tiếng nổ dữ dội và nhiều đám cháy. Quân địch
phải huy động xe cơ giới từ trong thành và từ cầu Long Biên tiếp viện tới. Cũng 12 giờ đêm, một
trung đội tự vệ do trung đội phó Hoàng Dũng chỉ huy đã đột nhập thành phía Cửa Bắc bất ngờ nổ
súng trong lòng địch, giết chết 5 lính Pháp, thiêu hủy 1 xe tăng, 1 xe gíp, thu 2 súng máy. Một
tiểu đội Vệ quốc đoàn ở phố Đội Cấn đột nhập trại Ngọc Hà, ném lựu đạn giết một số lính Pháp.
Ngoài ra, quân và dân Hà Nội còn tập kích ở Toà Thị chính, nhà dầu Shell... và quấy rối nhiều nơi
khác làm náo động cả Hà Nội. Lửa cháy, súng nổ từ chập tối đến sáng.

Ngày 22 tháng 12, giặc Pháp cho một toán quân tiến vào phố Hàng Da, Hàng Điếu, Hà
Trung có tính chất thăm dò thì bị tự vệ khu Đông thành và một bộ phận nhỏ của tiểu đoàn 101
chặn đánh diệt 10 tên (trong đó 1 thiếu uý), phá hủy 1 Ô tô vận tải. Giặc Pháp vội vã rút chạy vào
thành. Sau đó, suốt ngày, toàn mặt trận im tiếng súng. Giặc Pháp củng cố lực lượng, bộ chỉ huy
quân đội thực dân Pháp ở Hà Nội họp bàn kế hoạch, chuẩn bị những đợt tấn công mới, với hy
vọng gia hạn một tuần lễ chiếm xong Hà Nội.

Phía ta, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy luôn luôn ở sát mặt trận, truyền đạt
nhận định và ra lệnh kịp thời cho Bộ chỉ huy mặt trận.

Một trung đội Vệ quốc đoàn tập kích đầu Ô Yên Phụ, giết 1 lính Pháp, bắt sống 2 tên
Việt gian. Một trung đội tập kích Nhà in I-đeo, gây tiếng nổ dữ dội và nhiều đám cháy. Quân địch
phải huy động xe cơ giới từ trong thành và từ cầu Long Biên tiếp viện tới. Cũng 12 giờ đêm, một
trung đội tự vệ do trung đội phó Hoàng Dũng chỉ huy đã đột nhập thành phía Cửa Bắc bất ngờ nổ
súng trong lòng địch, giết chết 5 lính Pháp, thiêu hủy 1 xe tăng, 1 xe gíp, thu 2 súng máy. Một
tiểu đội Vệ quốc đoàn ở phố Đội Cấn đột nhập trại Ngọc Hà, ném lựu đạn giết một số lính Pháp.
Ngoài ra, quân và dân Hà Nội còn tập kích ở Toà Thị chính, nhà dầu Shell... và quấy rối nhiều nơi
khác làm náo động cả Hà Nội. Lửa cháy, súng nổ từ chập tối đến sáng.

Ngày 22 tháng 12, giặc Pháp cho một toán quân tiến vào phố Hàng Da, Hàng Điếu, Hà
Trung có tính chất thăm dò thì bị tự vệ khu Đông thành và một bộ phận nhỏ của tiểu đoàn 101
chặn đánh diệt 10 tên (trong đó 1 thiếu uý), phá hủy 1 Ô tô vận tải. Giặc Pháp vội vã rút chạy vào
thành. Sau đó, suốt ngày, toàn mặt trận im tiếng súng. Giặc Pháp củng cố lực lượng, bộ chỉ huy
quân đội thực dân Pháp ở Hà Nội họp bàn kế hoạch, chuẩn bị những đợt tấn công mới, với hy
vọng gia hạn một tuần lễ chiếm xong Hà Nội.

Phía ta, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy luôn luôn ở sát mặt trận, truyền đạt
nhận định và ra lệnh kịp thời cho Bộ chỉ huy mặt trận.

Để tăng thêm sức mạnh chiến đấu cho mặt trận Hà Nội và có thêm lực lượng tung vào
hoạt động du kích trong lòng địch, giảm nhẹ sự o ép đối với Liên khu I, cũng sáng sớm ngày 22
tháng 12, Bộ chỉ huy mặt trận nhận được mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu điều thêm lực lượng
mới bổ sung cho Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Anh Đệ - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 56 thuộc trung
đoàn 13 dẫn 2 đại đội và tiểu đoàn bộ cấp tốc tiến về thủ đô. Bộ Tổng chỉ huy còn ra lệnh cho các
mặt trận khác tích cực hoạt động để phối hợp chiến đấu với Hà Nội. Một đơn vị Vệ quốc đoàn và
dân quân khép chặt vòng vây, uy hiếp thị xã Bắc Ninh. Giặc Pháp phải đem quân từ Gia Lâm lên
tiếp viện, tới ga Yên Viên bị quân ta chặn đánh kịch liệt. Bắc Ninh hoàn toàn bị cô lập. Ở Lạng
Sơn, từng tốp du kích liên tiếp đột nhập thành phố, đốt các kho tàng lương thực, phá các nguồn
nước ăn, làm cho địch gặp nhiều khó khăn. Nhân lúc đó một đơn vị Vệ quốc đoàn đã cùng dân
quân tấn công chiếm lại Bản Thi làm cho bộ chỉ huy Pháp ở Bắc Bộ phải tính đến việc tăng
cường lực lượng cho Lạng Sơn. Ở Hải Dương, 8 giờ sáng ngày 22 tháng 12, địch huy động pháo
binh, xe tăng, máy bay, tàu chiến yểm hộ cho trên một ngàn quân đổ bộ lên ga Phú Thái. Nhưng
dân quân du kích vùng này đã chặn địch quyết liệt, bắt sống được nhiều lính Pháp và thổ phỉ,
đánh lui mũi tấn công của địch. Trong khi đó, hàng ngàn Hoa kiều từ các nơi tập trung ở Hà Đông
biểu tình phản đối quân đội thực dân Pháp gây chiến xâm lược nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
và nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Sau cuộc biểu tình, Hoa kiều
tự động đem hàng tấn gạo, hàng trăm thước vải đến ủng hộ quân dân Hà Nội để làm quỹ kháng
chiến. Cũng ngày 22 tháng 12, số đầu tiên của báo "Thủ đô", cơ quan tuyên truyền của ủy ban
kháng chiến Khu XI ra đời, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân thủ đô Hà Nội. Mục kinh
nghiệm chiến đấu đã đăng bài chỉ đạo các đơn vị tiết kiệm đạn dược và kiên quyết chiến đấu.
Nhiều bài khác ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của quân dân thủ đô.

Đêm 22 tháng 12 quân và dân Hà Nội lại tập kích 6 mục tiêu. Từ chập tối tới nửa đêm,
tiếng súng nổ khắp thành phố Hà Nội. Tám giờ tối, một trung đội Vệ quốc đoàn cùng công an và
tự vệ khu phố tập kích vào Trụ sở công an Quận 2 giết chết 7 lính Pháp, số còn lại hoảng sợ chạy
tán loạn. Các chiến sĩ dũng cảm của ta đã đột nhập nhiều vị trí địch, treo cờ đỏ sao vàng, ném lựu
đạn để nâng cao ý chí bất khuất của quân và dân thủ đô Hà Nội. Cùng giờ trên, một lực lượng tự
vệ ở phía đông nam Liên khu I đột nhập đánh địch ở Bộ Giao thông công chính. Chúng bỏ chạy.
Quân ta thiêu hủy toàn bộ vị trí. Khoảng 10 giờ đêm, quân ta tập kích nhà dầu Shell Khâm Thiên
lần thứ 2, nhà Diêm (Nay là Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo) và một số mục tiêu khác.

Cứ thêm một ngày một đêm chiến đấu, giặc Pháp càng thấy rõ tinh thần kháng chiến
chống xâm lăng của quân, dân thủ đô Hà Nội ngày một dâng cao. Chúng bắt đầu ăn không ngon,
ngủ không yên. Khắp Hà Nội, không một chỗ nào chúng được yên ổn. Ngày 23 tháng 12, giặc
Pháp tiến công xuống Chợ Hôm. Chúng tiến rất chậm. Mỗi khi gặp ụ đất, chướng ngại vật của ta,
xe tăng của chúng dừng lại từ xa bắn phá dữ dội, rồi đi vòng đường khác. Nhưng các chiến sĩ
quyết tử đã len lỏi theo đường đục sẵn từ nhà nọ sang nhà kia nhằm khi xe tăng của giặc Pháp
dừng lại, lập tức đồng chí Thành lao ra trước phóng bom ba càng phá hủy một chiếc ở ngã năm
Hàng Kèn, một chiếc ở cửa chợ Hôm. Anh em tự vệ phố Huế và phố Bà Triệu luồn về phía sau
bắn vào bộ binh địch giết chết hơn 30 tên. Lính Pháp bị bắt sống trong trận này nói rằng: "Sĩ quan
Pháp đã phải xích chân lính vào ghế, xe tăng, thiết giáp vì họ quá sợ hãi bom ba càng và chai
cháy của Việt Minh".

Ở phố Hàng Mành, 2 xe thiết giáp của Pháp bị sa hố. Tự vệ xông ra đốt cháy. Sau
chúng phải cho xe tăng đến kéo về. Một toán giặc khác từ phố Phủ Doãn tiến sang phố Hàng
Bông, đến 12 giờ 10 phút lại một xe tăng khác bị sa hố, các đội viên tự vệ xông ra ném lựu đạn,
chai cháy phá đứt xích.
Các cuộc tấn công bắt đầu từ sáng sớm của giặc Pháp đều bị quân ta chặn đánh kịch
liệt. Chúng đổi lối đánh, tấn công vào buổi chiều, với hy vọng ập đến giữa lúc quân ta chủ quan,
phân tán không đề phòng để bất ngờ tiêu diệt chủ lực của ta. Khoảng 5 giờ chiều ngày hôm đó
giặc Pháp cho một toán quân từ Đồn Thủy lặng lẽ tiến về phía Lò Lợn. Một số đồng bào còn ở lại
phố Nguyễn Lai Thạch, Lê Quý Đôn, trèo lên tầng gác tìm cách báo hiệu cho bộ đội biết. Khi
quân địch tới Lò Lợn, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn ở đây bắn lẻ tẻ rồi rút lui. Giặc Pháp sục vào
chiếm Lò Lợn, không gặp một ai. Chúng hùng hục tiến thẳng xuống Thanh Nhàn. Quân ta vẫn
rút. Quân địch vẫn đuổi. Đồng bào thấy bộ đội không bắn lại phát súng nào mà cứ xách súng
chạy, có cụ già phát cáu, văng tục. Có người giằng lấy súng của bộ đội và nói:

- Chúng tôi già rồi, lại không có súng ống gì cả, chúng tôi mới phải tạm lánh đi nơi
khác. Các anh là trai tráng. Các anh có súng. Các anh lại chạy như thế ư? Không đánh được thì
đưa súng đây cho chúng tôi đánh.

Nhiều bà con văng tục nói thậm tệ hơn nữa. Lúc đó, chiến sĩ ta dù có giải thích thế nào
chăng nữa thì đồng bào vẫn giận dữ, bực dọc. Quân địch vẫn tiến ào ạt một mạch đến bờ đê
Thanh Nhàn. Bất ngờ quân ta từ bờ đê xuất kích đánh ập vào cạnh sườn địch. Quân địch rối loạn
hàng ngũ, đứa giơ tay hàng, đứa nhảy xuống hồ, những tên khác xô đẩy nhau rút chạy. Địch phải
bỏ xác tại trận 15 tên. Trời nhập nhoạng tối, quân giặc chạy miết. Súng đạn và xác những tên bị
thương không chạy được rải rác dọc đường. Quân ta tiếp tục đuổi và chiếm lại vị trí Lò Lợn. Bên
ta 2 Vệ quốc đoàn và 1 tự vệ hy sinh. Lúc này nhân dân lại xô cả ra đường cùng bộ đội đuổi giặc.
Tiếng hò la quát tháo ầm ĩ. Đồng bào vui sướng cười nói khen ngợi không hết lời: "Quân ta vũ
khí kém nhưng lại có mưu cao", "Giỏi thật? Bộ đội Cụ Hồ giỏi quá!".

Đêm 23 tháng 12, đêm cuối cùng các đơn vị hoàn thành thu gọn lực lượng và hình
thành thuật "trùng độc chiến". Để đánh lại quân địch, một số đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ tiếp
tục tập kích các vị trí địch . Tại Nhà Tiền, khi đơn vị xung phong, chị L, nữ cứu thương thoăn
thoắt lao lên trước, nhảy qua tường và hô lớn: "Anh em, theo tôi?". Các chiến sĩ vừa lao theo, vừa
hô vang: "Xung phong, giết!". Bọn giặc hoảng hốt chạy tán loạn. Chị cùng anh em xông thẳng
vào trại, vác ra 1 khẩu liên thanh F.M và 2 khẩu súng trường. Một bộ phận tự vệ đột nhập chùa
Quán Sứ, đốt cháy 1 xe tăng địch. Ở nhiều nơi khác trong thành phố, súng nổ suốt đêm. Ở một số
vị trí, lửa cháy bốc lên nghi ngút. Lợi dụng lúc đó các đơn vị thuộc tiểu đoàn 101 từ các hướng
lặng lẽ bí mật rút vào Liên khu 1. Tiểu đoàn 77 về khu vực Ô Cầu Dền. Tiểu đoàn 523 về khu vực
Ô Chợ Dừa. Tiểu đoàn 145 về Kim Mã, Yên Phụ. Tiểu đoàn 212 làm đội dự bị của mặt trận đóng
ở khu vực trại Hàn Lâm, Quỳnh Mai. Tiểu đoàn 56 (thiếu 1 đại đội) theo lệnh mới về bố trí tại
Việt Nam học xá, sau chuyển sang Ô Đống Mác, Thanh Nhàn.
Khi về các làng mạc ngoại thành để bám sát các cửa ô Hà Nội, tới đâu các chiến sĩ ta
cũng thấy không khí kháng chiến bừng bừng sôi sục, tới đâu nhân dân cũng tổ chức đến thăm hỏi
sức khoẻ và chúc mừng quân ta chiến thắng. Các chiến sĩ rất tự hào sung sướng vì họ đã cùng
nhân dân Hà Nội chiến đấu quyết liệt làm cho kẻ địch phải dè chừng, hoảng sợ. Cao ủy Pháp
Đác-giăng-li-ơ (D'Argenlieu) - tên cáo già thực dân - là một trong những tên đầu sỏ chủ mưu gây
ra cuộc chiến tranh xâm lược nước ta đã bị chính phủ Pháp gọi về nước. Trước khi rời Sài Gòn, y
đã phải thốt lên: "Tôi rất buồn vì những sự đã xảy ra ở Hà Nội và rất lấy làm tiếc không có mặt
tại Đông Dương nữa(!). Tình hình tuy nghiêm trọng thật nhưng không đến nỗi tuyệt vọng(!) (Lời
tuyên bố của Đác-giăng-ii-ơ tại Sài Gòn sáng ngày 23 tháng 12 năm 1946)".

Từ ngày 20 đến 23 tháng 12, địch tấn công 12 trận nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng
ta, nhưng chúng ta đã chiến đấu quyết liệt bẻ gãy các mũi tấn công của chúng và còn quật trả lại
chúng là trận tập kích và nhiều trận phục kích, bắn tỉa, quấy rối, làm chết, bị thương và bắt sống
gần 200 tên địch, phá hủy 3 xe tăng, 1 xe gíp, 4 ô tô vận tải của chúng. Suốt mấy ngày giặc Pháp
không những không tiêu diệt được lực lượng của ta mà còn bị tiêu hao sinh lực, loay hoay lúng
túng trong nội thành. Quân ta giành chủ động chuyển sang giai đoạn chiến đấu giam chân địch.

Đó là những thắng lợi bước đầu nhưng rất lớn lao. Nó càng chứng tỏ sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chủ tịch là vô cùng sáng suốt. Các lực lượng vũ trang, Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an
đã đoàn kết nhất trí dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận.
Tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đã khắc phục phần lớn
nhược điểm của ta về trang bị và kỹ thuật. Tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ trai gái đều
lao vào cuộc chiến đấu "sinh tử" quyết bảo vệ thủ đô, bảo vệ Tổ quốc. Ngoài 2.000 Vệ quốc quân,
8.000 dân quân tự vệ đang trực tiếp chiến đấu với giặc Pháp ở Hà Nội còn hàng chục vạn nhân
dân xung quanh thủ đô Hà Nội sẵn sàng tiến ra mặt trận chiến đấu bảo vệ thủ đô. Các đơn vị Vệ
quốc đoàn ngày một đông. Đại đội, trung đội cũng có quyền nhận nam nữ thanh niên, thiếu niên
nhập ngũ. Ngoài lực lượng bảo vệ địa phương, nhân dân huyện Thanh Trì còn tự động tổ chức
được thêm một tiểu đoàn dân quân tự vệ sẵn sàng ra đi bổ sung cho mặt trận. Khu Tả Thanh Oai
trong ba ngày tổ chức được một đại đội tự vệ chiến đấu tự trang bị súng máy, súng bắn chim, dao
găm, mã tấu sẵn sàng tiến về Hà Nội. Riêng ngày 20 và 21 tháng 12, nhân dân vùng này đã tự
động góp được 150 tấn thóc, ủng hộ bộ đội. Nhân dân các vùng xung quanh Hà Nội tự động đào
hàng chục cây số giao thông hào, hàng ngàn hố chiến đấu giúp đỡ bộ đội và dân quân tự vệ. Bà
con Hà Nội tản cư về Cự Đà, Phúc Thuỷ, làng Tó, v.v. . . cũng nô nức cùng bà con nông dân địa
phương giúp đỡ đại đội đồng chí Vũ Công Định đào trận địa phòng ngự. Các vùng xung quanh
Hà Nội nơi nào giặc có thể đến ta đều thực hiện "tiêu thổ kháng chiến". Quân giặc có chân, có
phương tiện cơ giới, nhưng không có đường đi. Tới chiếm đóng, giặc không cướp được lương
thực, không có nhà ở. Nhân dân thực hiện khẩu hiệu: "Vườn không, nhà trống". Xung quanh Hà
Nội, nhiều nhà gạch, nhà ngói kiên cố, đẹp mắt, đã được tự tay chủ nhân và nhân dân đập phá
thiêu hủy thành đống gạch vụn. Hai khu nhà rượu và Trường học Văn Điển thật to lớn, nhưng chỉ
trong hai ngày, nhân dân đã san thành đất bằng. Khi tản cư đi, nhân dân cất giấu hoặc mang theo
thóc lúa, lợn gà và tất cả những thứ gì có thể ăn được. Nếu không đem đi được thì phá huỷ, có nơi
đồng bào đã đổ lòng lợn, ruột bò, phân rác bẩn thỉu cho ngập giếng nước ăn, đã chặt trụi các cây
cỏ hoa quả. Nếu giặc Pháp kẻo tới thì đó chỉ là những khu đất hoang tàn, gạch ngói đổ vỡ. Các
trục đường xung quanh Hà Nội, nhân dân cùng bộ đội ngày đêm nhộn nhịp phá cầu, xẻ đường,
đắp ụ.

Cầu Tó, cầu Đơ (Hà Đông) sau một đêm phá hủy đã hoàn toàn gãy gục. Nhân dân địa
phương còn rải hàng cây số rơm rạ trên mặt đường để ngăn cản bước tiến của cơ giới địch. Mấy
chục cây số, dọc hai bờ đê sông Hồng, cứ trên dưới 20 mét lại có rơm, rạ hoặc cây ngô khô chất
thành đống gần kín mặt đường, cao to, gấp hai, gấp ba chiếc ô tô vận tải. Nhân dân phá hủy hầu
hết đường xe hoả từ Hà Nội đi các nơi, lật những thanh đường ray, thanh "tà-vẹt" cắm chi chít
ngăn kín từng đoạn đường hiểm, kết hợp với ụ đất, hoặc hào sâu đào cắt ngang mặt đường để
ngăn cơ giới của giặc. Trong ba ngày, những đường giao thông lớn đều đào nham nhở, ngổn
ngang, và phần còn lại chỉ là những con đường mòn khúc khuỷu, vòng vèo bề ngang chỉ vừa đủ
cho người đi bộ lách qua những ụ đất và những chướng ngại vật khác.

Các tỉnh xung quanh Hà Nội đều sôi sục căm hờn và tất cả mọi việc chuẩn bị đều
hướng về chi viện cho Hà Nội, phối hợp với quân dân Hà Nội. Có hai em bé quê hương cách xa
Hà Nội gần 30 cây số. Một em tên là Dân 12 tuổi, một em tên là Thanh 13 tuổi. Tiếng súng kháng
chiến vừa bùng nổ, hai em gặp nhau bàn bạc: "Giặc Pháp nó lại cướp nước mình lần nữa. Ở Hà
Nội đánh nhau to lắm. Chúng mình cứ ngồi yên ở đây ư?". Sau đó, hai em viết thư để lại cho cha
mẹ rồi trốn nhà ra đi. Lá thư ấy được anh Tuyên, hồi đó phụ trách tuyên truyền xã, phát thanh
khắp quê hương hai em cho mọi người cùng nghe. Trong thư có đoạn viết: "Thưa cha mẹ? Chúng
con biết rằng chúng con còn bé lắm, chúng con đi ra trận, cha mẹ nhớ thương chúng con lắm.
Nhưng chúng con không thể ở nhà được. Giặc Pháp lại cướp nước ta rồi? Chúng con sẽ ra mặt
trận đánh nhau với bọn pháp. Thà chết còn hơn chịu làm nô lệ!”.

Chập tối, hai em lặng lẽ sang đò sông Hồng băng qua đồng ruộng, tha ma, gò đống tìm
đường tắt về Hà Nội. Trong người hai em không có một tấc sắt làm vũ khí mà chỉ có một chiếc
bánh chưng để ăn bừa tối. Hai em đi suốt đêm, mờ sáng tới Hà Đông, rồi ra Hà Nội. Tới một đơn
vị tự vệ, các em xin nhập ngũ. Một anh tự vệ nói vui:
Em bé thế này thì làm được việc gì?

Một em đỏ mặt trả lời rắn rỏi:

- Các anh lớn, làm việc lớn. Chúng em bé, làm việc bé. Các anh cứ nhận chúng em vào
đơn vị, xem chúng em có làm được việc gì không.

Lúc ấy, các chị cũng nô nức xin vào bộ đội, cũng với “lý lẽ” tương tự như thế. Quân số
các đơn vị mỗi ngày một đông, có tiểu đội tới 16 hoặc 20 người. Nhưng cũng không phải lo lắng
gì đến ăn uống. Hàng ngày các chị ở các đội tiếp tế, đội hoả đầu quân và bà con dân làng phục vụ
các đơn vị cứ áng chừng đầu người mà nấu cơm. Ví dụ khoảng 100 người thì cứ nấu thành một
trăm mốt, trăm hai cho dư dật. Gạo, thịt, rau... đều do đồng bào làng này, xóm khác kĩu kịt gánh
đến. Có gia đình thấy bộ đội về làng lập tức làm thịt ngay một con lợn khênh đến làm “tặng
phẩm". Trên đường làng, người đi lại, vận chuyển rầm rập suốt đêm ngày. Anh em thương binh từ
Hà Nội được chuyển về chữa chạy tại nhà thương Văn Điển, Thanh Liệt... Hàng ngày từng đoàn
phụ lão, phụ nữ đem quà đến tận nơi thăm hỏi. Có nhiều cụ xin được đem thương binh về nhà
nuôi. Tại các nhà thương, trạm xá việc cung cấp lương thực, phục vụ nấu nướng ăn uống đều do
nhân dân địa phương đảm nhiệm.

Trong những ngày đó, tù hàng binh Pháp được đưa về tạm trú ở đình làng Đại Từ,
Thanh Liệt. Nhân dân căm phẫn đổ xô vào, định đánh bọn chúng cho hả giận. Bộ đội phải can
ngăn giải thích mãi đồng bào mới chịu yên. Có cụ nói: "80 năm mất nước, làm thân trâu ngựa nay
được Đảng và Hồ Chủ tịch lãnh đạo nhân dân đứng lên chặt xích, phá xiềng, phá kho chia thóc
chia gạo cho đồng bào, chống bắt phu bắt lính, chống sưu cao thuế nặng, mất bao nhiêu xương
máu, mới giành lại được chính quyền... thế mà giặc Pháp lại định cướp nước ta một lần nữa. Ai
mà chịu được?". Đó cũng là lời nói của hàng triệu quần chúng cần lao thiết tha với Đảng, với
chính quyền cách mạng, kiên quyết đứng lên đánh giặc cứu nước. Nhân dân ta vốn có truyền
thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh bất khuất. Truyền thống đó đã ngày một bền vừng qua mấy
ngàn năm lịch sử. Từ khi được Đảng và Hồ Chủ tịch dẫn đường, truyền thống quý báu ấy đã được
phát huy tới mức độ chưa từng có, đã biến thành sức mạnh vĩ đại để có thể với hai bàn tay trắng
làm nên sự nghiệp phi thường. Với truyền thống đó, với sức mạnh đó, nhân dân ta, triệu người
như một, đã anh dũng đứng lên kháng chiến quyết giành thắng lợi cuối cùng khi kẻ thù quay lại
xâm lược nước ta, định cưỡi đầu cưỡi cổ dân ta lần nữa. Đảng và Hồ Chủ tịch đã đoàn kết được
toàn dân, tranh thủ được sự ủng hộ và dư luận của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, cô lập kẻ
thù cao độ. Mặc dầu về lực lượng quân đội, về trang bị vũ khí và trình độ kỹ thuật chiến thuật của
quân đội ta còn yếu, nhưng bất cứ một ai đã tham gia kháng chiến, từ già đến trẻ đều sẵn sàng hy
sinh tất cả cho thắng lợi của Tổ quốc và đều tin tưởng mãnh liệt rằng: "Kháng chiến nhất định
thắng lợi!".

Và đi đến sa lầy

Từ sáng sớm ngày 24 tháng 12, từng tốp máy bay khu trục của giặc Pháp bay lượn
lồng lộn khắp bầu trời ngoại thành Hà Nội, xả từng tràng liên thanh, trút hàng loạt bom xuống các
làng mạc. Tiếng nổ rung đất. Khói lửa ngút trời. Chúng muốn phá hủy các kho tàng căn cứ hậu
phương của mặt trận và uy hiếp tinh thần nhân dân ta. Pháo binh, súng cối của giặc bắn rải rác về
hướng Bạch Mai, Ngã Tư Sở. Nhưng sớm hôm đó, bầu trời Hà Nội vẫn trong sáng. Nắng vàng
óng ả trên đường nhựa, lấp lánh hai bên đường phố. Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận trực tiếp tới
các đơn vị cơ sở nắm tình hình, động viên bộ đội và nhân dân. Đồng chí Võ Nguyên Giáp tới
thăm một số đơn vị ở phía Ngã Tư Sở và Ô Chợ Dừa. Vừa tới Ngã Tư Sở thì 2 máy bay phóng
pháo của địch bay đến, đồng chí chỉ vào một hố chiến đấu ở gần đó và nói: "Đồng chí Vũ! Ta nấp
vào đây một tí xem chúng nó làm gì nào". Máy bay của địch sà xuống thấp. Tiếng rú, tiếng nổ inh
tai. Tiếp theo là hàng tràng đạn súng máy cày bụi mặt đường. Hai chiếc máy bay bắn thêm vài
loạt nữa rồi tếch đi hướng khác. Trên đường đi Ô Chợ Dừa, thỉnh thoảng có những viên đạn pháo
lạc lõng của giặc Pháp, khi thì nổ trên mặt đường, khi thì nổ dưới ruộng rau muống.

Ngay buổi chiều hôm đó, tại Vạn Phúc, Hà Đông, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội trực tiếp
nhận chỉ thị mới của Bộ Tổng chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp phân tích sâu sắc tình hình địch
và dự kiến những điều có thể sẽ xảy ra. Do đó Bộ Tổng chỉ huy quyết định sáp nhập Khu XI với
Khu II (Khu II gồm 8 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định,
Ninh Bình. Sau khi sáp nhập với Khu XI thì Khu II có thêm thành phố Hà Nội và quy định Sơn
Tây, Hà Đông, Hà Nội là khu vực tiền phương của Khu II mới), lấy tên chung là Khu II. Và quyết
định thành lập Bộ chỉ huy tiền phương, đồng chí Vương Thừa Vũ làm khu phó Khu II, đồng thời
trực tiếp chỉ huy khu vực tiền phương gồm: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây. Trần Độ làm chính trị ủy
viên phó Khu II và tăng cường thêm đồng chí Đỗ Đức Kiên làm chính trị ủy viên tiền phương.

Sau đó đồng chí Hoàng Văn Thái với thái độ niềm nở, nói:

- Tổ chức mới như vậy thì các đồng chí Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội thấy thế nào?

Bộ chỉ huy mặt trận đều nhất trí tán thành. Đồng chí Nguyễn Văn Trân cũng hoàn toàn
đồng ý. Chính trị ủy viên phó Trần Độ nói vui:

- Phấn khởi quá! Tôi xin giơ cả hai tay.


Sở dĩ cả ba người đều nhanh chóng nhất trí, vì tổ chức như vậy thì địa bàn hoạt động
sẽ có nhiều hơn. Và chính vì có những nhận định tình hình chính xác, những quyết định kịp thời
của Bộ Tổng chỉ huy, phù hợp với tình hình phát triển, quân dân thủ đô Hà Nội càng tăng thêm
quyết tâm chiến đấu, càng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.

Từ khi mặt trận Hà Nội đã bố trí hình thành thuật "trùng độc chiến", quân địch càng
lâm vào thế bị động lúng túng. Chúng tập trung lực lượng đánh ra các cửa Ô thì bị quân ta ở Liên
khu I đánh thúc sau lưng. Chúng quay vào đánh Liên khu I thì bị lực lượng của ta ở các cửa Ô
đánh kẹp lại. Nếu địch vữa đánh trở vào, vừa đánh trở ra thì lực lượng phân tán mỏng yếu. Giặc
Pháp hy vọng trong chớp nhoáng tiêu diệt xong lực lượng của ta, nếu không cũng đánh bật được
hết quân ta ra khỏi Hà Nội. Nhưng, mộng ấy đã hoàn toàn bị tan vỡ. Tinh thần chiến đấu dũng
cảm với chiến thuật độc đáo đầy sáng tạo của quân đội cách mạng, của đường lối chiến tranh
nhân dân đã chiến thắng những bộ óc ỷ lại vào sức mạnh vũ khí của bộ tham mưu quân đội xâm
lược Pháp. Ở Hà Nội, quân ta lại được bổ sung thêm lực lượng, như vậy khả năng giam chân địch
có thể dài thêm nữa. Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các đơn vị tăng cường củng cố hầm hố,
chướng ngại vật, tổ chức lực lượng tiếp tục tập kích, phục kích, quấy rối tiêu hao địch, làm cho
chúng đứng ngồi không yên. Bộ chỉ huy còn ra lệnh cho đại đội 134 thuộc tiểu đoàn 56 bí mật lọt
vào hoạt động du kích ở khu vực phố Mai Hắc Đế, Triệu Việt Vương và trên dọc đường phố Huế
tới phía nam hồ Hoàn Kiếm. Tiểu đoàn 145 cho một bộ phận nhỏ phân tán vào hoạt động du kích
ở khu vực phố Chùa Một Cột và phía tây thành Hà Nội.

Đúng như ta dự đoán, 5 giờ sáng ngày 24 tháng 12, bộ binh cơ giới địch từ trong thành
tấn công vào Liên khu I. Quân ta chặn địch từng bước, suốt 5 tiếng đồng hồ địch mới tiến được
vài trăm thước đến phố Hàng Hòm, chiếm được nhà A-di-a (Asia) đầu phố Hàng Trống. Sáu giờ
chiều, địch cho một bộ phận từ nhà Gian-đa (Nay là số 66 phố Nguyễn Thái Học) tấn công thúc
ra ngoài Liên khu III. Tiểu đội tuyên truyền cùng tự vệ phố Hàng Bột đã anh dũng chặn địch. Bốn
chiến sĩ bố trí ở một nhà gác hai tầng chiến đấu cho đến khi cả 4 người cùng bị trọng thương. Có
người bị thương hai ba lần nhưng vẫn không rời trận địa. Họ chiến đấu đến viên đạn và quả lựu
đạn cuối cùng rồi khoác chặt tay nhau hát vang bài "Tiến quân ca" cho đến khi nhắm mắt. Một
tiểu đội khác đã chiến đấu đến khi chỉ còn 2 người, nhưng quân địch vẫn không thể nào tiến được
và phải rút lui về vị trí cũ. Nhằm lúc địch đối phó lúng túng, đại đội 134 bắt đầu làm nhiệm vụ
vào hoạt động sau lưng địch. Từ chiều, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn cùng tự vệ Hà Nội đã chuẩn bị
xong mọi việc. Chú bé liên lạc đeo lủng lẳng bên hông những chiếc pháo hiệu làm bằng thuốc
đen nhồi trong ống nứa tép dài hơn hai gang tay, bên ngoài có quấn giấy bỏ, giấy vàng. Tám giờ
tối, đại đội 134 vượt qua nghĩa địa phía bắc Đông Dương học xá, tiến vào Chùa Liên rồi chia làm
hai toán. Một trung đội đánh vào nhà Diêm. Hai trung đội đánh vào nhà quét vôi đỏ ở ngã tư Ô
Cầu Dền do đại đội trưởng Vũ Công Định trực tiếp chỉ huy. Các đơn vị len lỏi tiến sát vị trí địch,
sẵn sàng chờ lệnh. Nhưng đến giờ phát hoả, đại đội trưởng ra lệnh thì chú liên lạc đã đánh rơi mất
pháo hiệu. Trong đêm tối các chiến sĩ bố trí rải rác khuất ở các góc tường, ngõ hẻm nóng lòng chờ
pháo hiệu. Các chiến sĩ rì rầm, chạy đi chạy lại. Phương tiện chỉ huy khác không có, đại đội
trưởng Vũ Công Định đang lúng túng băn khoăn thì quân địch mở máy cơ giới soi đèn pha sáng
rực chiếu vào phía bộ đội bố trí. Lập tức các chiến sĩ ta nổ súng bắn vào vị trí địch. Một số chiến
sĩ hô xung phong ầm ĩ thay cho pháo hiệu. Thấy vậy, xung kích lao lên phá cửa xung phong vào
vị trí địch, giết được 11 tên. Bên ta bị thương 3, trong đó có 1 chính trị viên trung đội.

Sáng hôm sau, 25 tháng 12, giặc Pháp đem quân xuống đánh trả thù hòng tiêu diệt đại
đội 134. Nhưng chúng đã bị tự vệ đường Ngô Đại Hành và Đại Cồ Việt chặn đánh từng bước, bắn
tỉa tiêu hao, còn đại đội 134 ngay từ ban đêm đã chuyển sang làng Thanh Nhàn, về phía đông,
cách nơi giặc Pháp tấn công gần một cây số. Đại đội tấp nập chuẩn bị đợi lệnh lần thứ hai xuất
phát vào hoạt động sau lưng địch ở các khu vực cũ. Theo hướng dẫn của cấp trên, vào phố, tới
đâu thấy có khẩu hiệu: Hồ Chí Minh muôn thuở (tránh nhầm lẫn với khẩu hiệu của nhân dân
thường viết: Hồ Chí Minh muôn năm) và trên tường vẽ một khoanh tròn nhỏ, giữa có chữ thập, từ
khoanh tròn đó chiếu thẳng xuống đất, lật viên gạch lên sẽ nhận được lá thư mật để bắt liên lạc
với tự vệ bí mật ở lại trong lòng địch. Đại đội 134 có nhiệm vụ cùng tự vệ bí mật hoạt động du
kích quấy rối sau lưng địch, cố gắng bắt liên lạc với Liên khu I.

Để thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các liên
khu tiếp tục tập kích tiêu hao quấy rối địch. Đêm hôm ấy, bầu trời Hà Nội lại rực lên ánh lửa.
Súng nổ giòn giã suốt năm canh. Các toán nhỏ của tiểu đoàn 101 đánh thúc trở ra làm cho quân
địch càng thêm nhức nhối, lo âu. Một tiểu đội Vệ quốc quân cùng anh em tự vệ khu phố chia làm
hai toán biệt kích vào nhà Moóc-li-e. Khoảng 11 giờ 30 đêm, bất ngờ tiếng lựu đạn nổ giòn tan,
tiếng hét xung phong vang dậy phía Bờ hồ Hoàn Kiếm. Quân địch hốt hoảng rút xuống hầm cố
thủ. Quân ta hoàn toàn làm chủ mặt đất nhà Moóc-li-e, treo cờ đỏ sao vàng lên, đốt phá kho tàng
và xe gíp của địch. Tiếng nổ lốp bốp, lửa cháy sáng rực, đến 6 giờ sáng hôm sau mới tắt. Lúc đó
trên đỉnh Tháp Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm cũng có một lá quốc kỳ Việt Nam phấp phới bay. Phía
Cửa Đông, Cửa Bắc, cầu Long Biên, tiếng súng của Liên khu I vẫn giòn giã thúc vào sau lưng
địch, làm chúng phải bận tâm lo lắng, bối rối. Thuật "trùng độc chiến" lúc đó càng tăng thêm
nguy hiểm đối với kẻ địch. Trong khi đó tiểu đoàn 145 phái các tổ nhỏ biệt kích vào các vị trí
phía tây và tây bắc Hà Nội. Một tổ "du kích tự động" (Tên đặt hồi ấy cho các tổ du kích vào hoạt
động sau lưng địch) 12 giờ đêm đột nhập phố Chùa Một Cột phá hủy một xe gíp của dịch, nổ
súng gây rối loạn các đường phố. Một bộ phận đột nhập tiêu hao địch ở nhà Đúc Tiền. Tiểu đoàn
523 cho một trung đội cùng với tự vệ phố Hàng Bột tập kích nhà Gian-đa. Quân ta bí mật lọt vào
giữa vị trí, từ trong đánh ra phá hủy 2 xe tăng, giết chết 8 lính Pháp, làm bị thương hơn 20 tên.
Địch ở nhà dầu Shell Khâm Thiên cũng bị tự vệ tập kích và bị thiệt hại nặng. Các cuộc biệt kích,
tập kích từ bên ngoài ép vào, từ bên trong thúc ra như ngàn vạn con ong vàng nay châm ngòi vào
nơi này, mai đốt chỗ khác vào một xác thịt nặng nề, đã làm cho kẻ địch đau đớn, nhức nhối,
chúng đã hoang mang càng thêm hoang mang. Tướng tá Pháp ở Hà Nội phải vắt óc suy nghĩ:
Đánh trở ra, hay đánh trở vào? Nhưng có lẽ trận tấn công xuống đường Đại Cồ Việt ngày 25
tháng 12 thất bại đã làm cho chúng càng thêm cay cú.

Ngày 26 tháng 12, chúng mở một cuộc tấn công khác xuống Ô Cầu Dền để lấy lại tinh
thần binh lính địch, đồng thời cũng nhằm quét sạch các lực lượng tự vệ bí mật của ta trên đường
phố Huế và khu vực nhà Diêm. Hôm ấy, chính trị ủy viên phó Khu II Trần Độ và đồng chí
Nguyễn Văn Trân tới uý lạo các đơn vị chiến đấu ở đây. Đồng chí Trân thay mặt Đảng ủy mặt
trận tới từng ụ súng, từng chiến hào... thăm hỏi các chiến sĩ. Trần Độ bất ngờ gặp lại Minh, chiến
sĩ phục vụ mình trước kia. Minh reo lên:

- Ô! Cậu ơi! Thế cậu vẫn sống à?

Nghe Trần Độ kể lại, lúc đó tâm trạng vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, chưa kịp trả lời.
Minh đã nói:

- Cậu ạ, bây giờ cậu không phải lo cho cháu nữa, cháu đã đi chiến đấu, đã đích mắt
trông thấy Tây chết và cắm đầu chạy khi bị quân ta đánh lại...

Hai người chưa kịp nói gì thêm thì một đoàn mấy bay địch bay tới trút bom xuống
đường phố. Minh trở về vị trí chiến đấu. Xe tăng, xe bọc sắt của địch vừa tiến vừa bắn phá, phá
hủy ụ đất, bờ tường phía ta bố trí. Tiến gần tới Ô Cầu Dền, trước mặt địch, trên đường bày la liệt
nhưng nồi đất úp, có "trang điểm" thêm những lớp rơm rạ rải mỏng, rồi đến những ụ đất khổng lồ
chắn ngang giữa đường.

- Mìn! Mìn! - Bọn Pháp kêu to rồi dừng lại. Chúng chúc mũi súng bắn bừa bãi vào nồi
đất. Bắn chán không thấy mìn nổ, chúng sai bọn Việt gian, thổ phỉ tiến lên lật nồi đất ra xem, lúc
đó các chiến sĩ tự vệ của ta bố trí ở hai bên đường phố và ở các ụ đất trước mặt mới nổ súng tỉa
từng tên. Mấy tên giặc chết gục đầu ngay xuống nồi đất. Chúng cho xe tăng tiến lên gầm rú ra
oai. Chiến sĩ bắn badôca của ta vẫn yên lặng chờ địch đến gần. Toàn mặt trận chỉ có một khẩu
badôca với 5 viên đạn. Trước lúc bắn vì sợ mất súng, chiến sĩ ta buộc dây vào súng dòng về cho
tới một chiến sĩ khác nằm sau người bắn hơn 100 thước, đề phòng nếu người bắn bị hy sinh thì
người sau kẻo dây thừng lấy súng để giặc khỏi cướp mất.

Xe tăng địch vẫn lùi lũi tiến lên. Lập tức một phát đạn badôca của ta lao tới. Nhưng
viên đạn thứ nhất ấy đã lao vút qua xe tăng địch nổ ở một chỗ khác. Xe tăng địch rú ga định chạy
lùi. Bất ngờ viên đạn badôca thứ hai lao ra nổ xé trời, chuyển đất. Giữa đường toé lên một khối
lửa khổng lồ. Chiếc xe thứ nhất của địch bốc cháy. Quân địch lộn xộn, nhớn nhác. Phát đạn
badôca thứ ba bắn tiếp theo làm đứt xích một xe bọc sắt nữa. Giặc Pháp xô nhau rút chạy về phía
Chùa Vua để lại hơn 10 xác chết. Như vậy, một khẩu badôca với 5 viên đạn đã bắn 3, hạ 1 xe tăng
và 1 xe bọc sắt của địch. Đấy cũng là những phát đạn badôca đầu tiên của mặt trận Hà Nội.

Từ đó, giặc Pháp cứ khiếp sợ mãi những nồi đất, ụ đất, tiếng súng bắn tỉa và tiếng nổ
rầm trời ở Ô Cầu Dền. Hàng tháng sau quân địch vẫn không dám tiến xuống đó nữa. Mãi đến
ngày 15-16 tháng 1 năm 1947, khi địch tấn công xuống Bạch Mai (ngã tư Trung Hiền), chúng
phải tiến vòng đường Vĩnh Tuy và Ngã Tư Vọng đánh quặt vào.

Cũng ngày 26 tháng 12, tại Ngọc Hà, 3 em bé nấp ở hố, không chịu lui. Khi xe thiết
giáp của địch chạy qua, 3 em đã ném từng chùm lựu đạn, chai cháy đánh hỏng 2 xe thiết giáp của
địch. Tại phố Hàng Bột, 2 tên Pháp phóng xe gíp gặp 2 em nhỏ, chúng hãm xe lại, ra hiệu gọi.
Biết chúng tưởng lầm mình là tay sai của chúng, 2 em vẫn thản nhiên như thường và tươi cười
chạy đến. Chúng chưa kịp hỏi han câu nào, một em đã ném ngay quả lựu đạn trúng giữa xe. Hai
tên giặc chết ngay tại chỗ và xe bị hư hỏng. Hai em đoạt súng mang về cho bộ đội Cũng ngày
hôm ấy đã để lại trong lòng mọi người một hình ảnh không bao giờ phai nhạt: "Một em bé bị giặc
bắt đêm trước trong khi em bí mật leo lên cắm lá quốc kỳ Việt Nam trên nóc Bắc Bộ phủ. Em bị
giặc Pháp xẻo thịt tra hỏi. Em nhất định không cung khai. Em chết đi mang 14 tuổi trên đầu.
Những đội viên tuyên truyền xung phong Hà Nội không bao giờ lùi bước. Họ vững lòng tin vào
thắng lợi ngày mai. Họ sẽ mãi mãi là thiếu niên Hà Nội anh hùng...". (Báo Thủ đô, số 11, ngày
14-1-1947)

Đêm hôm ấy, quân ta lại tập kích, biệt kích vào các vị trí địch ở Phà Đen, Bách Thảo
và phố Mai Hắc Đế, v. v…

Ở phía nam Hà Nội, đại đội 134 được lệnh bắt đầu xuất phát vào hoạt động sau lưng
địch. . . Chập tối, các chiến sĩ vượt qua đê Bình Lao, đi thấp thoáng qua bãi tha ma, tiến sang phố
Huế, phố Lê Bình. Do ham tiêu diệt sinh lực địch, đại đội lại phái một trung đội biệt kích vào
Trường học Duy Tân (Khu vực số nhà 364, phố Huế) định cướp súng máy của dịch. Bị lộ, trận
tập kích của ta không kết quả. Súng máy, súng cối và pháo binh của địch bắn từng loạt trên bãi
tha ma, đường phố Huế, phố Lê Bình. Đêm tối nhập nhoạng, các chiến sĩ phải len lỏi qua các ngõ
hẻm đi theo đường đục từ nhà nọ sang nhà kia. Mặc dầu có nhiều chiến sĩ là người Hà Nội nhưng
họ đã bị lạc quanh co ở phố Lê Bình, tìm bắt liên lạc với tự vệ bí mật, đến gần sáng vẫn không
gặp. Đại đội bắt đầu bố trí phân tán thành từng tổ vào các nhà gác, một mặt chuẩn bị đề phòng
địch bao vây tấn công, mặt khác chuẩn bị kế hoạch hoạt động du kích trong mấy ngày tới. Suốt
đêm súng cối của địch vẫn bắn rải rác vào các phố Lê Bình, Minh Khai. "Có lẽ đã bị lộ", mọi
người đều nghĩ vậy và chuẩn bị đánh lại một trận tấn công lớn của địch vào sáng hôm sau.
Nhưng, sự thật thì giặc Pháp vẫn chưa gỡ khỏi nước cờ bí. "Đánh trở vào, hay đánh trở ra?".
Trước mặt, sau lưng đều bị tấn công, quấy rối như kim châm, kiến đốt. Nay có một lực lượng tiếp
tục tiến sâu vào nội thành hoạt động du kích như vậy không khác gì để bàn ong vàng bay đuổi
theo khắp chốn, khắp nơi bất ngờ châm đốt lúc nào không biết, giặc Pháp quyết định tung lực
lượng đánh thúc ra ngoài, hòng tiêu diệt hoặc xua đuổi đại đội 134. Nhưng vẫn chưa yên tâm,
giặc Pháp lại mở một cuộc tấn công vào Liên khu I để sau lưng được an toàn.

Như vậy rõ ràng chúng vẫn bị phân tán lực lượng. Cánh quân của địch tấn công vào
Liên khu I phải dừng lại phía bắc Bờ hồ Hoàn Kiếm, 2 Ô tô vận tải bị phá huỷ, 1 xe tăng bị đánh
hỏng, hơn 50 tên địch bỏ xác tại trận. Cuối cùng chúng phải rút lui, và từ đó giặc Pháp bắt đầu
khiếp sợ chiến luỹ phía nam Liên khu I, không khác gì chúng khiếp sợ nồi đất, ụ đất ở Ô Cầu
Dền. Giặc Pháp còn hy vọng ở cánh quân đánh thúc ra ngoài. Từ 6 giờ sáng, máy bay thám thính
của địch đã bay lượn trên các phố Lê Bình, Minh Khai. Tiếp đó, 2 máy bay khu trục đến bắn phá
từng mục tiêu chúng khả nghi. Khói lửa bốc lên ngùn ngụt tràn ngập phố Lê Bình. Xe tăng, xe
bọc sắt của địch bố trí chẹn các đường phố, đồng thời bắn phá yểm hộ cho bộ binh đi sục sạo
từng căn nhà. Bầy chó "béc-giê" xông xáo đánh hơi mọi ngõ ngách, xó xỉnh. Đợi địch tiến sát
cửa, các chiến sĩ ném ra hàng loạt lựu đạn hất bọn chúng bật lùi trở lại. Hai anh em Nguyễn Đình
Nhôi và Dục đã luồn về sau, xông ra phá hủy 1 xe tăng của chúng. Giặc Pháp tăng thêm quân tấn
công từ nhiều hướng tới khép chặt vòng vây hơn nữa. Đến 12 giờ trưa, địch đánh chiếm được
tầng dưới và một số nhà thấp xung quanh bao vây trung đội do đồng chí Nhâm chỉ huy. Hơn 20
tên lính lê dương xung phong vào sân, bếp, nhà dưới. Một tên lê dương mặt đầy râu, kẹp khẩu
Thôm-sơn, tiến lên cầu thang gác. Đồng chí Nhâm ném xuống một quả lựu đạn, nhưng không nổ.
Tiểu đội trưởng H. đã nhanh tay ném tiếp một quả "bảo toàn" xuống nền nhà dưới (Đầu đạn pháo
57mm, bộ đội ta lấy được của địch đem về làm thêm mỗi quả một cái cán tre dài chừng 2 mét làm
tay cầm để lao, phóng cho dễ) . Một tiếng nổ dậy đất. Quân địch chết ngổn ngang. Ở những ổ đề
kháng bên cạnh, các chiến sĩ cũng dùng quả "bảo toàn" phóng xuống đánh lui các đợt xung phong
của địch. Một toán lính lê dương khác mon men đến gần cửa, định phun ét-xăng đốt nhà, lập tức
một quả "bảo toàn" nữa lại được ném xuống, nổ như sét đánh. Mấy tên giặc tan thây tung toé ở
sân. Chúng dùng xe tăng húc đổ tường nhà nhỏ phía sau, định bất ngờ thúc vào sườn quân ta. Từ
trên tầng gác, từng chùm lựu đạn, chai cháy rơi xuống. Chiếc xe tăng phải lùi ra xa. Giặc Pháp
giở trò dã man quỷ quyệt hơn, chúng chiếm gác hai của một nhà đối diện, phun ét-xăng cờ-rếp
qua cửa sổ vào tầng gác của quân ta bố trí. Lửa cháy lem lém, khói đen đặc nghịt ùn ùn xông vào
nhà sặc sụa. Không chịu nổi, nhưng mặt khác cũng là để bảo toàn lực lượng, các chiến sĩ đã ra
phía sau, lợi dụng khói đen mù mịt nhảy qua cửa sổ từ trên nhà gác hai tầng xuống một giàn nho
của nhà bên cạnh, thoăn thoắt luồn qua phố Bà Triệu. Đến 2 giờ chiều, quân địch xung phong vào
các ổ đề kháng của ta thì ở đó không có một bóng dáng chiến sĩ nào nữa. Quân giặc bực tức, đập
phá lung tung rồi rút lui. Chập tối, đại đội 134 luồn trở lại phố Lê Bình. Ngay trong đêm, đại đội
cử một trung đội tập kích quân địch đóng ở Trường học Duy Tân (phố Huế), đốt cháy 1 xe gíp,
phá hủy kho tàng của địch, gây nhiều tiếng nổ và đám cháy trong thành phố. Quân địch vô cùng
bực tức nhưng đành chịu.

Để hỗ trợ cho toán quân chiến đấu với ta ở phố Lê Bình, giặc Pháp cho hơn trăm bộ
binh, có 3 xe bọc sắt yểm hộ, từ Đồn Thủy theo đường bờ sông tiến đánh xuống Vĩnh Tuy. Cũng
như lần trước, giặc Pháp lại bị quân ta xuất kích đánh ngang sườn xung phong đuổi địch về Đồn
Thủy tiêu diệt một số bộ binh, bắt sang 3 tên thổ phỉ, Việt gian.

Thật là kỳ diệu, quân và dân Hà Nội đã dồn giặc Pháp vào thế lúng túng, sa lầy và
phân tán lực lượng chúng: đánh vào Liên khu I, bị Liên khu I chặn đứng ở phía bắc hồ Hoàn
Kiếm; đánh ra Liên khu II, bị Liên khu II giáng cho những đòn chí tử ở Ô Cầu Dền, phố Lê Bình
và Vĩnh Tuy... Những tấm gương anh hùng của các chiến sĩ Vệ quốc quân, tự vệ và phụ nữ, thiếu
niên... đã làm cho kẻ địch khiếp sợ, chùn bước. Ngày 28 và 29 tháng 12, giặc Pháp hoàn toàn
không có một đợt tấn công nào.

Để tiếp tục giáo dục bộ đội và nhân dân, báo "Tin tức" (Cơ quan tuyên truyền kháng
chiến của ủy ban kháng chiến Liên khu II, Hoàng Diệu) đã đăng bài xã luận: "Phải kháng chiến ở
ngay sau lưng địch. Với chiến thuật du kích, chúng ta thanh đông, kích tây, nhằm đúng chỗ tim óc
quân địch mà bất thình lình đánh những đòn chí tử làm cho quân địch không biết chỗ nào mà
phòng. Chúng ta không cần nhiều người, chỉ cần những tiểu tổ du kích cảm tử. Ban đêm luôn
luôn hoạt động để quấy rối địch, ban ngày có thể lén lút ở những nơi hầm bí mật, ở góc máng,
hay ở trên mái nhà..." (Báo "Tin tức" số 5, ra ngày thứ bảy 28-12-1946).

Báo "Thủ đô", báo "Tin tức”... còn đăng những bài: "Kinh nghiệm tránh đạn, kinh
nghiệm phòng thủ máy bay oanh tạc, kinh nghiệm đánh chiến xa” v.v... Hàng ngày, báo chí được
đưa tới tận tay các chiến sĩ đang bố trí chiến đấu ở các bờ tường, ụ súng, chiến hào. Có chiến sĩ
làm thơ ngay tại trận tuyến gửi lên cho báo “Tin tức” nói lên ý chí sắt đá của mình:
“Ầm súng nổ

Ầm vang nổ! Bốn phương trời máu sắt! Trai thủ đô, vùng dậy tới sa trường.

Ầm súng nổ! Giục hy sinh chiến đấu

Đây hiện thân của trai trẻ thời Trần,

Vung cánh tay "Sát Thái giữ giang sơn,

Thề quét sạch quân thù ra khỏi cõi.

Đây dân tộc Việt Nam bừng quật khởi.

Khiến quân thù đến táng đởm, vong thân,

Ôi chiến sĩ - đây linh hồn đất nước.

Quyết kháng chiến

(Viết trong tiếng súng nổ)"

(Báo "Tin tức" số 5, ra ngày thứ bảy 28-12-1946).

Đêm 28 tháng 12 đồng chí An Giao tiểu đoàn trưởng tiêu đoàn 523 trực tiếp chí huy
một bộ phận Vệ quốc đoàn cùng công nhân xe lửa tập kích nhà dầu Shell Khâm Thiên lần thứ 3.
Quân ta hì hục đẩy một khẩu pháo 75mm vào gần sát vị trí địch, bất ngờ phát hoả. Vọng gác của
địch sụp đổ. Vệ quốc quân và công nhân vun vút lao vào vị trí giặc. Đồng chí Quảng, công nhân
xe lửa chiếm được chiếc ô tô mang đại liên ở sân nhà dầu dùng ngay súng lắp trên xe, bắn yểm hộ
cho quân ta xung phong. Bọn giặc ở đây hoảng hốt, lên xe rút chạy về phía nhà ga. Cùng lúc đó,
các tốp khác của ta cũng xung phong vào nhà Ngựa trắng (Sau là số 213 đến 215 đường Nam Bộ)
và hiệu chè Phú Xuân (Sau là số 205 đường Nam Bộ) đánh giáp lá cà với quân địch. Bọn giặc ở
ga Hàng Cỏ cho bộ binh và cơ giới hối hả xuống tiếp viện. Chúng vừa tiến vừa bắn đạn lửa bay
chằng chịt trên đầu bộ đội ta. Hai công nhân vẫn tìm cách tháo khẩu súng máy trên chiếc xe vừa
chiếm được.

Đồng chí Quảng núp vào xe, khi dùng súng, khi dùng lựu đạn của địch đánh lui quân
địch phản kích. Đồng chí Triệu hì hục tháo khẩu súng máy trên xe bọc sắt. Trên xe còn một hòm
lựu đạn ta chưa chuyển đi kịp bị đạn lửa của địch bắn trúng. Lựu đạn nổ tung. Một công nhân hy
sinh, một bị thương. Trận này, quân địch vừa chết vừa bị thương gần 20 tên. một xe bọc sắt bị
cháy. Ta thu được một súng các-bin, một súng trường, một số đạn và lựu đạn.

Phối hợp với các trận chiến đấu từ bên ngoài đánh vào, trong Liên khu I, tự vệ phố
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật luôn luôn đánh phục kích xe vận tải của địch từ nhà Bác Cổ
(Nay là Viện Bảo tàng Lịch sử) chạy lên cầu Long Biên.

Giữa trưa ngày 29 tháng 12, một xe gíp chở 4 tên Pháp đi qua phố Hàng Da. Đột nhiên
có tiếng súng tù trong Rạp chiếu bóng Ô-lanh-pi-a (Nay là Rạp hát Hồng Hà) bắn ra. Tên cầm lái
bị trúng đạn. Xe đâm nhào vào vỉa hè. Mấy tên giặc còn lại ngã văng xuống đường. Các chiến sĩ
du kích của Liên khu I xuất hiện, nhảy lao ra bắt sống địch. Bọn giặc vùng dậy chui ngay vào
Nhà thờ đạo Tin lành ở cạnh đấy, trốn thoát. Các chiến sĩ du kích ném lưu đạn phá hủy xe gíp rồi
rút lui.

Cũng trong thời gian này, các chiến sĩ ở Liên khu I đã cùng đội du kích Hồng Hà (Du
kích Hồng Hà gồm tự vệ các làng Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng và Phúc Xá) tìm đường bị mật
qua cầu Long Biên hướng dẫn số nhân dân còn lại ở trong thành phố tiếp tục tản cư. Để đảm bảo
an toàn cho nhân dân, ngay từ khi giặc Pháp bộc lộ rõ rệt triệu chứng xâm lược thủ đô, cho đến
suốt quá trình chiến đấu, Đảng ủy mặt trận đã luôn luôn lo lắng chuẩn bị kế hoạch, bố trí, tổ chức
tìm mọi biện pháp đưa đồng bào ra khỏi trung tâm Hà Nội. Đêm đầu tiên, khi tiếng súng xâm
lược của giặc Pháp vừa nổ thì các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ cùng cơ quan chính quyền các khu
phố đã tổ chức hướng dẫn hàng nghìn đồng bào vượt qua lửa đạn để tản cư. Sau vì địch kiểm soát
chặt chẽ đường Yên Phụ và gầm cầu Long Biên, một đơn vị Vệ quốc đoàn phải quấy rối để cho
địch bắn về hướng mình bố trí. Lợi dụng lúc đó, du kích dẫn đồng bào đi luồn dưới gầm cầu, men
theo bờ sông đi ra ngoài thành phố. Sau này thường thường mỗi đêm chỉ đưa ra được một, hai
trăm người. Đêm nào cũng có người chết hoặc bị thương. Nhiều lần địch chiếu đèn pha, bắn rải
rác suốt đêm, đồng bào phải quay lại, nhưng dần dần, hàng vạn đồng bào đã vượt qua được vòng
vây của giặc.

Một thành phố trên 3 triệu dân, trong hoàn cảnh chiến sự nổ ra bất ngờ - giặc Pháp
đánh úp thủ đô của chúng ta - hàng chục vạn đồng bào đã được đưa ra khỏi thảm họa bị quân
cướp nước tàn sát đã man. Trong lòng Hà Nội chỉ còn chưa đầy 4 vạn người, mà hầu hết là những
người đã tìm mọi cách trốn ở lại để được trực tiếp đánh giặc cứu nước, bảo vệ thủ đô. Ngoài ra đa
số Hoa kiều và các ngoại kiều khác chuyên nghề buôn bán không thể dễ dàng tản cư về nông
thôn, lên rừng núi như nhân dân ta được, như vậy công tác lãnh đạo nhân dân tản cư, sơ tán của
Đảng ủy Hà Nội được sự giúp đỡ, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương là một thắng lợi lớn trong
thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của chúng ta. Đó cũng là để bảo vệ nguồn sinh
lực to lớn của cuộc kháng chiến lâu dài. Đảng ủy mặt trận lãnh đạo các liên khu II, III và các xã
ngoại thành Hà Nội huy động nhân lực, vật lực tiếp tế cho tiền tuyến. Hàng ngày từng đoàn xe bò,
xe đạp gồng gánh vận chuyển lương thực, thực phẩm vào các kho, các trạm ở xung quanh Hà
Nội, chủ yếu là hướng Hà Đông. Từ việc lớn đến việc nhỏ Đảng ủy đều trực tiếp lo lắng, mỗi
người một việc, lăn lộn ngày đêm: Một hôm, đồng chí Nguyễn Văn Trân tới động viên và tổ chức
quần chúng ở vùng Thanh Nhàn, Lương Yên, sau đó lên tiền tuyến thăm bộ đội, tới đê Bình Lao,
giặc Pháp bố trí ở nhà gác hai tầng gần đó trông thấy. Chúng bắn súng máy bụi mù mặt đê. Lúc
ấy một tốp các cô thiếu nữ đem cơm, nước, quà bánh tiếp tế lên tiền tuyến cũng vừa tới. Các cô
đầu búi tó, nai nịt gọn gàng, lăn bò qua mặt đê thoăn thoắt. Hình ảnh đó đã làm cho đồng chí vô
cùng xúc động và càng tăng thêm tin tưởng vào cuộc chiến đấu tự vệ của quân dân Hà Nội. Niềm
tin tưởng ấy ngày càng sâu sắc, càng có nhiều thực tế chứng minh: mọi chỉ thị, nghị quyết của
Đảng ủy đưa tới cơ sở đều được quần chúng khắp nơi tích cực thực hiện triệt để và sáng tạo.
Chính vì uy tín của Đảng rất sâu sắc trong quần chúng, nên khi có một chỉ thị, mệnh lệnh của trên
đưa xuống thì từ tiền tuyến đến hậu phương, từ các tầng lớp nhân dân đến các lực lượng vũ trang
Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an, dân quân du kích, đều nhất nhất chấp hành. Riêng lực lượng vũ
trang thì:

"- Bộ đội có kỷ luật, tinh thần chiến đấu rất cao.

- Các cấp dưới có tinh thần phục tùng cấp trên.

- Toàn thể đều cố gắng nhẫn nại (Trích trang 89, bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng
lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng).

Ưu điểm trên phản ánh bản chất của những lực lượng vũ trang cách mạng, có chính
Đảng vô sản lãnh đạo đồng thời cũng nói lên uy tín sâu sắc của Đảng trong lực lượng vũ trang.

Với tinh thần tự giác chấp hành mệnh lệnh, sĩ khí chiến đấu của nhân dân và bộ đội rất
cao như thế, nếu chúng ta có vũ khí đầy đủ, hoặc cũng những thứ đó, nhưng bảo đảm chất lượng
tốt thì giặc Pháp còn phải chôn xác ở Hà Nội nhiều hơn. Nhưng hồi đó, trong nhiều trận chiến
đấu, bom, mìn, lựu đạn không nổ, súng máy tắc hoặc bắn được vài phát đã hết đạn. Có khi quân
giặc xung phong tới, chiến sĩ ta vừa đập kíp lựu đạn, lựu đạn nổ trên tay, giặc không chết mà
mình hy sinh. Đánh vào vì trí giặc, giặc rút lên gác như ở Trường Bưởi và một số nơi khác, ta
không có bom mìn để phá đổ nhà, phải tạm rút lui. Xe tăng địch tới, ta lao bom, bom không nổ.
Có chiến sĩ xách súng trường đuổi theo xe tăng giặc, loay hoay không có phương tiện gì khác để
phá huỷ, chiến sĩ ức phát khóc quay trở về vắt óc suy nghĩ tìm cách diệt xe tăng địch. Họ thề với
nhau quyết không để cho những con "hổ đói" ấy thoát chết. Do thiếu thốn vũ khí đạn dược, nên
cứ mỗi lần đi tập kích hoặc quấy rối, các đại đội lại phân phát cho các tiểu đội nào pháo ném,
pháo bánh và pháo quả để làm tăng thêm tiếng nổ, làm giả ta có nhiều vũ khí. Trước giờ xuất
kích, một em liên lạc đến đại đội nhận pháo. Người phát chỉ đưa cho em mấy quả pháo ném. Em
phụng phịu hờn dỗi, rồi khóc.

Đồng chí phát pháo nói:

- Em giữ pháo bánh, lỡ trời mưa thì ướt hết cả pháo lẫn diêm, hỏng kế hoạch chiến đấu
của đại đội.

Em vừa khóc vừa trả lời:

- Em đã chuẩn bị đem theo một cái thùng sắt tây rồi cơ mà. Bỏ pháo vào đấy không sợ
ướt, lúc đốt lại kêu to.

Để tiêu hao đạn dược của giặc, chiến sĩ lấy pháo buộc ngòi của từng chiếc vào từ đầu
đến chân nén hương đem cắm ở một vài nơi xung quanh vị trí giặc. Đốt hương, hương cháy đến
đâu, pháo nổ đến đấy. Suốt đêm, giặc bắn ra không biết bao nhiêu là đạn. Suốt 10 ngày chiến đấu
các chiến sĩ vẫn ở liên miên ngoài mặt trận, lúc ngừng nổ súng thì nghỉ ngay tại chiến hào, ụ
súng, góc tường, cửa sổ, thế nhưng mọi người vẫn lạc quan yêu đời. Cách một con đường, bên kia
là giặc, bên này là ta, các chiến sĩ vẫn đánh đàn, ca hát. Những bài "Diệt phát xít”, "Quốc ca",
"Chiến sĩ ca", v.v... được chiến sĩ ưa thích nhất. Lời ca hùng tráng như thúc giục lòng người đ i
chiến đấu se sẽ ngân trong chiến hào và trên các vị trí tạm ngừng tiếng súng. Các chị cứu thương,
tiếp tế cũng ra tận ụ súng, bờ tường hát động viên chiến sĩ. Nhân dân và bộ đội còn viết rất nhiều
khẩu hiệu lên tường nhà, ngay tại chiến luỹ: "Hà Nội - Thăng Long xưa bất diệt!", "Hà Nội- mồ
chôn giặc Pháp", "Hà Nội-Xta-lin-grát". Các chiến sĩ dạy nhau học mấy câu dịch vận bằng tiếng
Pháp: "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc?", "Chiến đấu cho ai?", "Các bạn hãy bồi hồi hương!"...

Khói lửa kháng chiến đã rèn luyện quân và dân ta ngày một lớn mạnh. Các tiểu đoàn
thu gọn lực lượng hình thành thuật "trùng độc chiến", trong đánh ra, ngoài đánh vào, ban ngày
quân ta phục kích, đánh tỉa, ngăn chặn địch tấn công, ban đêm biệt kích, tập kích, tấn công, quấy
rối tiêu hao tiêu diệt địch, khiến chúng ăn không ngon, ngủ không yên, đi lại thì lo sợ, chiếm
đóng cũng không an toàn, tiến tới đâu, ở đó chỉ còn "vườn không nhà trống". Quân số vũ khí
ngày càng hao hụt. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Hà Nội lúng túng sa lầy Binh lính Pháp tinh thần
dần dần sa sút. Trong khi đó, các mặt trận khác, được Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo, tích cực hoạt
động để trợ lực cho mặt trận Hà Nội. Tại thị xã Bắc Giang, phía đông bắc Hà Nội 50 cây số, sau
nhiều ngày đêm bị bao vây, lại bị quân dân ta luôn luôn đột phá tập kích, quân Pháp bị thiệt hại
nặng, tan rã, nhất là từ khi viên quan ba chỉ huy tử trận ngày 19 tháng 12. Ngày 29 tháng 12,
chúng cố mở một đường rút. Ngày 30 tháng 12, tàn quân Pháp đã rút khỏi Bắc Giang 7 cây số, lại
bị quân ta chặn đánh làm chúng thiệt hại nặng. Tại Bắc Ninh cách Hà Nội hơn 30 cây số về phía
đông bắc, quân Pháp định tiếp viện tới Bắc Giang bị ta chặn đứng lại ở Đáp Cầu. Quân ta bao vây
và đã làm chúng bị thiệt hại nặng. Ngày 30 tháng 12, tàn quân Pháp đã thế cô. Chúng phải mở
đường máu rút chạy khỏi Đáp Cầu. Phía Gia Lâm, quân du kích của ta luôn luôn quấy rối chặn
đánh, giữ chân địch, cản trở không cho chúng lan rộng ra các nơi hoặc đưa quân sang Hà Nội.
Báo “Nước Pháp buổi chiều” đưa tin: Ở Nam Bộ, chiến tranh du kích lại bắt đầu tái diễn và nhiều
đồn canh của Pháp bị đột kích. Các cuộc phá hoại lại dữ dội hơn trước.

Sự phối hợp chặt chẽ của các chiến trường đã giúp cho mặt trận Hà Nội giành nhiều
thắng lợi bước đầu, làm cho bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Đông Dương ngày càng lúng
túng. Kế hoạch 24 tiếng đồng hồ, rồi kế hoạch một tuần lễ nuốt chửng Thủ đô Hà Nội của giặc
Pháp đều hoàn toàn tan vỡ. Quân và dân Hà Nội đã kháng chiến được 10 ngày. Từ 19 đến 29
tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đã bị tiêu diệt trên 500 tên, 7 xe tăng bị phá hủy, 9 xe tăng khác và
6 xe thiết giáp bị hư hỏng trong đó có 3 xe bị hỏng nặng, 14 xe vận tải và 6 xe gíp bị đốt cháy
hoặc bị phá hoại không thể dùng được. Ta thu được rất nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân
dụng. Hồi đó, nếu quân ta biết tập trung lực lượng đánh địch có trọng điểm hoặc khi tấn công biết
tập trung ưu thế hơn địch để tiêu diệt sinh lực chúng ở những nơi có thể hoặc ở những vị trí mấu
chốt thì quân địch ở Hà Nội còn phải thiệt hại nhiều hơn nữa và các tướng tá cầm đầu quân xâm
lược Pháp còn phải đau đầu nhức óc hơn nữa. Suốt 10 ngày, giặc Pháp vẫn loanh quanh trong
thành phố Hà Nội, chưa một tên giặc nào đặt chân ra được đến cửa ô. Quân và dân Thủ đô Hà
Nội không những không bị tiêu diệt mà nhân dân từ khắp bốn phương đã đổ về chi viện cho Hà
Nội, nên lực lượng ở Hà Nội mỗi ngày một đông, kinh nghiệm kháng chiến ngày một nhiều, tinh
thần chiến đấu ngày càng dày dạn. Cơ quan lãnh đạo và Chính phủ ta không những không bị “cất
vó” như chúng tưởng, mà Trung ương Đảng và Chính phủ đã trở về căn cứ chỉ đạo kháng chiến
một cách an toàn, đã lãnh đạo và huy động toàn dân đứng lên kháng chiến, với khẩu hiệu “Toàn
dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”, “Quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng!”. Bọn
thực dân xâm lược Pháp ở Hà Nội cũng như trên toàn quốc không những không thực hiện được
mưu đồ đánh nhanh giải quyết nhanh, mà ngay từ đầu chúng đã vấp phải sức đề kháng hết sức
mãnh liệt, lòng tự cường dân tộc, ý chí sắt đá, tinh thần quật khởi của nhân dân Thủ đô Hà Nội,
của dân tộc Việt Nam anh hùng đã làm chúng phải đứng ngồi không yên, ngày càng sa lầy lúng
túng.

Mười ngày đầu kháng chiến ở Thủ đô Hà Nội và trên toàn quốc, không những ở Việt
Nam giặc Pháp bị thua đau, mà ngay ở nước Pháp, Đảng Cộng sản Pháp đã lãnh đạo nhân dân
Pháp, lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu ở Việt Nam, đòi chính phủ Pháp phải
chấm dứt cuộc xâm lược tàn bạo ở Việt Nam. Trên thế giới, đế quốc Pháp ngày càng bị cô lập,
nhân dân tiến bộ trên thế giới đã lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt
Nam.

Sau 10 ngày chiến đấu thắng lợi, Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội được lệnh về Bộ Tổng
chỉ huy dự hội nghị sơ kết tình hình và nhận chỉ thị mới. Sau cuộc họp, đồng chí Võ Nguyên Giáp
siết chặt tay từng người, căn dặn thêm những điều cần thiết, đồng chí nói:

- Trong khi chờ quân tăng viện, để bao vây khống chế Liên khu I có hiệu quả hơn, có
nhiều khả năng địch sẽ mở những đợt tấn công lớn ra ngoại ô Hà Nội.

Với thái độ bình tĩnh, khoan thai nhưng rất kiên quyết đồng chí nhấn mạnh:

- Phải tiêu hao địch, nhưng phải luôn luôn chú ý bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu
dài, phải chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để mở rộng mặt trận.

Ngày 29 tháng 12, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận cũng tiến hành hội nghị kiểm điểm
tình hình và truyền đạt nhiệm vụ mới, sau đó chuẩn bị kế hoạch chấn chỉnh tổ chức chỉ huy, điều
động lực lượng và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu. Tờ báo Thủ đô vẫn tiếp tục đăng mục “Rút
kinh nghiệm kháng chiến”, với những nội dung: “Đánh du kích trong lòng địch, cách giải quyết
vấn đề nước, vấn đề ăn,v.v...”. Chỉ huy sở cơ bản (bộ phận nặng) của mặt trận di chuyển về Mễ
Trì. Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận phân công nhau mỗi người đi một hướng để quán triệt nghị
quyết của Đảng ủy xuống dưới, đồng thời trực tiếp động viên kiểm tra đôn đốc các đơn vị. Chính
trị ủy viên Trần Độ đi phía Thuỵ Khuê, Quần Ngựa. Chỉ huy trưởng cùng các đồng chí ở trên Bộ
Tổng chỉ huy đi Bạch Mai, Ngã Tư Sở, Hàng Bột. Đồng chí Nguyễn Văn Trân và một số đồng chí
khác đi Yên Duyên, Ô Cầu Dền, v.v...

Mọi người đều chuẩn bị bước vào một giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt hơn nhiều.

Giữ từng tấc đất cửa ô

Vào một ngày cuối năm, 30 tháng 12 năm 1946, mặt trời lên muộn. Gió nhẹ đưa hơi
sương lành lạnh lan tràn khắp đường phố. Chỉ huy sở tiền phương nhận được tin tiểu đoàn 523
báo về: “Địch tấn công trên hai hướng: Hàng Bột và Khâm Thiên”. Máy bay trinh sát của địch
bay lượn làm vẩn đục thêm bầu trời Hà Nội. Máy bay khu trục vút lên, sà xuống trút bom, đổ đạn
xuống đường phố. Một màn khói đen dày đặc trùm lên xóm làng, phố xá phía tây nam Hà Nội.
Từng loạt đạn pháo, súng cối của địch nổ tung toé trên ụ đất, bờ tường, chiến hào nơi quân ta bố
trí. Khoảng 600 bộ binh, 50 xe cơ giới các loại của địch chia làm hai mũi tấn công quân ta. Đây là
một trận chiến đấu vô cùng ác liệt. Mấy con quạ sắt hung ác, man rợ xả từng tràng liên thanh
xuống, trúng vào cả quân của chúng lẫn quân ta. Nhà cửa đổ ầm ầm, gạch ngói rơi lả tả xuống
hầm hố. Trong những hầm không nắp, có một số chiến sĩ bị thương. Ở Khâm Thiên, tiểu đội Vệ
quốc đoàn phòng ngự ở đầu phố, 5 giờ 15 phút sáng đã chạm trán với địch. Ngay lúc đó, toán
địch từ nhà dầu Shell tiến đánh xóm Mỹ Đức phía nam phố Khâm Thiên, phối hợp với cánh quân
ở Sinh Từ, Văn Chương từ phía bắc đánh xuống. Từ ba mặt, quân địch tiến đánh phố Khâm
Thiên. Hai trung đội Vệ quốc đoàn và một số công nhân xe lửa nằm trong vòng vây của giặc.
Khâm Thiên bị bao vây. Hàng Bột bị cô lập. Nhưng quân và dân Hàng Bột đã ngoan cường giữ
từng tấc đất. Suốt 5 tiếng đồng hồ, giặc Pháp chưa tới được ụ đất thứ hai. Chúng bèn tung thêm
hai cánh quân hình thành thế bao vây Hàng Bột. Một cánh từ nhà Đúc Tiền đánh xuống Thịnh
Hào, phía tây phố Hàng Bột chừng nửa cây số. Trung đội Vệ quốc đoàn ở Thịnh Hào, bất ngờ bị
địch đánh úp sau lưng. Sau 20 phút cầm cự, trung đoàn này rút về bố trí ở ngã ba đường Giảng
Võ, quân địch đánh thẳng xuống Ô Chợ Dừa, rồi từ cuối phố Hàng Bột đánh ngược lên. Toán
quân từ Sinh Từ xuống Văn Chương cắt ngang phố Khâm Thiên cũng đánh về Ô Chợ Dừa. Hàng
Bột bắt đầu nằm trong vòng vây của giặc. Đường phố vẫn chìm trong khói lửa. Hai chiếc máy
bay khu trục của địch vẫn lồng lộn ngược xuôi, trút bom xuống làm từng dãy nhà sụp đổ; ụ đất,
chiến hào, tường gạch vỡ lở tung toé, ngổn ngang. Xe tăng địch vừa tiến vừa bắn, dẫn bộ binh
theo sau. Từ hai đầu phố, quân địch khép dần vòng vây. Nhưng quân ta quyết không ngồi yên, đã
nhảy lên miệng hố, vật lộn với giặc, phá vòng vây vượt qua Thổ Quan rút về Nam Đồng. Trong
phố Khâm Thiên, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn cùng anh em công nhân xe lửa chia nhau giữ từng
căn nhà, từng ụ đất. Họ luôn nhắc nhở nhau: “Mỗi viên đạn là một quân thù”, “Ngắm trúng mới
bắn”. Có nhiều chiến sĩ thấy địch tới nhưng nhất định không bắn, mà bí mật đợi chúng đến gần
mới nhảy xổ ra cho chúng “xơi” mấy nhát lê, hoặc ăn vài lưỡi kiếm. Địch lùi ra cho pháo binh,
súng cối, máy bay bắn phá, ném bom uy hiếp ta rồi lại tiếp tục xung phong. Nhưng vẫn không
hiệu quả. Đến 2 giờ chiều, chúng lại giội bom, đốt phá gần hết hai dãy phố, rồi cùng với toán
quân phía Hàng Bột lục tục rút lui.

Trong cuộc chiến đấu giam chân địch ở Hà Nội, lần đầu tiên quân ta chống cự với một
cuộc tấn công mạnh mẽ của địch và đông quân hơn hàng chục lần ở đường phố độc đạo, xung
quanh trống trải. Lúc đó cán bộ và chiến sĩ của ta cho rằng: xe tăng và bộ binh địch không dám
tiến vào làng, vì có thể bị rơm rạ, ao chuôm, ruộng nước cản trở. Mặt khác tính chất vững chắc,
thế ỷ tựa, đứng chân của địa hình làng mạc, có phần nào không bằng trong thành phố, và cũng lần
đầu tiên quân ta bố trí chiến đấu ở làng mạc, nên đều dàn mành mành và chỉ hướng về một phía.
Lợi dụng sơ hở đó, quân địch đánh vòng bên sườn và sau lưng phá vỡ trận địa của ta, bao vây
đường phố. Hồi đó, cán bộ ta chưa biết bố trí tác chiến liên hoàn, nên nơi nào bị tấn công, nơi ấy
đơn độc chống cự. Phương tiện thông tin không có, chưa có kinh nghiệm đặt ra những ám, tín
hiệu đơn giản, nên khi bị vây hoặc rút lui, ít báo được cho nhau biết. Tuy vậy, các chiến sĩ Vệ
quốc đoàn, dân quân tự vệ và anh em công nhân đã chiến đấu vô cùng anh dũng, tiêu diệt gần 50
tên địch.

Ngay buổi chiều hôm đó, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp cùng Bộ chỉ huy
mặt trận trực tiếp tới tiểu đoàn 523, khu vực Khâm Thiên, Hàng Bột, nghiên cứu tình hình để phổ
biến ngay những kinh nghiệm nóng hổi cho các đơn vị. Khi trở về phía Kim Liên, bọn địch ở phía
bắc hồ Bảy Mẫu trông thấy. Chúng bắn trọng liên nổ đôm đốp trên đỉnh đầu đoàn cán bộ ta. Đồng
chí Tổng chỉ huy tránh sát vào chân tường gạch, vôi trên tường rơi lả tả xuống lưng. Giữa lúc tình
hình căng thẳng như thế, sự có mặt của đồng chí Tổng chỉ huy đã làm tăng thêm quyết tâm và
niềm tin sắt đá của cán bộ cấp dưới. Mọi người tự nhủ:

- Cấp trên sâu sát, tỉ mỉ như thế thì bản thân mình phải sâu sát tỉ mỉ hơn nữa.

Bài học ngày 30 tháng 12 được phổ biến kịp thời. Hôm sau địch tấn công Kim Liên.
Trung đội Vệ quốc đoàn ở đây đã dựa vào giao thông hào, hầm hố và nhà cửa, ven đường, khéo
léo cơ động ngăn chặn địch suốt 11 tiếng đồng hồ, giết chết hơn 20 tên, phía ta có 4 chiến sĩ Vệ
quốc đoàn, 2 tự vệ bị hy sinh. Các chiến sĩ lại có thêm kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự ở địa
hình đường phố độc đạo, xung quanh trống trải dễ cho địch bao vây, vu hồi. Bộ đội đã biết dựa
vào chiến hào, giao thông hào để cơ động đánh địch từ nhiều hướng tới, tập trung hướng chính và
có lực lượng dự bị.

Hai hôm sau, quân địch không mở cuộc tấn công nào nữa. Trong khi địch dừng lại, Bộ
chỉ huy mặt trận ra lệnh cho Liên khu I tăng cường tấn công vào sau lưng địch ở các cửa ô, các tổ
du kích luồn sâu vào nội thành, hoạt động quấy rối không cho địch nghỉ ngơi. Mặt khác, các đơn
vị bên ngoài nghiên cứu rút kinh nghiệm hai trận đánh vừa qua, học tập chiến đấu phòng ngự cơ
động ở địa hình làng mạc, trên cánh đồng ngoại thành. Trong khi học tập và chiến đấu sôi nổi, các
chiến sĩ hân hoan truyền tay nhau đọc thư của Bộ chỉ huy mặt trận chúc mừng năm mới:

“- Giết được nhiều giặc.

- Cướp được nhiều vũ khí.

- Phá được nhiều chiến xa.

- Luôn luôn khoẻ mạnh, hăng hái không lùi nửa bước để đoạt được thắng lợi cuối
cùng trong cuộc trường kỳ kháng chiến”.
Chiến sự phát triển, quân và dân Thủ đô tiếp tục nhiệm vụ ngăn chặn địch đánh ra
vùng ngoại thành trên một phạm vi rộng từ Vĩnh Tuy đến Ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa,
Kim Mã, Ngọc Hà, Thuỵ Khuê và Yên Phụ hình thành đường vòng cung dài hơn 10 cây số. Đó là
một khó khăn, quân và dân Hà Nội làm thế nào để tiếp tục giam chân địch một thời gian nữa mà
vẫn bảo toàn được lực lượng để chiến đấu lâu dài. Nhưng địch cũng có khó khăn. Nếu chúng tập
trung quân để đánh ra một hướng thì không có quân giữ các cửa ô. Quân ta ở ngoài sẽ đánh ép
vào, ở Liên khu I đánh thúc ra. Địch bắt đầu gặp mâu thuẫn giữa chiếm đóng và tấn công. Cùng
một thời gian trong một ngày, địch không thể mở nhiều mũi, nhiều đợt tấn công về nhiều hướng
được. Do đó, có thể hôm nay địch tập trung quân tấn công hướng này, ngày mai tập trung quân
tấn công hướng khác hoặc nếu một ngày tấn công hai hướng thì lực lượng bị phân tán. Nhưng dù
sao, hình thái bố trí phòng ngự bên ngoài của quân ta cũng không thể rải mành mành, mà phải tập
trung giữ các trục đường giao thông. Từng tiểu đoàn phải có lực lượng cơ động để bảo đảm kịp
thời tung ra khi cần thiết, tránh tư tưởng “dốc túi đánh một canh” phô trương lực lượng. Vì vậy
ngày 2 tháng 1 năm 1947, Bộ chỉ huy ra thông tri: “Vì cần phải trường kỳ kháng chiến, nên ta
phải bảo tồn lực lượng không nên tung ra quá nhiều mà hao tổn binh lực.

Vậy binh lực mỗi tiểu đoàn phải chia làm 3 phần:

1. Một phần làm bộ đội phòng ngự.

2. Một phần làm bộ đội tấn công.

3. Một phần làm bộ đội dự bị” (1). Các đơn vị đã chuẩn bị sẵn sàng đánh lại các cuộc tấn
công quy mô lớn của địch.

Ngày 2 tháng 1 năm 1947, sau khi phát hiện xe cộ, pháo binh của địch lục tục chuyển
về phía tây bắc Hà Nội, máy bay thám thính bay lượn suốt ngày quan sát trên trục đường Hà Nội
- Cầu Giấy, Hà Nội - Bưởi, từng tốp bộ binh địch thậm thà, thậm thụt có tính chất thăm dò lực
lượng ta, Bộ chỉ huy mặt trận đã chỉ thị cho tiểu đoàn 145 sẵn sàng chiến đấu và cử cán bộ trực
tiếp xuống cùng cán bộ tiểu đoàn bố trí kế hoạch tác chiến, động viên bộ đội. Nhân lúc địch tấn
công, ta còn lợi dụng sự oanh tạc của máy bay, pháo binh chúng để phá hoại một số nơi mà ta
chưa có điều kiện phá hoại. Bộ chỉ huy chỉ thị thêm cho tiểu đoàn 145:

“1. Cho một tổ du kích ba người chiến đấu nghi binh ở Nhà bia Ô-men để địch bắn
pháo, ném bom vào phá hủy nhà máy.

2. Mỗi người mang theo hai quả lựu đạn và 15 ngày lương thực, nước uống, và có
thêm cả bom 25 cân”(2).
Tiểu đoàn 145, ở hướng tây bắc Hà Nội, có 8 trung đội bố trí ở đường Thuỵ Khuê,
Hoàng Hoa Thám, Đội Cấn còn 2 trung đội làm dự bị bố trí ở Đại Yên và Quần Ngựa. Trong đêm
mồng 2 tháng 1 năm 1947, các chiến sĩ ra sức đào công sự ẩn nấp có nắp, đào từng đoạn chiến
hào, giao thông hào để cơ động với khẩu hiệu: “Bám sát từng căn nhà, ngăn chặn địch từng bước.
Tiêu hao địch, bảo toàn mình”. Rút kinh nghiệm trận đánh chặn đường ở phố Hàng Bột, Bộ chỉ
huy mặt trận còn căn dặn tỉ mỉ: “Nếu bộ binh địch tiến trước thì ta bố trí từng tổ súng trường để
tiêu diệt. Nếu xe tăng địch tiến trước, ta bố trí từng tổ dùng lựu đạn chùm, chai cháy, bom từ gác
hai ném xuống. Quyết tử quân mang bom ba càng mai phục phá xe tăng. Bộ binh ta đánh quặt
phía sau tiêu diệt bộ binh địch”.

Ngày 3 tháng 1 năm 1947, địch huy động trên 700 quân, 7 xe tăng, 10 xe bọc sắt, 70 ô
tô vận tải và xe gíp, 2 máy bay khu trục, 1 máy bay thám thính, chia làm nhiều mũi tấn công ta ở
hướng tây bắc Hà Nội như ta đã phán đoán.

Cánh quân thứ nhất có xe tăng và xe bọc sắt yểm hộ tiến theo đường Thuỵ Khuê. Từ 6
giờ sáng, chúng đã tiến đánh nhà máy xe điện. Bộ binh địch men theo hè phố tiến trước. Các tổ
súng trường của ta bất ngờ nổ súng, bọn địch gục ngay tại chỗ. Cơ giới địch dừng lại, không dám
tiến. Một lát sau, bộ binh địch lại vọt lên. Quân ta lại nổ súng. Giằng co suốt 4 tiếng đồng hồ,
chúng vẫn chưa chiếm được nhà máy xe điện. Giặc Pháp bắt đầu thay đổi đội hình, cho xe tăng
tiến trước, bộ binh lủi theo sau. Khi xe tăng tới gần chiến hào của ta, một chiến sĩ ôm bom ba
càng lao cả người, cả bom vào xe tăng địch. Bom không nổ, đồng chí đó anh dũng hy sinh. Các
chiến sĩ khác vẫn không hề nao núng. Lập tức một chiến sĩ quyết tử khác ôm bom lao tiếp lên,
quả bom này cũng không nổ. Xe tăng địch vượt qua chiến hào. Bộ binh địch sục đến. Các tiểu đội
trưởng, trung đội trưởng xông lên vật lộn với giặc. Nhưng hết vũ khí đánh xe tăng, quân ta ngăn
chặn địch từng bước tới nhà máy thuộc da.

Cánh quân thứ hai tiến theo đường Hoàng Hoa Thám bị các tổ súng trường của ta bắn
tỉa tiêu diệt hơn một chục tên. Bọn chúng tiến hết sức dè dặt.

Cánh quân thứ ba ỷ vào máy bay đã oanh tạc 2 dãy phố, 4 xe tăng, 2 xe bọc sắt dẫn 2
đại đội bộ binh của chúng hùng hổ tiến vào đường Đội Cấn. Đột nhiên, từng chùm lựu đạn, chai
cháy, bom của quân ta từ trên tầng gác ném xuống. Cơ giới địch dừng lại, lập tức các chiến sĩ
quyết tử ở các ngõ hẻm, căn nhà xông ra lao bom ba càng vào xe tăng địch. Bộ binh ta xuất kích
đánh ngang sườn bộ binh địch. Trận địa ran tiếng súng. Trong chớp nhoáng, 1 xe tăng địch bị đứt
xích, 2 xe vận tải bị phá hủy, 1 trung đội bộ binh địch bị tiêu diệt. Quân địch hỗn loạn xô đẩy
nhau chạy lui, chúng gọi máy bay, pháo binh oanh tạc, khói lửa mù mịt nơi quân ta bố trí. Sau khi
chấn chỉnh lực lượng, quân địch đổi đội hình cho bộ binh sục sạo trước. Các chiến sĩ ta bình tĩnh
bắn tỉa, ném lựu đạn. Những tên giặc “xấu số” này gục ngay tại chỗ. Cuộc chiến đấu kéo dài 7
tiếng đồng hồ, quân địch không tiến thêm được một bước. Quá 12 giờ trưa, máy bay, pháo binh
địch lại tiếp tục bắn phá. Nhà cửa hai dãy phố đổ vỡ ngổn ngang. Sau đó, ta phát hiện địch cho
một toán quân theo phố Sơn Tây đánh vu hồi vào Vạn Phúc, quặt vào phía nam Nhà thờ Liễu
Giai, hình thành thế bao vây phía cuối phố Đội Cấn, nên ta tiếp tục chặn địch hơn 2 tiếng đồng hồ
nữa rồi rút về phòng ngự tại một địa điểm cách Nhà thờ Liễu Giai 500 thước về phía tây bắc. Như
vậy, suốt trong ngày 3 tháng 1, quân địch phải huy động gần một ngàn quân, chật vật lắm mới
tiến được hơn một cây số, trên 100 tên địch chết và bị thương, 1 xe tăng bị phá hủy, 1 xe bọc sắt
bị hư hỏng nặng, 2 xe vận tải bị đốt cháy. Ta thu được 2 súng ngắn, 7 súng trường và một số tiểu
liên.

Buổi sáng, quân ta chiến đấu quyết liệt, thu nhiều thắng lợi ở phía tây bắc Hà Nội.
Quân địch cho rằng ta sẽ chủ quan. Ngay buổi chiều ngày 3 tháng 1, chúng cho khoảng 150 tên,
có 2 xe tăng, 2 xe bọc sắt và 10 ô tô vận tải bất ngờ từ Lò Lợn đánh xuống Thanh Nhàn, Vĩnh
Tuy hòng tiêu diệt đơn vị Vệ quốc đoàn ở đây, bắt đồng bào, cướp thóc lúa, lợn gà của dân. Được
nhân dân báo tin có địch tấn công, trung đội Vệ quốc đoàn ở đây cấp tốc đi bố trí làm hai cánh,
dọc con đường từ Lò Lợn xuống và ngăn chặn đường hướng Phà Đen lên. Trong một cái miếu ở
chân đê, đồng chí trung đội trưởng đang báo cáo tình hình với Chỉ huy trưởng mặt trận và nghe
kinh nghiệm của các trận đánh vừa qua thì tiếng cơ giới của địch mỗi lúc một gần. Mọi người vẫn
bình tĩnh chờ địch lọt hẳn vào trận địa mới nổ súng. Không thấy gì khả nghi, cơ giới của địch tiến
rất nhanh ập ngay tới nơi. Đồng chí trung đội trưởng bắn súng lệnh, hô “xung phong!”. Súng máy
của ta bắn rập vào toán đi đầu. Đồng chí quân giới nói tiếng Khu 4 gọi to: “Đồng chí Vũ, sao lại
cùng xung phong với các chiến sĩ như thế. Đồng chí hãy ở lại đây”. Trong phút chốc, cuộc chiến
đấu giáp lá cà đã diễn ra rất ác liệt. Một cán bộ đại đội bắn súng ngắn Côn-bát giết được 8 tên.
Quân địch bị đánh lại bất ngờ, đội ngũ rối loạn, quay đầu rút chạy. Một xe tăng địch dừng lại.
Chiến sĩ ta tưởng xe tăng địch hỏng xông đến định bắt sống tên lái xe. Đột nhiên chúng bắn tiểu
liên, ném lựu đạn ra mặt đường rồi phóng chạy. Quân ta lại đuổi. Xe tăng địch chạy sau bắn yểm
hộ cho bộ binh chạy trước, vì chúng thấy từ khi nổ súng, đơn vị này hoàn toàn không có vũ khí
chống tăng. Chiến sĩ ta vô cùng căm uất, đuổi sát xe tăng mà đành chịu. Suốt dọc đường, xác địch
chết rải rác hàng chục tên. Ta truy kích tới gần vị trí Lò Lợn. Một ngày ta thắng hai trận lớn. Từ
cán bộ đến chiến sĩ vui mừng quên cả ăn, đến khuya mới thấy đói.

Chiến thắng giòn giã này đã làm quân ta tăng thêm sĩ khí và củng cố lòng tin tưởng
vào khả năng của mình hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao địch ở các cửa ô, và làm cho mọi
người thấy rằng: mặc dầu ở địa hình không có lợi cho ta bố trí phòng thủ, tiện cho địch dùng cơ
giới bao vây vu hồi, nhưng ta vẫn có khả năng đánh lại các cuộc tấn công của địch. Trận phía tây
bắc Hà Nội, nếu ta biết tổ chức phòng ngự có trọng điểm, tập trung lực lượng, cơ động mạnh hơn
để phản kích, biết chấn chỉnh tổ chức lực lượng sau mỗi đợt chiến đấu để đánh liên tục thì quân
địch còn tổn thất nhiều hơn nữa.

Sau trận này, Chính trị ủy viên Trần Độ tới động viên tiểu đoàn 145, ra tận chiến hào
thăm hỏi chiến sĩ. Một chiến sĩ kéo người chỉ huy vào góc tường, chỉ ngón tay qua lỗ châu mai và
nói:

- Chỗ kia là ụ súng của địch! Tôi có một mẹo làm tiêu hao đạn dược của nó, mà tôi
không tốn một viên đạn.

Nói xong, chiến sĩ đó thực hành luôn. Trước tiên anh để một cái thùng to ở mép đường
rồi lăn thật mạnh. Cái thùng lăn bon bon qua mặt đường. Phía xa quân địch nhìn thấy, chúng bắn
súng máy bụi tung mặt đường. Khi chúng ngừng bắn, anh chạy vút sang bên kia. Quân địch lại
bắn. Một lát anh lăn cái thùng trở lại. Quân địch lại bắn, anh cười đắc chí, rồi chạy vút trở về...
Cứ như thế ba, bốn lần. Giặc Pháp đổ ra không biết bao nhiêu là đạn. Hôm sau bọn địch vác gỗ
làm công sự. Các chiến sĩ đưa súng các-bin cho Chính trị ủy viên Trần Độ thi đua với chiến sĩ bắn
tỉa từng tên địch.

Bị thua đau, ngày 4 tháng 1 năm 1947, quân địch không tấn công. Nhưng qua những
triệu chứng hành động mà quân địch tiến hành do thám ta, Bộ chỉ huy mặt trận phán đoán: Địch
chuẩn bị tấn công đánh chiếm làng Giảng Vũ, cách vị trí địch ở nhà Đúc Tiền gần 3 cây số. Giảng
Vũ nằm ven đê La Thành, giữa Ô Cầu Giấy và Ô Chợ Dừa. Chiếm được Giảng Vũ, địch chẹn
được con đường gần nhất giữa hai cửa ô này. Mặt khác, từ Giảng Vũ băng qua cánh đồng chừng
một cây số là tới pháo đài Láng. Mất Giảng Vũ, pháo đài Láng bị uy hiếp nghiêm trọng. Do đó,
Bộ chỉ huy mặt trận cấp tốc ra mệnh lệnh cho Liên khu II: “Cho ngay một trung đội chia làm hai
tới đóng tại lô cốt trên đê Giảng Vũ”(3). Và điều thêm lực lượng mới về đó chiếm giữ.

Vào cuối mùa đông, gió Bắc tràn qua các phố. Sau những ngày hoạt động du kích
trong lòng địch, đại đội 134, thuộc tiêu đoàn 56 tạm biệt các phố Huế, Minh Khai, Lê Bình... lách
qua các vị trí giặc ở khu nhà rượu rút ra ngoại thành để vòng lên Kim Mã tiếp tục hoạt động ở
vùng tây bắc Hà Nội. Tại đây đại đội tiếp nhận một tiểu đội nữ cứu thương của thành Hà Nội.
Những người con gái trồng hoa vùng Ngọc Hà, đã cùng bao thanh niên ưu tú khác, tay không tấc
sắt tham gia chiến đấu chặn đứng quân thù đánh ra mặt tây bắc Hà Nội.

Chiều ngày 4 tháng 1, đại đội nhận được mệnh lệnh: Cấp tốc tới Giảng Vũ cùng một
trung đội của tiểu đoàn 145 phòng giữ khu vực đó. Nửa đêm, khi sương đã xuống nhiều, trời lạnh
đại đội 134 mới bàn giao xong mặt trận Kim Mã cho đơn vị bạn và trở về Giảng Vũ. Trong khi
đó, ở phía đông bắc Hà Nội, pháo binh 75mm và 25mm của ta vẫn nổ giòn giã, yểm hộ cho một
đơn vị bộ binh tấn công quân địch ở Cầu Đuống. Suốt ngày 5 tháng 1 quân ta ở làng Giảng Vũ
vừa chuẩn bị vừa sẵn sàng chờ đợi đánh lại các đợt tấn công của địch, nhưng Giảng Vũ vẫn im
ắng không một tiếng súng. Khoảng 4 giờ chiều, giặc Pháp cho chừng 200 bộ binh, hơn 20 xe cơ
giới các loại từ nhà máy xe điện Thuỵ Khuê, nhà máy thuộc da tấn công đánh chiếm nhà dầu Tam
Đa(4) trên trục đường Hà Nội đi Bưởi. Chúng tiến quân dè dặt, suốt hai tiếng đồng hồ mới nhích đi
được vài trăm thước, và cũng đã bị quân ta bắn tỉa chết 12 tên. Có lẽ đây là một trận giặc pháp tấn
công lấn dần chiếm địa hình có lợi hoặc cũng có thể là một cuộc nghi binh phục vụ cho ý định bất
ngờ tấn công làng Giảng Vũ. Đại đội 134 tiến quân chiếm lĩnh trận địa Giảng Vũ xong thì trời đã
gần sáng. Chi uỷ và ban chỉ huy đại đội nhận định: chiều ngang làng Giảng Vũ rất mỏng, địa hình
bất lợi cho ta, đường tiến quân của địch thuận lợi cho cả cơ giới lẫn bộ binh, ta phải tích cực khắc
phục địa hình chuẩn bị đề phòng địch bất ngờ tấn công. Phải động viên tinh thần chiến đấu quả
cảm của đảng viên và chiến sĩ, quyết tiêu diệt quân thù.

Sáng ngày 6 tháng 1 năm 1947 bầu trời Giảng Vũ mù mịt, mưa rơi lâm râm trùm
xuống xóm làng, gió heo may thổi qua các ngõ. Từ những mái rạ, khói xanh toả lên như những
buổi sớm mai thường lệ. Bỗng, từ phía đầu làng có tiếng súng nổ, tiếng hò hét, tiếng gọi nhau ơi
ới: “Tây đến! Tây mặc quần áo giả đồng bào! Tây tấn công! quay trở lại đi!”. Ngay lập tức đại
đội 134 lao ra bờ tre bố trí chiến đấu. Nhưng giặc Pháp đã ập vào làng. Tiểu đội nữ cứu thương
cũng dùng lựu đạn dao găm, mã tấu xông ra đánh giáp lá cà với giặc. Đồng chí Thập, một “chiến
sĩ nấu ăn” bỏ cả nồi niêu cầm dao thái thịt nhảy ra đâm chém vật lộn với giặc. Q. là liên lạc viên
của đơn vị đang tuổi vỡ tiếng vốn dĩ hiền lành. Hàng ngày anh em vẫn gọi là “Q. tồ”. Nhưng khi
giặc đến, Q. nhanh như cắt dùng lựu đạn giết chết mấy tên địch xông vào bắt mình. Quân giặc bị
đánh bật ra khỏi bờ tre. Chúng bắt đầu kêu gào pháo binh, súng cối của chúng bắn yểm hộ. Bọn
địch để lại một bộ phận nhỏ nổ súng ở chính diện thu hút lực lượng ta. Còn phần lớn lực lượng
chia làm hai mũi đánh thúc vào bên sườn và phía sau làng Giảng Vũ. Xe tăng, xe bọc sắt của địch
tiến đến rìa làng gầm rú ra oai, bắn yểm hộ cho bộ binh tiếp tục đến. Đạn lửa cửa giặc lao vun vút
vào những mái nhà êm ấm của đồng bào. Xóm làng Giảng Vũ bốc cháy. Khói lửa rực lên nghi
ngút cả vòm trời. Những người dân còn ở lại đây đã tay dao, tay búa cùng bộ đội xông ra vật lộn
với giặc. Ba lần giặc Pháp vào làng, ba lần để lại hàng chục xác chết. Số sống sót quay đầu rút
chạy. Các chiến sĩ quyết tử dùng bom ba càng xông lên đánh xe tăng, xe thiết giáp của địch. Các
chị em phụ nữ cứu thương bò chỗ này, lăn chỗ khác cõng thương binh đưa vào giữa làng. Chị em
cấp dưỡng chiến đấu như những chiến sĩ xung kích. Trong vòng vây của giặc, vừa chiến đấu các
chiến sĩ vừa nghe tiếng hát bài “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ ca” từ loa phóng thanh của các tổ tuyên
truyền vọng lại, ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của dân tộc anh hùng. Tiếng hát vẫn vang
qua khói lửa. Nhưng, những người con anh dũng đang chiến đấu trong làng Giảng Vũ mỗi lúc
một vắng dần. Có đồng chí trước khi vĩnh biệt cuộc sống chiến đấu đã nhắn nhủ với bạn rằng:
“Quyết chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam độc lập”. Đến gần trưa, cả tiểu đội nữ cứu thương chỉ
còn một người con gái làng Lai Xá, Hà Đông. Lúc đó rải rác khắp làng Giảng Vũ đã có tới trên
50 xác những tên lính Pháp mù quáng và tàn bạo chết thê thảm trước những mũi súng, lưỡi dao
căm hờn của bộ đội và nhân dân. Trong khi đó một trung đội của tiểu đoàn 145 bố trí ở làng Ngọc
Khánh cách Giảng Vũ 500 thước về phía tây bắc, bị địch khống chế mạnh không thể nào tiếp viện
cho Giảng Vũ được.

__________________________________

Vũ Công Định, đại đội trưởng đại đội 134, bị thương gãy đùi. Anh giữ trong người
mấy quả lựu đạn, một khẩu súng ngắn, một khẩu tiểu liên “Sten”. Vũ Công Định hạ lệnh cho đại
đội dưới quyền chỉ huy của chính trị viên Lê Trí Thực phá vây rút lui về phía nam để bảo toàn lực
lượng. Chính trị viên và các chiến sĩ vì căm thù quân giặc và tình thương yêu đồng chí nên không
nghe lời anh, đòi cáng anh cùng rút theo đơn vị. Anh quyết không bằng lòng, bám chặt vị trí chiến
đấu. Vì phải bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài nên không thể trù trừ được, Lê Trí Thực và các
chiến sĩ vô cùng xúc động chia tay anh, rồi nhanh chóng phá vây rời khỏi làng Giảng Vũ. Quân
địch phát hiện ta rút, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt đuổi theo... Vũ Công Định cố lê ra bắn cản
địch lại. Bọn giặc xông tới định bắt sống anh. Giữa lúc đó, anh thấy người con gái làng Lai Xá ở
lại cùng anh chiến đấu. Gần chục tên giặc nữa phải chết gục trước mũi súng của hai người, và
tiếng lựu đạn cuối cùng đã làm tan xác những tên giặc man rợ định xông đến bắt họ. Vũ Công
Định và người con gái làng Lai Xá, người nữ cứu thương cuối cùng của đại đội 134, đã anh dũng
vĩnh biệt xóm làng Giảng Vũ.

Phía cuối làng, Lê Trí Thực và các chiến sĩ vẫn bị giặc Pháp đuổi theo bắn rất rát, lại bị
bọn phản động núp dưới lá cờ Thiên Chúa giáo và cờ ngoại quốc ở gác chuông Nhà thờ Nam
Đồng bắn chặn trước mặt, thương vong mỗi lúc một tăng thêm. Không thể để đơn vị tổn thất hơn
nữa được, Lê Trí Thực hạ lệnh cho trung đội trưởng trung đội cũng đang bị thương ở đùi tiếp tục
chỉ huy bộ đội rút lui. Anh dừng lại ở một cái cổng, nổ súng bắn cản bước tiến của địch. Cũng
như Vũ Công Định, anh chiến đấu đến khi hết đạn. Khi quân địch xông tới định bắt sống anh, anh
rút quả lựu đạn cuối cùng, một tiếng nổ bất ngờ như tiếng thét căm hờn. Mấy con quỷ khát máu
gục xuống vũng bùn và từ giờ phút ấy, chính trị viên Lê Trí Thực cũng không còn nữa. Lực lượng
còn lại của đại đội 134 rút lui an toàn về vị trí phòng ngự mới phía nam làng Giảng Vũ. Buổi
chiều hôm đó, Bộ chỉ huy mặt trận chỉ thị cho Liên khu II chuẩn bị lực lượng, ngay trong đêm,
tiến vào tập kích địch, chiếm lại Giảng Vũ. Nhưng giữa lúc trời chiều xám nghịt, sắp nhường lại
cho một đêm tối mịt mùng, mưa nặng hạt, gió rét thấu xương thì giặc Pháp lục tục kéo nhau cuốn
xéo khỏi Giảng Vũ trở về nhà Đúc tiền, nơi chúng hùng hổ ra đi với ý định thâm độc tiến hành
một cuộc tàn sát đẫm máu. Khi chúng trở về thì lếch thếch, tả tơi với hàng chục cáng thương đầy
xác chết. Trong lòng binh lính nặng trĩu một nỗi lo âu và run sợ trước tinh thần chiến đấu vô cùng
anh dũng của quân và dân xóm làng Giảng Vũ.

Để tưởng niệm chiến công anh dũng của những người con bất khuất, Bộ Tổng chỉ huy
đã truy tặng Vũ Công Định, Lê Trí Thực và một số chiến sĩ Huân chương Chiến công, và Hội
nghị quân sự toàn quốc lần thứ hai đã nêu gương tinh thần chiến đấu kiên cường của đại đội 134.

Qua trận Giảng Vũ, bộ đội ta trưởng thành thêm một bước. Cán bộ, chiến sĩ có thêm
kinh nghiệm. Hồi đó, mặc dầu chúng ta chưa biết bố trí phòng ngự chiến đấu liên hoàn, chưa biết
tổ chức chiến hào, giao thông hào để cơ động, và chưa có công sự kiên cố để tránh pháo binh,
súng cối địch oanh tạc, chưa biết tác chiến hợp đồng giữa các đơn vị... nhưng, với tinh thần chiến
đấu vô cùng quả cảm của quân và dân ta, giặc Pháp đã bị tổn thất nặng nề.

Như vậy, sau thời gian chuẩn bị, từ ngày 30 tháng 12 năm 1946 đến ngày 6 tháng 1
năm 1947, giặc Pháp đã mở 6 đợt tấn công ra các cửa ô ngoại thành. Hơn một tuần lễ quân ta
chiến đấu giành đi, giật lại, giữ từng tấc đất cửa ô, đã tiêu diệt trên 300 tên địch. Giặc Pháp không
những không tiến thêm được bước nào, mà còn bị đánh tan hoang, quan quân xô đẩy nhau rút
chạy như trận buổi chiều trên đường Lò Lợn đi Vĩnh Tuy, bị chặn đánh quyết liệt như trận đường
Đại Cồ Việt, bị phản kích bất ngờ vào sau đội hình tấn công, xe tăng giảm hiệu lực, bộ binh tan
tác như trận phố Đội Cấn. Từ đó quân ta trưởng thành rõ rệt, ở làng mạc từ phòng ngự đơn giản,
rải quân mành mành trong các hố chiến đấu đơn độc đã tiến tới có chiến hào, giao thông hào liên
kết với nhau để cơ động. Từ chỉ biết phòng ngự phía trước mặt, tiến tới biết đề phòng bên sườn và
phía sau, biết tổ chức lực lượng dự bị. Sau những trận ấy, quân và dân Hà Nội tự đặt ra những
ngôn ngữ chiến thuật, có nội dung thích hợp với trình độ và nhiệm vụ lúc đó. “Ba lan thuật” tức
là thuật làn sóng, hình dung như một tảng đất ném xuống nước, sóng dàn ra đập tới bờ rồi lại xô
vào giữa. Địch tiến ra ta chặn địch từng bước, địch lui ta lại tiến vào bám sát địch. Địch đánh ta
không rút lui một đợt dài. Địch lui ta cũng không rời một bước chân. Dần dần lợi dụng sơ hở của
địch, quân ta phát triển tới thuật “xoáy trôn ốc” đã làm cho quân địch nhiều phen tan xác. Địch
tấn công, ta ngăn chặn địch từng bước, cơ động chủ lực đánh quặt vào sau lưng chúng. Địch tiến
ra chiếm đóng thêm vị trí mới, ta luồn vào hoạt động du kích sau lưng chúng.

Thật vậy, sau 19 ngày thử lửa, vòng vây bên ngoài đã ngăn chặn địch từng bước, luôn
luôn chủ động biệt kích, tập kích, đánh tỉa, tiêu hao sinh lực địch. Bên trong, Liên khu I đã anh
dũng chiến đấu, kiên cường chịu đựng, và đã đánh thúc phía sau, làm cho quân địch sa lầy lúng
túng, đứng ngồi không yên. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã chiến đấu gần 100 trận, tiêu diệt gần
1.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới của chúng. Quân và dân Thủ đô Hà Nội lớn lên về
mọi mặt. Ngày 6 tháng 1 năm 1947, Đảng ủy mặt trận nhận được điện của Liên khu I gửi ra đề
nghị: “Thống nhất các lực lượng vũ trang, thành lập một trung đoàn chính quy của Quân đội quốc
gia Việt Nam, lấy tên là “Trung đoàn Liên khu I”, thành lập Ban chỉ huy trung đoàn Liên khu I và
các cơ quan các ngành thuộc liên khu Bộ”. Được Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy chuẩn y, Đảng
ủy và Bộ chỉ huy mặt trận điện cho Liên khu I, chỉ dẫn thêm về lãnh đạo của Đảng đối với bộ đội
và nhân dân, công tác ngoại giao với lãnh sự các nước còn ở trong Liên khu I. Ngày 7 tháng 1
năm 1947 là một ngày kỷ niệm sâu sắc của quân dân Hà Nội. Với hoàn cảnh chiến đấu vô cùng
gian khổ và hiểm nghèo trong lòng địch, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã lớn nhanh như Phù Đổng
Thiên Vương. Trung đoàn Liên khu I chính thức thành lập, lấy tiểu đoàn Vệ quốc đoàn 101 làm
nòng cốt, cả thảy trên một ngàn người cả trẻ em, phụ nữ và ông già cũng tình nguyện xin nhập
ngũ. Để lãnh đạo trung đoàn chiến đấu, Đảng ủy trung đoàn được thành lập do đồng chí Lê Trung
Toản làm bí thư. Ở mỗi tiểu đoàn có một chi bộ Đảng. Sau đó, Đảng ủy trung đoàn Liên khu I ra
nghị quyết: phát triển đảng số lên gấp đôi, làm cho các đơn vị càng tăng thêm lòng tin tưởng vô
bờ bến vào sự lãnh đạo của Đảng, do đó, càng chiến đấu ngoan cường như những đội “xích vệ”
của thành phố Xta-lin-grát. Từ đó, quân và dân Hà Nội chuẩn bị lập chiến công mới, nhưng cũng
sẵn sàng bước vào những thử thách mới.

Sau trận Giảng Vũ, mặt trận gần như không có trận đánh nào quyết liệt. Bộ chỉ huy
quân đội Pháp ở Hà Nội vắt óc suy nghĩ, tìm quỷ kế mới để tấn công ta. Bên ta tranh thủ hoạt
động du kích tiêu hao địch và rút kinh nghiệm những ngày chiến đấu vừa qua. Bộ Tổng chỉ huy
phổ biến những nhận định tình hình và chủ trương cho Bộ chỉ huy mặt trận. Liền sau đó, Bộ chỉ
huy mặt trận ra thông tri cho các đơn vị: “Hiện nay địch không hoạt động mấy là chúng dành thời
gian chờ quân tiếp viện, rồi sẽ mở những cuộc tấn công từng hướng, trong thúc ra, ngoài đánh ập
vào... Các cấp chỉ huy phải thực hiện ngay chiến thuật du kích để tiêu hao chúng, đừng để cho bộ
đội ta mắc vào “hoãn binh chi kế” (5). Ngoài ra còn có những thông tri hướng dẫn tỉ mỉ cho các
tiểu đoàn ở ngoài hoạt động phối hợp chặt chẽ với Liên khu I: “Phải lựa chọn một số đội viên
chiến đấu (Vệ quốc đoàn và tự vệ) bình tĩnh, can đảm, nhanh nhẹn, chia ra làm từng tổ du kích
năm, bảy người (một tổ phải có ba hay hai anh em tự vệ thuộc đường lối trong khu phố) mang
theo ba ngày lương thực, ba súng trường còn toàn dùng lựu đạn và đao kiếm, đi vào từng khu
phố, chia nhau chiếm các nhà, nhưng phải có liên lạc mật thiết..., phải chỉ định khu vực hoạt động
của từng tổ một. Mỗi khi quân địch đi qua là phải săn giết. Lúc địch mang xe tăng đến vây thì các
đội viên phải tìm chỗ kín ẩn nấp để khỏi tổn thương. Nhưng mỗi khi có bộ binh hay Việt gian, thổ
phỉ tới thì lại phải tìm cách tiêu diệt chúng” (6). Để chuẩn bị đối phó với các đợt tấn công mới của
giặc Pháp, sau khi được Bộ Tổng chỉ huy đồng ý, Bộ chỉ huy mặt trận điều động tiểu đoàn 45 và
64 (thuộc trung đoàn 9 và 13) ở Hà Đông và Sơn Tây tăng cường cho Hà Nội. Giai đoạn này, trừ
trung đoàn Liên khu I thì bên ngoài ta có 7 tiểu đoàn, luân phiên nhau chiến đấu, nghỉ ngơi và
luyện tập: “Tập đánh du kích, tập xung phong, tập báo động, tập phòng không” (7). Ngoài việc tự
rèn luyện mình, các tiểu đoàn còn cử cán bộ về các xã ngoại thành huấn luyện quân sự, truyền đạt
kinh nghiệm chiến đấu cho dân quân tự vệ. Liên khu I tranh thủ huấn luyện cho những thanh niên
mới nhập ngũ, mở các lớp ngắn ngày đào tạo tiểu đội trưởng, bồi dưỡng chính trị viên trung đội,
mở lớp học Điều lệ Đảng cho đảng viên mới. Mọi việc tác chiến, huấn luyện, tổ chức, v.v... đã bắt
đầu đi vào nền nếp.

Song song với công tác tổ chức và huấn luyện, các tổ du kích của các liên khu tăng
cường hoạt động, luồn từ nhà này qua nhà khác, bắn tỉa những tốp giặc đi lại ngoài đường, hoặc
bò tới sát vị trí của chúng, thình lình bắn tỉa những tên lính gác, lính tuần tra, phục kích ở những
đoạn đường mà bộ binh, cơ giới, xe lửa của địch hay đi lại, đánh địch bằng mọi hình thức, làm
cho chúng không thể nghỉ ngơi an toàn. Ngoài ra, Bộ chỉ huy mặt trận tiếp tục tung một lực lượng
vào hoạt động suốt dọc đường phố Bạch Mai, phố Huế cắt đứt giao thông liên lạc của địch, quấy
rối, nghi binh, phá hoại làm cho quân địch phải nơm nớp lo sợ. Phóng viên hãng thông tấn AFP
đã viết một bài phóng sự với đầu đề “Cuộc chiến tranh kỳ dị ở Hà Nội”. Bài này tờ báo “Chiến
thắng” của Liên khu I đã đăng lại toàn văn: “Tôi thấy những người Pháp chết như thế nào dưới
súng đạn Việt Nam ở hậu tuyến Hà Nội hay ở những trận kỳ dị ngay giữa trung tâm thành phố, ở
một góc đường hay dưới những làn đạn tiểu liên bắn theo dọc đại lộ. Trong cuộc chiến tranh kỳ dị
này người ta có thể chết một cách dễ dàng và bất kỳ nơi nào, lúc nào mà người ta không thể biết
được”.

“Chúng tôi, một nhóm nhà báo lần mò tới đường Hàng Lọng, một vùng đã bị càn quét.
Chúng tôi gặp một đại uý, ông chỉ cho xem một lô cốt vừa làm xong, có tin một người lính Pháp
vừa bị bắn chết, ông ra lệnh cho xe thiết giáp tới chở xác. Chiếc xe đó tiến tới gần lô cốt, không
sự gì xảy ra. Nhưng khi mấy người lính xuống vực xác lên xe thì... một loạt tiểu liên không biết
từ đâu nổ ra. Một người lính Pháp khác bị bắn nát sọ. Thành ra mang xe đi định lấy một xác về lại
hoá hai”. Phóng viên này đã nói lên một phần sự thật.

Chiến thuật du kích của ta đã làm cho giặc Pháp sa lầy, lúng túng như bị vướng vào
giữa giàn gai mây, càng giãy giụa, gai mây càng bám chặt. Tình hình ấy làm cho bộ chỉ huy quân
đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm lo sợ, nóng lòng chờ quân tiếp viện từ chính quốc đưa
sang.
Trong khi đó quân và dân Thủ đô Hà Nội ngày càng dày dạn và trưởng thành. Đến
ngày 13 tháng 1 năm 1947, một tin mừng nữa theo làn sóng điện đến với Liên khu I. Bộ chỉ huy
mặt trận báo tin: Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 12 tháng 1 năm 1947 quyết định tặng
“Trung đoàn Liên khu I” danh hiệu “Trung đoàn Thủ Đô”.

Trung đoàn Thủ Đô ra đời, sức chiến đấu của Liên khu I càng mạnh mẽ hơn. Đó là
một thắng lợi đặc biệt. Đội quân mới sơ sinh chiến đấu trong lòng giặc, không những không bị
tiêu diệt mà còn lớn lên nhanh chóng, chính bản thân các chiến sĩ cũng không lường trước được.
Trong thời gian này, Liên khu I bắt đầu gặp nhiều khó khăn về thực phẩm. Đồng chí Hoàn có điện
vào: “Trung đoàn đừng ăn đỗ xanh, lấy đỗ xanh ngâm thành giá để bộ đội ăn thay rau tươi.
Những ngày mới nổ súng, ta dùng bao tải đựng đường xây đắp “ba-ri-cát”, bây giờ tìm những bao
đường ấy, lấy cho bộ đội ăn để bảo đảm sức khoẻ”. Bức điện tuy ngắn ngủi nhưng đã bao hàm sự
quan tâm săn sóc của Trung ương Đảng đối với quân và dân Liên khu I, chứa đựng một lòng yêu
thương sâu sắc của tình đồng chí trong đại gia đình cách mạng. Những điều đó cũng ảnh hưởng
sâu sắc tới các cán bộ trực tiếp chỉ huy mặt trận.

Có những đêm, trời tối mịt mùng, gió bấc rét thấu xương, đồng chí Trần Quốc Hoàn,
đồng chí Nguyễn Văn Trân cùng các đồng chí trong Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội vượt qua đê Yên
Phụ ra bờ sông phía bắc Hà Nội, đứng nhìn hồi lâu về trung tâm Thủ đô yêu dấu. Ở đấy có Liên
khu I quật cường và anh dũng. Nước sông Hồng vẫn cuồn cuộn chảy, các đồng chí Trần Quốc
Hoàn, Nguyễn Văn Trân cùng với Bộ chỉ huy mặt trận đứng trên bãi cát bờ sông bàn bạc với nhau
tìm thêm một cách khắc phục nữa là dùng bè chuối để thả gạo, thả rau trôi xuôi, rồi điện cho quân
dân Liên khu I ra vớt. Sau đó, ý định này được anh em dân quân tự vệ ngoại thành tích cực thực
hiện để tiếp tế cho Liên khu I. Ở Lãng Bạc có một tiểu đội nữ giao thông, những người con gái
lao động ở phía tây bắc Hà Nội mang sẵn trong người một dòng máu của anh hùng Trưng nữ thuở
xưa, quyết chống quân xâm lược, bất chấp mọi gian nan, ngày ngày đánh giặc, đêm đêm đeo bao
gạo, tay nải, ba lô rau tươi... luồn qua gầm cầu Long Biên, tiếp tế cho Liên khu I, mặc dầu giặc
Pháp rào dây thép gai ở chân cầu, xích chó để gác thay cho lính, bắn súng máy, súng cối để uy
hiếp, chiếu đèn pha để kiểm soát. Đêm đêm chị em vẫn vượt qua muôn vàn nguy hiểm chuyển tới
quân dân trong liên khu hàng chục tấn gạo và thực phẩm, hàng trăm bức thư tâm tình và những
tặng phẩm của nhân dân từ những vùng hậu phương xa xôi. Tuy vậy, tình hình lương thực ở Liên
khu I ngày vẫn gặp nhiều khó khăn. Từ các nơi dồn về mấy phố phường nhỏ hẹp trên một vạn
người, chưa nói đến gạo ăn mà nước uống cũng thiếu. Các giếng nước đều cạn. Đứng trước tình
hình như vậy, mặt khác căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Liên khu I, theo chỉ thị của
Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Trân - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến thành phố Hà Nội,
đại diện cho chính quyền và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội, cùng với đồng chí Hoàng Minh Giám,
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, tới Ô Chợ Dừa gặp
các viên lãnh sự Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch), lãnh sự Anh, Mỹ để điều đình việc hai bên Việt,
Pháp tạm ngừng bắn vào ngày 15 tháng 1 để các ngoại kiều và nhân dân Việt Nam còn ở lại trong
thành phố được công khai rút ra ngoài. Sau đó đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Bộ chỉ
huy mặt trận điện vào Liên khu I: “Giặc Pháp âm mưu tiêu diệt chúng ta trong 24 tiếng đồng hồ.
Nhưng, ngược lại, chúng ta đã tiêu hao giặc và giam chân chúng ở Hà Nội được gần một tháng,
như vậy là chúng ta đã thắng lợi. Nay chỉ cần để lại 500 người. Còn tất cả rút ra hết để giải quyết
khó khăn về tiếp tế và nước uống”. Nhận được điện, Đảng ủy Liên khu I đã có chủ trương lãnh
đạo bộ đội và nhân dân chọn người ở lại, thành lập đội quyết tử. Ngày 13 tháng 1 năm 1947, đội
quyết tử của Trung đoàn Thủ Đô được thành lập, ngày 14 tháng 1 năm 1947 làm lễ tuyên thệ tại
Rạp hát Tố Như(8) phố Hàng Bạc. Đảng ủy Liên khu I quyết định đưa 3.500 thanh niên, tự vệ
cùng với nhân dân rút ra khỏi Liên khu I. Ngay đêm hôm đó đã có một số đi theo gầm cầu Long
Biên vượt ra.

Ngày hôm sau, 15 tháng 1, hơn 6.000 đồng bào và ngoại kiều tản cư công khai theo
đường Hàng Đậu lên Yên Phụ. Hàng ngàn chiến sĩ Liên khu I được chỉ định trước đã cải trang đi
lẫn vào nhân dân để ra ngoài. Rời Thủ đô yêu dấu, rời tiền tuyến sôi nổi và anh dũng, nhiều chiến
sĩ dùng dằng lưu luyến không muốn đi. 3.500 thanh niên tự vệ ra ngoài thành lập một tiểu đoàn
sau này mang danh hiệu: “Tiểu đoàn Bình Ca”. Còn lại, một số được cử đi học lớp quân chính Vị
Thuỷ, một số vào Trường du kích Hoàng Diệu, một số vào các cơ quan quốc phòng hoặc trở về
công tác cũ. Trung đoàn Thủ Đô nhận mệnh lệnh kiện toàn tổ chức sẵn sàng chiến dấu với những
hoàn cảnh gay go quyết liệt hơn. Nhưng do lòng yêu nước vô bờ bến của nhân dân, mặt khác
cũng do kiểm tra không chặt chẽ, nên một số anh chị em đã lẩn tránh tìm mọi cách để được ở lại
Liên khu I. Lúc đó số người của Trung đoàn Thủ Đô không phải là 500, mà vẫn còn 1.200 người
trong đó có hơn 200 phụ nữ, hơn 100 thiếu nhi. Khó khăn về tiếp tế đối với Liên khu I đã giải
quyết được nhiều nhưng chưa phải là đã hết.

Trong giai đoạn giặc Pháp ở Hà Nội dừng lại củng cố chờ quân tiếp viện, thì mâu
thuẫn giữa rải quân ra chiếm đóng giữ đất với tập trung quân để tấn công, đối với chúng ngày
càng nổi bật. Trước tình hình đó trong Bộ chỉ huy mặt trận đã nảy ra ý kiến phản công tiêu diệt
sinh lực địch, chiếm lại một phần thành phố Hà Nội với kế hoạch: “Tấn công kiềm chế địch ở các
hướng Ô Cầu Dền, Kim Liên, Ô Chợ Dừa, Đội Cấn. Còn phần lớn chủ lực tập trung đánh dồn dập
vào Phà Đen, Đồn Thuỷ, xong phát triển tạt ngang sang Trại Vệ quốc đoàn Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Đấu Xảo”. Sau khi đối chiếu với phương châm chỉ đạo tác chiến của Trung ương và tính
toán lực lượng thì thấy: tuy bộ đội ta đã lớn mạnh về mọi mặt, nhưng về quân số và binh khí kỹ
thuật của địch vẫn còn mạnh hơn ta gấp bội; về hệ thống phòng ngự, chúng đã được củng cố, tổ
chức chu đáo hơn trước. Sức ta chưa đủ để phản công chiếm lại Hà Nội, nên Bộ chỉ huy vẫn giữ
quyết tâm: “tiếp tục chiến đấu giam chân địch...”. Bộ chỉ huy giao nhiệm vụ cho các đơn vị:

- Tiểu đoàn 145, do đồng chí Trắc Vi Nam chỉ huy, phụ trách khu vực Phúc Xá sát
sông Hồng cho tới Bưởi, Đội Cấn, giáp đường đi Sơn Tây.

- Tiểu đoàn 523, do đồng chí An Giao chỉ huy, phụ trách từ đường Sơn Tây đến đê La
Thành, gồm cả đường đi Hà Đông giáp Kim Liên.

- Tiểu đoàn 64, do đồng chí Quốc Linh chỉ huy, phụ trách vùng Kim Liên (con đường
số 1 đi Nam Định) tới Việt Nam học xá(9).

- Tiểu đoàn 212, do đồng chí Hồng Kỳ chỉ huy, phụ trách từ Việt Nam học xá, qua chợ
Mơ đến Vĩnh Tuy.

- Tiểu đoàn 77 do đồng chí Hoàng Kiện chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu II, bố trí ở
phía sau, giữa hai tiểu đoàn 64 và 212.

- Tiểu đoàn 56, do đồng chí Anh Đệ chỉ huy, làm đội dự bị của Liên khu III, bố trí ở
Trường bay Bạch Mai sau tiểu đoàn 523.

Chỉ huy sở cơ bản của mặt trận từ Mễ Trì chuyển về Tây Mỗ. Toàn mặt trận nội, ngoại
tuyến đều ra sức, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu với những tình huống gay go quyết liệt hơn.

Nhưng ngày 15 tháng 1, chẳng kể gì đến những điều giữa hai bên đã thoả thuận, giặc
Pháp đã lợi dụng giữa lúc các ngoại kiều và đồng bào trong Liên khu I rút ra ngoài, chúng bất ngờ
mở một cuộc tấn công quy mô lớn về phía nam Hà Nội. Khắp mặt trận, cuộc chiến đấu ác liệt lại
bắt đầu lần lượt tiếp diễn...

“Tránh mạnh, đánh yếu, bảo toàn chủ lực...”.

Thủ đô kháng chiến đã được gần một tháng. Đồng chí Tổng chỉ huy biểu dương chiến
công đặc sắc của quân và dân Hà Nội. Gần một tháng giặc Pháp bị “mắc nghẽn”, “sống dở”,
“chết dở”, “sa lầy”, lúng túng với một cuộc “chiến tranh kỳ dị”... Phía ta, Trung ương Đảng và
Chính phủ đã về căn cứ địa để lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Kho tàng, công xưởng đã chuyển
về chiến khu. Hậu phương đã nhất tề đứng lên động viên toàn diện chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài. Hồi đó cũng như bây giờ giặc Pháp không sao giải thích nổi: “Vì sao chúng đã sa lầy”,
mà chúng chỉ biết gọi đó là cuộc “Chiến tranh kỳ dị!”.
Bước sang giai đoạn mới, quân và dân Thủ đô Hà Nội sẵn sàng chịu đựng những thử
thách gay go quyết liệt hơn.

- Tránh mạnh, đánh yếu, chặn địch từng bước, nhưng vẫn phải tiếp tục giam chân địch.

- Tiêu hao địch nhưng vẫn phải bảo toàn lực lượng.

“Bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu dài”, đó là phương châm chỉ đạo của Đảng mà
đồng chí Tổng chỉ huy luôn luôn nhắc nhở quân và dân Thủ đô Hà Nội. Sau những chiến thắng
đầu tiên ta đã làm cho giặc Pháp phải giật mình kinh hoảng, quân và dân Thủ đô Hà Nội vẫn
muốn dốc hết sức mình quật cho chúng những đòn quyết định. Nói đến việc tránh đem chủ lực
của ta đương đầu với chủ lực của địch, nhiều cán bộ chiến sĩ không bằng lòng, cho là rụt rè, e
ngại. Nói đến việc tránh mạnh đánh yếu, chặn địch từng bước thì trong lòng nhiều người cũng
còn áy náy băn khoăn. Nhưng lúc đó nếu đem chủ lực của ta đương đầu với chủ lực của địch theo
kiểu “chọi trâu” là một điều hoàn toàn không có lợi, là mắc phải âm mưu của chúng.

Thử thách mới sắp đến! Để bảo toàn lực lượng phục vụ cho chiến đấu lâu dài, Bộ chỉ
huy tiếp tục chỉ thị cho các đơn vị triệt để dùng thuật “tị thực kích hư”, tránh không đương đầu
với địch mạnh ở trước mặt mà rẽ sang hai bên nhằm chỗ yếu đánh vào bên sườn và sau lưng địch.
Thực hiện thuật “ba lan”, thuật “xoáy trôn ốc”, thuật “nghi binh” làm cho địch phải dùng nhiều
sức lực đánh vào chỗ không người.

Ngày 15 tháng 1 lại một lần nữa đế quốc Pháp vỗ trắng chữ ký của mình, lợi dụng lúc
ta ngừng bắn để đồng bào trong Liên khu I rút theo phía bắc ra ngoài thành phố thì chừng trên
1.000 quân Pháp cùng khoảng 150 cơ giới các loại tấn công về phía nam Hà Nội với âm mưu tiêu
diệt chủ lực của ta, mở rộng phạm vi chiếm đóng.

Khác với mọi lần, lần này khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng sớm mai lung linh trên
những ngọn tre ở làng mạc ngoại thành, anh chị em dân quân tự vệ Thanh Nhàn và Lương Yên đã
cùng bộ đội nổ súng chặn địch tấn công. Trong phút chốc, trên 20 tên giặc bị tiêu diệt, quân ta thu
được 4 súng trường. Bên ta chỉ có một vài Vệ quốc quân và dân quân bị thương nhẹ. Hai toán
địch bị đánh phủ đầu bất ngờ, chúng vội vã rút lui về hướng Lò Lợn và Ô Đống Mác. Trên trời
chiếc máy bay “bà già” “bành bạch” nghiêng ngả chỉ điểm cho pháo binh, súng cối bắn đổ hồi
xuống hai bên bờ để yểm hộ cho bộ binh địch tiếp tục lò dò tiến lên nổ súng. Nhưng đến 9 giờ
địch vẫn bị chặn lại ở Thanh Nhàn và Lương Yên. Lúc này số thương vong của ta đã tăng thêm.
Giặc Pháp cho một ca nô chở một trung đội từ Phà Đen xuôi dòng sông Hồng bất ngờ đổ bộ vào
ngay sườn ngã ba Vĩnh Tuy. Quân ta ở Thanh Nhàn chống cự với địch từng bước. Đến 11 giờ trưa
hai cánh quân của chúng siết chặt vòng vây xung phong lên Vĩnh Tuy thì ở đó chỉ còn lại những
hầm hố nham nhở, còn quân ta đã rời khỏi Vĩnh Tuy từ lúc nào mà địch không rõ. Giặc Pháp tập
trung quân ở Vĩnh Tuy lòng đầy hậm hực, lập tức chúng tiến quân định bao vây cất vó cơ quan
chỉ huy tiểu đoàn 212 ở ngã tư Trung Hiền. Địch chia làm hai toán, một toán qua Mai Động,
Hoàng Mai chiếm trại Hàn Lâm, một toán qua Quỳnh Lôi đánh vào ngã tư Trung Hiền, phối hợp
với một cánh quân từ Ngã Tư Vọng đánh tạt từ phía tây vào sau lưng quân ta. Ba mặt hợp vây,
giặc Pháp tưởng như sẽ “cất vó” được quân ta. Nhưng một đại đội của ta ở Tương Mai, Hoàng
Mai, Quỳnh Lôi bám chặt ria làng ngăn chặn tiêu diệt hơn 40 tên giặc. Bên ta 20 Vệ quốc quân và
tự vệ bị thương vong. Các chiến sĩ ngoan cường chặn địch bảo vệ cho chỉ huy sở của tiểu đoàn
212 rời an toàn về Yên Duyên phía nam ngã tư Trung Hiền 2.500 thước. Bốn giờ chiều, khi quân
địch xung phong lần cuối cùng vào các làng mạc xung quanh ngã tư Trung Hiền thì ở đó chỉ còn
lẻ tẻ một vài tự vệ chống cự nghi binh. Chủ lực của ta đã rời khỏi khu vực đó từ lâu. Một lần nữa
giặc Pháp lại dồn sức lực xung phong vào chỗ trống. Trời về chiều, binh lính Pháp bắt đầu lo sợ,
hấp tấp khênh những tên chết và bị thương ở rải rác khắp nẻo đường, khắp cánh đồng tập trung về
ngã tư Trung Hiền.

Phía Ngã Tư Vọng, giặc Pháp cũng vấp phải sự chống cự vô cùng quả cảm của quân
ta. Hơn 100 xe cơ giới các loại cùng bộ binh từ Ô Cầu Dền theo đường Đại Cồ Việt qua Kim Liên
tấn công xuống nhà thương Vọng. Ở đấy, ta có một đại đội thuộc tiểu đoàn 64 ngăn chặn địch..
Khẩu súng máy Hốt-kít đặt ở góc nhà thương Vọng bắn quét vào bộ binh địch. Chúng phải dừng
lại suốt 3 tiếng đồng hồ. Đến 9 giờ, chúng cho xe tăng, xe bọc sắt đi hai bên đường, thổ phỉ, Việt
gian rồi đến lính Pháp đi giữa. Súng trường, súng máy của ta bắn vào thành xe tăng vô hiệu quả,
nhưng chúng ta cũng không có một thứ súng nào khác để bắn xe tăng. Tới nhà thương Vọng, bọn
Việt gian và thổ phỉ trá hàng. Quân ta thiếu cảnh giác, tưởng thật, có bộ phận rời vị trí ra tiếp
nhận. Thình lình chúng trở súng bắn trả lại. Bộ binh địch ở phía sau xung phong ập tới. Từ giờ
phút ấy ở nhà thương Vọng, ta và địch vật lộn, đâm chém, giành nhau từng căn nhà, từng bức
tường. Có chiến sĩ vung mã tấu chém lia lịa làm cho địch không kịp bắn. Có chiến sĩ bị địch xúm
lại vật ngã, đồng chí đó đã rút kíp lựu đạn giết năm, bảy tên giặc một lúc và mình cũng hy sinh.
Xe tăng, xe bọc sắt của địch gầm rú, bắn phá dữ đội. Bộ binh địch xung phong liên tiếp, nhưng
vẫn chưa chiếm được nhà thương Vọng. Chúng lại tập trung chừng 300 quân từ Trung Phụng,
phía tây bắc Kim Liên, băng qua cánh đồng rồi chia làm hai toán: một toán đánh xuống Khương
Thượng, cản đường tiếp viện của ta, một toán qua xóm Trại, Phương Liên đánh vào sườn phía tây
nhà thương Vọng. Từ ba mặt, giặc Pháp liên tiếp xung phong vào nhà thương Vọng. Mặc dầu đã
có hơn 30 cán bộ, chiến sĩ thương vong, các chiến sĩ ở đây vẫn không hề nao núng. Xe tăng địch
húc vào tường. Một chiến sĩ ôm bom ba càng từ trong nhà lao vút ra. Thình lình một tiếng nổ dữ
đội. Xe tăng của địch bốc cháy. Bộ binh địch lại xô nhau lùi ra. Các chiến sĩ khác ở trên tầng gác
ném lựu đạn, bắn súng trường làm bọn chúng chết ngổn ngang. Đánh mãi vẫn không chiếm được,
hàng chục tên địch phải bỏ xác tại nhà thương Vọng. Quân địch để lại một bộ phận tiếp tục bao
vây tấn công, còn phần lớn lực lượng tiến xuống gần Ngã Tư Vọng chia làm hai toán. Một toán
đánh tạt sang ngã tư Trung Hiền phối hợp với cánh quân ở Vĩnh Tuy vào, rồi tiến lên chạm trán
với quân ta ở Việt Nam học xá. Cuộc chiến đấu ở đó cũng không kém phần quyết liệt như ở nhà
thương Vọng. Một toán đánh vào phía đông Trường bay Bạch Mai phối hợp với cánh quân từ
phía tây nhà thương Vọng tạt xuống. Hai trung đội thuộc tiểu đoàn 523 chặn địch từng bước, tới
Khương Trung giặc Pháp bị ta bắn chết hơn 20 tên. Chúng phải lui về Trường bay Bạch Mai. Ở
nhà thương Vọng và nhà vô tuyến điện, quân ta vẫn ngoan cường cố thủ. Để bảo toàn lực lượng,
lúc trời vừa tối nhập nhoạng, các chiến sĩ ta ở nhà thương Vọng và nhà vô tuyến điện vượt khỏi
vòng vây của địch, rút lui an toàn.

Một ngày “đấm vào không khí” vừa hao tổn sức lực, vừa chán nản, giặc Pháp dừng lại
thu dọn hàng trăm xác lính chết rải rác khắp chiến trường.

Ngay trong đêm 15 tháng 1, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho các tiểu đoàn 523, 56 và
212 dùng những bộ phận ban ngày chưa phải chiến đấu vòng vào sau lưng địch, tấn công Ô Chợ
Dừa, ga Hàng Cỏ, Ô Cầu Dền, phố Mai Hắc Đế. Tiểu đoàn 145 tấn công về phía thuỵ Khuê,
Ngọc Hà. Vào khoảng gần nửa đêm, Hà Nội lại vang rền tiếng súng. Thỉnh thoảng có một tiếng
bom nổ dữ đội, bốc lên từng đám cháy đỏ rực thành phố.

Ngày 16 tháng 1, chỉ có một toán địch từ Ô Chợ Dừa định tiến thẳng nối liền với toán
quân ở Ngã Tư Sở. Nhưng tới gò Đống Đa bị chặn lại quyết liệt, quân địch phải đi vòng đường
cánh đồng để bắt liên lạc với bọn ở Ngã Tư Sở.

Hai ngày giặc Pháp tập trung sức lực định tiêu diệt chủ lực ta thì hai ngày giặc Pháp
phải “hao binh, tổn tướng” xung phong vào chỗ không người, với kết quả là gần 200 tên vừa chết
vừa bị thương, 2 xe tăng và 3 ô tô vận tải bị phá hủy. Bất cứ tấn công một mục tiêu nào, giặc
Pháp đều vu hồi từ hai, ba mặt và khi điều kiện có thể thì chúng tránh hành binh theo đường cái
(vì trên đường cái lớn ta phá hoại, đắp ụ thành chướng ngại vật) mà tiến vòng hoặc băng qua cánh
đồng đánh vào bên sườn hoặc sau lưng quân ta. Nhưng lần này quân ta đã có nhiều tiến bộ về bố
trí cố thủ, ngoan cường chặn địch như ở nhà thương Vọng, Việt Nam học xá, gò Đống Đa, và đã
khéo léo chiến đấu cơ động, nghi binh để chủ lực của ta tránh đương đầu với chủ lực địch nhằm
chỗ yếu, chỗ sơ hở để tiêu hao, tiêu diệt chúng. Nhưng nếu ngay trong đêm, khi quân địch vừa
tạm dừng lại, ta biết tổ chức tập trung lực lượng mạnh tập kích bất ngờ, có trọng điểm vào những
toán địch hoặc cơ quan chỉ huy của chúng đang chủ quan sơ hở thì cũng có thể tiêu diệt sinh lực
địch được nhiều hơn nữa.
Phối hợp với tuyến ngoài, Liên khu I đã phản công đánh bật địch ra khỏi chùa Ấn Độ,
phố Hàng Khoai, sân vận động Hoa kiều... Tại khu Đông Thành, đồng chí Liễu đã cùng đơn vị
của mình dùng súng trường “rơ-manh-tông” và một khẩu trung liên bắn rơi một máy bay khu trục
của địch. Trong lòng Hà Nội luôn luôn có tiếng súng nổ, buộc kẻ địch phải chia sẻ một phần máy
bay và một số bộ binh, cơ giới để đối phó với Liên khu I ở phía sau lưng một cách chật vật.

Giữa những ngày ấy, có một buổi trưa đồng chí Trần Quốc Hoàn cùng Bộ chỉ huy mặt
trận lại ra bờ sông Hồng phía bắc Hà Nội đứng nhìn vào Liên khu I, bàn bạc về tình hình khó
khăn thiếu thốn ở trong ấy. Đồng chí Trần Hoàn nói: “Tôi dự định sẽ vào thăm Liên khu I”. Thấy
các đồng chí trong Bộ chỉ huy cũng muốn vào, đồng chí Hoàn tỏ vẻ ngần ngại, nói tiếp:

- Đồng chí Vương Thừa Vũ phải ở ngoài. Trong lúc tình thế đang quyết liệt, cả mấy
người cùng vào lỡ xảy ra việc gì thì làm thế nào. Hơn nữa còn mấy tiểu đoàn ở tuyến ngoài mà
chỉ huy đi cả thì không được.

Mọi người đứng yên lặng tỏ vẻ lo lắng băn khoăn, nhưng vẫn muốn được vào thăm
Liên khu I.

Hôm ấy, Bộ chỉ huy mặt trận được tin: giặc Pháp đã đánh hơi thấy ta có một khẩu pháo
37mm và một khẩu pháo 75mm ở Thủ Khối mới chuyển sang Nam Dư Thượng, Nam Dư Hạ và
chỉ huy sở của tiểu đoàn 212 cũng ở đó, chúng chuẩn bị “cất vó” quân ta. Bộ chỉ huy mặt trận cấp
tốc phổ biến tình hình cho đơn vị và bố trí kế hoạch đánh lại chúng. Tình hình vẫn không có gì
thay đổi, tướng tá Pháp mừng thầm ra lệnh: xuất quân! Ban đêm trời tối mịt mùng, 2 ca nô của
giặc chở đầy quân lặng lẽ xuôi dòng sông Hồng. Hai giờ 30 phút sáng, giữa lúc dân làng đang
ngủ say, thôn xóm mờ mờ trong đêm, 2 ca nô của địch bắt đầu nã pháo, xả súng máy vào xóm bờ
sông, rồi vội vã cập bến định cho quân đổ bộ lên bờ cướp không 2 khẩu pháo của ta. Nhưng “vỏ
quít dày gặp móng tay nhọn”. Một trung đội bộ binh của ta đã đào sẵn giao thông hào, chiến hào,
bố trí sẵn súng máy, suốt đêm thao thức chờ đợi, trừng trị cho quân ăn cướp một đòn đích đáng.
Các chiến sĩ vẫn bình tĩnh im lặng làm như trên bờ không có người. Ca nô của địch lừ lừ vào sát
bờ, đột nhiên súng máy của ta nhả đạn như trút vào đầu giặc. Quân địch nhốn nháo, đứa nhảy
xuống sông, đứa chết, đứa bị thương, kêu la inh ỏi trong chiếc “quan tài” nổi dập dềnh dưới mặt
sông rồi chìm nghỉm. Chiếc ca nô khác vội vã rút chạy. Tuy nhiên, tướng tá Pháp vẫn còn hy
vọng ở cánh quân tiến theo bờ đê với nhiều thủ đoạn nham hiểm may ra có thể “làm ăn” được
chăng? Bọn thực dân xâm lược cáo già ngoài lối đánh ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí chúng còn
dùng những mưu gian chước quỷ để đối phó với ta. Chúng cho một số Việt gian và thổ phỉ mặc
quần áo giả làm chiến sĩ Vệ quốc quân đem súng máy vào làng Nam Dư Thượng bố trí sẵn. Quân
ta không biết, vì trước đó hơn 1 giờ ta cũng có một bộ phận đánh ca nô địch ở bờ sông rút về.
Trời sáng, địch xung phong vào Nam Dư Thượng. Quân ta đang tập trung ngăn chặn địch ở phía
trước, đột nhiên có súng máy bắn vào sau lưng. Biết ngay là giặc, quân ta bình tĩnh đợi chúng tới
gần, lập tức nhảy lên đánh giáp lá cà. Tiếng thét của chiến sĩ ta vang khắp xóm làng. Bọn địch
khiếp sợ. Sau 1 giờ vật lộn quyết liệt với giặc, hơn 20 tên địch bị diệt, bên ta hơn 10 chiến sĩ bị
thương vong. Quân địch phải dãn ra. Ta phá vòng vây rút về Yên Duyên. Xe tăng, bộ binh địch
đuổi theo, tiếp tục tấn công xuống Nam Dư Hạ. Chúng vừa bắn vừa tiến. Một vài chiến sĩ ta đã bị
thương nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, đợi xe tăng địch đến gần, bất ngờ các chiến sĩ pháo binh
ngắm qua nòng pháo bắn đổ một xe tăng địch. Súng máy của ta quét ngang sườn. Bọn địch nằm
lại bắn lung tung, thu dọn xác chết rồi lục tục rút lui về Vĩnh Tuy mang theo hơn 30 tên vừa chết
vừa bị thương. Thật là kẻ cướp có đi mà không về! Rất tiếc là đơn vị này không có bom mìn chôn
trên đê phá hủy xe tăng địch vì đường đê cao và chật hẹp, một chiếc xe đổ là cả đoàn xe phải
dừng lại.

Để mừng một tháng kháng chiến thắng lợi của quân dân Thủ đô, phía tây bắc Hà Nội
pháo binh của ta lập thêm một chiến công mới. Sau một đêm lặn lội, các pháo thủ cùng anh em
dân quân đã khiêng, vác khẩu pháo 75mm vượt sông Hồng sang bố trí ở địa phận Nghi Tàm.
Khoảng 2 giờ chiều ngày 19 tháng 1, khẩu pháo “ẩn hiện, bất ngờ” ấy nổ hơn 20 phát đạn vào
Trường Bưởi. Trận tập kích táo bạo bằng hoả lực giữa ban ngày đã làm cho giặc Pháp bị thiệt hại
nặng và thêm một mối lo sợ mới.

Ban đêm, trong và ngoài Hà Nội tiếng súng lại nổ ran. Có nơi chỉ có một, hai chiến sĩ
bỏ pháo vào thùng sắt rồi đốt rải rác suốt đêm. Địch cho là ta nghi binh quấy rối. Chúng ngủ yên
không buồn bắn trả lại. Các chiến sĩ bí mật bò lọt vào giữa vị trí giặc ném lựu đạn, tẩm ét-xăng
vào chăn đốt cháy vị trí rồi rút lui. Ở nội thành, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên đỉnh Tháp Rùa
và trên nóc nhà một số vị trí của địch ở Hàng Gai, Hàng Trống. Ở ngoại thành, cờ đỏ phấp phới
trên ngọn tre, thành cầu, ụ đất chướng ngại vật. Cả Hà Nội tưng bừng kỷ niệm một tháng kháng
chiến thắng lợi.

Hôm ấy, đồng chí Nguyễn Văn Trân và Trần Độ cùng các đoàn uý lạo binh sĩ đem quà
bánh đi các đơn vị thăm hỏi bộ đội và thương binh. Tới Văn Điển, Trần Độ gặp một thương binh
cụt một chân và hai tay. Chiến sĩ ấy vẫn tươi cười hồn nhiên kể lại:

- Anh ạ, lúc ấy một quả moóc-chi-ê rơi trúng vào tổ chúng tôi. Một cậu hy sinh ngay.
Còn tôi mê đi, tưởng chết... Nhưng cũng may... chỉ cụt thôi.

Cũng thời gian này có một cô gái trẻ tuổi ở Hà Nội xung phong vào Vệ quốc đoàn làm
cứu thương. Ngày ngày cô săn sóc đồng chí thương binh này. Năm tháng tận tuỵ chăm lo sức
khoẻ cho người thanh niên đầy tinh thần hy sinh cao cả, dần dần cô cảm thương, rồi cô yêu mến
sâu sắc... Đầu năm 1948, Trần Độ tới thăm Trường lục quân Trần Quốc Tuấn ở Việt Bắc, qua một
nơi hẻo lánh thuộc tỉnh Thái Nguyên thì vô cùng đột ngột được gặp lại 2 người bạn chiến đấu,
anh thương binh cụt ở Văn Điển và người nữ cứu thương Hà Nội năm xưa. Hai người cùng công
tác ở hậu phương và đã sinh được một cháu chừng một tuổi.

Ngày hôm sau, giặc Pháp huy động trên một ngàn quân cùng hàng trăm xe cơ giới có
máy bay, pháo binh yểm hộ, tiến công về phía tây Hà Nội. Rút kinh nghiệm những trận chiến đấu
trước, lần này quân và dân Hà Nội đã chiến đấu vô cùng kiên cường ở khu vực nhà Bơ-ri-gát Mô-
bin(10), làng Ngọc Khánh nhỏ bé, đánh bật các đợt xung phong của địch, cuối cùng lại khéo léo rút
đi nơi khác. Hàng trăm tên giặc xông lên không tìm thấy một chiến sĩ của ta. Đến nỗi chúng phải
kêu lên: “Ôi! Ma Việt Minh”. Ở Cầu Giấy, giặc Pháp bị đánh hỏng một xe tăng, hơn một chục tên
bị diệt. Hơn một trăm tên giặc từ Ngã Tư Sở dẫn thân vào giữa ổ phục kích của một trung đội Vệ
quốc quân ở Hoà Mục, bị tiêu diệt gần hết. Các pháo thủ pháo đài Láng đã dùng lựu đạn, súng
trường chống cự với quân giặc gần một ngày để bảo vệ pháo. Pháo binh của ta ở Xuân Tảo đã anh
dũng hạ thấp nòng pháo bắn tạt sườn bộ binh địch.

Hàng ngàn tên giặc tấn công hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực ta. Nhưng ngược lại, chúng
đã bị tiêu diệt hàng trăm tên, 2 xe tăng bị hỏng, 2 xe gíp bị phá hủy. Bên ta hy sinh 15 chiến sĩ, bị
thương 21. Giặc Pháp đã tập trung ưu thế tuyệt đối hơn ta về bộ binh, xe tăng và máy bay nhưng
vẫn không tiêu diệt nổi quân ta. Mỗi vị trí phòng ngự của ta, giặc Pháp đều từ ba, bốn mặt đánh
lại. Có nơi chúng tập trung quân nhiều hơn ta gấp 8 lần, nhưng cũng đều bị chặn lại từ 8 đến 12
tiếng đồng hồ. Đến khi quân giặc xung phong được vào làng thì ở đó chỉ còn “vườn không, nhà
trống”. Quân ta đã luồn đi nơi khác từ lâu để bảo toàn chủ lực, để chuẩn bị trận chiến đấu mới.
Thật là một cách đánh tuyệt vời và kỳ lạ! Tiêu hao lực lượng địch và bảo toàn lực lượng mình để
chiến thắng. Nhưng ta vẫn còn một nhược điểm quan trọng là trừ mấy chai ét-xăng cơ-rếp và một
ít lựu đạn ra, ta hoàn toàn không có một thứ vũ khí gì khác để chống xe tăng địch. Đường cái lớn
và cánh đồng khô mênh mông liên tiếp, ụ đất và hào chống tăng giảm tác dụng. Tình hình thực tế
lúc đó lại không cho phép chúng ta tập trung lực lượng về một hướng và cũng khó có khả năng
chặn đứng địch lại, bẻ gãy hoàn toàn cuộc tấn công của chúng. Cho nên tư tưởng chỉ đạo của ta
vẫn là “tránh mạnh, đánh yếu” phòng ngự ngăn chặn địch từng bước, tiêu hao địch, bảo toàn
mình, vừa đánh vừa xây dựng lực lượng để kháng chiến lâu dài, giành thắng lợi cuối cùng cho
công cuộc kháng chiến cứu nước chống thực dân xâm lược.

Sau đợt tấn công này của địch, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy mặt trận cùng nhất trí
nhận định rằng: chắc chắn địch sẽ tiếp tục tập trung lực lượng tấn công đánh chiếm Nhật Tân để
hoàn thành chiếm đóng con đường vòng cung ngoại thành Hà Nội, kiểm soát toàn bộ các ngã tư,
các cửa ngõ của Hà Nội. Sau đó chúng sẽ tập trung quân tiêu diệt ta ở Liên khu I. Tình hình chiến
đấu ở Liên khu I sẽ trở nên vô cùng ác liệt.

Đêm 20 tháng 1, một đêm trời tối mờ mờ... Gió rét căm căm... Đồng chí Trần Quốc
Hoàn, Lê Quang Đạo và Việt Hùng đi theo ven sông phía Phúc Xá, qua gầm cầu Long Biên vào
thăm Liên khu I. Đồng chí Hoàn nói chuyện tình hình mặt trận bên ngoài, phân tích tình hình sắp
tới với các cán bộ và chiến sĩ. Đồng chí thăm thương binh ở phố Hàng Buồm, Hàng Đường. Đêm
hôm đó, đồng chí được trực tiếp nghe tiếng súng phối hợp của Liên khu I và tiếng súng của các tổ
du kích lưu động đánh địch ở phía Nhà Tiền và Ngọc Hà. Lúc đồng chí trở ra, Trung đoàn Thủ Đô
gửi tặng Bộ chỉ huy mặt trận một chiếc đồng hồ báo thức. Khi luồn qua gầm cầu Long Biên, địch
chiếu đèn pha, bắn súng máy chẹn đường. Các đồng chí đang bò, lăn tránh đạn, đột nhiên chuông
đồng hồ kêu vang lên. Đèn pha của địch quét sáng loáng gầm cầu, ánh bạc của đồng hồ phản
chiếu loé lên. Quân địch tập trung súng máy, súng cối bắn vào phía các đồng chí. Trong giây lát
các chiến sĩ du kích dẫn đường đã khéo léo đưa các đồng chí vượt qua luồng đạn nguy hiểm, đi
vào lối an toàn. Nhưng tiếc thay, chiếc đồng hồ kỷ niệm ấy đã ở lại gầm cầu Long Biên.

Thấm thoắt Tết âm lịch đã đến!

Trải qua hơn một tháng trời thử thách, vượt gian nan thiếu thốn, chiến thắng hiểm
nghèo để chiến đấu giam chân địch, lần đầu tiên quân và dân Thủ đô Hà Nội đón xuân mới trong
không khí tưng bừng kháng chiến. Trên khắp các nẻo đường, từng tốp từng tốp, người mặc áo
nâu, người mặc áo xanh công nhân hớn hở gồng gánh bánh chưng, bánh cốm, cam quýt và nhiều
quà bánh khác ra tận chiến hào, ụ súng tặng các chiến sĩ Vệ quốc quân và dân quân tự vệ. Hàng
trăm lá thư chúc Tết của các đoàn thể chính quyền gửi ra động viên tiền tuyến. Đội du kích Hồng
Hà, những anh chị em công nhân, nông dân ở các làng Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng và Phúc
Xá lại sửa soạn ra đi. Đêm 30 Tết, trời tối mịt mùng, gió rét thấu xương. Những anh chị em công
nhân, nông dân kiên cường ấy lặng lẽ đi ven theo bờ sông Hồng, vượt qua gầm cầu Long Biên,
chuyển quà và thư của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ chỉ huy mặt trận và của đồng bào xung quanh Hà Nội
vào Liên khu I. Bất ngờ, đội du kích vấp phải hàng rào dây thép gai chắn ngang. Tiếng ống bơ
kêu loảng xoảng. Bầy chó xích ở gầm cầu sủa rống lên từng hồi. Địch rọi đèn pha loang loáng
trên mặt sông, trên bãi cát. Chỗ nào có một gợn chấm đen, địch nổ vào đó hàng thúng đạn. Nhưng
các chiến sĩ du kích đã khôn khéo bò lẩn tránh luồng đạn của địch và đến khi họ đã đi khá xa rồi,
mà phía gầm cầu Long Biên vẫn nổ ran tiếng súng. Đón giao thừa, chúc mừng năm mới, đêm 30
rạng ngày 1 Tết, các đơn vị trong Liên khu I cũng như các đơn vị bám sát vòng quanh Hà Nội đều
biệt kích, tập kích, quấy rối đốt phá kho tàng, vị trí của giặc. Tiếng súng, tiếng pháo rền vang
khắp bầu trời Hà Nội. Cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên đỉnh Tháp Rùa, giữa hồ Hoàn Kiếm. Hà
Nội lại một đêm không ngủ. Đồng bào, chiến sĩ chuyện trò ấm cúng trong gia đình kháng chiến:
chuyện Tết chiến thắng oanh liệt của Quang Trung từ ngót hai trăm năm về trước, ngày nay gò
Đống Đa còn ghi dấu anh hùng, tô điểm cho Hà Nội càng thêm rạng rỡ; chuyện chiến thắng vĩ đại
Xta-lin-gtát của quân đội Xô-viết trong đại chiến thứ hai; chuyện vạn lý trường chinh vĩ đại của
Quân giải phóng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đứng đầu là Mao Chủ tịch;
chuyện tết của các chiến sĩ cộng sản ở trong nhà tù Hoả Lò - Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo rồi đến
chuyện gia đình, chuyện ước mơ về tương lai nước nhà độc lập cuộc đời ngày càng ấm no hạnh
phúc... Các chị tiếp tế, cứu thương thức suốt đêm làm bánh, làm mứt, viết thiếp chúc Tết, làm
những chiếc hoa bằng lụa, chuẩn bị liên hoan và làm quà tặng các chiến sĩ. Các chị không quên
dành riêng những tấm bánh thơm ngon, những bông hoa tươi đẹp cho những chiến sĩ có nhiều
chiến công oanh liệt và cho người thân yêu nhất.

Sáng ngày mồng 1 Tết Nguyên đán, ở các căn nhà sụp đổ, trong hầm hố, chiến hào,
các chiến sĩ đã trang hoàng xong bàn thờ Tổ quốc, một lá cờ đỏ sao vàng nho nhỏ và bức chân
dung Hồ Chủ tịch. Ngoài ra họ không quên đốt thêm đèn nến trang nghiêm, hương trầm thơm
ngát cho đượm không khí gia đình. Đó là cái Tết đầu tiên của cuộc kháng chiến lâu dài, và cũng
là lần đầu tiên trong cuộc đời các chiến sĩ ăn Tết ngay nơi tiền tuyến, xa gia đình, xa người thân
thích nên họ không khỏi nhớ thương gia đình ruột thịt đang phải tản cư ở những nơi xa xôi nào
đó. Nhưng cũng lần đầu tiên họ được hưởng cái không khí đầm ấm, đùm bọc lẫn nhau của những
người đồng chí ra đi chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc. Chính trong giờ phút đầm ấm và thiêng
liêng nhất ấy trên chiến địa, các chiến sĩ quây quần bên nhau lắng nghe thư của Bác:

“Cùng các chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô yêu quý. Các em ăn Tết thế nào? Vui vẻ lắm
chứ? Tôi và nhân viên Chính phỉ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết. Còn 90
phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết
kiệm để dự bị công cuộc trường kỳ kháng chiến.

Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu
cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã
kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất
diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau.

Chí kiên quyết dũng cảm, các em đã sẵn có, đây tôi chỉ nhắc lại một vài điều mà các
em phải nhớ luôn luôn:
1. Phải hết sức khôn khéo, nhanh chóng, bí mật, phải biết hoá chỉnh vi linh.

2. Phải rút kinh nghiệm hàng ngày, hàng giờ. Phải đề phòng Việt gian, trinh thám.

3. Phải hết sức cẩn thận. Phải luôn luôn có sáng kiến để lợi dụng thời cơ.

4. Tuyệt đối đoàn kết.

Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào
luôn luôn ở bên cạnh các em.

Tôi thay mặt Chính phủ và đồng bào gửi các em lời chào thân ái và quyết thắng.

HỒ CHÍ MINH”

Nghe thư Bác, các chiến sĩ cảm động sung sướng nhớ từng lời, từng chữ ân cần âu
yếm của cha già đối với các con, của vị lãnh tụ lão thành cách mạng đối với các chiến sĩ. Khí thế
chiến đấu bừng bừng ở các đơn vị.

Tối mồng 1 Tết Đinh Hợi, Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ Đô tổ chức một bữa tiệc long
trọng, địa điểm tại một nhà ở phố Hàng Chiếu, có mời lãnh sự Anh, Mỹ, Trung Hoa và các đại
biểu ngoại kiều tới dự với mục đích bóc trần luận điệu bịp bợm huênh hoang của giặc Pháp là
Việt Minh ở Hà Nội đang lâm nguy khốn quẫn, chúng đã làm chủ tình thế ở Hà Nội v.v... Trong
phòng tiệc, khăn trải bàn trắng xoá. Trên tường có trang hoàng những băng khẩu hiệu vải đỏ, chữ
vàng ánh bằng giấy trang kim. Chính giữa có treo bức chân dung Hồ Chủ tịch. Trong bữa tiệc,
đồng chí Bùi Nguyên Cát, thay mặt các cấp chỉ huy của Liên khu I, đứng lên nói:

- Việc cầm súng kháng chiến của nhân dân và quân đội chúng tôi là chính nghĩa và
chúng tôi nhất định sẽ được sự ủng hộ của nhân dân Pháp cũng như nhân dân thế giới. Chúng tôi
quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Cuối cùng đồng chí chúc mừng sức khoẻ của các lãnh sự Anh, Mỹ và Trung Hoa nhân
dịp năm mới.

Bữa tiệc hôm ấy đã làm cho các đại biểu nước ngoài không khỏi ngạc nhiên và khâm
phục. Viên lãnh sự Mỹ đã phải thốt lên với một giọng xiểm nịnh: “Kiên trì! Kiên trì! Các ông sẽ
là người chiến thắng”.

Viên lãnh sự Anh, lãnh sự Trung Hoa (11) tỏ lời cảm ơn Trung đoàn Thủ Đô đã bảo vệ và
giúp đỡ ngoại kiều. Lãnh sự Anh nói: “Thế giới sẽ biết đến sự tôn trọng luật pháp của nước Việt
Nam”.
Các đại biểu đều thấy Liên khu I không chết đói dần mòn như giặc Pháp xuyên tạc,
ngược lại các chiến sĩ Thủ đô đã hiên ngang với bộ quân phục kháng chiến trên mũ có đính phù
hiệu.

Các chiến sĩ Thủ đô đã nói lên những lời đanh thép bằng những chiến công vẻ vang và
đã lớn lên không ngừng trong khói lửa. Trung đoàn Thủ Đô còn ở trung tâm Hà Nội thì giặc Pháp
còn lúng túng, chưa thể rảnh tay đánh ra hậu phương ta được.

Bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm vò đầu bóp trán, tìm mọi mưu
kế hòng tiêu diệt Trung đoàn Thủ Đô. Muốn vậy, trước tiên chúng sẽ tiến đánh Nhật Tân, Nhật
Tảo ở ngoại thành về phía tây bắc Hà Nội, vừa để chiếm nốt con đường vòng cung, vừa để phá vỡ
và chiếm đóng căn cứ xuất phát tiếp tế mọi mặt cho Trung đoàn Thủ Đô ở trong Liên khu I.

Nắm chắc được âm mưu của địch, Bộ chỉ huy ra lệnh cho các đơn vị ở phía tây bắc Hà
Nội bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Những đơn vị đóng lẻ đề phòng địch bao vây. Đồng thời
Bộ chỉ huy cũng ra lệnh cho trung đội pháo binh 75mm ở Ba Đê vượt sông Đuống bí mật tiến về
phía đông Hà Nội, dùng hoả lực bất ngờ tập kích sân bay Gia Lâm đỡ đòn cho hướng tây bắc và
cũng là để giáng một đòn bất ngờ vào nơi địch chủ quan sơ hở.

Suốt ngày 25 tháng 1, ở phía tây bắc Hà Nội đã diễn ra những trận đánh quyết liệt.
Nhưng rất đáng tiếc là trước đó tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 145 đã không nghiêm chỉnh chấp hành
mệnh lệnh rút quân ở Tứ Tổng ra bố trí ở Nhật Tân, nên đơn vị đó đã bị tổn thất nặng. Tiểu đoàn
trưởng đã bị Bộ chỉ huy mặt trận thi hành kỷ luật. Tuy nhiên, các chiến sĩ ở Tứ Tổng đã chiến đấu
rất anh dũng giành giật với địch từng bờ ao, gốc chuối, tiêu diệt gần 40 tên địch rồi ban đêm vượt
Hồ Tây về khu vực Cáo Đỉnh. Đơn vị ở Xuân Tảo đã dùng thuật “chuyển thoái vi công” rút lui
cho địch đuổi theo, đơn vị khác ở Khu Đông đã lao ra đánh tạt sườn, một bộ phận ở Cao Đỉnh
đánh thẳng xuống. Hai mặt phối hợp phản kích dồn dập tiêu diệt trên 30 tên địch. Bên ta hy sinh
2, bị thương 5. Cuộc chiến đấu tiếp diễn nhiều nơi khác xung quanh khu vực Nhật Tân.

Phía Gia Lâm, khoảng hơn 4 giờ chiều trung đội pháo binh của ta đã bố trí chiếm lĩnh
xong trận địa bắn, cách sân bay của địch chừng 400 thước. Vừa lúc đó 2 chiếc máy bay khu trục
kiểu “xpít-phai” vừa đi oanh tạc về, lần lượt hạ cánh xuống đường băng. Pháo binh của ta nhằm
thẳng vào con quạ sắt hung ác đó, bắn 8 phát liền, chiếc thứ nhất bốc cháy. Ta quay súng bắn tiếp
chiếc thứ hai. Sau 10 phát đạn nữa, chiếc thứ hai cũng gục xuống thảm hại. Khói đen ùn ùn bốc
lên. Trận đánh Trường bay Gia Lâm, một trận đánh tiếp cận táo bạo bằng pháo binh của quân đội
cách mạng đã làm cho giặc Pháp phải khiếp sợ. Đối với chúng, cả Hà Nội không ở đâu có thể nói
là yên ổn hoàn toàn.
Tiến đánh Nhật Tân, giặc Pháp đã huy động lực lượng nhiều hơn ta gấp bốn lần, nhưng
chúng đã bị tiêu diệt gần một phần ba. Quân ta lại trưởng thành dày dạn thêm một bước.

Từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 25 tháng 1 năm 1947, qua 12 ngày chuẩn bị và tấn công,
giặc Pháp tiến thêm từ một đến hai cây số chiều sâu, chiếm con đường vòng cung ngoại thành.
Chúng đã bị tiêu diệt hàng trăm tên, bị phá hủy và làm hư hỏng 5 xe tăng, 3 ô tô vận tải, 2 xe gíp
và bị đánh đắm 1 ca nô. Trong Liên khu I, hàng chục lô cốt nhà cửa của địch bị sụp đổ, hàng trăm
tên địch bị tiêu diệt, cả thảy 5 máy bay của địch đã bị ta bắn hỏng. Hà Nội anh dũng kháng chiến
được 1 tháng 6 ngày.

Ngày 26 tháng 1, Đảng ủy mặt trận họp để nghe phổ biến nhận định tình hình của Bộ
Tổng chỉ huy. Sau đó Đảng ủy mặt trận họp phân tích thêm:

1. Địch sẽ củng cố vòng đai ngoại thành bảo vệ cho Hà Nội.

2. Tập trung lực lượng tiêu diệt quân dân ta ở Liên khu I.

3. Mở đường tấn công về phía nam, phối hợp với đường thủy từ Hải Phòng tới giải vây
cho bọn ở Nam Định.

Bộ Tổng chỉ huy còn phổ biến tình hình phối hợp của các chiến trường trên toàn quốc.
Đặc biệt ở Bắc Bộ quân ta hoạt động mạnh ở Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, siết chặt vòng
vây ở Nam Định... cũng là thiết thực chi viện cho nhiệm vụ tiếp tục giam chân địch ở Hà Nội một
thời gian nữa.

Dư luận của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới liên tiếp lên tiếng ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản đối giặc Pháp khủng bố tàn sát một dân tộc chỉ
muốn hoà bình, độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản Pháp đấu tranh với chính phủ phản động Pháp
đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu ở Đông Dương, vận động binh lính, thanh niên
Pháp đòi hồi hương và không đi lính để chúng không tăng cường được quân số sang Việt Nam,
vận động giai cấp công nhân không vận chuyển đạn dược sang Việt Nam. Các báo chí tiến bộ trên
thế giới cũng lên án “những kẻ sát nhân đã gây ra ở Đông Dương một đám cháy, nó có thể lan
rộng ra khắp các đất đai hải ngoại thuộc Pháp” (báo Franc-Tireur) và bình luận: “Sự xung đột
Việt - Pháp chứng tỏ một dự định xâm lược của bọn đế quốc ăn khớp với bọn phát xít còn sống
sót để lập lại độc quyền về sự bóc lột thuộc địa... Dân tộc Việt Nam tranh đấu để chống lại sự
xâm lược mới của đế quốc, ngăn cản những sự phá hoại của bọn thù nghịch chế độ dân chủ” (một
tờ báo Trung Hoa thời đó). Ngoài ra một số báo chí của ta còn đăng lời phát biểu của ông Gin-
nan, Chủ tịch liên đoàn Hồi giáo có bày tỏ thiện cảm của nhân dân Ấn Độ với cuộc tranh đấu của
dân tộc Việt Nam. Ông nói: “Tôi cầu chúc các bạn thực hiện được nguyện vọng của các bạn và
giành được tự do”.

Rõ ràng ngọn cờ đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam ngày càng được giương
cao, càng được dư luận tiến bộ trên thế giới ủng hộ... Niềm tin sắt đá của quân dân Thủ đô Hà
Nội càng được củng cố. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về dân tộc Việt Nam.

Để quán triệt nghị quyết của Đảng ủy, chuyển biến tư tưởng cho cán bộ và chiến sĩ,
ngay sau đó Bộ chỉ huy mặt trận phổ biến kế hoạch tác chiến tới các đơn vị (12). Một kế hoạch có
nhiều bước tiến mới về tổ chức và tư tưởng chiến thuật. Tiếp đến ngày 29 tháng 1, Bộ chỉ huy ra
lệnh cho tiểu đoàn 523 đưa một tổ quyết tử lên giữ Nhà thờ Giáp Bát và chuẩn bị đánh lại cuộc
tấn công mới của địch. Ngày 2 tháng 1 năm 1947 giặc Pháp tấn công xuống Nam Dư Hạ, Khuyến
Lương bị diệt 15 tên. Cánh quân tiến xuống Giáp Bát, Giáp Tứ bị diệt 49 tên. Cuộc tấn công hoàn
toàn thất bại, giặc Pháp phải trở về vị trí cũ. Giặc Pháp chiếm thêm một thước đất Hà Nội, thêm
một tên phải bỏ mạng. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã kháng chiến giam chân địch hơn một tháng
trời tiêu diệt hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới các loại.

Sự huênh hoang khoác lác của bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội đã thất
bại nặng nề và thảm hại. Từ kế hoạch 24 tiếng đồng hồ chiếm xong Hà Nội đến một tuần lễ chiếm
xong Hà Nội hoặc chiếm Hà Nội dễ như trở bàn tay. Nhưng nay đã trên 1.000 giờ, Hà Nội vẫn
nắm chắc tay súng chĩa thẳng vào mặt quân thù, tự hào và anh dũng. Liên khu I vẫn giương cao
ngọn cờ chiến thắng trong trung tâm Thủ đô Hà Nội. Tướng tá Pháp ở Hà Nội càng thêm cay cú
và tràn ngập lo âu. Chúng bắt đầu tập trung quân chuẩn bị những đợt tấn công quy mô lớn để tiêu
diệt lực lượng ta ở Liên khu I. Chúng tung Việt gian, thổ phỉ lẩn vào dân chúng ở các phố để điều
tra phá hoại. Máy bay, pháo binh, súng cối của chúng trút hàng tấn bom đạn xuống các chiến hào,
ụ đất, trận địa của Liên khu I. Trung tâm Hà Nội ngày đêm khói lửa mịt mùng. Bộ chỉ huy Pháp
vẫn “chứng nào tật ấy” huênh hoang tuyên bố: “Việt Minh ở Hà Nội đang lâm vào vòng khốn
quẫn, việc đánh chiếm tiêu diệt Việt Minh ở thành phố Hà Nội chỉ còn tính ngày tính giờ”(!).

Nhưng không, quân và dân Liên khu I sẵn sàng đánh lại quân xâm lược những đòn
quyết liệt. Quân và dân Hà Nội sẵn sàng tiếp tục viết nên những trang sử vẻ vang và oanh liệt của
Thủ đô anh hùng.

Những chiến công kỳ diệu!

Một chấm đỏ rực rỡ nổi lên chính giữa màu xanh hoen ố và quái gở. Đó là Liên khu I
anh dũng và kiên cường chiến đấu trong lòng địch. Trước tấm bản đồ Hà Nội trải phẳng phiu trên
mặt bàn, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp chăm chú và cẩn thận vẽ thêm những nét mới,
rồi phân tích về những dự kiến tình hình sắp tới sẽ diễn ra trong trung tâm Hà Nội. Trước tiên
chúng có thể đánh chiếm nhà Xô-va (13) (Sauvage) và Trường Ke (14) (Quai) là hai vị trí của ta ở
phía đông Liên khu I. Nếu Nhật Tân, Nhật Tảo là căn cứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế,
thì nhà Xô-va và Trường Ke là vị trí bảo vệ cửa ngõ của Trung đoàn Thủ Đô. Chiếm được hai vị
trí này, giặc Pháp sẽ hoàn toàn khép chặt vòng vây đối với Liên khu I. Sau đó chúng sẽ tập trung
lực lượng tấn công chia cắt Liên khu I ra từng mảng nhằm tiêu diệt toàn bộ Trung đoàn Thủ Đô,
thẳng tay đàn áp đồng bào ta ở trong đó. Thật là nham hiểm và ngông cuồng. Chúng hí hửng tin
rằng sẽ làm được như thế. Trung đoàn Thủ Đô ở Liên khu I sẽ không còn một chỗ nào dựa lưng
để chống cự và tất nhiên sẽ không thể có một người lọt ra ngoài vòng vây dày đặc. Tiêu diệt quân
chủ lực của ta, đó là một ước vọng mà từ khi nổ súng gây chiến ở Thủ đô Hà Nội đến nay, bộ chỉ
huy quân đội xâm lược Pháp vẫn chưa mảy may đạt được.

Từ trước, đã nhiều lần quân địch thập thò tấn công nhà Xô-va. Nhưng mỗi lần pháo
binh, súng cối bắn phá, xe tăng dẫn bộ binh từ nhà Bác Cổ lên đều bị bộ đội và tự vệ của ta ở phố
Trần Quang Khải chặn đánh. Nhà Xô-va cao hai tầng, đường Trần Quang Khải chạy qua trước
mặt. Phía trước có con đê nhỏ và thấp, và từ đê trũng hẳn xuống ra giáp sông Hồng. Địa thế dàn
quân để tấn công rất hạn chế. Lợi dụng thế có lợi, các chiến sĩ Thủ đô đã giữ vững nhà Xô-va hơn
một tháng trời, đánh lui hàng chục lần tấn công của giặc Pháp. Nhà Xô-va gạch ngói tung toé,
tường cửa đổ nát. Các chiến sĩ vun đắp lại thành những ụ súng, bờ hào để chiến đấu phòng thủ.

Đêm ngày 5 tháng 2 năm 1947, hai tiểu đội Vệ quốc quân ở nhà Xô-va và một tiểu đội
ở Nha Thuế quan (ở sát nách bên phải nhà Xô-va) đi quấy rối địch ở nhà máy nước đá, Nha Giao
thông công chính, nhà Bác Cổ gần sáng mới về. Các chiến sĩ mệt mỏi ngủ li bì nhưng đồng chí
trung đội trưởng vẫn còn thao thức. Anh nghe thấy tiếng động cơ xe tăng địch tiến dần về phía
quân ta. Địch tấn công! Trung đội trưởng phán đoán cả quyết như vậy, lập tức hô các chiến sĩ
vùng dậy tiến vào vị trí chiến đấu. Vừa lúc đó đạn pháo binh, súng cối của địch dồn dập bắn tới.
Chúng kiềm chế nhà Xô-va, tập trung 10 xe tăng, xe bọc sắt tấn công Nha Thuế quan bên cạnh.
Các chiến sĩ bình tĩnh đợi địch đến gần, đột nhiên nổ súng. Mấy tên hùng hổ đi trước chết gục,
bọn còn lại quay đầu chạy trở ra. Sau một giờ chiến đấu, quân địch cho một toán đánh vào sườn
Nha Thuế quan. Súng ở xe tăng bắn dữ đội vào ụ súng của ta. Tiểu đội ta ở đấy rút về tập trung cố
thủ nhà Xô-va. Địch chiếm Nha Thuế quan làm bàn đạp từ ba mặt tấn công tới. Nhà Xô-va khói
lửa mù mịt. Giặc Pháp ào ạt xung phong tưởng chừng như sẽ chiếm được vị trí của quân ta trong
phút chốc. Nhưng chúng gần tới ria tường, lựu đạn từ nhà Xô-va ném ra tới tấp. Tiểu liên, súng
trường, súng máy bắn xả vào bộ binh địch. Những con quỷ độc kêu la ầm ĩ, bọn sống sót chạy toé
ra ngoài nằm bắn trả lại. Suốt 2 tiếng đồng hồ và sau 4 lần xung phong, quân địch mới đặt chân
được tới tầng dưới của nhà Xô-va. Ta rút lên gác dùng lựu đạn ném xuống. Giặc Pháp bắn mạnh
vào cửa cầu thang yểm hộ cho đồng bọn lò mò leo lên. Nhưng tên nào thò lên, tên ấy bị bắn chết
lăn lông lốc trở xuống. Chúng phun ét-xăng đốt cháy cầu thang, hòng bức quân ta đầu hàng. Lửa
cháy bùng bùng, khói đen toả cuồn cuộn mù mịt. Nhân lúc ấy, một chiến sĩ nhảy từ trên tầng gác
xuống đống gạch đổ tung toé ở phía sau, chạy về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn xin tiếp viện.
Ngay sau đó, đồng chí tiểu đoàn phó tiểu đoàn 103 (15) chỉ huy một trung đội quyết tử luồn theo
đường hầm qua phố Phan Thanh Giản đánh thốc vào sau lưng địch và cho một bộ phận ra phố
Hàng Tre chặn đường rút lui của chúng. Bị đánh bất ngờ, giặc Pháp hoảng hốt tháo chạy, xéo bừa
cả lên xác những tên chết và tên bị thương. Thừa thắng, quân ta xông ra ném lựu đạn, chai cháy
phá hủy xe tăng, xe thiết giáp của địch. Trời vừa xẩm tối, chúng đã rút xa, để lại trên trận địa 25
xác chết... Từ đó, pháo binh của địch thỉnh thoảng lại bất ngờ hằn học đổ đạn vào nhà Xô-va.

Ngay đêm hôm ấy, đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp gửi lời khen ngợi tới đơn
vị phòng thủ nhà Xô-va và các chiến sĩ Thủ đô anh dũng chiến đấu trong lòng địch.

Bị thất bại trong trận đánh nhà Xô-va, ngày 7 tháng 2 năm 1947, địch tập trung quân
đánh chiếm Trường Ke. Chúng dùng xe tăng bịt các ngả đường chặn quân tiếp viện của ta. Em
Lai 12 tuổi làm liên lạc đã leo theo ống máng xuống đường về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn.
Lúc trở về, quân giặc vây bắt em. Nhưng em Lai đã ném lựu đạn chết 3 tên, rồi nhanh như con
sóc, em lần vào các căn nhà sụp đổ, leo theo ống máng trở về đơn vị. Trận này địch xung phong 8
lần đều bị đánh lui.

Trong những ngày ở nhà Xô-va và Trường Ke, ta và địch đang đánh nhau dữ đội thì ở
phía tây nam Liên khu I máy bay của địch giội bom tàn phá phố Hàng Thiếc, và chúng cho quân
từ Cửa Đông tiến ra phố Hàng Nón đánh ngược lên nhưng đều thất bại. Ngày 9 tháng 2, giặc
Pháp dùng badôca, lựu đạn hoả mù, ét-xăng bắn phá tiêu hủy từng toà nhà. Gạch ngói, xà ngang
đổ lấp cả ụ súng, tường hào bị vỡ tung từng mảng. Các chiến sĩ tiểu đoàn 102 đã kiên cường giữ
từng góc phố, từng căn nhà. Giặc Pháp 7 lần xông lên và 7 lần phải lùi trở lại. Đồng chí Minh là
công an mới chuyển vào Trung đoàn Thủ Đô, lúc chiến đấu, bị khói lựu đạn địch làm mờ mắt,
không nhìn thấy gì, nhưng đồng chí vẫn ở nguyên vị trí hướng về phía địch, lắng nghe thấy hơi có
tiếng động chỗ nào đồng chí lại bắn xả vào đó. Kẻ địch khiếp sợ tưởng là ở đó chiến sĩ ta vẫn còn
nhiều và đang chăm chú theo dõi từng bước đi của chúng. Chúng phải dừng lại không dám tiến.
Đồng chí Trần Đan, đảng viên, một mình dùng lựu đạn cản sáu, bảy đợt xung phong của địch.
Nhưng một tai nạn bất ngờ xảy ra. Giữa lúc quân địch đang xung phong, đồng chí đập kíp lựu đạn
rồi vung tay lên. Một tiếng nổ ngang đầu thì ra lựu đạn nổ ngay trên tay, đồng chí Đan bị cụt mất
bàn tay phải. Đồng chí tiếp tục dùng tay trái ném luôn quả lựu đạn khác đánh lui đợt xung phong
của địch rồi tự băng bó cho mình. Với một tay trái, người đảng viên anh dũng Trần Đan vẫn giữ
vững trận địa. Suốt 4 ngày đêm, ta và địch giành giật nhau từng thước đất chỉ cách nhau một con
đường phố nhỏ hẹp chưa đầy 20 thước. Địch phun ét-xăng, bắn đạn lửa đốt phá dãy phố bên ta.
Các chiến sĩ ta dùng chậu hứng ét-xăng. Ban đêm lẻn sang đốt phá lại dãy phố bên địch. Lửa khói
mù mịt ngày đêm. Dãy nhà số chẵn phố Hàng Thiếc, Hàng Nón sụp đổ hàng loạt. Địch đã phải bỏ
mạng gần 100 tên mà vẫn không thể nào tiến được. Trong khi đó ở phía nam, quân địch cũng bị ta
chặn đánh quyết liệt ở phố Hàng Quạt, phố Cầu Gỗ. Giặc Pháp tấn công ba hướng đều bị thất bại.
Vì chúng đã húc đầu vào những nơi mà quân ta đã chuẩn bị công sự chu đáo, hầm hố vững chắc,
có đường cơ động bên trong dãy phố. Kẻ địch không có chỗ dàn quân, không thực hiện được bao
vây, vu hồi. Xe tăng, xe bọc sắt khó hoạt động. Nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là quyết tâm
phòng thủ của quân và dân Liên khu I rất cao. Sau đó, giặc Pháp chuyển hướng. Chúng tập trung
trên 400 quân và hàng chục xe cơ giới các loại chuyển từ ba mặt bao vây tiến đánh chợ Đồng
Xuân, với ý định sau đó sẽ thọc thẳng vào trung tâm chỉ huy Liên khu I. Chợ Đồng Xuân ở phía
bắc Liên khu I, đông bắc thành phố Hà Nội. Chợ họp trong 5 nhà lớn thông suốt liền nhau, xung
quanh chỉ có chung một tường bao bọc. Ngày 11, 12, 13 tháng 2, giặc Pháp cho máy bay ném
bom bắn phá liên tiếp vào khu chợ Đồng Xuân và các phố Hàng Cót, Hàng Lược, Hàng Đường,
v.v... Giặc Pháp cho rằng cơ quan đầu não của Liên khu I có thể ở phố Hàng Bạc, Mã Mây, Hàng
Mắm, nên chúng đã trút hàng tấn bom xuống đấy. Pháo binh, súng cối của địch bắn rải rác suốt
ngày đêm. Quân địch oanh tạc trong 3 ngày liền đã làm 74 Hoa kiều bị chết và hàng chục đồng
bào ta bị tai nạn.

Đoán trước âm mưu địch, Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ Đô đã điều động về khu chợ
Đồng Xuân và xung quanh đó hai đại đội để phòng thủ. Hai tiểu đội bố trí tại chợ, hai tiểu đội sau
chợ. Phía bắc chợ, một trung đội bố trí ở phố Hàng Khoai, Hàng Rươi. Đông nam chợ, một trung
đội ở phố Chợ Gạo, v.v... Ban chỉ huy tiểu đoàn 101 và một trung đội làm dự bị đóng ở phố Hàng
Đường và phố Ngõ Gạch.

Mờ sáng ngày 14 tháng 2, máy bay của địch lại tiếp tục ném bom bắn phá, pháo binh,
súng cối của địch lại bắn liên tiếp vào chợ Đồng Xuân và các phố xung quanh. Chúng tiến ba
mặt. Một cánh quân có 5 xe tăng dẫn đầu, từ cầu Long Biên đi theo đại lộ Trần Nhật Duật đánh
vào phố Hàng Chiếu quặt từ phía đông nam lên.

Phía đông bắc, đồng chí Nguyễn Văn Bật dùng liên thanh đặt trên tầng gác cao bắn
xuyên táo giết chết hàng chục tên. Các chiến sĩ ta ở phố Hàng Khoai ném lựu đạn cản đường
xung phong của địch. Bọn địch ở đây phải tách một bộ phận đánh vòng phía sau chợ Đồng Xuân.
Xe tăng của chúng húc đổ tường dẫn quân xông vào trong chợ.
Ở phố Hàng Lược, Hàng Mã bộ binh của địch cũng bị ta bắn cản lại. Chúng cho xe
tăng tiến lên bắn uy hiếp, húc đổ tường phía trước phối hợp với toán quân phía sau đánh kẹp quân
ta trong chợ. Phía đông nam, quân địch vẫn bị cản lại ở bên đường Trần Nhật Duật. Xe tăng địch
tiến vào chợ. Quân ta không có vũ khí chống tăng liền núp vào các quầy hàng, bàn đá ở hai bên,
lừa cho xe tăng địch đi qua, đợi bộ binh địch tới, nhanh chóng xông ra đánh giáp lá cà. Phút chốc,
trong chợ diễn ra những cuộc vật lộn vô cùng ác liệt. Đồng chí Tưởng trước là công nhân sửa
chữa ô tô, với cánh tay rắn chắc của mình, với ý chí kiên cường của người công nhân, đồng chí đã
chiến đấu đến khi hết đạn rồi dùng dao thái thịt quần nhau với địch hết bàn này đến phản khác.
Đồng chí hét vang, trút căm hờn vào lưỡi dao chém xả vào từng tên địch. Chạy đến chỗ này, lao
đến chỗ khác, đồng chí đã giết chết gần một chục tên địch rồi mới chịu hy sinh. Từng tổ chiến
đấu vật lộn với giặc ở từng khu vực, từng quầy hàng. Suốt 6 tiếng đồng hồ, các chiến sĩ ở chợ
Đồng Xuân đã chiến đấu vô cùng oanh liệt. Gần chiều, giặc Pháp thúc quân tiến đánh phố Hàng
Đường, Hàng Chiếu. Đến xẩm tối, chúng vẫn bị chặn lại ở đầu phố Hàng Đường và nửa bên kia
phố Hàng Chiếu. Các chiến sĩ tiểu đoàn 101 đã tiêu diệt gần 200 tên địch. Bên ta hy sinh 12, bị
thương 4 đồng chí. Thật là một chiến công lừng lẫy làm kẻ địch phải run sợ. Khí thế chiến đấu
của các chiến sĩ Thủ đô bừng bừng sôi sục...

Suốt một tuần lễ, giặc Pháp muốn chiếm thêm một đường phố, một ngôi nhà đều phải
trả rất nhiều máu, tốn nhiều bom đạn. Xe tăng của chúng rất khó cơ động, vì thế chướng ngại vật
và chai cháy của ta càng có hiệu quả. Bộ binh địch khó dàn quân, khó phát huy hoả lực khi tiến
vào các đường phố nhỏ hẹp ở phía Liên khu I. Giặc Pháp phải chật vật mới tiến nhích thêm được
một đoạn đường. Từ ngày 6 tháng 2 đến ngày 14 tháng 2, mặc dầu địa thế chiếm giữ của Liên khu
I bị thu hẹp một phần, nhưng hàng trăm tên địch đã bị tiêu diệt. Phía bắc, địch tiến tới phố Hàng
Chiếu. Phía tây, địch chiếm được dãy nhà số chẵn phố Hàng Thiếc. Phía nam, địch chiếm được
phố Hàng Nón, Hàng Quạt. Phía đông, ca nô, tàu chiến của địch lùng sục tuần tiễu bắn phá liên
tiếp vào Phúc Tân, Phúc Xá, Cầu Đất. Máy bay của địch vẫn thay nhau giội bom xuống các phố
còn lại của Liên khu I. Pháo binh của địch tiếp tục bắn phá vào phố Hàng Bạc, Hàng Bè. Trung
tâm Hà Nội, khói lửa suốt ngày đêm ngùn ngụt bốc cháy. Phố xá đổ nát hoang tàn. Quân địch huy
động toàn bộ chủ lực chuẩn bị một đợt tấn công cuối cùng để tiêu diệt toàn bộ lực lượng ta ở Liên
khu I.

Trong thời gian trên, ở ngoại thành, giặc Pháp chỉ cho từng tốp nhỏ lẻ tẻ thọc ra thăm
dò các làng mạc xung quanh vị trí chiếm đóng. Khi bị ta chặn đánh, chúng lại rút. Nhưng phạm vi
chiến đấu của các tiểu đoàn đã xa Liên khu I và rộng hàng chục cây số nên cuộc chiến đấu ở
ngoại thành dần dần ít tác dụng phối hợp trực tiếp đối với Liên khu I. Giặc Pháp có thể tăng viện
quân từ Hải Phòng lên ngày càng nhiều. Mặt khác, ta không chủ trương tăng cường người và vũ
khí ở ngoài vào Liên khu I nữa. Nhưng ở đó, đạn dược đã gần hết, trung bình mỗi người chỉ còn
độ 20 viên, chai cháy và lựu đạn để chống xe tăng địch đã hết. Riêng về mặt lương thực thì ngày
càng gay go. Gạo, muối nếu ăn hết sức dè sẻn cũng chỉ được 5 ngày nữa. Chỉ có một vài giếng
mà hàng ngàn người ăn uống đều trông vào đó. Mặt khác, mùa đông các giếng nước cạn gần sát
đáy. Hơn một ngàn chiến sĩ sống trong các ụ súng, chiến hào, toà nhà sụp đổ, sức chiến đấu và
tinh thần chịu đựng rất cao, nhưng trong hoàn cảnh phạm vi chiếm giữ của ta thu hẹp dần lại,
cuộc chiến đấu hàng ngày hàng giờ trở nên quyết liệt, vật chất vô cùng thiếu thốn, đó là một khó
khăn lớn.

Khoảng cuối tháng 12 năm 1946, khi Hà Nội mới chiến đấu được gần hai tuần lễ, Bộ
Tổng chỉ huy có trực tiếp hỏi Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội:

“Khả năng chiến đấu của Liên khu I như thế nào? Có thể giữ được bao lâu nữa?”.

Bộ chỉ huy mặt trận báo cáo:

“Liên khu I còn sung sức, khả năng tiếp tế lương thực còn làm được. Chỉ cần tổ chức
chu đáo và chặt chẽ thì sẽ giữ được một thời gian nữa”.

Bộ Tổng chỉ huy cho biết tình hình lúc đó:

“Cơ quan chuyển ra hậu phương mới tạm ổn định, nhưng việc hậu phương huy động
mọi mặt chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài thì còn bề bộn. Nhân dân các vùng chiến sự vẫn còn
đang tấp nập tản cư, còn xao xuyến bỡ ngỡ...”. Bộ Tổng chỉ huy phân tích tình hình: “Nếu bộ đội
ở Liên khu I rút ra sớm thì giặc Pháp sẽ rảnh tay tấn công thúc ra phá vỡ vòng vây bên ngoài.
Chúng sẽ tràn về hậu phương nông thôn. Mặt trận mở rộng sớm, điều đó không có lợi cho việc
huy động lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài của ta”.

Từ ngày ấy đến nay, Liên khu I đã chiến đấu kiên cường trong lòng địch thêm được
một tháng rưỡi nữa, đã thu hút được một bộ phận lực lượng quan trọng của giặc Pháp. Bọn xâm
lược Pháp huênh hoang tuyên bố là chúng đã bao vây Liên khu I. Nhưng thực chất là Liên khu I
đã chủ động ở lại giữ được chân giặc Pháp và tiêu hao chúng, cùng với các tiểu đoàn bao vây ở
bên ngoài hình thành một thế “nội công ngoại kích” rất độc đáo.

Giặc Pháp tiếp tục đưa quân từ Hải Phòng tăng viện lên Hà Nội cũng là để tập trung
đánh phá Liên khu I rồi sau đó rảnh tay tấn công ra ngoài Hà Nội.

Tình hình của mặt trận lúc ấy đã có nhiều thay đổi, tuyến chiếm đóng của địch mở
rộng ra ngoại thành đã thu hẹp phạm vi chiếm đóng của quân ta ở Liên khu I. Súng cối 81mm của
địch từ phía này có thể bắn vượt qua Liên khu I sang phía bên kia. Bộ Tổng chỉ huy nhận định:
“Mặt trận Hà Nội đã làm tròn nhiệm vụ giam chân địch một thời gian dài để hậu phương kịp thời
huy động lực lượng, đã tiêu diệt được một số địch. Đó là thắng lợi lớn”. Được sự chuẩn y của
Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh cho Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội cho
Trung đoàn Thủ Đô rời khỏi Liên khu I về căn cứ địa hậu phương. Nhận được lệnh, Trung đoàn
Thủ Đô đánh điện ra: “Xin cố thủ”. Bộ Tổng chỉ huy phân tích thêm: “... Với tinh thần hy sinh
cao cả của các cán bộ chiến sĩ, đơn vị có thể ở lại thêm một thời gian, tiêu diệt thêm một số địch.
Nhưng xét về nhiệm vụ thu hút lực lượng địch, giữ chân địch, thì Trung đoàn Thủ Đô đã hoàn
thành vẻ vang. Nay đã đến lúc trung đoàn phải vượt ra ngoài trở về hậu phương xây dựng lực
lượng lớn mạnh hơn nữa để kháng chiến lâu dài..., rời khỏi Liên khu I được toàn vẹn lại là một
thắng lợi lớn nữa”.

Ngày 15 tháng 2, giặc Pháp huênh hoang tuyên bố. “Việt Minh ở trong thành phố Hà
Nội bị vòng vây của quân đội Pháp siết chặt. Họ chỉ đợi ngày giờ bị tiêu diệt!”.

Ngược lại, khí thế chiến đấu của các chiến sĩ trung đoàn Thủ Đô vẫn bừng bừng sôi
sục, không hề một chút lo lắng bi quan. Các chiến sĩ vẫn vui cười, ca hát, lạc quan tin tưởng vào
thắng lợi cuối cùng, tiếp tục củng cố trận địa mới, sửa sang hầm hố, chiến hào, ụ súng sẵn sàng
đánh trả cuộc tấn công cuối cùng của địch. Bài ca “Diệt phát xít” vẫn vang lên rộn rã. Lời ca của
quân đội chiến thắng, tin tưởng vào sức chiến đấu kiên cường của mình, tin tưởng sự thắng lợi
cuối cùng nhất định sẽ đến với dân tộc Việt Nam anh hùng.

Nhận được mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Đảng ủy mặt trận Hà Nội đã họp ngay để
nghiên cứu chấp hành nghiêm chỉnh. Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho đồng chí chỉ huy trưởng
Liên khu II Phùng Thế Tài điều động các đơn vị của Liên khu II tấn công vào Ô Cầu Dền và đồng
chí chỉ huy trưởng Liên khu III Lê Quân điều động các đơn vị của Liên khu III tấn công vào
Hàng Bột, Ô Cầu Giấy, Kim Mã. Các đơn vị đều quấy rối, biệt kích, tập kích nghi binh vào các vị
trí của địch ở ngoại thành để thu hút sự chú ý và đối phó của chúng ra ngoài. Mặt khác, bản thân
Liên khu I cũng đánh mạnh, giữ hoạt động bình thường. Kế hoạch này, hồi đó gọi là “cường công
mật rút”.

Chín giờ tối ngày 15 tháng 2, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 145 đã tổ chức lực lượng tiến
vào tập kích quân địch ở Đông Ngạc, Mai Dịch, Hoài Đức và tung các tổ du kích luồn vào sau
lưng địch để tăng cường quấy rối, phá hoại, buộc chúng phải chú ý bảo vệ các vị trí đột xuất ở
ngoại thành. Ngày 16 tháng 2, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh cho quân ta tiếp tục nổ súng trên toàn
mặt trận thực hiện thu hút lực lượng của địch ra các mặt trận bên ngoài để ngày hôm sau trung
đoàn Thủ Đô rời khỏi Liên khu I về căn cứ.
Lúc ấy, một khó khăn lớn đối với trung đoàn Thủ Đô là xung quanh Liên khu I, địch
đóng vị trí dày đặc thành một vòng tròn trên dưới 4 cây số. Các đường lớn, đường nhỏ, các nơi có
thể đi được đều bị ụ súng, vọng gác của địch kiểm soát phong toả. Ta dùng đường cống ngầm đi
liên lạc với ngoài được 2 lần thì bị giặc Pháp phát hiện rào kín, canh gác cẩn mật.

Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, trung đoàn Thủ Đô sẽ vượt ra khỏi vành
đai chiếm đóng của địch. Nhưng đi bằng đường nào? Tổ chức ra sao để bảo đảm đi được trên một
ngàn người đủ cả nam, phụ, lão, ấu lại có cả người ốm, người bị thương? Tất cả những khó khăn
phức tạp ấy, Đảng ủy trung đoàn Thủ Đô phải trực tiếp lãnh đạo giải quyết. Các chiến sĩ Thủ đô
sẽ phải vượt qua thử thách lớn lao này.

Sau khi được Bộ Tổng chỉ huy chuẩn y kế hoạch xuất phát theo đường giữa phố
Nguyễn Siêu và cột Đồng Hồ qua bãi Phúc Xá, vượt sông Hồng, sông Đuống về Long Tựu (Đông
Ngàn) thuộc tỉnh Phúc Yên rồi vòng trở về Sơn Tây, Bộ chỉ huy mặt trận cử cán bộ đi tổ chức
chuẩn bị mượn thuyền của nhân dân và du kích dẫn đường. Mọi việc ở trong Liên khu I và công
tác chuẩn bị ở ngoài đến trưa ngày 17 tháng 2 đều xong. Trong những ngày tình hình gay go
quyết liệt ấy, lãnh sự của Tưởng Giới Thạch đề nghị ta giúp Hoa kiều một số gạo, ngô, và ngày 18
tháng 2 ta sẽ ngừng bắn để Hoa kiều rút hết ra khỏi thành phố Hà Nội. Đây là mưu mô thâm độc
của bè lũ Quốc dân đảng phản động Tưởng Giới Thạch đã cấu kết với thực dân Pháp để dò xét
xem ta có còn lương thực để chiến đấu cố thủ một thời gian nữa không, và, khi Hoa kiều đã rút
hết ra ngoài, chúng sẽ tự do ném bom, bắn phá tấn công tiêu diệt hoàn toàn trung đoàn Thủ Đô.
Nhưng “tương kế tựu kế” ta sẽ lợi dụng mưu mô của giặc để thực hiện kế hoạch của mình. Ngày
17 tháng 2, Ban chỉ huy trung đoàn Thủ Đô đồng ý giúp Hoa kiều 5 tạ gạo, 2 tạ ngô và ngày 18
tháng 2 ta sẽ ngừng bắn để Hoa kiều tản cư ra ngoài.

Một sự kiện vô cùng đột ngột. Năm giờ chiều ngày 17 tháng 2 lệnh rút khỏi Hà Nội
đến với các chiến sĩ trung đoàn Thủ Đô. Lúc đó, các chiến sĩ nơi còn đang đào hào đắp ụ, nơi
đang chuẩn bị đi biệt kích, phục kích cướp súng giặc. Tin đến bất ngờ, các chiến sĩ bàng hoàng
cảm động.

- Ra đi ư?

- Bao giờ trở lại?

Còn một giờ nữa sẽ tạm biệt Thủ đô yêu dấu, các chiến sĩ lấy gạch non viết vội lên
tường nhà:

“Hà Nội thân yêu ơi, ta sẽ trở lại!”, “Hỡi quân xâm lăng, chúng bay sẽ thất bại!”.
Ra đi, các chiến sĩ tin tưởng sắt đá vào thắng lợi cuối cùng, nhưng lòng không khỏi bùi
ngùi lưu luyến.

Hôm ấy, hình như trời tối sớm, mưa rơi lâm râm trùm lên khoảng trời Hà Nội. Gió heo
may tràn qua khắp đường phố, giúp cho mọi hành động ban đêm càng thêm vẻ lặng lẽ bất ngờ.

Trời sẩm tối, tiểu đoàn 103 xuất phát đầu tiên rồi đến tiểu đoàn 102. Còn tiểu đoàn 101
ra sau cùng, cử ra một trung đội bố trí phía chân cầu Long Biên đề phòng nếu bị lộ thì chiến đấu
chặn địch bảo đảm cho trung đoàn vượt ra an toàn.

Ra đi, trung đoàn Thủ Đô còn báo cho các lãnh sự ngoại quốc biết từ giờ phút đó
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sẽ không có trách nhiệm bảo vệ họ nữa. Ta còn chuyển
thư cho lãnh sự Trung Hoa gửi lời chào họ.

Nửa đêm 17 tháng 2, trung đoàn Thủ Đô lặng lẽ vượt qua gầm cầu Long Biên, người
lớn cõng trẻ nhỏ, người khoẻ dìu người yếu, các thương binh cũng được võng, cáng đưa ra. Trung
đoàn còn mang theo đầy đủ máy chữ, máy in, dụng cụ sửa chữa vũ khí... Trong đêm mưa rét, các
chiến sĩ chân bước đi, lòng không khỏi bồi hồi lưu luyến, thỉnh thoảng có chiến sĩ lại quay nhìn
về Hà Nội.

Bộ phận phá hoại nghi binh do đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn chỉ huy khoảng
10 giờ đêm nổ súng quấy rối phía Cửa Đông, Hoàn Kiếm. Tổ phá hoại gài mìn, lựu đạn ở những
nơi địch có thể tới, đốt từng bó hương cắm vào đống chăn đệm tẩm dầu xăng để sau mấy tiếng
đồng hồ sẽ bùng lên ngọn lửa. Mười hai giờ đêm trong Liên khu I hoàn toàn vắng lặng. Người
cuối cùng của trung đoàn Thủ Đô đã rời khỏi Hà Nội. Đoàn quân trùng trùng đi theo ven bờ sông,
giặc Pháp vẫn hoàn toàn chưa biết. Chúng tin vào vòng vây dày đặc bốn bề tưởng chừng con
chim cũng khó bay qua. Nhưng giữa dòng sông Hồng, trên bãi Phúc Xá, vẫn có tiểu đội tự vệ do
đồng chí Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy suốt gần hai tháng trời sống trong hầm hố, vất vả đêm hôm
bảo đảm giữ vững đường dây liên lạc, tiếp tế cho trung đoàn Thủ Đô. Đêm hôm đó, đồng chí Nại
đã dẫn các chiến sĩ Thủ đô lách qua các vị trí, tránh các luồng đạn của địch, vượt qua mọi hiểm
nghèo để ra đi an toàn. Nửa đêm về sáng, đồng bào và anh chị em du kích đã chèo, chống 20
chiếc thuyền tới bờ sông bãi Phúc Xá do một cán bộ được Bộ chỉ huy mặt trận cử đi phụ trách.
Đêm khuya, trời rét ngọt, sóng nước rì rầm, từng chiếc thuyền lặng lẽ sang sông. Sau khi làm tròn
nhiệm vụ đón bộ phận phá hoại và bảo vệ ra đi sau cùng, tiểu đội đồng chí Nại bố trí ở bãi dâu
theo dõi địch. Trời vừa sáng, giặc Pháp phát hiện được. Chúng cho 2 xe tăng và một toán quân từ
phía đầu cầu Gia Lâm theo bờ sông đi ngược lên phía bắc cùng một đoàn ca nô chở đầy quân xăm
xăm chạy rẽ nước đuổi theo đoàn thuyền cuối cùng của ta.
Lập tức, phía bãi dâu ở Phúc Xá có súng nổ ngang sườn ca nô địch. Chúng dừng lại
cho một toán sục lên bãi dâu, còn một toán tiếp tục đuổi theo đoàn thuyền. Nhưng vẫn bị tiểu đội
đồng chí Nại bắn ngang sườn, chúng phải tiến chậm và dè dặt. Đến khi chúng nổ súng thì các
chiến sĩ ở đoàn thuyền cuối cùng vừa nhảy lên bờ chiếm lĩnh làng Cơ Xá (Bắc Biên) đánh trả lại.

Trên bãi dâu giữa bãi Phúc Xá, tiếng súng nổ vẫn giòn. Tiểu đội của đồng chí Nại đã
nổ súng kéo một bộ phận bọn giặc đuổi theo trung đoàn phải quay trở lại. Hai chiếc máy bay rít
lên lao xuống mặt sông bắn đổ đạn vào bãi dâu. Quân địch xông lên, 7 du kích đã bí mật lẻn ra
chỗ khác bất ngờ bắn vào ngang sườn chúng, rồi lại nhanh chóng lẩn đi. Xác giặc Pháp đã nằm
rải rác khắp bãi dâu nhưng chúng vẫn chưa làm gì nổi các chiến sĩ du kích. Chủng toả quân vây
tròn bốn mặt. Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt. Có 7 người thì 2 người đã hy sinh. Đồng chí
Nại chỉ huy 4 chiến sĩ chiến đấu cực kỳ anh dũng, thu hút lực lượng địch, đảm bảo cho trung
đoàn rút lui an toàn đến phút cuối cùng. Giết thêm 17 tên địch nữa, 4 du kích hy sinh, còn một
mình đồng chí Nại. Quân giặc không bắn, chúng tìm mọi cách để bắt sống đồng chí, hy vọng biết
được lực lượng của ta có còn lại ở Liên khu I không? Đã rút đi bao nhiêu và rút đi đâu? Nhưng
khi giặc Pháp xô tới túm lấy đồng chí thì thình lình một tiếng nổ vang. Quả lựu đạn cuối cùng của
đồng chí đã giết thêm mấy tên giặc nữa. Đồng chí Nại, người du kích kiên cường và dũng cảm đã
vĩnh biệt các chiến sĩ Thủ đô, vĩnh biệt bãi dâu Phúc Xá và sông Hồng Hà góp phần cho trung
đoàn rời khỏi Liên khu I thắng lợi để bảo toàn chủ lực kháng chiến lâu dài.

Thế là 7 chiến sĩ tự vệ hàng tháng trời ở trên bãi dâu 1 Phúc Xá, giữa dòng sông Hồng
đã hy sinh. Các chiến sĩ đã đóng góp biết bao công lao với chiến thắng oanh liệt của Liên khu I,
và cuộc rút quân thần kỳ của trung đoàn Thủ Đô.

Phía Cơ Xá, cuộc chiến đấu kéo dài đến gần trưa. Giặc Pháp bị chết hơn 20 tên. Bên ta
hy sinh 4, bị thương 6. Các chiến sĩ Vệ quốc quân đã khéo léo nghi binh rồi rút lui lên Văn
Hoạch. Giặc Pháp tràn vào Cơ Xá, ở đấy chỉ còn cây cối đổ gãy, nhà cửa bị phá hủy tan hoang.
Thôn xóm vắng teo, không một bóng người. Cảnh “vườn không nhà trống” lại đập vào mắt giặc
Pháp. Đã thất vọng lại càng thêm chán nản, chúng uể oải, rời rạc kéo quân quay về Hà Nội.

Mười hai giờ trưa ngày 18 tháng 2 năm 1947, trung đoàn Thủ Đô về tới Văn Hoạch,
Long Tựu (Đông Ngàn) bên kia sông Đuống, thuộc địa phận Phúc Yên. Ngay hôm đó, các chiến
sĩ Thủ đô được đọc thư của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy và đồng chí Nguyễn Văn
Trân thay mặt Đảng ủy mặt trận gửi tới khen ngợi các chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và rút quân
thắng lợi. Đêm 18 tháng 2, trời vẫn mưa rét, đồng chí Nguyễn Văn Trân cùng một số cán bộ trong
Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận đi ngược về phía bắc Hà Nội. Mọi người vui mừng trò chuyện
không để ý gì đến đường trơn, gió rét. Các đồng chí hết lời khen ngợi chiến công oanh liệt của
nhân dân và các chiến sĩ Thủ đô. Tới bờ sông, gió heo may vẫn thổi lồng lộng. Trời mưa nặng
hạt. Các đồng chí đứng trên bờ đê, rồi ra tận mép nước, nhìn sang bên kia sông nóng lòng mong
đợi được gặp mặt những người con của Thủ đô anh dũng. Sang sông, trung đoàn về tập trung tại
Hạ Hội, Thương Hội, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây. Đêm 22 tháng 2 năm 1947, Bộ chỉ huy tổ
chức mít tinh mừng chiến thắng của trung đoàn Thủ Đô, có đầy đủ các đại biểu, các cơ quan
Đảng, chính, dân. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chính thức
tuyên dương công trạng của trung đoàn Thủ Đô. Trong bài diễn văn của đồng chí, có đoạn nói:
“Trung đoàn Thủ Đô đã tượng trưng một quân đội của một dân tộc nhỏ yếu quyết tâm không
muốn làm nô lệ và đã ngang nhiên chống lại quân đội một nước lớn, đội quân hùng mạnh của chủ
nghĩa đế quốc”. Cuối cùng, đồng chí nói: “Hôm nay tôi thay mặt Chính phủ chính thức trao danh
hiệu “Trung đoàn Thủ Đô” cho các đồng chí. Thay mặt Bộ Quốc phòng và Quân đội quốc gia, tôi
tặng các đồng chí một lá cờ thêu tên “Trung đoàn Thủ Đô” để nêu cao tấm gương anh dũng của
các đồng chí”.

Đêm hôm ấy, một đêm tưng bừng rộn rã. Các chiến sĩ hô lớn khẩu hiệu: “Quyết chiến
thắng quân thù!”, rồi hát vang:

“Hà Nội ơi! Hà Nội ơi!

Ngày mai ca vang đời mới huy hoàng...”.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp vô cùng sáng suốt của Trung ương Đảng và sự chỉ huy tài
tình của Bộ Tổng chỉ huy, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã làm cho giặc Pháp phải kinh hoàng với
tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng, sức kiên trì chịu đựng trước gian nan thiếu thốn, đằng đẵng
60 ngày đêm căng thẳng và quyết liệt. Quân và dân Thủ đô giam chân địch tại Hà Nội để hậu
phương kịp huy động và tổ chức lực lượng kháng chiến lâu dài, tiêu diệt một phần sinh lực của
chúng, bảo vệ các cơ quan của Đảng xà Nhà nước rút an toàn về căn cứ chỉ đạo kháng chiến, bảo
vệ hàng chục vạn đồng bào Thủ đô thoát khỏi bàn tay đẫm máu của bọn thực dân xâm lược Pháp.
Các lực lượng vũ trang của Hà Nội không những không bị tiêu diệt, mà còn lớn mạnh không
ngừng về mọi mặt. Từ 5 tiểu đoàn độc lập, dần dần phát triển thành 8 tiểu đoàn, và sau khi trung
đoàn Thủ Đô rút khỏi Hà Nội thì xung quanh Hà Nội lực lượng Vệ quốc quân đã lớn lên thành 5
trung đoàn bộ đội chính quy.

- Trung đoàn 80 (tức trung đoàn 48 hiện nay) gồm tiểu đoàn 523, 145 và 77 bố trí ở
khu vực Văn Điển, Thường Tín giữ trục đường số 1 Hà Nội - Nam Định.

- Trung đoàn 35 phụ trách con đường Hà Nội - Hà Đông - Hoà Bình.
- Trung đoàn 37 (tức trung đoàn 66 hiện nay) gồm trung đoàn 9 và 13 sáp nhập làm
một, phụ trách con đường Hà Nội - Sơn Tây.

- Trung đoàn Thủ Đô, lấy tiểu đoàn 101 làm nòng cốt trưởng thành trong Liên khu 1.
Sau khi rút ra, về nghỉ ngơi và huấn luyện tại khu vực Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, rồi trở về trực
thuộc Bộ Tổng chỉ huy.

- Trung đoàn Tây Tiến (tức trung đoàn 52 hiện nay) gồm tiểu đoàn 212 của Hà Nội sáp
nhập với tiểu đoàn 62 của Khu III tổ chức thành, về hoạt động ở tỉnh Hoà Bình.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, mỗi trung đoàn chỉ để lại một đại đội gọi là
“biệt động đội” lưu động trong khu vực trung đoàn phụ trách, luôn luôn bám sát địch hoạt động
đánh lẻ làm chậm bước tiến của chúng. Còn toàn bộ trung đoàn ở phía sau học tập chính trị, huấn
luyện kỹ thuật, chiến thuật xây dựng lực lượng để chuẩn bị bước sang giai đoạn làm nhiệm vụ
mới và khi cần thiết thì cơ động đi tác chiến.

Từ ngày trung đoàn Thủ Đô rời khỏi Liên khu I, các đơn vị bắt đầu về hậu phương xây
dựng lực lượng, đến ngày 2 tháng 3 năm 1947, tức là sau hai tuần lễ, giặc Pháp mới mở các đợt
tấn công ra các làng mạc thuộc ngoại thành Hà Nội như Yên Duyên, Khuyến Lương và Giáp Tứ,
Giáp Bát. Ngày 3 tháng 3, quân địch mới tiến quân vào thị xã Hà Đông. Mỗi bước đi của giặc
Pháp đều gặp sự chống cự quyết liệt của nhân dân và bộ đội xung quanh Thủ đô Hà Nội.

Lực lượng để kháng chiến lâu dài đã được huy động và chuẩn bị sẵn sàng...

Phần 3. Tiếng vang bất tận


Từ “Những ngày đầu kháng chiến” đến nay đã gần 20 năm. Thủ đô anh hùng của dân
tộc Việt Nam anh hùng đã viết lên những trang sử oanh liệt bằng xương và máu còn lưu truyền
mãi mãi.

Giặc Pháp đưa vào Hà Nội một lực lượng quân sự mạnh hơn ta gấp bội. Riêng về quân
chủ lực thì chúng nhiều hơn ta 3 lần, vũ khí bộ binh gấp 9 lần, pháo binh gấp 6 lần. Các loại xe cơ
giới (xe tăng, xe bọc sắt, xe vận tải ), ca nô, tàu chiến và máy bay thì giặc Pháp chiếm ưu thế
tuyệt đối, quân ta hoàn toàn không có. Giặc Pháp là một đội quân nhà nghề chuyên đi xâm lược,
chúng có bộ máy chỉ đạo chiến tranh và cơ quan tham mưu hoàn chỉnh, là một quân đội đế quốc
dã man và tàn bạo. Bọn thực dân Pháp đã cai trị nước ta hơn 80 năm, nên chúng thông thuộc địa
hình từ biển khơi đến rừng núi, thành phố đến làng mạc, quen cả thổ ngơi và thời tiết khí hậu.
Chúng cũng hiểu rất rõ tình hình kinh tế nước ta, một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, sau 80 năm
bị chúng và tay sai vơ vét kìm hãm. Nhưng có một điều chúng không thể hiểu được, (mặc dầu
chúng đã ở trên đất nước ta ngót một thế kỷ) đó là tinh thần yêu nước, chí quật cường của nhân
dân ta. Trở lại xâm lược nước ta, giặc Pháp hy vọng dựa vào bọn trong chính quyền bù nhìn trước
kia và các tổ chức phản động cũ hòng thực hiện màn đảo chính cướp nước ta trong chớp nhoáng.

Về phía ta, chính quyền cách mạng mới được thành lập, quân đội còn non trẻ, hầu hết
là những thanh niên sục sôi lòng căm thù địch, thiết tha mến yêu Tổ quốc, vừa mới tình nguyện
đứng vào đội ngũ chiến đấu. Với vũ khí thô sơ, trang bị hết sức nghèo nàn, kỹ thuật chiến thuật
chưa được rèn luyện bao nhiêu, kinh nghiệm chiến đấu ở thành phố hoàn toàn chưa có, chúng ta
chủ yếu dựa vào lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và mưu trí để chống lại gang thép của quân
thù. Cuối cùng phần thắng đã về phía chúng ta. Phần thất bại nhục nhã đã dành cho quân đội thực
dân xâm lược Pháp. Chúng huênh hoang tuyên bố nào 24 tiếng đồng hồ, nào một tuần lễ, nào nửa
tháng... chiếm xong Hà Nội; nào Việt Minh trong vòng đai sắt sớm muộn sẽ bị tiêu diệt(!).

Nhưng mọi việc đều ngược lại. Ròng rã hai tháng trời, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã
giam chân địch trong thành phố để hậu phương kịp thời huy động và tổ chức lực lượng chuẩn bị
kháng chiến lâu dài, đã phá tan âm mưu ngông cuồng của bọn thực dân xâm lược Pháp, bảo vệ
Trung ương Đảng và các cơ quan Nhà nước di chuyển an toàn về căn cứ địa chỉ đạo kháng chiến.
Quân ta đã bảo vệ hàng chục vạn đồng bào thoát khỏi bàn tay đẫm máu của bọn xâm lược Pháp
man rợ, đã chiến đấu gần 200 trận tiêu diệt hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới, bắn
đắm 1 ca nô, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay. Quân và dân Hà Nội còn thu được rất nhiều vũ khí
đạn dược, quân trang, quân dụng để trang bị cho mình.

Hai tháng trời sống trong gian nan hiểm nghèo, bền bỉ chiến đấu giữ từng tấc đất, từng
căn nhà của Thủ đô Hà Nội, quân dân ta đã làm cho giặc Pháp phải giật mình chùn bước. Cuối
cùng, trung đoàn Thủ Đô đã rời khỏi Liên khu I một cách toàn vẹn để bảo toàn lực lượng kháng
chiến lâu dài, làm cho giặc Pháp đã thất vọng lại càng thêm thất vọng!

Trong khói lửa, quân và dân Thủ đô lớn lên không ngừng. Đứng trong hàng ngũ, người
chiến sĩ được giữ khẩu súng trường, quả lựu đạn, trong lòng vui mừng khôn xiết, nhưng cũng
không khỏi lo âu. Vui mừng vì vinh dự được giao trách nhiệm giữ súng bảo vệ Tổ quốc. Lo âu vì
mọi thứ đều mới không biết sử dụng ra sao, chiến đấu ra sao? Hăm hở mang vũ khí ra đi, nhưng
vô cùng bỡ ngỡ; cho đến khi các chiến sĩ Thủ đô biết dùng súng máy hạ máy bay địch, bắn chìm
ca nô, dùng badôca, trọng pháo bắn đổ xe tăng, bắn sụp lô cốt của giặc Pháp. Các tổ “bắn tỉa săn
Tây” ngày đêm hoạt động làm cho chúng đi đứng không yên, bước xuống xe bọc sắt, chui ra khỏi
lô cốt là nơm nớp lo sợ và ngay cả lúc rúc trong lô cốt và xe bọc sắt, chúng cũng sợ chết. Các
chiến sĩ của ta giết giặc, cướp súng giặc để bắn trả lại vào đầu quân giặc. Từ những trận đầu bỡ
ngỡ trên đường Cửa Nam, phố Huế đến những trận chặn địch quyết liệt ở Ô Cầu Dền, Bạch Mai,
phản kích đánh địch tan hoang ở đường Yên Phụ, phố Đội Cấn, đuổi địch chạy dài ở Thanh Nhàn,
Lò Lợn... phối hợp với các hoạt động ở nội thành như: đánh du kích ở các phố Lê Bình, Minh
Khai, tập kích nhà Moóc-li-e, cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp Rùa, và Đồn công an Quận 2,
v.v... làm cho bộ chỉ huy quân đội xâm lược Pháp ở Hà Nội ngày đêm lo lắng, đau đầu nhức óc,
mà rốt cuộc thất vọng vẫn hoàn toàn thất vọng. Chúng ta, từ những trận chiến đấu chống với một
vài chục, một vài trăm tên giặc tiến đến những trận chống với hàng ngàn tên, với hàng trăm cơ
giới, có máy bay, pháo binh yểm hộ. Có những nơi, bên ta chỉ với số quân rất ít đã kiên cường cố
thủ, suốt một ngày giặc Pháp xung phong hàng chục lần nhưng cũng không chiếm được như nhà
thương Vọng, nhà Xô-va, Trường Ke, v.v... Có những nơi ta chiến đấu quyết liệt tiêu hao địch,
chặn địch tới một mức độ nhất định, rồi lại nghi binh khéo léo rút lui để bảo toàn lực lượng. Khi
giặc Pháp xông vào, ở đó chỉ còn “vườn không nhà trống” như Vĩnh Tuy, làng Ngọc Khánh, nhà
thờ Bờ-ri-gát Mô-bin... Trong khói lửa, quân và dân Thủ đô lớn nhanh hơn “Thánh Gióng”. Từ
tiểu đoàn độc lập phát triển thành 3 trung đoàn chính quy. Sau khi trung đoàn Thủ Đô rút ra khỏi
Liên khu I, thì xung quanh Hà Nội (kể cả trung đoàn 35 và 37) có tới 5 trung đoàn chủ lực.

Đó là một chiến công lớn lao, nói lên đường lối lãnh đạo của Đảng ta vô cùng đúng
đắn: Yếu hơn địch mà lại chiến thắng địch. Không những không bị tiêu diệt mà lại lớn lên không
ngừng...

Gần 20 năm qua, Hà Nội ngày nay biết bao nhiêu đổi mới. Cứ mỗi bước đi trên mảnh
đất Thủ đô yêu quý, ta đều thấy ở đấy đã lập nên biết bao nhiêu chiến công oanh liệt. Ở đấy có
những người con anh dũng của Thủ đô đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trên những bờ
tường mới đẹp đẽ của ngày nay với những khẩu hiệu: “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”, “Đế
quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”, v.v... xưa kia đã có những khẩu hiệu: “Sống chết với
Thủ đô”, “Thà chết không chịu làm nô lệ”. Không ai có thể quên được những anh em công nhân
xe lửa chiến đấu vô cùng anh dũng ở Đấu Xảo, Hàng Lọng, nhà dầu Shell. Sự phối hợp chặt chẽ
của công nhân nhà máy điện. Nhà máy nước Yên Phụ, nhà bưu điện và nhà đèn Bờ Hồ... Rồi đến
những hình ảnh vô cùng xúc động như khi được lệnh “Tiêu thổ kháng chiến”, thực hiện “Vườn
không nhà trống”, nhân dân Thủ đô cũng như nhân dân các xóm làng xung quanh Hà Nội tự tay
mình dỡ nhà mình, đập vỡ tường gạch, chặt đổ cây cối, di chuyển thóc lúa, súc vật, cùng những
người già yếu và trẻ nhỏ trong gia đình tản cư tránh giặc. Để chặn bước tiến của địch, cả làng
xóm từ cụ già đến trẻ em ở các khu phố đều xô ra đường đào hào, đắp ụ, ngả cây cối, phá sập cầu
cống tạo thành cây số chướng ngại vật. Súng vẫn nổ, máy bay khu trục của giặc vẫn bay lượn bắn
phá, nhưng đồng bào từ bốn phương vẫn kìn kìn gồng gánh lương thực tiếp tế cho mặt trận. Các
chị em tiếp tế vượt qua lửa đạn, đem cơm nước ra tận chiến hào, ụ súng cho các chiến sĩ. Các bà
mẹ đi uý lạo các đơn vị và anh em thương binh. Các gia đình xin nhận thương binh về nhà để
chăm sóc.

Không ai có thể quên được, khi Đảng và Bác Hồ kêu gọi: “Toàn dân kháng chiến” thì
khắp nơi các cụ già đầu tóc bạc phơ, có cụ lưng còng phải chống gậy, nhưng cũng hăng hái nhập
đội “Bạch đầu quân”, những thiếu nữ từ bỏ những thứ mà xưa nay họ tha thiết nhất, cắt tóc ngắn,
mặc trang phục nam giới để xung phong vào Vệ quốc đoàn, những em thiếu niên, nhi đồng đòi
cho kỳ được vào làm liên lạc, trinh sát cho các anh lớn. Khi tiếng súng kháng chiến rền vang bầu
trời Hà Nội, thì cũng là lúc tiếng đàn, tiếng hát của các chị trong đội thông tin tuyên truyền hoà
theo như không bao giờ mất. Ở đầu phố Hàng Bột, anh chị em bị thương nhưng không rời trận
địa, vẫn chiến đấu, vẫn ca hát cho đến hơi thở cuối cùng. Tiểu đội nữ cứu thương của đại đội 134,
những người con gái trồng hoa vùng Ngọc Hà đã anh dũng hy sinh tại Giảng Vũ. Tiểu đội nữ giao
thông ở Lãng Bạc, những chị em công nhân và dân nghèo trước đây chịu trăm ngàn cơ cực sống
trong những túp lều lụp xụp bên hồ, khi kháng chiến bùng nổ, đã trở thành những người con gái
kiên cường mang theo dòng máu anh hùng của Hai Bà Trưng thuở trước. Chị em vượt muôn ngàn
nguy hiểm giữ vững “mạch máu” giữa Liên khu I và hậu phương bao la. Tiểu đội du kích Hồng
Hà, những người công nhân, nông dân của quê hương Tân Lập, Nghĩa An, Nghĩa Dũng, Phúc Xá
đã hàng tháng trời sống trong hầm hố, trên bãi dâu, giữa dòng sông Hồng giữ vững đường dây
liên lạc, tiếp tế cho trung đoàn Thủ Đô. Ngày cuối cùng, 7 chiến sĩ du kích ấy đã chiến đấu vô
cùng quả cảm để thu hút lực lượng địch, góp xương máu giành phần thắng lợi toàn vẹn cho quân
và dân Thủ đô Hà Nội. Những người con yêu quý ấy đã vĩnh biệt bãi dâu sông Hồng, vĩnh biệt
Liên khu I. Những tấm gương anh dũng ấy còn lưu truyền mãi mãi về sau.

Khắp các đường phố Thủ đô Hà Nội, các anh, các chị xông ra giết giặc thì các em nhỏ
cũng không chịu ngồi yên. Tấm gương anh dũng chiến đấu hy sinh vì dân vì nước của Trần Quốc
Toản, Kim Đồng, Lý Tự Trọng đã truyền cho các em một chí khí bất khuất. Tuổi nhỏ nhưng chí
lớn. Xe tăng, xe thiết giáp của giặc hung dữ dẫn quân đến Ngọc Hà, 3 em nhỏ đã gan lì ngồi lại
trong hố ở ria đường, ném lựu đạn, chai cháy, phá hủy xe thiết giáp của địch. Hai em khác dùng
mưu ném lựu đạn vào xe gíp của bọn chỉ huy Pháp qua phố Hàng Bột, đoạt súng đem về cho bộ
đội. Một em khác leo lên nóc Bắc Bộ Phủ cắm cờ đỏ sao vàng, khi bị giặc Pháp bắt em đã chửi
vào mặt bọn cướp nước và một mực không chịu cung khai. Em chết đi, chưa đầy 14 tuổi. Em liên
lạc Lai vượt theo ống máng về báo cáo với ban chỉ huy tiểu đoàn tiếp viện cho Trường Ke... Biết
bao tấm gương chói lọi của lứa tuổi thơ ngây trên đất Thủ đô anh hùng.
Không bao giờ lịch sử có thể quên được những chiến sĩ “quyết tử” của Thủ đô ôm bom
ba càng lao vào xe tăng địch. Một tiếng nổ kinh khủng, xé tai, một vùng lửa khổng lồ loé ngay
trước mặt, xe tăng địch tan tành thì người chiến sĩ lao bom phần nhiều cũng anh dũng hy sinh.
Biết như vậy, nhưng không một ai do dự. Các thanh niên hầu hết muốn được sung vào đội quyết
tử để phá chiến xa của giặc. Quyết không hề lui nửa bước trước bom đạn và xe tăng, xe bọc sắt
của quân thù. Phải cho quân thù thấy ý chí bất khuất của một dân tộc anh hùng, quyết không chịu
làm nô lệ. Người chiến sĩ quyết tử bảo vệ Bắc Bộ Phủ đã ôm bom ba càng phá hủy xe tăng địch.
Hình ảnh ấy còn ghi mãi trong lòng quân dân Hà Nội. Từ đó biết bao nhiêu chiến sĩ quyết tử khác
dùng bom ba càng phá hủy chiến xa của giặc trên khắp các đường phố Hà Nội như ở ngã năm
Hàng Kèn, phố Huế, đường Thụy Khuê v.v... Giặc Pháp càng dùng vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại để ra oai, thì lòng căm thù của quân và dân Thủ đô càng bốc lên ngùn ngụt, tinh
thần chiến đấu của các chiến sĩ Thủ đô càng vô cùng quả cảm. Đảng viên Trần Đan một mình
dùng lựu đạn đánh bật sáu, bảy đợt xung phong của địch cho đến khi tay phải bị cụt, còn một tay
trái vẫn chiến đấu giữ vững trận địa. Đồng chí Minh bị lựu đạn khói địch làm mờ hai mắt nhưng
quyết không rời trận địa, nhằm hướng có tiếng động bắn cản địch xung phong. Anh công nhân
Tưởng, người thợ sửa chữa ô tô đã chiến đấu đến khi hết đạn, hết lựu đạn, dùng dao thái thịt quần
nhau với giặc hết bàn này đến phản khác ở chợ Đồng Xuân... Đến nay mỗi khi nhắc tới những
cán bộ gương mẫu, những người chỉ huy hết lòng vì Đảng vì dân như chính trị viên Lê Gia Định
ở Bắc Bộ Phủ, Lê Trí Thực ở Giảng Vũ và Vũ Công Định, đại đội trưởng đại đội 134... mọi người
không khỏi bùi ngùi. Chúng ta không bao giờ quên được hình ảnh đồng chí Tổng chỉ huy, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra tận chiến hào, ụ súng để nhận xét rút kinh nghiệm về
cách đánh giặc và động viên khích lệ kịp thời, chỉ đạo giúp đỡ Bộ chỉ huy mặt trận từng giờ, từng
phút. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuống tận pháo đài, đi tới các phố đổ nát
để chỉ đạo việc phá hoại, xây đắp chướng ngại và bổ sung kế hoạch tác chiến. Đồng chí Trần
Quốc Hoàn - đặc phái viên của Trung ương, có đồng chí Lê Quang Đạo đi cùng đã không nề hà
bất cứ việc gì, đã vượt qua lửa đạn vào thăm Liên khu I giữa những ngày gay go quyết liệt. Đồng
chí Nguyễn Văn Trân, bí thư Đảng ủy mặt trận đã ngày đêm làm việc không biết mệt mỏi. Đồng
chí đã bò, lăn qua mặt đê Bình Lao tới bờ tường, chiến hào thăm hỏi các chiến sĩ quyết tử, rồi
suốt một đêm mưa rét đồng chí đã đứng ở ven sông Hồng mong ngóng được gặp mặt các chiến sĩ
trung đoàn Thử đô yêu quý. Chính trị ủy viên mặt trận trong lúc gian nan luôn luôn gặp gỡ động
viên các chiến sĩ. Và còn biết bao nhiêu hình ảnh ân cần khác của các đồng chí Trung ương, Tổng
chỉ huy và Đảng ủy mặt trận đã sưởi ấm lòng quân và dân Thủ đô, khích lệ các chiến sĩ và các cấp
chỉ huy, cấp lãnh đạo trực tiếp càng hăng hái quyết tâm giết giặc cứu nước. Quân và dân Thủ đô
Hà Nội đã kề vai sát cánh bên nhau đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Những tấm gương chói lọi ấy đã ghi thêm những trang sử vẻ vang cho Thủ đô của một
dân tộc anh hùng.

Thủ đô Hà Nội kiên quyết đứng lên, từ không trở thành có, từ yếu trở thành mạnh, làm
nên biết bao chiến công lừng lẫy.

Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến của mặt
trận Hà Nội, tài tình và kiên quyết.

“Trung đoàn Thủ Đô đã tượng trưng một quân đội của một dân tộc nhược tiểu quyết
tâm không muốn làm nô lệ và đã ngang nhiên chống lại quân đội một nước lớn, quân đội hùng
mạnh của chủ nghĩa đế quốc”. Lời nói đó của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp còn vang
lên mãi mãi trong tâm trí các chiến sĩ Thủ đô Hà Nội. Đảng đã đoàn kết toàn dân, đã phát huy cao
độ truyền thống yêu nước vốn có của dân tộc, đã vũ trang tinh thần cách mạng triệt để cho quần
chúng ở Thủ đô Hà Nội và cả nước ngay từ khi Đảng mới ra đời và nhất là từ khi chính quyền
cách mạng mới được thành lập. Đảng đã biến tinh thần bất khuất của một dân tộc anh hùng, Thủ
đô anh hùng trở thành sức mạnh vật chất vô tận. Đảng đã khéo léo vận dụng lý luận sách lược
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội thời kỳ
đầu kháng chiến. Đảng đã đoàn kết được mọi lực lượng chống chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp ở Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình của dư luận tiến bộ trên thế giới, cô lập kẻ thù cao
độ. Đảng đã lãnh đạo quân và dân Thủ đô, cũng như nhân dân cả nước tiến hành một cuộc chiến
tranh cứu nước bền bỉ và vô cùng anh dũng với khẩu hiệu: “Toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến!”, “Tự lực cánh sinh!” và “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!”. Toàn dân
đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng và Hồ Chủ tịch, hết lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo anh minh
của Đảng tiền phong bách chiến, bách thắng. Quân và dân Thủ đô sẵn sàng đi theo con đường của
Đảng đã chỉ ra. Đảng bảo “Đánh là đánh!”, bảo “Thắng là thắng!”. Giữa lúc thù trong giặc ngoài
xúm lại định xâu xé Tổ quốc ta, giữa lúc quân thù hung ác diễu võ giương oai, ngang nhiên lấn át,
nhưng được sự ân cần chỉ bảo của Đảng, một lời nói của Bác Hồ truyền tới thì trăm ngàn mối lo,
thắc mắc vương vấn trong lòng quân và dân Hà Nội lập tức tiêu tan. Quân giặc mạnh hơn gấp bội,
dân ta chỉ có gậy gộc, giáo mác đứng lên kháng chiến, ngàn vạn gian lao chắn ngang trước mặt,
nhưng được Đảng và Bác kiên trì dìu dắt khuyên răn, mọi người lại quyết chí vượt qua. Ở Hà
Nội, tất cả mọi lực lượng vũ trang, mọi tổ chức quần chúng đều chiến đấu dưới sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của Đảng ủy mặt trận. Đảng đã lãnh đạo quân dân Thủ đô đoàn kết để chiến
thắng kẻ thù. Đoàn kết đã thành sức mạnh vô địch, không bom đạn nào phá nổi. Quân đội ta ở
Thủ đô Hà Nội ít hơn giặc Pháp, vũ khí quá nghèo nàn và thô sơ, kỹ thuật chiến thuật còn non
yếu, nhưng chúng ta đã có đội ngũ trùng trùng điệp điệp và nguồn bổ sung vô tận là quảng đại
quần chúng, một lòng một dạ hy sinh tất cả để bảo vệ Tổ quốc. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước ”.
Quân và dân Thủ đô cũng như nhân dân cả nước đã hành động đúng như lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chủ tịch.

Hà Nội đứng lên! Cả nước chi viện cho Hà Nội, phối hợp với Hà Nội giữ vững và phát
huy truyền thống chống ngoại xâm của Thủ đô anh hùng và dân tộc Việt Nam anh hùng. Hà Nội
kháng chiến, được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, sự chỉ đạo tài tình của Bộ Tổng
chỉ huy, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã chiến đấu anh dũng tuyệt vời, với khẩu hiệu: “Sống chết
với Thủ đô!”, “Thà chết không chịu làm nô lệ!”, “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước!”. Tiếng súng kháng chiến ở Thủ đô bùng nổ, Thủ đô chiến thắng như một hồi chuông
vang dậy tới mọi vùng đất đai trên khắp trái đất. Trước đây, trên thế giới có nhiều nơi chưa hề biết
đến Hà Nội, Việt Nam là đâu. Có nơi chỉ hiểu Việt Nam là một bộ phận của xứ Đông Pháp!
Nhưng Thủ đô Hà Nội đứng lên kháng chiến. Ngọn cờ chiến thắng của quân và dân Thủ đô Hà
Nội, Việt Nam đã giương cao chói lọi. Tiếng súng chiến thắng ở Thủ đô đã vang dội trên toàn thế
giới. Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo nhân dân phản đối chính phủ phản động Pháp tiến hành cuộc
chiến tranh xâm lược phi nghĩa ở Việt Nam. Dư luận tiến bộ trên khắp trái đất đều ủng hộ cuộc
chiến đấu tự vệ của nhân dân Việt Nam.

Hà Nội lớn lên và chiến thắng! Những ngày đầu kháng chiến ở Thủ đô Hà Nội đã biểu
hiện đường lối quân sự đúng đắn của Đảng, đường lối chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân
mà Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Hà Nội đã quán triệt và trực tiếp tiến hành, biến nghị quyết
của Đảng thành hành động cụ thể. Đó là sự chỉ huy thống nhất mọi lực lượng tham gia chiến đấu
tại mặt trận, là sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ, giũa hình thức tác
chiến tập trung với hình thức tác chiến phân tán lẻ tẻ, là sự phân tích đúng đắn lực lượng so sánh
để tổ chức chiến đấu cho thích hợp với địa hình, trang bị vật chất và trình dộ kỹ thuật lúc đó ở Hà
Nội. Đảng ủy đã nắm vững đường lối quần chúng, tin tưởng vào quần chúng, có những chủ
trương xây dựng và tác chiến đúng đắn. Qua thử thách trong chiến đấu, quần chúng đã sáng tạo ra
muôn vàn cách tiêu diệt giặc, bảo vệ mình, thích hợp với tình hình lực lượng so sánh lúc đó. Suốt
2 tháng trời, gần 200 trận chiến đấu đã diễn ra muôn màu muôn vẻ, nhưng hầu hết thực hiện đánh
ban đêm, đánh giáp lá cà, đánh bất ngờ. Ta không tự trói buộc vào một lối đánh, mà đã tùy tình
hình cụ thể, thực hiện xen kẽ rất sinh động tất cả các hình thức tác chiến: tấn công, tập kích, biệt
kích, phục kích, quấy rối, nghi binh, đánh lẻ, đánh tiêu hao, v.v... Đặc biệt là thuật “trùng độc
chiến” là một lối đánh cách mạng rất độc đáo, rồi đến các thuật “ba lan”, thuật “xoáy trôn ốc”,
thuật “chuyển thoái vi công”, v.v... càng thể hiện sức sáng tạo của quần chúng trưởng thành trong
khói lửa, từ thực tiễn đã trở thành nguyên tắc.

Nhưng trong điều kiện lịch sử hồi ấy, trình độ chúng ta còn rất hạn chế nên mọi việc
đều bỡ ngỡ. Nếu chúng ta có kinh nghiệm sử dụng lực lượng trong việc kết hợp tập trung ưu thế
tuyệt đối từng lúc, từng nơi với lối đánh du kích, nói cụ thể hơn, nếu chúng ta hiểu và thể hiện
đúng đắn như thế nào là tập trung ưu thế tuyệt đối, như thế nào là đánh tiêu diệt, và biết nắm lực
lượng cơ động và cơ động lực lượng một cách linh hoạt thì giặc Pháp còn gặp nhiều khốn đốn
hơn nữa. Mặt khác, Bộ chỉ huy mặt trận còn hết sức bỡ ngỡ chưa biết dự kiến sâu xa quá trình
phát triển của chiến sự để có kế hoạch chỉ đạo kịp thời và thấu suốt lâu dài hơn, chuẩn bị mọi mặt
bảo đảm cho mặt trận được chu đáo hơn. Nhưng những thiếu sót cụ thể về trình độ có tính chất
lịch sử ấy cũng không thể nào làm phai mờ được chiến thắng vô cùng lớn lao của quân và dân
Thủ đô Hà Nội dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, sự chỉ huy tài tình và cụ thể của
Bộ Tổng chỉ huy. Chúng ta đã quật ngã một kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội, mở đầu cho cuộc kháng
chiến thần thánh của cả dân tộc ta, suốt 9 năm trường oanh liệt.

Ra đi rời khỏi Hà Nội, lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn vang mãi trong
lòng các chiến sĩ Thủ đô suốt 3.000 ngày khói lửa. Họ đã đi trên khắp các nẻo đường Trung,
Nam, Bắc. Các chiến sĩ Thủ đô đã không ngừng phát huy truyền thống chiến đấu anh dũng, lập
chiến công vang lừng trên khắp các mặt trận.

Trải qua tám, chín năm vật lộn trong lòng địch lúc âm ỉ, lúc sục sôi, nhân dân Hà Nội
đã cùng nhân dân cả nước, cùng các chiến sĩ Thủ đô và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng
đóng góp vào chiến thắng vô cùng to lớn: Điện Biên Phủ, một chiến công hiển hách, một chiến
thắng làm chấn động thế giới, kết thúc một trang sử nhuốc nhơ đầy tội ác đẫm máu của bọn thực
dân xâm lược Pháp ở Việt Nam. Hà Nội - Điện Biên Phủ, những tiếng vang ngàn năm bất tận.

Trở về Hà Nội, các chiến sĩ Thủ đô lại được nghe những lời căn dặn trong bản nhật
lệnh lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “... Tiêu biểu cho Quân đội nhân dân Việt Nam anh
dũng và hùng mạnh, các đồng chí là những đơn vị đầu tiên về Thủ đô Hà Nội trước sự chờ mong
của đồng bào Thủ đô và sự vui mừng phấn khởi của đồng bào toàn quốc. Nhiệm vụ của các đồng
chí rất nặng nề nhưng rất vẻ vang...”.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ Thủ đô đã trùng trùng điệp điệp trong rừng
cờ đỏ sao vàng trở về Hà Nội, giữa muôn ngàn đoá hoa tung lên, muôn ngàn tiếng hò reo, tiếng
hoan hô, tiếng vỗ tay như sấm động của nhân dân Thủ đô. Quân và dân cảm động sung sướng đến
rơi nước mắt. Cả Thủ đô lộng lẫy trong rừng cờ, rừng hoa... Hà Nội giải phóng lại như một hồi
chuông rung vang trời đất! Nhân dân cả nước, kiều bào ở nước ngoài và nhân dân yêu chuộng
hoà bình trên toàn thế giới hân hoan vui mừng tới tấp gửi điện văn, thư từ chúc mừng Đảng,
Chính phủ và Hồ Chủ tịch, chúc mừng nhân dân Thủ đô Hà Nội anh hùng.

Hà Nội, Thăng Long xưa ngàn năm bất diệt!

Ngày nay nhân dân Hà Nội phát huy cao độ truyền thống yêu nước vốn có của dân tộc
và truyền thống oanh liệt của “60 ngày khói lửa”, đang tay búa tay súng, tay cày tay súng ra sức
xây dựng và sẵn sàng bảo vệ Thủ đô xã hội chủ nghĩa ngày càng tươi đẹp và giàu mạnh.

Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ không chịu rút bài học thất bại
của thực dân Pháp trước kia và bài học thất bại trước mắt của chúng ở miền Nam hiện nay đã
xâm phạm miền Bắc nước ta, và đã bị quân dân ta trừng phạt đích đáng. Giữa không khí của mùa
thu cách mạng, hàng chục vạn nhân dân Thủ đô đã xuống đường biểu tình kiên quyết phản đối
bọn xâm lược Mỹ. Rồi đây nếu chúng còn liều lĩnh xâm phạm đất nước ta, xâm phạm Thủ đô yêu
quý của chúng ta, thì nhân dân Thủ đô cùng với nhân dân cả nước, triệu người như một đứng lên
tiêu diệt chúng như đã tiêu diệt bọn thực dân Pháp xưa kia.

(Sưu tầm, viết từ tháng 9 năm 1961, xong tháng 9 năm 1964).

Phần phụ lục


Vị trí và lực lượng của địch trước ngày khởi chiến

(Chưa kể số quân từ nước Pháp và các thuộc địa tiếp tục tiếp viện tới Hà Nội trong quá
trình xâm lược nước ta).

Tổng số:

Quân số: 4.220 tên, về sau ở Hải Phòng lên thêm, quân số tới 6.500 tên.

Vũ khí 5.000 súng trường, 600 liên thanh nhẹ, 180 liên thanh nặng, 42 khẩu pháo.

Cơ giới: 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp.

Bố trí như sau:


1. Trại lính (thành Hà Nội):

Quân số:

Vũ khí: 300 súng trường Mỹ, 300 súng liên thanh nhẹ, 70 liên thanh nặng.

Cơ giới: 9 xe tăng, 26 xe thiết giáp.

2. Trường Bưởi (nay là Trường Chu Văn An):

Quân số: 250, gồm có:

1 đại đội bộ binh 150 tên.

1 phân đoàn thiết giáp của hải quân R.B.F.M. (Régiment Blindée des Fusileries
Marines) 100 tên.

Vũ khí: 100 súng trường, 49 tôm-xơn, 40 các-bin, 9 liên thanh nhẹ.

Cơ giới: 3 xe tăng, 4 xe thiết giáp.

3. Trường An-be Xa-rô (nay là số 2 phố Hoàng Văn Thụ):

Quân số: 500, gồm có:

1 đại đội bộ binh (đại đội 10, tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh thuộc địa 6), một quan ba
chỉ huy: Moles.

1 cụm pháo binh sư đoàn (tiểu đoàn 1, trung đoàn pháo binh thuộc địa dã chiến
1/R.A.C.M.) có 3 khẩu đội.

Chỉ huy gồm: 1 quan tư, 1 quan ba, 2 quan hai.

Vũ khí: 200 súng trường, 60 các-bin, 60 tôm-xơn, 20 liên thanh nhẹ, 15 liên thanh
nặng.

Cơ giới: 5 xe thiết giáp, 2 xe tăng loại lớn, 2 xe tăng loại nhỏ.

4. Phủ toàn quyền cũ:

Quân số. 500 (thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh thuộc địa 6, đại đội 1 và 9).

Vũ khí: 120 súng trường, 80 tôm-xơn, 60 các-bin.

5. Trường sư phạm Đỗ Hữu Vị (nay là Trường Nguyễn Trãi):

Quân số: 50 thợ máy, một tiểu đội 12 lính gác.

Vũ khí: 7 súng trường, 2 các-bin, 2 tôm-xơn, 1 liên thanh nhẹ.


6. Quán Thánh:

Quân số: 1 đại đội.

Vũ khí: 10 liên thanh nhẹ, 10 các-bin, 20 tôm-xơn, 100 súng trường.

7. Nhà thương Đồn Thuỷ:

Quân số: 250.

Vũ khí: 6 liên thanh nặng, 3 liên thanh nhẹ, 66 súng trường.

Cơ giới: 4 hồng thập tự, 2 xe vận tải, 3 xe gíp.

8. Khách sạn Métropole:

Quân số: 200 sĩ quan và binh lính đầy đủ vũ khí nhẹ.

9. Gia Lâm:

a) Trường bay:

Quân số: 800.

Vũ khí: loại nhẹ trang bị đủ, 7 pháo 75mm, 2 liên thanh nặng.

Cơ giới: 6 xe tăng, 2 xe thiết giáp, 50 xe vận tải.

Máy bay: 4 Xpít-phai, 4 Mo-ran, 5 oanh tạc, 6 khu trục mới ở Sài Gòn ra.

b) Xưởng sửa chữa:

Quân số: 36. Trang bị đủ vũ khí nhẹ. 1 liên thanh loại nặng.

Kho vũ khí: 300 súng trường và liên thanh nhẹ.

Kho lương thực: 500 tấn cá khô, bột mì, đậu.

Dù người: 2.000 chiếc.

c) Nhà máy khuy:

Quân số: 100. Trang bị đủ vũ khí nhẹ, có thêm 3 liên thanh nặng.

Vị trí lực lượng nhỏ:

10. Viện Quang tuyến: thường có 1 tiểu đội. Tới 23 tháng 11 năm 1946 đưa đến 2 pháo
đặt chĩa về phía Hoả Lò.
11. Hàng Trống (nhà Moócli-e): thường có 1 tiểu đội. Ngày 23 tháng 11 năm 1946
tăng thêm lực lượng, bố trí cẩn mật.

12. Trần Nhật Duật (đầu cầu Long Biên): 1 trung đội, 22 súng trường, 6 các-bin, 4
tôm-xơn, 2 liên thanh nhẹ.

13. Nhà băng Đông Dương: 2 tiểu đội gác chung với Vệ quốc đoàn.

14. Ga Hàng Cỏ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ quốc đoàn.

15. Nhà dầu Shell Khâm Thiên: 1 tiểu đội, có 1 khẩu súng cối.

16. Số 7 phố Tư Do cũ (phía Ngọc Hà): 19 lính, 4 cai đội, 1 quản, 3 xe thiết giáp, 2 xe
gíp, 1 xe vận tải.

17. Số 10 Thụy Khuê: 30 lính, 14 súng trường, 4 các-bin, 4 tôm-xơn, 6 liên thanh, 2 xe
thiết giáp.

18. Số 18 Cao Bá Quát (kho Descourd): 10 lính thợ, 1 quan ba (vũ khí không rõ).

19. Ga-ra Xi-ta-ga Hàng Cỏ (một bộ phận của xưởng Chiến Thắng hiện nay): 10 lính
thợ, vũ khí không rõ.

20. Ga-ra Béc-xê (xưởng Dân Sinh, Trường Thi): 6 lính thợ, 6 súng trường, 1 liên
thanh.

21. Ga-ra Boa-lô (số 5 Tràng Tiền): 20 lính thợ, 2 liên thanh.

22. Ga-ra Pho (công ty xe con, 7 Đặng Thái Thân): 1 tiểu đội

23. Ga-ra Gi-rô-đô: 20 lính thợ, 1 liên thanh.

24. Nhà dầu Shell (nay là Ủy ban khoa học Nhà nước góc phố Trần Hưng Đạo và Ngô
Quyền): 1 tiểu đội.

25. Số 23 Hàn Thuyên: 20 lính, 1 quan tư, 1 quan ba, 14 súng trường, 4 liên thanh nhẹ.

26. Số 44 Tăng Bạt Hổ: 15 lính, 4 sĩ quan.

27. Số 51 Lý Thái Tổ: 1 tiểu đội.

28. Làng Xuân Biểu, đường Hoàng Hoa Thám: 1 sĩ quan, 9 lính đủ súng.

29. Nhà Chi-vo, đường Hoàng Hoa Thám: 8 lính, 1 cai, 1 quan tư, 8 súng trường, 1
tôm-xơn, 1 súng ngắn, 1 liên thanh, 16 lựu đạn, 1 hòm đạn súng trường, 1 xe gíp.

30. Số 5 Phan Đình Phùng: 1 tiểu đội súng các-bin, 1 quan ba, 1 quan một.
31. Hùng Vương: 16 lính, 1 quan tư, 1 quan hai, 1 quan một, 1 quản, 1 đội, 2 xe vận
tải, 5 xe gíp, 1 ô tô du lịch.

32. Số 6 bis Tôn Trung Sơn: 1 tiểu đội đủ vũ khí.

33. Số 42 Hoàng Diệu: 10 lính, 1 quan hai, 1 quan một, 1 xe ô tô du lịch.

34. Số 32 Hoàng Diệu: 6 lính, 1 quan tư, 1 quan hai, 2 đội, 1 ô tô du lịch (nhà phái bộ
Mỹ).

35. Số 58 Hoàng Diệu: 1 quan năm không quân (Duvieux), 1 quan tư không quân, 6
lính gác, 1 Sten, 6 súng trường, 18 lựu đạn, 4 hòm đạn.

36. Số 29 Tôn Thất Thuyết (nay là đại lộ Lê Hồng Phong): 1 quan tư, 1 quan hai, 1
quan một, 7 đội và quản, 3 lính, 2 xe du lịch, 2 xe thiết giáp (tối có lính trong thành ra gác).

37. Số 48 Phan Chu Trinh (nay là phố Nguyễn Thái Học): 4 lính, 2 quan hai, 2 quan
ba, 1 xe gíp, 1 xe du lịch (tối có lính trong thành ra gác).

38. Số 40 Phùng Hưng (cơ quan quân bưu): hàng ngày có 4 xe vận tải và 2 xe gíp đến
liên lạc (tối có 4 lính gác).

39. Nha Tài chính: 1 trung đội đủ vũ khí.

40. Nhà đèn Bờ Hồ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ quốc đoàn.

41. Nhà máy điện Yên Phụ: 1 tiểu đội gác chung với Vệ quốc đoàn.

42. Nhà máy nước: 1 tiểu đội gác chung với Vệ quốc đoàn.

43. Phố Tôn Thất Thuyết (nay là đại lộ Lê Hồng Phong): 1 trung đội.

44. Phà Đen: 1 trung đội.

45. Nhà chiếu bóng Majestic (nay là Rạp Tháng Tám): 1 trung đội.

(Ngoài ra còn có các tổ ở một số nhà thờ và nhà Pháp kiều khác)...

______________________

Vị trí và lực lượng của ta trước ngày giặc Pháp khởi chiến

(Chỉ tính bộ đội chính quy Vệ quốc đoàn)

Tổng số: 5 tiểu đoàn (2.515 người chiến đấu được).


Vũ khí: 1.516 súng trường, 7 pháo cao xạ 75mm của các pháo đài do Pháp để lại nay ta
dùng làm pháo mặt đất và 1 sơn pháo 75mm, 1 pháo chống tăng 25mm. Số đạn còn lại rất ít. Tất
cả đều không có máy ngắm và dụng cụ đo đạc.

Bố trí như sau:

Liên khu I (đông bắc thành phố):

Tổng số: 463 người do đồng chí Toàn Vinh và đồng chí Nguyễn Văn Triệu chỉ huy.

Căn cứ: Hàng Bè.

1. Yên Phụ (nhà máy điện): 2 tiểu đội 25 người gác chung với quân Pháp).

2. Yên Phụ: 2 tiểu đội 34 người.

Nguyễn Thái Học: một nửa tiểu đội 6 người (giữ đường Nguyễn Thái Học, đê Yên Phụ
và đường Cổ Ngư).

3. Nhà máy nước: 1 tiểu đội 13 người (gác chung với quân Pháp).

4. Nhà in Viễn Đông: 1 tiểu đội 12 người (gác chung với quân Pháp).

5. Trường Hàng Than: 2 tiểu đội 25 người.

6. Đầu cầu Long Biên (Trần Nhật Quật): 1 trung đội 45 người (gác chung với quân
Pháp).

7. Giữa cầu Long Biên: 1 trung đội 32 người (gác chung với quân Pháp).

8. Cuối cầu Long Biên (Gia Lâm): 1 trung đội 38 người gác chung với quân Pháp).

9. Bộ Ngoại giao: 1 tiểu đội 13 người.

10. Nhà máy đèn Bờ Hồ: 1 tiểu đội 12 người (gác chung với quân Pháp).

11. Kho bạc Lê Lai (nay là Sở Thương nghiệp Hà Nội): 1 tiểu đội 15 người.

12. Nhà băng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước): 1 tiểu đội 15 người (gác
chung với quân Pháp).

13. Nha Thương chính (nay là Bảo tàng Cách mạng): 1 tiểu đội 16 người (gác chung
với quân Pháp).

14. Quân huấn Cục (số 18 phố Tôn Đản): 1 tiểu đội 16 người.

15. Nhà dầu Shell (39 Trần Hưng Đạo): 1 trung đội 48 người.
16. Toà Thị chính (sau là Ủy ban hành chính Hà Nội): 1 trung đội rưỡi 57 người.

17. Bắc Bộ phủ (nay là khu vực Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Vụ Lễ tân): 1 đại đội 98
người.

Liên khu II (phía nam thành phố):

Tổng số: 1.074 người, do đồng chí Bùi Sinh và Quang Tuấn chỉ huy. Về sau đồng chí
Phùng Thế Tài chỉ huy.

Căn cứ: Chợ Hôm và trại Hàn Lâm.

18. Viện Bảo tàng Lịch sử: 1 tiểu đội 11 người.

19. Sở Khoáng chất (nay là Tổng cục Địa chất): 2 tiểu đội 23 người.

20. Bộ Quốc dân kinh tế (nay là Bộ Tài chính): 2 tiểu đội 26 người.

21. Nhà thương Đồn Thủy (nay là Quân y viện 108): 2 tiểu đội 25 người.

22. Phía nam Nhà thương Đồn Thuỷ: 1 đại đội 147 người.

23. Khu Lò Lợn (sau là Lò sát sinh): 308 người (Khu bộ).

24. Nhà Đúc tiền (nay là thêu ren xuất khẩu, phố Lò Đúc): 1 tiểu đội 11 người.

25. Nhà rượu (phố Nguyễn Công Trứ): 1 tiểu đội 16 người.

26. Trại Vệ quốc đoàn Trung ương (40 phố Hàng Bài): 2 trung đội 63 người.

27. Thư viện Bác Cổ (nay là Thư viện khoa học): 1 tiểu đội 11 người.

28. Trường Đồng Khánh (nay là Trường Trưng Vương): 1 trung đội 40 người.

29. Trụ sở liên lạc Việt - Pháp (số 21 Bà Triệu): 2 tiểu đội 27 người (gác chung với
quân Pháp).

30. Thông tin tuyên truyền (ở phố Trần Hưng Đạo): 1 tiểu đội 12 người.

31. Quân y viện Trung ương (nay là Bệnh viện C): 1 tiểu đội 13 người.

32. Đề lao Trung ương (Hoả Lò): 1 trung đội 44 người.

33. Nhà ga: 1 tiểu đội 11 người (gác chung với quân Pháp).

34. Nhà công binh Star (góc đại lộ Lý Thường Kiệt và phố Phan Bội Châu): 1 tiểu đội
11 người.

35. Số 52, 54 Trần Nhân Tông: 1 trung đội 51 người.


36. Trường Phan Sào Nam: 3 tiểu đội 38 người.

37. Thanh niên cứu quốc (ở phố Lê Đại Hành): 1 tiểu đội 15 người.

38. Trại Hàn Lâm: 1 trung đội 35 người.

39. Làng Tám: 1 tiểu đội 13 người.

40. Làng Sét: 1 tiểu đội 14 người.

41. Pháo đài Bạch Mai: 1 trung đội 37 người.

42. Vĩnh Tuy: 1 tiểu đội 11 người.

43. Sở Vô tuyến điện (Ngã Tư Vọng): 2 trung đội 60 người.

44. Kim Liên: 2 tiểu đội 23 người.

Liên khu III (phía tây thành phố):

Tổng số: 978 người do đồng chí An Giao chỉ huy. Về sau đồng chí Lê Quân chỉ huy.

Căn cứ: Ô Cầu Giấy

45. Trường bay Bạch Mai: 1 đại đội.

46. Ngã Tư Sở: 1 trung đội 33 người.

47. Khuơng Hạ: 1 tiểu đội 11 người.

48. Khương Thượng: 1 tiểu đội.

49. Khương Trung: 1 trung đội 30 người.

50. Cự Lộc: 1 trung đội 40 người.

51. Nhà máy tóc (Ô Chợ Dừa): 1 trung đội 32 người.

52. Phố Hàng Bột: 1 trung đội 42 người.

53. Trại Khách (Ô Chợ Dừa): 1 trung đội 41 người.

54. Nhà dầu Khâm Thiên: 1 tiểu đội 17 người.

55. Sở Tài chính (gần đường Hùng Vương và Ngọc Hà): 2 tiểu đội 26 người.

56. Kho bưu điện phố Tôn Thất Thuyết: 1 tiểu đội 10 người.

57. Sở Đúc tiền (gần bến ô tô Kim Mã): 1 trung đội 41 người.

58. Đình làng Kim Mã: 1 trung đội 39 người.


59. Trại con gái Ngọc Hà: 1 tiểu đội 12 người.

60. Nhà Đông Hải: một nửa tiểu đội 4 người

61. Quần Ngựa: 2 tiểu đội 24 người.

62. Nhà dầu Tam Đa: 1 tiểu đội 12 người.

63. Đường Cam Lộ: 2 tiểu đội 28 người.

64. Ngã tư Cầu Giấy: 2 trung đội 53 người.

______________________

Vụ Ôn Như Hầu, đường Quán Thánh, Châu Long, sào huyệt của bọn phản động
Quốc dân đảng

Sau khi Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam lục tục trốn theo bọn
Tàu - Tưởng rút khỏi Việt Nam thì hai tổ chức: Việt Nam Quốc dân đảng còn lại trong nước và
Đại Việt liền họp với nhau để hợp nhất hai đảng và đổi tên là Quốc dân đảng. Quốc dân đảng bầu
ra Trương Tử Anh thủ lĩnh Đại Việt làm đảng trưởng. Giặc Pháp ra sức giúp đỡ Quốc dân đảng,
trong đó chủ yếu là Đại Việt, ráo riết thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền ta. Chúng thường tổ
chức ám sát những Pháp kiều hoặc lính Pháp đi lẻ tẻ để mượn bàn tay Pháp tiêu diệt dần dần lực
lượng của ta làm cho chúng ta suy yếu. Đến mức độ nào, giặc Pháp sẽ giúp đỡ bọn phản động lật
đổ Chính phủ ta, lập chính quyền bù nhìn tay sai. Mặt khác, chúng ra sức tìm cách ám sát các
đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ ta. Về hoạt động công khai, chúng tổ chức lực lượng
vũ trang riêng, đóng trụ sở riêng, xuất bản báo chí riêng. Sau khi ta lấy đầy đủ tài liệu chứng cớ
về kế hoạch lật đổ Chính phủ ta của chúng vào ngày 14 tháng 7 do thực dân Pháp chủ mưu, thì
trước đó 2 ngày, tức là 5 giờ sáng ngày 12 tháng 7, chúng ta đã tấn công trụ sở bọn Đại Việt ở số
132 phố Đuy-vi-nhô (Duvigneau), bắt sống hơn 20 tên mình trần, đang nằm ngủ ngổn ngang với
một chiếc máy in chưa khô mực, khuôn chữ chưa kịp tháo ra và từng đống truyền đơn, yết thị kêu
gọi lật đổ Chính phủ ta, lập chính quyền phản động. Bảy giờ sáng ngày 12 tháng 7, các lực lượng
vũ trang nhân dân lại tiếp tục tấn công vào ba trụ sở Quốc dân đảng ở hồ Thiền Quang. Ở đây có
một tên phát xít Nhật làm cố vấn và một lớp huấn luyện trên 70 tên được chúng thường tung đi
rải truyền đơn khiêu khích. Bọn này dùng trung liên bắn lại tự vệ và công an ta rất kịch liệt. Đến
khi ta phong toả mạnh, uy hiếp hoả lực của chúng thì chúng đầu hàng. Tại nhà số 7 phố Ôn Như
Hầu, ta bắt được Phan Kích Nam, ủy viên ban chấp hành trung ương của Việt Nam Quốc dân
đảng, cầm đầu bọn này. Đây là sào huyệt của bọn chuyên nghề bắt cóc, giết người, tống tiền. Một
buồng tắm nhỏ có đủ dụng cụ tra tấn ngổn ngang, máu me bê bết chung quanh tường. Ngoài vườn
từng đống xác người bị chặt vụn chôn dưới bụi chuối. Trong nhà để xe có một người hàng giò bị
trói, vứt nằm còng queo dưới đất. Trong những xác người bị rữa, có người đạp xích lô, bà hàng
rong và những người mà chúng nghi là có nhiều tiền của, v.v...

Tám giờ tối hôm đó, ta tiếp tục đánh vào các trụ sở của chúng ở khu vực Quán Thánh,
nhất là căn nhà số 80 phố Quán Thánh là cơ quan báo chí của chúng. Trong ngày 12 tháng 7, bọn
phản động tập trung về Quán Thánh để dựa vào thế lực giặc Pháp trong thành. Khi ta bao vây,
chúng dùng súng trường, súng máy bắn trả lại ta kịch liệt. Một mặt chúng cho người đi cầu giặc
Pháp cứu viện. Khoảng 10 giờ đêm, xe thiết giáp của Pháp lù lù tiến đến. Pháo binh, súng cối của
Pháp bắn xiên hồi vào vị trí của ta. Nhưng đại biểu của ta trong phái đoàn Liên kiểm lập tức đến
can thiệp. Không có lý do gì để nhúng tay vào công việc nội trị của chúng ta, lại không muốn tự
lật tẩy mình, nên bọn Pháp bắt buộc phái rút lui. Trong lúc đó, chúng ta xung phong vào bắt toàn
bộ đầu sỏ, trong đó có Xuân Tùng, Khái Hưng, Phan Khôi, v.v... Ở đây, ta cũng phát hiện ra rất
nhiều người bị chúng bắt cóc, chôn sống, chôn đứng, chặt nửa người, vùi người dưới sân Trường
Yên Thành và trong các trụ sở của bọn chúng. Nhân dân Hà Nội đều được chứng kiến những sự
thật dã man vô nhân đạo của bọn bán nước này.

Đêm 12 tháng 7, mọi việc thanh toán bọn phản động Quốc dân đảng ở Hà Nội đều làm
gọn. Cuộc diễu binh ngày 14 tháng 7 của giặc Pháp không có nữa. Âm mưu thâm độc của thực
dân Pháp định dùng bọn tay sai phản động lật đổ Chính phủ ta bị hoàn toàn thất bại.

CHỈ THỊ

Về việc chuẩn bị phá hoại cầu cống, đường sá…

Xét tình thế nhiệm vụ, trong mỗi khu cần phải có một tiểu ban phá hoại, đặt trong tổ
tác chiến của Bộ tham mưu khu.

Tiểu ban phải:

1. Nghiên cứu để đặt một kế hoạch phá hoại những đường nào cần phá, quãng đường
nào cần phải phá ngay. Muốn như thế, các nhân viên trong tiểu ban trước hết phải nghiên cứu trên
bản đồ chung. Rồi thân đến tận nơi để nhận xét địa thế. Những nơi ở ruộng khô, không nên phá
mà chọn những nơi hai bên là ao hay hồ hoặc những nơi hai bên có cây cối rậm rạp có thể lợi
dụng chiến đấu được. Nếu ở rừng núi thì chọn những nơi dưới thấp, trên cao, dưới suối, trên rừng
hoặc những đường độc đạo ngoắt ngoéo. Mỗi nơi định phá, phải đặt kế hoạch rõ ràng như phá
rộng bao nhiêu, đào sâu bao nhiêu, dài bao nhiêu.
2. Giao nhiệm vụ rõ ràng. Nơi có bộ đội đóng thì đặt kế hoạch giao bộ đội phụ trách
phối hợp với dân quân. Nơi không có bộ đội thì phải giao kế hoạch cho ủy ban bảo vệ, rồi ủy ban
bảo vệ chia cho dân làng, như mỗi làng phụ trách một quãng dài bao nhiêu để lúc có lệnh phá là
họ đã biết cách phá và nơi phá.

3. Đi kiểm tra. Nhiệm vụ giao rồi phải đi kiểm tra xem nơi đó đã làm hay chưa, đồng
thời phải đặt cho họ những phương tiện như tập trung các dụng cụ để lúc cần có thể làm được
ngay hoặc sau khi ra lệnh phá hoại rồi, phải xem có đúng như ý định của tiểu ban không.

Khi nào phá và ai ra lệnh phá? - Chỉ khi chiến sự đã bùng nổ và cần phải ngăn cản sự
tiến quân của địch thì lúc đó mới được hạ lệnh phá hoại. Lệnh này sẽ do Bộ chỉ huy khu hạ
xuống. Phải đặc biệt chú ý đến đường rút lui của các cơ quan. Trong những khu an toàn phải bảo
vệ đường sá để sự giao thông khỏi bị ngừng trệ.

Riêng về phá cầu cống phải liên lạc với các kỹ sư hoặc nhân viên công chính để họ
giúp đỡ kế hoạch. Chỗ nào khó phá hoặc phá mất nhiều công thì phải dùng mìn. Những cầu dài 4
thước không nên phá.

Phá đường sắt: nên tháo những đường ray mang vứt xuống sông hay ao, như thế đến
khi cần thiết lại lấy lên dùng được. Những nơi đó nên cuốc nền đá rải ở đường và lật những khúc
gỗ đặt dưới thanh “tà vẹt” (traverses). Nên chú ý phá hoại những nơi bẻ ghi thì có kết quả hơn.

Chỉ thị này các khu phải triệt để thi hành.

Hà Nội, ngày 9 tháng 12 năm 1946.

Tổng tham mưu trưởng

Hoàng Văn Thái

______________________

Mệnh lệnh chuẩn bị

(Gửi toàn thể Vệ quốc đoàn, dân quân, tự vệ và công an xung phong toàn thành)

Mấy ngày nay, địch đã có một âm mưu khởi hấn.

Chứng cớ là chúng đã chuẩn bị gấp về quân sự như đặt ổ súng ở các phố, các nhà tư
nhân và vận chuyển lương thực, khí giới để tích trữ ở các nơi đó. Chúng chuyển quân đến các nơi
như Nhà thương Đồn Thuỷ, Trường Bưởi, Hotel Métropole, v.v...

Gần đây, ngày 17 tháng 12 năm 1946, chúng đã vây bắn các tự vệ phố Hàng Bún.
Ngày 18 tháng 12 năm 1946, chúng chiếm Sở Tài chính và đòi tước vũ khí của cả bộ đội ta. Hơn
nữa, chúng hạ tối hậu thư cho Chính phủ ta hẹn tới ngày 20 tháng 12 năm 1946 sẽ tước hết quyền
trị an.

Những sự chuẩn bị ráo riết và hành động khiêu khích ấy là một triệu chứng chúng sắp
đánh úp ta thực sự.

Vì danh dự của Tổ quốc, vì quyền lợi của dân tộc, chúng ta quyết không chịu lùi bước.

Vậy hạ lệnh cho toàn thể:

Vệ quốc đoàn, dân quân, tự vệ và công an xung phong toàn thành từ giờ phút này phải
chuẩn bị gấp để chờ lệnh. Bất kỳ lúc nào, nếu nhận được lệnh: Toàn thể bộ đội, dân quân cũng
như tự vệ, công an phải anh dũng đánh lại địch theo như nhiệm vụ của từng đơn vị đã định trong
kế hoạch.

Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1946.

Chủ tịch ủy ban Chính trị ủy viên Khu trưởng kiêm

kháng chiến Khu XI Phó chủ tịch

Khu XI Ủy ban kháng chiến Khu XI

Nguyễn Văn Trân Trần Độ Vương Thừa Vũ

______________________

Mệnh lệnh của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp

Mệnh lệnh chiến đấu

(Gửi các đơn vị Vệ quốc quân, dân quân, tự vệ Trung, Nam, Bắc)

Tổ quốc lâm nguy.

Giờ chiến đấu đã đến!

Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi
ra lệnh cho toàn thể bộ đội, Vệ quốc quân, dân quân, tự vệ Trung, Nam, Bắc phải nhất tề đứng
dậy.

Phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.

Hy sinh đến giọt máu cuối cùng.

Luôn luôn khăng khít với đồng bào.


Cuộc kháng chiến sẽ trường kỳ và vô cùng gian khổ, nhưng chính nghĩa thuộc về ta,
chúng ta nhất định thắng lợi.

Tiêu diệt thực dân Pháp!

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Kháng chiến thắng lợi muôn năm!

Quyết chiến!

Ngày 19 tháng 1 năm 1946

VÕ NGUYên GIÁP

______________________

Trích: KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN

Chương trình đối phó với kế hoạch trên của địch

1. Triệt để thực hiện thuật “nhà không vườn trống”.

2. Tuyệt đối phá hoại nhà gác hai tầng và đường giao thông (cắt đường, đào hầm, đắp
ụ).

3. Triệt để áp dụng vận động chiến cho thật linh hoạt.

I. Mấy điểm cần phải làm ngay

1. Phải mắc liên lạc giữa các trung, đại đội, tiểu, trung đoàn với Bộ chỉ huy cho thật
chặt chẽ ngay.

2. Một người chiến đấu viên phải luôn luôn mang theo trong mình từ 2 đến 3 ngày
lương khô.

3. Một đội phải chọn lọc lấy ban trinh sát để làm tai mắt cho mình đi sục sạo các động
tĩnh của địch (xích hầu).

4. Đạn không được giữ cả hòm, để một chỗ, phải chia ra làm nhiều phần và giao cho
người phụ trách vận chuyển cho thật nhanh.

5. Bỏ hết những đồ kềnh càng, chỉ mang theo mỗi người một gói nhỏ rất nhẹ: chăn,
quần áo, thuốc, lương khô, vũ khí, v.v... Còn bàn giấy của các tiểu đoàn cần đem đi những vật gì
cần thiết như: máy chữ, giấy má quan hệ. Mang theo nhẹ nhàng bao nhiêu chuyển động sẽ được
nhanh chóng bấy nhiêu.
II. Mấy phép dùng binh(16)

- Tập kích - Phục kích - Đánh chẹn đường, bố trí phục binh yểm hộ rút lui - Đánh quấy
rối - Dương đông kích tây - Di động vị trí, v.v...

III. Mấy điểm không nên đánh

1. Không rõ được địch thì không nên đánh.

2. Không đánh trận địa chiến với địch.

3. Không đương đầu với hoả lực mạnh của địch.

4. Không có kế hoạch rõ ràng, chắc chắn, không nên đánh.

5. Không thủ hiểm ở một chỗ nào lâu.

IV. Nhận mấy mục đích này để diệt địch

1. Làm tiêu hao rất nhiều đạn dược của địch.

2. Tiêu diệt lực lượng địch.

3. Cướp súng đạn của địch để diệt địch.

Quá trình hình thành “Hà Nội 60 ngày khói lửa”


Năm 1962, anh Vương Thừa Vũ đưa cho tôi cuốn “Bút ký chiến sự lục”, để nghiên cứu
và giúp anh viết thành sách ký sự. Cuốn “Bút ký chiến sự lục” dày khoảng 600 trang, là loại nhật
ký chiến đấu, ghi đầy đủ các trận chiến đấu trong ngày kèm theo sơ đồ, từ khi Hà Nội bắt đầu nổ
súng cho đến khi trung đoàn Thủ Đô - Liên khu I rút khỏi Hà Nội.

Anh Vương Thừa Vũ cho tôi về Hà Nội ở hẳn tại Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 17
Lý Nam Đế - nay là Điện ảnh Quân đội. Anh Lư Giang (Giám đốc), anh Cẩn (Phòng Quân sự)
thu xếp cho tôi nơi ở và làm việc rất chu đáo. Hàng ngày tôi cùng anh em Nhà xuất bản sang số 8
Lý Nam Đế ăn cơm tập thể.

Theo thư của anh Vương Thừa Vũ, tôi đi gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các anh
Hoàng Văn Thái, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân, Trần Độ và nhiều cán bộ chỉ huy mặt trận
Hà Nội năm 1946 để hỏi và ghi chép tỉ mỉ về viết sách. Theo sơ đồ địch bố trí ở các khu phố và
nơi xảy ra các trận đánh, tôi đi đến tận nới nghiên cứu, đối chiếu địa danh với tài liệu, gặp cán bộ
chỉ huy để viết từng trận cho chính xác. Có khi tôi phải ngồi hàng tuần trong Thư viện Quốc gia
để đọc các tài liệu, báo chí của ta và của địch viết về cuộc chiến đấu của Hà Nội năm 1946 đối
chiếu với “Bút ký chiến sự lục”. Cứ như thế hơn một năm thì hoàn thành sách. Anh Vương Thừa
Vũ cho đánh máy thành nhiều bản gửi xin ý kiến cấp trên và các anh chỉ huy lãnh đạo mặt trận
Hà Nội (1946). Từng anh ghi ý kiến vào bản thảo rồi gửi lại cho anh Vũ để bổ sung, sửa chữa.
Riêng Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho anh Hoàng (thư ký) gọi tôi đến. Sau lời động viên, Đại
tướng nói: “Phải viết lại phần đầu, vì từ trước đến nay báo chí ta đều công bố Pháp nổ súng đánh
úp ta trước. Nay sách nói ta giành chủ động nổ súng đánh trước thì phải xin ý kiến Bác Hồ và xin
ý kiến Bộ Chính trị”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn nói thêm: “Đến thời điểm nào đó thì ta có
thể công bố được, nay thì chưa công bố được. Cuộc chiến đấu ở Hà Nội mới được hơn 10 năm”.

Anh Vương Thừa Vũ và tôi chấp hành ý kiến chỉ đạo đó về sửa chữa lại, đến cuối năm
1964 sách được xuất bản.

Hơn 10 năm sau, năm 1976 Nhà xuất bản Quân đội nhân dân cho tái bản. Lần này có
thuận lợi là anh Nguyễn Viết Nhâm - cán bộ của Nhà xuất bản là người đã từng chiến đấu ở Liên
khu II tại các phố Mai Hắc Đế,Triệu Việt Vương... trực tiếp biên tập sách “Hà Nội 60 ngày khói
lửa”. Anh giới thiệu với tôi đi gặp những cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ở Hà Nội thời đó để bổ sung
và anh Nhâm cũng đã giúp đỡ tôi sửa chữa bổ sung thêm.

Năm mươi năm sau ngày Toàn quốc kháng chiến - năm 1996 sách được tái bản lần thứ
3 do Nhà xuất bản Hà Nội thực hiện. Năm nay, 2006 - như vậy là 60 năm sau kể từ “ Bút ký chiến
sự lục”, các anh chỉ huy lãnh đạo mặt trận Hà Nội cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ chiến đấu bảo vệ
Hà Nội năm 1946 - nhiều người đã ra đi về cõi Vĩnh Hằng.

Sách tái bản lần này như một nén hương thơm tưởng nhớ và biết ơn các anh cùng nhân
dân đã ngã xuống mảnh đất Thủ đô Hà Nội, để Hà Nội có được như ngày nay.

Thiếu tướng. TS NGUYỄN CHU PHÁC

______________________

Xây dựng lực lượng và huấn luyện quân sự cho các chiến trường

(Tuyển luận văn quân sự)

Đặc điểm và giá trị địa hình nước ta với vấn đề quân sự (17)

Địa hình là sự vật khách quan vô tri vô giác. Địa hình không chỉ thay đổi từ trạng thái
nọ sang trạng thái kia một cách nhanh chóng như các sự vật khác mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến
mọi hành động trong lĩnh vực quân sự. Vì ngoài vũ khí là phương tiện để tiến hành chiến tranh thì
địa hình là một nhân tố hết sức quan trọng. Nó là một trong những nguyên nhân thắng lợi hoặc
thất bại của hoạt động quân sự. Trong chiến tranh, con người nhận thức được tính chất của địa
hình, phân tích nhận định được giá trị của địa hình đối với ý định hoạt động quân sự, cải tạo địa
hình, biến địa hình, địa vật thành cái phù hợp với ý định con người. Như vậy qua nhận thức, tác
động của con người thì địa hình cũng trở nên có tác dụng tích cực.

Bất cứ tiến công hay phòng ngự, yếu tố địa hình đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của chiến đấu. Nhất là phía phòng ngự, có thời gian chuẩn bị, có ý định phòng thủ đối
với từng mục tiêu thì yếu tố địa hình càng trở nên quan trọng. Năm 1946 giặc Pháp một lần nữa
xâm lược nước ta, bước đầu tiên chúng chiếm các cửa ngõ giao thông, các thành phố, nối liền các
trục đường lớn rồi tỏa dần ra xâm chiếm cả nước. Như ở Bắc Bộ chúng chiếm Hải Phòng - Hà
Nội - Nam Định, trục đường số 5, số 1, v.v… để khống chế khu tam giác đồng bằng hòng chiếm
nguồn nhân lực vật lực của chúng ta. Nhưng dưới sự chỉ đạo tài tình của Đảng, chúng ta đã tiến
hành cuộc chiến tranh lâu dài, toàn dân và toàn diện nên đã chiến thắng kẻ địch. Năm 1952 giặc
Pháp đánh chiếm Hòa Bình để cắt đứt liên lạc giữa Liên khu 4 và chiến khu Việt Bắc. Nhưng
chúng ta đã phản công quyết liệt, đánh bại cuộc tiến công của chúng, bắt chúng phải rút khỏi Hòa
Bình. Nhưng cuộc chiến tranh sau này nếu xảy ra, do tình hình xây dựng phát triển kinh tế của
chúng ta có khác trước, trong tác chiến phòng ngự, căn cứ vào ý định chung của chiến lược chúng
ta không dễ dàng từ bỏ các mục tiêu kinh tế, chính trị, các đường giao thông quan trọng, do đó
vấn đề yểm hộ các địa hình quan trọng cũng khác trước, nên cần được nghiên cứu và có kế hoạch
chuẩn bị sẵn sàng.

Trong giai đoạn trước mắt, nếu kẻ địch tiến công chúng ta thì có thể về hỏa lực chúng
vẫn tập trung mạnh hơn, nhất là trong điều kiện sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, hóa học thì sức
tàn phá càng nguy hiểm hơn.

Chúng ta chưa đủ phương tiện để phá hủy những thứ đó tận sào huyệt của địch, chưa
đủ phương tiện hiện đại để phòng ngừa chắc chắn, thì lợi dụng yếu tố địa hình, địa vật và cải tạo
địa hình, địa vật lại càng trở nên quan trọng. Trong huấn luyện, cần tránh chỉ nhấn mạnh một
chiều điều kiện vũ khí hiện đại, vũ khí chống vũ khí mà coi nhẹ phần đặc điểm của ta là phải tích
cực lợi dụng và cải tạo địa hình, biến địa hình trở thành sức mạnh vật chất giảm tác dụng phá hủy
của vũ khí hiện đại của địch, lợi dụng những thế có lợi cho mình chuẩn bị sẵn để đánh bại tiến
công của kẻ địch.

Trong chiến dịch, chiến thuật, bên phòng ngự ít hơn bên tiến công về quân số, vũ khí.
Nhưng bên phòng ngự nếu biết chiếm giữ ở địa hình lợi thế hơn, biết cải tạo địa hình địa vật phục
vụ cho ý định quân sự cộng với yếu tố tinh thần chiến đấu đến cùng thì sẽ làm cho bên tiến công
có hỏa lực mạnh cũng phải thiệt hại nặng, chậm bước tiến hoặc thất bại.
Bờ biển, sông ngòi, đồi núi, làng mạc và đồng ruộng chỉ là những vật thể tự nhiên.
Nhưng bên phòng ngự biết khéo léo lợi dụng và triệt để cải tạo thì địa hình, địa vật không phải là
vật chết nữa mà sẽ trở nên sinh động, tích cực, trở thành sức mạnh vật chất bổ trợ cho tinh thần
chiến đấu bền bỉ. Ngược lại nếu địa hình có tốt mà người chỉ huy chỉ nhấn mạnh mặt vũ khí, coi
nhẹ mặt địa hình, không biết lợi dụng hoặc không tích cực cải tạo địa hình, địa vật thì có khi
chính địa hình tốt ấy sẽ phản lại ý định quân sự hoặc không có lợi gì cho ý định hành động quân
sự.

Thí dụ: kẻ địch tiến công miền Bắc nước ta bằng đường biển, địch ở trên biển cơ động
hơn, có hỏa lực tầm xa và mạnh hơn, đồng thời chúng dùng phương tiện trực thăng đổ quân sâu
vào bên trong, sau lưng ta để phối hợp với quân từ biển tiến công lên. Nhưng đứng về mặt địa thế
mà nói thì địch ở thế bị kẹt vào eo biển vịnh Bắc Bộ và đảo Hải Nam. Ta ở trên đất liền, nếu cải
tạo bờ biển và tung thâm lục địa có công sự tốt là thế của ta vững chắc hơn.

Địa hình ở đồng bằng là nơi địch dễ dàng đổ bộ tiến công từ đường biển lên, tiện phát
huy uy lực của binh khí kỹ thuật hiện đại. Nhưng nếu ta biết tích cực cải tạo và lợi dụng triệt để
thì sẽ biến làng mạc, sông ngòi thành những điểm chốt đề kháng cố thủ, ngăn chặn được địch, và
dựa vào thế tổ chức trận địa sẵn mà phản kích, phản công tiêu diệt địch. Nghiên cứu địa hình
quân sự nếu tách rời từng bộ phận thì dễ thấy bị cô lập, yếu thế. Nhưng nhìn bao quát, liên hệ
phạm vi nhỏ trong phạm vi lớn thì phân tích mạnh yếu của địa hình càng rõ ràng hơn. Địa hình
đất nước ta dài và hẹp, lại có nhiều sông ngòi chia cắt ra từng khu vực. Từ những đặc điểm đó của
địa hình nên ảnh hưởng đến hành động quân sự của hai bên ta và địch, địch không thể tiến công
chiến tuyến với diện rộng được, mà ta có phòng ngự cũng không thể nào phòng ngự theo chiến
tuyến liên tục được, cho nên tác chiến ở từng khu vực, trên từng chiến trường vẫn là phổ biến.
Mặt khác, xem xét địa hình cụ thể lại phải luôn luôn theo dõi sự biến đổi của địa hình trong giai
đoạn kiến thiết kinh tế và theo dõi ảnh hưởng của thời tiết khí hậu từng mùa (mùa mưa, nước
thủy triều, v.v.) đối với giá trị của địa hình vì nó quan hệ trực tiếp đến ý định hành động quân sự.

Quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của đảng trong mọi nội dung huấn luyện

Như đã khẳng định, đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng là kim chỉ nam
cho mọi hành động quân sự của các lực lượng vũ trang ta.

Trong công tác huấn luyện, đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng trước hết phải thể
hiện ở tư tưởng chỉ đạo tác chiến, ở những nội dung kỹ thuật, chiến thuật cụ thể, ở hành động
chiến đấu của bộ đội, nghệ thuật chỉ huy của cán bộ.
1. Quán triệt đầy đủ tư tưởng chiến lược tiến công, nâng cao tính khoa học và sáng tạo
trong nội dung huấn luyện.

Tư tưởng tiến công là cơ sở tư tưởng của chiến lược cách mạng và chiến tranh cách
mạng Việt Nam. Nó xuất phát từ tính chất cách mạng triệt để trong đường lối chính trị và quân sự
của Đảng ta. Nó xuyên suốt mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu của các lực lượng vũ trang
nhân dân ta, là cốt tủy của nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân.

Tư tưởng chiến lược tiến công thể hiện ở hành động tích cực tiến công tiêu diệt địch
một cách kiên quyết, liên tục và toàn diện, bằng mọi lực lượng, mọi vũ khí, mọi hình thức với
mọi quy mô ở mọi nơi, mọi lúc. Tư tưởng tiến công phải được quán triệt nhuần nhuyễn trong mọi
suy nghĩ, mọi hành động của các lực lượng vũ trang ta, trong các phương thức tác chiến, trong
các hình thức tác chiến tiến công cũng như tác chiến phòng ngự.

Tiến công và phòng ngự tuy là hai hình thức tổ chức chiến đấu cụ thể khác nhau,
nhưng cả hai đều phải quán triệt tư tưởng tiến công, lấy tư tưởng tiến công làm tư tưởng chỉ đạo.

Tác chiến phòng ngự có tư tưởng chỉ đạo riêng là: tích cục chiến đấu, kiên cường giữ
vững trận địa, ngăn chặn địch kết hợp chặt chẽ với tích cực đánh phản kích tiêu hao, tiêu diệt
sinh lục địch, đồng thời tạo điều kiện cho lục lượng cơ động thực hành phản công tiêu diệt địch.
Tư tưởng chỉ đạo đó nói lên rất rõ tư tưởng tiến công trong hình thức tác chiến phòng ngự. Nếu
quan niệm phòng ngự chỉ là ngăn chặn địch và đánh tiêu hao đơn thuần thì sẽ co mình vào thế bị
động trong công sự trận địa. Như vậy, dù công sự trận địa có kiên cố đến mấy, không sớm thì
muộn cũng bị cô lập và rơi vào tay địch. Cho nên, trong tác chiến phòng ngự, ta phải tích cực
chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt nhiều lực lượng của địch mới giữ được trận địa, mới tạo thế cho lực
lượng cơ động đến thực hành phản công tiêu diệt toàn bộ quân địch. Từ nội dung phán đoán về
địch đến những nội dung cần xác định trong quyết tâm chiến đấu phòng ngự chốt giữ như: thế
trận chiến đấu phòng ngự, thế trận phản kích và thế trận thực hành phản công, tổ chức chiến đấu,
tổ chức hiệp đồng, các cách đánh, các thủ đoạn chiến đấu, v.v… đều phải thể hiện tư tưởng tích
cực kiên cường giữ vững trận địa, tạo mọi thời cơ tích cực tiến công tiêu diệt quân địch.

Tư tưởng tiến công còn phải được quán triệt trong các điều lệnh: nội vụ, đội ngũ, cảnh
bị; trong kỹ thuật, chiến thuật và tác phong sinh hoạt của bộ đội. Huấn luyện là để chiến đấu. Nếu
cán bộ không tự mình quán triệt và không truyền đạt cho chiến sĩ quán triệt tư tưởng tiến công
tiêu diệt địch trong các nội dung kỹ thuật, chiến thuật, các tư thế, động tác, yếu lĩnh chiến đấu thì
chẳng qua đó chỉ là những hành động máy móc, không có linh hồn mà thôi.

Chúng ta chỉ cần nêu một vài dẫn chứng thực tế là có thể thấy rõ điều đó.
Công tác giáo dục, rèn luyện bộ đội chấp hành điều lệnh có mục đích đưa toàn bộ hoạt
động của bộ đội vào nền nếp thống nhất, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật, tính tập trung, tính
khoa học nhằm đạt đến hành động kiên quyết và nhất trí, đến sự phối hợp chặt chẽ giữa mọi bộ
phận của quân đội trong chiến đấu.

Rèn luyện đội ngũ không phải là để phô trương hình thức, cũng không phải chỉ để
duyệt binh. Mục đích cơ bản của nó là xây dựng cho mỗi chiến sĩ, mỗi đơn vị những động tác
chiến đấu cơ bản nhất, rèn luyện tính tập trung thống nhất, ý thức tổ chức kỷ luật cao, tư thế
nghiêm trang hùng mạnh, khẩn trương hoạt bát, tinh thần bền bỉ dẻo dai, v.v… Tất cả đều phải
nhằm phục vụ chiến đấu, làm cơ sở cho tư tưởng tiến công tiêu diệt địch.

Các kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, đào công sự, v.v… lúc dùng vào nhiệm
vụ này, lúc dùng vào nhiệm vụ khác, nên có thể vận dụng rất linh hoạt, nhưng về mặt tư tưởng thì
nhất thiết đều phải thể hiện tư tưởng tiến công. Chẳng hạn, đào công sự chiến đấu mà không quán
triệt tư tưởng tiến công thì khi đào hoặc chỉ huy đào chỉ đơn thuần coi đó là hầm hố ẩn nấp và
người ngồi trong công sự chỉ biết nghĩ đến việc bảo tồn mình. Hầm hố chiến đấu phải bảo đảm ẩn
nấp tốt nhưng cuối cùng vẫn phải bảo đảm tiêu diệt được địch và cơ động thuận tiện, lúc tập trung
hướng này, lúc tập trung hướng khác, tạo điều kiện tiêu diệt địch trong tiến công và tiêu diệt địch,
giữ vững trận địa trong phòng ngự.

Huấn luyện khoa mục canh gác phải nhằm mục đích xây dựng cho chiến sĩ tinh thần
sẵn sàng chiến đấu cao nhất: kiên cường, bình tĩnh, tinh khôn sắc sảo, tư thế đi đứng nghiêm
trang hùng dũng, tác phong nhanh nhẹn dứt khoát, tai thính, mắt tinh, phát hiện địch kịp thời, xử
trí đúng với mọi tình huống, phân biệt được người ngay với kẻ gian, chủ động tiến công tiêu diệt
địch, bảo đảm an toàn cho đơn vị.

Nội dung chiến thuật của cấp nào cũng phải quán triệt tinh thần chủ động tiến công,
kiên quyết và táo bạo, tiến công địch bằng nhiều hình thức, trong mọi tình huống. Nếu không
quán triệt đầy đủ tư tưởng tiến công thì có khi biết đánh mà không dám đánh, bỏ lỡ thời cơ hoặc
không tạo được thời cơ để tiêu diệt địch.

Nói tóm lại, nghệ thuật quân sự của ta phải thấm nhuần rất sâu sắc tư tưởng tiến công.
Huấn luyện quân sự là công tác dạy và luyện cho bộ đội nắm vững nghệ thuật quân sự để đánh
thắng địch trên chiến trường, hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng. Do đó, bất
cứ nội dung huấn luyện nào về chiến thuật, kỹ thuật, điều lệnh, v.v… cũng đều phải thấm nhuần
tư tưởng tiến công. Tư tưởng tiến công là linh hồn của nội dung huấn luyện. Quá trình huấn luyện
chính là quá trình xây dựng cho bộ đội quyết tâm và bản lĩnh tiến công tiêu diệt địch.
Nâng cao tính khoa học trong nội dung huấn luyện trước hết là nhận thức đúng đắn
thực tế khách quan về địch, về địa hình, thời tiết, bám sát thực tiễn chiến đấu trên cơ sở đó giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ, định ra các biện pháp tác chiến, các hình thức chiến thuật, cách
tổ chức lực lượng thích hợp nhất, có lợi nhất, tạo nên sức chiến đấu mạnh hơn địch để tiêu diệt
địch nhanh, gọn, giòn giã. Huấn luyện một cách khoa học tức là huấn luyện thế nào để người cán
bộ, chiến sĩ biết rõ các điều kiện cụ thể về địch, ta, địa hình, định ra được cách đánh thích hợp,
tận dụng được mọi yếu tố thuận lợi, tạo nên và phát huy được sức mạnh tổng hợp để đánh thắng
địch. Người chiến sĩ phải có khả năng kết hợp chặt chẽ các yếu tố về tinh thần, kỹ thuật, vũ khí,
địa hình, thời tiết trong điều kiện không gian, thời gian nhất định, trong mọi nhiệm vụ, mọi tình
huống để chiến thắng kẻ địch. Người cán bộ phải biết căn cứ vào chủ trương nhiệm vụ và tình
hình thực tế mà vận dụng cách đánh, cách tổ chức lực lượng và tổ chức đội hình chiến đấu, biết
hành động mưu trí sáng tạo trong mọi tình huống, phát huy và tận dụng cao độ chỗ mạnh của đơn
vị mình cũng như của đơn vị bạn để đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch.

Vừa qua, quân và dân miền Nam nước ta đã đánh thắng đội quân xâm lược của đế
quốc Mỹ, đông quân, giàu tiền của, nhiều súng đạn và có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao.
Thế tiến công của chiến tranh nhân dân ở miền Nam từ nhỏ bé, cục bộ tiến lên to lớn, toàn bộ, kết
hợp nhiều mặt đấu tranh, trên nhiều địa bàn, nhiều hướng chiến lược. Tình hình đó đòi hỏi lực
lượng vũ trang nhân dân giải phóng có một năng lực tổ chức rất cao, rất khoa học mới góp phần
cùng lực lượng chính trị tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh địch có hiệu quả nhất, giành thắng
lợi cao nhất, còn mình thì tổn thất ít nhất.

Kinh nghiệm của Quân giải phóng miền Nam đã chỉ rõ: muốn vậy mọi nội dung huấn
luyện quân sự, từ động tác kỹ thuật đến chiến thuật, từ cá nhân đến đơn vị đều phải quán triệt
đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng. Một chiến sĩ trước khi hành quân chiến đấu, trước giờ nổ
súng, trước khi hoàn thành một nhiệm vụ, v.v… phải chuẩn bị những gì, chuẩn bị như thế nào,
phải thành thạo động tác, phải suy nghĩ, phán đoán ra sao, phải giữ liên lạc với bạn, với cấp trên,
phải độc lập xử trí tình huống như thế nào, v.v… nhất nhất đều phải làm được, làm đúng, biết làm
gì trước, biết làm gì sau... Đối với cán bộ thì yêu cầu càng cao hơn. Đó là năng lực tổ chức nắm
tình hình, nghiên cứu, phán đoán tình hình chính xác, khách quan, đề ra ý định tác chiến đúng, tổ
chức thực hiện nhanh chóng, chính xác, không thừa người, không lãng phí súng đạn, không tốn
thời gian. Đó là trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu qua các giai đoạn của chiến thuật, từ một trận
đến nhiều trận liên tiếp. Tính tổ chức, tính khoa học trong nội dung huấn luyện trước hết phải
biểu hiện ở ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết chủ động hiệp đồng, tác phong nghiêm túc,
khách quan, tỉ mỉ, chuẩn xác trong khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề. Nhiều đơn vị trong một
thời gian ngắn đã liên tiếp đánh nhiều trận rất tài tình với những tình huống khá phức tạp. Nhiều
đơn vị trong hoàn cảnh chiến đấu liên tục vẫn kết hợp tốt tác chiến với huấn luyện, huấn luyện
thực sự ngay sát nách địch để bộ đội càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.

Nâng cao tính khoa học trong nội dung huấn luyện là bảo đảm cho bộ đội hoàn thành
nhiệm vụ một cách tốt nhất, bảo đảm cho cán bộ quen nắm vững đơn vị mình, quen tổ chức, phát
huy được cao độ sức mạnh của đơn vị mình để chiến thắng, để cấp nào cũng không bỏ lỡ thời cơ
tiêu diệt địch, cấp nào cũng có thể độc lập, chủ động, tích cực chiến đấu tốt và chiến đấu hiệp
đồng giỏi.

Một vấn đề quan trọng nữa trong nội dung huấn luyện là phải luôn luôn thể hiện tính
sáng tạo của đường lối quân sự của Đảng ta. Trong việc xác định nội dung huấn luyện cho bộ đội,
cần hết sức tránh hiện tượng sao chép một cách giáo điều, máy móc hoặc “cải biên” một cách tùy
tiện, làm hạn chế kết quả huấn luyện. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, chúng ta ngày
càng nhận thức sâu sắc tính độc lập sáng tạo của đường lối quân sự, từng bước nắm và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa “xuất phát từ thực tế của ta” và “học tập bạn có chọn lọc”. Thực tế
chiến tranh đã chứng minh, chỉ có nắm vững quan điểm, tư tưởng của Đảng ta, dựa hẳn vào thực
tiễn của ta, biết kế thừa, phát huy những truyền thống quân sự tốt đẹp của dân tộc ta, dám nghĩ,
dám làm, mạnh dạn sáng tạo, kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, bảo thủ, thì nội dung huấn
luyện mới thể hiện đúng đắn đường lối quân sự của Đảng.

Chính nhờ nắm vững đường lối quân sự của Đảng và biết phát huy tính sáng tạo nên
các binh chủng, quân chủng kỹ thuật đã giải quyết được nhiều khó khăn trong nội dung huấn
luyện kỹ thuật, chiến thuật để đánh thắng địch. Từ thực tiễn chiến đấu, chúng ta đã tìm ra nhiều
hình thức, phương thức tác chiến phong phú, độc đáo Việt Nam, đáp ứng được những đòi hỏi của
cuộc chiến đấu ngày càng phát triển đồng thời góp phần xứng đáng vào việc phát triển lý luận
quân sự cách mạng.

Chúng ta luôn luôn coi trọng và hết sức khiêm tốn học tập những kinh nghiệm rất quý
báu của cách mạng thế giới, nhất là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng cũng chỉ với
tinh thần độc lập, sáng tạo rất cao, chúng ta mới tiếp thụ và vận dụng có kết quả những thành tựu
khoa học, những công trình nghiên cứu của bạn.

Quán triệt và thể hiện đầy đủ tư tưởng tiến công, tính khoa học và sáng tạo trong nội
dung huấn luyện là một quá trình nâng cao nhận thức về đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng.
Đó cũng là quá trình đấu tranh khắc phục những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc, bám sát và phát
hiện những nhân tố mới trên chiến trường. Trong quá trình đó, công tác huấn luyện quân sự phải
phát hiện được kinh nghiệm, đúc kết thành nội dung huấn luyện, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh xây
dựng quân đội tiến lên chính quy và hiện đại, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống
phát triển của chiến tranh.

2. Quán triệt sâu sắc tư tưởng đánh tiêu diệt.

Đánh tiêu diệt là tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta. Đó là biểu hiện của tư
tưởng triệt để cách mạng, là một yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với các lực lượng vũ trang ta,
nhất là đối với các đơn vị chủ lực. Không tiêu diệt gọn từng đơn vị của địch thì không làm tan rã
được lực lượng quân sự của chúng. Không đánh tiêu diệt về chiến thuật, chiến dịch thì không làm
chuyển biến được tình thế, không đánh bại được chiến lược quân sự của địch.

Muốn đánh tiêu diệt thì phải đánh giá địch cho đúng, chọn chiến trường và chuẩn bị
chiến trường cho tốt, tổ chức lực lượng và thế trận đủ sức mạnh, chuẩn bị vật chất đầy đủ, xác
định cách đánh thích hợp. Nhất là trong tình hình địch có số quân đông, có hỏa lực mạnh thì tổ
chức phối hợp chiến trường và hiệp đồng binh chủng phải chặt chẽ và chu đáo tổ chức chỉ huy
phải thông suốt và điều rất quan trọng là các cán bộ chủ chốt phải trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Trong lịch sử chiến tranh giữ nước và chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta,
xưa và nay đều có rất nhiều trận đánh tiêu diệt xuất sắc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, mặc dù quân địch mạnh hơn ta
gấp nhiều lần về vật chất, kỹ thuật, ta vẫn giáng cho chúng những đòn mãnh liệt, vẫn đánh nhiều
trận tiêu diệt gọn bằng nhiều hình thức chiến thuật phong phú.

Trong huấn luyện quân sự, ta phải quán triệt tư tưởng đánh tiêu diệt, từ tinh thần tư
tưởng đến động tác của từng người chiến sĩ, từng cán bộ chỉ huy. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ
thấy: đi đôi với tiêu diệt sinh lực địch thì tiêu diệt cơ quan chỉ huy, phương tiện thông tin và
phương tiện chiến tranh của địch là vô cùng quan trọng. Ngay từ khi chuẩn bị chiến đấu, làm kế
hoạch tác chiến hoặc trong hội nghị quân sự dân chủ, mọi người đều phải nghĩ tới điều đó. Khi
chiến đấu, mọi người phải tìm trăm phương ngàn kế tiêu diệt bằng được cơ quan chỉ huy và
phương tiện chiến tranh của địch, vì có diệt được đầu não thì mới diệt gọn được đơn vị của địch.

Tư tưởng đánh tiêu diệt, đặc biệt quan trọng là tiêu diệt cơ quan chỉ huy địch, cần được
quán triệt ngay trong khi huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật từ phân đội nhỏ trở lên, tạo thành thói
quen ăn sâu trong ý thức tư tưởng của bộ đội.

3. Phát huy yếu tố bí mật, bất ngờ.


Lịch sử chống ngoại xâm ở nước ta, cả xưa lẫn nay đều chứng tỏ rằng dân tộc ta quả
đã có truyền thống đánh giặc giữ nước vô cùng oanh liệt. Đi đôi với truyền thống “cả nước cùng
chung sức” đánh giặc, dân tộc ta còn có tài thao lược, “mưu cao, mẹo giỏi”, nhờ đó mới đánh bại
được những kẻ thù xâm lược phần lớn đều mạnh hơn mình nhiều lần.

Khi nói về “mưu cao, mẹo giỏi”, tổ tiên ta đều nói đến “giữ bí mật, tạo bất ngờ” - một
yếu tố hết sức quan trọng, một điểm nổi bật trong nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
Ngày nay cũng vậy, do có ý chí tiêu diệt địch mạnh mẽ, có đầu óc thông minh sáng tạo, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao và biết luôn luôn dựa vào dân, các lực lượng vũ trang ta đã luôn luôn hành
động bí mật, bất ngờ để đánh thắng địch.

Bí mật, bất ngờ là yếu tố vô cùng quan trọng để thực hiện cách đánh của ta. Chúng ta
phải hết sức giữ bí mật về phương hướng, mục tiêu, thời gian, cách dùng lực lượng, quy mô đánh,
cách đánh, v.v… để tạo bất ngờ, giành quyền chủ động đánh địch những đòn quyết liệt. Chúng ta
hết sức giữ và giành bằng được yếu tố bí mật, bất ngờ trong mọi hành động lớn nhỏ, từ kỹ thuật
đến chiến thuật, chiến dịch, từ động tác của người chiến sĩ đến hành động của các đơn vị lớn.

Nếu cho rằng chúng ta có đủ sức mạnh, có nhiều trang bị vũ khí hiện đại nên không
cần giữ bí mật, cứ dùng sức mạnh chọi với sức mạnh của địch, cứ đánh công khai đàng hoàng
cũng thắng, thì đó là hoàn toàn sai lầm. Nên nhớ rằng ngoài sức mạnh về tinh thần bộ đội, ta có
thể tập trung sức mạnh về trang bị vũ khí hơn địch trong từng trận, trên từng hướng, ở từng mục
tiêu và trong từng thời gian. Nhưng nói chung trang bị của ta không mạnh hơn địch, nhất là về
hỏa lực của không quân và hải quân. Vì thế, hạn chế đến mức tối đa sức mạnh vật chất của địch
chính là nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy của chúng ta. Nếu giữ được bí mật, tạo được bất ngờ, giành
được chủ động thì chúng ta có thể đánh những trận thắng lớn mà tổn thất của ta lại rất ít.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây cũng như trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước ngày nay, kẻ địch thua ta không phải vì chúng thiếu vũ khí, bom đạn. Còn ta
thắng chúng cũng không phải vì ta có nhiều vũ khí, bom đạn hơn chúng mà chính vì ta có đường
lối chính trị, quân sự đúng đắn, lại có nghệ thuật quân sự tài giỏi. Bất ngờ đánh địch về chiến
lược cũng như về chiến thuật, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Nhiều trận chúng ta
thắng oanh liệt vì trong đó có một nguyên nhân là ta đã phát huy được yếu tố bí mật, bất ngờ. Từ
thực tế đó, chúng ta càng thấy mọi nội dung huấn luyện đều phải đạt tới chỗ bảo đảm cho mọi
quyết tâm, mọi việc làm, mọi động tác, mọi quy mô tác chiến đều phát huy được yếu tố bí mật,
bất ngờ một cách linh hoạt, mưu trí và sáng tạo.

4. Giành và giữ quyền chủ động.


Quyền chủ động đây có nghĩa là quyền tự do hành động của bộ đội theo ý định của
mình, phân biệt với thế bị động: nghĩa là bị bức vào trạng thái không tự do. Giữ vững quyền chủ
động thì buộc được đối phương phải bị động theo ý định của ta.

Trong lĩnh vực quân sự, có thể coi quyền chủ động như vận mệnh của bộ đội. Mất
quyền chủ động thì sẽ sa vào trạng thái bị động và có thể dẫn tới thất bại. Một khi đã bị động mà
để trạng thái đó kéo dài thì lại càng lúng túng. Muốn chuyển biến tình hình, khôi phục lại quyền
chủ động, thì phải có ý chí rất kiên quyết, có nghệ thuật tổ chức giỏi và có thể chịu một số tổn
thất nhất định. Vì vậy, giữ quyền chủ động cho bộ đội là điều vô cùng quan trọng. Xưa nay trong
chiến tranh, hai bên đối chiến đều thường phải ra sức giành và giữ quân chủ động cũng như hết
sức tránh thế bị động.

Nhưng giữ quyền chủ động không có nghĩa là tùy tiện, muốn đánh thì đánh, không
muốn đánh thì thôi. Đó là vô kỷ luật trong chiến đấu. Giữ vững chủ động lại càng không có nghĩa
là lấy nó làm cái cớ để che giấu tư tưởng không dám đánh, thoái thác nhiệm vụ. Đó là dao động
chứ không phải chủ động. Giữ quyền chủ động có nội dung rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều
mức độ. Có chủ động chiến thuật, chiến dịch và cũng có chủ động chiến lược. Bài này không bàn
về những vấn đề rộng lớn như vậy mà chỉ thu hẹp trong một vài điểm cụ thể, nhằm nhắc nhở các
đơn vị chú ý vận dụng trong khi huấn luyện.

- Giữ quyền chủ động trong hành quân, trú quân.

Giữ quyền chủ động trong hành quân có nghĩa là bảo đảm cho bộ đội không bị những
bất trắc xảy ra dọc đường, đưa toàn bộ lực lượng tới đích an toàn. Muốn vậy, ta phải tổ chức các
đội, các tổ cảnh giới hành quân ở phía trước, bên sườn và phía sau, tổ chức theo dõi nắm chắc
địch trên không và dưới đất. Tổ chức đội hình hành quân chặt chẽ, quy định tín hiệu, ám hiệu
(mật hiệu) truyền tin, truyền lệnh cho thật nhanh và chính xác. Cán bộ đi trong đội hình theo vị trí
chỉ huy của từng cấp. Kỷ luật hành quân phải thật nghiêm, không để người chạy ra chạy vào hàng
quân lộn xộn. Giờ đi, giờ nghỉ phải thống nhất. Ở chỗ nghỉ dài, phải chọn nơi địa hình bảo đảm
phòng không, phòng pháo tốt. Dù nghỉ ngắn hay nghỉ dài đều phải bố trí cảnh giới. Khi xảy ra
tình huống bất trắc thì mọi người phải hết sức bình tĩnh, trật tự, nghe mệnh lệnh và làm theo
mệnh lệnh của người chỉ huy...

Tất cả những điều trên đều là những nội dung cần huấn luyện kỹ, nhằm mục đích giữ
quyền chủ động trong hành quân chiến đấu. Huấn luyện hành quân mà để bộ đội kéo lê thê dọc
đường, không thành đội hình, cán bộ không nắm chiến sĩ... nhất định sẽ nát về tổ chức và lỏng lẻo
về tư tưởng. Huấn luyện như vậy sẽ tạo thành thói quen vô kỷ luật trong chiến đấu, khi gặp tình
huống bất trắc dễ sa vào thế bị động, nguy hiểm.

Huấn luyện trú quân ở rừng núi hay đồng bằng, làng mạc, ở xa hay ở gần địch đều
phải thực hiện các yêu cầu: phái trinh sát đi nắm địch ở xung quanh nơi đóng quân, nếu có cơ sở
nhân dân thì liên hệ với chính quyền địa phương, phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích, xác
định khu vực trú quân nhanh chóng, xem xét địa hình xung quanh, liên quan đến nơi trú quân. Ở
những điểm quan trọng, phái cảnh giới chiếm giữ địa hình khống chế. Bố trí lực lượng trú quân
thành thế trận, không tập trung vào một nơi, nhưng không quá phân tán; vạch kế hoạch tác chiến,
tổ chức tuần tra canh gác, đặt tín hiệu, ám hiệu, tổ chức thông tin liên lạc, đào công sự chiến đấu,
v.v… Tùy theo tính chất và thế địa hình, nếu cần thì phái ra một bộ phận lực lượng cảnh giới
chiến đấu cách xa vị trí đóng quân. Huấn luyện tất cả những nội dung đó cũng đều nhằm mục
đích giữ quyền chủ động khi trú quân.

- Giữ quyền chủ động trong chiến đấu.

Quyền chủ động trong chiến đấu có liên quan tới yếu tố bí mật, bất ngờ. Hai mặt đó
không thể tách rời nhau, vì có giữ được bí mật và tạo được thế bất ngờ thì mới giành và giữ được
quyền chủ động. Để giành quyền chủ động, còn phải phán đoán chính xác tình hình địch, chọn
mục tiêu ở nơi bất ngờ nhất, nhằm chỗ địch sơ hở nhất, nơi trọng yếu nhất của địch để nhanh
chóng hạ quyết tâm, xác định cách đánh và tổ chức lực lượng chiến đấu, tổ chức nghi binh thu hút
địch, tổ chức các đội luồn vào đánh bên trong, kiềm chế pháo, bắn máy bay, diệt tăng, sử dụng
lực lượng dự bị, dự kiến các diễn biến khác, v.v…

Đó là nội dung cần vận dụng vào công tác huấn luyện hàng ngày nhằm mục đích giành
quyền chủ động trong chiến đấu.

5. Tạo hình thái tác chiến xen kẽ với địch.

Thế chiến tranh nhân dân của ta không hình thành chiến tuyến, kể cả khi tiến công
cũng như khi phòng ngự. Vì toàn dân ta đều đánh giặc: đánh ở mọi nơi, mọi lúc, đánh bằng mọi
lực lượng, đánh ở bên trong và đánh ở bên ngoài, đánh sau lưng và đánh ở trước mặt địch, luôn
luôn bám địch mà đánh, xen kẽ cài thế trong thế trận của địch mà đánh. Dù địch mạnh đến đâu
cũng sa vào thế chiến tranh nhân dân của ta, đều đứng vào thế bị bao vây. Đó là hình thái đặc biệt
của thế chiến tranh nhân dân của ta.

Không những thế chiến tranh nhân dân rộng lớn mà ngay từng trận địa chốt giữ trọng
điểm trong từng khu vực cũng không thể hình thành phân tuyến với địch, không thể tổ chức trận
địa theo từng dải, từng tuyến hàng ngang triền miên. Quân số ta có hạn không sao rải ra khắp
được, cơ sở vật chất ta có ít, lại chưa đủ khả năng làm chủ tuyệt đối trên không và làm chủ mặt
biển, vả lại địa hình đất nước ta dài và hẹp, lại bị đồi núi, sông ngòi chia cắt thành nhiều khu vực
nhỏ. Còn kẻ địch thì có tiềm lực quân sự mạnh, quân số tập trung đông, hỏa lực mạnh, có phương
tiện cơ động nhanh, nhất là máy bay vận chuyển. Địch có thể khắc phục được địa hình phức tạp,
làm thay đổi so sánh lực lượng và trạng thái trên chiến trường rất nhanh. Do tình hình thực tế ta
và địch như vậy nên ta phải có kiểu cách tổ chức phòng ngự như thế nào cho thích hợp để thực
hiện được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vùng mới giải phóng, giữ được đất, giữ được dân, lại
có đủ sức tiến công tiêu diệt được địch. Ta cần phải suy nghĩ giải quyết cho tốt nhiệm vụ này.
Muốn vậy, ta phải xây dựng lực lượng tại chỗ kết hợp với lực lượng cơ động mạnh, thống nhất tổ
chức và thống nhất chỉ huy. Đó là nội dung đồng thời là quan điểm tổ chức phòng ngự trận địa
chốt, cụm chốt liên hoàn của ta để tác chiến bảo vệ khu vực, bảo vệ vùng mới giải phóng.

6. Tính chất tổng hợp trong hiệp đồng tác chiến.

Nghệ thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc, có
các lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm ba thứ quân. Các lực lượng đó phối hợp cùng với lực
lượng chính trị của quần chúng luôn luôn ở trong thế hiệp đồng tác chiến để tạo nên một sức
mạnh tổng hợp trong tiến công cũng như trong phòng ngự, trong chiến dịch cũng như trong chiến
thuật.

Tính chất tổng hợp thể hiện ở sự phối hợp giữa tiến công quân sự và quần chúng nổi
dậy, tiến công địch bằng quân sự, chính trị và binh vận, v.v… Riêng về hành động quân sự, tính
chất tổng hợp thể hiện ở chỗ luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa hai phương thức tác chiến chính quy
với tác chiến du kích để hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng tồn tại và phát triển để
đánh thắng địch. Chỉ đánh du kích thì không thực hiện được tiêu diệt lớn quân địch trong một
thời gian nhất định, làm chuyển biến tình hình. Chỉ đơn điệu đánh chính quy cũng không thể
giành được thắng lợi, kết thúc được chiến tranh. Phải phối hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn,
phối hợp đánh bên trong lòng địch với đánh mạnh bên ngoài, tạo thế dồn ép quân địch, chia cắt
lực lượng địch, làm chúng luôn luôn không ổn định, tiêu diệt, tiêu hao địch làm chúng mệt mỏi,
đi đến nản lòng và tan rã ý chí xâm lược. Ngay bộ đội chủ lực cũng phải tạo ra một hình thái
chiến đấu tổng hợp của chiến trường, như bộ đội và cơ quan các cấp của lực lượng vũ trang miền
Đông Nam Bộ đã đánh bại chiến dịch Gian-xơn Xi-ty của đế quốc Mỹ năm 1967. Trong một trận
đánh, tuy lấy một hình thức chiến thuật nào đó là chủ yếu, nhưng thực tế hiện nay cho ta thấy
thường bản thân một hình thức chiến thuật không đủ để giải quyết gọn trận đánh mà còn phải
dùng những hình thức chiến thuật khác để tiếp tục hoàn thành trận đánh tiêu diệt địch. Hãy lấy
một trận đánh địch trong công sự vững chắc làm ví dụ. Trong trận đánh, ta lấy hình thức chiến
thuật đánh địch trong công sự vững chắc làm chủ yếu, song các hình thức chiến thuật khác ít
nhiều đều có xuất hiện. Chẳng hạn dùng cách đánh bí mật, đến một mức nào đó lại dùng hỏa lực
của lối đánh hiệp đồng binh chủng để giải quyết. Khi chiếm được một khu vực hoặc một số mục
tiêu, nếu gặp khó khăn phải tạm dừng thì lập tức xuất hiện chiến thuật phòng ngự chốt, trụ lại,
bám giữ đánh phản kích rồi tiếp tục tiến công. Để đảm bảo đánh địch trong công sự vững chắc,
phải thực hiện cách đánh “bốn cắt, một diệt”, phải vận dụng nhiều hình thức chiến thuật khác
nhau như chốt, chặn đánh viện binh của địch hoặc kiềm chế trận địa pháo binh địch, hoặc phục
kích, tập kích đánh địch đổ bộ đường không tới ứng cứu, phải tổ chức bắn máy bay, diệt xe tăng,
cơ giới của địch, v.v… Trong tổ chức phòng ngự trận địa chốt, cụm chốt nói chung cũng không
thể chỉ có đơn độc một lực lượng nào đảm nhiệm, mà phải có lực lượng tổng hợp của cụm làng
xã chiến đấu của dân quân du kích kết hợp với trận địa phòng ngự của bộ đội địa phương hoặc
một bộ phận của bộ đội chủ lực. Trừ trường hợp ở địa hình đồi núi không có làng mạc, dân cư thì
bộ đội chủ lực phải tổ chức ra một bộ phận đánh nhỏ. Trong hành động, lại phải phối hợp các
cách đánh của các lực lượng khác nhau với cách đánh của trận địa phòng ngự, chỉ như vậy, phòng
ngự mới vững chắc được. Vì thế nội dung huấn luyện quân sự phải thể hiện đầy đủ tính chất tổng
hợp nói trên để nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về tư tưởng chỉ đạo tác chiến, về ý thức
tổ chức hiệp đồng tác chiến với ba thứ quân, vận dụng các hình thức chiến thuật một cách sáng
tạo, mưu trí, linh hoạt, tạo thành một sức mạnh tổng hợp trong chiến đấu nhằm thực hiện tư tưởng
tiến công tiêu diệt địch.

Tóm lại, các lực lượng vũ trang ta đều phải quán triệt nhuần nhuyễn đường lối, tư
tưởng quân sự của Đảng vào nội dung huấn luyện, từ những động tác, thao tác của các binh chủng
kỹ thuật đến mọi nội dung của các điều lệnh: đội ngũ, nội vụ, canh gác, kỷ luật, kỹ thuật, chiến
thuật, chiến dịch, v.v…

Mọi suy nghĩ, mọi hành động trong huấn luyện của các lực lượng vũ trang ta đều phải
hướng theo đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng. Đó là kim chỉ nam để xác định nội dung của
tài liệu giáo khoa và thực hiện huấn luyện cho cán bộ và chiến sĩ. Có quán triệt đường lối, tư
tưởng quân sự của Đảng thì nội dung các điều lệnh, điều lệ, tài liệu cơ bản và tài liệu giáo khoa
mới chính xác, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với điều kiện đất nước ta, với cách đánh
truyền thống và độc đáo của ta.

Đường lối, quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng ta là ngọn cờ trăm trận trăm thắng
của các lực lượng vũ trang ta. Các binh chủng, quân chủng dù trong tay nắm binh khí, kỹ thuật
khoa học hiện đại đến đâu cũng đều phải quán triệt quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, đều
phải vận dụng nhuần nhuyễn vào mọi nội dung huấn luyện quân sự, mọi hành động chiến đấu và
cách đánh truyền thống của quân đội ta. Chỉ có như vậy các binh chủng, quân chủng mới giành
được thắng lợi trong chiến đấu.

BÀN VỀ PHÒNG NGỰ ĐỒNG BẰNG(18)

Hình thế nước ta chạy dài từ Bắc xuống Nam, phía đông và đông nam là biển, phía tây
là núi rừng trùng điệp, bề ngang rất hẹp có đoạn hàng trăm ki-lô-mét, nhưng có đoạn chỉ trên
dưới 50 ki-lô-mét. Sông ngòi nhiều, chia cắt lục địa ra nhiều đoạn thành từng khu vực. Trước mặt
và sau lưng, địch có thể tiến công chia cắt đất nước ta thành từng đoạn. Nước ta thuộc vùng nhiệt
đới, địa hình phức tạp, có nhiều núi cao, rừng rậm, đồng lầy ruộng nước nên tiếp tế vận chuyển
khó khăn, hạn chế việc sử dụng binh hỏa lực quy mô lớn và không cho phép dàn hàng ngang tiến
công theo kiểu chiến tuyến được.

Đặc điểm của chiến đấu hiện đại là có sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, hóa học và
phương tiện vận chuyển có sức cơ động lớn. Nên bên tiến công có thể phải tiến hành tác chiến
trên chính diện rộng, bằng nhiều trục đường, tung thâm sâu và tốc độ cao. Do binh khí kỹ thuật
hiện đại phát triển, trên chiến trường có nhiều binh chủng, quân chủng tham gia hiệp đồng chiến
đấu, tập trung nhiều người và nhiều binh khí, khí tài và do tác dụng sát thương hàng loạt của vũ
khí hiện đại nên đội hình chiến đấu không thể tập trung dày đặc như trước mà phải triển khai,
phân tán trên nhiều hướng nhiều mũi tập trung tiến công hợp điểm.

Quân đội của kẻ địch xâm lược, được trang bị những phương tiện cơ động cao như
máy bay lên thẳng, bộ binh mô-tô hóa, xe lội nước bọc sắt, v.v… và cũng do sức sát thương hàng
loạt của vũ khí hiện đại tạo nên những khoảng trống trên chính diện và tung thâm, nên đối
phương có thể tiến công với tung thâm sâu và tốc độ cao. Theo ý kiến các chuyên gia quân sự Mỹ
thì trong chiến tranh tương lai, sau khi vũ khí hạt nhân nổ sẽ có những khu vực rộng lớn bị nhiễm
xạ. Vượt qua những khu vực đó ở trên mặt đất sẽ có nhiều khó khăn, nhưng bằng đường không sẽ
dễ dàng hơn, dùng đường không để “ném” bộ đội xuống phía sau. Nhất là việc dùng máy bay lên
thẳng đang ngày càng phát triển. Theo “tạp chí Quân sự” nước ngoài thì tính chất chớp nhoáng
nhanh chóng cũng là đặc điểm của các hoạt động chiến đấu hiện đại. Vì do kỹ thuật phát triển,
phương tiện cơ động được tăng cường, nên bộ đội có khả năng nhanh chóng tiến tới hoặc đánh
chiếm các mục tiêu của đối phương. Với đặc điểm của chiến trường Đông Nam Á nói chung và
đặc điểm của chiến trường nước ta nói riêng, thì việc sử dụng binh lực, hỏa lực quy mô lớn theo
kiểu tiến công chiến tuyến sẽ bị hạn chế. Tuy nhiên hình thức phát triển của chiến tranh cũng
không phải dừng lại ở mức độ như thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Cứ xét như mức độ cuộc
chiến tranh xâm lược mà đế quốc Mỹ tiến hành ở miền Nam nước ta hiện nay thì cũng đã thấy rõ:
mức độ tập trung binh khí kỹ thuật cũng đã khác trước rất nhiều. Chúng sử dụng rộng rãi máy bay
lên thẳng, tổ chức các đội giang thuyền, các đội thiết giáp. Ngoài ra địch cũng đã dùng chất độc
hóa học phá hoại ruộng nương và giết hại đồng bào. Như vậy là hiện nay đối phương đã có khả
năng vận chuyển cơ động nhanh và cao hơn trước, hỏa lực mạnh hơn nên chúng càng có thể
mạnh dạn thọc sâu, bao vây, vu hồi và có thể bất ngờ tiến tới các mục tiêu dự định tiến công. Qua
đó, ta cũng có thể dự đoán rằng: ở chiến trường nước ta, tuy mức độ quy mô có hạn chế so với
các chiến trường khác trên thế giới, nhưng tính chất vận động nhanh, quy mô lớn, phức tạp trong
hoạt động tác chiến của đối phương, trong điều kiện chiến tranh tương lai, vẫn cao hơn trước; đặc
điểm chung là tiến công trên chính diện rộng, tung thâm sâu và tốc độ cao. Trong khi đó điều kiện
cơ sở vật chất của ta lại kém so với địch. Căn cứ vào đặc điểm địa hình, điều kiện cơ sở vật chất
kỹ thuật so với địch, chúng ta thấy rõ chúng ta có nhiều nhược điểm, hạn chế trong tiến hành
chuẩn bị một chiến dịch phòng ngự chống đổ bộ đường biển hoặc phòng ngự đồng bằng. Do đó
càng cần phải có phương pháp tác chiến như thế nào cho phù hợp với đặc điểm địa hình, cơ sở
vật chất và truyền thống riêng của chúng ta.

Tác chiến phòng ngự đồng bằng là một vấn đề lớn. Cả về chiến lược, chiến dịch, chiến
thuật đều phải nghiên cứu giải quyết. Ở đây chỉ đứng trên phạm vi chiến thuật để xem xét vấn đề
đặt ra. Trong phạm vi chiến thuật, trước hết, chúng ta nhất thiết phải xây dựng tư tưởng “giữ đồng
bằng” và phải giữ với tinh thần kiên quyết. Mặc dầu điều kiện vật chất của ta chỉ có như vậy, điều
kiện địch là như thế, cũng không cho phép chúng ta không đánh, mà đòi hỏi chúng ta “phải đánh
và phải đánh thắng”; đòi hỏi mỗi người chỉ huy phải biết vắt óc suy nghĩ tìm tòi mọi biện pháp để
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là đối với đồng bằng, yêu
cầu chúng ta “phải giữ”. “Phải giữ” là nhiệm vụ và cũng là yêu cầu về tư tưởng. Vậy yếu tố trước
tiên là phải xây dựng tư tưởng “dám đánh và kiên quyết đánh thắng”. Vì rằng không có lý do gì
chúng ta lại để cho kẻ địch xâm phạm một cách dễ dàng đất đai Tổ quốc của chúng ta. Cũng
chẳng khác gì như một gia đình chỉ có vài người với vài con dao, hoặc mấy chiếc đòn càn, hoặc
một ít gạch vỡ, nếu có một toán cướp đến cướp bóc, đốt phá gia đình họ, tất nhiên họ cũng đánh
lại kẻ cướp một cách quyết liệt và họ cũng đinh ninh rằng: nhất thiết không cho chúng cướp bóc.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng đã thấy có những chiến sĩ biên phòng, những dân quân
và có cả những em thiếu niên không hề sợ cọp, sợ báo nên đã gan dạ săn bắn cọp, vào hang bắt
cọp hoặc có nhiều người tay không vật lộn với cọp, kiên quyết đánh quỵ nó. Và cuối cùng loại
thú rừng hung bạo có sức mạnh, có nanh vuốt nhọn sắc ấy đã phải gục đầu trước ý chí sắt đá của
con người. Vì con người ấy đã “dám đánh và kiên quyết đánh thắng”. Trong nhiệm vụ phòng thủ
đất nước cũng vậy. Chính vì do có quyết tâm sắt đá, người ta đã ngày đêm suy nghĩ tìm trăm
phương nghìn kế để đánh giặc và kiên quyết đánh thắng. Vậy đối với nhiệm vụ phòng ngự đồng
bằng, giữ vững kho của cải vật chất của Tổ quốc cần được giáo dục sâu sắc, xây dựng quyết tâm
vững chắc cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đôi với nhân dân miền đồng bằng. Kinh
nghiệm thực tế trong kháng chiến chống Pháp đã chứng tỏ rằng: chính nhân dân đồng bằng là lực
lượng phòng thủ đồng bằng kiên quyết nhất, vững chắc nhất. Có những làng nhỏ chỉ có một vài
tiểu đội du kích phòng giữ, giặc Pháp đã dùng hàng trăm quân có đủ máy bay, pháo binh, xe tăng,
xe lội nước tập trung tiến công ngày này qua ngày khác mà vẫn không thể đánh chiếm nổi. Ngày
nay, với nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta, với truyền thống chiến đấu anh dũng tuyệt vời
của nhân dân và quân đội ta, cơ sở vật chất của chúng ta được dần dần tăng cường hơn trước,
chúng ta lại xây dựng một quyết tâm cao độ đối với nhiệm vụ phòng thủ đồng bằng thì tin chắc
rằng chúng ta sẽ nghiên cứu được nhiều biện pháp và hình thức chiến đấu thích hợp với điều kiện
đặc điểm mới và chúng ta sẽ đạt được nhiều thành tích lớn hơn.

Ở đồng bằng có ruộng nước, đồng lầy, sông ngòi, mương lạch chia cắt, xung quanh
khu vực đồng bằng của chúng ta phần lớn có đồi núi bao bọc ở ba mặt như tay ngai. Đó là cái thế
ỷ tựa của đồng bằng rất lợi cho tiến công và phòng thủ đồng bằng của ta, ngoài ra cũng có núi đồi
độc lập nổi lên giữa đồng ruộng hoặc có những dãy núi cắt ngang đất nước tạo cho địa hình đồng
bằng trở thành từng cái túi. Chúng ta tận dụng những ưu thế của địa hình đồng bằng, biến những
địa hình thiên nhiên đó thành những chướng ngại vật phù hợp với ý định chiến thuật, chiến dịch,
tăng thêm tính vững chắc của phòng ngự. Cũng một địa hình, địa vật, nếu người chỉ huy biết khéo
léo lợi dụng thì sức mạnh của địa hình sẽ tăng lên gấp bội; nhưng ngược lại không biết lợi dụng
thì địa hình đó chỉ là “vật chết” và có khi chính địa hình đó lại trở ngại cho ý định chiến thuật của
người chỉ huy. Lợi dụng địa hình đồng bằng bao gồm cả việc biết cải tạo địa hình một cách hết
sức triệt để. Cần phải xóa bỏ quan niệm cho là: “Địa hình đồng bằng phòng ngự không vững
chắc”. Vững chắc hay không chủ yếu tùy thuộc ở người tận dụng nó. Tức là phải phát huy cao độ
tính năng động chủ quan của con người với tinh thần cách mạng cao nhất, ra sức cải tạo địa hình
“biến yếu thành mạnh”. Nếu không, dù có đảm đương phòng thủ ở một địa hình tốt hơn chăng
nữa thì chưa chắc đã bảo đảm được vững chắc hơn. Trên thực tế thì bản thân địa hình đồng bằng
cũng đã có những thuận lợi cho tổ chức phòng ngự. Thí dụ ở đồng bằng có sông ngòi chia cắt, có
đồng lầy, ruộng nước. Thời kỳ kháng chiến, giặc Pháp tiến công ta cũng đã bị hạn chế rất nhiều:
chúng đã phải tiến công theo trục đường “độc đạo” và đã từng bị lực lượng nhỏ yếu của chúng ta
bẻ gãy từng mũi tiến công. Khi tiến công, xe tăng, xe lội nước, xe bọc sắt cũng vẫn bị dừng lại ở
bên ngoài bờ tre hồ ao là thành lũy thiên nhiên ở xung quanh làng mạc. Mỗi trận chiến đấu giặc
Pháp cũng đã từng giội hàng ngàn viên đạn đại bác, hàng tấn bom vào làng mạc của chúng ta
nhưng chúng ta không những không bị tiêu diệt mà còn đánh bại cuộc tiến công của địch.
Trong điều kiện chiến tranh sau này nếu xảy ra, chúng ta càng phải ra sức tận dụng
những ưu điểm sẵn có của địa hình đồng bằng và ra sức cải tạo địa hình để hạn chế uy lực vũ khí
hiện đại của kẻ địch, hạn chế khả năng cơ động và tốc độ phát triển tiến công của chúng. Lợi
dụng yếu tố địa hình đồng bằng chống lại uy lực của trang bị và vũ khí hiện đại của kẻ địch là hết
sức cần thiết và có thể làm được tốt ngay trong điều kiện đặc điểm địa hình và điều kiện vật chất
của ta.

Trong tổ chức phòng ngự đồng bằng, điều quan trọng là biết khéo léo bố trí chiến
thuật, chiến dịch có thể đứng chân vững chắc; có thể liên hoàn hỗ trợ lẫn nhau và kết hợp chặt
chẽ với hình thái bố cục chiến lược nói chung. Nếu chỉ nhìn từng mảnh, từng khu vực nhỏ hẹp
riêng biệt thì ta dễ có cảm giác là thế phòng ngự không vững chắc. Nhưng một khi người chỉ huy
biết khéo léo bố cục cho ăn khớp với hình thái chung, nhìn bao quát hơn thì ta lại thấy rằng các
khu vực phòng ngự có liên quan chặt chẽ với nhau và từng khu vực có thể đứng chân vững chãi
và có thế ỷ tựa chắc chắn. Ví như trong bàn cờ, một quân tốt đứng ở thế lợi hại, nếu nhìn riêng
quân tốt thì quả là mỏng manh. Nhưng nếu biết đi quân tốt và các quân khác cho khéo léo, quân
tốt ấy luôn luôn đứng vào chân tượng, chân mã của ta hoặc có xe, có pháo trợ lực phía sau thì
chắc chắn là thế đứng của quân tốt trở nên vững chắc, đối phương muốn ăn quân tốt cũng phải
gờm. Trong bố cục phòng ngự ở đồng bằng cũng vậy. Không nên tách rời khu vực phòng ngự nọ
với khu vực phòng ngự kia, thế riêng biệt, độc lập hoặc táo bạo cũng phải nằm trong thế chung.

Trong từng thế riêng và thế chung của tổ chức phòng ngự đồng bằng thì bố cục phải có
thế “xoay lưng”, “chuyển mình” tức là phải tạo thế “chủ động trong bị động”, không nên tự trói
buộc mình vào một khuôn khổ nhất định. Thí dụ một người đề phòng một người khác tiến tới
đánh mình, nếu thế đứng của người đó phía sau là nước sâu, bên cạnh là gai góc lởm chởm, lui
một bước cũng không được, tạt sang bên cũng khó khăn thì rõ ràng là người đó đứng ở thế bất
lợi. Nhưng nếu người đó biết đứng nép vào một bờ tường hoặc một vật che đỡ nào đó, phía sau
và hai bên đều có chỗ xoay xở, tiện đường cho người khác đến ứng cứu thì nhất định thế đứng
của người đó sẽ vững chắc hơn.

Căn cứ vào đặc điểm của chiến tranh sau này, đặc điểm của địa hình nước ta và điều
kiện cơ sở vật chất của ta, để đánh lại tiến công của kẻ địch, ở địa hình đồng bằng (và trên bờ
biển) chúng ta cần lựa chọn những khu vực địa hình quan trọng, điều kiện khống chế rộng lớn
hoặc những mục tiêu cần phải chiếm giữ trên các hướng mà địch có thể tiến công. Làm công sự
kiên cố ở đó, kết hợp với công sự dã chiến và làng chiến đấu tạo thành những “khu chốt” vững
chắc để chia cắt đội hình tiến công chính diện rộng của địch ra thành từng mảng, ngăn chặn địch
ở từng hướng; nắm vững thời cơ, tung lực lượng cơ động mạnh ra tiêu diệt địch. Trong khi học
tập tổ chức phòng ngự ở đồng bằng (hoặc bờ biển) có đồng chí thấy địa hình mênh mông, chỗ
nào địch cũng có thể tiến công được, nên có khuynh hướng muốn dàn đều lực lượng, chỗ nào
cũng muốn bố trí, chỗ nào cũng muốn có quân. Do đó đi đến dàn mỏng lực lượng và đưa hết lực
lượng ra phía trước. Như vậy dễ bị hỏa lực của địch tiêu hao ngay từ đầu (vì uy lực vũ khí của
địch mạnh hơn và có tầm xa hơn của ta) và rõ ràng là địch dễ chọc thủng tuyến phòng ngự mành
mành ấy. Vì đưa hết lực lượng ra phía trước nên tung thâm rỗng, lực lượng cơ động nắm trong tay
ít và yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho địch nâng cao tốc độ tiến công và phát triển sâu vào hậu
phương của chúng ta. Vậy cũng địa hình ấy, cũng cơ sở vật chất ấy, cũng chừng ấy quân, bố trí
phòng thủ làm sao cho vững chắc, đó chính là yêu cầu về nghệ thuật “bày binh bố trận” của người
chỉ huy. Tổ chức bố trí phòng ngự ở đồng bằng cũng cần phải có “gan”. Nơi cần thiết thì mạnh
dạn “đóng chốt” thành những cái đinh vững chắc; nơi cần ít thì bố trí ít, nơi có thể dùng hỏa lực
khống chế hoặc có thể cơ động tới kịp thời hoặc một nơi nào đó chỉ cần lực lượng dân quân, du
kích hoặc bộ đội địa phương cũng đủ bảo đảm vững chắc thì có khi mạnh dạn và cả gan, không
cần thiết đưa lực lượng chủ lực vào đó ngay từ đầu, và lúc cần, có khi cũng không đưa tới đó
nhiều. Như vậy tức là bố trí phòng ngự phải có trọng điểm.

Song để ngăn chặn và tiêu diệt địch nhất thiết phải có những trận địa phòng ngự đủ
sức làm giảm tốc độ tiến công và phá được ý định tiến công của địch vào tung thâm sâu của ta.
Do đó một vấn đề lớn đặt ra là phải tổ chức trận địa phòng ngự đó như thế nào? Chiến thuật
phòng ngự cần phải vận dụng là chiến thuật gì để giữ vững được trận địa của mình đánh bại được
sự tiến công của kẻ địch mạnh?

Để giải quyết vấn đề đó, chúng ta phải có cách tổ chức điểm tựa và cách bố trí các
điểm tựa thành thế phòng ngự vững chắc. Cụ thể là trên các hướng phòng ngự ta cần bố trí nhiều
khu vực điểm tựa liên tiếp có chiều sâu hình thành “thế chân kiềng” buộc địch phải liên tục đột
phá, khi tiến công địch phải luôn luôn tổ chức lại đội hình chiến đấu, nhổ được “chốt” này lại gặp
“chốt” khác, đột phá được tiền duyên vào tung thâm lại bị các khu vực phòng ngự khác chặn lại.
Tốc độ tiến công sẽ chậm, chặn được quân địch ở phía trước, cô lập bọn địch vu hồi hoặc đổ bộ
đường không ở phía sau, các mũi tiến công của địch không hợp đồng được với nhau, tạo điều
kiện cho chủ lực của ta xuất kích chặn đánh.

Nên bố trí các khu vực điểm tựa, “đóng chốt” hình thành “thế chân kiềng” (tam giác
nhỏ trong tam giác lớn) liên hoàn chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau. Địch tiến công bất cứ từ hướng nào
tới, ta vẫn có thể “xoay lưng” đánh chặn địch lại, các khu chốt hỗ trợ lẫn nhau, khu tam giác nọ
hỗ trợ cho khu tam giác kia, luôn luôn giữ được thế đánh kẹp những mũi tiến công của địch, buộc
các mũi tiến công đột phá sâu đều phải rơi vào túi hỏa lực của ta. Tổ chức phòng ngự như vậy
vừa tiết kiệm được binh lực và vẫn bảo đảm khống chế được chính diện rộng và phòng ngự có
chiều sâu.

Mặc dầu có thế liên hoàn nhưng bản thân từng điểm tựa và từng khu vực điểm tựa lại
phải tổ chức bảo đảm tính độc lập chiến đấu, chiến đấu bền bỉ trong trường hợp bị bao vây hoặc
trong tình huống gay go ác liệt nhất.

Như vậy các điểm tựa cần thiết phải tổ chức thành phòng ngự vòng tròn, có tung thâm
sâu, có nhiều tầng hỏa lực, bảo đảm đánh địch từ bất cứ hướng nào tiến công tới. Nếu địch dùng
xe bọc sắt, máy bay lên thẳng đưa quân đánh vòng bên sườn hoặc phía sau ta cũng không lúng
túng, mà vẫn giữ được chủ động đánh địch.

Trong từng điểm tựa cũng cần chú ý không nên đưa tất cả lực lượng ra phía trước hoặc
cũng không nên dàn mỏng lực lượng theo gián cách cố định mà bố trí phải có trọng điểm, có
chiều sâu, có lực lượng cơ động mạnh. Địch tiến công vào điểm tựa cũng không phải chỉ đột phá
một vài chiến hào, phá vỡ một vài hỏa điểm là xong, mà buộc địch phải đột phá nhiều lần và cũng
luôn luôn bị đánh kẹp từ nhiều hướng lại. Tốc độ tiến công của địch chậm thì tạo điều kiện thuận
lợi về thời cơ cho ta tung lực lượng cơ động ra phản kích.

Trong điểm tựa, các hỏa điểm cũng cần bố trí hình thành thế tam giác, hỏa điểm nọ
yểm hộ cho hỏa điểm kia, bố trí nhiều hỏa điểm có chiều sâu liên tục thành hỏa lực nhiều tầng.
Bản thân từng hỏa điểm và bản thân thế tam giác của các hỏa điểm ấy cũng bảo đảm được phòng
ngự vòng tròn, đánh được địch từ bốn mặt tiến công tới và tạo thành thế đánh kẹp vào, đánh cạnh
sườn địch, các hỏa điểm cũng bảo đảm hai tính chất: liên hoàn tác chiến và độc lập tác chiến.
Ngoài ra các điểm tựa, các khu vực điểm tựa cần cấu trúc một hệ thống chiến hào, giao thông hào
theo kiểu “mạng nhện” kết hợp chặt chẽ với các hỏa điểm và công sự phụ, nâng cao tính cơ động
của ban thân điểm tựa và khu vực điểm tựa. Bố trí phòng ngự điểm tựa kết hợp với chiến hào,
giao thông hào dã chiến, nếu không biết khéo léo tạo thành sự cơ động cao thì sức mạnh của
phòng ngự sẽ bị hạn chế rất lớn.

Để tạo thành thế chủ động trong phòng ngự thì chúng ta cần luôn luôn chú ý tới dùng
hành động tiến công để phòng ngự (tiến công trong trường hợp này chưa phải là chiến dịch tiến
công). Trong từng điểm tựa, hoặc từng khu vực điểm tựa luôn luôn dùng hành động tích cực phản
kích để tiêu diệt địch. Các khu tam giác có thể bổ trợ cho nhau bằng cách đánh vào cạnh sườn
hoặc phía sau quân tiến công hoặc có thể tung lực lượng vòng phía sau đội hình hoặc luồn vào
hậu phương của bên tiến công để phá cuộc tiến công của địch; có khi hành động táo bạo này thu
được kết quả lớn về tiêu diệt sinh lực địch (trường hợp này phải tùy hoàn cảnh, điều kiện và đối
tượng). Trong kháng chiến chúng ta tung các lực lượng vượt qua vành đai trắng, vượt qua các vị
trí của giặc luồn vào trong lòng địch tiến công tiêu diệt các vị trí địch và gây cơ sở nhân dân,
buộc địch phải đối phó hai mặt. Như vậy cũng là dùng hành động tiến công để phòng ngự ở một
thế rất hiểm. Từ đó chuyển sang thế tiến công chung.

Với đặc điểm địa hình đồng bằng dân cư đông đúc, các tổ chức dân quân, bộ đội địa
phương ở các hợp tác xã, nông trường, xí nghiệp, v.v… là một lực lượng chiến đấu vô cùng hùng
hậu. Vậy trong bố cục và trong thực hành tác chiến phòng ngự ở đồng bằng cần có kế hoạch hiệp
đồng tác chiến hết sức chặt chẽ. Chính những lực lượng đó sẽ làm cho quân địch đi không yên mà
dừng lại cũng không yên, chính những lực lượng đó sẽ làm cho hậu phương bên tiến công rối
loạn, sẽ là lực lượng hiệp đồng đắc lực bảo vệ các khu chốt cố thủ của các hướng phòng ngự. Do
đó trong kế hoạch cần tính đến hình thế liên hoàn chiến đấu của các làng mạc ở đồng bằng do dân
quân và bộ đội địa phương phòng thủ, hoặc khi cần thiết các lực lượng đó sẽ tăng cường cho các
“khu chốt” như thế nào. Phối hợp giữa các lực lượng chính quy và du kích, giữa các lực lượng cố
thủ và cơ động trong tổ chức và thực hành phòng ngự ở đồng bằng là một nguyên tắc không thể
nào thiếu được. Đó cũng là tính chất và đặc điểm của tổ chức phòng ngự theo quan điểm chiến
tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng.

Ở đồng bằng, đối với toàn bộ hệ thống phòng ngự nói chung hoặc của từng hướng,
từng khu vực, từng điểm tựa hoặc ngay từng hỏa điểm cũng cần phải đặc biệt chú ý coi trọng sức
mạnh của phòng ngự là yếu tố bí mật bất ngờ. Ví dụ: công sự hỏa điểm có làm bằng xi măng, cốt
sắt chăng nữa, nhưng nếu làm lộ ra phía trước, mất yếu tố bí mật bất ngờ thì sức mạnh của hỏa
điểm sẽ không còn nữa; trong điều kiện đối phương có vũ khí uy lực mạnh thì rất có thể chỉ sau
một thời gian ngắn hỏa điểm cốt sắt kia sẽ bị phá vỡ. Một hỏa điểm khác trình độ kiên cố có kém
hơn một chút, nhưng bố trí hiểm hóc, giữ được thế bí mật bất ngờ thì tác dụng sẽ mạnh mẽ hơn
nhiều. Tùy theo mức độ, có khi có một hỏa điểm, một điểm tựa hoặc một khu vực điểm tựa giữ
được thế bất ngờ đột nhiên xuất hiện sát thương hàng loạt quân địch, gây cho địch thiệt hại nặng
thì có khi bẻ gãy được một mũi tiến công của địch. Có một số đồng chí cũng chưa coi trọng yếu
tố bí mật bất ngờ trong chiến đấu phòng ngự. Như vậy dễ gây nên tổn thất nặng nề ngay từ đầu.
Sức mạnh của phòng ngự sẽ giảm đi rất nhiều.

Do đặc điểm của địa hình và cơ sở vật chất của chúng ta, trong điều kiện chiến tranh
hiện đại, uy lực sát thương lớn, sức cơ động cao thì không phải là bỏ hành động nghi binh mà lại
càng phải tiến hành rộng rãi biện pháp nghi binh. Từ bố trí hỏa điểm, chiến hào đến bố cục chiến
thuật, chiến dịch đều cần chú ý mưu mẹo đánh lừa địch như hỏa điểm giả, chiến hào giả, hành
động giả, v.v… làm cho địch hao tổn binh lực, hỏa lực, dồn địch vào thế bất lợi, tạo điều kiện tiêu
diệt địch. Người chỉ huy biết tổ chức nghi binh giỏi có khi thu được thắng lợi rất lớn. Cho nên đối
với phòng ngự đồng bằng chúng ta cần chú ý vận dụng rộng rãi biện pháp nghi binh.

Trên đây là một vài ý kiến bước đầu nêu lên để chúng ta cùng nghiên cứu tham khảo.
Đồng thời để giúp cho các cán bộ và chiến sĩ dễ nhớ, tham khảo trong quá trình học tập và chiến
đấu phòng ngự xin sắp xếp một số điểm về chiến thuật phòng ngự trận địa theo lối nói vần.

Cấu trúc và bố trí trận địa (10 điểm):

1. Tam giác nhỏ trong tam giác lớn(19).

2. Chéo nhỏ trong chéo lớn(20).

3. Độc lập trong liên hoàn(21).

4. Chủ động trong bị động.

5 Điểm khống chế diện, diện bảo vệ điểm(22).

6. Nhiều tầng có chiều sâu(23)

7. Kết hợp: xa với gần, trong với ngoài, trước với sau, trên với dưới (24).

8. Hiểm hóc, bí mật chéo sườn, thúc hông.

9. Cơ động rộng rãi, thoải mái, tập trung.

10. Thế cọp rình heo, thế mèo vồ chuột.

Cách đánh (10 điểm):

1. Phát hiện địch từ xa.

2. Làm chậm bước tiến của địch.

3. Làm địch mệt mỏi tiêu hao.

4. Lừa địch, đẩy địch vào thế bất lợi.

5. Địch động ta phải động hơn(25).

6. Cắm chà phá lưới, rút lẫy bẻ thoi(26).

7. Bí mật, bất ngờ, đột nhiên mãnh liệt.

8. Giữ mẹ, dắt con, xoay tròn bốn phía(27).

9. Kết hợp dùng mưu, dùng nhiều lối đánh.

10. Vận động tiến công, thúc hông, chặt sườn quân địch.
Yêu cầu (9 điểm):

1. Bình tĩnh gan dạ,

2. Mưu trí linh hoạt,

3. Chủ động hiệp đồng,

4. Giành đi, giật lại,

5. Lúc địch khó khăn,

6. Vận động tiến công,

7. Thúc hông, chặt giữa,

8. Nhiều lần như thế,

9. Địch bại mới thôi(28).

Về đặc điểm và công tác chỉ đạo dân quân miền núi (29)

Núi rừng của ta trùng điệp bao la, dân cư thưa thớt, bản làng rải rác ở những nơi hẻo
lánh. Nhưng miền núi lại có nhiều thế rất mạnh. Về kinh tế, miền núi có nhiều của cải thiên nhiên
quý giá, có nhiều lâm thổ sản và khoáng sản. Về quân sự, miền núi có vị trí chiến lược rất quan
trọng, là căn cứ địa của cách mạng Việt Nam và của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước
đây. Miền núi sẽ tiếp tục là căn cứ địa của cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc sau này. Vì vậy muốn bảo vệ được miền núi vững chắc, ngoài lực lượng bộ đội tập trung
mạnh, chúng ta phải ra sức xây dựng lực lượng dân quân mạnh và rộng khắp. Xây dựng lực lượng
dân quân mạnh và rộng khắp là một vấn đề hết sức quan trọng trong công cuộc củng cố quốc
phòng ở miền núi của chúng ta.

Vậy dân quân miền núi có đặc điểm gì?

Miền núi đất rộng người thưa, núi rừng hiểm trở. Nhưng dân quân là người địa
phương, thông thạo địa hình địa vật, quen thuộc đường đi lối lại, gốc cây hang núi. Vì thế khi kẻ
lạ mặt lọt vào địa phương khó bề ẩn náu, dễ bị nhân dân phát hiện.

Nhân dân miền núi vốn phải thường xuyên chiến đấu chống chọi với thiên nhiên, với
ác thú, cho nên người dân quân miền núi đã sớm có một tác phong chiến đấu mưu mẹo, một đức
tính chiến đấu dũng cảm.
Nhân dân miền núi vốn rất quen thuộc với những cuộc săn bắn thú rừng, với những
cuộc giăng bẫy để bảo vệ nương rẫy, cho nên người dân quân miền núi sớm có kỹ năng sử dụng
vũ khí thô sơ trong việc chiến đấu bảo vệ bản làng.

Nhân dân miền núi vốn quen với sản xuất mang tính chất tập thể, vừa sản xuất vừa bố
trí chống dã thú bảo vệ sản xuất; hiệp lực nhau lại trong săn bắn thú rừng, cho nên người dân
quân miền núi sớm có ý thức hiệp đồng trong chiến đấu, tương trợ nhau trong sinh hoạt.

Nhân dân miền núi trước đây vốn bị nhiều tầng áp bức bóc lột của bọn đế quốc và bọn
lang đạo phản động, cho nên khi đã giác ngộ thì họ quyết một lòng đi với cách mạng, với Đảng
và Bác Hồ. Trong thời kỳ đấu tranh bí mật, nhân dân miền núi đã cùng với cán bộ xây dựng căn
cứ địa cách mạng, xây dựng chiến khu, tham gia lực lượng vũ trang cách mạng. Trong kháng
chiến chống Pháp, nhân dân miền núi đã tích cực giúp đỡ bộ đội, tham gia lực lượng vũ trang,
đoàn kết với đồng bào miền xuôi tản cư ra vùng kháng chiến, cùng với đồng bào cả nước dốc
lòng dốc sức kháng chiến cứu nước. Do đó người dân quân miền núi đã sớm có một truyền thống
chiến đấu giải phóng và bảo vệ bản làng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên đây là những đặc điểm lớn và cũng là những thuận lợi lớn để chúng ta xây dựng
một lực lượng dân quân miền núi mạnh và rộng khắp.

Từ những đặc điểm trên cần chú ý những điểm gì trong chỉ đạo xây dụng dân quân
miền núi.

Qua phân tích đặc điểm nói trên, trước mắt chúng ta nên làm gì để đẩy mạnh công tác
dân quân miền núi?

Vấn đề trước tiên là cần giáo dục cho dân quân miền núi không ngừng nâng cao tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, làm cho mọi người nhận rõ sức mạnh tiềm tàng của mình,
nhận rõ truyền thống đấu tranh bất khuất, đã từng chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù của
dân tộc, kẻ thù của giai cấp. Cần đẩy mạnh công tác chính trị, công tác tư tưởng một cách sâu sắc
và phù hợp với đặc điểm của dân quân miền núi. Muốn cho biên giới an toàn, không thể thiếu
được dân quân miền núi, không thể chỉ ỷ lại vào công an vũ trang hoặc bộ đội chủ lực. Vì, trên
phạm vi hàng trăm ki-lô-mét núi rừng hiểm trở, biên giới trùng điệp, nơi nào người có thể đi được
thì chính nơi đó, người đặt chân đến sớm nhất, nhanh nhất là dân quân miền núi.

Giáo dục truyền thống và lòng tự hào dân tộc, xây dựng lòng trung thành và tinh thần
tự tin, đó chính là sức mạnh để tổ chức và xây dựng lực lượng dân quân miền núi chiến thắng kẻ
thù. Các địa phương phải nắm chắc lực lượng vũ trang địa phương, ra sức xây dựng, rèn luyện để
lực lượng vũ trang trở thành một công cụ vững chắc của Đảng, lực lượng tin cậy của nhân dân.
Miền núi của chúng ta có nhiều dân tộc. Cho nên chúng ta phải hết sức tăng cường công tác lãnh
đạo đoàn kết dân tộc trong lực lượng vũ trang vì đoàn kết là nguồn gốc của sức mạnh. Các địa
phương phải có kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, thường xuyên và toàn diện. Lực
lượng vũ trang địa phương phải mạnh cả về chính trị và quân sự, cả về tư tưởng và tổ chức. Có
xây dựng được như vậy thì lực lượng vũ trang địa phương mới hoàn thành được nhiệm vụ công
cụ chuyên chính chủ yếu của chính quyền địa phương.

Trên cơ sở đặc điểm sản xuất, đặc điểm sinh hoạt, cần nghiên cứu việc tổ chức và huấn
luyện cho thích hợp với yêu cầu của nhiệm vụ. Vì cùng gọi là miền núi, nhưng có nơi giáp liền
với đồng bằng, có nơi ở rẻo cao, có nơi làm ruộng và sinh hoạt tương đối tập trung, có nơi còn lẻ
tẻ. Như vậy, phải căn cứ vào đặc điểm từng miền để tiến hành tổ chức thành đơn vị, từng khu vực
có thể kết hợp quân sự hóa trong sản xuất, tuần phòng bảo vệ biên giới.

Muốn hoàn thành nhiệm vụ trên phải có tinh thần cách mạng tiến công, phải tích cực
“tìm địch”, có phương án cụ thể, có khoanh từng khu vực và vận dụng khéo léo giữa phân tán và
tập trung. Thí dụ: có thể dựa vào việc săn bắn, rình thú rừng, vây lùng thú rừng... mà nghiên cứu
thành động tác huấn luyện, lùng sục bắt gián điệp và kẻ gian.

Bọn phản động ở địa phương là đầu mối của bọn phản động từ bên ngoài tới. Phong
tỏa bọn này thì bọn gián điệp sẽ bơ vơ, lạc lõng không khác gì cây mất đất và rễ không có chỗ
bám nên cây lá không thể nào sinh sôi nảy nở và tồn tại được.

Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống của nhân dân miền núi nhất định càng
được nâng cao, do đó sự củng cố và phát triển dân quân miền núi càng phải tích cực. Lực lượng
dân quân có mạnh, biên giới và rừng núi mới được an toàn sản xuất mới càng phát triển, trình độ
mọi mặt của dân quân càng được nâng cao. Chúng ta nghiên cứu đặc điểm của nhân dân miền núi
để tăng cường công tác chỉ đạo dân quân miền núi, tiến hành giáo dục chính trị, giáo dục truyền
thống một cách sâu sắc, có phương án xây dựng và huấn luyện thích hợp làm cho dân quân miền
núi thực sự là những người chủ của rừng núi, thực sự làm nòng cốt trong các phong trào chung
của nhân dân miền núi.

CẦN CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG Dân QUân TỰ VỆ VÙNG VEN BIỂN(30)

Bờ biển nước ta án ngữ phía đông, dài ngót trên ba nghìn ki-lô-mét, chạy từ biên giới
Trung Quốc trở về phía nam. Nếu tính riêng miền Bắc cũng có gần 1.000 ki-lô-mét ven biển.

Vùng biển có nhiều của cải quý báu đang được nhân dân khai thác để nâng cao đời
sống cho mình và làm giàu cho Tổ quốc. Nhân dân vùng ven biển có tập quán sinh hoạt riêng và
truyền thống đấu tranh cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Miền ven biển có một vị trí chiến lược quan trọng nối liền cửa ngõ giữa các tỉnh ven
biển. Ngoài khơi có các hải đảo như các pháo đài tiền tiêu canh phòng bờ biển, trên bờ có các
làng mạc, sông ngòi, bãi cát liên kết với nhau như một bức bình phong che đỡ cho các trung tâm
kinh tế, chính trị và miền đồng bằng phì nhiêu. Miền ven biển lại có thể ví như những cánh cửa
liên tiếp ghép lại bảo đảm an toàn phía đông Tổ quốc. Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa là
những cánh cửa của hữu ngạn sông Hồng, một cánh yếu thì hữu ngạn sông Hồng dễ bị uy hiếp, kẻ
địch sẽ dễ dàng đi vào đất liền. Lục địa muốn được an toàn thì miền biển phải vững chắc. Chúng
ta có một bờ biển chạy dài, lực lượng quân đội thường trực không thể lúc nào cũng có sẵn ở khắp
mọi nơi. Công sự chướng ngại vật không phải chỗ nào cũng có thể làm sẵn. Do đó, chỉ có dựa
vào lực lượng dân quân tự vệ vùng ven biển mới bảo đảm cho ven biển được thường xuyên vững
chắc.

Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân vùng ven biển đã từng chiến đấu anh dũng
để ngăn chặn bọn giặc xâm nhập đường biển. Vừa qua, ở một vài nơi như Quảng Bình, Hải
Ninh..., dân quân vùng ven biển đã là một trong những lực lượng chủ yếu để bắt bọn biệt kích
xâm nhập đường biển.

Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng nhân dân miền ven biển là bức tường thành vững chắc
nhất để ngăn chặn kẻ địch xâm nhập vào đất đai Tổ quốc chúng ta.

Xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển lớn mạnh là vấn đề sống còn của vùng biển,
có liên quan trực tiếp tới sự vững chắc của nội địa và an ninh chung của Tổ quốc. Đặc biệt trong
hoàn cảnh đất nước ta còn tạm bị chia làm hai miền, bè lũ đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam
nước ta ngày càng ra sức ráo riết tăng cường xâm nhập phá hoại miền Bắc, tiến tới xâm lược toàn
bộ Tổ quốc ta thì vấn đề tăng cường xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển càng trở nên quan
trọng và cấp thiết.

ĐẶC ĐIỂM VÙNG VEN BIỂN

Địa hình vùng ven biển ở mỗi khu vực đều có những đặc điểm riêng, có nơi đất bồi bãi
cát chạy dài ra khơi hàng ki-lô-mét, có nơi sụt lở, hàng năm làng mạc phải lùi dần vào đất liền.
Ven biển có nhiều bãi cát hoặc đụn cát, có nơi rừng phi lao chạy dài, có nơi mọc đầy sú vẹt hoặc
núi đá sát mép nước. Làng mạc ở thành tuyến chạy dài theo ven biển. Bờ biển lại có nhiều cửa
sông, cửa lạch thuận tiện cho thuyền bè, ca-nô ra vào. Như vậy bản thân địa hình phức tạp và
luôn luôn thay đổi đã tạo ra những kẽ hở để cho kẻ địch có thể lợi dụng bất ngờ đột nhập hoặc
làm chỗ ẩn náu cho bọn biệt kích ra vào hoạt động. Nhưng cũng do đặc điểm địa hình nên kẻ địch
không phải muốn xâm nhập nơi nào cũng được. Chúng có thể gặp nhiều bỡ ngỡ và có thể bị sa
vào nơi bố phòng chuẩn bị sẵn của ta. chúng ta cần nghiên cứu kỹ đặc điểm địa hình vùng ven
biển để thấy được những thuận lợi, khó khăn trong công tác tổ chức phòng thủ, tổ chức huấn
luyện dân quân tự vệ, phát huy kinh nghiệm chiến đấu trong kháng chiến, xây dựng làng mạc ven
biển trở thành những tuyến làng chiến đấu vững chắc.

Nhân dân vùng ven biển có nhiều nghề, nhưng chủ yếu xoay quanh ba nghề chính:
đánh cá, làm ruộng và làm muối. Có nơi chỉ chuyên nghề đánh cá, có nơi vừa đánh cá vừa làm
ruộng hoặc có nơi thuận mùa nào làm nghề ấy. Ngoài ra cũng có những nghề phụ như thợ nề, thợ
mộc, buôn bán nhỏ. Nhưng nói chung ở ven biển phần lớn nhân dân ít nhiều đều có nghề đánh cá.
Đó là đặc điểm bao trùm nhất có liên quan trực tiếp đến tổ chức xây dựng dân quân tự vệ. Đánh
cá, có 27 loại nghề khác nhau, có thể chia làm ba loại: đi khơi, đi lộng và đánh cá ven bờ. Nghề
cá chủ yếu là do nam giới phụ trách, còn phụ nữ thường làm việc nhẹ như xe gai, đan vá lưới,
buôn bán cá hoặc trông nom đồng áng. Đối với nghề cá hiện nay, ta đã và đang cố gắng cải tiến,
nhưng nói chung công cụ đánh cá của ngư dân còn thô sơ, lạc hậu và phụ thuộc vào thiên nhiên:
thời tiết tốt, biển lặng thì đi đánh cá, biển động sóng to thì ở nhà xe gai, vá lưới. Nghề muối chủ
yếu dựa vào mùa nắng ráo. Mùa mưa, ẩm ướt thì làm việc phụ, làm nền đổ cát, làm mương, v.v…
để chuẩn bị cho vụ muối sau. Ngay trong mùa muối, những ngày trời mưa hoặc râm cũng phải
làm việc khác. Phụ nữ, ông bà già và trẻ em khoảng 12, 13 tuổi trở lên đều làm được nghề muối.
Còn nam giới, số người tham gia làm muối, so với nghề cá hoặc làm ruộng thì có ít hơn. Như vậy
trong vùng làm muôi thì nghề cá vẫn là nghề có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tổ chức xây
dựng dân quân tự vệ vùng ven biển. Về nông nghiệp, vùng ven biển cũng còn nhiều khó khăn như
đồng chua nước mặn, kỹ thuật canh tác còn thô sơ lạc hậu.

Mức sống ở từng vùng có khác nhau, có nơi khá, nhưng cũng có nơi còn thấp. Nói
chung sinh hoạt đời sống của nhân dân miền ven biển được cải thiện hơn trước nhiều nhưng còn
chưa đều.

Do tính chất và điều kiện nghề nghiệp khác nhau, nên sinh hoạt của các lực lượng sản
xuất cũng khác nhau. Đi biển có bộ phận sáng đi, tối về, ngược lại có bộ phận tối đi, sáng về và
có bộ phận ở ngoài khơi hàng tuần lễ, xa năm, bảy chục ki-lô-mét, sau này khi phương tiện đánh
cá được cải tiến thì có thể còn đi xa hơn nữa. Có bộ phận đi làm nghề thủ công ở địa phương
khác. Khi trời nắng, nam giới đi biển thì trên đất liền có nơi chỉ còn nữ giới ở nhà.

Tính chất lao động của nhân dân vùng ven biển khác với tính chất lao động ở các nhà
máy, công trường, hợp tác xã nông nghiệp. Đó là đặc điểm có quan hệ trực tiếp tới công tác tổ
chức biên chế, quản lý giáo dục, huấn luyện dân quân tự vệ, tới công tác phòng thủ trị an và sẵn
sàng chiến đấu vùng ven biển.
Một đặc điểm quan trọng nữa của vùng ven biển là số nhân dân theo đạo Thiên chúa
khá đông. Nhiều nhà thờ được xây dựng rải ra chạy dài theo ven biển. Chỉ riêng một tỉnh Nam
Định đã có tới 15% dân số toàn tỉnh theo đạo Thiên chúa. Trong số thanh niên từ 16 đến 26 tuổi
thì thanh niên Thiên chúa giáo chiếm trên 20%. Bọn đế quốc và bọn phản động đội lốt tôn giáo
lợi dụng lòng mộ đạo kính chúa của đồng bào Thiên chúa, ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ
trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, mê hoặc đồng bào, gây dựng cơ sở phản động về
chính trị và tư tưởng. Nhưng đại đa số đồng bào theo đạo Thiên chúa vốn là quần chúng lao động,
sẵn lòng yêu nước, yêu quê hương, có truyền thống và khả năng cách mạng dồi dào... Bọn đế
quốc và tay sai của chúng có thể gây cho ta những khó khăn nhất định, tùy nơi tùy lúc làm cho
tình hình chính trị ở một số nơi vùng ven biển thêm phức tạp, nhưng chúng không thể nào đạt
được âm mưu đen tối của chúng, vì quyền lợi của chúng mâu thuẫn sâu sắc với quyền lợi của
nhân dân, vì Đảng ta có đường lối chính sách đúng đắn, vì thực tiễn cách mạng ngày càng làm
sáng tỏ chính nghĩa của chúng ta. Bọn đế quốc và tay sai đã thất bại, chắc chắn ngày càng bị cô
lập và thất bại hoàn toàn.

Ở một số nơi còn có một số phần tử xấu, ngoan cố vẫn chưa chịu cải tạo, bị bọn phản
động lừa bịp nên còn đi lại, tụ họp với nhau nghe ngóng những lời lẽ xuyên tạc, phản động,
chống đối các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, phá hoại tổ chức dân quân tự vệ.

Ngoài ra, vùng ven biển, những nơi thuận tiện đường giao thông, có thị trấn thì dân cư
thường tập trung đông đúc có nhiều ngươi ở các địa phương khác, kể cả người ngoại quốc đến
buôn bán và trú ngụ. Có người chỉ tạm trú một thời gian, có người ở lâu thành dân địa phương.
Lợi dụng tình hình đó, bọn gian thương và bọn phản động, gián điệp biệt kích có thể trà trộn vào
trong nhân dân, đi lại quan hệ với nhau, liên lạc với kẻ địch bên ngoài, làm cho tình hình chính trị
càng phức tạp thêm. Do đó công tác trị an của dân quân tự vệ vùng ven biển lại càng cần đặc biệt
chú ý.

Nhân dân vùng ven biển có truyền thống đấu tranh cách mạng từ lâu, có những vùng
cơ sở cách mạng có từ những năm 1930-1931 như Giao Thủy (Nam Định), Quỳnh Lưu (Nghệ
An), v.v… Trong kháng chiến, vùng ven biển cũng đã là nơi cung cấp nhiều nhân tài vật lực cho
các chiến trường góp phần giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Có vùng là khu
du kích chiến đấu chống giặc rất quyết liệt. Ví dụ: Nam Định là một tỉnh ở ven biển. Nhân dân
theo đạo Thiên chúa nhiều nơi trong tỉnh đã tham gia dân quân du kích chiến đấu rất anh dũng,
tiêu biểu nhất là thanh niên theo đạo Thiên chúa xã Hải Xuân và đội du kích xã Hồng Phong đã
anh dũng chống giặc càn quét nhiều trận. Đội du kích xã Hồng Phong đã từng tập kích vị trí địch,
tiến hành công tác địch vận làm tan rã hàng ngũ địch và cùng với chủ lực phục kích đường thủy
tiêu diệt ca-nô và tàu chiến địch. Nhiều nam nữ dân quân theo đạo Thiên chúa được tặng thưởng
Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công. Đặc biệt có một nữ dân quân theo đạo
Thiên chúa đã được bầu là chiến sĩ thi đua và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba
vì có nhiều thành tích chiến đấu anh dũng.

Ngày nay, trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền ven biển lại ra
sức phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng sẵn có, xây dựng hợp tác xã, xây dựng lực lượng
vũ trang địa phương, góp phần xây dựng lực lượng quốc phòng lớn mạnh. Năm 1959, tỉnh Nam
Định được Chính phủ tặng Huân chương Chiến công hạng ba. Riêng xã Giao Lâm (Giao Thủy),
một xã ở ven biển, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng hai. Với truyền thống vẻ
vang của mình, nhân dân miền ven biển đang ra sức phấn đấu để trở thành một cơ sở chính trị,
quân sự, kinh tế vững mạnh, xứng đáng là bức bình phong chắn “gió bão biển Đông”, đảm bảo an
ninh cho Tổ quốc.

MẤY KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO VÀ XÂY DỰNG Dân QUân TỰ VỆ VÙNG
VEN BIỂN

Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, mấy năm qua, phong trào dân quân tự vệ vùng
ven biển đã có những tiến bộ rõ rệt. Đi song song với sự phát triển của phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp, phong trào dân quân tự vệ cũng được phát triển và củng cố, hầu hết các xã vùng ven
biển đã có tổ chức dân quân tự vệ, không những phát triển mạnh về số lượng mà chất lượng cũng
đã được chú trọng hơn trước. Công tác huấn luyện chính trị, quân sự đã được coi trọng, nội dung
đã chú ý đi sát với yêu cầu và nhiệm vụ của dân quân tự vệ vùng ven biển, sự kết hợp giữa sản
xuất và huấn luyện đã có những kinh nghiệm tốt. Công tác phòng thủ trị an, sẵn sàng chiến đấu đã
có nhiều tiến bộ, dân quân tự vệ đã góp phần quan trọng trong việc lùng bắt những toán biệt kích
Mỹ - ngụy xâm nhập đường biển. Cùng với phong trào dân quân nói chung, dân quân tự vệ vùng
ven biển đã có những tiến bộ rõ rệt, chẳng những có tác dụng tốt về việc củng cố vùng ven biển
về mặt quốc phòng, trị an mà còn góp phần thúc đẩy các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội vùng ven
biển phát triển.

Qua việc lãnh đạo, xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển, qua sự phát triển của
phong trào dân quân tự vệ vùng ven biển Hữu ngạn, chúng tôi nêu lên một vài kinh nghiệm lãnh
đạo và xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển, có thể chưa nêu được hết những kinh nghiệm
phong phú của phong trào, nhưng mong góp phần xây dựng phong trào dân quân tự vệ của chúng
ta, một nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
1. Nhận rõ đặc điểm tình hình, tính chất xung yếu vùng ven biển, tăng cường hơn nữa
sự lãnh đạo của Đảng đối với dân quân tự vệ vùng ven biển.

Nhìn chung phong trào dân quân tự vệ vùng ven biển hiện nay, so với trước đã có
nhiều tiến bộ rõ rệt. Nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự tiến bộ ấy là sự quan tâm lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng. Nhiều tỉnh ủy không những có nghị quyết cụ thể về xây dựng dân quân tự vệ mà
còn trực tiếp cùng cán bộ quân sự địa phương đi kiểm tra phong trào dân quân tự vệ vùng ven
biển. Tỉnh ủy Nam Định đã có nghị quyết củng cố toàn diện vùng ven biển, một nội dung quan
trọng của công cuộc củng cố đó là việc củng cố lực lượng dân quân tự vệ. Nhiều cấp ủy xã đã cử
những đồng chí cấp ủy viên có năng lực trực tiếp lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, có
nơi đồng chí bí thư hoặc phó bí thư trực tiếp tham gia ban chỉ huy xã đội. Sự quan tâm lãnh đạo
của các cấp ủy đã là động lực có tính chất quyết định đẩy mạnh phong trào dân quân tự vệ vùng
ven biển.

Nhưng, chúng ta cần nhận định rằng, do hoạt động thường xuyên của địch, tình hình
vùng ven biển có lúc căng thẳng. Một mặt chúng ta phải đối phó với bọn phản động địa phương
có nhiều mưu mô xảo quyệt, lợi dụng tín ngưỡng lung lạc quần chúng, xây dựng cơ sở chuẩn bị
đón tiếp bọn phản động ở ngoài vào, tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc nước ta. Mặt khác chúng ta lại phải đối phó với bọn biệt kích Mỹ và tay sai ở miền
Nam luôn tìm cách xâm nhập vào đất liền. Đi đôi với những việc làm đó chúng ta còn phải huấn
luyện quân sự, chính trị, nâng cao dần trình độ mọi mặt cho dân quân tự vệ để sẵn sàng hoàn
thành mọi nhiệm vụ trước mắt và đáp ứng yêu cầu của một cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở ven
biển nếu xảy ra sau này.

Nhìn bề ngoài vùng ven biển hình như cũng bình thường như các vùng khác, phẳng
lặng và yên tĩnh. Nhưng thực chất ở một số nơi vùng ven biển vẫn còn phải đấu tranh gay go, có
lúc âm ỷ, có lúc sôi nổi và quyết liệt giữa lực lượng cách mạng của quần chúng nhân dân với lực
lượng phản cách mạng. Đó là một cuộc đấu tranh giai cấp, kẻ địch ở ngoài xâm nhập vào thì
nham hiểm liều lĩnh, kẻ địch trong đất liền thì khôn khéo xảo quyệt, lúc bình thường thì gây chiến
tranh tâm lý lung lạc quần chúng, xuyên tạc chống phá chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu ta
sơ hở hoặc gặp những khó khăn và khi chúng có điều kiện thì chúng tìm cách kích động quần
chúng lạc hậu chống lại chúng ta. Khi chúng ta mạnh và chúng yếu thế thì chúng khéo léo rút lui
chờ thời cơ tiếp tục hoạt động. Ở đó rất rõ ràng khi lực lượng vũ trang của nhân dân mạnh, ưu thế
cách mạng của nhân dân vùng ven biển được đề cao thì âm mưu hoạt động phá hoại của kẻ địch
bị ngăn chặn và chính quyền địa phương càng được củng cố. Chính vì tính chất cuộc đấu tranh
của nhân dân vùng ven biển đối với kẻ địch như vậy, buộc chúng ta phải nghiêm khắc xem xét
những mặt khuyết điểm, nhược điểm của phong trào dân quân tự vệ vùng ven biển.

Phải nhận rằng phong trào dân quân tự vệ vùng ven biển tiến bộ chưa đều, có nơi chưa
thật vững chắc, lúc lên lúc xuống, có chỗ phong trào khá nhưng có nơi phong trào còn yếu, còn
có cấp ủy xã chưa thật quan tâm thường xuyên, trực tiếp lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang
của mình. Họp bàn lãnh đạo dân quân tự vệ thì hoãn đi hoãn lại nhiều lần hoặc có nghị quyết
nhưng thiếu kiểm tra nghiêm khắc. Có nơi có tổ chức dân quân nhưng hoạt động thì yếu ớt,
chương trình huấn luyện thì bỏ dở, v.v… Tất cả những biểu hiện trên nói rõ rằng còn có cấp ủy
Đảng chưa thật nhận rõ tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ quân sự vùng ven biển, chưa thật nhận rõ
nhiệm vụ củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vùng ven biển, biểu hiện ý thức đấu
tranh giai cấp còn thiếu sắc bén, cảnh giác cách mạng chưa được đề cao. Chính vì vậy có nơi gặp
lúc địch có những hoạt động thì lúng túng đối phó, do dự chờ đợi lực lượng thường trực và sự
viện trợ của các địa phương khác.

Chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu tìm hiểu hơn nữa đặc điểm tính chất xung yếu
của vùng ven biển để ra sức tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể và thiết thực hơn
nữa đối với việc củng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vùng ven biển.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với dân quân tự vệ có nghĩa là các cấp ủy cần
trực tiếp nắm chắc lực lượng vũ trang địa phương, thường xuyên theo dõi tình hình, có nghị quyết
cụ thể để củng cố và xây dựng lực lượng dân quân. Thông qua lao động sản xuất, huấn luyện
quân sự và các nhiệm vụ trị an, chống biệt kích, v.v… mà củng cố xây dựng tổ chức dân quân tự
vệ, nắm chắc lực lượng trung kiên, kịp thời ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với dân quân vùng ven biển không những cần có nghị quyết chỉ
đạo cụ thể mà còn phải có kế hoạch kiểm tra giúp đỡ cán bộ quân sự địa phương chỉ đạo xây
dựng phong trào. Không những phải thực sự đưa cán bộ, cấp ủy viên, đảng viên, đoàn viên vào
lãnh đạo dân quân tự vệ mà còn phải chú ý bồi dưỡng, nâng cao năng lực quân sự, chính trị và lập
trường quan điểm cho cán bộ phụ trách dân quân tự vệ, tạo cho họ điều kiện giúp việc đắc lực cho
cấp ủy lãnh đạo lực lượng vũ trang địa phương.

Một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với việc xây dựng lực lượng dân quân vùng ven biển là phải hết sức chú ý đến công tác giáo dục
chính trị lãnh đạo tư tưởng. Đó là một vấn đề có tính chất mấu chốt để xây dựng và củng cố lực
lượng vũ trang địa phương vùng ven biển.

2. Nhận rõ khả năng cách mạng của nhân dân vùng ven biển.
Muốn bảo vệ vùng ven biển được thường xuyên an toàn và vững chắc thì nhất thiết
phải do nhân dân vùng biển đảm nhiệm, tuyệt nhiên không ỷ lại vào lực lượng nào khác. Dựa vào
quần chúng, phát động nhân dân vùng ven biển đứng dậy bảo vệ quê hương, bảo vệ vùng biển
của mình, đó là một điều không thể nào thiếu được, đó cũng là truyền thống đấu tranh bền bỉ anh
dũng và tự lực cánh sinh của nhân dân và dân tộc ta từ xưa tới nay.

Nhân dân lao động vùng ven biển bao gồm cả đồng bào lương và giáo, trước đây đều
bị đế quốc phong kiến, bọn phản động đội lốt tôn giáo áp bức bóc lột nặng nề. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, người dân lao động miền biển có đầy đủ điều kiện giác ngộ quyền lợi giai cấp, giác
ngộ quyền lợi dân tộc đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Đó là bản chất cách mạng của nhân
dân miền biển.

Vào những thời kỳ còn khó khăn hiểm nghèo nhất và từ trước Cách mạng tháng Tám,
nhiều nơi vùng ven biển đã có cơ sở của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, được giác ngộ về lợi ích giai cấp, nhân dân lao động vùng ven biển sẵn sàng
đi theo Đảng, lật đổ giai cấp thống trị, giành tự do, cơm áo và độc lập dân tộc. Trong kháng chiến,
nhân dân vùng ven biển đã anh dũng chiến đấu với địch như Giao Lâm (Giao Thủy), Hải Lý (Hải
Hậu) thuộc tỉnh Nam Định, Quảng Tường (Quảng Xương) thuộc tỉnh Thanh Hóa, v.v... Ngày nay,
trong lao động hòa bình, nhân dân miền ven biển đã dũng cảm chống chọi với sóng gió, không nề
hà nguy hiểm, chịu đựng khó khăn, thiếu thốn, tích cực phấn đấu xây dựng hợp tác xã, xây dựng
lực lượng vũ trang địa phương, giữ gìn trật tự trị an địa phương và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
thành quả lao động của mình.

Đặc điểm sinh hoạt nghề nghiệp của nhân dân miền ven biển, ngày tháng sống lênh
đênh trên mặt biển bao la, chống chọi với bão táp, sóng gió, vượt mọi tai nạn hiểm nghèo đấu
tranh với thiên nhiên giành lấy cuộc sống cho mình, đã tạo cho nhân dân lao động vùng ven biển
đức tính vô cùng quý báu, đó là tinh thần anh dũng quả cảm, không sợ nguy hiểm khó khăn và
lòng kiên nhẫn bền bỉ chịu đựng.

Trong sinh hoạt lao động hàng ngày, nhân dân lao động vùng ven biển sẵn có ý thức
tập thể, như khi đi biển, một người không thể cô đơn chèo chống với sóng gió được. Muốn vây
một đàn cá phải có thuyền lớn, mảng con. Kéo rùng, kéo lưới không phải chỉ một người mà làm
nổi. Tuy các khu vực đánh cá ở cách xa nhau, nhưng vẫn có mối liên hệ mật thiết, thường xuyên
tương trợ lẫn nhau. Khi một thuyền gặp tai nạn có tín hiệu báo ra là lập tức thuyền khác đến cứu
giúp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân lao động vùng ven biển có đầy đủ điều kiện làm chủ
cuộc sống của mình, thực hiện khẩu hiệu “hợp tác là nhà, xã viên làm chủ”, khắc phục mọi khó
khăn do thiên nhiên gây ra.
Nhân dân vùng ven biển sẽ kiên quyết chống mọi kẻ thù của nhân dân, chiến đấu dũng
cảm với bất cứ kẻ địch nào xâm nhập vùng ven biển, ý thức tập thể và kỷ luật sẽ được đề cao
trong các tổ chức quân sự của Đảng. Đó cũng chính là khả năng cách mạng của nhân dân lao
động vùng ven biển.

Từ thói quen về nghề nghiệp, nhân dân miền ven biển hiểu biết về thời tiết, luồng lạch,
con nước, nhận xét được thuyền quen thuyền lạ, có kinh nghiệm đánh cá với những mưu mẹo hết
sức linh hoạt, cũng phục kích bao vây, cũng nghi binh đánh lừa. Có thể gọi là những hình thức
“chiến thuật đánh cá”. Mặc dầu sóng to gió lớn trên chiếc thuyền tròng trành, người ngư dân vẫn
làm mọi việc bình thường như trên mặt đất. Sinh hoạt sóng gió ngoài biển cả đã trở thành thói
quen của quần chúng. Tất cả những tập quán sinh hoạt và kinh nghiệm ấy có thể làm cơ sở vận
dụng sang lĩnh vực quân sự. Đó cũng là những thuận lợi và khả năng riêng biệt của quần chúng
vùng ven biển để xây dựng dân quân tự vệ và còn là cơ sở để bổ sung cho việc xây dựng lực
lượng hải quân khi cần thiết.

Từ sau Cách mạng tháng Tám và nhất là từ khi bọn thực dân Pháp phải rút khỏi miền
Bắc, bọn địa chủ và chủ thuyền bị đánh gục thì bộ mặt của vùng biển biến đổi không ngừng. Đời
sống vật chất, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ. Nhưng chịu ảnh hưởng lâu đời của chính sách ngu
dân, chia rẽ, cướp đoạt của giai cấp thống trị trước đây, một số tệ nạn xấu trong xã hội cũ vẫn còn
rơi rớt lại. Nhưng mặt đó không phải là bản chất của nhân dân lao động miền ven biển mà chỉ là
những tàn dư của xã hội cũ dần dần sẽ được khắc phục dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

Có người cho rằng: Dân vùng biển “ăn sóng, nói gió”, “khó đoàn kết”. Đó là chỉ thấy
hiện tượng mà không thấy thực chất.

Trong hoàn cảnh lao động sản xuất, người dân đánh cá sống lênh đênh trên mặt biển,
sóng gió gào thét ầm ầm, lúc lao động lại ở xa nhau, nói nhỏ không thể nào nghe thấy được, phải
nói thật to, phải quát tháo gào thét cho át sóng biển. Đó là một yêu cầu do hoàn cảnh tạo nên, lâu
dần thành thói quen, nó nói lên cuộc sống phấn đấu gian khổ của họ. Trước kia giai cấp thống trị
tìm cách kích thích tính tư hữu, táo bạo của ngư dân, gây chia rẽ hằn thù trong nhân dân vùng ven
biển, gây cãi cọ, xô xát trong sinh hoạt và sản xuất. Nhưng từ khi các hợp tác xã nghề cá thành
lập, được củng cố và phát triển, tình đoàn kết tương trợ trong hợp tác xã đã thể hiện rõ rệt, những
xô xát tư hữu nhỏ nhen dần dần được xóa bỏ.

Có người cho là nhân dân vùng ven biển hay mê tín dị đoan, do đó đánh giá thấp khả
năng cách mạng của họ, mà không đi sâu tìm hiểu xem nguồn gốc của mê tín dị đoan đối với
nhân dân miền biển là gì. Như thế cũng không đúng.
Hàng ngày người dân vùng ven biển lao động, sinh hoạt lênh đênh trên mặt biển, luôn
luôn bị những sức mạnh thiên nhiên đe dọa. Trước sự đe dọa ấy, người dân lao động vùng ven
biển trước cách mạng chỉ chống đỡ lại bằng những chiếc thuyền mỏng manh, những phương tiện
thô sơ nên nhiều khi tỏ ra bất lực. Do đó, nảy ra tâm lý tin ở số mệnh, tin ở thần thánh, trời phật,
ma quỷ, mà họ coi như những sức mạnh vô hình, họ không đủ sức chiến thắng. Trong khi đó, bọn
đế quốc, phong kiến lại lợi dụng những hiện tượng đó, thổi phồng sức mạnh thần quyền làm cho
người dân vùng ven biển thấy mình bé nhỏ, bị động trước thiên nhiên. Mặt khác, chúng ra sức
thực hiện chính sách ngu dân, kìm chế sự hiểu biết khoa học của quần chúng. Cho nên trước đây
lúc gặp nguy nan, người dân đánh cá một mặt dựa vào kinh nghiệm thực tế trong lao động của
mình để chống đỡ, nhưng không khỏi có lúc yếu đuối tin tưởng vào số mệnh, tin vào “Long
vương”, “Hà bá”, lập đền thờ cá “Ông voi”. Trong khi đó bọn thống trị và giai cấp bóc lột, nhất là
bọn phản động đội lốt tôn giáo lại bịa đặt ra những câu chuyện kỳ dị để lung lạc quần chúng, đề
cao địa vị của chúng.

Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống vật chất và văn hóa xã hội của nhân
dân vùng ven biển ngày càng được cải thiện rõ rệt. Khoa học kỹ thuật ngày càng đi sâu phục vụ
lao động sản xuất. Khoa học bắt đầu là chỗ dựa vững chắc của quần chúng nhân dân vùng ven
biển, những luận điệu bịa đặt của bọn phản động ngày càng bị bóc trần, mê tín dị đoan trong nhân
dân dần dần sẽ mất đi. Nhân dân miền biển bắt đầu hiểu rõ nguyên nhân của nghèo nàn, đói rách
và thấy rằng: chỉ có đấu tranh vạch mặt và trấn áp bọn phản động, không cho giai cấp bóc lột
ngóc đầu dậy, ra sức sản xuất đấu tranh với thiên nhiên mới có thể giành lấy cuộc sống ấm no và
hạnh phúc. Như vậy, nhân dân vùng ven biển có đầy đủ điều kiện để giác ngộ giai cấp thì họ cũng
có đầy đủ điều kiện để tiếp thu khoa học, dần dần xóa bỏ mê tín dị đoan. Đó là mặt chủ yếu đang
phát triển có nhiều thuận lợi cho công tác tổ chức giáo dục dân quân tự vệ vùng ven biển ngày
càng lớn mạnh.

Vì sao ở một số nơi vùng ven biển còn có hiện tượng rượu chè, cờ bạc, tiêu xài lãng
phí?

Sau những ngày giờ lao động căng thẳng ngoài biển khơi, vật lộn với sóng gió, người
dân đánh cá trở về với cơ thể mệt mỏi, tinh thần căng thẳng, lúc đó chính là lúc họ muốn ăn uống
nghỉ ngơi giải trí, để bù đắp lại những ngày giờ lao động vất vả. Dưới chế độ cũ, bọn thống trị lợi
dụng tâm lý đó, thi hành chính sách đầu độc quần chúng, do đó tệ nạn xã hội ngày càng phát triển
trong nông thôn vùng ven biển. Lao động trở về, người dân đánh cá bị hút vào đám bài, sòng bạc,
rượu chè bê tha, gây gổ chửi đánh lẫn nhau. Nhưng dưới chế độ ta, nhất là từ hòa bình lập lại,
Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân nói chung và nhân dân vùng ven biển nói riêng nên tệ nạn xã hội ngày càng bị hạn chế, tổ
chức vui chơi lành mạnh ngày càng phát triển. Đi theo với trình độ giác ngộ, trình độ văn hóa
được dần dần nâng cao, sinh hoạt vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện, ở vùng ven biển,
những hiện tượng cờ bạc, rượu chè, v.v... còn rơi rớt lại sẽ dần dần bị xóa bỏ. Có đánh giá như
vậy mới thấy hết được sự chuyển biến lớn lao trong đời sống nhân dân vùng ven biển.

Thấy được bản chất giai cấp của quần chúng lao động vùng ven biển mới tránh khỏi
những lầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, mới tin tưởng rằng nhân dân vùng ven biển có đầy đủ
khả năng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa mới có quyết tâm đi sâu vào phát động nhân dân vùng
ven biển tiến lên xây dựng và làm chủ cuộc sống của mình.

Đánh giá đúng đắn khả năng cách mạng của quần chúng vùng ven biển còn giúp chúng
ta thấy được những khả năng quân sự của họ, từ đó tổ chức họ lại thành những tổ chức quần
chúng vũ trang của Đảng. Có đánh giá đúng đắn khả năng đó mới có quyết tâm đi sâu vào tô chức
dân quân, mới tin tưởng nhân dân lao động vùng ven biển có đầy đủ khả năng tham gia công tác
phòng thủ trị an, bảo vệ Tổ quốc.

Đánh giá đúng đắn khả năng cách mạng của nhân dân lao động vùng ven biển cũng
chính là để quần chúng lao động vùng ven biển tin tưởng ở sức mình, hăng hái tham gia mọi
nhiệm vụ sản xuất và bảo vệ sản xuất, xóa bỏ tình thần tự ti, đánh giá thấp vai trò cách mạng của
mình.

Sở dĩ chúng ta cần phân tích về khả năng cách mạng của quần chúng vùng ven biển
chính là vì trong khi đi vào thực tế chỉ đạo phong trào dân quân tự vệ còn có hiện tượng nhận
thức không đúng khả năng cách mạng của nhân dân vùng ven biển, còn lầm lẫn giữa hiện tượng
và bản chất, trong khó khăn còn đổ tại nhân dân lao động vùng ven biển trình độ thấp kém, điều
đó ít nhiều đã có ảnh hưởng tới việc chỉ đạo phong trào dân quân tự vệ.

3. Công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng đối với dân quân tự vệ và nhân dân
vùng ven biển là điều kiện có tính chất mấu chốt để xây dựng củng cố lực lượng vũ trang.

Như chúng ta đã biết, phong trào dân quân tự vệ vùng ven biển phát triển không đồng
đều, trình độ chính trị tư tưởng cũng có sự chênh lệch. Không những dân quân vùng ven biển có
nhiệm vụ hết sức nặng nề và phức tạp cả về chính trị và quân sự mà còn phải tiến hành nhiệm vụ
đó trong một khu vực mà cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra khá phức tạp. Nhân dân vùng ven
biển nói chung và dân quân tự vệ nói riêng, một mặt được tiếp thu sự giáo dục, giác ngộ về nhiệm
vụ và quyền lợi cách mạng, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước nhưng mặt khác bọn
phản động vẫn lén lút hoạt động tìm cách lung lạc họ bằng những luận điệu xuyên tạc chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Một mặt qua giáo dục thực tế họ thấy được những thay đổi
lớn lao của đất nước, công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ngày càng giành được
nhiều thắng lợi, quân đội ta ngày càng lớn mạnh, đời sống của họ ngày càng ổn định và nâng cao
từng bước, nhưng bên cạnh đó họ vẫn còn nghe thấy những tin tức bịa đặt, gây hoang mang trong
quần chúng như ngày mai “Mỹ - Diệm đánh ra Bắc”, ngày kia lại “Mỹ - Diệm đánh ra Bắc”, “Mỹ
bỏ bom nguyên tử ở Lào”, v.v... Đối với dân quân thì bọn phản động đe dọa: “vào dân quân là có
tội”; “vào dân quân sẽ mất Chúa”, v.v... Một mặt họ muốn vươn lên để tìm hiểu những điều mới
mẻ của khoa học và xã hội, nhưng đồng thời họ lại bị bọn phản động lợi dụng tôn giáo đặt ra
những quy định khắt khe về lễ giáo để ràng buộc và kìm hãm sự tiến bộ của họ.

Cuộc đấu tranh giữa tư tưởng cách mạng đang vươn lên với tư tưởng phản động đang
suy yếu vẫn diễn ra gay go, âm ỷ và quyết liệt. Tạm thời có lúc kẻ địch đã gây cho ta những khó
khăn nhưng nói chung tư tưởng cách mạng ngày càng thắng lợi, những luận điệu xuyên tạc của
địch ngày càng bị quần chúng vạch mặt.

Tình hình thực tế trên chỉ cho chúng ta thấy, muốn xây dựng lực lượng dân quân vùng
ven biển lớn mạnh, điều mấu chốt là phải tiến hành công tác giáo dục chính trị lãnh dạo tư tưởng
một cách tích cực, chủ động, bền bỉ và kịp thời, mặc dù hiện nay có khó khăn về trình độ, về cán
bộ... Có như thế mới làm cho trình độ giác ngộ của dân quân vùng ven biển ngày càng được nâng
cao, tư tưởng cách mạng ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đẩy lùi và đi đến đập tan những
cuộc tiến công của tư tưởng thù địch. Trái lại, không tích cực đi sâu tiến hành giáo dục chính trị
lãnh đạo tư tưởng tức là buông lỏng trận địa tư tưởng cho mọi hoạt động của kẻ địch. Các đồng
chí cán bộ phụ trách dân quân tự vệ cần tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương để tiến hành
công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng một cách sắc bén và có chất lượng.

Do tình hình nhiệm vụ vùng ven biển có khác nên nội dung giáo dục chính trị lãnh đạo
tư tưởng đối với dân quân vùng ven biển cũng có những đặc điểm cần chú ý:

Việc giáo dục ý thức giai cấp nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa là nội dung cơ bản
nhất của công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng cho dân quân tự vệ vùng ven biển. Biểu
hiện của sự giác ngộ ấy là tinh thần hăng say lao động sản xuất, ra sức xây dựng củng cố hợp tác
xã, chấp hành đúng đắn mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, biết phân biệt chính
sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ với luận điệu xuyên tạc của kẻ địch; biết vạch trần mọi
luận điệu xuyên tạc của kẻ địch đối với chính sách của Đảng và Nhà nước trước quần chúng nhân
dân. Sản xuất và bảo vệ sản xuất là hai mặt không thể tách rời, nên nhiệm vụ nâng cao ý thức
quốc phòng trong nhân dân và dân quân tự vệ vùng ven biển là một nội dung hết sức quan trọng
của công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng. Biểu hiện của sự giác ngộ ấy là sự nhận thức
đầy đủ về đặc điểm tình hình vùng ven biển, nhận rõ âm mưu của kẻ địch, nhận rõ vai trò của dân
quân tự vệ, đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, dũng cảm hoàn thành
mọi nhiệm vụ phòng thủ, trị an. Sự giác ngộ giai cấp và giác ngộ xã hội chủ nghĩa của dân quân
tự vệ vùng ven biển còn biểu hiện ở tinh thần kỷ luật, ý thức chấp hành mọi mệnh lệnh của cán bộ
chỉ huy, xây dựng tinh thần đoàn kết hiệp đồng chống mọi âm mưu của kẻ địch.

Chúng ta đều hiểu rằng, với kẻ địch có kinh nghiệm và khôn khéo về công tác tác động
tinh thần, chúng ta không thể đánh giá thấp những ảnh hưởng xấu vào trong dân quân tự vệ. Do
vậy, nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng nhằm nâng cao giác ngộ
giai cấp, giác ngộ xã hội chủ nghĩa là điều hết sức quan trọng đối với dân quân tự vệ vùng ven
biển. Không chỉ qua lên lớp học tập thảo luận là đủ, còn phải qua thực tế đấu tranh mà tiếp tục
nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng, bởi vì thực tế cuộc sống là những bài học rất quý
để nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ cách mạng.

Trong cuộc đấu tranh với kẻ địch, nhiều huyện, xã vùng ven biển đã xác nhận sự quan
trọng của công tác phổ biến thời sự, giáo dục chính sách. Chúng ta đều biết bản chất kẻ địch là
tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, chính sách của ta, chúng thường xuyên tạc những sự kiện xảy
ra trên thế giới và trong nước, hoặc dựng đứng những tin túc gây hoang mang trong nhân dân.
Riêng chung quanh vụ chiếc máy bay C.47 của Mỹ - Diệm thả biệt kích, bị ta bắn rơi ở Kim Sơn
(Ninh Bình), đã có 23 tin tức khác nhau được đồn đi nhằm gây hoang mang trong quần chúng,
một số anh em dân quân “yếu bóng vía” cũng đã bị dao động. Do vậy, công tác phổ biến thời sự,
giáo dục chính sách cần phải được tiến hành thường xuyên và kịp thời. Phổ biến tình hình đấu
tranh của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước ở miền Nam
có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với việc nâng cao tư tưởng cho dân quân tự vệ. Cần làm cho anh
em hiểu rõ những thắng lợi liên tiếp của cuộc đấu tranh đó, những khó khăn, thất bại của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai để củng cố thêm lòng tin tưởng phấn khởi, giúp mọi người đánh giá đúng đắn
âm mưu của kẻ địch, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và làm tròn mọi
nhiệm vụ khác vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Riêng đối với anh em dân quân tự vệ theo đạo Thiên chúa, cần làm cho anh em hiểu rõ
chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ, phân biệt được giữa giáo hội và Nhà nước,
giữa tôn giáo và chính trị, những vấn đề thuần túy tôn giáo với những vấn đề lợi dụng tôn giáo
chống lại Nhà nước. Nhiều địa phương chính vì chú ý giáo dục về mặt này cho dân quân theo đạo
Thiên chúa nên nhiều anh em tuy vẫn một lòng kính Chúa, nhưng vẫn kiên quyết tố cáo những kẻ
lợi dụng tôn giáo, đội lốt thầy tu để làm những việc trái với pháp luật Nhà nước, chống đối lại
đường lối chính sách của Đảng.
Một trong những nội dung giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng đối với dân quân vùng
ven biển là phải hết sức chú ý đề cao khả năng cách mạng của quần chúng vùng ven biển như:
tinh thần lao động cần cù, đức tính dũng cảm, ý thức tập thể, truyền thống đấu tranh cách mạng,
làm cho anh em thấy rõ khả năng của mình, đề cao lòng tự hào chính đáng đối với truyền thống
đấu tranh cách mạng, đấu tranh với thiên nhiên của nhân dân vùng ven biển. Do biết đề cao khả
năng cách mạng của quần chúng vùng ven biển nên nhiều xã đã thúc đẩy phong trào dân quân tự
vệ tiến bộ rõ rệt; lòng tự tin và tinh thần hăng hái phấn khởi trong dân quân tự vệ có nhiều biểu
hiện tốt, mọi người đều quyết tâm sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ quân sự của Đảng ở vùng
ven biển.

Tiến hành giáo dục chính trị cho dân quân vùng ven biển là nhiệm vụ của các cấp ủy
địa phương, của các đồng chí ủy viên phụ trách dân quân tự vệ. Ở nhiều xã, các đồng chí bí thư
hoặc phó bí thư chi bộ phân công nhau trực tiếp giảng bài cho dân quân tự vệ. Ngoài việc giảng
bài, thảo luận, cần tận dụng nhiều hình thức sinh động khác để tiến hành giáo dục cho dân quân
tự vệ như: có xã đã thông qua đội văn nghệ của dân quân, qua những bài vè thơ ca châm biếm đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giáo dục thời sự, có xã tổ chức nhà “Lưu niệm” trưng bày những hiện
vật kỷ niệm, những bằng khen, huân chương, thành tích trong kháng chiến cũng như trong hòa
bình, qua đó mà giáo dục truyền thống cho dân quân tự vệ. Có xã đã dùng hình thức ca dao để
phổ biến kinh nghiệm bắt biệt kích, giáo dục ý thức cảnh giác trong dân quân tự vệ. Nhân dân xã
Hải Lý đã tổ chức tự túc loa, dây để mắc đường dây phát thanh về xã cho nhân dân và dân quân
nghe tin tức phát thanh hàng ngày. Nhiều hợp tác xã dành tiền xây dựng tủ sách cho dân quân.
Trại hè dân quân và thanh niên vùng ven biển tỉnh Ninh Bình là một hình thức giáo dục động viên
sinh động, thoải mái, một hình thức trao đổi kinh nghiệm rộng rãi trong dân quân tự vệ.

Để xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển được vững mạnh, cần phải tích cực tiến
hành tuyên truyền giáo dục ý thức quốc phòng cho nhân dân vùng ven biển. Chỉ thị 119 về việc
lãnh đạo củng cố dân quân tự vệ xây dựng lực lượng hậu bị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã nêu rõ: “Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ củng cố dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng hậu bị,
trước hết phải ra sức tuyên truyền giáo dục ý thức quốc phòng sâu rộng trong nhân dân, làm cho
nhân dân trong hòa bình kiến thiết vẫn không ngừng nâng cao cảnh giác, căm thù địch, bồi
dưỡng ý chí chiến đấu, làm cho nhân dân tự nguyện tự giác lao động sản xuất đồng thời tự
nguyện tự giác làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ công cuộc kiến thiết hòa bình”. Riêng đối
với nhân dân vùng ven biển, chỉ thị này lại càng có ý nghĩa thiết thực. Cần phải làm cho nhân dân
vùng ven biển nhận rõ đặc điểm tình hình vùng ven biển, âm mưu của kẻ địch, nâng cao cảnh
giác cách mạng, sẵn sàng gia nhập dân quân, cùng với dân quân tự vệ hoàn thành mọi nhiệm vụ
phòng thủ và trị an vùng ven biển.

Nhân dân vùng ven biển có nhận rõ vai trò cách mạng của mình, nhận rõ trách nhiệm
của mình, thì việc xây dựng lực lượng vũ trang mới có cơ sở vững chắc và lâu dài.

Tiến hành tuyên truyền giáo dục ý thức quốc phòng trong nhân dân vùng ven biển là
nhiệm vụ của các đoàn thể, chính quyền dưới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng địa phương. Nhưng dân
quân tự vệ vùng ven biển cũng đóng một vai trò quan trọng trong đó.

Nhiều cơ quan đoàn thể tỉnh Nam Định đã có những chỉ thị về việc tuyên truyền giáo
dục ý thức quốc phòng trong ngành mình như: Hội liên hiệp phụ nữ đã có chỉ thị “Giáo dục cho
phụ nữ ý thức cảnh giác đối với âm mưu địch, có kế hoạch tham gia đề phòng và chống biệt kích,
theo dõi người lạ mặt đến thôn xóm và khu phố, kịp thời phát hiện và báo cáo cho dân quân tự vệ,
công an xã, khu phố những tình hình khả nghi...”. Trên cơ sở của việc tuyên truyền giáo dục ý
thức quốc phòng trong nhân dân, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Nam Định, Tỉnh đội Nam Định đã
mở những đợt chỉ đạo thí điểm xây dựng phong trào “gia đình dân quân tiên tiến”. Sau khi học
tập và nghiên cứu chỉ tiêu, hàng trăm gia đình ở hai huyện Nghĩa Hưng, Xuân Trường đã tự
nguyện xin đăng ký phấn đấu trở thành “gia đình dân quân tiên tiến”.

Trong thực tế công tác xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển, ta thấy có vùng, bọn
phản động tìm mọi cách xuyên tạc, đả kích, ly gián dân quân với nhân dân, xui giục gia đình lung
lạc tinh thần anh chị em dân quân, nhưng nhiều gia đình không những không làm theo chúng mà
còn tích cực vận động con cháu tham gia dân quân tự vệ; nhiều anh chị em dân quân vẫn hăng
hái, đứng vững trong hàng ngũ dân quân và còn tìm cách tuyên truyền cho gia đình, vận động gia
đình giúp đỡ dân quân tự vệ. Ở xã Hải Tiến (Hải Hậu, Nam Định), gia đình cụ Nguyễn Văn Sỡi
có sáu con tham gia dân quân (chỉ trừ người công tác thoát ly và cháu bé), gia đình cụ Khiết có
bảy người tham gia dân quân, gia đình cụ Nguyễn Ngọc Thu có tất cả sáu người đều tham gia dân
quân, nhiều lần tập hợp cả sáu đều có mặt trong hàng ngũ. Phong trào các cụ phụ lão đẽo gọt lựu
đạn, dụng cụ học tập cho dân quân luyện tập quân sự cũng phát triển, v.v… Tất cả những sự thật
ấy chứng tỏ việc xây dựng củng cố dân quân tự vệ không thể tách rời phong trào nhân dân địa
phương, tách rời công tác tuyên truyền giáo dục ý thức quốc phòng trong nhân dân vùng ven
biển. Trong công tác này, dân quân tự vệ có trách nhiệm rất lớn đồng thời cũng có tác dụng rất
lớn.

4. Nhận rõ đặc điểm, yêu cầu của tổ chức dân quân vùng ven biển, tăng cường công
tác củng cố tổ chức.
Do đặc điểm tình hình nhiệm vụ vùng ven biển, trách nhiệm của dân quân ở đây hết
sức nặng nề và phức tạp. Khi thấy một hiện tượng khả nghi có biệt kích xâm nhập vùng ven biển,
lập tức dân quân phải có kế hoạch bố trí phục kích, theo dõi và truy nã; khi có những hiện tượng
kẻ địch hoạt động ở ngoài khơi, dân quân phải sẵn sàng có kế hoạch đối phó; khi phát hiện bọn
phản động trong đất liền làm ám hiệu cho địch ngoài biển, dân quân phải bí mật bám sát theo dõi.
Những việc làm đó có khi phải tiến hành hàng tuần lễ hoặc hàng tháng, v.v… Do đó, yêu cầu tổ
chức dân quân tự vệ vùng ven biển phải chặt chẽ, có sức chiến đấu cao, có kỷ luật vững, có kế
hoạch phối hợp hiệp đồng ăn khớp giữa các đơn vị, giữa các xã đội. Đó mới chỉ nói về những yêu
cầu của nhiệm vụ trước mắt, còn nhiệm vụ xây dựng lực lượng để đáp ứng yêu cầu của những
cuộc chiến đấu chống xâm lược nếu xảy ra sau này thì chúng ta cần có sự nghiên cứu từng bước
để tiếp tục huấn luyện giáo dục cho dân quân tự vệ vùng ven biển.

Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của công tác tổ chức dân quân vùng ven biển là
vấn đề cán bộ và cơ quan chỉ huy ở các đơn vị cơ sở (xã đội, đại đội, trung đội). Như ta đã biết,
nhiệm vụ và tính chất của dân quân tự vệ vùng ven biển đòi hỏi chúng ta phải hết sức chú trọng
tăng cường cán bộ có lập trường tư tưởng vững, có khả năng quân sự, tổ chức và chỉ huy, có ý chí
chiến đấu cao, mưu trí và sâu sát thực tế, v.v... Cần làm cho các cấp ủy xã, chi bộ, đảng viên nhận
rõ nhiệm vụ và tính chất quan trọng của dân quân vùng ven biển, nhiệm vụ lãnh đạo lực lượng vũ
trang của Đảng đấu tranh với những hiện tượng ngại khó, ngại vất vả đi đến tình trạng sao lãng
nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, trao nhiệm vụ đó cho những cán bộ thiếu tinh
thần trách nhiệm, thiếu năng lực, v.v...

Chính vì nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ xây dựng dân quân tự vệ nên nhiều cấp ủy
xã đã cử những cán bộ tốt sang công tác dân quân. Huyện ủy Hải Hậu đã tỏ quyết tâm “Đảng nhất
định phải nắm chắc lực lượng vũ trang...”, do vậy đã tích cực cử những cán bộ có năng lực, có
trình độ sang phụ trách dân quân tự vệ. Đảng ủy xã Hải Hưng (Hải Hậu) đã nắm chắc tình hình
dân quân xã mình tỉ mỉ từng người, từng khẩu súng, có kế hoạch phối hợp các ngành, cử cán bộ
tốt tham gia ban chỉ huy xã đội, giao nhiệm vụ cho đồng chí phụ trách công an xã kiêm xã đội
phó dân quân để phối hợp công tác chặt chẽ. Ở các hợp tác xã toàn thôn, có tổ chức một đại đội
dân quân, tổ chức một chi đoàn thanh niên lao động thì đồng chí chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm
ban quản trị hợp tác xã phụ trách chính trị viên hoặc đại đội trưởng. Đồng chí bí thư chi đoàn sẽ
phụ trách chính trị phó đại đội... Những nơi có đồng bào Thiên chúa giáo đều có các đồng chí
theo đạo Thiên chúa sang tham gia ban chỉ huy các đơn vị dân quân. Ở những nơi làm được như
vậy, phong trào dân quân đều tiến bộ rõ rệt.
Ở những nơi đó, ngoài việc tổ chức các hội nghị liên tịch giữa thanh niên, công an và
dân quân để bàn kế hoạch phối hợp hoạt động, còn có sự kết hợp ngay trong cơ quan chỉ huy như:
cấp ủy Đảng có một đồng chí trực tiếp phụ trách dân quân, thanh niên, công an tham gia phụ
trách cấp phó của dân quân. Nhờ đó, tránh được những hiện tượng trùng giẫm lên nhau, không
gây khó khăn cho anh em dân quân và thanh niên trong sinh hoạt cũng như trong các mặt hoạt
động khác. Đó là kinh nghiệm tốt cần phổ biến rộng khắp.

Không những phải tăng cường cán bộ có năng lực sang phụ trách dân quân tự vệ mà
còn phải chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ xã đội, đại đội, chú trọng hơn nữa việc bồi dưỡng cho
cán bộ trung đội và tiểu đội dân quân. Các tỉnh đội, huyện đội cần có kế hoạch bồi dưỡng, tập
huấn riêng cho cán bộ dân quân tự vệ vùng ven biển với những nội dung thích hợp. Ngoài ra cần
chuyên môn hóa cán bộ, hết sức tránh việc điều động thay đổi luôn.

Cơ quan giúp việc chỉ huy của xã đội cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhiều xã đội
tổ chức riêng các bộ phận giúp việc như văn thư, quản lý, quân báo, quân khí, giao thông, cứu
thương, v.v… Có xã tổ chức thành ba khối; khối quân sự gồm: văn thư, huấn luyện tác chiến,
quân báo, giao thông; khối chính trị gồm: tuyên truyền, tổ chức, thi đua; khối hậu cần gồm: quân
khí, học cụ, cứu thương, hội bảo trợ dân quân, v.v... Để tránh cho cơ quan chỉ huy khỏi cồng
kềnh, để phối hợp hoạt động chặt chẽ và thống nhất, nên kết hợp các tổ chức của xã với tổ chức
của cơ quan chỉ huy xã đội, như xã Liêm Trực, Hà Nam đã làm: tổ tuyên truyền xã là tổ tuyên
truyền của dân quân, đồng chí phụ trách y tế xã đồng thời phụ trách cứu thương trong dân quân,
tổ sản xuất nông cụ của hợp tác xã kiêm luôn tổ sản xuất học cụ của dân quân, v.v...

Do đặc điểm về nghề nghiệp và tình hình chính trị, quân sự vùng ven biển, tổ chức
dân quân vùng ven biển cần chú trọng chất lượng, vì vậy cần quán triệt hơn nữa đường lối giai
cấp của Đảng trong việc tổ chức dân quân tự vệ, biên chế tổ chức cần thích hợp với điều kiện
nghề nghiệp, chỗ ở và sinh hoạt của quần chúng vùng ven biển.

Để bảo đảm chất lượng cho tổ chức dân quân tự vệ, cần phải làm cho mọi người nhận
rõ đó là tổ chức vũ trang của Đảng ở địa phương, là công cụ chuyên chính của chính quyền nhân
dân ở địa phương, nhận rõ tình hình chính trị, quân sự vùng ven biển đòi hỏi phải chú trọng chất
lượng của tổ chức dân quân tự vệ. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, cần phải thông qua các đoàn
thể địa phương, thông qua đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn mà phát triển dân quân tự vệ,
không hẹp hòi nhưng không thể bỏ qua nguyên tắc, làm cho tổ chức dân quân tự vệ luôn luôn
được trong sạch và vững vàng. Ngược lại các đoàn thể địa phương phải thông qua hoạt động quân
sự của dân quân tự vệ để rèn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật và ý chí chiến đấu cho các đoàn viên
của mình trong tổ chức dân quân tự vệ.
Dân quân tự vệ vùng ven biển Nam Định đã nêu khẩu hiệu “ba đủ” trong việc tổ chức
dân quân tự vệ. “Ba đủ!” là đảng viên vào dân quân tự vệ đủ, chiến sĩ phục viên vào dân quân tự
vệ đủ, thanh niên vào dân quân tự vệ đủ. Chữ đủ ở đây áp dụng cho những người có tiêu chuẩn
được vào dân quân tự vệ. Tỉnh đoàn thanh niên lao động Nam Định đã nêu chỉ tiêu phấn đấu cho
được từ 80% đến 90% đoàn viên và thanh niên tham gia dân quân tự vệ và xác định rõ trách
nhiệm của các đoàn viên trong việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ địa phương. Tất cả những
việc làm đó đều chứng tỏ nhiều cấp ủy xã, nhiều đoàn thể địa phương đã chú trọng nâng cao chất
lượng trong tổ chức dân quân tự vệ vùng ven biển.

Trên cơ sở hết sức chú trọng về chất lượng, do yêu cầu của tình hình vùng ven biển, để
bảo vệ sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức dân quân tự vệ vùng ven biển cũng cần được phát
triển rộng khắp, nghĩa là ở đâu có tổ chức sản xuất ở đấy phải có tổ chức dân quân. Không thể để
một xóm, hoặc một tổ chức sản xuất nào không có tổ chức dân quân. Tất cả tạo thành một mạng
lưới vững chắc để phòng thủ và trị an vùng ven biển, quyết không để một mắt lưới nào thủng đứt,
tạo kẽ hở cho kẻ địch đột nhập vào đất đai của Tổ quốc.

Tổ chức dân quân tự vệ vùng ven biển cần thích hợp với tính chất nghề nghiệp và tổ
chức sản xuất. Việc tổ chức dân quân tự vệ vùng ven biển có khác với vùng nội địa ở chỗ vùng
ven biển thì căn cứ vào cơ sở sản xuất, tính chất nghề nghiệp và chịu ảnh hưởng một phần về địa
dư. Như trên đã thấy, các xã vùng ven biển hiện nay có nghề đánh cá làm ruộng, làm muối. Có
nơi nghề đánh cá ở gọn một số xóm, người làm muối ở gọn một số nơi, nhưng cũng có nơi ba
nghề đó ở xen kẽ lẫn nhau. Trong nghề cá, có người đi khơi, đi lộng, người đánh cá ở ven bờ; có
người sáng đi tối về có người đi đánh cá xa, lâu hàng nửa tháng, lại có người chỉ đi vài ba ngày
lại về. Cho nên việc biên chế tổ chức dân quân tự vệ phải dựa vào cơ sở sản xuất là chủ yếu đồng
thời phải căn cứ vào tính chất nghề nghiệp, chỗ ở mà sắp xếp các đơn vị cho thích hợp. Xã Hải
Lý, Nam Định có nhiều hợp tác xã vừa đánh cá vừa làm ruộng. Tổ chức dân quân ở đó đã xác
định, người nào làm ruộng là chủ yếu thì khi đi biển sẽ lâm thời ghép vào những đơn vị đi biển
trực tiếp tham gia công tác tuần tra, trị an ngoài biển và tham gia ôn luyện quân sự trong thời gian
đi biển lâu ngày. Khi trở về đất liền lại trở về sinh hoạt với đơn vị dân quân xóm mình.

Ở vùng ven biển, bất kể nghề nghiệp nào cũng cần tổ chức những đội tuần tra ngoài
biển. Thí dụ: vùng ven biển Nam Định nhiều xã đã tổ chức những đơn vị “hải tuần” làm nhiệm vụ
tuần tiễu rộng ra ngoài biển, khi cần thiết phối hợp với đất liền hình thành thế bao vây bắt bọn
gián điệp biệt kích xâm nhập vùng ven biển.
Những nơi có nhiều người đi đánh cá xa và lâu ngày, ở lại thôn xóm phần lớn là ông
bà già và phụ nữ, thì công tác dân quân ở đó cần phải chú trọng phát triển phụ lão và nữ dân
quân.

Nữ dân quân vùng ven biển không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ cứu thương, giao
thông, quân báo mà còn cần phải được huấn luyện, tổ chức để đảm nhiệm được việc tuần tra canh
gác, bảo vệ trị an, bảo vệ cơ quan, kho tàng thay cho nam dân quân đi làm xa. Trong kháng chiến
chống Pháp, phong trào nữ du kích vùng ven biển đã có nhiều hoạt động đáng kể. Ở nhiều nơi
hầu hết nam giới tham gia bộ đội và hoạt động thoát ly, nữ dân quân du kích đã từng làm mọi việc
lãnh đạo sản xuất và chiến đấu ở nông thôn. Truyền thống đấu tranh của phụ nữ giúp ta có đầy đủ
tin tưởng ở khả năng phụ nữ làm tốt mọi nhiệm vụ của dân quân. Ở một số xã vùng ven biển
huyện Hậu Lộc đã chú trọng tổ chức nữ dân quân và khi thực tế bắt tay vào làm nhiệm vụ, nữ dân
quân vùng ven biển Hậu Lộc đều tỏ rõ khả năng của mình. Ở nhiều nơi còn chưa nhận rõ đặc
điểm này nên chưa chú trọng tổ chức phát triển nữ dân quân, tỷ lệ phụ nữ trong dân quân còn rất
thấp so với số chị em có đủ tiêu chuẩn.

Đi đôi với việc tổ chức nữ dân quân, còn cần coi trọng tổ chức lão dân quân. Các cụ
già ở vùng ven biển thường rất khỏe mạnh. Nhiều cụ là du kích trong kháng chiến chống Pháp, đã
từng chiến đấu với giặc, lập nhiều chiến công vẻ vang. Các cụ là những người sống lâu năm trong
nghề đánh cá, nghề muối hoặc làm ruộng nên các cụ vừa có kinh nghiệm sản xuất vừa có kinh
nghiệm đánh giặc. Tuy tuổi cao nhưng nhiều cụ vẫn trực tiếp sản xuất tham gia hướng dẫn nghề
nghiệp cho thanh niên, vì vậy cần tổ chức các lão dân quân để động viên giúp đỡ kinh nghiệm
cho lớp thanh niên trẻ ít kinh nghiệm. Ở Hải Lý, các cụ không những trực tiếp tham gia luyện tập
hoặc làm những nhiệm vụ hợp với tuổi tác và sức khỏe của mình mà còn truyền đạt kinh nghiệm
chiến đấu và sản xuất, khích lệ con cháu giữ vững truyền thống vẻ vang của địa phương và gia
đình.

Cụ Giai ở xã Hải Hưng, Nam Định đã tự mình đẽo gọt hàng chục lựu đạn gỗ và học cụ
cho dân quân tập luyện, ngoài ra cụ còn cùng với các cụ phụ lão khác trong thôn xóm đi vận động
các đoàn thể hết lòng chăm lo dân quân tự vệ, thật sự coi lực lượng vũ trang địa phương là con
em của mình.

5. Đoàn kết mọi lực lượng, mọi tổ chức quần chúng vùng ven biển, cô lập và trấn áp
bọn phản động, làm tốt công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu.

Chúng ta đều hiểu rằng, cũng như lực lượng vũ trang địa phương nói chung, lực lượng
dân quân tự vệ vùng ven biển phải là lực lượng vũ trang trong sạch về tổ chức, kiên định về lập
trường chính trị, trung thành với Đảng, với chính quyền nhân dân, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu
phá hoại của bọn phản động, làm chỗ dựa cho quần chúng nhân dân vùng ven biển tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội.

Muốn làm tròn nhiệm vụ đó, dân quân tự vệ vùng ven biển cần phải cảnh giác với âm
mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam.

Chúng ta đã nhận thấy vùng ven biển là một địa bàn xung yếu cả về chính trị lẫn quân
sự, có ý nghĩa quan trọng đối với nhiệm vụ phòng thủ đất nước. Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đang
tìm mọi cách liên lạc chặt chẽ với bọn phản động địa phương tiến hành tung biệt kích, gián điệp
từ ngoài biển vào và từ máy bay thả xuống. Chúng cấu kết với nhau tìm mọi cách phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phá hoại công cuộc xây dựng quân đội ta.

Bọn phản động vùng ven biển lợi dụng tôn giáo dựa vào quần chúng bị mê hoặc để
che giấu những hành động phá hoại của chúng. Được đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam
giúp đỡ và khuyến khích, chúng ra sức xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
tìm cách chia rẽ hàng ngũ nội bộ nhân dân: tung tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật hòng chia rẽ giữa
lương và giáo, giữa nhân dân và chính quyền địa phương, giữa xã viên với ban quản trị hợp tác xã
giữa cán bộ với nhân dân, giữa dân quân tự vệ với nhân dân và giữa nhân dân với nhau.

Để có thể đập tan mọi âm mưu của kẻ địch, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy
Đảng địa phương, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, dân quân tự vệ vùng ven biển phải
biết đoàn kết mọi lực lượng, mọi tổ chức quần chúng, vạch trần mọi luận điệu tuyên truyền xuyên
tạc của kẻ địch, làm cho quần chúng thấy rõ âm mưu nham hiểm của chúng, phân biệt rõ kẻ xấu
người tốt, người lạc hậu với bọn phản động tay sai đế quốc, kiên quyết trấn áp bọn phản động đầu
sỏ, bảo đảm tự do tín ngưỡng, giữ gìn trật tự an ninh, chặt đứt cơ sở của bọn biệt kích, gián điệp,
có kế hoạch sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu xâm nhập của chúng vào vùng ven biển.

Cụ thể là: ngoài việc tuyên truyền giáo dục nhân dân, nâng cao giác ngộ cách mạng,
vạch trần mọi âm mưu và luận điệu xuyên tạc của kẻ địch, công tác trị an vùng ven biển cần có kế
hoạch giám sát mọi hoạt động của bọn phản động địa phương, bọn ngoan cố không chịu cải tạo,
vạch trần những luận điệu mập mờ phá hoại của chúng, cô lập chúng trước quần chúng và cần có
những biện pháp chủ động đối phó. Đồng thời có kế hoạch quản lý, canh gác, kiểm soát những
nơi địa hình hẻo lánh, những nơi thuyền bè ra vào lộn xộn và những vùng cơ sở chính trị còn yếu,
cắt đứt mọi liên hệ giữa bọn địch ở ngoài biển với bọn phản động trong đất liền.

Để bảo vệ mặt biển và xóm làng trên đất liền, vấn đề cảnh giới canh gác, tuần tra vùng
ven biển cần được tiến hành bằng nhiều hình thức. Có xã vùng ven biển biết lợi dụng nghề nghiệp
đánh cá suốt ngày đêm ở ngoài khơi, giao trách nhiệm cho một số thuyền cảnh giới phát hiện địch
từ xa, truyền tin vào đất liền. Có nơi dựa vào nghề nghiệp của một số nhân dân hàng ngày lao
động trên bờ biển, ruộng muối, đồng ruộng vùng ven biển để phân công canh gác thường xuyên
nhận tín hiệu ở ngoài khơi đưa về hoặc theo dõi phát hiện những người lạ mặt lén lút vào vùng
ven biển.

Nhiều xã đã tích cực tổ chức tuần tra vùng ven biển như phân công đơn vị chuyên
trách tuần phòng nơi hẻo lánh, nơi tiếp giáp các xã, các huyện hoặc các đơn vị chuyên trách tuần
phòng nơi đặc biệt xung yếu. Có nơi Đảng ủy địa phương đã quan tâm đến việc chỉ đạo các hợp
tác xã giúp đỡ dân quân đóng thuyền đi biển để tổ chức đội “hải tuần” thường xuyên tổ chức tuần
tra ven biển, khi cần thiết sẽ hình thành thế bao vây bắt bọn biệt kích xâm nhập. Khi có hiện
tượng khả nghi, dân quân vùng ven biển Nam Định đã tổ chức từng đội thuyền ra khơi tuần tra
theo dõi, mặc dầu đêm tối, anh em không quản ngại mưa rét, vật lộn với sóng gió để hoàn thành
nhiệm vụ. Có xã đã có dự kiến kế hoạch chống biệt kích xâm nhập, tự đặt ra tình huống rồi tổ
chức dân quân tập dượt, đồng thời có kế hoạch phối hợp tập dượt với các vùng lân cận và các xã
trong nội địa.

Trong kế hoạch luyện tập, khi phát hiện có biệt kích vào theo đường biển, dân quân
nhanh chóng truyền tin, báo động, rồi từ các mặt tiến tới mục tiêu, bao vây nhiều vòng, kiên
quyết không cho địch chạy thoát vào cơ sở ở đất liền, trong khi đó tổ chức giám sát ngăn chặn
bọn phản động địa phương, cắt đứt không cho bọn biệt kích chạy thoát ra biển. Trường hợp bọn
biệt kích đã lọt vào, ẩn náu trên đất liền thì cần tinh ý cảnh giác với những âm mưu đánh lạc
hướng của bọn phản động địa phương và kiên nhẫn dựa vào nhân dân để phát hiện địch. Kinh
nghiệm thực tế cũng đã chỉ ra rằng: bất kể trong trường hợp nào, muốn bắt gọn bọn biệt kích đều
phải dựa vào nhân dân, không phải chỉ đơn độc dân quân tự vệ hoặc công an mà hoàn thành
được. Do đó cần liên tục phát động tư tưởng quần chúng, giáo dục sâu rộng trong quần chúng
cảnh giác theo dõi phát hiện địch, thấy địch, cần tìm mọi cách báo ngay cho dân quân, công an,
hoặc bộ đội để vây bắt địch; tuyệt đối không chỉ đường cho địch chạy trốn, không tiếp tế lương
thực cho địch.

Bảo vệ vùng ven biển không cho bọn gián điệp, biệt kích xâm nhập, chính là mạng
lưới dày đặc của tất cả quần chúng nhân dân vùng ven biển.

Bờ biển là tuyến phòng thủ đầu tiên của Tổ quốc. Kẻ địch muốn tập kích quấy rối phá
hoại miền Bắc hoặc muốn tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược, kết hợp đổ bộ đường không
với vượt biên giới hoặc giới tuyến, thì đổ bộ bờ biển vẫn là một hướng có nhiều khả năng và điều
kiện đối với địch. Do đó yêu cầu cảnh giác sẵn sàng chiến đấu của dân quân tự vệ vùng ven biển
phải cao hơn. Người lao động miền biển dù ở trên bờ biển hoặc ở ngoài khơi, bất cứ lúc nào cũng
có thể chiến đấu với địch để bảo vệ thành quả lao động của mình. Kết hợp với mọi mặt kinh tế và
quốc phòng, giữa sinh hoạt bình thường với việc quân sự hóa các tổ chức sản xuất, thuyền bè
đánh cá trên mặt biển là những đơn vị chiến đấu lưu động, làng mạc ven biển là những pháo đài
kiên cố để phòng thủ bờ biển. Nhiều nơi từ công tác trồng cây, đắp đê, làm đường đều kết hợp với
kế hoạch tác chiến phòng thủ trước mắt và lâu dài. Nhiều địa phương có kế hoạch tổ chức, chỉ
huy, có kế hoạch chiến đấu liên hoàn đối phó với những tình huống có thể xảy ra. Sẵn sàng chiến
đấu với kẻ địch bên ngoài xâm nhập, đồng thời trấn áp bọn phản động bên trong hoạt động, đó là
yêu cầu cao nhất trong công tác xây dựng dân quân tự vệ, phòng thủ, trị an vùng ven biển.

Tóm lại, muốn xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển lớn mạnh, một trong những
vấn đề quan trọng là cần đoàn kết mọi lực lượng sản xuất, mọi tổ chức quần chúng vùng ven biển,
cô lập và trấn áp bọn phản động, làm tròn nhiệm vụ phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu.

6. Tăng cường huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ vùng ven biển.

Để theo kịp tình hình ngày càng phát triển và để làm tròn nhiệm vụ phòng thủ và trị
an, cần chú trọng huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ. Đó là một trong những nhiệm vụ
trung tâm của dân quân tự vệ vùng ven biển. Công tác huấn luyện quân sự tiến hành trong hoàn
cảnh sản xuất ngày càng được đẩy mạnh, yêu cầu chất lượng huấn luyện chiến đấu ngày càng
cao, nhiệm vụ phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu đòi hỏi hết sức khẩn trương, do đó cần nắm
vững phương châm: “Dựa vào nhân dân, kết hợp huấn luyện với sản xuất, huấn luyện theo yêu
cầu nhiệm vụ của từng đối tượng, từng đơn vị, từng vùng thích hợp với trang bị, địa hình, tập
quán từng nơi, lấy chất lượng huấn luyện làm chủ yếu...”.

Miền ven biển có đặc điểm riêng về nhiều mặt, cho nên nội dung huấn luyện quân sự
cần được vạch ra một cách thiết thực hợp với từng đối tượng.

Ngay việc giao nhiệm vụ cho các đơn vị ở mỗi vùng, cũng cần thích hợp với tính chất
sản xuất và đặc điểm tình hình địa phương, thí dụ: Giao nhiệm vụ cho đơn vị đi biển lâu ngày
khác với nhiệm vụ đi biển ngắn ngày, nhiệm vụ đơn vị làm ruộng khác với nhiệm vụ đơn vị vừa
làm muối vừa đánh cá. Ngoài những vấn đề xây dựng và huấn luyện có tính chất chung và lâu dài
thì dân quân tự vệ vùng ven biển cần căn cứ vào nhiệm vụ của mình để huấn luyện cho thích hợp.
Nếu giao nhiệm vụ không thích hợp thì nội dung luyện tập sẽ không sát với nhiệm vụ thực tế, khi
cần đến dân quân sẽ bỡ ngỡ không làm tròn nhiệm vụ. Nội dung huấn luyện dân quân tự vệ vùng
ven biển có thể nghiên cứu từ thói quen sinh hoạt nghề nghiệp mà vận dụng sang các hình thức
kỹ thuật, chiến thuật quân sự, kết hợp huấn luyện các hình thức tác chiến du kích với các hình
thức tác chiến phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc bằng mọi hình thức có
thể đảm nhiệm được. Ví dụ: thông tin báo động có thể dùng hình thức “lên chiêu” của đồng bào
đánh cá truyền tin cho nhau khi ra biển. Đội hình đánh cá thì vận dụng sang đội hình chiến đấu
hợp vây trên mặt biển, v.v… Đối với các nguyên tắc động tác kỹ thuật, chiến thuật chung, cần
vận dụng vào miền biển một cách linh hoạt như qua luyện tập cơ bản trên đất liền, rồi dần dần
tiến tới học tập trên mặt nước, tập trên thuyền tròng trành với mục tiêu nhấp nhô theo sóng biển.
Dân quân tự vệ nhiều xã đã tập nằm trên bờ ngắm mục tiêu nhấp nhô ngoài biển, hoặc tập bắn
trên thuyền, người bắn và mục tiêu cùng nhấp nhô theo sóng biển. Có nơi tổ chức tập bắn, tập
ném lựu đạn trên bãi biển, trong rừng phi lao, tập động tác chiến đấu trong bãi lầy sú vẹt. Cần coi
trọng lối đánh du kích phối hợp với chủ lực để tiêu hao, tiêu diệt địch. Tuyệt đối không nên coi
thường lưỡi mác, gậy tầm vông, không nên coi thường chông, mìn, cạm bẫy, đánh chim sẻ, đánh
chặn đường, đánh quấy rối, v.v...

Trong huấn luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ cần ra sức nghiên cứu nâng cao chất
lượng huấn luyện, cải tiến, bổ sung nội dung huấn luyện cho phù hợp với tình hình ngày càng
phát triển. Chống hình thức phô trương, thiếu thiết thực, lấy thực tế chiến đấu trước mắt và lâu
dài làm tiêu chuẩn.

Về tổ chức và phương pháp huấn luyện, nhiều nơi đã biết kết hợp huấn luyện với sản
xuất và đã dần dần đi vào nền nếp thường xuyên. Qua nhiệm vụ sản xuất mà hoàn thành công tác
huấn luyện quân sự và ngược lại thực hiện tết nhiệm vụ huấn luyện quân sự để thúc đẩy sản xuất.
Ở hai huyện Hậu Lộc và Hải Lộc, trong các hội nghị bàn về lãnh đạo sản xuất, thường được
huyện ủy chú ý đề cập bàn việc lãnh đạo dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ huấn luyện. Ngược
lại, dân quân tự vệ được huấn luyện trở thành lực lượng có tổ chức, có kỷ luật chặt chẽ sẽ là nòng
cốt trong lao động sản xuất, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Thực tế những việc làm
vừa qua của dân quân tự vệ vùng ven biển đã chứng minh điều đó. Do kết hợp khéo léo giữa huấn
luyện với sản xuất, nên nhiều xã vùng ven biển đã hoàn thành chương trình huấn luyện trước thời
hạn, đạt chất lượng cao. Xã Hải Lý, một xã ở vùng ven biển, trong đại hội tập của huyện năm
196l đã đứng thứ hai trong 40 đơn vị của huyện và được nhận cờ thi đua của huyện. Sáu tháng
đầu năm 1962, qua đợt kiểm tra của huyện đội, dân quân Hải Lý đứng thứ nhất trong số 11 đơn vị
vùng ven biển về huấn luyện quân sự. Về sản xuất, cuối năm 1962 xã Hải Lý đã phấn đấu đạt
thành tích tốt trong việc gieo mạ, làm phân, hoàn thành cấy trước Tết, đã được Bộ tư lệnh Quân
khu Hữu Ngạn trao tặng phẩm.

Do đặc điểm vùng ven biển sinh hoạt nghề nghiệp phức tạp nên lại cần tránh khuynh
hướng huấn luyện “có quy mô” mà phải coi trọng “đánh nhỏ ăn chắc”, “năng nhặt chặt bị”, tranh
thủ mọi lúc mọi nơi để tiến hành huấn luyện. Nếu đi biển lâu ngày thì dân quân có thể mang theo
bia, bảng, học cụ để tranh thủ luyện tập một số động tác kỹ thuật chiến đấu trên thuyền. Những
ngày biển động không đi đánh cá được thì có thể tập trung giải quyết những khoa mục cơ bản cần
tập trên đất liền. Đối với những bộ phận chỉ đi đánh cá một thời gian ngắn lại về thì có thể tranh
thủ luyện tập vào thời gian thuyền mảng vào bờ. Khi mọi việc phân phối vận chuyển cá đã làm
xong thì người đội trưởng sản xuất hoặc chỉ huy cao nhất của dân quân tự vệ trong đội đó nhanh
chóng tập trung anh em tranh thủ hướng dẫn luyện tập một số khoa mục, mỗi ngày tập một ít
nâng cao dần dần trình độ kỹ thuật, chiến thuật.

Ở những vùng làm muối cần dựa vào thời tiết để tranh thủ huấn luyện. Tuy nhiên
những ngày nắng ráo, anh em làm muối vẫn cần có kế hoạch bố trí tranh thủ huấn luyện. Trong
quá trình huấn luyện, cần kết hợp vận dụng những kinh nghiệm chiến đấu cũ và kể chuyện truyền
thống chiến đấu trong kháng chiến cho anh em nghe.

Điều kiện sinh hoạt nghề nghiệp ở vùng ven biển khó tập trung thống nhất hạ khoa
mục, do vậy vai trò của tiểu giáo viên càng trở nên cần thiết, cần chú ý tăng cường bồi dưỡng đầy
đủ cho tiểu giáo viên, bảo đảm mỗi cơ sở sản xuất đều có người chỉ dẫn, huấn luyện. Trường hợp
tiểu giáo viên thiếu, ở một số vùng đã biết tranh thủ sự giúp đỡ của các đồng chí công an nhân
dân vũ trang ven biển, hoặc có xã tranh thủ được sự giúp đỡ trực tiếp của bộ đội thường trực đóng
quân ở gần địa phương bằng cách cử người đến đơn vị nhờ bồi dưỡng hoặc đơn vị cử giáo viên
đến giúp đỡ bồi dưỡng cho những khoa mục quan trọng và có khi đơn vị trực tiếp cử giáo viên
đến hạ khoa mục huấn luyện cho những nơi gặp khó khăn.

Chính nhờ biết tận dụng mọi khả năng giúp đỡ của các đơn vị chủ lực nên nhiều xã đã
hoàn thành chương trình huấn luyện, đạt chất lượng tốt và sát với yêu cầu thực tế chiến đấu hơn.

Tóm lại, miền biển là tuyến phòng thủ đầu tiên trên đất liền của Tổ quốc, yêu cầu cảnh
giác sẵn sàng chiến đấu trong hoàn cảnh hiện nay hết sức khẩn trương. Việc tăng cường công tác
huấn luyện quân sự có chất lượng cho dân quân tự vệ càng cần được coi trọng. Cần tránh huấn
luyện hình thức, rập khuôn chạy theo số lượng mà phải luôn luôn căn cứ vào đặc điểm từng nơi,
lấy yêu cầu của thực tế chiến đấu để rèn luyện cho từng đơn vị, từng vùng cho thích hợp với
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Tránh tham vọng huấn luyện “ăn to”, cần “đánh nhỏ ăn chắc”,
“năng nhặt chặt bị”, rèn luyện cho dân quân tự vệ có bản lĩnh vững chắc để đảm đương được
nhiệm vụ bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu phòng thủ ven biển.

7. Phải làm cho dân quân thực sự là nòng cốt trong sản xuất và chú ý đến việc cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của dân quân tự vệ vùng ven biển.
Dân quân vùng ven biển tuy làm nhiều nghề, nhưng nghề nghiệp thường phụ thuộc
vào thiên nhiên. Nắng ráo, biển lặng thì đi biển, làm muối. Mưa dầm, biển động thì ở nhà. Mức
sống của nhân dân vùng ven biển có nơi khá, nhưng cũng có nơi còn thấp, công cụ canh tác, làm
ăn của nhân dân vùng ven biển tuy đã chú ý cải tiến nhưng nói chung vẫn còn thô sơ. Chính vì
vậy chúng ta cần phải quan tâm đến việc cải thiện đời sống vật chất cho nhân dân vùng ven biển
nói chung và dân quân tự vệ nói riêng.

Ở những vùng làm ruộng, dân quân đi họp, đi huấn luyện có thể nhận làm khoán trước
một số việc như cày bừa, tát nước, làm phân, tăng năng suất lao động dành thời gian đi học, đi
họp mà vẫn bảo đảm đủ công điểm. Dân quân tự vệ vùng ven biển không thể làm khoán việc
trước được, gặp ngày lặng biển mà đi họp không đi làm được là không có công điểm.

Muốn khắc phục những khó khăn đó, các cấp ủy, các cán bộ quân sự địa phương, các
cơ quan, xí nghiệp vùng ven biển cần chú ý lãnh đạo, giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, cải
tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các hợp tác xã, tạo điều kiện nâng cao đời sống nhân dân
vùng ven biển nói chung và dân quân tự vệ nói riêng.

Một mặt khác, bản thân dân quân tự vệ vùng ven biển, với đức tính dũng cảm, lòng
kiên nhẫn sẵn có, với ý thức tập thể, tính tổ chức kỷ luật khá hơn, phải thực sự là nòng cốt, là đội
xung kích trong sản xuất, trong cải tiến quản lý và cải tiến kỹ thuật của hợp tác xã.

Ở một số xã, phong trào dân quân tự vệ gương mẫu đẩy mạnh sản xuất, thực hiện khẩu
hiệu thi đua “Ba vừa” đang phát triển nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân và dân quân tự vệ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự.

Ba vừa là: Vừa lòng hợp tác xã, vừa lòng gia đình, vừa lòng dân quân tự vệ.

Vừa lòng hợp tác xã là dân quân tự vệ phải lao động vượt mức chỉ tiêu sản xuất và
công điểm cho hợp tác xã, đi đầu phong trào cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật.

Vừa lòng gia đình là công việc học tập quân sự, tuần tra canh gác tốt mà vẫn đảm bảo
công điểm thu hoạch cho gia đình.

Vừa lòng dân quân tự vệ là sản xuất giỏi, công điểm nhiều mà tập luyện quân sự vẫn
đạt loại giỏi, bảo đảm công tác tuần tra canh gác tốt.

Làm được như vậy thì đời sống dân quân được bảo đảm, gia đình vui vẻ, hợp tác xã
vừa lòng, an ninh trật tự được nghiêm mật, vùng ven biển càng thêm vững chắc. Qua phong trào
“Ba vừa” đã xuất hiện nhiều chiến sĩ dân quân tự vệ trong lao động sản xuất đã làm gấp hai, gấp
ba người khác, trong cải tiến kỹ thuật đã mạnh dạn phát huy nhiều sáng kiến đẩy mạnh sản xuất,
cải thiện đời sống xã viên.

Gia đình cụ Khiết ở Hải Tiến (Hải Hậu, Nam Định) có bảy người tham gia dân quân.
Cụ Khiết là một lão dân quân, lại là chiến sĩ nông nghiệp với thành tích đạt 200 cân bột bình quân
đầu người trong gia đình, về chăn nuôi đạt 52 cân thịt bình quân đầu người trong 9 tháng. Năm
1961 gia đình cụ có ba người là dân quân tiên tiến. Toàn tỉnh Nam Định có hàng trăm gia đình
dân quân tiên tiến, trong đó có nhiều gia đình ở các xã vùng ven biển.

Trong lao động sản xuất, các hợp tác xã cần chú ý lãnh đạo phong trào đoàn kết tương
trợ giúp đỡ dân quân tự vệ hoàn thành nhiệm vụ ở địa phương, làm cho anh em an tâm hăng hái
đối với nhiệm vụ tập luyện quân sự, trị an bắt biệt kích, v.v... Ở Thanh Hóa có hợp tác xã đã
khoán việc cho đội sản xuất hoàn thành công việc để giành được một số công điểm nhất định.
Công việc đáng 10 người thì bố trí tám người làm cả việc cho 10 người, còn cử hai người đi bồi
dưỡng quân sự, chính trị về làm tiểu giáo viên hướng dẫn cho anh em trong đội học tập. Thực tế
ấy đã chỉ rõ, biết động viên giáo dục tốt thì tám người có thể lao động thay cho 10 người, năng
suất cao, thu hoạch khá. Như vậy, mặc dù đi họp, đi dự lớp huấn luyện, anh em vẫn có một số
công điểm bảo đảm cho đời sống gia đình.

Bên cạnh những việc làm đó, ở nhiều xã vùng ven biển đã tổ chức cho dân quân đi
khai hoang tăng gia trồng trọt, tăng thêm thu hoạch, gây quỹ dân quân. Có nơi hợp tác xã cho dân
quân quản lý hồ ao để thả cá, có nơi còn dành tiền mua sắm chăn, màn, đèn pin cho dân quân làm
công tác canh gác, tuần tra ban đêm. Sự săn sóc một cách thiết thực của nhân dân, cấp ủy Đảng,
hợp tác xã đã có tác dụng khích lệ tinh thần hăng hái sản xuất, hoàn thành mọi nhiệm vụ phòng
thủ, trị an vùng ven biển của dân quân tự vệ.

Ngoài ra chúng ta lại cần chú ý giáo dục cho nhân dân vùng ven biển nói chung và dân
quân tự vệ nói riêng, biết dành dụm, dè sẻn, ngày no đủ phải nghĩ đến ngày khó khăn, túng thiếu,
biết tiết kiệm, chống lối sống phung phí, không có kế hoạch.

Bên cạnh mặt thúc đẩy tinh thần tự lực giải quyết khó khăn trong dân quân tự vệ và
trong các hợp tác xã, chúng ta cần chú ý đề nghị các cơ quan, xí nghiệp nông hải sản địa phương
giúp đỡ nhân dân vùng ven biển phương tiện vật chất, công cụ cải tiến và những nguyên vật liệu
cần thiết (như tơ, đay, gai, gỗ, tre, nứa, v.v…) để đẩy mạnh sản xuất.

Trong phong trào kết nghĩa giữa các xí nghiệp, các đoàn tàu đánh cá với các huyện
vùng ven biển, dân quân tự vệ của hai nơi đó cũng cần có sự kết nghĩa tương trợ lẫn nhau để đẩy
mạnh sản xuất và xây dựng dân quân tự vệ ngày càng vững mạnh.
Đặc biệt ở một số nơi vùng ven biển, các cán bộ địa phương cần chú ý giải quyết công
việc cho nữ giới, mà đa số là vợ con của anh em dân quân tự vệ. Phụ nữ có công ăn việc làm,
phần nào bớt khó khăn về đời sống chung cho nhân dân, trong đó có gia đình anh em dân quân,
họ sẽ hăng hái phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ quân sự của mình.

Đi đôi với việc cải thiện đời sống vật chất, cần chú trọng cải thiện đời sống tinh thần
để dần dần nâng cao trình độ cho quần chúng nhân dân. Sau những ngày lao động vất vả mệt
nhọc, nhân dân vùng ven biển cần được hướng dẫn vào các tổ chức vui chơi giải trí lành mạnh
nâng cao trình độ văn hóa, xã hội, mở mang trí tuệ, nâng cao hiểu biết về khoa học kỹ thuật.

Ở xã Hải Lý (Nam Định) đã tổ chức các câu lạc bộ “quân đoàn” tức là câu lạc bộ của
dân quân và đoàn thanh niên lao động thống nhất làm một. Các đại đội, trung đội cũng đều có câu
lạc bộ “quân đoàn” như ở xã. Nhiều xã tổ chức đội văn nghệ, tổ chức ca hát, hò vè thu hút được
đông đảo quần chúng tham gia. Ở Hải Lý còn tổ chức các đội bóng tròn, bóng chuyền, đội ca
nhạc, chú trọng tổ chức giải trí, vui chơi lành mạnh cho thanh niên và dân quân. Các hoạt động
câu lạc bộ còn nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, khoa học kỹ thuật, góp phần dần dần
chiến thắng mê tín dị đoan, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phá tan
những luận điệu lừa bịp xảo trá của bọn phản động.

Trên cơ sở nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ giai cấp cho nhân
dân và dân quân tự vệ, chúng ta cần thúc đẩy phong trào sản xuất phát triển, quan tâm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân vùng ven biển.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với khả năng cách mạng to lớn và truyền thống đấu tranh
bền bỉ và anh dũng của nhân dân vùng ven biển với thiên nhiên, với kẻ thù của giai cấp và dân
tộc, dân quân tự vệ vùng ven biển đang phát triển lớn mạnh không ngừng. Nhân dân vùng ven
biển đã và sẽ luôn luôn đoàn kết gắn bó xung quanh Đảng và Chính phủ, đẩy mạnh sản xuất, cải
thiện đời sống, làm tròn nhiệm vụ phòng thủ, trị an bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên vẫn còn một số nơi cơ sở chính trị còn yếu, tổ chức và lực lượng dân quân
hoạt động chưa đều, phong trào chưa thật thường xuyên vững chắc. Đó là những chỗ sơ hở để cho
bọn phản động lén lút hoạt động phá hoại, bọn biệt kích xâm nhập ẩn náu. Cho nên tăng cường
xây dựng dân quân tự vệ vùng ven biển là một yêu cầu khẩn trương, cần được tiến hành thường
xuyên và toàn diện. Khâu chủ yếu hiện nay là tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, coi
trọng công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng, trên cơ sở đó ra sức củng cố tổ chức và huấn
luyện chiến đấu cho dân quân tự vệ. Biến những làng mạc vùng ven biển thành những pháo đài
kiên cố trên tuyến phòng thủ đầu tiên trên đất liền của Tổ quốc, đó là trách nhiệm nặng nề nhưng
rất vinh quang của nhân dân và dân quân tự vệ miền ven biển.

MẤY KINH NGHIỆM HUẤN LUYỆN QUân SỰ TRONG LỰC LƯỢNG VŨ


TRANG(31)

Ta thường nói: “Văn ôn, võ luyện”.

Thật vậy, trong thời chiến hay thời bình, quân đội muốn hùng mạnh thì phải huấn
luyện giỏi.

Luyện nhiều thành tài , đánh nhiều thành thiện chiến.

Mục đích cao nhất của huấn luyện quân sự là làm cho các lực lượng vũ trang ta trong
bất cứ tình hình nào cũng bảo đảm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chiến đấu.

Vì vậy, huấn luyện quân sự phải quán triệt nhiệm vụ cách mạng và đường lối chính trị
của Đảng.

Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng hiện nay, các lực lượng vũ trang ta phải khẩn
trương xây dựng với quy mô và tốc độ cao, có sức chiến đấu phát triển vượt bậc để trước mắt đấu
tranh buộc kẻ địch phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, và về lâu dài có đủ
sức mạnh đánh thắng bất cứ kẻ địch nào có quân số đông, có trang bị mạnh dám liều lĩnh gây
chiến tranh xâm lược nước ta.

Ngày nay, chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh việc huấn luyện, xây
dựng quân đội theo phương hướng chính quy hiện đại, có khả năng tác chiến tập trung hiệp đồng
binh chủng, quân chủng với quy mô lớn phù hợp với yêu cầu phát triển của chiến tranh. Một quân
đội cách mạng, chính quy, hiện đại muốn có sức mạnh chiến đấu cao, thì từ cấp trên đến chiến sĩ,
các đơn vị, các chiến trường đều phải thống nhất về quan điểm, tư tưởng quân sự, thống nhất về
cách đánh, thống nhất về nền nếp chiến đấu và sinh hoạt, v.v...

Tác chiến chính quy với trang bị vũ khí hiện đại đòi hỏi công tác huấn luyện phải cơ
bản, hệ thống và toàn diện, đồng thời phải gắn liền với yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt trong
tình hình hiện nay, khi kẻ địch đang tiếp tục ngoan cố gây ra những hành động chiến tranh, phá
hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định Pa-ri, thì chúng ta lại càng phải coi trọng nhiệm vụ huấn luyện
nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu
thắng lợi trong mọi hoàn cảnh.

Trong huấn luyện quân sự, để nâng cao sức mạnh chiến đấu, ngoài việc nắm vững nội
dung huấn luyện, chúng ta còn phải nắm vững nguyên tắc, tổ chức và phương pháp huấn luyện.
Nguyên tắc, tổ chức và phương pháp huấn luyện lực lượng vũ trang có một số điểm
chung nhất mà thường quân đội nào cũng phải thực hiện, chẳng hạn: huấn luyện từ thấp đến cao,
từ giản đơn đến phức tạp... Nhưng do bản chất quân đội cách mạng khác hẳn với bản chất quân
đội tư sản và đế quốc, nên nguyên tắc, tổ chức và phương pháp huấn luyện lại có những điểm
khác nhau về căn bản.

Trong các lực lượng vũ trang nhân dân ta, mọi nội dung huấn luyện cũng như mọi
nguyên tắc, tổ chức và phương pháp huấn luyện quân sự đều được xác định trên cơ sở đường lối,
tư tưởng quân sự của Đảng ta.

Các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã xây dựng và huấn luyện trong hoàn cảnh sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu liên tục. Chúng ta có những kinh nghiệm huấn luyện trong thời chiến
về mọi mặt: chủ trương, phương hướng; chỉ đạo tổ chức thực hiện; nguyên tắc và phương pháp
huấn luyện; huấn luyện bộ đội tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng; huấn luyện cán bộ và
cơ quan, v.v… Nhiều kinh nghiệm được áp dụng một cách phổ biến và đã trở thành nguyên tắc,
song cũng có những kinh nghiệm chưa được đúc kết thành lý luận hoàn chỉnh. Chúng ta cần cố
gắng tiến tới tổng kết những kinh nghiệm đó để góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác huấn luyện
quân sự trong giai đoạn cách mạng mới.

Với phạm vi có hạn, bài này chỉ nêu lên một số kinh nghiệm bước đầu về chỉ đạo huấn
luyện các lực lượng vũ trang ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, kết hợp
một phần với kinh nghiệm huấn luyện trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây. Sau này có
điều kiện, chúng ta sẽ tổng kết lại một cách hoàn chỉnh, toàn diện và sâu sắc hơn. Trước mắt, các
cơ quan, các quân chủng, binh chủng cần tiếp tục làm tốt công tác tổng kết kinh nghiệm từng mặt
của mình, kể cả những kinh nghiệm cụ thể, để kịp thời vận dụng vào công tác huấn luyện trong
thời gian tới.

I. Quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của đảng trong công tác huấn luyện quân sự

Đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng là kết quả vận dụng một cách sáng tạo những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội vào điều kiện cụ thể của
đất nước ta. Đó là sự kết hợp chặt chẽ lý luận tiên tiến của khoa học quân sự vô sản với truyền
thống quân sự độc đáo của dân tộc ta, vận dụng đúng đắn vào thực tiễn đấu tranh của nhân dân ta
trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại ngày nay.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã sớm nhận thức đúng và có cách giải quyết đúng
về các vấn đề khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Đảng ta đã lãnh đạo việc chuẩn bị
khởi nghĩa và tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, đã lãnh đạo việc
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và đưa cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược
đến thắng lợi rực rỡ. Từ đó đến nay, Đảng ta vẫn không ngừng phát triển và hoàn chỉnh tư tưởng
quân sự của Đảng trong quá trình lãnh đạo toàn dân ta và các lực lượng vũ trang ta tiến lên hoàn
thành mọi nhiệm vụ cách mạng. Nhờ đó, các lực lượng vũ trang ta đã góp phần xứng đáng vào
thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua.

Đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động chiến đấu và
xây dựng, trong đó có công tác huấn luyện quân sự của các lực lượng vũ trang ta. Cũng như bất
kỳ công tác nào khác, công tác huấn luyện quân sự phải luôn luôn quán triệt đường lối, tư tưởng
quân sự của Đảng mới nâng cao được chất lượng chiến đấu, bảo đảm cho quân đội sẵn sàng hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Kinh nghiệm thực tế đã chứng minh rằng, nơi nào và lúc nào
không nắm vững đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, thì nơi ấy và lúc ấy công tác huấn luyện
quân sự chắc chắn là phạm khuyết điểm và không đạt được chất lượng cao.

Dưới ánh sáng đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, phát huy truyền thống đánh giặc
giữ nước của dân tộc ta và quân đội ta, học tập một cách sáng tạo và có chọn lọc kinh nghiệm tiên
tiến của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, trải qua thực tiễn chiến đấu nhiều năm,
chúng ta đã từng bước xây dựng được một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, từ kỹ thuật, chiến
thuật cho đến nghệ thuật chiến dịch... Chúng ta đã từng bước nghiên cứu về tác chiến hiệp đồng
binh chủng và bước đầu nghiên cứu về tác chiến hiệp đồng quân chủng. Ngoài ra, chúng ta cũng
đã xây dựng và dần dần hoàn chỉnh các điều lệnh, điều lệ của quân đội cho phù hợp với thực tiễn
ngày càng phát triển. Quân đội ta đã có nhiều tiến bộ về nền nếp công tác, về tác phong chính
quy, về tổ chức chỉ huy hiệp đồng cũng như về tổ chức và xây dựng các binh chủng, quân chủng
hiện đại. Đó là một thành công rất lớn.

Tuy nhiên, mặt khác lại phải thấy rằng quân đội ta đã xây dựng và lớn lên trong hoàn
cảnh chiến tranh kéo dài mấy chục năm liền. Các đơn vị bộ đội ta gần như phải thường xuyên
hướng mọi cố gắng của mình vào việc giải quyết các vấn đề cấp bách mà chiến tranh đặt ra, phải
thường xuyên tập trung mọi khả năng để đối phó với những kẻ địch xảo quyệt và hung bạo, luôn
luôn thay đổi thủ đoạn tiến hành chiến tranh xâm lược. Các đơn vị bộ đội ta lại chiến đấu trên
nhiều chiến trường cách xa nhau, mỗi chiến trường đều có những kinh nghiệm riêng. Bởi những
lẽ đó nên tuy kinh nghiệm thì vô cùng phong phú song chúng ta chưa có điều kiện đúc kết lại một
cách hoàn chỉnh, làm cơ sở cho việc huấn luyện thống nhất, lâu dài. Đội ngũ cán bộ của ta tuy có
nhiều kinh nghiệm thực tế nhưng phần đông chưa được đào tạo một cách cơ bản, có hệ thống và
toàn diện. Với hoàn cảnh và điều kiện trưởng thành như vậy, dĩ nhiên cán bộ ta không khỏi không
có những nhận thức, tư tưởng chưa đầy đủ hoặc lệch lạc về mặt này hay mặt khác, làm hạn chế -
thậm chí gây ra những khó khăn nhất định cho việc tiếp thụ và vận dụng đường lối, tư tưởng quân
sự của Đảng trong chiến đấu cũng như trong công tác huấn luyện quân sự.

Trong quá trình xây dựng nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, những năm trước đây
quân đội ta đã đạt được một số thành tích nghiên cứu đáng kể. Trải qua thử thách ở chiến trường,
nhiều kết luận đã được chứng minh là có giá trị cao, chẳng những hiện nay mà sau này vẫn còn
tiếp tục phát huy tác dụng. Đó là cái vốn rất quý mà chúng ta phải hết sức coi trọng. Nhưng, do
thực tiễn chiến đấu luôn luôn phát triển nên không phải là kết luận nào cũng vẫn giữ nguyên giá
trị như cũ. Có những kết luận đã trở thành lỗi thời, không thích hợp với tình hình mới nữa. Chúng
ta không thể cứ chủ quan tự mãn với kết quả nghiên cứu của mình, khư khư giữ mãi những kết
luận đã lỗi thời ấy mà phải mạnh dạn thay thế bằng những kết luận mới, thích hợp với thực tế
hơn.

Kinh nghiệm tiên tiến của các nước anh em có nhiều điểm mà chúng ta phải khiêm tốn
học tập, tham khảo. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng không phải là kinh nghiệm nào cũng đáp
ứng được đầy đủ yêu cầu của ta hoặc thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh chiến đấu của ta. Vì
vậy, chúng ta phải có thái độ và phương pháp học tập đúng. Nghĩa là phải luôn luôn quán triệt
đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng ta, luôn luôn xuất phát từ thực tế của ta để nghiên cứu, học
tập một cách có chọn lọc. Nếu chỉ tự ti, sùng bái một chiều, tiếp thụ mọi thứ một cách bị động,
không phân biệt cái gì là thích hợp và cái gì là không thích hợp với ta thì nhất định sẽ sa vào chỗ
thoát ly thực tế. Như vậy, rõ ràng việc học tập chẳng những không đạt được kết quả mong muốn
mà còn đưa đến những ảnh hưởng tiêu cực trong huấn luyện và chiến đấu.

Tự ti, sùng bái một chiều đối với kinh nghiệm của bạn hoặc chủ quan tự mãn đối với
kinh nghiệm của mình đều là những tư tưởng không đúng, đã từng tồn tại khá lâu trong cán bộ ta.
Chúng thường biểu hiện ra nhiều khía cạnh khác nhau, cả trong nội dung lẫn phương pháp huấn
luyện. Chẳng hạn: tách rời rèn luyện bộ đội với rèn luyện chỉ huy, huấn luyện với chiến đấu, tư
tưởng với kỹ thuật và chiến thuật; lẫn lộn giữa nguyên tắc với phương pháp, giữa phổ biến với cá
biệt, giữa cơ bản với ứng dụng, v.v...

Với mục đích có hạn, bài này không bàn sâu vào mọi hiện tượng thiếu sót mà chỉ tập
trung nói về một số nhận thức lệch lạc có tính chất phổ biến và kéo dài xung quanh một số vấn đề
nguyên tắc huấn luyện, phải trải qua đấu tranh kiên trì nhiều lần và nhiều năm, nhất là phải trải
qua thử thách ở chiến trường, cán bộ ta mới dần dần khắc phục được và đi tới thông suốt, nhất trí.

- Trước hết, đó là những nhận thức lệch lạc xung quanh vấn đề “huấn luyện phân đội
nhỏ và huấn luyện bộ đội tập trung đánh lớn, tác chiến hiệp đồng binh chủng”.
Khi bắt đầu đánh Mỹ, có cán bộ cho rằng: các binh đoàn chủ lực cơ động là “quả đấm
thép” nên chủ yếu là huấn luyện cho cấp trung đoàn và sư đoàn trở lên, còn phân đội nhỏ thì chỉ
cần huấn luyện lướt qua là đủ, hoặc bỏ không cần huấn luyện cũng được. Lại có ý kiến cho rằng
mục đích của huấn luyện chiến sĩ và phân đội nhỏ chủ yếu là để tác chiến phân tán lẻ tẻ, tới thời
kỳ tập trung đánh lớn mà vẫn huấn luyện phân đội nhỏ là kéo lùi bộ đội trở lại thời kỳ đánh du
kích. Nhận thức như vậy nên có đơn vị đã huấn luyện ngay chiến thuật cho cấp trung đoàn còn từ
tiểu đoàn trở xuống thì chỉ huấn luyện nằm trong đội hình cấp trên. Thiếu sót đó làm cho cán bộ
cơ sở và phân đội nhỏ không hiểu gì về chiến thuật của phân đội mình.

Để uốn nắn tình hình, Bộ Tổng tham mưu đã ra mệnh lệnh huấn luyện, quy định các
binh đoàn chủ lực phải huấn luyện chiến thuật từ tiểu đoàn, đại đội xuống tới từng chiến sĩ. Sau
một thời gian đấu tranh liên tục, tình hình tuy có chuyển biến song vẫn còn chậm chạp.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới, đặt ra trước bộ
đội ta yêu cầu mới là phải đánh lớn và đánh hiệp đồng binh chủng. Đó là yêu cầu tất yếu mà bộ
đội ta phải nhanh chóng đáp ứng thì mới đánh thắng được kẻ thù. Nhưng một số cán bộ lại có xu
hướng tiêu cực, muốn dừng lại ở phương thức đánh nhỏ. Vì các đồng chí đó cho rằng: Mỹ có
nhiều máy bay, pháo binh, cơ giới, có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao hơn ta. Bộ đội ta tập
trung đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng là “lấy mạnh chọi mạnh”, tất khó giành được thắng
lợi. Vì vậy khi mới triển khai huấn luyện hiệp đồng binh chủng tuy các đơn vị cũng chấp hành
mệnh lệnh huấn luyện của Bộ song vẫn có một số vướng mắc, chưa thông. Phải đến khi bước vào
chiến đấu, thực tế chứng minh bộ đội ta chẳng những có thể đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng
mà còn đánh thắng nữa thì những vướng mắc trên mới được giải quyết.

- Hai là, những nhận thức không đúng, chưa quán triệt nguyên tắc “Huấn luyện bộ đội
thành thạo chiến thuật với biên chế, trang bị của bản thân đơn vị, trên cơ sở đó huấn luyện có
binh khí kỹ thuật tăng cường theo yêu cầu và khả năng cho phép”.

Vũ khí trang bị là cơ sở vật chất của sức chiến đấu, do đó huấn luyện quân sự phải dựa
trên cơ sở trang bị, biên chế của các đơn vị làm chính. Đó là quan điểm thực tiễn trong huấn
luyện, là sự thực hiện nguyên tắc “ta có gì đánh nấy, trang bị như thế nào, huấn luyện như thế
ấy”. Nghĩa là phải huấn luyện cho bộ đội ta biết sử dụng thành thạo những vũ khí, trang bị trong
biên chế, phải huấn luyện cho các đơn vị trong mọi điều kiện biên chế, dù được tăng cường hay
không đều có thể tác chiến thắng lợi. Chính vì vậy nên Bộ Tổng tham mưu mới quy định cho các
đơn vị phải huấn luyện bộ đội thành thạo chiến thuật theo biên chế, trang bị của bản thân đơn vị,
trên cơ sở đó huấn luyện có binh khí kỹ thuật tăng cường, theo yêu cầu và khả năng cho phép.
Thế nhưng, do chưa quán triệt đầy đủ tinh thần trên nên cán bộ ta thường có xu hướng
huấn luyện bộ đội theo biên chế có tăng cường binh khí kỹ thuật, chưa quan tâm đúng mức đến
việc huấn luyện bộ đội theo biên chế trang bị của đơn vị. Kết quả, khi bước vào chiến đấu, hễ
không được tăng cường là cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí không đánh được. Nhiều cán
bộ ta còn ỷ lại vào hỏa lực cấp trên chi viện, khi gặp những tình huống phức tạp, khó xử trí thì
ngại suy nghĩ, thiếu chủ động linh hoạt. Có cán bộ gặp một tình huống nhỏ cũng yêu cầu pháo
binh chi viện, không có xe tăng và hỏa lực của trên thì trù trừ không xung phong, bỏ lỡ thời cơ
tiêu diệt địch.

Qua thực tiễn chiến đấu, nhiều cán bộ mới thấy rõ quy định của trên là hoàn toàn đúng
và đã yêu cầu phải nhấn mạnh điểm này trong huấn luyện. Tuy thế, đến nay không phải không
còn cán bộ vẫn cho rằng đã huấn luyện chiến thuật thì bất luận cấp nào cũng phải được tăng
cường xe tăng và pháo binh, nếu không vẫn cảm thấy thiếu sức mạnh và khó đánh. Rõ ràng, đó
vẫn là hiện tượng chưa thật quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng trong công tác huấn
luyện quân sự, cần tiếp tục đấu tranh khắc phục.

- Ba là, những nhận thức không đúng, lẫn lộn giữa nguyên tắc và phương pháp, trong
khi thực hiện nguyên tắc “huấn luyện cấp nào phải hoàn chỉnh chiến thuật của cấp ấy”.

Biên chế tổ chức trong quân đội ta hiện nay có nhiều cấp, nhiều đơn vị - thấp là tiểu
đội, cao là sư đoàn - mỗi cấp đều có vị trí nhiệm vụ chiến thuật của cấp mình. Mỗi cấp phải có đủ
khả năng tự tổ chức, chỉ huy và vận dụng giỏi chiến thuật cấp mình để đánh thắng địch trong mọi
tình huống khó khăn phức tạp. Có giỏi chiến thuật của cấp mình mới hiệp đồng tác chiến trong
đội hình của cấp trên được. Chiến đấu độc lập hay chiến đấu trong đội hình của đơn vị lớn đánh
tập trung, hiệp đồng binh chủng, các cấp đều có quan hệ chiến đấu gắn bó chặt chẽ với nhau. Mối
quan hệ ấy có được giữ vững trong các điều kiện và tình huống chiến đấu hay không, trước hết
phải dựa trên cơ sở từng cấp có hoàn thành được nhiệm vụ bằng chiến thuật của cấp mình hay
không. Cấp dưới phải giỏi chiến thuật cấp mình mới có cơ sở để hình thành chiến thuật của cấp
trên.

Tất nhiên, trong khi huấn luyện chiến thuật, lúc đầu cán bộ chưa thạo, bộ đội chưa
quen, chúng ta có thể chia ra từng bước huấn luyện theo phương pháp huấn luyện đội ngũ chiến
thuật. Tức là huấn luyện từ phân đoạn đến tổng hợp, từ chậm đến nhanh, hoặc huấn luyện theo
từng yêu cầu chiến thuật cho thành thạo rồi tổng hợp lại thành chiến thuật của mỗi cấp, sau đó
nâng lên ứng dụng vào các điều kiện và tình huống chiến đấu. Song, đó không phải là nguyên tắc
mà chỉ là phương pháp huấn luyện.
Do chưa nắm vững đâu là nguyên tắc, đâu là phương pháp nên nhiều cán bộ ta còn lẫn
lộn giữa hai mặt ấy. Có cán bộ thắc mắc: trung đoàn là đơn vị chiến thuật cơ bản, ta xây dựng
chiến thuật hoàn chỉnh cho các phân đội nhỏ là không thích hợp và không có tác dụng. Có đồng
chí lại cho rằng huấn luyện từng bước trong đội hình cấp trên là đủ rồi, không cần xây dựng chiến
thuật hoàn chỉnh cho các phân đội, nhất là từ cấp đại đội trở xuống nữa. Hiểu như thế là trái với
nguyên tắc huấn luyện của ta. Chỉ huấn luyện cho từng cấp hành động trong đội hình cấp trên, chỉ
bảo đảm cho từng cấp thành thạo từng nhiệm vụ chiến thuật trên một mũi, một hướng - nghĩa là
chỉ biết hoàn thành một phần nhiệm vụ của đội hình chiến thuật - thì làm sao có thể xây dựng và
rèn luyện tính chủ động, sáng tạo, toàn diện cho cán bộ cấp dưới, làm sao có thể tránh được máy
móc hoặc đánh bừa, đánh ẩu trong chiến đấu?

Huấn luyện như vậy rõ ràng không phù hợp với cách đánh của quân đội ta. Vì chúng ta
không đánh theo kiểu dàn đội hình hàng ngang, các đơn vị tiến công chính diện trên một hướng
song song theo đường phân ranh giới đã vạch sẵn trong đội hình cấp trên. Chúng ta đánh theo
cách tiến công nhiều hướng, nhiều mũi, đánh từng mục tiêu, từng cụm địch, trong ngoài cùng
đánh, phương châm tác chiến là đánh nhỏ, đánh vừa kết hợp với đánh lớn. Nếu mỗi cấp không
xây dựng và không biết sử dụng thành thạo chiến thuật hoàn chỉnh của mình thì làm sao có thể
thực hiện được cách đánh như thế?

Phải qua thuyết phục và đấu tranh nhiều lần, chúng ta mới dần dần giải quyết được
những vướng mắc về vấn đề này, mặc dầu chúng vẫn còn tồn tại ít nhiều ở đơn vị này hay đơn vị
khác. Nhờ đó, cho đến nay các đơn vị bộ binh của chúng ta đã xây dựng được nội dung chiến
thuật hoàn chỉnh từ cấp tiểu đội trở lên và đã huấn luyện tốt chiến thuật cho từng chiến sĩ, từng tổ
ba người, từng khẩu đội, v.v...

Trong quân sự, không có phương tiện kiểm nghiệm nào chính xác hơn là thực tiễn
chiến đấu trên chiến trường. Chỉ có trải qua thử thách thực tế, chúng ta mới ngày càng thấy rõ
hơn tính chất đúng đắn của đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, thể hiện cụ thể trong nội dung,
nguyên tắc cũng như tổ chức phương pháp huấn luyện. Và, cũng chính do chúng ta đã thường
xuyên quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, thường xuyên đấu tranh khắc phục những
nhận thức tư tưởng sai trái nên công tác huấn luyện quân sự của các lực lượng vũ trang mới phát
huy được tác dụng trong việc nâng cao sức chiến đấu mọi mặt cho bộ đội trong những năm qua.

Đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng có nội dung rất rộng vận dụng được trong công
tác huấn luyện quân sự quả không phải là đơn giản mà phải chịu khó suy nghĩ, nghiên cứu tìm
tòi. Có vấn đề nói một lần cán bộ hiểu ngay, làm được ngay, nhưng có vấn đề phải trải qua thuyết
phục đấu tranh kiên trì trong suốt quá trình huấn luyện quân sự.
Muốn cho đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng mau chóng có hiệu lực thì phải quán
triệt đầy đủ trong các lực lượng vũ trang, phải thống nhất từ trên xuống dưới. Xây dựng quân đội
càng chính quy và hiện đại tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng càng mở rộng quy mô thì
yêu cầu thống nhất càng phải cao. Đó là việc khó khăn nhưng phải kiên quyết làm cho bằng được.
Có vậy lực lượng vũ trang mới mạnh, chiến đấu mới giành được thắng lợi lớn nhất, với tổn thất ít
nhất.

Trong quá trình chấp hành nhiệm vụ huấn luyện, các cấp dưới do tầm nhìn có hạn nên
gặp khó khăn khi tiếp thụ vấn đề này hoặc vấn đề khác. Do đó, cấp trên phải tìm mọi cách thuyết
phục để thống nhất nhận thức, còn cấp dưới thì phải nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị
huấn luyện của trên và tiếp thụ sự hướng dẫn của cơ quan nghiệp vụ.

Tuy nhiên để nhanh chóng thống nhất tư tưởng và hành động nhằm giành thắng lợi cho
cách mạng, có những vấn đề mà cấp trên phải ra mệnh lệnh cho cấp dưới chấp hành, dù tư tưởng
chưa thật thông suốt. Vì công tác quân sự có những điều không thể nói trước, nói hết ngay một
lúc với mọi cấp cán bộ nên việc nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh là rất quan trọng. Mỗi cán bộ,
mỗi đơn vị có liên hệ với tình hình thực tế huấn luyện, chiến đấu vừa qua mới nhận thức rõ được
điều đó.

Quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng trong huấn luyện quân sự không phải
chỉ qua vài lần lên lớp là đủ. Muốn từ bài giảng và thực tế rèn luyện ở thao trường chuyển biến
thành sức mạnh vật chất cụ thể ở chiến trường là cả một quá trình đấu tranh kiên quyết, gian khổ
và kiên trì. Chỉ có thật kiên quyết và kiên trì mới thành công vững chắc được.

II. Quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của đảng trong mọi nội dung huấn luyện

Như trên đã nói, đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng là kim chỉ nam cho
mọi hành động quân sự của các lực lượng vũ trang ta. Trong công tác huấn luyện, đường lối, tư
tưởng quân sự của Đảng trước hết phải thể hiện ở tư tưởng chỉ đạo tác chiến, ở những nội dung
kỹ thuật, chiến thuật cụ thể, ở hành động chiến đấu của bộ đội, nghệ thuật chỉ huy của cán bộ.

1. Quán triệt đầy dủ tư tưởng chiến lược tiến công, nâng cao tính khoa học và sáng tạo
trong nội dung huấn luyện.

Tư tưởng tiến công là cơ sở tư tưởng của chiến lược cách mạng và chiến tranh cách
mạng Việt Nam. Nó xuất phát từ tính chất cách mạng triệt để trong đường lối chính trị và quân sự
của Đảng ta. Nó xuyên suốt mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu của các lực lượng vũ trang
nhân dân ta, là cốt tủy của nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân.
Tư tưởng chiến lược tiến công thể hiện ở hành động tích cực tiến công tiêu diệt địch
một cách kiên quyết, liên tục và toàn diện, bằng mọi lực lượng, mọi vũ khí, mọi hình thức với
mọi quy mô ở mọi nơi, mọi lúc. Tư tưởng tiến công phải được quán triệt nhuần nhuyễn trong mọi
suy nghĩ, mọi hành động của các lực lượng vũ trang ta, trong các phương thức tác chiến, trong
các hình thức tác chiến tiến công cũng như tác chiến phòng ngự.

Tiến công và phòng ngự tuy là hai hình thức tổ chức chiến đấu cụ thể khác nhau,
nhưng cả hai đều phải quán triệt tư tưởng tiến công, lấy tư tưởng tiến công làm tư tưởng chỉ đạo.

Tác chiến phòng ngự có tư tưởng chỉ đạo riêng là: tích cực chiến đấu, kiên cường giữ
vững trận địa, ngăn chặn địch kết hợp chặt chẽ với tích cực đánh phản kích tiêu hao, tiêu diệt
sinh lực địch, đồng thời tạo điều kiện cho lục lượng cơ động thực hành phản công tiêu diệt địch .
Tư tưởng chỉ đạo đó nói lên rất rõ tư tưởng tiến công trong hình thức tác chiến phòng ngự. Nếu
quan niệm phòng ngự chỉ là ngăn chặn địch và đánh tiêu hao đơn thuần thì sẽ co mình vào thế bị
động trong công sự trận địa. Như vậy, dù công sự trận địa có kiên cố đến mấy, không sớm thì
muộn cũng bị cô lập và rơi vào tay địch. Cho nên, trong tác chiến phòng ngự, ta phải tích cực
chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt nhiều lực lượng của địch mới giữ được trận địa, mới tạo thế cho lực
lượng cơ động đến thực hành phản công tiêu diệt toàn bộ quân địch. Từ nội dung phán đoán về
địch đến những nội dung cần xác định trong quyết tâm chiến đấu phòng ngự chốt giữ như: thế
trận chiến đấu phòng ngự, thế trận phản kích và thế trận thực hành phản công, tổ chức chiến đấu,
tổ chức hiệp đồng, các cách đánh, các thủ đoạn chiến đấu, v.v... đều phải thể hiện tư tưởng tích
cực kiên cường giữ vững trận địa, tạo mọi thời cơ tích cực tiến công tiêu diệt quân địch.

Tư tưởng tiến công còn phải được quán triệt trong các điều lệnh: nội vụ, đội ngũ, cảnh
bị; trong kỹ thuật, chiến thuật và tác phong sinh hoạt của bộ đội. Huấn luyện là để chiến đấu. Nếu
cán bộ không tự mình quán triệt và không truyền đạt cho chiến sĩ quán triệt tư tưởng tiến công
tiêu diệt địch trong các nội dung kỹ thuật, chiến thuật, các tư thế, động tác, yếu lĩnh chiến đấu thì
chẳng qua đó chỉ là những hành động máy móc, không có linh hồn mà thôi.

Chúng ta chỉ cần nêu một vài dẫn chứng thực tế là có thể thấy rõ điều đó.

Công tác giáo dục, rèn luyện bộ đội chấp hành điều lệnh có mục đích đưa toàn bộ hoạt
động của bộ đội vào nền nếp thống nhất, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật, tính tập trung, tính
khoa học nhằm đạt đến hành động kiên quyết và nhất trí, đến sự phối hợp chặt chẽ giữa mọi bộ
phận của quân đội trong chiến đấu.

Rèn luyện đội ngũ không phải là để phô trương hình thức, cũng không phải chỉ để
duyệt binh. Mục đích cơ bản của nó là xây dựng cho mỗi chiến sĩ, mỗi đơn vị những động tác
chiến đấu cơ bản nhất, rèn luyện tính tập trung thống nhất, ý thức tổ chức kỷ luật cao, tư thế
nghiêm trang hùng mạnh, khẩn trương hoạt bát, tinh thần bền bỉ dẻo dai, v.v... Tất cả đều phải
nhằm phục vụ chiến đấu, làm cơ sở cho tư tưởng tiến công tiêu diệt địch.

Các kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, đào công sự v.v… lúc dùng vào nhiệm vụ
này, lúc dùng vào nhiệm vụ khác, nên có thể vận dụng rất linh hoạt, nhưng về mặt tư tưởng thì
nhất thiết đều phải thể hiện tư tưởng tiến công. Chẳng hạn, đào công sự chiến đấu mà không quán
triệt tư tưởng tiến công thì khi đào hoặc chỉ huy đào chỉ đơn thuần coi đó là hầm hố ẩn nấp và
người ngồi trong công sự chỉ biết nghĩ đến việc bảo tồn mình. Hầm hố chiến đấu phải bảo đảm ẩn
nấp tốt nhưng cuối cùng vẫn phải bảo đảm tiêu diệt được địch và cơ động thuận tiện, lúc tập trung
hướng này, lúc tập trung hướng khác, tạo điều kiện tiêu diệt địch trong tiến công và tiêu diệt địch,
giữ vững trận địa trong phòng ngự.

Huấn luyện khoa mục canh gác phải nhằm mục đích xây dựng cho chiến sĩ tinh thần
sẵn sàng chiến đấu cao nhất: kiên cường, bình tĩnh, tinh khôn sắc sảo, tư thế đi đứng nghiêm
trang hùng dũng, tác phong nhanh nhẹn dứt khoát, tai thính, mắt tinh, phát hiện địch kịp thời, xử
trí đúng với mọi tình huống, phân biệt được người ngay với kẻ gian, chủ động tiến công tiêu diệt
địch, bảo đảm an toàn cho đơn vị.

Nội dung chiến thuật của cấp nào cũng phải quán triệt tinh thần chủ động tiến công,
kiên quyết và táo bạo, tiến công địch bằng nhiều hình thức, trong mọi tình huống. Nếu không
quán triệt đầy đủ tư tưởng tiến công thì có khi biết đánh mà không dám đánh, bỏ lỡ thời cơ hoặc
không tạo được thời cơ để tiêu diệt địch.

Nói tóm lại, nghệ thuật quân sự của ta phải thấm nhuần rất sâu sắc tư tưởng tiến công.
Huấn luyện quân sự là công tác dạy và luyện cho bộ đội nắm vững nghệ thuật quân sự để đánh
thắng địch trên chiến trường, hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng. Do đó, bất
cứ nội dung huấn luyện nào về chiến thuật, kỹ thuật, điều lệnh, v.v... cũng đều phải thấm nhuần tư
tưởng tiến công. Tư tưởng tiến công là linh hồn của nội dung huấn luyện. Quá trình huấn luyện
chính là quá trình xây dựng cho bộ đội quyết tâm và bản lĩnh tiến công tiêu diệt địch.

Nâng cao tính khoa học trong nội dung huấn luyện trước hết là nhận thức đúng đắn
thực tế khách quan về địch, về địa hình, thời tiết, bám sát thực tiễn chiến đấu, trên cơ sở đó giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ, định ra các biện pháp tác chiến, các hình thức chiến thuật, cách
tổ chức lực lượng thích hợp nhất, có lợi nhất, tạo nên sức chiến đấu mạnh hơn địch để tiêu diệt
địch nhanh, gọn, giòn giã. Huấn luyện một cách khoa học tức là huấn luyện thế nào để người cán
bộ, chiến sĩ biết rõ các điều kiện cụ thể về địch, ta, địa hình, định ra được cách đánh thích hợp,
tận dụng được mọi yếu tố thuận lợi, tạo nên và phát huy được sức mạnh tổng hợp để đánh thắng
địch. Người chiến sĩ phải có khả năng kết hợp chặt chẽ các yếu tố về tinh thần, kỹ thuật, vũ khí,
địa hình, thời tiết trong điều kiện không gian, thời gian nhất định, trong mọi nhiệm vụ, mọi tình
huống để chiến thắng kẻ địch. Người cán bộ phải biết căn cứ vào chủ trương, nhiệm vụ và tình
hình thực tế mà vận dụng cách đánh, cách tổ chức lực lượng và tổ chức đội hình chiến đấu, biết
hành động mưu trí sáng tạo trong mọi tình huống, phát huy và tận dụng cao độ chỗ mạnh của đơn
vị mình cũng như của đơn vị bạn để đánh vào chỗ yếu chỗ sơ hở của địch.

Vừa qua, quân và dân miền Nam nước ta đã đánh thắng đội quân xâm lược của đế
quốc Mỹ, đông quân, giàu tiền của, nhiều súng đạn và có nền khoa học kỹ thuật phát triển cao.
Thế tiến công của chiến tranh nhân dân ở miền Nam từ nhỏ bé, cục bộ tiến lên to lớn, toàn bộ, kết
hợp nhiều mặt đấu tranh, trên nhiều địa bàn, nhiều hướng chiến lược. Tình hình đó đòi hỏi lực
lượng vũ trang nhân dân giải phóng phải có một năng lực tổ chức rất cao, rất khoa học mới góp
phần cùng lực lượng chính trị tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh địch có hiệu quả nhất, giành
thắng lợi cao nhất, còn mình thì tổn thất ít nhất.

Kinh nghiệm của Quân giải phóng miền Nam đã chỉ rõ: muốn vậy mọi nội dung huấn
luyện quân sự, từ động tác kỹ thuật đến chiến thuật, từ cá nhân đến đơn vị đều phải quán triệt
đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng. Một chiến sĩ trước khi hành quân chiến đấu, trước giờ nổ
súng, trước khi hoàn thành một nhiệm vụ, v.v... phải chuẩn bị những gì, chuẩn bị như thế nào,
phải thành thạo động tác, phải suy nghĩ, phán đoán ra sao, phải giữ liên lạc với bạn, với cấp trên,
phải độc lập xử trí tình huống như thế nào, v.v... nhất nhất đều phải làm được, làm đúng, biết làm
gì trước, biết làm gì sau... Đối với cán bộ thì yêu cầu càng cao hơn. Đó là năng lực tổ chức nắm
tình hình, nghiên cứu, phán đoán tình hình chính xác, khách quan, đề ra ý định tác chiến đúng, tổ
chức thực hiện nhanh chóng, chính xác, không thừa người, không lãng phí súng đạn, không tốn
thời gian. Đó là trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu qua các giai đoạn của chiến thuật, từ một trận
đến nhiều trận liên tiếp. Tính tổ chức, tính khoa học trong nội dung huấn luyện trước hết phải
biểu hiện ở ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết chủ động hiệp đồng, tác phong nghiêm túc,
khách quan, tỉ mỉ, chuẩn xác trong khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề. Nhiều đơn vị trong một
thời gian ngắn đã liên tiếp đánh nhiều trận rất tài tình với những tình huống khá phức tạp. Nhiều
đơn vị trong hoàn cảnh chiến đấu liên tục vẫn kết hợp tốt tác chiến với huấn luyện, huấn luyện
thực sự ngay sát nách địch để bộ đội càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.

Nâng cao tính khoa học trong nội dung huấn luyện là bảo đảm cho bộ đội hoàn thành
nhiệm vụ một cách tốt nhất, bảo đảm cho cán bộ quen nắm vững đơn vị mình, quen tổ chức, phát
huy được cao độ sức mạnh của đơn vị mình để chiến thắng, để cấp nào cũng không bỏ lỡ thời cơ
tiêu diệt địch, cấp nào cũng có thể độc lập, chủ động, tích cực chiến đấu tốt và chiến đấu hiệp
đồng giỏi.

Một vấn đề quan trọng nữa trong nội dung huấn luyện là phải luôn luôn thể hiện tính
sáng tạo của đường lối quân sự của Đảng ta. Trong việc xác định nội dung huấn luyện cho bộ đội,
cần hết sức tránh hiện tượng sao chép một cách giáo điều, máy móc hoặc “cải biên” một cách tùy
tiện, làm hạn chế kết quả huấn luyện. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, chúng ta ngày
càng nhận thức sâu sắc tính độc lập, sáng tạo của đường lối quân sự, từng bước nắm và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa “xuất phát từ thực tế của ta” và “học tập bạn có chọn lọc”. Thực tế
chiến tranh đã chứng minh, chỉ có nắm vững quan điểm, tư tưởng của Đảng ta, dựa hẳn vào thực
tiễn của ta, biết kế thừa, phát huy những truyền thống quân sự tốt đẹp của dân tộc ta, dám nghĩ
dám làm, mạnh dạn sáng tạo, kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, bảo thủ, thì nội dung huấn
luyện mới thể hiện đúng đắn đường lối quân sự của Đảng.

Chính nhờ nắm vững đường lối quân sự của Đảng và biết phát huy tính sáng tạo nên
các binh chủng, quân chủng kỹ thuật đã giải quyết được nhiều khó khăn trong nội dung huấn
luyện kỹ thuật, chiến thuật để đánh thắng địch. Từ thực tiễn chiến đấu, chúng ta đã tìm ra nhiều
hình thức, phương thức tác chiến phong phú, độc đáo Việt Nam, đáp ứng được những đòi hỏi của
cuộc chiến đấu ngày càng phát triển đồng thời góp phần xứng đáng vào việc phát triển lý luận
quân sự cách mạng.

Chúng ta luôn luôn coi trọng và hết sức khiêm tốn học tập những kinh nghiệm rất quý
báu của cách mạng thế giới nhất là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng cũng chỉ với
tinh thần độc lập, sáng tạo rất cao, chúng ta mới tiếp thụ và vận dụng có kết quả những thành tựu
khoa học, những công trình nghiên cứu của bạn.

Quán triệt và thể hiện đầy đủ tư tưởng tiến công, tính khoa học và sáng tạo trong nội
dung huấn luyện là một quá trình nâng cao nhận thức về đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng.
Đó cũng là quá trình đấu tranh khắc phục những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc, bám sát và phát
hiện những nhân tố mới trên chiến trường. Trong quá trình đó, công tác huấn luyện quân sự phải
phát hiện được kinh nghiệm, đúc kết thành nội dung huấn luyện, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh xây
dựng quân đội tiến lên chính quy và hiện đại, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống
phát triển của chiến tranh.

2. Quán triệt sâu sắc tư tưởng đánh tiêu diệt.

Đánh tiêu diệt là tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta. Đó là biểu hiện của tư
tưởng triệt để cách mạng, là một yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với các lực lượng vũ trang ta,
nhất là đối với các đơn vị chủ lực. Không tiêu diệt gọn từng đơn vị của địch thì không làm tan rã
được lực lượng quân sự của chúng. Không đánh tiêu diệt về chiến thuật, chiến dịch thì không làm
chuyển biến được tình thế, không đánh bại được chiến lược quân sự của địch.

Muốn đánh tiêu diệt thì phải đánh giá địch cho đúng, chọn chiến trường và chuẩn bị
chiến trường cho tốt, tổ chức lực lượng và thế trận đủ sức mạnh, chuẩn bị vật chất đầy đủ, xác
định cách đánh thích hợp. Nhất là trong tình hình địch có số quân đông, có hỏa lực mạnh thì tổ
chức phối hợp chiến trường và hiệp đồng bình chủng phải chặt chẽ và chu đáo, tổ chức chỉ huy
phải thông suốt và điều rất quan trọng là các cán bộ chủ chốt phải trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Trong lịch sử chiến tranh giữ nước và chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta,
xưa và nay đều có rất nhiều trận đánh tiêu diệt xuất sắc.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, mặc dù quân địch mạnh hơn ta
gấp nhiều lần về vật chất, kỹ thuật, ta vẫn giáng cho chúng những đòn mãnh liệt, vẫn đánh nhiều
trận tiêu diệt gọn bằng nhiều hình thức chiến thuật phong phú.

Trong huấn luyện quân sự, ta phải quán triệt tư tưởng đánh tiêu diệt, từ tinh thần tư
tưởng đến động tác của từng người chiến sĩ, từng cán bộ chỉ huy. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ
thấy, đi đôi với tiêu diệt sinh lực địch thì tiêu diệt cơ quan chỉ huy, phương tiện thông tin và
phương tiện chiến tranh của địch là vô cùng quan trọng. Ngay từ khi chuẩn bị chiến đấu, làm kế
hoạch tác chiến hoặc trong hội nghị quân sự dân chủ, mọi người đều phải nghĩ tới điều đó. Khi
chiến đấu, mọi người phải tìm trăm phương ngàn kế tiêu diệt bằng được cơ quan chỉ huy và
phương tiện chiến tranh của địch, vì có diệt được đầu não thì mới diệt gọn được đơn vị của địch.

Tư tưởng đánh tiêu diệt, đặc biệt quan trọng là tiêu diệt cơ quan chỉ huy địch, cần được
quán triệt ngay trong khi huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật từ phân đội nhỏ trở lên, tạo thành thói
quen ăn sâu trong ý thức tư tưởng của bộ đội.

3. Phát huy yếu tố bí mật, bất ngờ.

Lịch sử chống ngoại xâm ở nước ta, cả xưa lẫn nay đều chứng tỏ rằng dân tộc ta quả
đã có truyền thống đánh giặc, giữ nước vô cùng oanh liệt. Đi đôi với truyền thống “cả nước cùng
chung sức đánh giặc”, dân tộc ta còn có tài thao lược, “mưu cao, mẹo giỏi”, nhờ đó mà đánh bại
được những kẻ thù xâm lược phần lớn đều mạnh hơn mình nhiều lần.

Khi nói về “mưu cao, mẹo giỏi” tổ tiên ta đều nói đến “giữ bí mật, tạo bất ngờ” - một
yếu tố hết sức quan trọng, một điểm nổi bật trong nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
Ngày nay cũng vậy, do có ý chí tiêu diệt địch mạnh mẽ, có đầu óc thông minh sáng tạo, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao và biết luôn luôn dựa vào dân, các lực lượng vũ trang ta đã luôn luôn hành
động bí mật, bất ngờ để đánh thắng địch.

Bí mật, bất ngờ là yếu tố vô cùng quan trọng để thực hiện cách đánh của ta. Chúng ta
hết sức giữ bí mật về phương hướng, mục tiêu, thời gian, cách dùng lực lượng, quy mô đánh,
cách đánh, v.v... để tạo bất ngờ, giành quyền chủ động đánh địch những đòn quyết liệt. Chúng ta
hết sức giữ và giành bằng được yếu tố bí mật, bất ngờ trong mọi hành động lớn nhỏ, từ kỹ thuật
đến chiến thuật, chiến dịch, từ động tác của người chiến sĩ đến hành động của các đơn vị lớn.

Nếu cho rằng chúng ta có đủ sức mạnh, có nhiều trang bị vũ khí hiện đại nên không
cần giữ bí mật, cứ dùng sức mạnh chọi với sức mạnh của địch, cứ đánh công khai đàng hoàng
cũng thắng, thì đó là hoàn toàn sai lầm. Nên nhớ rằng ngoài sức mạnh về tinh thần bộ đội, ta có
thể tập trung sức mạnh về trang bị vũ khí hơn địch trong từng trận, trên từng hướng, ở từng mục
tiêu và trong từng thời gian. Nhưng nói chung trang bị của ta không mạnh hơn địch, nhất là về
hỏa lực của không quân và hải quân. Vì thế, hạn chế đến mức tối đa sức mạnh vật chất của địch
chính là nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy của chúng ta. Nếu giữ được bí mật, tạo được bất ngờ, giành
được chủ động thì chúng ta có thể đánh những trận thắng lớn mà tổn thất của ta lại rất ít.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây cũng như trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước ngày nay, kẻ địch thua ta không phải vì chúng thiếu vũ khí, bom đạn. Còn ta
thắng chúng cũng không phải vì ta có nhiều vũ khí, bom đạn hơn chúng mà chính vì ta có đường
lối chính trị, quân sự đúng đắn, lại có nghệ thuật quân sự tài giỏi. Bất ngờ đánh địch về chiến
lược cũng như về chiến thuật, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Nhiều trận chúng ta
thắng oanh liệt vì trong đó có một nguyên nhân là ta đã phát huy được yếu tố bí mật, bất ngờ. Từ
thực tế đó, chúng ta càng thấy mọi nội dung huấn luyện đều phải đạt tới chỗ bảo đảm cho mọi
quyết tâm, mọi việc làm, mọi động tác, mọi quy mô tác chiến đều phát huy được yếu tố bí mật,
bất ngờ một cách linh hoạt, mưu trí và sáng tạo.

4. Giành và giữ quyền chủ động.

Quyền chủ động đây có nghĩa là quyền tự do hành động của bộ đội theo ý định của
mình, phân biệt với thế bị động, nghĩa là bị bức vào trạng thái không tự do. Giữ vững quyền chủ
động thì buộc được đối phương phải bị động theo ý định của ta.

Trong lĩnh vực quân sự, có thể coi quyền chủ động như vận mệnh của bộ đội. Mất
quyền chủ động thì sẽ sa vào trạng thái bị động và có thể dẫn tới thất bại. Một khi đã bị động mà
để trạng thái đó kéo dài thì lại càng lúng túng. Muốn chuyển biến tình hình, khôi phục lại quyền
chủ động, thì phải có ý chí rất kiên quyết, có nghệ thuật tổ chức giỏi và có thể phải chịu một số
tổn thất nhất định. Vì vậy giữ quyền chủ động cho bộ đội là điều vô cùng quan trọng. Xưa nay
trong chiến tranh, hai bên đối chiến đều thường phải ra sức giành và giữ quyền chủ động cũng
như hết sức tránh thế bị động.

Nhưng giữ quyền chủ động không có nghĩa là tùy tiện, muốn đánh thì đánh, không
muốn đánh thì thôi. Đó là vô kỷ luật trong chiến đấu. Giữ vững chủ động lại càng không có nghĩa
là lấy nó làm cái cớ để che giấu tư tưởng không dám đánh, thoái thác nhiệm vụ. Đó là dao động
chứ không phải chủ động.

Giữ quyền chủ động có nội dung rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mức độ. Có
chủ động chiến thuật, chiến dịch và cũng có chủ động chiến lược. Bài này không bàn về những
vấn đề rộng lớn như vậy mà chỉ thu hẹp trong một vài điểm cụ thể, nhằm nhắc nhở các đơn vị chú
ý vận dụng trong khi huấn luyện.

- Giữ quyền chủ động trong hành quân, trú quân.

Giữ quyền chủ động trong hành quân có nghĩa là bảo đảm cho bộ đội không bị những
bất trắc xảy ra dọc đường, đưa toàn bộ lực lượng tới đích an toàn. Muốn vậy ta phải tổ chức các
đội, các tổ cảnh giới hành quân ở phía trước, bên sườn và phía sau, tổ chức theo dõi nắm chắc
địch trên không và dưới đất. Tổ chức đội hình hành quân chặt chẽ, quy định tín hiệu, ám hiệu,
(mật hiệu) truyền tin, truyền lệnh cho thật nhanh và chính xác. Cán bộ đi trong đội hình theo vị trí
chỉ huy của từng cấp. Kỷ luật hành quân phải thật nghiêm, không để người chạy ra chạy vào hàng
quân lộn xộn. Giờ đi, giờ nghỉ phải thống nhất. Ở chỗ nghỉ dài, phải chọn nơi địa hình bảo đảm
phòng không, phòng pháo tốt. Dù nghỉ ngắn hay nghỉ dài đều phải bố trí cảnh giới. Khi xảy ra
tình huống bất trắc thì mọi người phải hết sức bình tĩnh, trật tự, nghe mệnh lệnh và làm theo
mệnh lệnh của người chỉ huy...

Tất cả những điều trên đều là những nội dung cần huấn luyện kỹ, nhằm mục đích giữ
quyền chủ động trong hành quân chiến đấu. Huấn luyện hành quân mà để bộ đội kéo lê thê dọc
đường, không thành đội hình, cán bộ không nắm chiến sĩ... nhất định sẽ nát về tổ chức và lỏng lẻo
về tư tưởng. Huấn luyện như vậy sẽ tạo thành thói quen vô kỷ luật trong chiến đấu, khi gặp tình
huống bất trắc dễ sa vào thế bị động, nguy hiểm.

Huấn luyện trú quân ở rừng núi hay đồng bằng, làng mạc, ở xa hay ở gần địch đều
phải thực hiện các yêu cầu: phái trinh sát đi nắm địch ở xung quanh nơi đóng quân, nếu có cơ sở
nhân dân thì liên hệ với chính quyền địa phương, phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích, xác
định khu vực trú quân nhanh chóng, xem xét địa hình xung quanh, liên quan đến nơi trú quân. Ở
những điểm quan trọng, phái cảnh giới chiếm giữ địa hình khống chế. Bố trí lực lượng trú quân
thành thế trận, không tập trung vào một nơi, nhưng không quá phân tán; vạch kế hoạch tác chiến;
tổ chức tuần tra canh gác, đặt tín hiệu, ám hiệu, tổ chức thông tin liên lạc, đào công sự chiến đấu,
v.v... Tùy theo tính chất và thế địa hình, nếu cần thì phái ra một bộ phận lực lượng cảnh giới chiến
đấu cách xa vị trí đóng quân. Huấn luyện tất cả những nội dung đó cũng đều nhằm mục đích giữ
quyền chủ động khi trú quân.

- Giữ quyền chủ động trong chiến đấu.

Quyền chủ động trong chiến đấu có liên quan với yếu tố bí mật, bất ngờ. Hai mặt đó
không thể tách rời nhau, vì có giữ được bí mật và tạo được thế bất ngờ thì mới giành và giữ được
quyền chủ động. Để giành quyền chủ động, còn phải phán đoán chính xác tình hình địch, chọn
mục tiêu ở nơi bất ngờ nhất, nhằm chỗ địch sơ hở nhất, nơi trọng yếu nhất của địch để nhanh
chóng hạ quyết tâm, xác định cách đánh và tổ chức lực lượng chiến đấu, tổ chức nghi binh thu hút
địch, tổ chức các đội luồn vào đánh bên trong, kiềm chế pháo, bắn máy bay, diệt tăng, sử dụng
lực lượng dự bị, dự kiến các diễn biến khác, v.v...

Đó là nội dung cần vận dụng vào công tác huấn luyện hàng ngày nhằm mục đích giành
quyền chủ động trong chiến đấu.

5. Tạo hình thái tác chiến xen kẽ với địch.

Thế chiến tranh nhân dân của ta không hình thành chiến tuyến, kể cả khi tiến công
cũng như khi phòng ngự. Vì toàn dân ta đều đánh giặc: đánh ở mọi nơi, mọi lúc, đánh bằng mọi
lực lượng, đánh ở bên trong và đánh ở bên ngoài, đánh sau lưng và đánh ở trước mặt địch, luôn
luôn bám địch mà đánh, xen kẽ cài thế trong thế trận của địch mà đánh. Dù địch mạnh đến đâu
cũng sa vào thế chiến tranh nhân dân của ta, đều đứng vào thế bị bao vây. Đó là hình thái đặc biệt
của thế chiến tranh nhân dân của ta.

Không những thế chiến tranh nhân dân rộng lớn mà ngay từng trận địa chốt giữ trọng
điểm trong từng khu vực cũng không thể hình thành phân tuyến với địch, không thể tổ chức trận
địa theo từng dải, từng tuyến hàng ngang triền miên. Quân số ta có hạn không sao rải ra khắp
được, cơ sở vật chất ta có ít, lại chưa đủ khả năng làm chủ tuyệt đối trên không và làm chủ mặt
biển, vả lại địa hình đất nước ta dài và hẹp, lại bị đồi núi, sông ngòi chia cắt thành nhiều khu vực
nhỏ. Còn kẻ địch thì có tiềm lực quân sự mạnh, quân số tập trung đông, hỏa lực mạnh, có phương
tiện cơ động nhanh, nhất là máy bay vận chuyển. Địch có thể khắc phục được địa hình phức tạp,
làm thay đổi so sánh lực lượng và trạng thái trên chiến trường rất nhanh. Do tình hình thực tế ta
và địch như vậy nên ta phải có kiểu cách tổ chức phòng ngự như thế nào cho thích hợp để thực
hiện được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vùng mới giải phóng, giữ được đất, giữ được dân, lại
có đủ sức tiến công tiêu diệt được địch. Ta cần phải suy nghĩ giải quyết cho tốt nhiệm vụ này.
Muốn vậy, ta phải xây dựng lực lượng tại chỗ kết hợp với lực lượng cơ động mạnh, thống nhất tổ
chức và thống nhất chỉ huy. Đó là nội dung đồng thời là quan điểm tổ chức phòng ngự trận địa
chốt, cụm chốt liên hoàn của ta để tác chiến bảo vệ khu vực, bảo vệ vùng mới giải phóng.

6. Tính chất tổng hợp trong hiệp đồng tác chiến.

Nghệ thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc, có
các lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm ba thứ quân. Các lực lượng đó phối hợp cùng với lực
lượng chính trị của quần chúng luôn luôn ở trong thế hiệp đồng tác chiến để tạo nên một sức
mạnh tổng hợp trong tiến công cũng như trong phòng ngự, trong chiến dịch cũng như trong chiến
thuật.

Tính chất tổng hợp thể hiện ở sự phối hợp giữa tiến công quân sự và quần chúng nổi
dậy, tiến công địch bằng quân sự, chính trị và binh vận, v.v... Riêng về hành động quân sự, tính
chất tổng hợp thể hiện ở chỗ luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa hai phương thức tác chiến chính quy
với tác chiến du kích để hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng tồn tại và phát triển để
đánh thắng địch. Chỉ đánh du kích thì không thực hiện được tiêu diệt lớn quân địch trong một
thời gian nhất định, làm chuyển biến tình hình. Chỉ đơn điệu đánh chính quy cũng không thể
giành được thắng lợi, kết thúc được chiến tranh. Phải phối hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn,
phối hợp đánh bên trong lòng địch với đánh mạnh bên ngoài, tạo thế dồn ép quân địch, chia cắt
lực lượng địch, làm chúng luôn luôn không ổn định, tiêu diệt, tiêu hao địch làm chúng mệt mỏi,
đi đến nản lòng và tan rã ý chí xâm lược. Ngay bộ đội chủ lực cũng phải tạo ra một hình thái
chiến đấu tổng hợp của chiến trường, như bộ đội và cơ quan các cấp của lực lượng vũ trang miền
Đông Nam Bộ đã đánh bại chiến dịch Gian-xơn Xi-ty của đế quốc Mỹ năm 1967. Trong một trận
đánh, tuy lấy một hình thức chiến thuật nào đó là chủ yếu, nhưng thực tế hiện nay cho ta thấy
thường bản thân một hình thức chiến thuật không đủ để giải quyết gọn trận đánh mà còn phải
dùng những hình thức chiến thuật khác để tiếp tục hoàn thành trận đánh tiêu diệt địch. Hãy lấy
một trận đánh địch trong công sự vững chắc làm ví dụ. Trong trận đánh, ta lấy hình thức chiến
thuật đánh địch trong công sự vững chắc làm chủ yếu, song các hình thức chiến thuật khác ít
nhiều đều có xuất hiện. Chẳng hạn dùng cách đánh bí mật, đến một mức nào đó lại dùng hỏa lực
của lối đánh hiệp đồng binh chủng để giải quyết. Khi chiếm được một khu vực hoặc một số mục
tiêu, nếu gặp khó khăn phải tạm dừng thì lập tức xuất hiện chiến thuật phòng ngự chốt trụ lại,
bám giữ đánh phản kích rồi tiếp tục tiến công. Để đảm bảo đánh địch trong công sự vững chắc,
phải thực hiện cách đánh “bốn cắt, một diệt”, phải vận dụng nhiều hình thức chiến thuật khác
nhau như chốt, chặn đánh viện binh của địch hoặc kiềm chế trận địa pháo binh địch, hoặc phục
kích, tập kích đánh địch đổ bộ đường không tới ứng cứu, phải tổ chức bắn máy bay, diệt xe tăng,
cơ giới của địch, v.v... Trong tổ chức phòng ngự trận địa chốt, cụm chốt nói chung cũng không thể
chỉ có đơn độc một lực lượng nào đảm nhiệm, mà phải có lực lượng tổng hợp của cụm làng xã
chiến đấu và của dân quân du kích kết hợp với trận địa phòng ngự của bộ đội địa phương hoặc
một bộ phận của bộ đội chủ lực. Trừ trường hợp ở địa hình đồi núi không có làng mạc, dân cư thì
bộ đội chủ lực phải tổ chức ra một bộ phận đánh nhỏ. Trong hành động, lại phải phối hợp các
cách đánh của các lực lượng khác nhau với cách đánh của trận địa phòng ngự, chỉ như vậy phòng
ngự mới vững chắc được. Vì thế nội dung huấn luyện quân sự phải thể hiện đầy đủ tính chất tổng
hợp nói trên để nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về tư tưởng chỉ đạo tác chiến, về ý thức
tổ chức hiệp đồng tác chiến với ba thứ quân, vận dụng các hình thức chiến thuật một cách sáng
tạo, mưu trí, linh hoạt, tạo thành một sức mạnh tổng hợp trong chiến đấu nhằm thực hiện tư tưởng
tiến công tiêu diệt địch.

Tóm lại, các lực lượng vũ trang ta đều phải quán triệt nhuần nhuyễn đường lối, tư
tưởng quân sự của Đảng vào nội dung huấn luyện, từ những động tác thao tác của các binh chủng
kỹ thuật đến mọi nội dung của các điều lệnh: đội ngũ, nội vụ, canh gác, kỷ luật, kỹ thuật, chiến
thuật, chiến dịch, v.v...

Mọi suy nghĩ, mọi hành động trong huấn luyện của các lực lượng vũ trang ta đều phải
hướng theo đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng. Đó là kim chỉ nam để xác định nội dung của
tài liệu giáo khoa và thực hiện huấn luyện cho cán bộ và chiến sĩ. Có quán triệt đường lối, tư
tưởng quân sự của Đảng thì nội dung các điều lệnh, điều lệ, tài liệu cơ bản và tài liệu giáo khoa
mới chính xác, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với điều kiện đất nước ta, với cách đánh
truyền thống và độc đáo của ta.

Đường lối, quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng ta là ngọn cờ trăm trận trăm thắng
của các lực lượng vũ trang ta. Các binh chủng, quân chủng dù trong tay nắm binh khí, kỹ thuật
khoa học hiện đại đến đâu cũng đều phải quán triệt quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, đều
phải vận dụng nhuần nhuyễn vào mọi nội dung huấn luyện quân sự, mọi hành động chiến đấu và
cách đánh truyền thống của quân đội ta. Chỉ có như vậy các binh chủng, quân chủng mới giành
được thắng lợi trong chiến đấu.

III. Mấy vấn đề quan điểm, nguyên tắc huấn luyện cần nắm vững

1. Huấn luyện cơ bản vững chắc làm cơ sở nâng cao trình độ ứng dụng.

Bộ đội có được rèn luyện vững chắc những động tác cơ bản thì khi ứng dụng mới có
gốc, có bản lĩnh vững chắc để vận dụng sáng tạo linh hoạt, và dù linh hoạt như thế nào vẫn thống
nhất được với nhau theo những nguyên tắc nhất định. Song nếu huấn luyện bộ đội chỉ nặng về cơ
bản mà không nâng lên trình độ ứng dụng thì khi chiến đấu hành động sẽ máy móc, cứng đờ. Dĩ
nhiên, nếu không rèn luyện cơ bản mà chỉ rèn luyện ứng dụng ngay thì bộ đội dễ ứng dụng một
cách tùy tiện, không thể nào thống nhất được. Hành động của bộ đội vì thế dễ bấp bênh không
vững vàng, có khi đi chệch cả quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng và gây khó khăn, vấp váp
trong chiến đấu.

Ta hãy xem xét một vài ví dụ.

Khoa mục đứng nghiêm, đứng nghỉ là động tác cơ bản trong điều lệnh đội ngũ nhằm
rèn luyện lễ tiết, tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật cho quân đội. Người chiến sĩ được rèn luyện cơ
bản tốt thì tư thế đi đứng chắc nịch, nói năng rắn rỏi, dứt khoát, rõ ràng, làm đúng tác phong quân
nhân.

Khoa mục bắn súng gồm các động tác cơ bản như: thao tác, tư thế bắn, giương súng
nạp đạn, quan sát mục tiêu, ước lượng cự ly lấy thước ngắm, lấy đường ngắm cơ bản, nín thở,
bóp cò, v.v... Nếu không được rèn luyện từ cơ bản thì không thể ứng dụng bắn trong mọi trường
hợp. Được rèn luyện thành thạo thì khi ứng dụng, người chiến sĩ sẽ rất bình tĩnh, nhanh chóng
phối hợp tất cả những động tác yếu lĩnh đó để bắn trúng mục tiêu, không có tình trạng quên động
tác này, sót yếu lĩnh kia.

Động tác chiến đấu của từng người (chiến thuật từng người) là sự phối hợp một số kỹ
thuật cơ bản như quan sát mục tiêu, các tư thế vận động trên các địa hình, lợi dụng địa hình, địa
vật, cải tạo địa hình, ném lựu đạn, nắm thời cơ bắn súng, v.v... Toàn bộ các động tác đó được tổng
hợp, vận dụng hết sức mưu trí, linh hoạt để tiêu diệt mục tiêu. Được rèn luyện thuần thục, vững
chắc tất cả những kỹ thuật cơ bản đó thì khi chiến đấu người chiến sĩ mới vận dụng thành thạo,
tinh khôn mưu mẹo được.

Mỗi hình thức chiến thuật đều có những động tác cơ bản của nó. Vì vậy cần huấn
luyện thành thạo từ việc chuẩn bị vật chất, chuẩn bị bộ đội, tổ chức đội hình, tổ chức hỏa lực, tổ
chức chỉ huy đến việc điều khiển chiến đấu… theo tình huống cơ bản, theo biên chế tổ chức và
trang bị của đơn vị. Sau khi huấn luyện cơ bản tốt sẽ nâng dần lên trình độ ứng dụng với những
tình huống khác nhau như: có trang bị được tăng thêm thì tổ chức lực lượng đánh thế nào hoặc
ngược lại, gặp trường hợp biên chế trang bị hao hụt thì đánh thế nào, v.v...

Nếu so sánh chiến thuật phục kích với chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc
thì từ việc chuẩn bị vật chất, tổ chức lực lượng, đội hình tiến công, tổ chức hỏa lực, vị trí chỉ huy
cho đến việc điều khiển chiến đấu đều khác nhau. Mỗi chiến thuật đều có các giai đoạn cơ bản
của nó, cần phải rèn luyện thành thục. Đánh phục kích địch đang hành quân trên đường thì phải
nắm số lượng địch và hướng địch đi nắm quy luật, nghiên cứu địa hình có lợi cho phục kích, biết
tổ chức bộ phận chặn đầu, bộ phận khóa đuôi và tập trung lực lượng đánh vào đoạn giữa, biết tổ
chức hỏa lực, đặt tín hiệu, ám hiệu chỉ huy, v.v... bảo đảm bất thình lình nổ súng và xuất kích tiêu
diệt địch theo tình huống cơ bản, trên cơ sở đó nâng dần lên trình độ ứng dụng với những tình
huống phức tạp hơn. Vì vậy, cán bộ phải biết xử trí mưu mẹo, sáng tạo bằng các thủ đoạn như:
độn thủy, độn thổ, phục ở nơi địa hình bất ngờ đối với địch, dụ địch vào nơi ta phục kích hoặc bố
trí phục kích trên nhiều chặng đường để liên tiếp đánh quân địch, v.v...

Đánh địch trong vị trí có công sự vững chắc cũng phải qua giai đoạn rèn luyện cơ bản
như: chuẩn bị vật chất, chuẩn bị bộ đội, tổ chức đội hình, triển khai chiếm lĩnh trận địa, tổ chức
hỏa lực chi viện, hiệp đồng chặt chẽ giữa xung lực và hỏa lực, mở cửa, hiệp đồng các mũi, các
hướng đánh chiếm đầu cầu và phát triển chiến đấu vào bên trong, điều lực lượng dự bị vào đánh
dứt điểm, làm chủ chiến trường, v.v... Cán bộ chỉ huy phải rèn luyện cho thật thạo những tình
huống cơ bản nói trên để lấy đó làm cơ sở rèn luyện ứng dụng vào các tình huống diễn biến phức
tạp khác như: địch mạnh hoặc yếu, lực lượng ta nhiều hoặc ít, hỏa lực ta mạnh hoặc yếu, đánh
bằng nhiều mũi hay ít mũi, đánh nhanh hay đánh kéo dài, v.v...

Trong thời chiến, ta thường vận dụng nguyên tắc huấn luyện cơ bản kết hợp với huấn
luyện tắt để kịp thời đáp ứng yêu cầu của từng chiến trường, từng thời gian nhất định (giai đoạn
của chiến tranh). Nhưng dù yêu cầu cấp bách đến đâu cũng không thể bỏ qua những nội dung và
động tác cơ bản nhất. Trong quá trình huấn luyện cơ bản, ta đã kết hợp các kiến thức cơ bản với
các kiến thức thực tế của chiến trường, huấn luyện ứng dụng dần dần theo yêu cầu nhanh chóng
làm cho bộ đội thích nghi với thực tế khu vực chiến trường mà đơn vị đó sẽ hoạt động. Chỉ có
như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của chiến trường cả về số lượng và chất lượng. Trong thời
chiến mà huấn luyện quy mô, mục này mục khác thì chưa học được gì đã phải đi chiến đấu, tuy
có số lượng đông mà không có chất lượng, càng nhiều quân càng lộn xộn, khó chỉ huy và tổn thất
càng cao.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ta có rất nhiều kinh nghiệm về huấn luyện cơ
bản kết hợp với ứng dụng, như: địch tiêu diệt cứ điểm nào, ta lập ngay cứ điểm đó gần như thực,
rồi cho bộ đội tập cả cơ bản và ứng dụng ngay tại đấy. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta cũng
thường huấn luyện bộ đội theo các phương án đã dự kiến, lấy đó làm cơ sở để vận dụng. Tùy theo
yêu cầu của từng thứ quân, từng binh chủng, quân chủng, chúng ta đã huấn luyện những vấn đề
cơ bản nhất cho bộ đội và đưa nhanh lên trình độ ứng dụng với thực tế chiến trường. Đây là kinh
nghiệm lớn trong huấn luyện thời chiến của chúng ta. Nhưng dù huấn luyện trong thời bình hay
trong thời chiến đều nhất thiết phải qua khâu huấn luyện cơ bản tốt mới có cơ sở để nâng lên trình
độ ứng dụng trong chiến đấu.

2. Huấn luyện chiến sĩ, phân đội nhỏ đánh giỏi làm cơ sở cho huấn luyện bộ đội tập
trung đánh lớn.

Một toà nhà sở dĩ cao đẹp, lộng lẫy là do tường nhà được xây dựng vững chắc. Tường
vững chắc là dựa vào nền móng tốt. Nền móng mà không vững chắc thì tường chẳng bao lâu sẽ bị
xiêu vẹo, rạn nứt và nhà cũng sụp đổ. Tường bền vững còn nhờ có những viên gạch được nung
già lửa. Tường xây bằng nhiều gạch non chóng thối thì dễ bị đổ.

Tổ chức quân đội ta cũng vậy. Sức mạnh của một đơn vị là sự tổng hợp sức mạnh của
từng người mà tạo thành. Sức mạnh của một đơn vị lớn là sự tổng hợp sức mạnh của các phân đội
nhỏ. Không thể có tiểu đội giỏi nếu bản lĩnh chiến đấu của từng chiến sĩ không cao. Tiểu đội
không giỏi thì làm sao có trung đội, đại đội giỏi được. Đại đội là đơn vị cơ sở về chính trị và hành
chính, quản lý cơ sở vật chất, về giáo dục huấn luyện và trực tiếp chiến đấu. Nếu đại đội không
giỏi thì tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn không thể hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác cũng như
chiến đấu.

Phân đội nhỏ được rèn luyện giỏi nhưng nếu không hợp luyện các phân đội nhỏ lại
thành đơn vị lớn đánh giỏi thì sẽ không có sức mạnh lớn. Bộ đội chỉ phân tán đánh nhỏ, lẻ thì
không tạo được sức mạnh lớn làm chuyển biến chiến trường, chuyển biến cục diện chiến tranh
theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và chiến lược.

Nhưng, nếu thấy yêu cầu đánh lớn mà chỉ tập trung huấn luyện các đơn vị lớn với quy
mô rầm rộ, hình thức, bỏ qua giai đoạn huấn luyện chiến sĩ, huấn luyện phân đội nhỏ thì đó là
quan điểm huấn luyện sai lầm, dễ gây cho bộ đội những tổn thất lớn, không thể hoàn thành nhiệm
vụ. Huấn luyện phân đội nhỏ với huấn luyện tập trung quy mô lớn có quan hệ khăng khít với
nhau, trước tiên là phải huấn luyện thật tốt chiến sĩ và phân đội nhỏ. Có vậy mới tạo nên những
đơn vị mạnh, đánh tập trung, hiệp đồng binh chủng giỏi. Nếu coi thường huấn luyện chiến sĩ,
phân đội nhỏ thì sẽ gây nhiều thương vong trong chiến đấu. Những động tác nhỏ như một nhát
xẻng đào công sự không đúng tư thế, công sự không đủ độ sâu, lợi dụng địa hình địa vật, vận
động qua các loại địa hình không đúng tư thế, nằm mãi ở một vị trí bắn không di chuyển, không
cơ động, không thay đổi vị trí bắn cũng dễ đưa đến thương vong. Nhiều thương vong nhỏ cộng lại
thành thương vong lớn. Thương vong nhiều chiến sĩ, nhiều phân đội nhỏ góp lại thì không còn
binh đoàn lớn để tác chiến. Chiến thuật không thực hiện được thì chiến dịch cũng hỏng, chiến
dịch hỏng thì ảnh hưởng đến chiến lược.
Song song với việc huấn luyện chiến sĩ và phân đội nhỏ tốt chúng ta phải coi trọng
huấn luyện cán bộ và cơ quan vì đấy là trung tâm tổ chức chỉ huy hiệp đồng chiến thuật, chiến
dịch của bộ đội tập trung đánh lớn. Chiến thuật của bộ đội tập trung đánh lớn có thực hiện được
hay không, một mặt nhờ chiến thuật của phân đội nhỏ ở từng mũi, từng hướng, từng bộ phận có
thực hiện giỏi hay không, mặt khác lại nhờ công tác tổ chức, chỉ huy hiệp đồng và bảo đảm mọi
mặt của cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp, nhất là cán bộ và cơ quan chủ trì trực tiếp chỉ huy trận
đánh, có giỏi và chu đáo hay không.

Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã trải qua nhiều giai đoạn thực
hiện nguyên tắc trên. Quân đội ta vốn có nhiều kinh nghiệm phong phú, sáng tạo trong việc huấn
luyện chiến sĩ, phân đội nhỏ tinh nhuệ. Quân đội ta cũng có nhiều phân đội nhỏ đánh giỏi, thắng
lớn cả trong tác chiến độc lập lẫn tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng, vì chúng ta đã quán
triệt quan điểm, nguyên tắc huấn luyện chiến sĩ, phân đội nhỏ đánh giỏi làm cơ sở cho huấn luyện
bộ đội tập trung đánh lớn. Qua 10 năm đánh Mỹ, nguyên tắc này càng sáng tỏ và bất di bất dịch.
Huấn luyện như vậy là ta đã nghiêm chỉnh chấp hành tinh thần chỉ thị của Quân ủy Trung ương:
Huấn luyện bộ đội phải đánh được trên các chiến trường và trong mọi tình huống, biết đánh trận
địa, biết đánh vận động, biết đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng.

Cán bộ cao cấp, trung cấp chúng ta phải nhận thức cho đúng vấn đề này để thấy rõ
trách nhiệm của mình mà quan tâm rèn luyện tốt chiến sĩ và phân đội nhỏ nhằm nâng cao sức
chiến đấu cho bộ đội tập trung đánh lớn.

3. Huấn luyện cấp nào đánh giỏi chiến thuật theo biên chế tổ chức của cấp ấy, làm cơ
sở cho hiệp dộng chiến thuật của cấp trên trực tiếp.

Trong thực tế 10 năm đánh Mỹ, đến giai đoạn tác chiến hiệp đồng quy mô lớn, trên
chiến trường miền Nam vẫn có rất nhiều mục tiêu nhỏ. Trong chiến đấu, ta vẫn gặp những mục
tiêu địch là một tháp canh, một lô cốt, một cụm hỏa điểm với lực lượng một tiểu đội địch. Đó
thường là đối tượng tác chiến của tiểu đội, trung đội ta. Một đội tuần tra của địch đi trên đường
cũng là đối tượng đánh phục kích của tiểu đội, trung đội. Một đội cảnh giới của địch cũng là đối
tượng đánh tập kích của tiểu đội, trung đội. Những mục tiêu nói trên nếu lớn hơn, số lượng địch
nhiều hơn là đối tượng tác chiến của đơn vị lớn hơn như đại đội, tiểu đoàn... Vậy đối với mục tiêu
nhỏ, ta có nên đem đơn vị lớn đi đánh không? Ví dụ: mục tiêu địch có một tiểu đội ta có cần đem
một đại đội (đủ biên chế, trang bị) đi đánh không? Mục tiêu địch có một trung đội, ta có cần đem
hết cả tiểu đoàn, trung đoàn đi đánh không? Trong chiến đấu, có trận và có lúc ta phải tập trung
lực lượng lớn để đánh diệt một đơn vị nhỏ của địch, nhưng thông thường thì không như vậy.
Trong tác chiến phòng ngự trận địa, một tiểu đội của ta có lúc đảm nhiệm tổ chức một
trận địa cảnh giới phía trước hay bên sườn. Cũng có lúc tổ chức một trận địa chặn đánh địch ở
phía trước trận địa chính để đánh tiêu hao lực lượng địch, buộc địch triển khai lực lượng sớm, bộc
lộ ý định tiến công của chúng. Hoặc cũng có lúc chốt chặn địch buộc chúng phải đi vào hướng
khác có lợi cho ta tiêu diệt. Như vậy tiểu đội của ta cũng cần phải giỏi về tổ chức trận địa phòng
ngự và đánh phản kích. Trong thực tế chiến đấu, có lúc một tiểu đội của ta phòng ngự trận địa
chốt chặn một tiểu đoàn địch, đánh bại nhiều đợt tiến công của địch, làm cho chúng không thể
chiến được trận địa của ta. (Trận Tích Tường, Như Lệ (Quảng Trị) trong chiến dịch 1972, một
tiểu đội của ta dùng lực lượng còn lại của mình tổ chức đánh phản kích, đã đánh lùi một đại đội
địch tiến công chiếm chốt của ta).

Thực tế chiến trường chứng minh rất rõ ràng, về phía bộ đội ta, lực lượng của một tiểu
đội cũng có thể phản kích thắng lợi. Như vậy, nếu nói rằng tiểu đội không có chiến thuật là không
đúng.

Chiến thuật của cấp trên hình thành trên cơ sở tổng hợp chiến thuật của cấp dưới.
Chiến thuật của cấp dưới nằm trong hình thái chiến thuật của cấp trên. Chiến thuật của cấp dưới
và chiến thuật của cấp trên phải nhất trí, hiệp đồng chặt chẽ, ăn khớp. Ý định chiến thuật của cấp
dưới phải phục tùng ý định chiến thuật của cấp trên. Tuy vậy, chiến thuật của cấp dưới vẫn có
phạm vi độc lập nhất định, vì nó tiếp xúc với nhiều tình huống rất cụ thể. Nó phải xử trí và tổ
chức rất cụ thể trong phạm vi nhiệm vụ của cấp trên giao cho. Do đó, nếu chiến thuật cấp dưới
không giỏi thì làm sao cấp dưới thông cảm và ăn ý với chiến thuật của cấp trên, làm sao cấp dưới
có thể phát huy được tính chủ động và sáng tạo, nhanh chóng giải quyết được những tình huống
cụ thể để bổ khuyết cho chiến thuật của cấp trên thêm hoàn thiện và thắng lợi.

Biên chế tổ chức đơn vị chiến đấu của quân đội ta, thấp là tiểu đội cao là sư đoàn.
Công tác giáo dục huấn luyện của ta phải bảo đảm cho mỗi cấp từ tiểu đội đến sư đoàn đánh giỏi
chiến thuật của cấp mình. Ngoài ra từng người, từng tổ, cũng phải có chiến thuật của mình và
cũng phải rèn luyện thật tinh nhuệ. Đây là vấn đề nguyên tắc, ta không có lý do gì chỉ tập trung
huấn luyện chiến thuật cấp này mà bỏ lỏng không huấn luyện chiến thuật cấp kia.

Trong trường hợp phải xây dựng lực lượng gấp rút, huấn luyện thời gian rất ngắn, ta
phải thực hiện phương pháp huấn luyện tắt kết hợp với huấn luyện có hệ thống. Huấn luyện phải
đi sâu vào những nội dung cần thiết trước mắt để đơn vị kịp thời đi chiến đấu được ngay. Người
cán bộ phải có trình độ toàn diện: toàn diện về mọi mặt và toàn diện cả về mặt chiến thuật để có
thể chủ động xử trí trong mọi tình huống, tự tổ chức được lực lượng, tổ chức chiến đấu và chỉ huy
chiến đấu giỏi. Như vậy mới là người cán bộ có bản lĩnh. Trong huấn luyện, không nên để cán bộ
chỉ biết từng việc, chỉ lệ thuộc vào cấp trên, chỉ biết làm nhiệm vụ một mũi trong đội hình chiến
thuật cấp trên. Phải huấn luyện cho cán bộ luôn luôn có nhận thức đúng với yêu cầu của nhiệm
vụ, có lúc phải tập trung đánh lớn, có lúc thì yêu cầu đánh vừa, có trường hợp phải yêu cầu đánh
nhỏ, khi yêu cầu phối hợp hiệp đồng quy mô lớn, lúc lại yêu cầu đánh độc lập đơn vị nhỏ. Nếu
chúng ta không huấn luyện cán bộ, bộ đội cho giỏi theo hướng đó thì không thể đáp ứng được
nhiệm vụ tác chiến của từng đơn vị, cán bộ các cấp không thể chủ động làm được nhiệm vụ độc
lập, không tự khắc phục được khó khăn, không biết tự tổ chức lực lượng và hỏa lực của bản thân
để giải quyết chiến đấu.

Có đồng chí băn khoăn: nguyên tắc là huấn luyện cấp nào giỏi chiến thuật cấp ấy, vậy
chiến thuật của cấp trên thì sao? Xin hỏi lại: khi huấn luyện chiến thuật tiểu đoàn, các đại đội
không nằm trong đội hình tiểu đoàn thì nằm ở đâu? Khi huấn luyện trung đoàn, nếu các tiểu đoàn
không nằm trong đội hình trung đoàn thì sao thành chiến thuật của trung đoàn được? Ví dụ: tiểu
đoàn đánh phục kích thì có đại đội làm nhiệm vụ chặn đầu, có đại đội khóa đuôi, có đại đội đánh
ở giữa. Vậy các đại đội đó rõ ràng nằm ở trong đội hình chiến thuật của cấp tiểu đoàn. Nhưng
cũng không phải vì thế mà cho rằng “đại đội chặn đầu” hay “đại đội khóa đuôi” là chiến thuật
hoàn chỉnh của đại đội được. Cũng không thể chỉ huấn luyện cho đại đội biết một nhiệm vụ khóa
đuôi mà không huấn luyện hoàn chỉnh chiến thuật phục kích cho đại đội. Đã gọi là chiến thuật
phục kích của đại đội thì cán bộ đại đội phải biết nghiên cứu địa hình, phán đoán quy luật hành
quân của địch, bố trí bộ phận chặn đầu, bộ phận khóa đuôi, các trung đội đánh giữa, đặt tín hiệu,
ám hiệu, tổ chức chỉ huy, quyết định thời cơ nổ súng và xuất kích, v.v... Huấn luyện như vậy mới
gọi là chiến thuật hoàn chỉnh của đại đội.

Qua thực tế mấy chục năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta đã có
nhiều sư đoàn đánh giỏi trong hoàn cảnh phải tác chiến liên miên, thời gian huấn luyện quy mô
lớn rất hạn chế. Đó chính là vì ta đã huấn luyện đơn vị cơ sở giỏi, huấn luyện cho từng cấp đều
đánh giỏi chiến thuật cấp mình, trên cơ sở đó huấn luyện hiệp đồng chiến thuật của cấp trên, đưa
đơn vị tiến lên từng bước một cách vững chắc.

4. Huấn luyện đánh giỏi hiệp đồng xung lực với hỏa lực theo biên chế trang bị cơ bản
của đơn vị, lấy đó là cơ sở để huấn luyện đánh giỏi hiệp đồng binh chủng khi được tăng cường.

Ta lấy ví dụ: một tiểu đội có đủ quân số, có tiểu đội trưởng, tiểu đội phó, có đủ chiến
sĩ. Trang bị của tiểu đội có súng trường, tiểu liên, súng chống tăng, v.v... Súng trường có tầm bắn
xa, tiểu liên có tốc độ bắn nhanh, súng chống tăng có sức xuyên mạnh, v.v...
Với một tiểu đội đầy đủ như vậy, cần có một tiểu đội trưởng biết quản lý tiểu đội, hiểu
được tâm tư tình cảm, sở trường sở đoản của từng chiến sĩ. Trong quá trình giáo dục, huấn luyện,
phải tìm cách phát huy hết mọi sở trường, bổ khuyết những sở đoản của từng người làm cho toàn
tiểu đội thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động, hiệp đồng ăn ý với nhau giữa ba người trong tổ,
giữa ba tổ trong tiểu đội. Như vậy trong chiến đấu, tiểu đội trưởng phải nắm hàng chục chiến sĩ,
hàng chục khẩu súng các loại. Nếu không biết tổ chức, không biết chỉ huy thì các chiến sĩ sẽ tiến
lung tung và bắn lung tung, chiến đấu sẽ không có hiệu lực hoặc rất ít hiệu lực, có khi lại tự gây
thương vong nữa. Trong chiến đấu, người tiểu đội trưởng phải giỏi chiến thuật, giỏi tổ chức lực
lượng, giỏi tổ chức hỏa lực của tiểu đội Ví dụ, khi chỉ huy tiểu đội đánh mục tiêu có công sự,
người tiểu đội trưởng phải biết tổ chức cho tổ nào dùng hỏa lực gì để tiến công, tổ nào dùng hỏa
lực gì để kiềm chế và bịt hỏa điểm của địch, tổ nào dùng hỏa lực gì để đánh thọc sâu, tổ nào dùng
hỏa lực gì làm nhiệm vụ nghi binh thu hút địch về hướng đó. Trong khi phát triển tiến công, gặp
khó khăn thì phải biết cách xử trí, điều tổ này lên, tập trung hỏa lực vào một hướng nào để dứt
điểm, v.v...

Biên chế của trung đội có các tiểu đội, biên chế đại đội có các trung đội, có hỏa lực
súng máy, súng cối, súng chống tăng. Người chỉ huy trung đội, đại đội phải biết tổ chức lực
lượng, tổ chức hỏa lực, vận dụng tốt các hình thức chiến thuật. Khi tổ chức chiến đấu, phải tùy
theo nhiệm vụ chiến đấu và đối tượng chiến đấu cụ thể mà xác định cần dùng hỏa lực gì, cần bao
nhiêu, cần tập trung hỏa lực nào vào hướng này hay mục tiêu kia để dứt điểm. Trong chiến đấu,
tình huống diễn biến, có những mục tiêu xuất hiện bất ngờ, hoặc đơn vị gặp khó khăn không phát
triển được; lúc đó cán bộ chỉ huy phải lập tức tổ chức và chỉ huy đơn vị tiến công, điều hỏa lực
tới chi viện hiệp đồng nhịp nhàng giữa hỏa lực và xung lực.

Nói tóm lại, cán bộ chỉ huy phải giỏi tổ chức lực lượng theo yêu cầu nhiệm vụ chiến
đấu, phải biết sử dụng thành thạo hỏa lực của đơn vị đúng với tính năng chiến thuật,đúng mức,
đúng mục tiêu, đúng thời cơ của từng loại vũ khí, phải giỏi tổ chức hiệp đồng các loại hỏa khí đó
thành một sức mạnh tổng hợp, không bỏ quên, bỏ sót một loại nào, không sử dụng tùy tiện làm
hạn chế lẫn nhau. Người cán bộ chỉ huy phải luôn luôn tìm mưu này kế kia để tiêu diệt địch,
không trông chờ, không ỷ lại vào trên, chẳng hạn gặp một hỏa điểm cũng yêu cầu pháo, một tốp
bộ binh địch cũng gọi pháo, gặp khó khăn thì phải có xe tăng, khi vấp váp thì yêu cầu cấp trên chi
viện. Đó là thói quen có hại. Muốn bỏ thói quen đó, phải huấn luyện đơn vị nào cũng biết tận
dụng vũ khí trong biên chế của mình để tiêu diệt địch, tiến lên hoàn thành nhiệm vụ. Đây là vấn
đề cơ bản nhất, làm cơ sở cho việc huấn luyện tác chiến hiệp đồng với các loại trang bị vũ khí
được tăng cường.
Cán bộ có được huấn luyện giỏi và về tổ chức, có thạo về sử dụng hỏa lực của bản
thân đơn vị thì khi được phối thuộc, tăng thêm đơn vị, sẽ không bỡ ngỡ về tổ chức và chỉ huy. Có
quen tổ chức sử dụng hỏa lực của đơn vị được trang bị thì khi được tăng cường hỏa lực của cấp
trên hoặc binh chủng khác mới có cơ sở để biết cách tổ chức hiệp đồng tốt. Cán bộ các cấp tiểu
đoàn, trung đoàn, sư đoàn cũng vậy, không giỏi sử dụng hỏa lực của bản thân đơn vị thì khi được
tăng cường càng nhiều bao nhiêu càng làm cho cán bộ khó khăn, lúng túng bấy nhiêu.

Vì vậy có chú trọng huấn luyện sử dụng vũ khí, trang bị trong biên chế cho thành thạo
thì mới nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ. Trong chương trình học tập của cán bộ các
cấp, phải có nội dung học tập một phần chương trình cấp trên kể cả học tập sử dụng một số vũ khí
trang bị của cấp trên, hiểu biết một số tính năng chiến thuật của các binh chủng và cố tạo điều
kiện để hợp luyện được với các binh chủng của cấp trên từ một đến hai cấp. Hơn nữa, chúng ta
phải thấy rằng trong thực tế chiến đấu không phải lúc nào các đơn vị cũng đều có đầy đủ tổ chức
biên chế, có đầy đủ vũ khí tăng cường và hỏa lực chi viện. Có thể hoặc do bị thương vong nên
quân số xộc xệch, trang bị thiếu hụt, hoặc có khi phải đảm nhiệm một nhiệm vụ độc lập nào đó,
xa sự chi viện của cấp trên. Do đó cũng cần phải chú ý thích đáng đến việc huấn luyện cho bộ đội
ta có thể tác chiến thành thạo ngay cả trong trường hợp biên chế trang bị không đầy đủ.

5. Xây dựng quyết tâm chiến đấu cao là quá trình rèn luyện kỹ thuật và chiến thuật
thành thạo. Kỹ thuật, chiến thuật giỏi là cơ sở và điều kiện để xây dựng quyết tâm chiến đấu cao.

Quyết tâm chiến đấu là lòng tin chiến đấu thắng lợi. Xây dựng quyết tâm tức là xây
dựng lòng tin cho cán bộ và chiến sĩ. Một người đã từng thành thạo công việc nào đó khi được
giao công việc ấy, thường rất tự tin rằng mình sẽ làm được tất. Người nông dân thạo cày cất,
người thợ mộc thạo dùng cưa, dùng đục... rất tự tin ở nghề nghiệp của họ, không có tình trạng
lúng túng, vừa làm vừa sợ hỏng. Cũng như một người giỏi võ lại có vũ khí trong tay thì đi đêm sẽ
không sợ kẻ gian, mà tự tin sẽ đánh được kẻ gian ám hại.

Bản lĩnh chiến đấu của cán bộ và chiến sĩ gồm hai mặt: chính trị tư tưởng và nghệ
thuật chiến đấu. Đi đôi với việc giáo dục chính trị, quán triệt tình hình và nhiệm vụ, xây dựng
trách nhiệm chính trị và ý chí chiến đấu, việc trau dồi nghệ thuật chiến đấu cho cán bộ và chiến sĩ
là một việc rất quan trọng. Có thể nghệ thuật chiến đấu cao thì quyết tâm chính trị mới thực sự có
cơ sở vững chắc. Nghệ thuật chiến đấu của cán bộ và chiến sĩ là kỹ thuật, chiến thuật, công tác
chuyên môn nghiệp vụ và nghệ thuật chỉ huy. Vì vậy, quá trình rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật
chính làm quá trình xây dựng quyết tâm chiến đấu cao cho cán bộ và chiến sĩ. Cán bộ quân sự cần
thấy rõ đó là trách nhiệm của mình để trong khi rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật đem hết sức mình
rèn luyện cho đơn vị thật giỏi, thật tinh nhuệ. Cán bộ phải hết sức nghiêm cách, không được tha
thứ hoặc bỏ qua bất cứ một hành động sai nhỏ nào. Cán bộ quân sự phải thông qua huấn luyện
quân sự mà gắn chặt chính trị tư tưởng với kỹ thuật, chiến thuật. Phải làm cho kỹ thuật và chiến
thuật toát ra được tính tư tưởng và tính chiến đấu, làm cho cán bộ và chiến sĩ dũng cảm, tinh
khôn, mưu mẹo, có bản lĩnh chiến đấu cao. Như vậy, dù đứng trước kẻ thù nào, gặp tình huống
nào, cán bộ và chiến sĩ ta cũng đều có lòng tin tất thắng.

6. Rèn luyện cán bộ và cơ quan các cấp trong khi huấn luyện bộ đội.

Năng lực tổ chức chỉ huy của cán bộ và cơ quan các cấp trước khi được kiểm nghiệm
trên chiến trường, thì bước đầu phải được cùng đơn vị mình rèn luyện và kiểm nghiệm trên bãi
tập. Đó là bước rất quan trọng.

Dù cán bộ và cơ quan có năng lực đến đâu cũng phải qua bước huấn luyện cơ bản.
Trong bước này, phải tập những tình huống cơ bản về địch, ta, tổ chức lực lượng, tổ chức chỉ huy,
xử trí tình huống cơ bản... Trên cơ sở đó dần dần nâng lên rèn luyện theo tình huống phức tạp gần
sát với thực tế chiến đấu. Trong công tác chuẩn bị rèn luyện bộ đội, có cán bộ và cơ quan cùng
rèn luyện, phải xây dựng thành phương án và kế hoạch tác chiến, chuẩn bị mọi công tác bảo đảm
và tổ chức chỉ huy, v.v... như một cuộc chiến đấu thật. Khi thực hành rèn luyện, cán bộ chỉ huy
phải vận dụng thay đổi các hình thức chiến thuật, trong một khoảng thời gian ngắn phải xoay
chuyển cách đánh, tổ chức chiến đấu, tổ chức chỉ huy cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Cán bộ
và cơ quan các cấp phải thành thạo về chức trách nghiệp vụ và tổ chức chỉ huy thì mới bảo đảm
cho mọi khâu rèn luyện ăn khớp với nhau. Rèn luyện cán bộ và cơ quan khi bộ đội tập luyện là
một dịp tốt, vì có bộ đội thực trên địa hình thực, các cấp cán bộ lúc đó nằm ở vị trí chỉ huy của
mình phải thực sự điều khiển bộ đội. Qua rèn luyện, trực tiếp hoạt động và chỉ huy đơn vị, cán bộ
sẽ thấy mình tổ chức như thế đã được chưa, thông tin có bảo đảm không, chỉ huy chỗ nào đúng,
chỗ nào sai, chỗ nào kín, chỗ nào hở, bộ đội bộc lộ ra những điểm nào mạnh, điểm nào yếu, v.v...
Qua hoạt động thực tế, cán bộ và chiến sĩ sẽ thấy được sở trường, sở đoản của nhau để dần dần bổ
khuyết cho nhau, đi đến thống nhất tư tưởng và hành động, trên dưới ăn ý với nhau. Cơ quan các
cấp cũng sẽ thấy chỗ nào ăn khớp, chỗ nào không ăn khớp trong nội bộ cơ quan, trong việc tổ
chức hiệp đồng giữa các binh chủng và công tác bảo đảm cho trận chiến đấu. Cán bộ và cơ quan
có luôn luôn tự đặt mình vào trong cuộc rèn luyện bộ đội thì mới thành thạo và không ngừng
nâng cao được trình độ tổ chức chỉ huy, trình độ nghiệp vụ đơn vị trên dưới mới ăn khớp và nhất
trí. Vừa qua, có cán bộ và cơ quan chỉ phóng ra một phương án, chương trình, kế hoạch và yêu
cầu nội dung rèn luyện bộ đội, sau đó đứng làm quan sát viên xem bộ đội tập rồi nhận xét chung
chung, hoặc bỏ mặc bộ đội huấn luyện còn mình thì ở nhà họp hành, nghỉ ngơi... Tình trạng đó
không được khắc phục dứt khoát đơn vị không thể trưởng thành. Thực tế chiến đấu vừa qua đã
chứng minh rất rõ, đơn vị nào cán bộ và cơ quan lười biếng không tập luyện hoặc ít tập luyện
cùng bộ đội thì khi chiến đấu sẽ lúng túng, gặp khó khăn. Và mặc dầu bộ đội chiến đấu rất dũng
cảm, song thắng lợi bị hạn chế, chẳng những thế còn bị tổn thất nữa.

Vì vậy, để đánh tập trung, đánh lớn, đánh hiệp đồng binh chủng thì cán bộ và cơ quan
càng phải học tập nhiều hơn. Cán bộ và cơ quan phải tập chỉ huy có phương tiện thông tin, tập chỉ
huy có bộ đội thật tại bãi tập, theo tình huống gần sát với chiến đấu. Mỗi khi bộ đội luyện tập, cơ
quan và cán bộ chỉ huy phải tranh thủ đặt mình vào cuộc luyện tập để triển khai công tác cơ quan
và tổ chức chỉ huy. Ví dụ: một tiểu đoàn tập chiến thuật thì cơ quan và cán bộ trung đoàn phải
tranh thủ triển khai luyện tập công tác cơ quan và tổ chức chỉ huy thực hành điều khiển và bảo
đảm cho trận đánh, cho đợt chiến đấu nhiều trận liên tục. Một trung đoàn luyện tập chiến thuật thì
một phần cơ quan sư đoàn và cán bộ chỉ huy sư đoàn cần tranh thủ triển khai luyện tập.

Đó chính là biện pháp rèn luyện, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, cán bộ chỉ huy và
cơ quan một cách thực tế và nhanh chóng.

IV. Ý nghĩa quan trọng và một số điểm cần nắm vững trong tổ chức, phương pháp
huấn luyện

1. Tổ chức và phương pháp huấn luyện là một khâu rất quan trọng để biến quan điểm,
tư tưởng và nội dung quân sự của ta trở thành sức mạnh thực sự.

Có nội dung huấn luyện đúng lại phải có tổ chức và phương pháp huấn luyện đúng
mới bảo đảm cho bộ đội biến nội dung đó thành động tác kỹ thuật, chiến thuật cụ thể. Cũng như
có lý luận cách mạng đúng đồng thời lại phải có phương pháp cách mạng thích hợp thì mới đưa
cách mạng mau chóng đến thắng lợi. Tổ chức, phương pháp không có tính chất quyết định như
quan điểm, tư tưởng, nhưng phương pháp đúng hay không đúng có thể có ảnh hưởng tốt hoặc xấu
đối với việc tiếp thu và quán triệt quan điểm, tư tưởng.

Khi nội dung huấn luyện đã được xác định thì sau đó tổ chức và phương pháp là vấn
đề hàng đầu, bảo đảm cho cán bộ và chiến sĩ tiếp thu tốt và biến quan điểm, tư tưởng quân sự, nội
dung huấn luyện thành hành động thực tế để đánh thắng địch trên chiến trường.

Không thể có tổ chức và phương pháp huấn luyện nào tách rời quan điểm, tư tưởng.
Nội dung huấn luyện quân sự của quân đội ta được xây dựng trên cơ sở đường lối quân sự của
Đảng, chiến lược, chiến thuật của chiến tranh nhân dân... Vì vậy tổ chức và phương pháp huấn
luyện cũng phải thể hiện đầy đủ tính chất cách mạng, tính chất nhân dân.
Mục đích của giáo dục, huấn luyện là xây dựng cho người chiến sĩ của ta làm chủ
được kỹ thuật, chiến thuật, trang bị, vũ khí... Trang bị, vũ khí dù hiện đại đến đâu cũng chỉ phát
huy được đầy đủ sức mạnh khi người sử dụng nó thực sự làm chủ được nó.

Biết bao chiến công kỳ diệu của các binh chủng kỹ thuật trên các chiến trường đã
chứng minh sức mạnh vô địch của con người làm chủ trang bị, vũ khí, làm chủ khoa học kỹ thuật
và từ đó cũng làm chủ được mọi tình thế, lúc bình thường cũng như lúc hiểm nghèo. Sức mạnh vô
địch đó được xây dựng trên cơ sở giác ngộ chính trị và tinh thần chiến đấu cao, đi đôi với trình độ
chiến thuật, kỹ thuật điêu luyện. Hai mặt có quan hệ hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, là
cơ sở cho con người làm chủ trang bị, vũ khí, làm chủ khoa học kỹ thuật. Vì vậy, trong giáo dục,
huấn luyện, ta coi giáo dục chính trị, tư tưởng là cơ sở, phải giáo dục một cách thường xuyên,
đồng thời cũng hết sức coi trọng huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và khoa học kỹ thuật đạt tới
trình độ thành thạo.

Giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự phải kết hợp chặt chẽ với nhau và đều nhằm
mục đích hoàn thành mọi nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, sản xuất và công tác. Ngoài việc giáo
dục chính trị, quán triệt tình hình nhiệm vụ, lãnh đạo tư tưởng thường xuyên, công tác chính trị
còn phải đi sâu vào giải quyết cụ thể các vấn đề nhận thức, tư tưởng, tâm lý... theo yêu cầu của
chiến thuật, kỹ thuật. Quá trình huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đồng thời là quá trình giáo dục tư
tưởng, xây dựng quyết tâm, xây dựng lòng tin mà người cán bộ quân sự và chính trị đều phải tiến
hành. Như vậy, người làm công tác chính trị có hiểu nội dung quân sự thì công tác lãnh đạo, giáo
dục mới cụ thể, thiết thực. Ngược lại, người chỉ huy quân sự có biết làm công tác chính trị trong
quá trình huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật thì công tác huấn luyện mới có sức sống và đạt kết quả
cao.

Tin tưởng, mưu trí và sáng tạo là những đức tính không thể thiếu của mỗi cán bộ và
chiến sĩ, cần được xây dựng và bồi dưỡng thường xuyên trong quá trình huấn luyện kỹ thuật,
chiến thuật. Xây dựng và bồi dưỡng được những đức tính đó thông qua nội dung quân sự thực ra
không phải đơn giản. Người dạy và người học phải tốn công sức tìm tòi, nghiên cứu và rèn luyện,
nhất là phải qua thực tế khảo nghiệm dần dần từng bước mới thu được kết quả tốt.

Các đồng chí bộ đội tinh nhuệ vừa qua làm được những việc phi thường, chiến đấu với
hiệu suất rất cao, hiệu quả rất lớn. Đó là vì các đồng chí đã có phương pháp huấn luyện rất cụ thể,
rất sát với yêu cầu chiến đấu và phát huy được cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ
hy sinh, gian khổ, tin tưởng vững chắc ở trình độ kỹ thuật, chiến thuật điêu luyện của mình. Nếu
trong huấn luyện, không dày công luyện tập thành thục từ kỹ thuật ngụy trang ở các loại địa hình
khác nhau, các động tác chui luồn vật cản trở, kỹ thuật dò gỡ mìn cho đến các thủ đoạn khắc phục
ánh sáng, cách đối phó với quân địch canh gác, tuần tra, luyện từ nhịp thở cho đến các cách
chống ho hắng để tránh gây ra tiếng động, v.v... thì làm sao có thể thiên biến vạn hóa lọt vào ngay
giữa lòng địch để tiêu diệt.

Huấn luyện con người làm chủ kỹ thuật, chiến thuật là phải như vậy. Đó là yêu cầu cao
mà tổ chức và phương pháp huấn luyện phải đáp ứng trong toàn bộ quá trình huấn luyện ở bất cứ
một khoa mục nào, một động tác cơ bản nào.

Ta rất coi trọng binh khí kỹ thuật, tận dụng sức mạnh của binh khí và phải làm chủ nó.
Nhưng nếu phương pháp huấn luyện không đúng thì dễ dẫn tới buộc mình vào binh khí, sùng bái
và ỷ lại nó; khi gặp khó khăn cứ giải quyết bằng cách tăng cường binh khí kỹ thuật là xong,
không chịu khó suy nghĩ tìm ra cách đánh và cách lãnh đạo, v.v... Như vậy là sai trái về quan
điểm và không đúng về phương pháp huấn luyện.

Tất nhiên có xe tăng, có pháo binh thì ta phải tìm phương pháp huấn luyện để phát huy
cao độ sức mạnh của xe tăng, pháo binh. Ngược lại, nếu có ít hoặc không có xe tăng, pháo binh,
ta vẫn phải nghiên cứu tìm cách đánh tốt nhất, không thể vin cớ không có xe tăng hoặc thiếu pháo
nên không đánh được.

2. Thực hiện dân chủ trong huấn luyện.

Thực hiện dân chủ trong huấn luyện là truyền thống tốt đẹp của quân đội ta từ trước
tới nay. Nhờ phát huy dân chủ trong huấn luyện, ta đã luôn luôn phát huy được tính sáng tạo của
cán bộ và chiến sĩ, khai thác được nhiều kinh nghiệm quý giá, bổ sung và nâng cao không ngừng
nội dung huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật. Chúng ta đã dựa trên cơ sở tự nguyện, tự giác rèn
luyện với lòng yêu nước thiết tha bảo vệ Tổ quốc để phát huy dân chủ. Nhờ phát huy dân chủ nên
thực hành huấn luyện có chất lượng cao, quần chúng tự giác tiếp thu và tích cực rèn luyện kỹ
thuật, chiến thuật một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo. Giảng dạy có dẫn dắt, khêu gợi nhằm phát
huy tính độc lập suy nghĩ của người học; khi học có thảo luận và kết luận rồi rèn luyện một cách
thực sự; thường xuyên tiến hành bình dạy và bình học, đó là những hình thức thực hiện dân chủ ta
thường áp dụng và thu được kết quả tốt từ trước tới nay.

Vậy trong điều kiện xây dựng quân đội chính quy hiện đại ngày nay, phát huy dân chủ
có gì đối lập với thực hành huấn luyện tập trung thống nhất theo thể thức chính quy, tức là nhất
nhất đều làm theo đúng điều lệnh, chế độ và quy định hay không?

Trước hết, cần xác định các điều lệnh, chế độ và quy định đã ban hành là pháp lệnh
của quân đội mà mọi quân nhân đều có nghĩa vụ chấp hành. Dưới ánh sáng đường lối, tư tưởng
quân sự của Đảng, mọi điều lệnh, chế độ và quy định đều được đúc kết từ thực tiễn sinh hoạt,
công tác và chiến đấu mà biên soạn ra. Điều lệnh xác định những nguyên tắc và những điều cụ
thể có tính chuẩn mực và phổ biến nhằm xây dựng thống nhất nền nếp trật tự, kỷ luật, nền nếp
sinh hoạt và công tác, những nguyên tắc và thủ đoạn tác chiến, cách thức chỉ huy, v.v... bảo đảm
sự nhất trí về tư tưởng, nhận thức và sự thống nhất hành động trong quân đội. Tập trung, thống
nhất là yêu cầu không thể thiếu đối với một quân đội chính quy, hiện đại, tác chiến hiệp đồng
binh chủng. Đó là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội. Vì vậy, việc giáo
dục và huấn luyện những nội dung đó phải tiến hành dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất từ trên
xuống. Ngay cả khi thời kỳ chiến tranh, dù gặp khó khăn này khác, chúng ta cũng phải hết sức
tránh những hành động tản mạn, tùy tiện trong huấn luyện như: tự ý thay đổi các quy định, quy
tắc chương trình huấn luyện; thích thì học, không thích thì thôi; mỗi nơi làm theo một kiểu... Đó
là một trong những nguyên nhân gây ra khó khăn khi tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng
với quy mô lớn.

Nhưng tập trung thống nhất hoàn toàn không có nghĩa là hạn chế và loại trừ phát huy
dân chủ. Ngược lại, có phát huy dân chủ, đề cao tự giác của mọi người thì mới thực hiện được tập
trung, thống nhất cao độ, tức là đạt tới sự nhất trí hoàn toàn từ trên xuống dưới về các vấn đề một
cách thoải mái, thông suốt. Chất lượng huấn luyện cũng vì vậy mà được nâng cao.

Chúng ta nên tránh hiện tượng muốn thống nhất một chiều, đi đến gò bó và miễn
cưỡng trong dạy và học. Chẳng hạn, trong nhiều buổi tập bài chiến thuật hoặc diễn tập, thủ
trưởng và cơ quan, giảng viên hoặc người chỉ đạo thấy người tập chưa thật tán thành phương án
chỉ đạo đưa ra thì cố đạo diễn bằng những tình huống bổ sung hoặc các số liệu vô lý để gò người
tập nhất thiết phải hạ quyết tâm và xử trí theo đúng phương án đã chuẩn bị. Còn người tập thì tìm
cách làm bài cho ăn khớp với phương án của giảng viên hoặc người chỉ đạo diễn tập, nhưng tư
tưởng vẫn không thông suốt, đợi lúc ra chiến đấu sẽ đánh theo phương án khác của mình. Đó là
cách dạy và học không tốt, dễ đi tới học và làm không nhất trí, huấn luyện và tác chiến không
nhất trí. Dĩ nhiên, ta không phủ nhận giá trị của phương án đã chuẩn bị, vì nó thường được lựa
chọn trong những phương án tốt. Song không nên vội vàng tự cho đó là phương án duy nhất
đúng, vả lại, dù cho đó là phương án tốt nhất đi nữa thì cũng không nên nôn nóng gò ép người tập
phải công nhận một cách thụ động. Trước sau, người dạy vẫn phải kiên trì để người học độc lập
suy nghĩ và tiếp thu một cách tự giác. Điều quan trọng bậc nhất là phải đạt được sự nhất trí về
quan điểm, nguyên tắc. Còn như muốn nhất trí hoàn toàn cả về từng điểm cụ thể, chi tiết thì quả
là khó. Trong thực tế chiến đấu cũng vậy. Chúng ta đã đánh hàng ngàn hàng vạn trận, có rất nhiều
trận đã nhất trí về tư tưởng và nguyên tắc, nhưng về từng chi tiết cụ thể thì khó thấy được trận
nào hoàn toàn giống trận nào. Các trận chiến đấu đã diễn ra muôn hình muôn vẻ do sức sáng tạo
vô cùng phong phú của tập thể quần chúng.

Tóm lại, chúng ta không nên vì huấn luyện theo thể thức tập trung thống nhất mà coi
nhẹ phát huy dân chủ, hạn chế tính mưu trí, sáng tạo của quần chúng. Ngược lại, cũng không vì
phát huy dân chủ mà thiếu tập trung, thống nhất đi đến tản mạn, tùy tiện. Tập trung thống nhất và
phát huy dân chủ phải được thể hiện đầy đủ qua tổ chức và phương pháp huấn luyện trên giảng
đường và bãi tập. Mỗi người, mỗi bộ phận luyện tập cần được hạ quyết tâm và xử trí theo sự suy
nghĩ độc lập của mình, dĩ nhiên là phù hợp với ý định tác chiến và quan điểm, tư tưởng quân sự
của Đảng. Các mặt công tác bảo đảm chiến đấu, bảo đảm vật chất của các ngành chuyên môn
cũng phải căn cứ vào ý định và kế hoạch tác chiến thống nhất để luyện tập phần chuyên môn của
mình, đạt tới thống nhất về tư tưởng, quan điểm, nguyện tắc và hành động.

3. Tổ chức, phương pháp huấn luyện phải dựa vào tinh thần tự giác, say mê dạy và
học.

Huấn luyện là để chiến đấu và chiến thắng. Vì vậy quyết tâm chiến đấu trước hết phải
là quyết tâm rèn luyện nâng cao bản lĩnh chiến đấu. Người dạy phải dạy đến nơi đến chốn, người
học phải học và rèn bằng được với tinh thần hoàn toàn say mê tự giác. Dạy và học là nghĩa vụ,
chức trách của mỗi cán bộ chỉ huy, mỗi cán bộ cơ quan và mỗi chiến sĩ. Trong những năm chiến
tranh, tuy gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhưng đã có biết bao đồng chí chúng ta nhận rõ trách
nhiệm của mình, say mê với chức trách huấn luyện, không quản hy sinh, công sức để bám sát
chiến trường và bãi tập, ngày đêm lăn lộn với bộ đội, phát huy được biết bao sáng kiến về tổ chức
và phương pháp huấn luyện. Tất cả đều mong sao huấn luyện được tốt, chất lượng cao, nhằm mục
đích chiến đấu thắng lợi với hiệu suất cao nhất, ít hao tổn xương máu nhất. Vì tình thương yêu
binh sĩ thực sự, cán bộ ta đã chịu khó tìm tòi, nghiên cứu, thực hành huấn luyện sâu sát, tỉ mỉ, chu
đáo, nghiêm túc, không hạ thấp yêu cầu, không cắt xén chương trình, cũng không chạy theo thành
tích giả tạo.

Những người học cũng học tập, rèn luyện với tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác
suy nghĩ, khổ luyện thành tài. Do yêu cầu khẩn trương của thời chiến, những thanh niên vừa rời
ghế nhà trường và xa gia đình vào bộ đội đã bước ngay vào cuộc rèn luyện khá gian khổ. Chỉ một
cuộc luyện tập hành quân đường dài, mang vác nặng cũng thay đổi nếp sống thông thường của
anh em. Vì vậy, mỗi người phải có tinh thần tự nguyện, tự giác rèn luyện, tự mình khắc phục
những khó khăn chưa quen lúc ban đầu đấu tranh với sự mỏi mệt, thiếu thốn, ăn ngủ thất thường,
chịu nắng, chịu mưa, rèn từ đôi vai đến đôi chân. Nếu không có quyết tâm cao, tự nguyện tự giác
rèn luyện thì không thắng nổi. Vì vậy, một mặt cán bộ phải kiên trì giáo dục động viên, thông
cảm với những khó khăn của chiến sĩ, mặt khác lại phải có tổ chức và phương pháp huấn luyện
tốt bảo đảm giúp đỡ cho các chiến sĩ trẻ vượt qua được các thử thách ban đầu và tự nguyện, tự
giác dần dần ghép mình vào tổ chức nghiêm minh của quân đội cách mạng.

4. Tổ chức, phương pháp huấn luyện phải sát với thực tế chiến đấu, tranh thủ huấn
luyện giữa hai đợt chiến đấu.

Trong thời chiến, chúng ta có rất nhiều điều kiện đưa tổ chức, phương pháp huấn luyện
sát gần với thực tế chiến đấu, sát với nhiệm vụ, sát với đặc điểm của từng chiến trường (về địch,
ta, địa hình, thời tiết, dân cư) mà đơn vị sắp nhận nhiệm vụ.

Thực tiễn chiến đấu là thước đo chất lượng huấn luyện, giúp ta kiểm tra cụ thể nội
dung, tổ chức và phương pháp huấn luyện.

Thực tiễn chiến đấu vô cùng phong phú, luôn luôn phát triển không ngừng nên tổ chức
và phương pháp huấn luyện cũng cần được luôn luôn nâng cao, cải tiến. Cần tránh những hiện
tượng rập khuôn, máy móc hoặc tùy tiện, lỏng lẻo như:

- Trong huấn luyện chiến thuật, bước vào tình huống có địch trước mắt rồi mà vẫn máy
móc làm đúng bảy bước thao trường, vẫn chỉnh đốn trang bị, vẫn quay lưng về hướng địch...

- Đã tiến vào cách ụ súng địch 5 - 6 mét mà vẫn máy móc nằm lại báo cáo và xin chỉ
thị cấp trên làm cho chiến sĩ mất cả ý thức tiến công;

- Một người tập ngắm súng lại có mấy người ngồi bó gối ở bên cạnh để kiểm tra, rất
lãng phí thời gian và mất nghiêm túc;

- Trong huấn luyện và diễn tập chiến thuật, dùng hệ thống đạo diễn cầm cờ quyết định
tình huống cho cán bộ xử trí, biến đạo diễn thành người chỉ huy chứ không phải là cán bộ tập
luyện chỉ huy bộ đội. Đành rằng, trong thực tế có khi ta dùng tình huống chiến thuật, có khi dùng
gợi ý hoặc ra mệnh lệnh để uốn nắn cho người chỉ huy. Nhưng dù sao cũng nhất thiết phải tìm
mọi cách buộc người chỉ huy phải động não, sáng tạo, mưu trí trong việc xử trí các tình huống;

- Ngoài ra, khi tập đội ngũ tay không hoặc khi nghỉ, có những cán bộ không cho chiến
sĩ giá súng mà chỉ đặt súng xuống đất hoặc bãi cỏ ướt, khi bộ đội nghỉ không có người canh gác
vũ khí, hàng ngũ lộn xộn, mất trật tự ở bãi tập, v.v...

Huấn luyện như trên dễ gây cho cán bộ và chiến sĩ tác phong đại khái, thiếu ý thức
địch tình, mất chủ động, mất cảnh giác... và khó tránh được tổn thất trong chiến đấu.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối phương của chúng ta là một đội
quân xâm lược có tiềm lực lớn, lại đầu óc thực dụng, xảo quyệt, có điều kiện bổ sung, thay đổi
phương tiện, thay đổi cách đánh rất nhanh. Đứng trước một kẻ địch như vậy, chúng ta cũng phải
bổ sung lực lượng, cũng phải cải tiến phương tiện, trang bị cho phù hợp với yêu cầu mới, cách
đánh mới. Tình hình trên đây đòi hỏi công tác huấn luyện phải hết sức nhạy bén với những cái
mới xuất hiện trên chiến trường. Muốn vậy, công tác huấn luyện phải thường xuyên bám sát tình
hình và nhiệm vụ mới, phải nắm vững đặc điểm chung và riêng của từng chiến trường, từng đơn
vị trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của chiến tranh để xác định đúng đắn nhiệm vụ, yêu cầu
huấn luyện, phải bám sát chiến trường để thu thập kinh nghiệm, kịp thời bổ sung, nâng cao nội
dung huấn luyện, thực hiện “rút tỉa từ chiến trường, trả lại chiến trường”.

Hai công việc trên phải gắn liền với nhau: không nắm vững tình hình và nhiệm vụ
mới, huấn luyện sẽ không có phương hướng; không hiểu thực tiễn chiến trường sẽ không có nội
dung, tổ chức, phương pháp huấn luyện phù hợp. Những kỹ thuật, chiến thuật ta đã huấn luyện
cho bộ đội nói chung đều có giá trị thực tiễn, chính vì ta đã nắm chắc phương hướng tổ chức huấn
luyện theo yêu cầu nhiệm vụ, theo kinh nghiệm của chiến trường. Trong mấy năm chống Mỹ, cứu
nước vừa qua, từ cơ quan chỉ đạo đến các đơn vị chiến đấu, các binh chủng, quân chủng đều bỏ ra
nhiều công sức để huấn luyện bộ đội sát với thực tế chiến đấu. Chẳng hạn: thường xuyên phái cán
bộ đi chiến trường để theo dõi chiến đấu, sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, kịp thời bổ sung chỉnh lý
nội dung huấn luyện, cải tiến tổ chức, phương pháp huấn luyện cho phù hợp với yêu cầu mới.
Nhờ đó, trong quá trình huấn luyện, ta đã hạn chế được những hiện tượng giả tạo, hình thức, giáo
điều hoặc bảo thủ. Có thể lấy một số dẫn chứng, chẳng hạn: rèn luyện hành quân đường dài mang
vác nặng kết hợp với chiến đấu liên tục là một trong những phương pháp huấn luyện tổng hợp để
rèn luyện bộ đội về mọi mặt tư tưởng, quyết tâm, ý chí chiến đấu, chiến thuật, kỹ thuật, thể lực, tổ
chức chỉ huy, tác phong sinh hoạt, ý thức tổ chức kỷ luật, v.v... Các hình thức luyện tập chiến
thuật theo phương án chiến đấu, theo các chiến lệ, các cuộc diễn tập nghiên cứu chuyên đề, phổ
biến và học tập những kinh nghiệm chiến đấu mới, v.v... đều là những tổ chức và phương pháp
huấn luyện thiết thực, có tác dụng gắn liền huấn luyện với chiến đấu, rút ngắn khoảng cách giữa
chiến trường và thao trường. Song, công tác huấn luyện thường chỉ làm được tốt và thường xuyên
khi ở hậu phương, khi bộ đội ở xa địch, còn việc tranh thủ huấn luyện xen kẽ giữa hai trận đánh
hoặc hai đợt chiến đấu ở chiến trường thì không phải đơn vị nào cũng làm được tốt.

Trong điều kiện chiến trường phân tán, đi lại khó khăn, bom đạn ác liệt, mọi đơn vị
đều bận vào việc chiến đấu trước mắt, ta càng phải thường xuyên tăng cường phổ biến trao đổi
kinh nghiệm từ trên xuống dưới, giữa các đơn vị và các chiến trường. Vừa qua, mặc dầu có nhiều
khó khăn nhưng ở các chiến trường, nhiều đơn vị đều làm tốt công tác huấn luyện trong chiến
đấu. Vì chiến dịch không phải chỉ diễn ra trong vòng một - hai tháng mà có khi kéo dài hàng
mười tháng nên phải có quân số bổ sung liên tục, có trang bị vũ khí mới, có cán bộ lên cấp thay
thế, v.v... Nếu không tranh thủ huấn luyện trong chiến đấu thì chất lượng bộ đội nhất định giảm
sút, không thực hiện được càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Vừa qua, trong điều
kiện chiến đấu khẩn trương, các chiến trường, các đơn vị đã cố gắng liên tiếp mở nhiều lớp tập
huấn ngắn ngày từ tiểu đội trưởng trở lên đến cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Các lớp bồi dưỡng xạ
thủ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cũng được mở liên tục ngay tại mặt trận, tại chiến hào, tại sở
chỉ huy. Vì thế chất lượng bộ đội thường xuyên được giữ vững và nâng cao không ngừng. Cho
nên, để đáp ứng yêu cầu của thực tế chiến đấu, việc tranh thủ huấn luyện bổ sung tại trận là rất
cần thiết, rất quan trọng. Chính đó là cơ sở thực tế để bộ đội chiến đấu liên tục dài ngày thắng lợi.

5. Huấn luyện phải bảo đảm sẵn sàng chiến đấu.

Sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của quân đội trong thời bình
cũng như trong thời chiến, là nội dung phải giáo dục huấn luyện thường xuyên, tuy mức độ có lúc
khác nhau.

Với các loại binh khí, khí tài kỹ thuật ngày càng phát triển, dựa vào sức mạnh hỏa lực
và khả năng cơ động, vận chuyển nhanh, kẻ địch ngày càng có nhiều khả năng tập kích bất ngờ
trên không và mặt đất. So sánh với cuộc kháng chiến chống Pháp thì tình hình hiện nay rõ ràng
khác xưa nhiều lắm. Với ưu thế cơ động vận chuyển đường không, quân Mỹ có thể mở những
cuộc hành quân chớp nhoáng vào hậu phương ta. Chúng có thể đổ quân bất ngờ từ trên không
xuống, đánh phá cơ quan, kho tàng hậu phương ta; chúng cũng có thể mở những cuộc tập kích bất
ngờ ồ ạt bằng không quân đánh vào hậu phương ta, v.v…

Vì vậy, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của bộ đội phải rất cao. Dù ở sát gần chiến trường
hay ở hậu phương xa dù nhiệm vụ tác chiến khác nhau, mọi đơn vị đều phải có kế hoạch sẵn sàng
chiến đấu tại chỗ để đánh thắng địch tập kích bất ngờ từ trên không xuống, hoặc từ mặt đất và
mặt biển tới, sẵn sàng có lệnh là cơ động được ngay và chiến đấu tốt.

Để thực hiện hai yêu cầu trên, ngoài việc bố trí nội dung huấn luyện, việc xác định tổ
chức, phương pháp huấn luyện cũng rất quan trọng.

Để có thể sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, các đơn vị phải căn cứ vào phương án chiến đấu
tại chỗ để tiến hành huấn luyện cho bộ đội. Phải cùng với các cơ quan có liên quan tiến hành giáo
dục và duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu về mọi mặt (trật tự, sinh hoạt, công tác, huấn luyện,
bảo đảm chiến đấu, v.v...). Đồng thời, thường xuyên tổ chức báo động theo các cấp khác nhau và
tập hành quân di chuyển cũng là một phương pháp huấn luyện để tập dượt và duy trì trạng thái
sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.
Thực hiện huấn luyện tốt và sẵn sàng cơ động đi chiến đấu tốt là một nghệ thuật huấn
luyện đối với cán bộ chỉ huy và cơ quan tham mưu các cấp. Trong thời chiến, cần khéo kết hợp
huấn luyện có hệ thống với huấn luyện tắt, huấn luyện toàn diện với huấn luyện trọng điểm, huấn
luyện cơ bản với huấn luyện ứng dụng.

Tổ chức, phương pháp huấn luyện giỏi thì bộ đội sẵn sàng chiến đấu cao, bản lĩnh
chiến đấu giỏi. Bất cứ lúc nào có lệnh là bộ đội chiến đấu, cơ động được ngay, bất cứ lúc nào có
địch là đánh được ngay.

Sẵn sàng chiến đấu hiện nay không chỉ là yêu cầu đối với đơn vị chiến đấu mà từ các
cơ quan chỉ huy, cơ quan hậu phương chiến dịch, chiến lược cho đến các phân dội trực thuộc, các
kho trạm cũng đều phải có tổ chức, có kế hoạch rèn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu. Vì vậy phải huấn luyện chiến đấu tự vệ, huấn luyện một số chiến thuật bộ binh cần
thiết cho các cơ quan và phân đội hậu phương cũng như các binh chủng chuyên môn kỹ thuật.

Không chỉ riêng khi ở khu vực trú quân mà trong mọi hoạt động, khi hành quân, vận
chuyển tiếp tế trên đường hoặc ngay trong khi đang huấn luyện, v.v... cũng đều phải sẵn sàng
chiến đấu cao. Cần giáo dục và huấn luyện một cách thực sự, bảo đảm cho các bộ phận phục vụ ở
phía sau như cấp dưỡng, tiếp tế, tải thương, quân y, thông tin, kho trạm, v.v... luôn luôn sẵn sàng
chiến đấu.

6. Tổ chức, phương pháp huấn luyện, kết hợp chặt chẽ giáo dục xây dựng tư tưởng, tác
phong với rèn luyện chiến thuật, kỹ thuật.

Mục đích của huấn luyện quân sự là giáo dục và huấn luyện cán bộ và chiến sĩ làm chủ
kỹ thuật, chiến thuật. Vì thế người làm công tác huấn luyện không thể chỉ truyền đạt kiến thức
quân sự đơn thuần mà phải biết khéo léo tiến hành việc xây dựng tư tưởng, ý chí chiến đấu, tinh
thần hy sinh dũng cảm, tính mưu trí sáng tạo cho cán bộ và chiến sĩ trong quá trình huấn luyện kỹ
thuật, chiến thuật, chuyên môn, nghiệp vụ. Như vậy hoạt động của cán bộ và chiến sĩ mới là hoạt
động sáng tạo, có ý thức. Ngoài việc xây dựng ý chí, quyết tâm, còn phải đi sâu vào từng vấn đề
huấn luyện để xây dựng tư tưởng tích cực tiến công địch, tư tưởng đánh tiêu diệt, v.v... Khi huấn
luyện chiến thuật, vấn đề rất quan trọng là phải thống nhất tư tưởng chiến thuật trong từng đơn vị
từ trên xuống dưới. Không thống nhất tư tưởng chiến thuật thì khó thống nhất hành động, nhất là
trong những tình huống khó khăn phức tạp của chiến đấu.

Muốn cán bộ và chiến sĩ quán triệt tư tưởng, nguyên tắc chiến thuật thì phải thông qua
thực tiễn huấn luyện, giáo dục đi lại nhiều lần, thậm chí phải đấu tranh để phát huy nhân tố tích
cực, khắc phục nhân tố tiêu cực. Người làm công tác giáo dục tư tưởng trong huấn luyện quân sự
không thể chỉ bằng lòng với những khẩu hiệu hô hào, kêu gọi chung chung. Trên cơ sở giáo dục
tổng quát, phải đi sâu vào từng nội dung, tổ chức và phương pháp huấn quyện để tìm cách giải
quyết tư tưởng triệt để, xây dựng được lòng tin thực sự ở chiến thuật.

Đi đôi với giáo dục tư tưởng, phải biết kết hợp xây dựng tác phong khẩn trương, hoạt
bát, tính tổ chức kỷ luật trong quá trình huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật. Không phải chỉ trong
sinh hoạt, công tác mà huấn luyện cũng là một cơ hội rất tốt để rèn luyện cho mỗi cán bộ, chiến sĩ
thực sự có tác phong chiến đấu tốt và tính tổ chức kỷ luật cao, biến thành thói quen gần như bản
năng con người.

Kỹ thuật, chiến thuật là hai vấn đề khác nhau, nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau,
không thể tách rời. Kỹ thuật là cơ sở của chiến thuật, phải đáp ứng yêu cầu của chiến thuật.
Ngược lại, chiến thuật phải dựa trên cơ sở kỹ thuật mà phát triển. Trong huấn luyện quân sự, ta
phải nắm vững nguyên tắc “có gì đánh nấy, trang bị như thế nào huấn luyện như thế ấy”, phải
huấn luyện và đánh theo kiểu của ta, của Việt Nam. Vũ khí có thể thô sơ hay hiện đại, nhưng vấn
đề quan trọng là biết sử dụng như thế nào để phát huy tính năng, tác dụng của nó với hiệu suất
cao nhất. Thực tiễn đã chứng minh: cùng một loại máy bay, cùng một loại pháo nhưng quân đội
mỗi nước sử dụng theo một kiểu cách khác nhau. Ngay trong một đơn vị, trong một trận, mỗi lúc,
mỗi nơi cũng có cách sử dụng khác nhau. Đó là do cách đánh, tức là do chiến thuật quyết định,
chưa kể yếu tố tinh thần của người dùng nó. Vì vậy, huấn luyện kỹ thuật không thể tách rời chiến
thuật mà phải gắn liền với chiến thuật và phục vụ đắc lực cho chiến thuật. Cũng không thể nóng
vội muốn học ứng dụng ngay, muốn đưa ngay kỹ thuật vào phục vụ chiến thuật mà coi nhẹ huấn
luyện cơ bản. Huấn luyện như vậy dĩ nhiên cũng đạt được kết quả nhất định, nhưng không vững
chắc và không toàn diện vì chỉ hạn chế trong những điều kiện, tình huống nhất định nào đó mà
thôi. Trong quá trình huấn luyện kỹ thuật, phải nói rõ cho người học biết mục đích sử dụng kỹ
thuật nhằm phục vụ ý định chiến thuật gì, tình huống địch và địa hình ra sao, v.v...

Cũng cần tránh hiện tượng khi huấn luyện kỹ thuật thì không chú ý đến chiến thuật,
ngược lại khi huấn luyện chiến thuật thì không chú ý củng cố nâng cao kỹ thuật. Huấn luyện
chiến thuật và kỹ thuật tách rời nhau thì chắc chắn chất lượng huấn luyện kỹ thuật cũng như chiến
thuật đều không thể tốt. Đây là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết đúng đắn trong
phương pháp huấn luyện.

7. Vận dụng trong thời chiến, kết hợp lý luận với thực hành, cơ bản với ứng dụng, từ
giản đơn đến phức tạp, từ phân đoạn đến tổng hợp, từ độc lập đến hiệp đồng, kết hợp giữa toàn
diện với trọng điểm, có hệ thống với đi tắt.
Do yêu cầu của chiến đấu hiệp đồng binh chủng, chúng ta cần huấn luyện cho bộ đội
một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về những cái mà công tác tổ chức, chỉ huy hiệp đồng
đòi hỏi. Nhưng hoàn cảnh thời chiến lại không cho phép ta huấn luyện lề mề kéo dài, để mất thời
cơ. Vì vậy ta cần vận dụng khéo léo các mối quan hệ đã nói ở trên.

Huấn luyện trình tự phản ánh tính khoa học, phù hợp với quy luật phát triển của quá
trình nhận thức và hành động thực tiễn của con người. Nhưng trong hoàn cảnh thời chiến, do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chi phối, có khi phải huấn luyện tắt hoặc có khi phải
huấn luyện đi vòng, cái sau huấn luyện trước, cái trước huấn luyện sau, có thì giờ lại quay lại
huấn luyện cái cơ bản, cái toàn diện. Huấn luyện như vậy là để đáp ứng kịp thời yêu cầu của
nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, dĩ nhiên chưa thật bảo đảm vững chắc. Khi tình hình cho phép thì
đều phải coi trọng huấn luyện lý thuyết và thực hành. Ví như muốn bắn súng giỏi thì người chiến
sĩ trước hết phải hiểu biết lý thuyết cơ bản về súng, đạn và bắn, v.v... Muốn chỉ huy giỏi thì người
cán bộ phải nắm được những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng, có trình độ lý luận về
khoa học quân sự Việt Nam, nắm được lý luận và nguyên tắc về chiến lược, chiến dịch, chiến
thuật, phải học tập khoa học, kỹ thuật hiện đại dùng trong quân sự. Việc tăng cường học tập lý
luận chính trị, quân sự một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống cho cán bộ lãnh đạo và chỉ huy
là rất cần. Chúng ta tự hào có đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng, có một nền khoa
học quân sự Việt Nam đã hình thành và phát triển, được thực tiễn thắng lợi chứng minh. Đó là
kho tàng lý luận đồng thời cũng là kho tàng kinh nghiệm thực tiễn vô cùng quý giá. Trong thời
chiến, ta vẫn tăng cường học tập lý luận, đồng thời phải hết sức coi trọng thực hành, gắn liền lý
luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, làm cho mỗi cán bộ và chiến sĩ có những kiến thức cơ
bản theo chức trách, nhiệm vụ, đồng thời lại có khả năng hành động trong thực tiễn. Vì vậy,
không có cách gì khác là phải rèn luyện nhiều, rèn luyện ở mọi nơi, mọi lúc, khổ luyện thành tài.
Rèn luyện là biện pháp chủ yếu để có trình độ điêu luyện, rèn luyện nhiều để ôn lại lý luận, học lý
luận bằng hành động thực tiễn, đồng thời lại giỏi cả thực hành, nhanh chóng đưa lên trình độ tổng
hợp phức tạp. Khi sắp xếp chương trình huấn luyện cũng như khi thực hành huấn luyện một khoa
mục, phải có sự bố trí thích đáng giữa lý thuyết và thực hành, giữa cơ bản và ứng dụng, giữa đơn
giản và phức tạp... làm sao dành nhiều thời gian cho bộ đội luyện tập. Đặc biệt cán bộ sơ cấp phải
thực hành giỏi, miệng nói tay làm, dạy chiến sĩ được. Trên bãi tập, thực hiện phương châm nói
ngắn, rõ, nói ít làm nhiều. Cán bộ chỉ huy phải chân tới, mắt thấy, miệng nói, tay làm, sai đâu sửa
đấy, trực tiếp huấn luyện đồng thời trực tiếp tự rèn luyện mình cùng với bộ đội.

Cán bộ chỉ huy và cán bộ cơ quan phải tập luyện nhiều về tổ chức chỉ huy và nghiệp
vụ từng ngành, hợp luyện giữa các ngành trước khi diễn tập thủ trưởng cơ quan và diễn tập chiến
thuật thực binh. Cán bộ ta gặp lúng túng trong khi chỉ huy không phải vì thiếu lý luận chiến thuật
hoặc không hiểu chức trách, mà chính là vì ít tập hoặc tập không có tổ chức, không có kế hoạch.

Cần phân biệt phương pháp huấn luyện từ thấp đến cao, từ phân đoạn đến tổng hợp với
nguyên tắc huấn luyện chiến thuật. “Huấn luyện đơn vị giỏi chiến thuật cấp mình, trên cơ sở đó
học chiến thuật cấp trên” là nguyên tắc, còn huấn luyện phân đoạn chiến thuật cấp trên là phương
pháp. “Huấn luyện chiến thuật độc lập của binh chủng” là nguyên tắc, còn từng binh chủng huấn
luyện phân đoạn để chuẩn bị hợp luyện trong chiến thuật binh chủng hợp thành là phương pháp.
Đó là những vấn đề mà chúng ta phải phân biệt cho rõ không nên lẫn lộn.

Muốn đưa bộ đội tiến lên vững chắc thì cần coi trọng huấn luyện theo trình tự từ cơ
bản đến ứng dụng, nhất là trong hoàn cảnh thời bình. Nhưng trong thời chiến, chúng ta phải khéo
biết bố trí chương trình, đặt kế hoạch, đề ra tổ chức, phương pháp huấn luyện như thế nào để vẫn
bảo đảm cho bộ đội hiểu từ cơ bản, nắm được lý thuyết, biết thực hành giỏi, nhanh chóng đưa lên
trình độ ứng dụng, từ tình huống giản đơn tiến lên biết xử trí tốt trong tình huống phức tạp. Phải
huấn luyện phân đoạn kết hợp chặt chẽ với tổng hợp, huấn luyện tác chiến độc lập kết hợp với tác
chiến hiệp đồng binh chủng tốt.

Đó là nghệ thuật và cũng là kinh nghiệm về tổ chức, phương pháp huấn luyện thời
chiến.

Trong thời chiến, ta phải giỏi kết hợp huấn luyện giữa toàn diện và trọng điểm, giữa có
hệ thống với đi tắt. Đây là kinh nghiệm thực tế nhất để nâng cao chất lượng bộ đội, nhanh chóng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hết sức khẩn trương, phức tạp.

8. Chỉ đạo huấn luyện tập trung thống nhất từ trên xuống.

Trong thời chiến, chúng ta càng phải thực hiện cán bộ chỉ huy trực tiếp huấn luyện đơn
vị, cấp trên dạy cấp dưới, thủ trưởng cơ quan trực tiếp huấn luyện cơ quan.

Thời bình, chúng ta thường huấn luyện theo nội dung, chương trình thống nhất. Nhưng
thời chiến, do hoàn cảnh phân tán, chiến trường xa cách, nhiệm vụ khác nhau, địch tình, địa hình,
thời tiết khác nhau, nên chương trình, nội dung huấn luyện các đơn vị, các chiến trường có phần
vận dụng khác nhau. Nhưng dù thời chiến hay thời bình việc chỉ đạo huấn luyện cũng phải tập
trung, thống nhất từ trên xuống dưới, bao gồm các binh chủng, quân chủng, các lực lượng vũ
trang, các nhà trường nhằm bảo đảm thống nhất quan điểm tư tưởng, thống nhất hành động chiến
thuật, chiến dịch, với sự chỉ đạo chung của toàn chiến trường theo ý định chiến lược chung.
Tổ chức, phương pháp huấn luyện phải bảo đảm giải quyết thống nhất về quan điểm,
tư tưởng chiến thuật, chiến dịch cho các chiến trường và các lực lượng vũ trang.

Trên cơ sở thống nhất đó, mỗi đơn vị căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ thể
mà đặt kế hoạch huấn luyện cho đơn vị. Trong kế hoạch, phải xác định rõ yêu cầu chỉ tiêu hoàn
thành, những vấn đề vận dụng chiến thuật. Để nắm được thực chất tình hình, bảo đảm huấn luyện
có chất lượng, cán bộ chỉ huy phải trực tiếp huấn luyện đơn vị mình, cấp trên phải dạy cấp dưới,
thủ trưởng cơ quan phải trực tiếp huấn luyện cơ quan. Đó là yêu cầu của nhiệm vụ huấn luyện và
cũng là chức trách của các cấp cán bộ chỉ huy.

Đã là người chỉ huy đơn vị chiến đấu thì phải trực tiếp huấn luyện đơn vị. Phương
pháp chỉ huy và phương pháp huấn luyện có khác nhau. Trong tổ chức huấn luyện, ta thường
dùng đội ngũ tiểu giáo viên giúp người chỉ huy. Đó là việc cần thiết nhưng chỉ có ý nghĩa bổ trợ,
không thể coi là hình thức chủ yếu thay thế cho chức trách huấn luyện của người chỉ huy được.
Trong quá trình thực hành huấn luyện, người chỉ huy phải trực tiếp tự rèn luyện nâng cao trình độ
của mình về mặt nắm quân, tổ chức chỉ huy, vận dụng chiến thuật, v.v... Qua đó, chiến sĩ và cán
bộ chỉ huy cấp dưới cũng hiểu được người chỉ huy cấp trên, tạo nên sự nhất trí giữa cấp trên và
cấp dưới.

Để thực hiện tốt yêu cầu cán bộ chỉ huy trực tiếp huấn luyện bộ đội, cấp trên huấn
luyện cấp dưới, không có cách gì khác là cán bộ phải học tập vì có học thì mới dạy được. Khi có
điều kiện, cán bộ phải học cơ bản, toàn diện và có hệ thống. Ngoài học nội dung còn phải học cả
về tổ chức, phương pháp huấn luyện nữa. Trong thời chiến, cán bộ ta đã có nhiều cố gắng tự rèn
luyện mình, tự học tập trên cơ sở được tập huấn hoặc bổ túc ngắn hạn để không ngừng nâng cao
trình độ, năng lực chỉ huy. Đó là một kinh nghiệm rất quan trọng trong huấn luyện để nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Công tác huấn luyện quân sự của lực lượng vũ trang ta trong mấy năm qua có nhiều
vấn đề rất độc đáo. Chúng ta vừa chiến đấu vừa huấn luyện để càng đánh càng mạnh, càng đánh
càng thắng. Mấy chục năm xây dựng và chiến đấu liên tục cũng là mấy chục năm huấn luyện
quân đội liên tục. Do đó, chúng ta có nhiều kinh nghiệm phong phú về nhiều mặt. Trong phạm vi
có hạn, bài này chỉ nêu những vấn đề quan trọng, chủ yếu, vừa là kinh nghiệm lớn vừa có tính
chất quan điểm, nguyên tắc.

Quân đội ta có những đặc điểm riêng, khác với quân đội các nước anh em về số lượng,
trang bị, tập quán, tác phong, truyền thống, v.v... Do đó, về mặt kinh nghiệm cũng có những đặc
điểm riêng. Nhưng nói chung, muốn huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu thì các lực lượng
vũ trang ta phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng vào các vấn
đề chiến dịch, chiến thuật, kỹ thuật cũng như các động tác cụ thể. Nhưng đó không phải là việc
chỉ làm một lúc, một lần là xong. Kinh nghiệm thực tế vừa qua cho thấy đó là cả một quá trình
đấu tranh gay go, gian khổ, phức tạp và phải có thời gian, phải đấu tranh đi lại nhiều lần mới đạt
tới kết quả mong muốn. Nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật thực chất là sự vận dụng
đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng trong công tác huấn luyện quân sự. Chúng ta đã
coi trọng huấn luyện đơn vị từ đại đội trở xuống làm cơ sở cho huấn luyện bộ đội, binh đoàn tập
trung đánh lớn, trong đó huấn luyện cán bộ là khâu mấu chốt trong toàn bộ công tác huấn luyện.
Nhưng để tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng thắng lợi, chúng ta cũng đã coi trọng huấn
luyện bồi dưỡng cơ quan, nhất là cơ quan tham mưu. Chúng ta đã khéo léo kết hợp giữa huấn
luyện cơ bản với ứng dụng, giữa huấn luyện toàn diện với trọng điểm, giữa huấn luyện có hệ
thống với đi tắt, đã hết sức tranh thủ huấn luyện trong chiến đấu. Đó là những kinh nghiệm lớn về
mặt rèn luyện, xây dựng quân đội ta trong thời chiến để không ngừng nâng cao chất lượng bộ đội.
Với những kinh nghiệm quý báu đó, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo để huấn luyện
xây dựng quân đội ta trong tình hình hiện nay theo hướng đẩy mạnh chính quy và hiện đại, nhằm
không ngừng nâng cao sức mạnh của quân đội một cách vững chắc và toàn diện.

Tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu(32)

Tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu là thái độ và cách xử lý đối với nhiệm vụ
chỉ huy và chiến đấu, biểu hiện ra hành động cụ thể của một người chiến sĩ, một người chỉ huy,
một đơn vị hoặc một quân đội. Trước công việc, trước trách nhiệm, nhất là trước những hoàn
cảnh khó khăn gian khổ, gay go ác liệt, thường có cách xử lý khác nhau, biểu hiện trình độ giác
ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp khác nhau. Thực chất của tác phong chỉ huy và tác phong chiến
đấu của quân đội ta là thể hiện bản chất giai cấp, là biểu hiện lòng yêu Tổ quốc, trung với Đảng,
hiếu với dân bằng hành động cụ thể, là thể hiện sự quán triệt và mức độ quán triệt đường lối
chính trị và đường lối quân sự của Đảng. Tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu của các lực
lượng vũ trang của ta còn là một truyền thống tốt đẹp đã trải qua hàng chục năm chiến đấu gian
khổ và anh dũng mới xây dựng được như ngày nay.

Tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu của quân đội ta thể hiện trên chiến trường là
một trong những bài học rất quý báu. Nó rất cụ thể, thiết thực trong tình hình hiện nay đối với
mỗi người và mỗi đơn vị chúng ta.

Trong cuộc chiến đấu ác liệt với đế quốc Mỹ, kẻ thù hung ác và xảo quyệt, có nhiều vũ
khí, trang bị hiện đại, quân đội ta đã rèn luyện, trau dồi cho mình tác phong chỉ huy và tác phong
chiến đấu rất tốt đẹp. Tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu đó bao gồm nhiều mặt. Trong
phạm vi bài này, tôi chỉ đề cập vài vấn đề thiết thực, trực tiếp để chúng ta cùng nhau nghiên cứu,
học tập.

TÁC PHONG CHỈ HUY

- Tích cực, chủ động, khẩn trương là một tác phong chỉ huy rất quan trọng trong hoàn
cảnh chiến đấu với kẻ địch có phương tiện cơ động nhanh, có hỏa lực nhiều. Nhiều đơn vị của
Quân giải phóng miền Nam thể hiện tác phong này rất tốt. Ví dụ có một đơn vị trong mười ngày
đánh bốn trận lớn nhưng vẫn dành được nhiều thời gian để kiểm điểm, rút kinh nghiệm và huấn
luyện bổ sung. Nhiều đơn vị khác sau các trận đánh đều tranh thủ tổng kết và huấn luyện ngay.
Do đó, sức chiến đấu nâng lên rất nhanh, rất kịp tình hình phát triển.

Gần đây, như trận Bàu Bàng, giặc Mỹ vừa dừng lại ban ngày thì ban đêm bị tiêu diệt,
khi máy bay của Mỹ kéo đến bắn phá thì quân ta đã rời khỏi chiến trường, bom của Mỹ lại rơi
trúng đầu số giặc Mỹ còn sống sót. Tại vùng núi Chư Pông, có đại đội “kỵ binh bay” của Mỹ vừa
đến, chưa đầy 10 phút, đã bị đánh tan tác. Tại vòng vây Plây Me, đợt máy bay này đến bắn phá bị
Quân giải phóng bắn trả dữ dội, đợt khác đến càng bị đánh trả dữ dội hơn. Đánh như thế, thắng
như thế, rõ ràng yêu cầu người chỉ huy và cơ quan chỉ huy phải có tác phong tích cực, chủ động
và khẩn trương như thế nào.

Yêu cầu chiến đấu hiện đại phải nhanh chóng từng phút, từng giây, nếu chậm sẽ bỏ lỡ
thời cơ tiêu diệt địch.

Trong chiến đấu hiện đại đòi hỏi chúng ta phải hết sức tích cực, chủ động và khẩn
trương trong mọi lĩnh vực: công tác huấn luyện và chiến đấu. Không những thế chúng ta còn phải
tích cực, chủ động và khẩn trương hợp đồng giữa đơn vị này với đơn vị khác, giữa công tác này
với công tác khác. Đồng thời hết sức tránh tác phong làm việc “được đến đâu hay đến đó”, ỷ lại,
dựa dẫm, tránh lối làm việc “sính” công văn, giấy tờ, dài dòng, không khoa học, không cần thiết.

Đối với cán bộ chỉ huy nên giảm bớt hội họp, chịu khó đi xuống dưới; có như vậy
công việc giải quyết mới nhanh, đỡ phải hội họp. Nếu cần họp thì cố gắng họp ngắn, gọn nhưng
đầy đủ, súc tích, tuyệt đối tránh tác phong ỷ lại, dựa dẫm, do dự, mập mờ, chấp hành mệnh lệnh
theo kiểu “mặc cả”, “cao su” hoặc chấp hành không đến nơi đến chốn.

Tất cả những cái đó đều trái với tác phong chỉ huy tích cực, chủ động, khẩn trương
không phù hợp với tình hình và nhiệm vụ hiện nay.
- Cụ thể, tỉ mỉ, chuẩn xác là một trong những yêu cầu rất cần thiết đối với tác phong
của người chỉ huy trong hoàn cảnh chiến đấu với kẻ địch có trang bị, vũ khí hiện đại đối với chiến
trường đánh tập trung lớn, đối với tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng, hiệp đồng ba thứ
quân, hiệp đồng giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng nhân dân ngày càng cao.
Muốn đưa quân vào tận sào huyệt Chu Lai, Đà Nẵng, trung tâm Sài Gòn, v.v... đánh trúng những
mục tiêu được bảo vệ chu đáo của địch, muốn nắm chắc kẻ địch khi nào đi, khi nào dừng lại để
tiêu diệt chúng như ở Dầu Tiếng, Cẩm Xe, v.v... muốn tiêu diệt cứ điểm tiền tiêu Chư Ho trong 6
phút, muốn lao thẳng lưỡi lê vào ngực giặc Mỹ như ở Núi Thành thì tác phong của người chỉ huy
không thể lớt phớt, quan liêu, đại khái, mà mỗi người chỉ huy các cấp đều phải hết sức cụ thể, tỉ
mỉ, chuẩn xác mới bảo đảm làm tròn nhiệm vụ.

Để rèn luyện tác phong cụ thể, tỉ mỉ, chuẩn xác mỗi người, mỗi cơ quan cần xem xét
kỹ về bản thân mình, đơn vị mình, phát huy ưu điểm, khắc phục và đề phòng tác phong quan liêu,
đại khái, ít rời bàn giấy thâm nhập xuống quần chúng, v.v... Đối với cán bộ chỉ huy thì phải hết
sức tránh tác phong chung chung, kế hoạch vài nét đại cương, mệnh lệnh vài câu như khẩu hiệu,
chỉ huy cách bức. Ví dụ như cán bộ trung đội hạ lệnh chiến đấu cũng chỉ chung chung vài nét:
“Quân địch ở trước mặt!”; “Chúng ta tiến lên chiếm địa hình có lợi”; “Tiến hành bao vây chia
cắt”; “Kiên quyết tiêu diệt địch!”, v.v... Nhưng địch có bao nhiêu quân, vũ khí bao nhiêu, ở đâu,
bố trí như thế nào? Địa hình có lợi là ở đâu? Ai bao vây, ai chia cắt? Bao vây chia cắt như thế
nào, đến đâu?

Yêu cầu đối với người chỉ huy, càng là cấp trực tiếp càng phải nói rõ ràng. Ví dụ, cán
bộ đại đội, tiểu đoàn trong học tập đi chuẩn bị chiến trường để đánh phục kích, không nên đứng
một chỗ chiếu ống nhòm chỉ trỏ, trao nhiệm vụ cho những tiểu đội, trung đội đi xa tít. Có khi
người chỉ huy cũng ra lệnh chặn đầu, chia cắt, đầy đủ lắm, nhưng thực tế chỗ ấy ra sao, có bố trí
được không, bố trí như thế nào thì ngay bản thân người ra lệnh cũng mơ hồ không rõ. Nếu chỉ
huy huấn luyện theo kiểu ấy thì vô cùng nguy hiểm. Nắm địch, nắm ta, làm kế hoạch tác chiến tỉ
mỉ, cụ thể chuẩn xác là rất quan trọng. Nếu không thì “sai một ly sẽ đi một dặm”, lúc chiến đấu sẽ
gặp những tình huống đột xuất hết sức khó khăn, bấy giờ người chỉ huy có hối hận cũng không
kịp nữa.

- Gương mẫu, mưu trí, linh hoạt là tác phong không thể thiếu được của người chỉ huy
tác chiến với một kẻ địch tàn bạo xảo quyệt, là tác phong rất cần thiết, nhất là trong những trường
hợp chiến đấu gay go, ác liệt. Trận Bàu Bàng, khi gặp tình huống khó khăn người chỉ huy của
Quân giải phóng đã giải quyết đúng, kịp thời. Đánh Hiệp Đức, Đồng Dương, quân địch dần dần
tập trung càng đông, nhưng chúng dần dần càng bị động lúng túng, mắc hết mẹo này đến mưu
khác của Quân giải phóng miền Nam, cuối cùng cả giặc Mỹ lẫn bọn tay sai đều bị đánh một đòn
chí tử, chết và bị thương gần 600 tên. Những thằng sống sót mạnh đứa nào đứa ấy tháo chạy. Đó
là do người chỉ huy của Quân giải phóng rất mưu trí và linh hoạt. Đặc biệt trận Vạn Tường giặc
Mỹ huy động cả hải lục không quân đông hơn gấp bội Quân giải phóng, từ ba mặt đánh ép lại, từ
trên không ập xuống, từ dưới biển đổ lên. Nhưng Quân giải phóng và nhân dân Vạn Tường đã
chiến đấu hết sức mưu trí, linh hoạt chặn mũi này đánh cánh khác, đánh phía trước quặt phía sau,
hiện chỗ này ẩn nơi khác, đánh cho giặc Mỹ điêu đứng, “sống dở chết dở”, tiến cũng chẳng được,
rút cũng chẳng xong, cuối cùng thất bại nhục nhã. Ở miền Nam nước ta, không biết bao nhiêu lần
giặc Mỹ, quân chư hầu và tay sai của chúng vì mắc mưu quân và dân miền Nam mà đánh lộn ẩu
lẫn nhau ném bom bắn pháo vào nhau. Đánh như thế, thắng như thế rõ ràng là cán bộ chỉ huy và
cơ quan chỉ huy các đơn vị Quân giải phóng miền Nam đã có tác phong chỉ huy gương mẫu, mưu
trí, linh hoạt như thế nào. Học tập tác phong tốt ấy chúng ta cần tránh tác phong rụt rè, máy móc
rập khuôn, lúc khó khăn thì vắng mặt người chỉ huy, khi tình huống quyết định thì thiếu ý kiến
của cán bộ. Đó là những điều hoàn toàn trái ngược với tư tưởng, đạo đức và tác phong chỉ huy
của người cán bộ trong quân đội ta. Chỉ đứng xa chiếu ống nhòm, chỉ nghiên cứu đích theo kiểu
đoán mò, chỉ huy tác chiến theo hướng khoán trắng, đánh đu, v.v… những tác phong đó không
đúng với tác phong chỉ huy của quân đội ta.

Đối với cán bộ chỉ huy và cơ quan các cấp, cần khắc phục tác phong chỉ huy rập khuôn
theo một tưởng định mẫu, một bài giảng đã chuẩn bị sẵn, một kế hoạch, phương án hết sức máy
móc mà không dám và không biết ứng phó xử trí với tình hình thực tế xảy ra; khắc phục tác
phong chỉ huy quá giản đơn quay đi quay lại vẫn như một bài học thuộc lòng phổ cập, mới đọc
một chữ mà người nghe đã đoán được cả câu, mới đọc một câu người nghe đã đoán được cả bài.

Người chỉ huy có tác phong mưu trí linh hoạt thì dù có ít quân, ít vũ khí phương tiện
nhưng vẫn luôn luôn giành được thế chủ động, điều khiển được địch, khoét sâu được nhược điểm
của địch, đánh được những đòn quyết định, thu được thắng lợi lớn.

TÁC PHONG CHIẾN ĐẤU

Có những điểm của tác phong chỉ huy như: tích cực, chủ động, khẩn trương và mưu
trí, linh hoạt cũng là những điểm của tác phong chiến đấu, nhưng để dễ nhớ tôi nêu bốn vấn đề
chính: chủ động, nghiêm túc, mưu trí và dũng mãnh.

- Chủ động là một tác phong rất cần thiết, là một yêu cầu rất cụ thể về tư tưởng trong
chiến đấu. Trận Vạn Tường, Thuận Ninh, Chư Pông, v.v... trong điều kiện giặc Mỹ dùng máy bay
lên thẳng đổ quân xuống cả phía trước lẫn phía sau, đổ quân liên tục, nhưng bộ đội ta đã đề cao
tác phong tích cực, chủ động đánh địch, chủ động hiệp đồng, luôn luôn giành thế lợi về địa hình,
về thời cơ, dồn quân địch vào thế bị động, lúng túng. Gần đây trong những trận đánh giặc Mỹ đã
có biết bao nhiêu tấm gương về tác phong tích cực chủ động “tìm Mỹ mà diệt, tìm ngụy mà đánh”
đánh cho chúng trở tay không kịp, lập hết chiến công này đến chiến công khác.

Để rèn luyện tác phong chủ động chúng ta cần ra sức khắc phục tác phong ỷ lại dựa
dẫm; nêu cao những tấm gương anh dũng, chủ động bắn máy bay, bắt giặc lái, đánh biệt kích Mỹ,
những tấm gương tích cực chủ động sửa chữa cầu đường bảo đảm giao thông, khắc phục vận
chuyển, bảo đảm an toàn cho người và hàng đi đến nơi về đến chốn. Trên bãi tập hàng ngày biết
bao nhiêu tấm gương tốt xuất hiện; tích cực luyện tập, chủ động nghiên cứu, chủ động rèn luyện
tìm mọi cách tham gia để nâng cao sức chiến đấu.

- Nghiêm túc là tác phong rất cần thiết để bảo đảm mệnh lệnh của người chỉ huy có
hiệu lực. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, tình huống chiến đấu ngày càng phức tạp khẩn trương
đòi hỏi hiệp đồng ngày càng cao thì yêu cầu tác phong nghiêm túc càng trở nên cần thiết. Mặc
dầu giặc Mỹ có nhiều máy bay, nhiều xe tăng, xe bọc thép, các chiến sĩ Giải phóng miền Nam trút
căm hờn lên đầu súng, lưỡi lê, khi có lệnh xung phong, trăm người như một, nhất loạt xông lên
không một mảy may trù trừ do dự. Xuất phát từ lòng yêu nhân dân, yêu Tổ quốc các chiến sĩ ta đã
tự giác chấp hành mệnh lệnh chiến đấu và công tác hết sức nghiêm chỉnh, nhưng vô cùng sáng
tạo.

Gần đây, các trận chiến đấu ở Vạn Tường, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Chư Pông, v.v... có
biết bao nhiêu tấm gương chấp hành mệnh lệnh vô cùng kiên quyết và sáng tạo. Đó là biểu hiện
tác phong nghiêm túc trong chiến đấu của các chiến sĩ giải phóng miền Nam. Trên trận địa chống
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, trên bãi tập chiến thuật, kỹ thuật, trong công tác huấn luyện về
chiến đấu hàng ngày, chúng ta cần phải ra sức học tập và rèn luyện tác phong tốt đó. Chúng ta cần
khắc phục những biểu hiện của tác phong tự do, tùy tiện, chấp hành mệnh lệnh không tự giác,
không nghiêm túc, không sáng tạo. Những gương tốt lấy tiếng súng làm mệnh lệnh lao về trận địa
đánh máy bay địch của các chiến sĩ phòng không, những gương tốt nghiêm túc chấp hành mệnh
lệnh, chấp hành nhiệm vụ không quản hy sinh, không ngại gian khổ ngày đêm lăn lộn vượt qua
khó khăn bảo đảm giao thông của các chiến sĩ công binh, các chiến sĩ làm nhiệm vụ vận tải, và
phục vụ vận tải, v.v... thật vô cùng quý báu. Những gương tốt về nghiêm túc luyện quân, rèn quân
tìm mọi cách để nâng cao sức chiến đấu cho bản thân mình, cho đơn vị mình sẵn sàng hoàn thành
mọi nhiệm vụ trong bất cứ tình huống khó khăn nào đều là những tác phong nghiêm túc của Quân
giải phóng miền Nam.
- Mưu trí là tác phong chiến đấu, nhưng còn phải coi đó là sở trường truyền thống và
bản lĩnh chiến đấu của chúng ta.

Kẻ địch xảo quyệt, tàn bạo, dựa vào phương tiện vũ khí hiện đại, quân số đông để
hòng giành thắng lợi trên chiến trường. Vì vậy ta càng phải ra sức phát huy cao độ ưu thế tinh
thần chiến đấu anh dũng, sử dụng tốt trang bị, vũ khí hiện có, hết sức mưu trí linh hoạt để đánh
địch. Trên chiến trường miền Nam, các chiến sĩ giải phóng đã nổi tiếng về dùng mưu đánh địch.
Chuyện các anh hùng Vai, Tạ Thị Kiều, Trần Dưỡng, Huỳnh Văn Đảnh, và trăm nghìn tấm gương
khác rất mưu trí trong chiến đấu. Một chiến sĩ hoặc một tổ ba người cũng có thể nghi binh, nghĩ
mẹo lừa địch mắc bẫy để tiêu diệt chúng. Vừa qua trong trận tập kích ở làng Phước Lập (Quảng
Nam) mặc dầu máy bay liên tiếp thả pháo sáng làm sáng rực cả một vùng và súng của địch bắn ra
rất rát, nhưng một mình tiểu đội đồng chí Mẫn với cách đánh mưu trí, nghi binh, bò đến thật gần
rồi ném thủ pháo hoặc đánh thúc vào bên sườn phía sau địch đã tiêu diệt 13 ổ trung liên của
chúng. Như một mũi dùi lao vào tim gan địch, tiểu đội đồng chí Mẫn đã mở đường cho các đơn vị
phía sau xông lên đánh địch giành thắng lợi hoàn toàn. Rõ ràng đánh như thế thì từ người chiến sĩ
đến tổ 3 người, đến tiểu đội không phải chỉ có gan góc mà phải hết sức mưu trí.

Trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta,
các chiến sĩ phòng không - không quân, các chiến sĩ bộ binh, dân quân tự vệ đã sử dụng rất tài
tình các phương tiện vũ khí trong tay đã bắn rơi máy bay hiện đại nhất của giặc Mỹ. Tác phong
chiến đấu mưu trí linh hoạt ấy không chỉ thể hiện trong chiến đấu mà còn thể hiện cả trong huấn
luyện kỹ thuật, chiến thuật hàng ngày trên bãi tập. Để rèn luyện tác phong mưu trí một khi xử trí
tình huống, cán bộ và chiến sĩ ta cần tự đặt câu hỏi: “ta đánh như thế có quá đơn giản không? Ta
xử trí như thế có quá dễ dãi không? Ta đã có mưu gì? Địch mắc mưu của ta sẽ phản ứng đối phó
ra sao? Và ta lại tiếp tục lừa địch như thế nào để tiếp tục diệt địch? v.v…”. Phải luôn luôn suy
nghĩ chúng ta mới tìm ra mưu cao mẹo giỏi, giành được thắng lợi lớn nhất.

- Dũng mãnh là tác phong chiến đấu quả cảm, thể hiện tinh thần dám đánh và quyết
đánh thắng của quân đội ta.

Chiến sĩ và đơn vị dũng mãnh xông lên giết giặc, chính là thể hiện tinh thần dám đánh
và quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, là biểu hiện lòng căm thù giặc rất cao. Lập trường quan
điểm, chính trị tư tưởng có vững vàng hay không biểu hiện ở lúc này. Có phát huy được chiến
thuật, kỹ thuật hay không cũng ở lúc này. Trận Vạn Tường, Plây Me, Chư Pông, Bàu Bàng, Dầu
Tiếng, nhất là trận dùng lưỡi lê đánh giáp lá cà tiêu diệt địch ở Núi Thành, v.v... của Quân giải
phóng miền Nam đã thể hiện tác phong chiến đấu vô cùng dũng mãnh, làm cho kẻ địch hồn bay
phách lạc. Dũng mãnh như chiến sĩ Lê Đoàn trong trận Vạn Tường đã đâm thẳng nòng súng vào
ngực giặc Mỹ, dùng báng súng đập vỡ đầu giặc Mỹ. Các chiến sĩ giải phóng miền Nam oai phong
lẫm liệt, trừng trị bọn quỷ khát máu. Dũng mãnh như chiến sĩ Rơ Môn đợi địch đến thật gần, bất
ngờ nổ súng quét ngã gục hàng bầy giặc. Khi bọn giặc còn lại tụt xuống hố sâu bắn cản trả lại
quân ta, bất chấp mưa đạn của địch, Rơ Môn đã nhanh chóng chúc mũi súng xuống bắn xả vào
chúng trút hờn căm xuống đầu bọn xâm lược và bọn tay sai tàn bạo. Nhiều đứa chết ngay tại chỗ
lấy tên sống sót vùng lên thoát chạy, Rơ Môn kẹp súng đuổi theo diệt chúng quyết không cho
chúng thoát. Dũng mãnh như ba chiến sĩ Đa, Xe, Chinh bí mật đến gần, nhảy xổ lên tiêu diệt giặc,
nắm lấy đại liên của chúng chĩa nòng về hướng địch mà bắn, v.v...

Để phát huy cao độ tác phong chiến đấu dũng mãnh chúng ta cũng cần khắc phục một
số biểu hiện của tác phong rụt rè, do dự hoặc máy móc lúc nào cũng báo cáo và chờ lệnh... mà
phải như các chiến sĩ phòng không - không quân đã nêu tấm gương Nguyễn Viết Xuân “nhằm
thẳng vào quân thù mà bắn”. Các chiến sĩ công binh, giao thông vận tải, thông tin, v.v... đã khắc
phục mọi khó khăn, lướt qua mọi ác liệt, bảo đảm thông tin thông suốt, giao thông an toàn. Địch
phá ta đánh, ta sửa, ta đi; địch lại phá, ta lại đánh, lại sửa, lại đi. Địch đánh phá, ta cứ đi. Giặc Mỹ
nhất định thua, chúng ta nhất định thắng. Chúng ta phải như các chiến sĩ các binh chủng đang rèn
luyện thực tế trên bãi tập rèn sức cơ động, rèn bản lĩnh chiến đấu, hành quân mang nặng, dưới
trời mưa nắng, gió rét không hề quản ngại. Căm thù giặc Mỹ xâm lược, quân và dân cả nước ta
quyết dũng mãnh xông lên tiêu diệt chúng, bảo vệ Tổ quốc quê hương. Nhất định máu quân thù
phải nhuộm đỏ lưỡi lê của chiến sĩ ta.

Muốn có tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu tốt thì phải ra sức học chính trị,
luôn luôn rèn luyện lập trường quan điểm, đề cao trách nhiệm, đó là vấn đề mấu chốt không thể
thiếu được. Người nào, đơn vị nào coi nhẹ vấn đề này tuyệt nhiên không thể nào có tác phong tốt.
Học chính trị chủ yếu là quán triệt nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội vào nhiệm vụ cụ thể,
rèn luyện quan điểm tư tưởng chủ yếu là rèn luyện đạo đức “trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm
vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” như Hồ Chủ
tịch đã dạy. Đề cao trách nhiệm là mọi việc làm phải nghĩ tới Đảng, tới nhân dân, dám làm dám
chịu, không hững hờ buông trôi thả lỏng. Trong công tác hoặc trên bãi tập, cán bộ chịu đổ thêm
một giọt mồ hôi, chịu mệt, chịu đi thêm một bước nữa thì trong chiến đấu chiến sĩ đỡ đổ máu vô
ích mà sẽ chiến thắng giòn giã. Vì vậy yêu cầu cán bộ cách mạng chân phải đi đến nơi, mắt phải
thấy, miệng nói tay làm, làm ngay, làm đến nơi đến chốn.

Muốn có tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu tốt, cần rèn luyện ý thức tổ chức kỷ
luật và tinh thần chấp hành mệnh lệnh hết sức tự giác, nghiêm minh và sáng tạo. Một người, một
đơn vị thiếu tinh thần tự giác trong khi nhận nhiệm vụ, kỷ luật không nghiêm minh thì không thể
có tác phong chiến đấu tốt, không thể hy vọng chiến đấu thắng lợi mà ta ít tổn thất. Thực tế công
tác và chiến đấu đã chứng minh điều này rất rõ ràng.

Muốn có tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu tốt, cần thực hiện đầy đủ các chế
độ, điều lệ, điều lệnh về rèn luyện, chuẩn bị chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đã quy định. Đội
ngũ lỏng lẻo, canh gác, trực ban, trực chiến lơ là thì kỹ thuật, chiến thuật có giỏi mấy chăng nữa
cũng sẽ lâm vào bị động không thể nào phát huy được sức mạnh. Chấp hành nghiêm chỉnh các
điều lệnh, điều lệ, các chế độ quy định về giữ gìn vũ khí, khí tài, về chuẩn bị vật chất cho chiến
đấu cũng là điều rất cần thiết để xây dựng tác phong chỉ huy, tác phong chiến đấu tốt.

Việc rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật tốt cũng là một trong
những vấn đề cơ bản để xây dựng tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu. Vì bản lĩnh chiến
đấu càng giỏi thì sự tin tưởng tất thắng càng cao. Bản lĩnh chiến đấu càng giỏi thì sự vận dụng
chiến thuật, kỹ thuật càng linh hoạt, càng sáng tạo, tác phong chiến đấu càng dũng mãnh.

Vấn đề rèn luyện đội ngũ, nội vụ trong học tập, sinh hoạt, công tác hàng ngày có quan
hệ mật thiết đến rèn luyện tác phong chiến đấu và tác phong chỉ huy. Đó không phải là hình thức
mà chính là nội dung của tư tưởng, ý chí và tinh thần tổ chức kỷ luật của bộ đội.

Rèn luyện tác phong chỉ huy và tác phong chiến đấu tốt là chúng ta ra sức góp phần
nâng cao chất lượng chiến đấu của quân đội, thực hiện quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ
xâm lược.

______________________

Bài học đánh tiêu diệt lớn trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ(33)
Cách đây 14 năm, ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân và dân ta đã kết thúc toàn thắng trận
quyết chiến chiến lược vĩ đại Điện Biên Phủ. Qua 55 ngày đêm chiến đấu liên tục và quyết liệt ta
đã tiêu diệt gọn 21 tiểu đoàn địch (chiếm 2/5 tổng số quân cơ động chiến lược của thực dân xâm
lược Pháp trên chiến trường Bắc Bộ). Chiến thắng cực kỳ to lớn này đã giáng một đòn trí mạng
vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, quyết định việc chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của
chúng ở Đông Dương.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng,
đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng ta.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình của
Đảng ta. Từ chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta đã tổng kết được nhiều kinh nghiệm hết sức quý
giá về mọi mặt chính trị cũng như quân sự, xây dựng cũng như tác chiến của các lực lượng vũ
trang nhân dân ta. Một trong những kinh nghiệm về mặt tác chiến mà chúng ta nghiên cứu ở đây
là kinh nghiệm đánh tiêu diệt lớn với những bài học thành công xuất sắc về xây dựng và giữ vững
quyết tâm chiến đấu, về chỉ đạo và chỉ huy, về bảo đảm vật chất.

I. XÂY DỰNG VÀ GIỮ VỮNG QUYẾT TÂM CHIẾN ĐẤU

Quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của quân
đội ta là quyết tâm đánh tiêu diệt với quy mô lớn. Quyết tâm đó đã quán triệt nhiệm vụ chính trị
của cuộc chiến tranh cách mạng và được xây dựng trên cơ sở nhận thức đầy đủ về trách nhiệm
chính trị của các lực lượng vũ trang ta trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Quyết tâm đó
còn thể hiện tinh thần dũng cảm hành động phù hợp với quy luật phát triển của đấu tranh vũ trang
cách mạng, với quy luật càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng của lực lượng vũ trang ta,
đã từ tiến công nhỏ bé, cục bộ tiến lên tiến công to lớn, liên tục, toàn bộ, giành thắng lợi cuối
cùng.

Thực dân Pháp sau nhiều năm nếm hết thất bại này đến thất bại khác trong cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương, đến năm 1953, tiếp tục được sự tiếp sức tích cực của đế quốc Mỹ,
đã tăng cường tới mức lớn nhất cố gắng quân sự của chúng trên chiến trường hòng cứu vãn nguy
cơ thất bại hoàn toàn. Kế hoạch Na-va ra đời với số quân nâng lên xấp xỉ nửa triệu, với khối quân
cơ động chiến lược lớn mạnh để mở những cuộc hành binh quy mô lớn hòng tiêu diệt chủ lực của
ta để giành lại quyền chủ động chiến lược. Trước những cố gắng chiến tranh điên cuồng của địch,
Trung ương Đảng ta đã nhìn thấu thực chất suy yếu, khốn quẫn của chúng, chủ trương một mặt ra
sức tăng cường chiến tranh du kích để phá âm mưu bình định vùng sau lưng địch, phá kế hoạch
phát triển ngụy quân của địch, để phân tán lực lượng của chúng; mặt khác tập trung bộ đội chủ
lực nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai ở những vùng chiến lược quan trọng mà địch
tương đối yếu, đồng thời hết sức tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch ở những hướng địch đánh ra mà
ta có điều kiện thuận lợi tiêu diệt.

Kiên quyết thực hiện chủ trương đó, quân đội ta đã xây dựng quyết tâm đánh tiêu diệt
với quy mô ngày càng lớn. Bước vào Đông Xuân, các đơn vị chủ lực của ta đã quán triệt phương
châm: “Tích cực chủ động, cơ động linh hoạt”, ta đã kiên quyết khắc phục được mọi khó khăn về
cơ động, tiếp tế... dũng mãnh tiến quân vào các hướng chiến lược quan trọng mà sơ hở của địch
liên tiếp giáng cho chúng nhiều đòn rất hiểm, giành thắng lợi rất giòn giã.

Trước những quả đấm thép của chủ lực ta, cùng với chiến tranh du kích phát triển
mạnh mẽ ở đồng bằng, giặc Pháp đã lâm vào thế bị uy hiếp mạnh ở nhiều nơi và càng co vào thế
phòng thủ chiến lược, Na-va đã tìm mọi cách bảo toàn các đội quân cơ động chiến lược, cố giữ
vững các địa bàn xung yếu, chờ thời cơ thuận lợi sẽ tung ra phản công lại ta. Tổ chức phòng ngự
bằng hình thức tập đoàn cứ điểm vững chắc, địch hy vọng sẽ ngăn chặn được thế tiến công vũ bão
của ta và chúng có thể thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Vì thế, đối với ta, để tiếp tục đẩy mạnh
cuộc đấu tranh vũ trang tiến lên, tạo thế phát triển cho cách mạng và mở ra giai đoạn mới của
cuộc kháng chiến, yêu cầu đã đặt ra là phải tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm lớn mạnh của
địch, đập nát hình thức phòng ngự mới của chúng. Đó là quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ.

Đối với quân đội ta, từ tiêu diệt từng cứ điểm với lực lượng một tiểu đoàn đến tiêu diệt
cả một tập đoàn cứ điểm với lực lượng hàng chục tiểu đoàn địch rõ ràng là một bước phát triển
nhảy vọt về quy mô đánh tiêu diệt, đòi hỏi quân đội ta phải có sự nỗ lực vượt bậc về mọi mặt mà
trước hết là phải có quyết tâm thật cao và thật vững.

Quyết tâm đánh tiêu diệt lớn của quân đội ta đã được xây dựng ngay từ khi học tập
chính trị, quân sự và đấu tranh giai cấp ở hậu phương và không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trong
cả quá trình hoạt động Đông Xuân. Nhưng trước thử thách lớn nhất của trận quyết chiến chiến
lược ở Điện Biên Phủ với quy mô đánh tiêu diệt lớn gấp bội so với trước, quyết tâm đó đòi hỏi
phải được tôi luyện, củng cố thường xuyên, không một khó khăn, gian khổ nào có thể ngăn cản,
không một hy sinh đổ máu nào có thể làm nhụt chí. Tiến quân vào Điện Biên Phủ, chúng ta đã rất
coi trọng việc rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân thật vững vàng. Từ lòng yêu
nước nồng nàn, lòng căm thù địch vô cùng sâu sắc, từ ý chí chiến đấu sục sôi, với tinh thần quyết
chiến quyết thắng và khí thế chiến đấu hừng hực xốc tới, chúng ta tiến quân vào Điện Biên Phủ.
Nhờ xây dựng được quyết tâm sắt đá như thế, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội ta đã
phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, động viên được mọi cố gắng lớn nhất, thể hiện
bằng những hành động anh dũng và tài trí tuyệt vời đã tạo nên sức mạnh vô cùng lớn lao để đánh
dứt điểm, đánh triệt để, đánh đến thắng lợi hoàn toàn. Quyết tâm rất cao và rất triệt để đó đã được
quán triệt từ trên xuống dưới, từ cán bộ đến chiến sĩ, trong tất cả các binh chủng, từ chỉ đạo, chỉ
huy đến kế hoạch thực hiện cụ thể, đặc biệt được luôn luôn củng cố vững chắc và không ngừng
nâng cao trong suốt quá trình chiến đấu gay go, ác liệt, cho đến lúc toàn thắng. Đó là bài học rất
sâu sắc của quân đội ta về xây dựng và củng cố quyết tâm đánh tiêu diệt lớn trong chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ.

Trong quá trình chiến đấu hết sức gay go quyết liệt ở Điện Biên Phủ, quân đội ta đã
gặp vô vàn khó khăn, gian khổ, đã phải liên tục chiến đấu trong điều kiện hết sức ác liệt khẩn
trương. Quân đội ta đã luôn luôn nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, phát huy cao độ mọi
nhân tố tích cực, kiên quyết vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, anh dũng chiến đấu, đánh thắng
hết trận này đến trận khác. Có lúc tư tưởng hữu khuynh tiêu cực xuất hiện ở nơi này, nơi khác,
nhưng nhờ đấu tranh tư tưởng kịp thời và kiên quyết ngay trong khi đang chiến đấu, quét sạch
mọi hiện tượng tiêu cực, dù là rất nhỏ, nên bộ đội ta đã luôn luôn giữ vững và không ngừng củng
cố, nâng cao quyết tâm, đặc biệt là trong những tình huống chiến đấu gay go, quyết liệt. Do đó,
chiến đấu càng ác liệt, quyết tâm càng cao, ta càng động viên được tinh thần chiến đấu anh dũng
và trí sáng tạo vô cùng tận của đông đảo cán bộ, chiến sĩ, khắc phục được mọi khó khăn to lớn,
vượt qua mọi thử thách gay go, ác liệt, sáng tạo ra nhiều cách đánh hay, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn.

Thực tế đó ở Điện Biên Phủ đã cho thấy, để đánh tiêu diệt lớn, không những phải xây
dựng quyết tâm rất vững chắc mà còn phải không ngừng củng cố quyết tâm trong quá trình chiến
đấu quyết liệt.

II. MẤY VẤN ĐỀ VỀ CHỈ ĐẠO, CHỈ HUY

Chiến dịch Điện Biên Phủ là một đòn chiến lược hiểm hóc nhất, một trận quyết chiến
chiến lược lớn nhất, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ở đó sự lãnh đạo
đúng đắn sáng suốt của Đảng ta, tính kiên quyết, linh hoạt, tinh thần liên tục tiến công, lòng dũng
cảm, tính mưu trí sáng tạo, nghệ thuật tác chiến tài giỏi của quân đội ta được thể hiện nổi bật. Từ
chiến thắng Điện Biên Phủ chúng ta có thể rút ra mấy bài học về chỉ đạo, chỉ huy sau đây:

1. Kiên quyết, táo bạo, linh hoạt.

Kiên quyết, táo bạo, linh hoạt là một yêu cầu hết sức quan trọng trong chỉ đạo đấu
tranh vũ trang để giành quyền chủ động, giành thắng lợi, là một đức tính không thể thiếu được
của lực lượng vũ trang cách mạng, của người chỉ huy để chiến thắng kẻ thù. Trong chiến dịch
Điện Biên Phủ, một chiến dịch mà kẻ địch dùng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất để phòng thủ,
một chiến dịch mà chúng ta phải đạt cho bằng được mục đích tiêu diệt hoàn toàn quân địch thì
tính kiên quyết, táo bạo, linh hoạt càng trở nên một yêu cầu then chốt, có ảnh hưởng quyết định
đến sự toàn thắng.

Chúng ta đã kiên quyết tập trung, và lần đầu tiên sử dụng một lực lượng quân sự rất
lớn vào chiến dịch. Chúng ta đã tính đến những khó khăn rất lớn cần phải vượt qua, những vấn đề
hết sức phức tạp cần phải giải quyết từ việc cơ động lực lượng, bảo đảm an toàn, cách sử dụng
lực lượng cách đánh đến công tác hậu cần tiếp tế, v.v... Chúng ta cũng đã dự kiến mọi tình huống
có thể xảy ra, thấy rõ bản chất ngoan cố, âm mưu thâm độc, thủ đoạn xảo quyệt, điên cuồng, có
khi liều lĩnh của kẻ thù. Nhưng nắm vững thế yếu của kẻ thù, chúng ta đã kiên quyết tập trung lực
lượng đánh trận quyết định để quyết giành thắng lợi to lớn. Thực tế là chúng ta đã đưa một lực
lượng rất lớn đến hoạt động ở một chiến trường cách xa hậu phương trên mấy trăm ki-lô-mét,
trong một thời gian dài. Chúng ta cũng đã đưa được hàng chục khẩu pháo nặng, vượt đèo, lội suối
dưới bom đạn ác liệt của địch lên sát đồn địch. Chúng ta đã mở những con đường thắng lợi qua
nhiều địa hình mà kẻ địch không thể tưởng tượng dược. Chúng ta đã xây dựng cho toàn bộ lực
lượng của ta một hệ thống trận địa tiến công hoàn chỉnh, vững chắc.

Sắp bước vào chiến dịch, chúng ta đã thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh
giải quyết nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”.

Quyết tâm không thay đổi nhưng thay đổi phương châm là hầu như thay đổi toàn bộ kế
hoạch tổ chức của chiến dịch. Chỉ nói riêng việc kéo pháo ra, việc xây dựng trận địa mới, việc
bảo đảm khối lượng vật chất to lớn để chuẩn bị đánh dài ngày cũng đã đòi hỏi nhiều công sức.
Nhưng trên cơ sở quán triệt chỉ thị của Đảng “đã đánh là phải chắc thắng” nhận rõ phương châm
cũ không còn thích hợp với tình hình mới nữa, chúng ta đã kiên quyết thay đổi phương châm, sẵn
sàng đạp bằng những khó khăn lớn nhất để giành lấy thắng lợi chắc chắn nhất, to lớn nhất.

Thông thường thì nên tiến công vào chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch. Nhưng căn cứ vào
tình hình thực tế ở Điện Biên Phủ, vào chiến dịch, chúng ta đã nhằm vào những khu phòng ngự
then chốt, vào chỗ mạnh của địch làm hướng tiến công chủ yếu. Ta kiên quyết tìm và tạo ra chỗ
yếu trong điểm mạnh, kiên quyết tiêu diệt, đánh chiếm cho kỳ được nơi đó thì mới có thể liên tục
tiến công chiếm dần hệ thống phòng ngự của địch, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực quan trọng tiến
tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch.

Nét nổi bật, bao trùm về tính kiên quyết, táo bạo, linh hoạt trong quá trình chỉ đạo và
thực hành chiến dịch là: khi giành được một thắng lợi nào thì nhanh chóng khuếch trương không
thỏa mãn dừng lại, luôn phấn đấu giành những chiến thắng to lớn hơn, khi gặp khó khăn thì tìm
mọi cách khắc phục, kiên trì giữ vững quyết tâm, tiến lên đánh thật mạnh, đánh liên tục, đánh tiêu
diệt nhanh, gọn, làm chủ chiến trường.

Trong chiến dịch, tính kiên quyết, táo bạo, linh hoạt đã quán triệt từ chỉ đạo đến chỉ
huy, từ trên xuống dưới, từ cán bộ đến chiến sĩ nên đã có vô vàn gương chiến đấu kiên quyết, táo
bạo, linh hoạt. Có phân đội đang làm trận địa tiến công gần địch thấy thời cơ có lợi đã táo bạo,
chủ động xông vào diệt gọn cứ điểm. Có những dũng sĩ luồn vào tận sân bay diệt địch, bắt tù
binh.

Rõ ràng là sự thể hiện tính kiên quyết, táo bạo, linh hoạt trong hành động đã góp phần
to lớn hoàn thành mục đích tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, góp phần tạo nên một bước
phát triển nhảy vọt về sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.
Đó chẳng những là kết quả của sự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ ta về lập
trường cách mạng, ý chí chiến đấu, tinh thần cách mạng tiến công, trên cơ sở nhận rõ tình hình,
đánh giá đúng đắn so sánh lực lượng địch, ta, quán triệt yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và quân
sự của Đảng mà còn là kết quả của việc rèn luyện miệt mài, gian khổ đầy công phu nhằm nâng
cao bản lĩnh chỉ huy, năng lực chiến đấu. Chúng ta không những đã có gan đánh lớn, đánh trận
hiệp đồng binh chủng và vững tin thắng lớn mà còn biết cách đánh tiêu diệt lớn nữa . Vì vậy, khi
hạ quyết tâm, bộ đội ta đã tỏ ra vững dạ, tin tưởng khi hành động, đã định tiêu diệt cứ điểm nào
thì kiên quyết đánh đến cùng; xử trí nhanh, linh hoạt trong nhiều tình huống ngoài dự kiến, luôn
luôn ở thế chủ động, thế tiến công.

Chiến thắng Điện Biên Phủ còn khẳng định một điều là cuộc chiến đấu càng ác liệt, kẻ
thù càng ngoan cố, xảo quyệt, và có khi thời cơ đánh to thắng lớn đã đến thì tính kiên quyết, táo
bạo, linh hoạt trong lực lượng vũ trang, nhất là trong cán bộ càng phải được hết sức coi trọng rèn
luyện nâng cao để đáp ứng yêu cầu mới của chiến tranh.

2. Liên tục tiến công.

Với trình độ tác chiến, tổ chức của bộ đội ta lúc bấy giờ, để tiêu diệt được tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm, ta không có cách nào khác là phải tiến công liên tục.
Nhưng cuộc chiến đấu liên tục, dài ngày đề ra những yêu cầu rất cao, đòi hỏi một sự nỗ lực chủ
quan rất lớn trên các mặt tư tưởng và tổ chức. Nỗ lực càng cao thì thắng lợi càng lớn, khó khăn,
tổn thất càng giảm. Ở Điện Biên Phủ chúng ta đã giải quyết vấn đề này như thế nào?

Trên cơ sở phát huy tinh thần tiến công liên tục, tinh thần tích cực tiêu diệt địch, tiêu
diệt lớn, tiêu diệt gọn, chúng ta đã luôn tạo thế lợi để tiến công liên tục. Một mặt chúng ta đã hết
sức coi trọng việc chọn thế bố trí, chọn hướng tiến công, chọn mục tiêu đánh chiếm. Về thế bố trí
chiến dịch thì ngay từ đầu quân ta đã đột phá mở cửa tiêu diệt vị trí Him Lam và đồi Độc Lập rồi
bao vây ôm chặt lấy Điện Biên Phủ bằng hình thức tổ chức công sự trận địa bao vây đánh lấn về
chiến dịch, cả về chiến thuật từ trên cao, từ các mặt. Thế bố trí này đã cho phép ta triển khai binh
lực lớn, hỏa lực mạnh, cơ động binh lực, hỏa lực dễ dàng và có thể bí mật nhanh chóng đến gần
địch, thọc sâu chia cắt vào toàn bộ chiều sâu phòng ngự của chúng. Về chọn hướng tiến công và
mục tiêu đánh chiếm, ta đều nhằm hai mục đích chính: tiêu diệt lực lượng địch trước mắt, tạo bàn
đạp để tiếp tục tiến công. Ví dụ, sau khi ta tiêu diệt phân khu Bắc thì cửa ngõ của tập đoàn cứ
điểm bị mở tung, các cứ điểm ở bên trong dần dần bị tiêu diệt, dù địch có điên cuồng phản kích,
tích cực tăng viện cũng không tài nào ngăn chặn nổi sức tiến công như vũ bão của quân ta vào
trong lòng tập đoàn cứ điểm, hay khi ta đã chiếm được dãy đồi phía đông Mường Thanh thì rõ
ràng thế trận của ta là thế đứng trên đầu thù; kẻ địch bị chẹn cổ họng, bị khóa chân tay, còn ta thì
tự do muốn đánh đâu thì đánh. Mặt khác chúng ta đã kiên quyết giành quyền làm chủ trận địa,
làm chủ chiến trường. Trong thế phòng ngự bị động, biện pháp tích cực nhất của địch là dùng bộ
binh có pháo binh và xe tăng yểm hộ phản kích để giành lại những vị trí đã mất. Phải đập tan
được mọi cuộc phản kích làm chủ trận địa thì mới có thể giữ vững thắng lợi của trận đánh, tạo
bàn đạp để tiếp tục tiến công thuận lợi. Yêu cầu đó phải biến thành quyết tâm của mọi cán bộ,
chiến sĩ. Vừa chiếm được cứ điểm phải lập tức chuẩn bị đánh địch phản kích ngay. Khi trận địa bị
mất tất cả đều chỉ có một ý chí, một hành động: kiên quyết giành lại cho bằng được dù phải chiến
đấu quyết liệt giành đi giật lại nhiều lần, sau đó lại tiếp tục phát triển tiến công theo nhiệm vụ đã
định. Ở Điện Biên Phủ, chúng ta không những giành quyền làm chủ chiến trường khi địch bị tiêu
diệt mà ở cả những khu vực còn địch, ta vẫn táo bạo thọc sâu, chia cắt địch, giành quyền làm chủ
trận địa từng phần như trường hợp giành quyền làm chủ sân bay Mường Thanh. Không những ta
làm chủ ở mặt đất mà ta còn làm cho địch mất quyền làm chủ trên không nữa. Ta không có máy
bay và chỉ có một lực lượng pháo cao xạ nhất định, nhưng với tinh thần kiên quyết chủ động, với
cách đánh sáng tạo, độc đáo, chúng ta đã từng bước thu hẹp vùng trời của địch, tiến tới khống chế
bầu trời Điện Biên Phủ, cắt đứt dần nguồn hy vọng, nguồn sống của địch. Có thể nói ta làm chủ
chiến trường cả chiến thuật và chiến dịch nữa. Sự thành công trong việc tạo thế liên tục tiến công
là ở chỗ khéo kết hợp giữa tiêu diệt từng mục tiêu với tiếp tục phát triển đánh chiếm mục tiêu
khác, giữa đợt này với đợt khác, giữa đánh chiếm và trụ lại, giữa mặt đất và trên không, v.v...

Chúng ta cũng hết sức coi trọng việc tạo ra thế mạnh và lực mạnh để liên tục tiến
công. Trước hết chúng ta đã đề cao ý thức tiết kiệm trong sử dụng lực lượng trên tinh thần lấy
chất lượng làm chính. Thực tế ở Điện Biên Phủ ta có hơn địch về số lượng nhưng ta hình thành
được thế mạnh hơn địch còn là do chất lượng chiến đấu, nhất là tinh thần chiến đấu của bộ đội ta
rất cao và do thế trận của ta lợi, do cách đánh của ta hay, do sự chỉ đạo, chỉ huy của ta tài giỏi hơn
nữa. Ở Điện Biên Phủ khi cần tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực thì ta kiên quyết tập trung.
Nhưng không phải lúc nào, ở đâu ta cũng tập trung hơn địch mà còn có nhiều trận đánh, nhất là
trong giai đoạn đánh vào bên trong, ta đã sử dụng một lực lượng tương đương, có khi ít hơn địch
nhưng ta vẫn hình thành được thế mạnh và đã thu thắng lợi. Chỗ nào không cần hay không thật
cần thì ngay đến một quả đạn pháo cũng sử dụng có cân nhắc. Đó là cách sử dụng lực lượng tiết
kiệm nhất, nhưng có hiệu quả nhất. Nếu đông người, nhiều súng mà sử dụng không khéo léo
không linh hoạt như dàn đều, phân tán hoặc bộc lộ cả thì kết quả cũng rất hạn chế mà có khi còn
bị tổn thất. Sử dụng lực lượng khéo léo thì ta luôn luôn còn lực lượng dự trữ, sẵn sàng khuếch
trương thắng lợi, liên tục tiến công. Kinh nghiệm còn cho thấy là người chỉ huy ở cấp chiến thuật
hay chiến dịch đều phải luôn luôn có một đội dự bị mạnh trong tay sẵn sàng tung ra khi thời cơ có
lợi hoặc đối phó với mọi tình huống bất trắc thì mới có thể giữ vững quyền chủ động tiến công,
liên tục tiến công.

Vấn đề nhanh chóng khôi phục sức chiến đấu bảo đảm luôn luôn có những lực lượng
mới đủ sức tiếp tục phát triển cuộc tiến công với quy mô lớn cũng hết sức quan trọng. Đó là một
công việc hết sức nặng nề, phức tạp. Kinh nghiệm cho thấy: làm tốt hay không trước hết là do ý
chí chiến đấu, tinh thần kiên quyết tiến công, liên tục tiến công của cán bộ cao hay thấp, do trách
nhiệm chính trị của cán bộ có đầy đủ không, do trình độ tổ chức kế hoạch của người chỉ huy có
toàn diện, chặt chẽ không, do tác phong chỉ huy có sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể không.

Tạo được thế trận có lợi, tạo được lực mạnh ta còn phải nỗ lực tăng nhịp độ tiến công
tức là hết sức tranh thủ thời gian tăng hiệu suất chiến đấu để nâng cao hiệu lực toàn diện của liên
tục tiến công. Thực hiện yêu cầu nói trên chúng ta đã hết sức coi trọng hai khâu: chuẩn bị khẩn
trương, chu đáo và đánh nhanh diệt gọn. Chúng ta đã phải tranh thủ từng giờ, từng phút để chuẩn
bị chiến đấu. Đây cũng là một cuộc đọ sức, một cuộc chạy đua giữa ta và địch, giữa ta và thiên
nhiên và chúng ta đã thắng. Trong những điều kiện hết sức khẩn trương, chúng ta đã nỗ lực chuẩn
bị chu đáo, nhanh chóng rút kinh nghiệm, tranh thủ rèn luyện bộ đội bảo đảm đánh tốt, đánh
nhanh, diệt gọn. Đợt 3 của chiến dịch diễn ra liên tục, kết thúc tốt đẹp vì ta đã làm tốt những việc
nói trên.

Tóm lại bài học kinh nghiệm về liên tục tiến công trong chiến dịch Điện Biên Phủ là:
muốn thực hiện liên tục tiến công thắng lợi trước hết phải giữ vũng tinh thần tiến công tích cục,
bền bỉ, không thỏa mãn, không mệt mỏi, đồng thời phải biết tạo thế lợi, tạo lực mạnh để liên tục
tiến công, phải tăng nhịp độ tiến công phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu với điều kiện địch, ta và
địa hình.

3. Tác chiến hiệp đồng binh chủng theo cách đánh của ta.

Để tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm có một khối binh lực cơ động lớn và tinh nhuệ, có
một hệ thống hỏa lực mạnh, có xe tăng và máy bay yểm hộ, có công sự vững chắc và chướng ngại
vật dày đặc như tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, yêu cầu tất yếu đặt ra đối với quân đội ta về
mặt chiến thuật là phải tiến lên áp dụng phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng với quy mô
lớn. Điện Biên Phủ là trận tác chiến hiệp đồng binh chủng với quy mô lớn nhất của quân đội ta
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong chiến dịch lịch sử này, sự hiệp đồng chiến đấu giữa
các binh chủng mà chủ yếu là giữa bộ binh và pháo binh đã diễn ra nhịp nhàng, chặt chẽ về mặt
chiến dịch cũng như chiến đấu theo nhiều quy mô và hình thức chiến đấu phong phú, nhờ đó đã
tạo cho quân đội ta có một sức mạnh mới áp đảo địch, đủ sức đập tan mọi sự đề kháng ngoan cố
và quyết liệt của chúng, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Những nét nổi bật của
tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta ở Điện Biên Phủ là:

a) Đoàn kết, tích cục, chủ động hiệp đồng giũa các binh chủng. Đó là một trong những
biểu hiện nổi bật nhất của tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta ở Điện Biên Phủ.

Phát huy đến cao độ truyền thống đoàn kết chiến đấu của quân đội ta và trên cơ sở
quán triệt quan điểm lấy bộ binh làm chủ, các binh chủng tham gia chiến đấu đều đã phát huy cao
độ nỗ lực chủ quan, dốc hết sức mình, tích cực vươn lên hoàn thành tốt nhất phần nhiệm vụ rất
nặng nề của binh chủng mình, đồng thời hết lòng, hết sức chủ động giúp đỡ, tạo điều kiện cho
binh chủng bạn hoàn thành nhiệm vụ.

Tiêu biểu cho tinh thần này là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và pháo binh.

Nêu cao tinh thần phục vụ bộ binh không điều kiện, trong quá trình chiến dịch, pháo
binh đã phát huy cao độ tinh thần anh dũng và mưu trí, ra sức khắc phục mọi khó khăn, nâng cao
trình độ vận dụng kỹ thuật, chiến thuật, sáng tạo ra cách đánh của pháo binh ta, nhằm đáp ứng
đến mức cao nhất mọi yêu cầu chiến thuật của bộ binh, nhờ đó đã yểm hộ đắc lực cho bộ binh
giành thắng lợi trong mọi hình thức chiến đấu như diệt cứ điểm, phòng ngự giữ vững trận địa,
đánh quân địch phản kích, v.v...

Ngược lại, bộ binh, công binh cũng hết lòng giúp đỡ pháo binh. Bộ binh và công binh
đã góp phần công sức rất lớn trong việc giúp pháo binh xây dựng một hệ thống trận địa pháo
vững chắc, làm đường cơ động, kéo pháo, vận chuyển đạn, v.v... Trong chiến đấu, bộ binh đã luôn
chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho pháo binh hoàn thành nhiệm vụ như làm cho pháo binh nắm
vững ý định chiến thuật của bộ binh, tích cực giúp đỡ pháo binh về mặt thông tin và trinh sát, di
chuyển trận địa. Bộ binh còn bất chấp nguy hiểm, xông vào lửa đạn, cướp đạn pháo của địch để
bổ sung đạn cho pháo binh.

Bộ đội pháo cao xạ, mặc dù lần đầu tiên ra quân, lực lượng có hạn, trước nhiệm vụ rất
nặng nề là chiến đấu với không quân địch bảo vệ bầu trời chiến dịch, yểm hộ cho bộ binh và pháo
binh chiến đấu, triệt tiếp tế và tiếp viện của địch, cũng đã nêu cao tinh thần dũng cảm chiến đấu,
kiên trì đánh địch, anh dũng khắc phục rất nhiều khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong
chiến dịch.

Tinh thần đoàn kết, tích cực chủ động hiệp đồng giữa các binh chủng còn biểu hiện rất
nổi bật ở chỗ, trong những giờ phút chiến đấu gay go, ác liệt nhất, các binh chủng đều nêu cao
tinh thần chiến đấu kiên cường, kiên quyết bảo vệ nhau, lấy tiếng súng làm mệnh lệnh hiệp đồng,
làm xong nhiệm vụ mà thấy bạn còn chiến đấu là xông vào phối hợp, thấy binh chủng gặp khó
khăn là tìm mọi cách giúp đỡ, luôn luôn lấy việc tiêu diệt địch làm lợi ích cao nhất, làm quan hệ
cao nhất trong tác chiến hiệp đồng.

Tinh thần đoàn kết, tích cực, chủ động trên đây là yếu tố hàng đầu trực tiếp quyết định
sức mạnh tác chiến hiệp đồng của quân đội ta ở Điện Biên Phủ. Tinh thần đó là nguồn sức mạnh
to lớn đã giúp các binh chủng khắc phục vô vàn khó khăn, thúc đẩy các binh chủng trưởng thành
vượt bậc, kết chặt các binh chủng lại với nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của bộ đội ta
trên chiến trường. Tinh thần đó bắt nguồn từ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
từ sự nhất trí về phương châm tác chiến và thống nhất tư tưởng chiến thuật đến quan điểm tác
chiến hiệp đồng của quân đội ta. Nó kế tục, phát triển đến cao độ truyền thống đoàn kết chiến đấu
vốn có của quân đội ta.

b) Phát huy cao độ yếu tố bí mật, bất ngờ.

Mặc dù lực lượng ta tập trung rất lớn nhưng địch có mắt như mù, phán đoán sai lạc,
đối phó lúng túng, liên tiếp bị hết bất ngờ này đến bất ngờ khác trong suốt quá trình chiến dịch và
trong từng trận chiến đấu, cái mạnh của chúng không phát huy được, cái yếu của chúng bị khoét
sâu, nên chúng hết sức bị động. Còn ta thì giữ được bí mật về lực lượng, về ý định, về hướng
đánh, thời gian đánh, cách đánh, bảo vệ được lực lượng luôn giữ quyền chủ động phát huy được
cao độ những cái mạnh của ta để diệt địch.

Ta đã hoàn toàn giữ được bí mật về lực lượng và thời cơ nổ súng. Sự xuất hiện của lựu
pháo và pháo cao xạ của ta là một sự bất ngờ hoàn toàn đối với địch. Ngay khi ta đã diệt cứ điểm
Him Lam và Độc Lập rồi, địch vẫn phán đoán rằng, ta chỉ đánh đến đây là rút. Trong từng trận
chiến đấu ta cũng đã làm cho địch luôn luôn bị bất ngờ về thời cơ nổ súng, sử dụng lực lượng,
vận dụng cách đánh, v.v...

Có được kết quả đó là nhờ bộ đội ta đã khéo léo giải quyết một loạt vấn đề như:

Ta đã rất khéo léo trong việc bố trí đội hình chiến dịch, chiến đấu phân tán và tập trung
rất linh hoạt.

Ta đã thực hiện nghi binh rất tài về chiến dịch cũng như chiến đấu theo một kế hoạch
chặt chẽ nên đã dồn quân địch đi hết từ sai lầm này đến sai lầm khác: nơi ta có, địch tưởng là
không, nơi giả của ta, địch cho là thật, nơi ta có ít, địch tưởng nhiều, lúc ta chưa đánh, địch tưởng
là đánh, v.v...
Ta đã luôn luôn sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng cách đánh. Pháo binh ta luôn luôn
thay đổi quy luật bắn, thời gian bắn, cách bắn, khu vực tập trung hỏa lực và số lượng đạn bắn,
v.v...

Bộ binh ta cũng luôn luôn sáng tạo, linh hoạt trong vận dụng các thủ đoạn chiến đấu
và hình thức chiến đấu. Ta đã khéo ngụy trang và giữ bí mật hành động trên mọi mặt: đi lại, khói
lửa, dùng điện đài, v.v... che mắt được mọi hoạt động trinh sát của dưới đất cũng như trên không
của địch.

Ta đã xây dựng được một hệ thống trận địa tiến công hết sức lợi hại có tác dụng hết
sức to lớn đối với mọi hoạt động chiến đấu của quân đội ta trên chiến trường, nhất là che kín
được hành động của bộ đội ta đối với quân địch.

Những kinh nghiệm thực tế nói trên của chiến dịch Điện Biên Phủ chỉ rõ trong tác
chiến hiệp đồng binh chủng với quy mô lớn, bộ đội ta vẫn cần phát huy triệt để yếu tố bí mật bất
ngờ và chúng ta hoàn toàn có khả năng làm được việc đó.

c) Vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức tác chiến hiệp đồng.

Trên cơ sở quán triệt tư tưởng, cách đánh của ta và xuất phát từ tình hình cụ thể về
địch, về ta, về địa hình, bộ đội ta đã vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo các hình thức tác chiến hiệp
đồng trong tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm. Có thể nêu mấy hình thức tác chiến hiệp đồng, điểm
nổi bật ở Điện Biên Phủ như hiệp đồng trong tiến công bao vây, cô lập, chia cắt quân địch về
chiến dịch cũng như chiến đấu; hiệp đồng trong tiến công tiêu diệt các cứ điểm; hiệp đồng trong
phòng ngự giữ vững trận địa, đập tan các cánh quân phản kích của địch; hiệp đồng trong các hình
thức hoạt động nhỏ như đánh tỉa, đánh lấn, đoạt tiếp tế của địch, v.v...

Cái mạnh của tập đoàn cứ điểm là sự liên kết chiến đấu chặt chẽ giữa các cứ điểm,
giữa các binh chủng trong tập đoàn cứ điểm và liên hệ chặt chẽ của tập đoàn cứ điểm với bên
ngoài. Tiến hành bao vây: chia cắt cô lập về chiến dịch cũng như chiến thuật là nhằm hạn chế đi
đến tước bỏ cái mạnh đó của địch, thực hiện cắt đứt sự liên hệ của nó với bên ngoài, triệt nguồn
tiếp tế và tiếp viện của chúng, phá vỡ sự liên hệ hiệp đồng giữa các khu vực cứ điểm, giữa các cứ
điểm trong tập đoàn cứ điểm, tạo nên thế uy hiếp thường xuyên và mạnh mẽ đối với địch, hãm
quân địch vào thế bị động, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiêu diệt từng bộ phận đi đến tiêu diệt
toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Để đạt mục đích trên tất nhiên yêu cầu phải phát huy sức mạnh tác
chiến hiệp đồng của các binh chủng. Tác chiến hiệp đồng của bộ đội ta ở đây đã diễn ra khá linh
hoạt như bộ binh, pháo binh, cao xạ cùng hiệp đồng chiến đấu trong chặn quân viện đường
không, tước đoạt tiếp tế của địch, như bộ binh hiệp đồng với pháo binh trong đánh lớn, bao vây
từng cứ điểm... lại có khi bộ binh, pháo binh, pháo cao xạ chiến đấu độc lập theo kế hoạch hiệp
đồng chiến dịch, phá vỡ sự hiệp đồng giữa các binh chủng của địch, v.v...

Các cứ điểm là chỗ dựa, là từng đơn vị chủ yếu của tập đoàn cứ điểm. Muốn tiêu diệt
toàn bộ tập đoàn cứ điểm thì không thể không liên tục tiến công tiêu diệt các cứ điểm. Tác chiến
hiệp đồng ở đây chủ yếu diễn ra dưới hình thức bộ binh và pháo binh hiệp đồng chặt chẽ, hình
thành thế mạnh tiêu diệt từng cứ điểm của địch ở các hướng. Để triệt để, đã đánh là phải tiêu diệt
địch, phải chiếm cho được cứ điểm của địch, không đánh lướt, không rút lui bỏ dở. Tuy nhiên
hình thức hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh cũng diễn ra linh hoạt, theo nhiều cách không
cứng nhắc theo một kiểu cách nào.

Liên tục tiến công, liên tục tiêu diệt các cứ điểm là yêu cầu tất yếu trong hành động
tiến công của bộ đội ta để tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Nhưng muốn luôn luôn tạo được thế
lợi cho tiến công liên tục thì cần giữ vững những khu vực đã chiếm, đập tan mọi cuộc phản kích
của địch. Hình thức hiệp đồng tác chiến ở đây cũng linh hoạt. Có trận dùng lực lượng bộ binh là
chính có pháo binh yểm hộ; có trận dùng hỏa lực pháo binh là chính có kết hợp một bộ phận nhỏ
bộ binh; có khi để địch đến trước trận địa phòng ngự của ta, pháo binh mới bắn, có lúc pháo binh
dùng hỏa lực đánh phủ đầu khi chúng mới tập trung ở cứ điểm để xuất phát, hoặc khi chúng mới
ra khỏi cứ điểm...; có khi được sự yểm hộ của pháo binh vận động tiêu diệt quân địch ngay từ
ngoài trận địa phòng ngự và cũng có trường hợp bộ binh hoặc pháo binh độc lập đánh tan quân
phản kích, v.v...

Các hoạt động quy mô nhỏ giữ một vị trí quan trọng trong các hình thức chiến đấu ở
Điện Biên Phủ. Nó duy trì hình thức tiến công liên tục trên chiến trường, liên tục tiêu hao, tiêu
diệt, uy hiếp quân địch, hãm quân địch vào tình trạng thường xuyên căng thẳng về tinh thần, sáng
tạo ra điều kiện cho các trận đánh lớn. Ở đây không phải chỉ có hành động độc lập của các phân
đội nhỏ của các binh chủng mà còn có sự hiệp đồng tác chiến giữa các binh chủng với quy mô
nhỏ.

Tóm lại, các hình thức tác chiến hiệp đồng của bộ đội ta đã diễn ra rất linh hoạt theo
nhiều quy mô, hình thức và thủ đoạn khiến địch rất lúng túng trong đối phó với cách đánh hiệp
đồng của ta.

4. Tác phong sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể.

Tác phong chỉ huy là sự thể hiện nhuần nhuyễn về lập trường chiến đấu, tư tưởng,
đường lối quân sự và phương pháp công tác của Đảng trong công tác chỉ huy chiến đấu của người
cán bộ. Nội dung tác phong chỉ huy gồm nhiều vấn đề, trong đó sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể là một yêu
cầu hết sức quan trọng. Chiến dịch Điện Biên Phủ cho chúng ta nhiều bài học mẫu mực về tác
phong sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể của cán bộ, đồng thời nói lên tác dụng hết sức to lớn của tác phong đó
đối với mọi hoạt động chiến đấu của bộ đội trong một cuộc chiến đấu ác liệt. Có thể nêu mấy biểu
hiện nổi bật cho tác phong đó trên những khâu công tác chủ yếu như sau:

a) Trong công tác chuẩn bị chiến trường, cán bộ các cấp luôn nghiêm chỉnh thực hiện
yêu cầu chân đi đến tận nơi, mắt thấy, nhằm bảo đảm đạt mức chính xác cao nhất đối với một tài
liệu thu thập. Trong quá trình chuẩn bị, tùy theo tính chất quan trọng của từng mục tiêu, từng
hướng, cán bộ cấp trên đều phân công xuống cùng anh em nghiên cứu. Khi điều tra nghiên cứu
còn vấn đề gì chưa thật rõ, thật chắc thì kiên quyết tìm mọi cách, xuống tận nơi xác định cho kỳ
rõ.

b) Đối với công tác tổ chức chiến đấu, cán bộ đã hết sức tranh thủ làm tại thực địa. Từ
việc xây dựng kế hoạch tác chiến bảo đảm chiến đấu, v.v... đều được tiến hành trên thực tế địa
hình một cách rất cụ thể. Có khó khăn thắc mắc gì thì giải quyết tại chỗ. Kinh nghiệm thực tế ở
Điện Biên Phủ chỉ rõ đó là cách tổ chức chiến đấu tỉ mỉ, cụ thể, chặt chẽ, nhanh chóng nhất.

c) Sau khi đã hạ quyết tâm, ra mệnh lệnh, cấp trên luôn có tác phong đi sâu xuống
dưới kiểm tra, đôn đốc “chân đi đến, mắt nhìn tới” và “miệng nói, tay làm” để tích cực giúp đỡ
cấp dưới, nhất là ở đại đội là cấp tổ chức chấp hành mọi nhiệm vụ. Chính tác phong này đã bảo
đảm cho mọi mệnh lệnh đều được thực hiện đến nơi đến chốn, cấp trên nắm vững tình hình chấp
hành của cấp dưới, kịp thời phát hiện, uốn nắn những lệch lạc và phát hiện những cái hay ở đơn
vị, trên dưới rất nhất trí, đồng lòng kiên quyết khắc phục mọi khó khăn để thực hiện kỳ được mọi
nhiệm vụ.

d) Ở những nơi và những lúc chiến đấu quyết liệt, cán bộ cấp trên luôn luôn có mặt,
nêu cao tinh thần gương mẫu phụ trách, dũng cảm chiến đấu. Các đơn vị chiến đấu ở Điện Biên
Phủ đều có tác phong chỉ huy rất tốt là luôn luôn đưa sở chỉ huy và vị trí chỉ huy lên phía trước ở
vị trí thích hợp, bảo đảm thường xuyên nắm vững tình hình và xử trí kịp thời. Tác phong đó đã
giúp người chỉ huy luôn luôn kịp thời nắm vững tình hình địch, tình hình ta, tình hình địa hình,
nhờ đó có quyết tâm xử trí kịp thời và đúng đắn, tìm ra được nhiều biện pháp có hiệu quả, khắc
phục được bệnh chủ quan khi nhận định và xử trí, nâng cao quyết tâm và hiệu lực chỉ huy của cán
bộ cấp dưới lên gấp bội, giảm được tổn thất của bộ đội tới mức thấp nhất. Thực tế chiến đấu ở
Điện Biên Phủ đã gạt bỏ tác phong chỉ huy quan liêu xa rời, cách bức, không sát thực tế tình hình,
chủ quan suy diễn.
Tác phong tỉ mỉ, cụ thể trước hết bắt nguồn từ ý chí chiến đấu của cán bộ. Thực tế ở
Điện Biên Phủ chỉ rõ rằng, chỉ có thường xuyên giữ vững tinh thần tiến công địch thật cao, tinh
thần chiến đấu dũng cảm, tinh thần chịu đựng gian khổ và khắc phục khó khăn và tinh thần trách
nhiệm chính trị rất cao trước quần chúng, thì mới có thể xây dựng được tác phong sâu sát, tỉ mỉ,
cụ thể, tìm hiểu tận gốc, giải quyết tại chỗ những vấn đề mà cán bộ cấp dưới và chiến sĩ đang
lúng túng và vấp phải.

III. ĐẢM BẢO VẬT CHẤT

Công tác hậu cần trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng đã tiến một bước dài, vượt hẳn
các chiến dịch trước, đó là bước phát triển cao nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Biểu
hiện tập trung nhất về sự trưởng thành của nó là đã bảo đảm cho bộ đội ta đánh tập trung lớn,
tiêu diệt lớn đánh liên tục, dài ngày.

Sở dĩ làm được như vậy, vì trước hết, công tác hậu cần đã quán triệt sâu sắc quyết tâm
của chiến dịch, xoáy vào yêu cầu đánh tập trung lớn, đánh tiêu diệt lớn để bảo đảm. So với các
chiến dịch trước thì trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã sử dụng binh lực, hỏa lực tới mức lớn
nhất, nhằm thực hiện quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Việc sử dụng binh
lực lớn đánh tập trung đòi hỏi công tác hậu cần phải bảo đảm được một khối lượng vật chất, kỹ
thuật rất lớn và phức tạp. Nhiều khó khăn mới xảy ra trong đó có những khó khăn lúc đầu tưởng
không vượt nổi. Lượng lương thực, đạn dược tiêu thụ tổng kết lại đã gấp nhiều lần dự tính ban
đầu. Đánh to, tất nhiên phải cứu chữa số lượng thương binh lớn. Tuyến vận tải dài hàng mấy trăm
ki-lô-mét đã bị địch tập trung hầu hết lực lượng không quân chiến đấu đánh phá, v.v...

Song, suốt chiến dịch, lương thực, đạn dược đã được bảo đảm đầy đủ; vũ khí hư hỏng
đã được sửa chữa tại chỗ kịp thời, thương binh đã được nhanh chóng cứu chữa, đời sống tinh
thần, vật chất của bộ đội được cải thiện rõ rệt, và càng về sau, cuộc chiến đấu càng phát triển rộng
lớn thì công tác bảo đảm vật chất, kỹ thuật, sức khỏe của bộ đội càng đi vào nền nếp vững chắc.

Kết quả to lớn trên đây xác nhận rằng công tác hậu cần trong chiến dịch Điện Biên
Phủ đã vươn lên làm những việc lớn chưa từng làm, đã khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi
thử thách, đạt được những thành tích rất vẻ vang góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến
dịch.

Quá trình bảo đảm vật chất trong chiến dịch này cũng là quá trình đấu tranh và chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, tư tưởng, tổ chức, tác phong trong công tác hậu cần. Công tác lãnh
đạo đã chú ý thường xuyên xây dựng, củng cố, nâng cao quyết tâm của cán bộ, bám sát yêu cầu
đánh tiêu diệt lớn mà sẵn sàng vì bộ đội, vì thắng lợi của chiến dịch mà ra sức phục vụ vô điều
kiện, kiên quyết hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ bảo đảm mọi yêu cầu do tác chiến đề ra.

Mặt khác, công tác hậu cần chiến dịch đã rất coi trọng khâu tổ chức thực hiện. Hàng
loạt vấn đề khó khăn lúc bấy giờ về vận chuyển, tiếp tế, cứu chữa thương binh, bố trí kho trạm...
đều đã được giải quyết khá chu đáo nhờ tổ chức thực hiện được chặt chẽ, khoa học từ trên xuống
dưới, từ hậu cần cấp chiến dịch đến hậu cần đơn vị cơ sở.

Thành công của công tác bảo đảm vật chất trong chiến dịch Điện Biên Phủ còn là sự
biểu dương sức mạnh của hậu phương, là thắng lợi của tinh thần cần kiệm, dựa vào sức mình là
chính của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta.

Bộ đội ta trên chiến trường rừng núi Điện Biên Phủ xa hậu phương hàng mấy trăm ki-
lô-mét được ăn uống no đủ, có vũ khí tốt, có mọi phương tiện cần thiết để chiến đấu thắng lợi
trong một trận đánh tiêu diệt lớn, dài ngày như vậy, trước hết là do được nhân dân dốc lòng chi
viện và công tác hậu cần đã biết dựa vào sức mạnh vô tận của hậu phương, đã tổ chức sử dụng rất
hợp lý mọi khả năng tiềm tàng về sức người, sức của để phục vụ vô điều kiện cho tiền tuyến.
Hàng vạn dân công đã tham gia vận tải đường bộ, đường sông; vận chuyển và săn sóc thương
binh; làm đường và sửa đường dưới sự uy hiếp của bom, đạn địch. Nhân dân đã góp hàng vạn tấn
gạo cho mặt trận. Đó là những con số nói lên rất hùng hồn sức mạnh của chế độ ta, của nhân dân
ta, và sự thành công của công tác hậu cần.

Mặc dầu nhu cầu về số lượng vật chất, kỹ thuật rất lớn nhưng suốt chiến dịch, bộ đội ta
vẫn có đủ để hoàn thành nhiệm vụ, còn vì một lẽ rất sâu xa là cán bộ, chiến sĩ ta đã đồng tâm, hợp
lực cùng tham gia tích cực vào công tác hậu cần, nêu cao tinh thần cần kiệm, dựa vào sức mình là
chính, nghiêm khắc với mọi hành động phung phí, ỷ lại. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của ta còn có
hạn, song bộ đội ta không bị thiếu thốn vì ta sử dụng có trách nhiệm, có tổ chức, có quan điểm
đúng đắn.

Trong chiến dịch, việc sử dụng lương thực, đạn dược đều được các cấp lãnh đạo, chỉ
đạo từ Bộ chỉ huy chiến dịch cho tới cán bộ cơ sở quan tâm thường xuyên, nắm vững tình hình,
nhận rõ những thuận lợi, khó khăn chung của công tác hậu cần và có biện pháp giải quyết thích
đáng. Các chế độ, quy tắc về hậu cần được mọi người chấp hành tự giác, tích cực. Hiện tượng
lãng phí lớn, nhỏ đều được phê phán sâu sắc, ngăn chặn kịp thời.

Phong trào tự túc lương thực, cải thiện ăn uống cũng được các đơn vị hưởng ứng. Có
đơn vị đã lấy được hàng mấy chục tấn củ mài, rau rừng, đánh được trên chục tấn cá, có đơn vị đã
tự mình làm cối xay thóc, giã gạo.
Việc đoạt dù tiếp tế của địch, lấy của địch trang bị cho ta đã trở thành việc làm hàng
ngày ở các trận địa, làm có quy định, có chỉ tiêu hẳn hoi. Chính sách chiến lợi phẩm được thực
hiện nghiêm chỉnh.

Nhìn lại thắng lợi Điện Biên Phủ, thì hỏi rằng, kẻ địch tránh sao khỏi bị bất ngờ, vì
không máy tính nào tính nổi tinh thần đồng cam, cộng khổ, tinh thần cần kiệm, tự lực cánh sinh
của cán bộ, chiến sĩ ta, một nguồn sức mạnh to lớn đã góp phần tạo nên thắng lợi của công tác
bảo đảm vật chất trong chiến dịch lịch sử này.

Chiến dịch Điện Biên Phủ chứng tỏ rằng cuộc chiến tranh cách mạng của ta trong quá
trình phát triển của nó có những bước nhảy vọt. Bước phát triển nhảy vọt đó đặt ra những yêu cầu
rất cao về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang ta. Có kịp thời đáp ứng những yêu cầu to lớn do
tình hình mới đề ra, chúng ta mới tạo nên những bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh có
lợi cho ta, mới nhanh chóng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

Thắng lợi vĩ đại ở Điện Biên Phủ còn khẳng định rằng chúng ta có đầy đủ điều kiện về
chính trị, tinh thần, về lực lượng vật chất để đáp ứng những yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ
mới. Đó là đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của Đảng ta, là quyết tâm sắt đá, sự
hy sinh to lớn của toàn dân ta với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, là sức
mạnh vô địch của quân đội ta, một quân đội cách mạng được Đảng và Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo,
giáo dục, một quân đội được thử thách, tôi luyện nhiều năm trong lò lửa đấu tranh cách mạng.

Chỉ cần mỗi người chúng ta, trước hết là cán bộ kiên định lập trường chiến đấu, nhận
thức đầy đủ tình hình và nhiệm vụ, phát huy nỗ lực chủ quan, không ngừng nâng cao bản lĩnh chỉ
huy, trước hết là rèn luyện một quyết tâm sắt đá, một tinh thần trách nhiệm thật cao đối với sự
nghiệp cách mạng nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta trên tất cả
các mặt từ chính trị, tư tưởng, đến năng lực tác chiến, bản lĩnh chỉ huy, khả năng tổ chức và khả
năng bảo đảm vật chất, kỹ thuật, tạo nên một bước phát triển nhảy vọt về chất lượng chiến đấu thì
nhất định nhiệm vụ nào quân đội ta cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng, càng đánh càng mạnh, càng đánh mạnh càng thắng to, thẳng tiến đến thắng lợi
cuối cùng.

BÀU BÀNG, MỘT BÀI HỌC VỀ QUYẾT TÂM ĐÁNH MỸ(34)

Cách đây 4 tháng tại Bàu Bàng, Quân giải phóng miền Nam đã tiến công tiêu diệt hoàn
toàn tiểu đoàn 2, trung đoàn 7 và một chi đoàn “thiết xa vận” của bọn ngụy quân. Đến nay, ngày
12-11-1965 cũng tại khu vực Bàu Bàng, quân và dân miền Nam, trên 3 giờ đã tiêu diệt 2 tiểu
đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe M.113 và 1 đại đội pháo binh 105 mi-li-mét thuộc sư đoàn bộ binh số
1 của giặc Mỹ.

Đây là một chiến công lớn không những chỉ ở số lượng quân Mỹ bị tiêu diệt nhiều mà
còn ở chỗ đã đập tan những luận điệu của chúng nói rằng Quân giải phóng không dám chạm trán
với quân Mỹ, không dám đánh lớn, “đã phân tán thành những đội du kích lẻ tẻ”. Chúng tự nặn ra
những chiến thắng tưởng tượng về cái gọi là “chiến dịch mùa mưa của Việt cộng” đã kết thúc,
đến mùa khô “quân Mỹ đang giành lại quyền chủ động ở chiến trường”, rằng “tình hình đã được
cải thiện”, v.v...

Trong mấy tháng qua, ở miền Nam không những chiến tranh du kích đang phát triển
rộng khắp mà các lực lượng vũ trang còn tập trung liên tiếp giáng cho chúng nhiều đòn quyết liệt.
Từ Vạn Tường, Thuận Ninh, Đà Nẵng, Chu Lai đến La Châu, An Trạch, Plây Me, Bắc Biên Hòa
và đến nay Bàu Bàng (Bắc Bến Cát), một trận đánh tiêu diệt lớn giặc Mỹ trên chiến trường miền
Nam.

Từ trước, đế quốc Mỹ hết đề cao lính thủy đánh bộ, đến lính dù, đến sư đoàn kỵ binh
đường không, đến sư đoàn bộ binh thiện chiến. Sự thật là sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 của Mỹ
bị tan xác ở Vạn Tường, Điện Tiến, La Châu, v.v…; sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ đã thất
vọng và kinh hoàng sau trận Phù Cát và Plây Me; lữ đoàn dù số 101 và 173 của Mỹ đã bị ăn đòn
và khiếp đảm sau trận Thuận Ninh và Bắc Biên Hòa. Đến nay sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ chắc
hẳn khoe khoang là “sư đoàn đỏ, tinh nhuệ, thiện chiến nhất, có nhiều thành tích xuất sắc trong
chiến tranh thế giới thứ hai và trong chiến tranh Triều Tiên”. Những sự thật đó đã chứng tỏ rằng,
bất cứ một loại vũ khí phương tiện hiện đại nào, bất cứ một quân đội “tinh nhuệ” nào của giặc Mỹ
xâm lược đều bị quân và dân ta đánh cho thất điên bát đảo.

Chiến thắng Bàu Bàng còn là một trận tiến công lớn vào tinh thần giặc Mỹ và bọn tay
sai. Sau các trận Nam Bến Cát, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Biên Hòa, v.v... lính Mỹ mất tinh
thần đến nỗi có tên phải tự thương, tự sát, cáo ốm, v.v... thì nhất định sau trận Bàu Bàng này tinh
thần lính Mỹ còn sa sút hơn nhiều.

Các đơn vị lính Mỹ quân số đầy đủ hơn các đơn vị ngụy quân, trang bị vũ khí hiện đại
nhiều gấp hai, ba lần lính ngụy còn bị các lực lượng vũ trang giải phóng của ta đánh cho tơi bời
như thế, thì chắc chắn rằng bọn ngụy quân đã khiếp sợ lại càng khiếp sợ, đã tan rã thì còn tan rã.
Ngay bọn Mỹ cũng phải thú nhận: năm 1964 có chừng 75.000 lính ngụy đào ngũ, và đến tháng 9
năm 1965 đã có tới 87.000 lính đào ngũ.
Lính Mỹ mất tinh thần, lính ngụy tan rã thì bọn ngụy quyền càng lục đục đổ tội cho
nhau, cấu xé nhau, đấu đá nhau rồi lại hất cẳng nhau. Bọn xâm lược Mỹ ngày càng mất tin tưởng
đối với bọn tay sai. Lính mất tinh thần thì tướng tá chán nản. Tay sai lục đục thì chủ Mỹ hoang
mang xô đẩy nhau xuống vực thẳm, đó là những kết quả tất nhiên mà chúng không thể nào thoát
khỏi.

Chiến thắng Bàu Bàng là thể hiện quyết tâm cao của tinh thần “tìm Mỹ mà đánh, gặp
Mỹ là diệt”, nó đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc của Quân giải phóng miền Nam. Hai năm
sau, kể từ trận Ấp Bắc phá tan chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của giặc Mỹ, Quân
giải phóng đã tiến lên liên tiếp đánh tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn quân ngụy tại Bình Giã, nhưng
từ tháng 8-1965 đến nay chưa đầy 3 tháng, các lực lượng vũ trang giải phóng của ta đã liên tiếp
đánh vào đầu giặc Mỹ những đòn nảy lửa, tiến tới trên 3 giờ đồng hồ tiêu diệt 2 tiểu đoàn bộ binh
cùng với 2 chi đoàn xe thiết giáp có pháo binh và máy bay chiến đấu yểm hộ ở trận Bàu Bàng vừa
qua. Như vậy là các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã tiến bộ rất nhanh chóng về mọi
mặt.

Chiến thắng Bàu Bàng đã phối hợp tuyệt đẹp với chiến thắng Đà Nẵng, Chu Lai, Plây
Me, v.v... và chiến thắng của quân và dân miền Bắc hạ gần 800 máy bay giặc Mỹ xâm lược cùng
với phong trào nhân dân Mỹ chống chính sách xâm lược của bọn Giôn-xơn đang lan rộng ngay
trên đất Mỹ. Cùng với các chiến thắng khác, chiến thắng Bàu Bàng làm nức lòng quân và dân cả
nước ta, và vang dội tới tận nước Mỹ, báo cho bọn trùm xâm lược ở Lầu năm góc và Nhà trắng
biết rằng ảo tưởng tăng thêm quân, mở rộng chiến tranh xâm lược cũng không thể nào cứu vãn
nổi nguy cơ thất bại hoàn toàn của chúng.

Chiến thắng Bàu Bàng đã cho chúng ta nhiều bài học bổ ích, thiết thực trong huấn
luyện và chiến đấu:

Đánh quân địch cơ động phải hết sức kiên trì bám sát địch, không rời địch một phút,
theo dõi địch suốt ngày đêm. Dựa vào nhân dân, tổ chức chu đáo, Quân giải phóng đã bám sát
địch và còn nắm chắc chỗ yếu của chúng trong cuộc hành quân, trú quân này, nên đã điểm đúng
huyệt của chúng.

Ban ngày quân địch vừa hành quân tới, ban đêm quân ta đã tiến tới khép chặt vòng vây
và 5 giờ 3 phút sáng ngày 12-11-1965 bắt đầu nổ súng. Với một thời gian rất ngắn, Quân giải
phóng đã tổ chức, chuẩn bị và đánh thắng một đối tượng đã từng huênh hoang là thiện chiến,
được trang bị hiện đại, có nhiều xe tăng và pháo binh yểm hộ. Như vậy, đối với cán bộ chỉ huy
cần đòi hỏi phải nhạy bén và sâu sắc về lãnh đạo tư tưởng và phải nhanh chóng nhưng rất tỉ mỉ,
chu đáo về tổ chức. Đặc biệt đối với tất cả các cán bộ và chiến sĩ tham gia trận đánh này đã tỏ ra
có trình độ chính trị tư tưởng rất cao và trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tác phong chỉ huy và tác
phong chiến đấu rất tốt nên đã đánh thắng giòn giã.

Tinh thần quyết tâm “tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt” của các đơn vị tham gia trận
Bàu Bàng rất cao, táo bạo, có gan đánh, có gan giành thắng lợi trong một tình huống hết sức gấp
rút. Đi đôi với quyết tâm rất cao ấy, Quân giải phóng đã tổ chức chiến đấu nhanh giỏi, tác phong
chiến đấu của bộ đội vô cùng anh dũng quả cảm.

Qua trận Bàu Bàng chúng ta thấy rõ, mặc dầu giặc Mỹ có đầy đủ phương tiện trinh sát
hiện đại, có mạng lưới gián điệp dày đặc, có bọn ngụy quân đi trước và ở xung quanh làm bia đỡ
đạn cho chúng, Quân giải phóng miền Nam, đã dựa vào nhân dân, nắm chắc tư tưởng chiến lược,
chiến thuật của chiến tranh nhân dân, nắm chắc chỗ yếu của địch, nên vẫn giữ được bí mật, bất
ngờ đánh cho giặc Mỹ trở tay không kịp. Mặc dầu giặc Mỹ có thừa súng, thừa đạn, nhưng bị đánh
bất ngờ thì không thể nào chống cự nổi. Bí mật bất ngờ của giặc Mỹ là dựa vào cơ sở vật chất,
phương tiện hiện đại, vì vậy nhất định sẽ bị tai mắt của chiến tranh nhân dân phát giác. Bí mật,
bất ngờ của lực lượng vũ trang ta là dựa vào toàn dân, dựa vào tư tưởng chiến lược, chiến thuật
của chiến tranh nhân dân, dựa vào tinh thần chiến đấu anh dũng quả cảm, mưu trí và linh hoạt của
con người giác ngộ cách mạng, vì vậy kẻ địch nhất định sẽ luôn luôn bị đánh những đòn bất ngờ.

Trong trận này Quân giải phóng miền Nam có quyết tâm rất cao, đánh đêm giỏi, đánh
ngày cũng giỏi, dũng cảm tiến công địch giữa lúc chúng “đang còn ngái ngủ”. Qua một đêm yên
ổn, giặc Mỹ chủ quan tưởng là yên thân. Mờ sáng, giặc Mỹ đã bị hỏa lực của Quân giải phóng
đánh giập đầu xuống và trong phút chốc Quân giải phóng đã lao lên đánh giáp lá cà. Giặc Mỹ vô
cùng kinh hoàng, đội hình đã tan tác thì tinh thần chiến đấu càng suy sụp hơn.

Trong trận này, Quân giải phóng miền Nam đã phát huy cao độ yếu tố tinh thần xông
lên vật lộn với giặc. Với khẩu hiệu “bám thắt lưng địch mà đánh” Quân giải phóng đã khoét sâu
nhược điểm tinh thần bạc nhược của “lính công tử bột” Mỹ sợ đánh giáp lá cà. Bí mật tiến sát
địch, bất ngờ lao lên đánh gần đã hạn chế rất lớn khả năng yểm hộ của máy bay và pháo binh
địch. Giặc Mỹ ỷ lại vào hỏa lực của máy bay, ỷ lại vào pháo binh mặt đất, đến khi những thứ đó
mất tác dụng thì tinh thần chiến đấu của giặc Mỹ sẽ vô cùng sa sút.

Khi nổ súng xông lên giáp chiến với giặc Mỹ, Quân giải phóng đã tiêu diệt ngay sở chỉ
huy và bộ phận thông tin liên lạc của chúng cắt đứt sự liên lạc từ mặt đất với trên không, từ mặt
trận với các nơi khác của giặc Mỹ. Đối với quân đội đế quốc xâm lược nói chung “quân vô tướng
rõ ràng là hổ vô đầu” chỉ còn là một đội quân ô hợp cho đến khi bị tiêu diệt. Cũng lúc đó, Quân
giải phóng đã tiêu diệt trận địa pháo binh của chúng. Ngoài máy bay chiến đấu ra, pháo binh cũng
là chỗ dựa mà giặc Mỹ hy vọng thì cũng thất vọng. Điều đó làm cho giặc Mỹ mất tin tưởng vào
sức chiến đấu của bản thân, không thể nào tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt.

Quân Mỹ tuy đông, bố trí thành từng cụm, nhưng Quân giải phóng chia cắt địch thành
từng mảng tiêu diệt gọn từng bộ phận. Mặc dầu từng cụm của địch đều có xe tăng, xe bọc thép
bao quanh là công sự, nhưng xe tăng bị diệt, bộ binh mất chỗ dựa. Bộ binh bị diệt, xe tăng trở nên
cô độc. Quân giải phóng đã thực hiện bao vây chia cắt tốt, chỉ huy và chiến đấu rất linh hoạt, lại
đề cao tinh thần chủ động hiệp đồng tác chiến nên đã “đánh nhanh, diệt gọn”. Điều đó chứng tỏ
Quân giải phóng có một trình độ thục luyện về kỹ thuật, chiến thuật, có sự phân công tổ chức
chiến đấu tỉ mỉ tới từng chiến sĩ, từng loại hỏa lực sẵn có trong tay một cách hợp lý và chặt chẽ
nên đã đánh cho quân địch không kịp ứng phó, cứu viện cho nhau.

Để thể hiện tinh thần anh dũng quả cảm, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu của các lực
lượng vũ trang giải phóng miền Nam trong trận chiến thắng Bàu Bàng cũng như trong các trận
đánh tiêu diệt giặc Mỹ từ trước đến nay, các cán bộ và chiến sĩ ta cần vận dụng một cách sáng tạo
và linh hoạt ngay từ động tác kỹ thuật đến chiến thuật trong việc luyện tập hàng ngày. Bất cứ một
hành động kỹ thuật, chiến thuật nào trên bãi tập, tất cả các cán bộ, chiến sĩ cần vận dụng cụ thể và
sáng tạo những kinh nghiệm tiêu diệt giặc Mỹ xâm lược của các lực lượng vũ trang ta trên chiến
trường miền Nam.

Ngay trong chiến đấu với máy bay Mỹ để bảo vệ bầu trời, đánh tàu chiến giặc Mỹ để
bảo vệ vùng biển, đánh bọn biệt kích xâm nhập phá hoại để bảo vệ biên giới, giới tuyến, chúng ta
cũng phải thể hiện cao độ tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần chiến đấu dũng cảm phi thường
và kinh nghiệm chỉ huy, chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

“Đánh giặc, rút kinh nghiệm học tập, lại đánh giặc”, bất cứ trong điều kiện chiến đấu
khẩn trương như thế nào, chúng ta cần làm tốt khâu đó để không ngừng nâng cao trình độ về mọi
mặt của mình. Khi huấn luyện cần coi trọng 4 điều kiện kết hợp: “kỹ thuật, chiến thuật, tác phong
và tư tưởng”. Chỉ có như vậy, kỹ thuật, chiến thuật mới có linh hồn, mới trở thành sức mạnh thực
sự vô địch. Nắm vững đường lối quân sự của Đảng, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của quân đội ta,
chúng ta quyết tâm rèn luyện để không ngừng nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang
nhân dân, nhất định sẽ đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CHIẾN THẮNG BÌNH LONG - PHƯỚC
LONG(35)
Mở màn đông xuân quyết thắng năm nay, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã đánh
cho quân Mỹ, ngụy những đòn phủ đầu choáng váng.

Đêm 27-10-1967, Quân giải phóng Phước Long tiến công cứ điểm Phước Quả, diệt
trên 250 tên, đồng thời bắn pháo vào chi khu Phước Bình và Sông Bé. Tiếp đó, trong những ngày
4 và 5-11-1967 Quân giải phóng lại đánh địch trên đường đến tiếp viện cho Phước Long tiêu diệt
thêm 1 tiểu đoàn và 3 đại đội ngụy.

Trong khi giặc Mỹ đang lúng túng đối phó ở Phước Long, thì ở hướng Bình Long,
đêm 28 rạng ngày 29-10-1967, Quân giải phóng lại tiến công tiêu diệt quân địch ở thị trấn Lộc
Ninh, giết và làm bị thương 550 tên ngụy trong đó có 4 trung đội bảo an, dân vệ, biệt kích và 1
đội “bình định”, phá hủy và bắn rơi 6 máy bay, thu gần 100 súng các loại.

Các ngày sau, giặc Mỹ và tay sai vội vã điều quân lên ứng cứu, cấu xé chỗ này, chắp
vá chỗ kia vẫn không đối phó nổi với những trận tiến công liên tiếp của Quân giải phóng.

Suốt 12 ngày chiến đấu liên tục, Quân giải phóng đã tiêu diệt trên 3.500 tên địch gồm
2 tiểu đoàn, 2 đại đội bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh và 40 xe cơ giới, 1 tiểu đoàn, 10 đại đội, 1
chi đội cơ giới và 1 đại đội pháo binh ngụy, bắn rơi 13 máy bay...

Chiến thắng Bình Long - Phước Long của quân và dân miền Đông Nam Bộ, mở màn
đông xuân vừa qua chứng tỏ: càng đánh, tinh thần giặc Mỹ và tay sai càng sa sút, cách đánh của
chúng càng nghèo nàn, đơn điêu; ngược lại, càng đánh, tinh thần chiến đấu của quân và dân miền
Nam càng cao, cách đánh càng phong phú, linh hoạt.

Mùa khô năm trước, để cố gỡ thế bí trên chiến trường, giặc Mỹ tung quân ra với mục
đích để thực hiện âm mưu “tìm diệt” và “bình định” ở miền Đông Nam Bộ, từ cuộc hành quân
Át-tơn-bo-rơ đến đỉnh cao nhất là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty, địch đã ném ra chiến trường
trên 4 vạn rưởi quân, bị diệt mất 14.000 tên. Những năm trước bị diệt ở đâu, giặc Mỹ điều động
lực lượng đến để cố chiếm lại rồi nống ra hòng đẩy lực lượng Quân giải phóng lùi ra xa. Tất cả
kiểu cách hành quân, trú quân, tác chiến, bề ngoài có vẻ hung hăng, ỷ vào quân đông, hỏa lực
mạnh… Nhưng năm nay, sau thất bại hè thu và bước vào đông xuân 1967-1968, giặc Mỹ đưa
quân bù đắp nơi này thì chỗ khác sơ hở, giữ cửa ngõ Sài Gòn thì các nơi khác mỏng yếu. Trong
khi đó chúng vẫn chưa mò ra được ý định tác chiến của Quân giải phóng trên chiến trường miền
Đông Nam Bộ. Bất ngờ quân và dân miền Đông Nam Bộ đã đánh phủ đầu liên tiếp hàng chục
đòn trời giáng, làm cho giặc Mỹ và tay sai đã lúng túng càng thêm lúng túng, tinh thần chiến đấu
của giặc Mỹ và tay sai càng sa sút. Khi chạm súng hoặc thấy Quân giải phóng xung phong thì
chúng vứt súng bỏ chạy hoặc vừa chạy vừa bắn lung tung, hoặc nằm im bỏ mặc đồng bọn bị tiêu
diệt, như các trận ở sân bay, ngã ba Lộc Ninh, Mang Trái, v.v... Khi tiếp viện ứng cứu cho nhau,
quân Mỹ không dám đi hung hăng, ồ ạt, tăng quân cho chiến trường bị đánh, chỉ đủ bù vào số
chết và bị thương, tới nơi dừng lại không dám tỏa rộng ra ngoài, v.v... Chính vì ngày càng sợ bị
tiêu diệt, cho nên giặc Mỹ đi hành quân cũng sợ, dừng lại cũng sợ, tác chiến lại càng sợ hơn, nên
thủ đoạn đối phó cụ thể của giặc Mỹ có những đổi mới. Nhưng những đổi mới ấy lại chính là biểu
hiện cách đánh cơ bản vẫn là khi chạm súng, giặc Mỹ vẫn tìm mọi cách nhanh chóng lùi ra xa
Quân giải phóng, phân tuyến rõ rệt để yêu cầu máy bay, pháo binh chi viện. Đó là cách đánh rất
đơn điệu của một quân đội xâm lược. Tiến công đối phương không phải là bộ binh mà là máy bay
và pháo binh là chủ yếu. Bộ binh nói chung là binh chủng chiếm đất, giải quyết mục đích cuối
cùng của trận đánh, nhưng ở đây bộ binh của Mỹ tiếp tục được xếp vào hàng rất thứ yếu với
nhiệm vụ là chỉ có “tìm và ghìm”. Thực ra chúng muốn “tìm” cũng chẳng thấy, “ghìm” cũng
chẳng được và đến bây giờ, nếu có thấy thì giặc Mỹ lại bỏ chạy hoặc nằm im để cố tránh khỏi bị
tiêu diệt. Nhưng tránh làm sao được, vì càng chạy thì càng bị diệt, càng nằm im thì càng bị đánh
bất ngờ. Những tên chỉ huy đầu sỏ dù có muốn giữ cho lính khỏi chạy cũng không được, vì quy
luật tất nhiên đã đến lúc giặc Mỹ phải như thế và đó cũng là dấu hiệu thua trận ngày càng rõ, bị
tiêu diệt ngày càng nhiều đã đến với giặc Mỹ.

Ngược lại, càng đánh, tinh thần chiến đấu của quân và dân miền Nam càng cao, cách
đánh ngày càng linh hoạt, phong phú; mặc dầu giặc Mỹ được tăng cường rất nhiều máy bay, pháo
binh và cơ giới. (Chỉ nói riêng về máy bay của giặc Mỹ và tay sai sử dụng đánh một dải đất nhỏ
hẹp của chúng ta gần 10 lần máy bay của giặc Pháp sử dụng năm 1954, mà máy bay của giặc Mỹ
lại hiện đại hơn nhiều). Nhưng vừa qua, Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ đã có gan và có tài
đánh tập trung, đánh liên tục dài ngày. Suốt 12 ngày đêm, trên hướng Bình Long - Phước Long đã
diễn ra hàng chục trận đánh giòn giã. Điều đó chứng tỏ giặc Mỹ càng giở nhiều thủ đoạn tàn ác
dã man để tàn sát nhân dân ta thì tinh thần chiến đấu của quân và dân miền Nam càng anh dũng
tuyệt vời, và cách đánh càng phong phú, linh hoạt.

Qua chiến thắng Bình Long - Phước Long chúng ta có thể rút ra bốn bài học như sau:

I. GIỮ BÍ MẬT

Quân và dân miền Đông Nam Bộ đã có nhiều tiến bộ về mặt giữ bí mật. Sắp đánh đâu,
địch không biết; sắp đi đâu, địch không hay. Chuẩn bị chiến trường rất phức tạp, nhưng không để
rơi, để mất tài liệu vào tay địch. Rừng cây bạt ngàn, ta, địch xen kẽ, chiến đấu liên tục, nhưng
không để cán bộ, chiến sĩ đi lạc, đã giữ bí mật khi chiếm lĩnh trận địa. Các phương tiện hiện đại,
các đội thám báo, biệt kích của Mỹ được tung ra làm tai mắt, nhưng quân và dân miền Đông Nam
Bộ đã làm cho địch có tai như điếc, có mắt như mù. Quân và dân miền Đông Nam Bộ đã thường
xuyên chú ý việc giáo dục và tổ chức chu đáo để bảo đảm giữ bí mật trước lúc mở màn chiến
dịch, chiến đấu. Ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần chấp hành mệnh lệnh của mọi người được đề
cao. Ví dụ: xuất quân đi chiến dịch, hoặc bộ đội tiến vào chiếm lĩnh trận địa, cán bộ luôn giáo dục
tỉ mỉ cho bộ đội rèn luyện công phu và có những quy định cụ thể mà mọi người phải nghiêm
chỉnh chấp hành.

Để giữ bí mật, Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ đã coi trọng nghệ thuật nghi binh.
Nghi binh về chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu. Nghệ thuật nghi binh của Quân giải phóng
ngày càng phong phú đã làm cho các sĩ quan tham mưu Mỹ đau đầu, nhức óc vì không mò ra
được ý định tác chiến của Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ.

Mọi người đều có biện pháp bưng tai bịt mắt địch, kể cả những hành động cụ thể như
cách trang bị của chiến sĩ, kỹ thuật đến gần địch, v.v... Chúng ta có cách tìm hiểu tình hình địch
của chiến tranh nhân dân, thì chúng ta cũng có cách bưng tai bịt mắt địch của chiến tranh nhân
dân. Cách nắm địch của ta rất phong phú, linh hoạt, cách bảo đảm bí mật của ta cũng rất phong
phú và linh hoạt.

Sau khi đã giáo dục, quán triệt sâu sắc từ trên xuống dưới thì những biện pháp cụ thể
phải được tổ chức thực hiện thật nghiêm ngặt. Giữ được bí mật thì nhất định ta sẽ tạo được bất
ngờ. Giữ được bí mật sẽ tạo cho ta rất nhiều thuận lợi khác liên quan đến thắng lợi của trận đánh
hoặc của toàn chiến dịch.

II. TẠO BẤT NGỜ

Một người đang đi đêm, thình lình bị chộp sau lưng thì rất lúng túng. Trong quân sự
cũng vậy, bên nào bị đánh bất ngờ thì sẽ gặp lúng túng, khó giành lại được quyền chủ động. Bị
đánh bất ngờ thì tinh thần sẽ hoang mang, dễ bị tiêu diệt nhanh chóng. Đợt hoạt động Bình Long
- Phước Long vừa qua, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã làm cho quân địch bị hết bất ngờ này
đến bất ngờ khác, từ bất ngờ lớn đến bất ngờ nhỏ. Chúng tưởng Quân giải phóng đánh đằng đông
thì Quân giải phóng đánh đằng tây; tưởng ta dừng không đánh nữa thì ta lại đánh; tưởng ta đi thì
ta lại dừng; thực thực hư hư làm cho địch không sao phán đoán nổi. Ví dụ: Sau trận đánh đêm 29
tháng 10 ở sân bay Lộc Ninh, quân Mỹ hết sức chú ý đề phòng ngăn chặn Quân giải phóng ở phía
đông thì đêm 1 tháng 11, Quân giải phóng thình lình xuất hiện tiêu diệt 1 tiểu đoàn Mỹ và 1 đại
đội biệt kích ngụy ở phía tây; hoặc sau trận tiêu diệt 250 tên địch ở đồn Phước Quả, giặc Mỹ và
tay sai đưa quân lên ứng cứu thì hai ngày sau ở hướng Bình Long, Quân giải phóng bất ngờ nổ
súng dồn dập, giặc Mỹ lại đổ xô vào đối phó ở đấy. Thế rồi ngờ đâu ngày 4 và 5 tháng 11 năm
1967, Quân giải phóng lại xuất hiện ở hướng Phước Bình đánh một trận phục kích rất mưu trí,
liên tiếp tiêu diệt 1 tiểu đoàn và 3 đại đội ngụy lên tiếp viện cho Phước Quả, v.v... Suốt đợt hoạt
động, quân và dân miền Đông Nam Bộ luôn luôn tạo được thế bất ngờ chứng tỏ càng đánh nghệ
thuật chỉ huy của cán bộ càng có nhiều tiến bộ.

Muốn tạo được bất ngờ thì điều trước tiên phải giữ được bí mật; hai điều này liên quan
với nhau hết sức chặt chẽ. Mất yếu tố bí mật thì mất luôn cả yếu tố bất ngờ, nhưng điều đó lại còn
tùy thuộc vào sự tài giỏi của người chỉ huy; mất yếu tố bất ngờ này thì phải biết tạo ra yếu tố bất
ngờ khác.

Tạo bất ngờ có rất nhiều cách, như biết nghi binh đánh lừa địch, vận dụng giỏi và linh
hoạt nhiều cách đánh ở nhiều nơi khác nhau. Nhưng điều cơ bản là phải giữ gìn được lực lượng,
giữ gìn được ý định và đã hành động thì phải hết sức nhanh chóng. Muốn làm được nhưng điều
đó trước tiên phải có gan và say sưa tìm nhiều mưu kế diệt địch. Để tạo được bất ngờ có khi phải
làm những việc tưởng chừng như rất mạo hiểm, nhưng đó không phải là mạo hiểm mà chính là có
gan đánh giặc. Từ có gan đánh thì mới đủ trí tuệ minh mẫn, đủ nghị lực kiên cường khắc phục
mọi khó khăn, vượt mọi trở lực để luôn luôn tạo ra bất ngờ. Ví dụ: nơi địa hình hiểm trở mà địch
cho là ta không thể nào vượt qua được, nhưng ta khắc phục được khó khăn vượt qua được, như
vậy đã tạo được bất ngờ; hoặc địch cho là ở chiến trường này, địa hình này ta không thể tập trung
đánh lớn được, nhưng ta khắc phục được khó khăn tập trung đánh lớn được thì đó cũng là đã tạo
nên bất ngờ, v.v... Có gan đánh những đòn hiểm, say sưa đánh những trận tiêu diệt gọn là yếu tố
đầu tiên để tạo bất ngờ. Ngoài ra bộ đội còn phải biết sử dụng giỏi nhiều cách đánh một cách linh
hoạt. Ví dụ: trong hoàn cảnh cụ thể nào đó địch cho ta không thể tập kích được nhưng bộ đội ta
khắc phục mọi khó khăn đánh tập kích được; hoặc địch cho đóng quân trong công sự vững chắc,
hỏa lực dày đặc, công sự phụ nhiều tưởng con chim không lọt qua được, nhưng ta lọt qua được,
tiến công tiêu diệt được như vậy rõ ràng là đã tạo được bất ngờ. Ba thứ quân của ta hiệp đồng ăn
ý, dùng sức mạnh của tinh thần gan góc và cách đánh mưu mẹo để tạo bất ngờ. Từ bất ngờ này
đến bất ngờ khác, một chuỗi bất ngờ luôn luôn ám ảnh quân đội xâm lược Mỹ rất nặng nề làm
cho chúng bị hết thất bại này đến thất bại khác.

Tạo bất ngờ là một trong những nhân tố hết sức quan trọng để giành chủ động, làm
hạn chế hỏa lực máy bay, pháo binh và khoét sâu tinh thần chiến đấu sa sút, tồi tệ của giặc Mỹ,
đánh thắng chúng trong mọi tình huống.

III. GIÀNH CHỦ ĐỘNG

Trong lĩnh vực quân sự giành được chủ động coi như bước đầu đã thu được một phần
thắng lợi; mất quyền chủ động tức là yếu tố thất bại đã xuất hiện. Hiểu, giành chủ động là đánh
trước, hành động trước cũng đúng, nhưng không phải hoàn toàn chỉ có như thế. Trường hợp địch
đánh, ta biết được trước và chuẩn bị sẵn sàng, tránh được cú đấm của đối phương giơ tay đánh ta,
ta bất ngờ nhanh chóng lao bàn tay rắn chắc của ta xỉa thật mạnh vào chúng thì nhất định cánh tay
đối phương phải rũ ra, cái huyệt hiểm yếu đã bị điểm thì toàn thân đối phương phải đổ. Đó cũng
là chủ động phản công tiêu diệt địch hoặc nếu ta phá vỡ kế hoạch hành quân tác chiến, bẻ gãy
một cánh quân của địch hoặc ta lui quân ra khỏi khu vực tiến công của địch và từ một hướng khác
ta tiến công từ sau lưng, cạnh sườn tiêu diệt địch, đó cũng là chủ động. Trong đợt hoạt động vừa
qua của quân và dân miền Đông Nam Bộ, nhân tố giành chủ động được thể hiện rất rõ. Quân giải
phóng chủ động đánh Phước Quả, rồi lại chủ động đánh chi khu Lộc Ninh. Địch lúng túng điều
quân lên Phước Long rồi lại vội vã kéo quân về Bình Long. Quân giải phóng lại chủ động đánh
liên tiếp ở Lộc Ninh, Mang Trái, và trên đường từ Phước Long đi Phước Quả. Tập trung đánh vào
chỗ sơ hở, khi đánh nơi này, lúc đánh chỗ khác làm cho địch bị động trên toàn chiến trường...
Đánh ở đâu, lúc nào đánh, đánh bằng cách gì, đó là tùy thuộc Quân giải phóng. Bị đập túi bụi,
giặc Mỹ bị động đối phó lung tung, điều động quân tăng viện nhỏ giọt, máy bay, đại bác bắn bừa
bãi, bắn cả vào đầu Mỹ, ngụy. Mở đầu mùa khô ở miền Đông Nam Bộ, giặc Mỹ và tay sai đã lúng
túng và bị động hoàn toàn. Quân và dân miền Đông luôn luôn nắm quyền chủ động.

Muốn giành được quyền chủ động thì trước tiên phải làm tốt hai điều giữ bí mật và tạo
bất ngờ. Các điều đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mất hai nội dung trên thì cũng khó mà có thể
giành được chủ động. Muốn giành được chủ động, ngoài việc phải trau dồi cho bộ đội làm giỏi
các nhiệm vụ quan hệ tới chiến đấu như cảnh giới, quan sát, tuần tra, canh gác, v.v... và còn có
bốn vấn đề đặc biệt quan trọng hơn nữa là:

- Phải thường xuyên nắm chắc được tình hình địch, phải chú ý theo dõi sự phát triển
mới về những thủ đoạn tác chiến cụ thể của địch. Mùa khô năm nay, địch có những thủ đoạn
chiến đấu nào khác mùa khô trước, và ngay đợt chiến đấu sau đã có những thay đổi gì khác đợt
chiến đấu trước? Ví dụ như sau khi bị thiệt hại nhiều vì đạn pháo cối của ta thì khi trú quân, địch
có những biện pháp cụ thể khác để đề phòng; như đội hình trú quân, cấu trúc công sự, thủ đoạn
phản ứng, v.v... ta cần nghiên cứu thật tỉ mỉ. Biết sự phát triển mới của địch để chuẩn bị tư tưởng
và vật chất, chuẩn bị kỹ thuật và cách đánh để khi lâm trận gặp những tình huống mới, ta đều có
thể xử trí được một cách bình tĩnh, đàng hoàng và chắc thắng.

- Đội hình chiến đấu phải thích hợp theo cách đánh của ta. Cũng trên một khu vực hoạt
động, bố trí đội hình chiến dịch, chiến thuật thế này thì luôn luôn giành được chủ động, nhưng bố
trí kiểu khác thì có thể sẽ bị động, lúng túng. Bố trí đội hình còn phải căn cứ vào sự thay đổi của
địch mà xoay chuyển thế trận, sẵn sàng đánh được địch từ các hướng, tránh được thiệt hại khi
máy bay pháo binh địch đánh phá, nhưng lại tập trung từng đơn vị theo ý định tác chiến rất
nhanh, cơ động rất bí mật, mau lẹ, v.v... bám sát địch, bất ngờ đánh ngay được những đòn búa bổ
vào đầu chúng. Bố trí đội hình thích hợp, bộ đội miền Đông thường gọi là “cài thế”, tức là địch
thay đổi thì ta lại bố trí đội hình xoay chuyển làm sao để thành thế trận bất cứ ở tình huống nào
cũng giành được chủ động.

- Bộ đội phải vận dụng thành thạo nhiều cách đánh. Biết nhiều cách đánh thì dù kẻ
địch có nham hiểm hoặc liều lĩnh thế nào ta cũng chọn được thời cơ tốt nhất, có lợi nhất cho ta để
tiêu diệt địch. Ví dụ kẻ địch bị đánh tập kích ban đêm nhiều thì chúng sẽ tìm mọi cách đề phòng,
do đó sẽ bộc lộ sơ hở ở nơi khác, lúc khác, hoặc kẻ địch nhiều lần bị ta bắn pháo chế áp rồi bị bộ
đội ta vận động ban ngày ra tiêu diệt thì chúng lại có biện pháp đối phó với cách này. Nhất là khi
tinh thần chúng đã suy sụp, tổ chức chỉ huy đã xộc xệch thì ta lại càng phải chú ý hơn. Một đơn vị
biết nhiều cách đánh, đánh tập kích, đánh vận động, đánh công sự vững chắc, v.v... đều giỏi thì sẽ
không bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch và dù kẻ địch có xoay xở thế nào cũng nhất định bị đánh bất
ngờ. Nhiều cách đánh ở đây bao gồm cả giỏi đánh tập trung nhanh, đánh phân tán, đánh hậu cứ
được, đánh giao thông cũng được, v.v... Nghĩa là bộ đội ta như con dao pha sắc, nhọn, khỏe, phía
này vướng thì lựa phía khác chém được ngay.

- Chỉ huy phải linh hoạt, sáng tạo, tác phong phải kiên quyết dứt khoát xử trí kịp thời
mọi tình huống ngoài dự kiến. Bộ đội phải quen tác phong chiến đấu hết sức khẩn trương, ý thức
chấp hành mệnh lệnh rất cao, có lệnh là đi, có địch là đánh ngay được, đánh theo lệnh người chỉ
huy, đánh ngoài phương án đã chuẩn bị sẵn, xử trí, ứng phó linh hoạt với mọi tình huống. Bộ đội
miền Đông Nam Bộ đã thể hiện tốt điều này. Khi phân tán, lúc tập trung, khi đánh đằng đông, lúc
đánh đằng tây một cách linh hoạt. Người chỉ huy giỏi là có khả năng điều động và chỉ huy bộ đội
mình đánh thắng giặc cả những tình huống ngoài phương án đã chuẩn bị sẵn, và bộ đội giỏi cũng
là bộ đội hoàn toàn quen với lối đánh này. Linh hoạt là một trong những nguyên nhân để bộ đội
miền Đông Nam Bộ luôn luôn giành được chủ động trong đợt hoạt động vừa qua.

IV. ĐÁNH TIÊU DIỆT

Nói đến đánh tiêu diệt thường mọi người đều hiểu ngay tầm quan trọng và nhất trí
ngay những nội dung cơ bản của nó. Trận đánh ở thung lũng Ia Đrăng tháng 11-1965 của bộ đội
Tây Nguyên đã diệt gọn 1 tiểu đoàn kỵ binh bay đầy đủ số quân nhất của Mỹ. Bộ đội miền Đông
Nam Bộ có truyền thống và nhiều kinh nghiệm đánh tiêu diệt ở “ấp chiến lược” Lộc Tấn, trận
đánh Mỹ ở đông sân bay Lộc Ninh, trận phục kích tiêu diệt quân ngụy trên đường tiếp viện cho
Phước Quả... cũng là những trận đánh tiêu diệt tốt: diệt gọn từng đơn vị địch, bắt tù binh, thu
nhiều vũ khí, chiến lợi phẩm, v.v...
Đánh theo cách đánh của ta, giữ được bí mật, tạo được bất ngờ, giành được chủ động
thì đó là tiền đề đánh tiêu diệt tốt. Bốn khâu này là một mối liên hệ dây chuyền có tác động lẫn
nhau. Ba điều trên không làm được thì cũng khó mà có điều thứ tư. Bộ đội miền Đông Nam Bộ
rất có nhiều kinh nghiệm đánh tiêu diệt, những kinh nghiệm ấy ngày càng được phát triển phong
phú. Đợt hoạt động ở Bình Long - Phước Long, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã có những
tiến bộ mới về mặt phối hợp chiến trường, căng địch ra không cho chúng tự do tập trung trên một
hướng, ở một khu vực. Trong khi quân địch có nhiều máy bay, pháo binh, cơ động nhanh, quân
đông thì một vấn đề hết sức quan trọng đặt ra đối với các lực lượng vũ trang giải phóng là ba thứ
quân cần phối hợp tác chiến tốt, căng địch ra để tạo điều kiện ở nơi này hoặc nơi kia tập trung
đánh tiêu diệt theo đúng với nội dung của nó. Ngoài việc căng địch ra, làm phân tán sự đối phó
của địch thì vấn đề vận dụng linh hoạt các phương thức tác chiến, đánh liên tục, đánh đều khắp
cũng rất quan trọng. Hậu cứ của địch bị đập tơi bời, mất nhiên liệu, đạn dược, lương thực; đường
giao thông bị cắt đứt từng đoạn; bất cứ lúc nào cũng luôn luôn bị đánh tỉa, tiêu hao, rồi bất ngờ lại
bị đập một đòn búa bổ. Đánh tiêu diệt làm cho kẻ địch không thể nào chịu nổi.

Ngoài những yêu cầu trên, muốn đánh tiêu diệt theo đúng với nghĩa của nó mà ta
thường nói là diệt gọn từng đơn vị địch thì ba vấn đề: vây, diệt, cắt lại càng phải được hết sức chú
ý. Khi tinh thần kẻ địch ngày càng tồi tệ, tổ chức của địch ngày càng rệu rã thì bất cứ đánh theo
hình thức chiến thuật nào cũng phải chú ý đến việc vây và có khi còn phải vây trước diệt sau.
Nhất là đối với quân Mỹ có nhiều phương tiện cơ động bằng máy bay lên thẳng thì lại càng chú ý
mặt này.

Trong chiến đấu, quân đội đế quốc bao giờ cũng dựa vào sự hiệp đồng của máy bay,
pháo binh, xe tăng, xe bọc sắt mà sự hiệp đồng ấy lại phải dựa vào sĩ quan chỉ huy và phương tiện
thông tin nếu mất chỉ huy và phương tiện thông tin thì hiệp đồng bị phá vỡ, đội ngũ rối loạn, toàn
bộ quân địch dễ bị tiêu diệt. Cho nên diệt chỉ huy, diệt thông tin, đó là mục tiêu quan trọng đầu
tiên để đạt tới nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch. Khi xung phong giáp chiến với địch
mỗi chiến sĩ đều có trách nhiệm phát hiện, tiêu diệt ngay mục tiêu đó, hoặc báo cáo ngay với cấp
chỉ nuy trực tiếp để tổ chức tiêu diệt. Phát hiện mục tiêu cần diệt có nhiều cách. Ví dụ: đánh địch
trong công sự vững chắc, hồi kháng chiến chống Pháp ta thường làm có hiệu quả nhất là bắt tù
binh và khai thác tài liệu ngay tại trận. Trong chiến dịch Tây Bắc năm 1952, khi tiến công đồi Pú
Chạng, chiến sĩ ta biết khai thác tù binh ngay tại trận phát hiện rõ hầm chỉ huy của tên quan tư Ti-
ri-ông và đã tổ chức nhanh chóng tiêu diệt, tạo điều kiện thuận lợi cho trận đánh thắng nhanh,
gọn. Khi đã xác định được mục tiêu trọng yếu phải diệt thật nhanh, thật sớm để tạo điều kiện kết
thúc trận đánh một cách nhanh, gọn thì cần tập trung mọi điều kiện diệt cho kỳ được.
Diệt có liên quan đến cắt. Diệt được mục tiêu trọng yếu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc cắt - cắt giữa mặt đất với trên không, giữa bộ binh với pháo binh, giữa bộ binh với xe tăng,
và giữa quân đằng trước với phía sau tới. Địch lớn cắt nhỏ ra mà diệt. Cắt từng bộ phận, cắt từng
binh chủng, quân chủng; cắt từng mũi, từng cánh quân, v.v... Cắt có nhiều cách: diệt cũng để cắt,
nghi binh cũng để cắt, đánh kiềm chế, đánh chặn cũng để cắt, v.v... Cắt là để tạo điều kiện cho
diệt hoặc tiến tới tiếp tục diệt. Diệt và cắt có liên quan đến nhau. Muốn diệt và cắt để tạo điều
kiện tiêu diệt toàn bộ quân địch, kết thúc trận đánh, kết thúc chiến dịch thắng lợi thì phải hết sức
lưu ý đến sự phát triển mới về thủ đoạn tác chiến của địch. Ví dụ: quan điểm phòng ngự của Mỹ
hiện nay khác với Pháp trước kia, vì vậy cách bố trí và cách phản ứng để giữ một cứ điểm hoặc
một cụm cứ điểm của địch có khác trước. Từ cái khác về địch đó đặt ra cho chúng ta cần có
những đổi mới về phương pháp tác chiến. Trận tiêu diệt địch ở Lộc Ninh là một trong những trận
đánh đã có cách đánh tốt. Hồi đầu tháng 10 vừa qua, trận đánh tiêu diệt trung đoàn thiết giáp ở
núi Tam Thai của quân và dân Trị-Thiên, cũng là một trận đánh tốt.

Bốn bài học giữ bí mật, tạo bất ngờ, giành chủ động, đánh tiêu diệt trên đây là bốn bài
học kinh nghiệm đã thể hiện rõ trong chiến thắng Bình Long - Phước Long. Chiến thắng Bình
Long - Phước Long báo hiệu một mùa khô thất bại mới của giặc Mỹ. Giặc Mỹ nhất định sẽ bị tiêu
diệt, bị bắt sống ngày càng nhiều ở miền Đông Nam Bộ và ở các chiến trường khác trên miền
Nam nước ta.

RA SỨC NânG CAO NănG LỰC CHỈ HUY

ĐÁNH TẬP TRUNG CỦA CÁN BỘ TRUNG ĐOÀN(36)

Nâng cao chất lượng đánh tập trung trung đoàn, làm cho nhiều trung đoàn đánh tập
trung giỏi, đó là cơ sở để đánh tiêu diệt ngày càng lớn. Tất nhiên, chất lượng trung đoàn đánh tập
trung giỏi không thể tách rời chất lượng chính trị, quân sự của bộ đội ta.

Chất lượng quân sự của một đơn vị nói riêng hay của bộ đội nói chung thể hiện trên
mấy vấn đề chủ yếu: trình độ giáo dục chính trị; tổ chức, biên chế, trang bị; trình độ kỹ thuật,
chiến thuật; kinh nghiệm chiến đấu; trình độ lãnh đạo và tổ chức, chỉ huy của cán bộ...

Muốn nâng cao chất lượng quân sự, phải giải quyết các vấn đề trên một cách toàn
diện, phù hợp với yêu cầu chiến đấu khả năng và điều kiện của ta, trong đó việc nâng cao năng
lực lãnh đạo và tổ chức, chỉ huy của cán bộ là điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng quân
sự của đơn vị Bài này nêu lên một số vấn đề về việc nâng cao năng lực chỉ huy đánh tập trung của
cán bộ trung đoàn.

Nâng cao tinh thần chiến đấu cho kịp với yêu cầu đánh tập trung trung đoàn
Muốn nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy của cán bộ để đánh tập trung giỏi phải lấy
việc nâng cao tinh thần chiến đấu làm gốc. Những yêu cầu chủ yếu về tinh thần chiến đấu của cán
bộ cần được nâng cao cho phù hợp với yêu cầu đánh tập trung trung đoàn là:

1. Tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm.

Cán bộ chỉ huy bao giờ cũng phải có quyết tâm chiến đấu cao, dám đánh, dám chịu
trách nhiệm. Chỉ huy một tiểu đội hay một sư đoàn đều phải như vậy. Nhưng cần thấy rõ do tính
chất của nhiệm vụ tác chiến, quy mô sử dụng lực lượng, yêu cầu của phương thức tác chiến đánh
tập trung trung đoàn đòi hỏi cán bộ chỉ huy phải có quyết tâm chiến đấu và tinh thần trách nhiệm
cao.

So với đại đội tiểu đoàn, nhiệm vụ tác chiến yêu cầu đặt ra cho trung đoàn đánh tập
trung có những điểm khác về tính chất và ý nghĩa.

Về chiến thuật, trung đoàn đánh tập trung là quả đấm mạnh, thể hiện sức chiến đấu
tổng hợp của nhiều đơn vị bộ binh cùng một số binh chủng kỹ thuật chủ yếu, đã ra quân là phải
diệt từng đơn vị tương đối lớn của địch.

Về chiến dịch, thực tế chiến trường ở nước ta đã cho biết, kết quả chiến đấu của trung
đoàn đánh tập trung có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả toàn chiến dịch. Trong kháng chiến chống
Pháp, nếu trung đoàn không có khả năng đánh tập trung thì cũng không thể có thắng lợi chiến
dịch to lớn ở Biên Giới, Tây Bắc, Hòa Bình, Điện Biên Phủ... Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, thắng lợi của Quân giải phóng miền Nam trong chiến dịch Ba Gia - Phước Lộc, Đồng
Xoài…, trong các chiến dịch tiến công, phản công diệt Mỹ - ngụy trên các chiến trường Nam Bộ,
vùng Trung Trung Bộ, vùng Trị-Thiên, vùng Tây Nguyên... đã nói lên ý nghĩa rất quan trọng của
trung đoàn đánh tập trung.

Trong hoàn cảnh, đặc điểm của ta, hoạt động tác chiến tập trung trung đoàn đánh dấu
một bước phát triển vô cùng quan trọng trong quá trình đấu tranh vũ trang ở nước ta. Thông qua
tác dụng chiến đấu to lớn, tác dụng trực tiếp đến chiến dịch, kết quả hoạt động tác chiến tập trung
trung đoàn phổ biến trên các chiến trường còn có ý nghĩa chiến lược trong điều kiện chiến tranh
nhân dân của ta.

Trong khi ba thứ quân của ta bố trí hợp lý, phát triển nhịp nhàng cân đối, bộ đội chủ
lực tiến lên tác chiến tập trung trung đoàn là một bước biến chuyển mới có ý nghĩa quan trọng.
Trong kháng chiến chống Pháp, từ chiến dịch Biên Giới, hoạt động tác chiến tập trung trung đoàn
đã trở thành một trong những yếu tố góp phần làm chuyển biến giai đoạn chiến lược. Trên chiến
trường miền Nam, hoạt động tác chiến tập trung cỡ trung đoàn của Quân giải phóng đã góp phần
đưa thế tiến công chiến lược của ta lên một bước mới vô cùng quan trọng. Thắng lợi của những
trận đánh bằng lực lượng trung đoàn tập trung ở Bình Giã, Ba Gia đánh dấu thời kỳ quân và dân
miền Nam tiến tới có thể đánh bại hoàn toàn mấy chục vạn quân ngụy, làm phá sản kế hoạch
chiến lược của Mỹ dùng “chiến tranh đặc biệt” xâm lược miền Nam nước ta. Thắng lợi của những
trận đánh tập trung cỡ trung đoàn và lớn hơn, tiêu diệt hàng tiểu đoàn, chiến đoàn quân Mỹ -
ngụy là những quả đấm thép góp phần quyết định đập tan mọi cố gắng quân sự của Mỹ, đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

Do tác dụng của hoạt động tác chiến tập trung cỡ trung đoàn, nên đòi hỏi tinh thần
chiến đấu mà biểu hiện cụ thể là tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm phải được nâng cao
cho phù hợp với yêu cầu tác chiến.

Kinh nghiệm cho thấy, những cán bộ chỉ huy trung đoàn đánh tập trung giỏi của Quân
giải phóng miền Nam đã liên tục giành thắng lợi rực rỡ ở các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Trị -
Thiên, Đường 9, v.v... là những cán bộ có tinh thần dám đánh lớn, dám chịu trách nhiệm cao. Có
cán bộ kiên quyết tập trung đơn vị để đánh, mặc dù thời gian chuẩn bị rất ngắn. Có cán bộ kiên
gan giấu quân chờ địch, khôn khéo tránh được hỏa lực máy bay, pháo binh ác liệt của địch. Có
cán bộ đề nghị để bộ đội mình nằm sát nách địch trong vùng địch uy hiếp mạnh để chớp thời cơ
diệt địch lớn. Nhờ vậy, những đơn vị đó đã đánh những trận có ý nghĩa rất quan trọng về chiến
thuật và chiến dịch. Yêu cầu dám đánh lớn, dám chịu trách nhiệm không phải là đánh ẩu húc bừa,
không cân nhắc, tính toán cẩn thận. Trách nhiệm trước thắng lợi, trước sinh mạng của cả trung
đoàn đòi hỏi cán bộ có tinh thần trách nhiệm phải cân nhắc, tính toán kỹ khi hạ quyết tâm làm
một việc gì. Phàm đã chiến đấu là có gay go, phức tạp, khó khăn, nguy hiểm. Người chỉ huy phải
biết giành thắng lợi bằng con đường ít tổn thất nhất. Nhưng nói chung không có thắng lợi nào mà
không phải qua con đường khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ trong chiến đấu. Nếu không
có tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm mà biểu hiện cụ thể là không sợ khó khăn, nguy
hiểm, quyết giành thắng lợi lớn thì sẽ không bao giờ dám hạ một quyết tâm chiến đấu nào.

Đánh tập trung trung đoàn không những đòi hỏi cán bộ chủ trì trung đoàn phải có tinh
thần dám đánh lớn, dám chịu trách nhiệm cao mà còn đòi hỏi cán bộ các cấp tiểu đoàn, đại đội,
cán bộ cơ quan, đơn vị chuyên môn, đơn vị hậu cần cũng phải có tinh thần dám đánh, dám chịu
trách nhiệm. Thường khi tác chiến đến lúc gay go, phức tạp nhất, lúc quyết định thắng lợi của
trận đánh cũng là lúc đòi hỏi các đơn vị phải nâng cao tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm
hơn lúc nào hết để có những hành động sáng tạo, linh hoạt trong tác chiến hợp đồng hoặc tác
chiến độc lập. Trong trận phục kích ở Lộc Giang, đại đội X Quân giải phóng sau khi hoàn thành
nhiệm vụ ở đoạn quyết chiến, đang rút về chuẩn bị đánh quân địch đổ bộ đường không cứu viện
theo kế hoạch dự định của cấp trên, thì thấy một cánh quân địch khá đông bất ngờ xuất hiện uy
hiếp đội hình tác chiến chung, đã khẩn trương và kiên quyết xuất kích bao vây tiêu diệt cánh quân
đó, rồi mới quay về chuẩn bị đánh theo kế hoạch cũ. Hành động linh hoạt của cán bộ chỉ huy đại
đội X là tiêu biểu cho tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm của đơn vị nhỏ khi đánh trong
đội hình tác chiến của trung đoàn tập trung.

Những cán bộ phụ trách đơn vị làm nhiệm vụ ở hướng thứ yếu hoặc kìm hãm thu hút
địch, tạo thời cơ cho trung đoàn đánh tập trung, có khi một tiểu đội, một trung đội phải chiến đấu
với quân địch đông hơn mình nhiều lần, càng phải có tinh thần dám đánh, dám chịu trách nhiệm,
mới có thể chỉ huy chiến đấu thắng lợi trong điều kiện địch đông hơn mà ta nhất định phải thắng.

2. Ý thức tổ chức, kỷ luật.

Sức mạnh trung đoàn đánh tập trung là sức mạnh tổng hợp của các đơn vị thống nhất
hành động trong toàn trung đoàn. Nếu các đơn vị trong trung đoàn đánh vô tổ chức, muốn đánh
muốn rút tùy tiện thì trung đoàn không thể đánh tập trung được. Đơn vị chiến đấu thống nhất
hành động, nhưng đơn vị phục vụ, bảo đảm không tôn trọng quy định, kỷ luật chiến trường thì
cũng khó giành thắng lợi trong đánh tập trung.

Kinh nghiệm trên chiến trường dạy ta rằng, thống nhất hành động theo tổ chức, kỷ luật
đánh tập trung là quá trình đấu tranh gay go, gian khổ. Không có tinh thần tự giác chấp hành kỷ
luật thì dễ viện lý do khách quan để thoái thác nhiệm vụ hoặc thi hành nhiệm vụ không đến nơi
đến chốn. Kỷ luật quân đội cách mạng đòi hỏi cán bộ chỉ huy phải tự giác, nghiêm chỉnh chấp
hành mọi điều quy định trong mệnh lệnh chiến đấu, đồng thời không được vin vào mệnh lệnh
chiến đấu mà thiếu chủ động, xông xáo. Càng không thể nào tha thứ cho việc vin cớ này hay cớ
khác để bào chữa những hành động tiêu cực trong chiến đấu. Nếu không tự giác chấp hành mệnh
lệnh chiến đấu dựa trên cơ sở ý định và kế hoạch tác chiến của trung đoàn mà hành động một
cách sáng tạo với tinh thần tiêu diệt địch cao nhất, thì trung đoàn tập trung mà vẫn đánh phân tán,
không phát huy được sức mạnh tổng hợp của trung đoàn, hoặc bỏ lỡ thời cơ diệt địch.

3. Tinh thần tích cực, chủ động, đoàn kết hợp đồng.

Hợp đồng tác chiến là đặc trưng chủ yếu trong hoạt động tác chiến của trung đoàn khi
đánh tập trung. Cơ sở chính trị của tác chiến hợp đồng trong quân đội ta là tinh thần đoàn kết
cách mạng của những người cùng chung ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Mỗi cán bộ được sự giáo dục, rèn luyện của Đảng nên có ý thức đoàn kết cách mạng
cao. Đấy là chỗ mạnh cơ bản của cán bộ trong hợp đồng tác chiến. Phải biết dựa vào chỗ mạnh cơ
bản ấy để nâng cao ý thức đoàn kết hợp đồng cho phù hợp với yêu cầu tác chiến tập trung trung
đoàn. Cụ thể là phải xây dựng cho được tinh thần độc lập tác chiến và tinh thần tích cực, chủ
động hợp đồng. Phần lớn các đơn vị trong trung đoàn như các tiểu đoàn, đại đội bộ binh và các
đơn vị binh chủng kỹ thuật đều là những đơn vị chiến đấu tương đối hoàn chỉnh. Từng đơn vị
binh chủng có chiến thuật riêng nhưng chiến thuật binh chủng hợp thành của cả trung đoàn vẫn là
điều chi phối chủ yếu mọi hoạt động của các đơn vị trong trung đoàn. Cán bộ chỉ huy các đơn vị
phải làm cho đơn vị mình chiến đấu, công tác với hiệu suất cao nhất để hợp đồng với các đơn vị
trong trung đoàn. Đồng thời phải chủ động, linh hoạt hợp đồng, phục tùng vô điều kiện cho sự
hợp đồng tác chiến của trung đoàn đạt tới thắng lợi lớn nhất. Thấy cần thiết, thấy có điều kiện, có
thời cơ là tự động chi viện, phối hợp với đơn vị bạn, không chờ lệnh một cách máy móc. Quân
giải phóng miền Nam trong nhiều trận chiến đấu đã lấy tiếng súng làm mệnh lệnh hợp đồng.

Đề cao ý thức độc lập tác chiến trong chiến đấu tập trung còn cần chống hiện tượng
chỉ thấy đơn vị mình không thấy đơn vị bạn, chỉ thấy nhiệm vụ mình không thấy nhiệm vụ chung.
Cần động viên tinh thần xung phong nhận nhiệm vụ khó khăn nhất, nhường thuận lợi cho bạn,
dũng cảm phát triển chiến đấu để cùng đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ tác chiến chung. Được
lệnh đánh để hỗ trợ, chi viện cho bạn thì dù khó khăn, cản trở thế nào cũng phải làm cho bằng
được.

QUÁN TRIỆT HƠN NỮA TƯ TƯỞNG CHIẾN THUẬT VÀ CÁCH ĐÁNH TẬP
TRUNG

Khái niệm đánh tập trung trung đoàn: trung đoàn tập trung toàn trung đoàn đánh một
trận hoặc liên tục đánh nhiều trận. Mặt khác trung đoàn có thể dùng một tiểu đoàn hoặc hai tiểu
đoàn... đánh liên tục với nhiều hình thức chiến thuật trong một khu vực (các trận đánh có liên
quan với nhau), hoàn thành nhiệm vụ của trung đoàn, nhưng phải do trung đoàn trực tiếp tổ chức
và chỉ huy, như vậy cũng gọi là đánh tập trung trung đoàn.

Quán triệt hơn nữa tư tưởng chiến thuật và cách đánh tập trung là một trong những
điều kiện quyết định để trong bất cứ tình huống chiến đấu nào, cán bộ cũng có thể hành động
thống nhất, ăn ý, vận dụng những cách đánh hay nhất để phát huy hết sức mạnh tập thể của toàn
trung đoàn mà tiêu diệt địch một cách nhanh, gọn.

Trước hết cần nắm vững tư tưởng tích cực chủ động, liên tục tiến công tiêu diệt địch .
Đây là tư tưởng chỉ đạo mọi hoạt động chiến đấu của lực lượng vũ trang ta. Nó có ý nghĩa rất
quan trọng đối với các đơn vị tương đối lớn, như trung đoàn là cấp có nhiều lực lượng, khả năng
để chủ động tiến công, tạo thời cơ tiến công, giáng cho địch những cú đấm mạnh.
Tư tưởng chỉ đạo đó cũng là tư tưởng chỉ đạo phù hợp nhất với thực tiễn chiến đấu
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Quân Mỹ có quân đông, vũ khí nhiều, sức cơ động cao, chiếm ưu
thế về máy bay, pháo binh, cơ giới. Quân Mỹ có cách đánh sở trường là đánh trận địa có hợp
đồng nhiều binh chủng, quân chủng. Nhưng đó là cách đánh bị phụ thuộc vào máy bay, pháo
binh, cơ giới. Nếu buộc chúng phải đánh theo cách khác thì quân Mỹ bộc lộ hàng loạt chỗ yếu,
chỗ sơ hở, sức chiến đấu của chúng giảm sút hẳn, sở trường của chúng biến thành sở đoản. Hiện
nay, trên chiến trường miền Nam, quân Mỹ đóng quân thành hệ thống phòng thủ, nơi nọ dựa vào
nơi kia, quân phòng thủ dựa vào quân cơ động, vị trí phòng thủ dựa vào máy bay, pháo binh chi
viện. Nhưng cả hệ thống đồn bốt, căn cứ phòng thủ của chúng lại nằm trong thế bị bao vây, chia
cắt, uy hiếp của chiến tranh nhân dân của ta. Nó buộc quân cơ động phải xoay như đèn cù để đối
phó khắp nơi nên bộc lộ nhiều sơ hở, giơ lưng chịu đòn. Trong tình hình địch đang ở thế bị động,
lúng túng đối phó trước sự tấn công mãnh liệt của quân và dân miền Nam, của ba thứ quân, mỗi
trung đoàn tập trung của Quân giải phóng hoạt động ở nơi nào là nơi đó địch bị uy hiếp. Quân
phòng thủ lo bị tiêu diệt, quân cơ động lo bị chộp gọn từng bộ phận lớn hàng tiểu đoàn, chiến
đoàn. Chỉ cần cán bộ trung đoàn dám đánh, kiên quyết tấn công, khéo tạo và nắm thời cơ, biết
phát huy sức mạnh tập trung và phân tán của mình đánh vào chỗ yếu, chỗ hiểm yếu, chỗ sơ hở
của địch là đều có thể lập công lớn.

Kinh nghiệm trên chiến trường lại cho ta thấy, muốn luôn luôn chủ động, liên tục tiến
công tiêu diệt địch thì phải kiên quyết, khéo léo tập trung lực lượng hợp lý để hình thành thế
mạnh đánh vào nơi quyết định. Trung đoàn đánh tập trung không có nghĩa là lúc nào cũng tập
trung đầy đủ lực lượng toàn trung đoàn mà theo nhiều quy mô thích hợp với tình hình cụ thể.
Làm được như thế là biểu hiện cụ thể sự kiên quyết và khéo léo tập trung lực lượng của ta. Do đó,
yêu cầu đặt ra đối với các cán bộ trong trung đoàn là phải kiên quyết tạo điều kiện, tạo thời cơ để
phát huy sức mạnh tập thể của trung đoàn, có sự chỉ huy của trung đoàn, giành thắng lợi giòn giã
với hiệu suất chiến đấu cao.

Đánh tập trung trung đoàn phải biết tổ chức, chỉ huy hợp đồng binh chủng, biết sử
dụng phương tiện, vũ khí được trang bị và tăng cường. Không thể vì ngại khó chỉ huy, ngại cồng
kềnh vì lý do này hay lý do khác mà tùy tiện bỏ thứ này thứ nọ, nhưng cần tránh khuynh hướng
có gì đem ra dùng tất cả trong một trận, không suy nghĩ gì đến chiến thuật, đến trận sau. Tổ chức
ra đơn vị, trang bị cho đơn vị, chúng ta có ý định chiến thuật rõ rệt. Tổ chức ra trung đoàn, trang
bị cho trung đoàn là để đánh bằng lực lượng trung đoàn với sức mạnh tập trung của nó. Thế mạnh
của trung đoàn là thế có chỉ huy thống nhất, tập trung, hành động thống nhất để tập trung lực
lượng đập nát đầu não của địch, đánh vào nơi chúng sơ hở. Ở miền Nam, Quân giải phóng đánh
trận phục kích Hương An - Bà Rén rất giỏi, vì khéo tập trung lực lượng đánh vào chỗ yếu chỗ sơ
hở của địch. Quãng đường Hương An - Bà Rén nằm giữa nơi địch bố trí đông đặc, thế mà Quân
giải phóng vẫn tập trung được lực lượng đủ sức diệt gọn gần 200 xe cơ giới vận tải cùng hơn 600
tên địch. Địch đông mà không đối phó nổi, nơi địa hình đồng bằng trống trải mà địch vẫn bị đánh.
Đó cũng là nghệ thuật chỉ huy giỏi, biết tập trung hợp lý, đánh đúng chỗ, đúng lúc.

Kinh nghiệm trên chiến trường còn cho ta thấy, quán triệt tư tưởng kết hợp nhiều
phương thức tác chiến, nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu, đánh liên tục, đánh dài
hơi là một yêu cầu hành động tác chiến cơ bản của trung đoàn tập trung.

Trung đoàn tập trung trước hết phải giỏi phương thức đánh tập trung. Nếu không biết
đánh theo nhiều phương thức tác chiến, nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu thì hoặc
sẽ không có điều kiện, thời cơ đánh tập trung, hoặc sẽ không thể đánh tập trung nổi. Thực tế chiến
trường đánh Mỹ hiện nay cho biết, khi trung đoàn muốn tổ chức đánh một trận phục kích lớn phải
đồng thời tổ chức và chuẩn bị đánh địch trong công sự, đánh địch đổ bộ đường không ứng viện,
đánh máy bay, pháo binh, cơ giới địch. Trung đoàn Ba Gia do liên tục đánh được nhiều trận với
nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu nên đã kết thúc thắng lợi đợt hoạt động bằng trận
đánh tiêu diệt gọn cả tiểu đoàn quân ngụy. Trong trận tiêu diệt hơn một tiểu đoàn địch ở An Lỗ,
Quân giải phóng đồng thời phải đánh vào căn cứ pháo địch ở Từ Hạ, Phó Trạch, đánh địch ở ấp
chiến lược, chuẩn bị đánh địch đổ bộ đường không.

Do đó, trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến của cán bộ chủ trì, cơ quan, đơn vị phải luôn
luôn sẵn sàng chỉ huy đơn vị đánh liên tục, bằng nhiều phương thức tác chiến, nhiều hình thức
chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu, nhiều trận đánh liên tiếp với lực lượng cỡ tiểu đoàn trở lên do
trung đoàn chỉ huy trong ý định tác chiến chung. Muốn không bị bất ngờ trước mọi tình huống,
tất cả các cán bộ từ đơn vị chiến đấu đến đơn vị, cơ quan phục vụ đều phải sẵn sàng đánh kết hợp
nhiều phương thức tác chiến, nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu, nhiều trận đánh
liên tiếp.

Kinh nghiệm trên chiến trường còn cho biết trung đoàn muốn đánh tập trung thắng lợi
phải biết kết hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang khác.

Thế trận của chúng ta bố trí hợp lý chủ yếu là ở chỗ làm cho các lực lượng vũ trang kết
hợp chặt chẽ với nhau. Các lực lượng vũ trang bổ sung được lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau
phát huy kết quả chiến đấu của nhau, nâng cao kết quả mọi mặt về chiến dịch và chiến đấu.
Không dựa được vào kết quả chiến đấu của bộ đội địa phương, dân quân du kích thì trung đoàn
không thể luôn luôn sẵn sàng tập trung với thế trận có lợi để đánh địch, không thể có thời cơ, điều
kiện liên tục đánh địch. Ngược lại, khi các trung đoàn chủ lực liên tục đánh cho địch những đòn
tập trung đau cũng sẽ tạo điều kiện và thời cơ cho các lực lượng vũ trang khác hoạt động thuận
lợi.

Trên đây là mấy tư tưởng, quan điểm cơ bản về cách đánh và phương thức hoạt động
tác chiến của trung đoàn đánh tập trung. Quán triệt những vấn đề đó trong các cán bộ của trung
đoàn là một yêu cầu cơ bản để xây dựng trung đoàn mạnh về quân sự.

Kinh nghiệm xây dựng và chiến đấu cho ta thấy, cần chú trọng làm cho cán bộ chủ trì,
cán bộ chỉ huy và cán bộ cơ quan quán triệt các tư tưởng, quan điểm nói trên. Phải quán triệt tư
tưởng, quan điểm ấy cả đối với cán bộ chính trị, hậu cần, quân y, v.v... nếu không thì sẽ ảnh
hưởng không tốt đến hoạt động tác chiến tập trung của trung đoàn.

Muốn phục vụ đắc lực cho tác chiến tập trung các đơn vị bảo đảm cần chú ý nâng cao
chất lượng công tác xây dựng kế hoạch và tổ chức bảo đảm phục vụ chiến đấu tập trung cho thích
hợp. Rõ ràng là công tác chuẩn bị chiến trường, tổ chức hợp đồng, tổ chức hậu cần, quân y, vận
tải của trung đoàn phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp khác với khi trung đoàn đánh phân tán.
Ví dụ, để bảo đảm cung cấp lương thực cho bộ đội đủ ăn, đơn vị hậu cần phải giải quyết vận
chuyển thế nào để vừa phân tán được kho tàng vừa tập trung được lực lượng cung cấp kịp thời
cho cả trung đoàn cơ động khẩn trương, đánh nhiều trận liên tiếp, hoạt động dài ngày.

Do đó, cán bộ các đơn vị phục vụ và bảo đảm chiến đấu nếu không quán triệt tư tưởng
chỉ đạo tác chiến, tư tưởng chiến thuật thì không có cơ sở để phục vụ tốt nhất cho quyết tâm chiến
đấu của trung đoàn.

Kinh nghiệm chiến đấu và xây dựng cho biết, muốn làm cho cán bộ toàn trung đoàn
biến sự thống nhất về tư tưởng chiến thuật và cách đánh thành hành động nhất trí để thực hiện
yêu cầu đánh tập trung thì các cán bộ phải lấy việc thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng
ủy trung đoàn làm chuẩn cho mọi suy nghĩ và hành động tác chiến của mình.

Trong chiến đấu, có nhiều tình huống phức tạp xảy ra, đòi hỏi cán bộ phải chủ động,
nhanh chóng xử trí. Cho nên, nắm chắc tinh thần và nội dung nghị quyết của Đảng ủy trung đoàn
mới có phương hướng giải quyết đúng đắn các tình huống và mới bảo đảm thống nhất hành động
và hợp đồng với nhau được chặt chẽ, linh hoạt.

Cần phải thông qua huấn luyện và chiến đấu mà kiểm tra rèn luyện mới có thể làm cho
các cán bộ trong trung đoàn quán triệt tư tưởng chiến thuật và cách đánh, trên dưới hiểu nhau, tin
tưởng nhau, cùng học tập lẫn nhau để nâng cao chất lượng đánh tập trung.
Đối với những đơn vị đang huấn luyện, chưa bước vào chiến đấu, phải tranh thủ thời
gian, khẩn trương học tập, rút kinh nghiệm, rèn luyện cho các cán bộ trong đơn vị quán triệt tư
tưởng chiến thuật vào hành động tác chiến đến mức cao nhất. Nhiều đơn vị đã làm tốt việc này,
nhưng cũng có đơn vị còn thiếu nghiêm khắc với những hiện tượng chưa quán triệt tư tưởng
chiến thuật và cách đánh. Có những thiếu sót trong hành động chiến thuật là do chưa tích cực tìm
ra nguyên nhân trong tư tưởng chiến thuật của cán bộ mà chỉ chú ý giải quyết cụ thể.

Đối với những đơn vị đang chiến đấu, phải nhanh chóng rút kinh nghiệm sau mỗi trận
đánh để tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chiến thuật và cách đánh trong cán bộ và toàn đơn
vị. Không nên vin vào hoàn cảnh chiến đấu liên tục, khẩn trương mà không kịp thời chỉ ra những
hiện tượng thiếu quán triệt tư tưởng chiến thuật và cách đánh. Sau từng trận đánh cần kịp thời nêu
lên những ưu điểm và khuyết điểm về tư tưởng chiến thuật và cách đánh của cán bộ. Trong một
đợt hoạt động, nếu đợi thấy thật rõ, thật đủ các hiện tượng chưa đúng, chưa quán triệt tư tưởng
chiến thuật và cách đánh mới đấu tranh, phê bình, rút kinh nghiệm thì đã muộn.

Kinh nghiệm cho biết, nâng cao năng lực cho cán bộ chỉ huy trung đoàn đánh tập trung
phải đặc biệt chú ý sự đồng đều về trình độ, sự ăn ý trong cán bộ toàn trung đoàn.

Cấp trên và cấp dưới phải thật ăn ý, nói một hiểu mười, đoán được ý của nhau, biết
được sở trường của nhau, nghe tiếng súng cũng biết cần giúp nhau thế nào. Cán bộ giỏi mà không
ăn ý với nhau thì trung đoàn vẫn không thể đánh tập trung giỏi. Thủ trưởng giỏi mà cán bộ cơ
quan yếu thì việc chỉ huy cũng gặp khó khăn. Cán bộ cơ quan, cán bộ đơn vị này làm việc có kế
hoạch mà cán bộ đơn vị, cán bộ cơ quan khác làm việc thiếu kế hoạch thì tránh sao được loạc
choạc trong chiến đấu. Tiểu đoàn này khá mà tiểu đoàn kia kém cũng không thể có hiệu suất
chiến đấu cao.

Mấy vấn đề cần rèn luyện để nâng cao năng lực tổ chức; chỉ huy trung đoàn đánh tập
trung

Nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy tác chiến hợp đồng binh chủng là một nội dung
chủ yếu trong rèn luyện nâng cao chất lượng cán bộ để trung đoàn đánh tập trung giỏi. Nhất là đối
với cán bộ chủ trì, cán bộ cơ quan trung đoàn và cán bộ phụ trách đơn vị cơ sở. Vì đó là những
cán bộ trực tiếp tổ chức, chỉ huy và thực hiện kế hoạch tác chiến hợp đồng của trung đoàn.

Để nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy tác chiến hợp đồng binh chủng, cần chú trọng
mấy nội dung chủ yếu sau đây:

1. Rèn luyện nâng cao trình độ chiến thuật.


Cán bộ có giỏi chiến thuật mới có thể chỉ huy đơn vị đánh thắng. Trong tác chiến của
trung đoàn tập trung có thể vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu một cách
hoàn chỉnh như trung đoàn vận động phục kích, vận động tập kích, đánh quân đổ bộ đường
không, đánh địch trong công sự vững chắc, v.v... Do đó, yêu cầu đặt ra là cán bộ trong trung đoàn
phải nắm được các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu mà trung đoàn có thể sử dụng, đồng
thời từng cấp tùy theo cương vị phải giỏi chiến thuật cấp mình, biết được chiến thuật cấp dưới
càng sâu càng tốt.

Nắm vững chiến thuật trong điều kiện trung đoàn đánh tập trung là phải nắm chắc tính
chất tác chiến hợp đồng binh chủng với mọi hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu. Cán bộ chỉ
huy trung đoàn và cán bộ cơ quan trung đoàn nếu chỉ biết nắm và chỉ huy các đơn vị bộ binh, thì
không thể tổ chức, chỉ huy trung đoàn đánh tập trung giành thắng lợi giòn giã.

Cán bộ chỉ huy các đơn vị bộ binh, binh chủng, phục vụ trong trung đoàn chỉ giỏi chỉ
huy đơn vị mình đánh độc lập mà không biết hợp đồng với nhau thì trung đoàn cũng không thể
đánh tập trung giỏi. Chỉ huy một tiểu đoàn đánh trong ý định tác chiến chung của trung đoàn phải
kiên quyết và linh hoạt, phải suy sâu nghĩ rộng đến toàn trận đánh, đến các đơn vị bạn, đến ý định
từng lúc của người chỉ huy cấp trên. Nghĩa là phải vì thắng lợi chung của toàn trung đoàn mà kiên
quyết hành động và hành động triệt để, linh hoạt.

2. Rèn luyện nâng cao trình độ nắm các binh chủng, các đơn vị phục vụ và bảo đảm
của trung đoàn.

Trong biên chế của trung đoàn bộ binh, thành phần các binh chủng kỹ thuật, đơn vị
phục vụ ngày càng tăng thêm. Điều đó là một trong những điều kiện tăng cường sức chiến đấu
của trung đoàn đánh tập trung. Vì vậy, yêu cầu cán bộ chỉ huy trung đoàn, cơ quan trung đoàn
phải có trình độ hiểu biết tính năng kỹ thuật, chiến thuật của các binh chủng kỹ thuật, đơn vị
chuyên môn, phải biết cách nắm và sử dụng các đơn vị đó theo tư tưởng chiến thuật và cách đánh
của ta trong tác chiến của trung đoàn cho phù hợp với điều kiện tác chiến của Việt Nam.

Thực tế chứng minh rằng, nắm và chỉ huy các binh chủng kỹ thuật, các đơn vị chuyên
môn theo tư tưởng chiến thuật và cách đánh của ta có nhiều đặc điểm riêng. Pháo, cơ giới của ta
không thể chỉ biết lăn trên đường cái lớn theo quy tắc kỹ thuật vốn có của nó. Đã có rất nhiều
trường hợp ta kéo pháo lên núi, qua ruộng lầy để đánh. Pháo của ta cũng luồn sâu, đánh úp địch.
Không thể cho sử dụng như thế là sai quy tắc kỹ thuật. Nếu chỉ nắm tính năng kỹ thuật của binh
chủng chuyên môn, không đi sâu hiểu rõ con người Việt Nam khi nắm trong tay khẩu pháo hiện
đại có đặc điểm gì, chỗ nào mạnh, chỗ nào yếu thì cũng không thể xem là đã nắm được các binh
chủng kỹ thuật của ta.

Quân giải phóng miền Nam đang có những sáng tạo kỳ diệu về cách sử dụng binh
chủng kỹ thuật, đơn vị chuyên môn trong tác chiến tập trung và phân tán, trong nhiều hình thức
chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu. Học tập kinh nghiệm của Quân giải phóng, nhiều cán bộ đã đi
sâu nắm các binh chủng kỹ thuật, đơn vị chuyên môn, coi trọng việc nắm các quy tắc kỹ thuật và
vận dụng một cách sáng tạo những quy tắc kỹ thuật đó vào cách đánh của ta, nắm kinh nghiệm và
truyền thống làm chủ vũ khí, phương tiện hiện đại của ta. Đó là phương hướng đúng đắn cần
được thực hiện khẩn trương, tích cực để có thể nắm và chỉ huy các binh chủng kỹ thuật, đơn vị
chuyên môn phục vụ tốt cho cách đánh tập trung của ta.

Yêu cầu nâng cao trình độ hiểu biết tính năng kỹ thuật, chiến thuật của các binh chủng
và đơn vị chuyên môn không phải chỉ đặt ra cho cán bộ trung đoàn, cơ quan trung đoàn. Cán bộ
chỉ huy tiểu đoàn, đơn vị cơ sở nếu không hiểu pháo của ta, thông tin của ta như thế nào thì cũng
không thể hợp đồng được tốt trong tác chiến tập trung. Tất nhiên, yêu cầu hiểu biết ở mỗi cấp có
khác nhau, nhưng mỗi cấp ít nhất phải hiểu biết những điều cơ bản có liên quan tới việc hợp đồng
với mình trong quá trình chiến đấu.

3. Rèn luyện nâng cao trình độ hiểu địch và nắm địch trong quá trình chuẩn bị và tiến
hành chiến đấu.

Ở đây chỉ nhấn mạnh mấy điểm có quan hệ nhiều đến tác chiến tập trung của trung
đoàn:

Một là, phải hiểu và nắm đúng khả năng thực tế của đối tượng tác chiến của trung
đoàn đánh tập trung. Kinh nghiệm trên chiến trường miền Nam cho biết, quân Mỹ thường bố trí
nhiều thành phần hỗn hợp có bộ binh, pháo binh, cơ giới. Đi đôi với một đơn vị chủ lực còn kèm
theo các đơn vị biệt kích, thám báo... Muốn diệt một đơn vị nào đó của địch thường đồng thời
phải diệt nhiều loại lực lượng khác nhau của chúng. Quân địch luôn duy trì sự chi viện của không
quân, pháo binh và sự ứng cứu lẫn nhau mỗi khi bị đánh. Nhưng chúng cũng có nhiều nhược
điểm, sơ hở do chiến thuật sai lầm, tinh thần chiến đấu sút kém không thuộc địa hình, không quen
thời tiết... Căn cứ vào so sánh lực lượng, khả năng và ý chí chiến đấu của ta, có thể khẳng định
trung đoàn hoàn toàn có khả năng lấy ít đánh nhiều hoặc tập trung hợp lý giành ưu thế chất lượng
và thế trận của mình mà hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho. Trong từng trận đánh cụ thể,
trung đoàn phải đi sâu tìm hiểu, điều tra đối tượng tác chiến càng kỹ bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. Khi nghiên cứu về địch, cần chú ý chúng bao giờ cũng dùng hình thức bề ngoài để uy hiếp
tinh thần của ta như máy bay, pháo binh bắn phá, xe tăng, cơ giới gầm rú, dây thép gai chằng chịt,
v.v... nhưng thực chất là yếu. Cho nên, phải thấy trong cái yếu có chỗ mạnh đừng coi thường,
trong cái mạnh có chỗ yếu cần lợi dụng, trong cái kín có chỗ hở... phải tìm cho ra để đánh.

Hai là, phải làm cho cán bộ có thể hiểu và nắm địch một cách thường xuyên, liên tục.
Đây là một yêu cầu rất quan trọng. Dựa vào ưu thế về phương tiện cơ động và thông tin liên lạc,
quân Mỹ thường tìm mọi cách để làm cho ta lầm lạc khi xác định tình hình lực lượng, bố trí chiến
đấu của chúng. Nhất là khi bố trí ngoài trời, địch cố gắng giữ bí mật nơi trú quân, luôn di động
thay đổi nơi trú quân, nghi binh để đánh lừa ta. Ngay trong quá trình chiến đấu, địch cũng hay
dùng nghi binh để giữ bí mật việc tăng cường lực lượng hoặc rút lui. Do đó, khi đưa lực lượng
vào chiến đấu nếu không bám địch thường xuyên thì hoặc bố trí lực lượng đánh không thích hợp,
hoặc đánh không trúng, hoặc tìm không ra địch mà đánh. Kinh nghiệm chiến đấu ở miền Nam
cho biết, đã chuẩn bị đánh là phải có kế hoạch bám địch thật chặt, bằng nhiều biện pháp. Khi cần
thiết có thể dùng biện pháp trinh sát chiến đấu ở nhiều hướng để nắm địch, dùng lực lượng chiến
đấu nhỏ để kìm chân địch, bám địch.

Đánh tập trung trung đoàn thường là đánh vào mục tiêu rộng; trong trú quân ngoài
trời, quân Mỹ lại bố trí không thành quy luật nhất định, khi bị đánh có bộ phận sẽ nằm im không
chống cự, nhất là vào ban đêm, ở nơi địa hình có cây cối, suối khe che khuất. Muốn diệt gọn quân
địch phải vừa đánh vừa phát hiện địch, có phân công quan sát bám địch, không để sót địch.

Ba là, phải rèn luyện cho cán bộ có năng lực phân tích, tổng hợp các hiện tượng, tin
tức về hoạt động của địch để rút ra những kết luận chính xác. Do bị ta đánh nhiều trận đau nên
trong phòng ngự cũng như khi tấn công, địch sử dụng nhiều hình thức hoạt động để nghi binh và
phát hiện ta. Mặt khác tổ chức, trang bị của địch có nhiều thành phần, hoạt động của địch cũng
phức tạp. Mục tiêu đánh càng lớn thì tin tức cụ thể về địch càng phức tạp. Khi bị đánh, nhất là khi
phát hiện lực lượng ta tương đối lớn, địch lại càng tăng cường các hoạt động nghi binh. Có phân
tích, tổng hợp được tình hình địch, đi đến kết luận chính xác mới có thể nắm chắc địch, điều
khiển địch, giữ chủ động trong chiến đấu. Chúng ta đánh địch theo nguyên tắc buộc địch phải
đánh theo ý định của ta. Nắm địch chính xác là một điều kiện quyết định để đánh theo nguyên tắc
đó. Cho nên, cán bộ cơ quan trung đoàn phải có khả năng phân tích, tổng hợp, phải có phương
pháp thẩm tra tin tức, phải thực sự tự mình tìm hiểu tình hình những khi cần thiết. Cán bộ các đơn
vị dưới mỗi khi phân tích, tổng hợp tình hình phải vừa nắm tình hình cụ thể trong phạm vi đơn vị
mình vừa biết nhìn chung trong phạm vi toàn trung đoàn mới đánh giá địch được chính xác.

4. Rèn luyện nâng cao năng lực tổ chức bảo đảm chiến đấu.
Lực lượng đưa vào trận đánh càng lớn càng phải làm công tác bảo đảm cho tốt về các
mặt tinh thần và vật chất. Đánh tập trung với đối tượng là quân Mỹ có ưu thế về không quân,
pháo binh, khả năng cơ động và tăng cường lực lượng nhanh chóng trước, trong và sau chiến đấu,
công tác bảo đảm vật chất của trung đoàn phải đặc biệt chú ý bảo đảm thông tin liên lạc, bảo đảm
an toàn cho người và vũ khí, khí tài trước và sau trận đánh, bảo đảm cung cấp lương thực, đạn
dược, thuốc men.

Có bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt mới có thể đánh tập trung trung đoàn. Chiến
đấu càng phức tạp, khẩn trương, tình huống chiến đấu thay đổi nhanh chóng càng cần phải bảo
đảm thông tin liên lạc thông suốt. Phương tiện thông tin của quân đội ta hiện nay nhiều hơn trước.
Do đó, nâng cao năng lực tổ chức bảo đảm kế hoạch thông tin liên lạc của cán bộ là một vấn đề
then chốt để giữ vững thông tin liên lạc. Tăng cường phương tiện thông tin một cách hợp lý là
việc cần thiết, nhưng đối với quân đội cách mạng không thể vin lý do thiếu phương tiện mà
không kiên quyết giữ vững mạch máu thông tin liên lạc. Kinh nghiệm cũng cho biết, có phương
tiện nhiều mà tổ chức, kế hoạch kém thì trên dưới vẫn không nắm được nhau. Kỹ thuật, chiến
thuật thông tin không phù hợp với tư tưởng chiến thuật và sự phát triển cách đánh của ta thì
không những không liên lạc, chỉ huy được mà có khi còn làm trở ngại cho việc thực hiện chiến
thuật, gây tổn thất cho bộ đội.

Muốn có tổ chức, kế hoạch thông tin liên lạc được đúng đắn, muốn có kỹ thuật, chiến
thuật thông tin phù hợp với sự phát triển chiến thuật của ta, thì điều hết sức quan trọng là phải
nắm vững tư tưởng tác chiến và cách đánh cụ thể của ta. Nắm vững tư tưởng tác chiến để sử dụng
phương tiện cho đúng với thực tiễn Việt Nam. Không hiểu sâu cách đánh của ta cũng sẽ làm cho
kỹ thuật, chiến thuật thông tin, kế hoạch tổ chức thông tin bị lạc lõng. Sở chỉ huy trung đoàn đáng
lẽ đặt gần bộ đội, ở vị trí phù hợp với ý định chiến thuật, nhưng nếu đặt xa quá cũng gây khó
khăn cho việc tổ chức thông tin. Người chỉ huy không nắm vững đặc điểm kỹ thuật, chiến thuật
thông tin thì sử dụng lực lượng thông tin không thích hợp, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch thông tin
không đúng.

Bảo đảm an toàn, bí mật trước, trong và sau trận đánh. Đưa một trung đoàn tập trung
vào chiến đấu phải có kế hoạch tổ chức, chỉ huy bảo đảm an toàn, bí mật trước, trong và sau trận
đánh. Trong chiến đấu, Quân giải phóng miền Nam có nhiều kinh nghiệm rất hay về kế hoạch,
biện pháp và chỉ huy bảo đảm an toàn, bí mật, chống những hoạt động của máy bay, pháo binh
địch. Quân giải phóng đã làm cho địch bị thất bại nhiều lần trong ý định dùng máy bay, pháo binh
ngăn chặn, phá vỡ những cuộc tấn công của ta.
Chúng ta cần học tập Quân giải phóng miền Nam thật tỉ mỉ, thật toàn diện về mặt này.
Đồng thời hết sức chú ý đến việc làm kế hoạch và chỉ huy bảo đảm an toàn. Người chỉ huy phải
có kế hoạch cụ thể về đường hành quân, nơi trú quân, đội hình vận động, kế hoạch đi, dự kiến
trước âm mưu đánh phá của địch. Tuy vậy, nhiều khi do điều kiện địa hình hạn chế, do những yếu
tố ngẫu nhiên, nên trong kế hoạch bảo đảm phải chú ý đặc biệt đến thủ đoạn, biện pháp nghi binh
và chỉ huy đối phó một cách tích cực các thủ đoạn đánh phá của địch, nhất là khi địch phát hiện
và đánh phá khu vực bố trí hoặc cơ động của ta. Lúc này, cán bộ phải cương quyết chỉ huy đơn vị
áp dụng những biện pháp tích cực nhất để chống lại địch một cách có hiệu quả.

Bảo đảm cung cấp lương thục, đạn dược, thuốc men cho chiến đấu tập trung có những
yêu cầu riêng của nó. Khối lượng lớn mà lại phải cung cấp kịp thời, phải bảo đảm lương thực, đạn
dược, thuốc men trong điều kiện ta đánh bằng những hình thức chiến thuật có tính cơ động cao,
bố trí xen kẽ phức tạp, tình huống chiến đấu diễn biến nhanh chóng và đánh liên tục dài ngày.
Nếu đánh tập trung theo ý định tác chiến của sư đoàn, của chiến dịch thì lại phải bảo đảm lương
thực, đạn dược, thuốc men sao cho đủ để đánh liên tục, đánh hết mục tiêu này, khu vực này sang
mục tiêu khác, khu vực khác. Do đó đòi hỏi cán bộ chỉ huy, cơ quan chuyên môn phải bố trí hậu
cần thích hợp với cách đánh của ta, phải có năng lực tổ chức, phân phối, vận chuyển khẩn trương,
sử dụng lực lượng vận chuyển khéo léo để không làm ảnh hưởng đến kế hoạch tác chiến và sức
chiến đấu của bộ đội.

5. Rèn luyện cán bộ cơ quan trung đoàn có năng lực phục vụ chỉ huy tác chiến tập
trung.

Có thể nói cán bộ cơ quan trung đoàn có trình độ, năng lực toàn diện mới có thể phục
vụ chỉ huy tác chiến thắng lợi.

Một là, cán bộ cơ quan trung đoàn phải quán triệt sâu sắc yêu cầu đánh tập trung để
luôn có ý thức chuẩn bị và tạo điều kiện cho trung đoàn có thể đánh tập trung, có khi phải đánh
liên tiếp nhiều trận, đánh dài ngày, đánh nhiều mục tiêu trong phạm vi rộng. Khi theo dõi địch
phải biết đơn vị có thể tập trung đánh vào đâu, cần tạo ra những điều kiện gì để buộc địch sa vào
bẫy của ta. Khi nắm tình hình ta, cần biết đơn vị có bao nhiêu quân, bao nhiêu súng, khả năng,
trình độ tác chiến thế nào, đang bố trí ở đâu, hình thế bố trí thế nào, sức chiến đấu thực tế ra sao,
v.v... để đặt kế hoạch điều động, sử dụng lực lượng cho đúng, bảo đảm trung đoàn có thể sẵn sàng
nhanh chóng bước vào đánh tập trung. Tác chiến tập trung làm tăng khối lượng công tác bảo đảm
chiến đấu của cơ quan, nhưng yêu cầu tác chiến tập trung lại đòi hỏi phải khẩn trương, linh hoạt.
Ví như tổ chức cho đơn vị rút khỏi trận đánh và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, chấn chỉnh lại
tổ chức, trang bị, chuẩn bị bộ đội, nắm địch, v.v... phải làm nhanh, gọn, bí mật mới có thể giữ gìn
được lực lượng để đưa vào chiến đấu liên tục.

Hai là, cán bộ cơ quan trung đoàn phải nâng cao trình độ hiểu biết sâu về công tác cơ
quan, đồng thời phải có năng lực chỉ huy bộ đội chiến đấu. Đánh tập trung bằng lực lượng lớn,
đánh liên tục đòi hỏi việc tổ chức thực hiện quyết tâm phải làm nhiều việc. Do đó, mỗi cán bộ cơ
quan phải quán xuyến được nhiều việc, người nọ có thể thay thế người kia, khi cần thiết có thể
trực tiếp chỉ huy đơn vị chiến đấu.

Ba là, cán bộ cơ quan trung đoàn phải có tác phong khẩn trương, kỷ luật nghiêm
chỉnh, cách làm việc khoa học, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác để phục vụ đắc lực cho thủ trưởng nắm
chắc tình hình, nắm chắc đơn vị và đôn đốc, kiểm tra cấp dưới thực hiện kế hoạch, mệnh lệnh tác
chiến của trung đoàn. Trong chiến đấu, có khi người chỉ huy cần biết cụ thể tình hình đến mức chi
tiết nhất. Ví dụ, biết địch đóng sát bờ sông chưa đủ mà phải biết địch ở cách mép nước mấy mét,
bãi cát lầy ngập lún đến cổ chân hay đầu gồi. Giúp thủ trưởng nắm tình hình, tổ chức chiến đấu
theo yêu cầu đó đòi hỏi cán bộ cơ quan phải có tinh thần trách nhiệm, tác phong cụ thể, chính
xác, chân đi tới, mắt nhìn thấy, miệng nói tay làm, chống tác phong làm việc theo lối “ban nọ bệ
kia” một cách máy móc. Tác phong làm việc của cơ quan phải khoa học, nhưng tác phong khoa
học nhất là phải phục vụ chiến đấu tốt nhất, nhanh nhất.

Cán bộ chỉ huy và cán bộ cơ quan trung đoàn lại phải có năng lực sơ kết, tổng kết. Qua
chiến đấu, nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều việc làm tốt và không tốt cần được rút kinh nghiệm
kịp thời. Cán bộ cơ quan phải nhạy bén với cái mới, biết sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, nhanh
chóng đề đạt ý kiến với thủ trưởng để lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn chiến đấu thắng lợi và phổ
biến ngay cho các đơn vị trong trung đoàn.

MẤY KINH NGHIỆM VỀ QUYẾT TÂM RÈN LUYỆN

NânG CAO SỨC TIẾN CônG LIên TỤC(37)

Trong lúc bọn Giôn-xơn, Mắc Na-ma-ra tuyên bố ầm ĩ về cái gọi là “quân Mỹ đang
phản công giành chủ động”, Quân giải phóng “tránh đụng độ với quân Mỹ” và phải “phân tán
đánh du kích” thì một trận giao chiến lớn đã diễn ra tại vùng núi Plây Me, kéo dài liên tục hơn
một tháng. Các lực lượng vũ trang giải phóng miền Trung Trung Bộ, bằng một cuộc chiến đấu
dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, mưu trí, đã buộc các lực lượng cơ động chiến lược của cả quân
Mỹ lẫn quân ngụy phải bị động chiến đấu và chịu tổn thất nặng nề. Chính Oét-mo-len đã phải
công khai thú nhận “trận đánh do địch (Quân giải phóng) gây nên ở trại Plây Me hôm 19-11-1965
đã trở thành một chiến dịch hiện nay đang tiếp diễn và lớn hơn bất cứ chiến dịch nào. Toàn bộ
chiến dịch này chưa từng có về mức độ ác liệt, quân số tham gia và trong phần chiến đấu mà họ
gánh vác, quân Mỹ đã bị thương vong nặng hơn bất cứ trận giao chiến nào trước đó” (AP, 20-11-
1965).

Đợt hoạt động Plây Me kéo dài 38 ngày đêm, từ 19-10-1965 đến 26-11-1965. Mở đầu,
Quân giải phóng diệt đồn Chư Ho trong 6 phút đêm 19-10-1965, rồi vây đồn Plây Me trong 7
ngày đêm liền, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bắn rơi nhiều máy bay, buộc chúng phải
ứng cứu, và tiêu diệt quân tiếp viện lần thứ nhất gồm 2 tiểu đoàn bộ binh và 3 chi đoàn xe bọc
thép ngụy ngày 23-10-1965. Trong trận chiến đấu ngày 26-10-1965, một tiểu đội Quân giải phóng
đang làm nhiệm vụ bao vây đồn Plây Me đã chiến đấu trong 6 giờ liền với gần 1 tiểu đoàn bộ
binh ngụy có xe tăng, xe bọc thép dẫn đường, pháo binh, máy bay chi viện tiến về Plây Me, tiêu
diệt 150 tên địch (trong đó có toàn bộ bọn chỉ huy tiểu đoàn ngụy, bọn cố vấn Mỹ), phá hủy 2 xe
tăng, 3 xe M.113.

Sau gần 10 ngày chiến đấu, bọn Mỹ cho là Quân giải phóng đã bị tiêu hao, mệt mỏi,
cạn nguồn tiếp tế, thế nào cũng phải lui quân nghỉ ngơi lấy sức. Đây là thời cơ phản kích có lợi
nhất cho sư đoàn kỵ binh đường không số 1 của Mỹ với “sức cơ động vô cùng cao” và khả năng
làm “nhiệm vụ của một lực lượng phản ứng lớn trong vùng cao nguyên rừng núi”. Chúng cho 2 lữ
đoàn “kỵ binh bay” thay phiên nhau và sau thêm 1 lữ đoàn dù ngụy mở cuộc phản kích lớn vào
vùng núi Chư Pông từ 28-10-1965 đến 26-11-1965.

Do địa hình rừng núi phức tạp, chưa phát hiện được mục tiêu nên sau khi thiết lập các
căn cứ hành quân của lữ đoàn ở Bầu Cạn (28-10-1965), của tiểu đoàn ở Đức Nghiệp và Lệ Ngọc
(29-10-1965), chúng cho từng đại đội đổ bộ bằng máy bay lên thẳng theo lối “nhảy cóc” ngày
càng sâu, có khi nhảy lại chỗ cũ, kết hợp với hoạt động của gián điệp, biệt kích nhằm trinh sát,
thăm dò, tập kích vào những nơi mà chúng cho là kho tàng, cơ quan hậu phương và bộ phận đi lẻ
của Quân giải phóng.

Ngày 30, 31-10-1965, chúng đã “nhảy cóc” nhiều nơi hình thành một tuyến phía bắc
trục Plây Me - Chư Pông, nhưng chỉ chạm súng với các toán du kích. Từ 1-11-1965 đến 7-11-
1965, chúng lại tiếp tục “nhảy cóc” xuống trục Plây Me - Chư Pông, và đã bị các bộ phận nhỏ của
Quân giải phóng tiêu diệt một phần, số còn sống sót vội vã tháo chạy. Qua những cuộc chạm trán
trên, bọn Mỹ phán đoán là sau khi đánh Plây Me, Quân giải phóng có thể lùi về tuyến sau. Vì vậy,
từ 7-11-1965 đến 13-11-1965, chúng tích cực tổ chức trinh sát, tung các lực lượng nhỏ thực hiện
chiến thuật “bủa lưới” mới mà chúng gọi là “hoa mặt trời”, chuẩn bị để “phóng lao” đánh lớn ở
khu vực này.
Quân giải phóng đã đoán đúng ý định phản kích của địch và đã chuẩn bị sẵn sàng mọi
mặt để đánh bại địch khi chúng ra quân lớn, đồng thời tập kích căn cứ hành quân của địch ở Bầu
Cạn (đêm 12-11-1965). Trong năm ngày (từ 14-11-1965 đến 18-11-1965) bằng nhiều trận tập
kích, phục kích tài tình, Quân giải phóng đã tiêu diệt toàn bộ 1 tiểu đoàn và tiêu hao phần lớn 1
tiểu đoàn khác của Mỹ. Số còn lại tháo chạy thục mạng, vứt cả xác chết, bọn bị thương, xe, pháo,
máy bay lên thẳng.

Ngày 15-11-1965, lữ đoàn dù ngụy cũng đã ra Đức Cơ để phối hợp với quân Mỹ.
Nhưng trước tình trạng điêu đứng của sư đoàn “kỵ binh bay” và bản thân nó cũng bị đánh tơi bời
nên chúng vội vã rút lui.

Ngày 26-11-1965, cuộc hành quân phản kích của Mỹ chấm dứt bằng sự thất bại thảm
hại.

Toàn bộ đợt chiến đấu có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn 1 từ 15-10-1965 đến
27-10-1965, lực lượng tham chiến chủ yếu là ngụy quân; giai đoạn 2 từ 28-10-1965 đến 16-11-
1965, lực lượng tham chiến chủ yếu là quân Mỹ. Trong cả hai giai đoạn chiến đấu, Quân giải
phóng đã tiêu diệt gần 3.000 tên địch, trong đó có 1.700 tên xâm lược Mỹ.

Chiến thắng Plây Me đánh dấu thêm một bước trưởng thành rất quan trọng của Quân
giải phóng miền Nam. Nó cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Đó là kinh nghiệm
chiến đấu liên tục, tiến công liên tục trong nhiều ngày trên chiến trường rừng núi, kinh nghiệm
đánh bại quân của sư đoàn kỵ binh đường không số 1, một binh đoàn vào loại hiện đại nhất,
mạnh nhất của Mỹ hiện nay ở miền Nam nước ta.

MẤY NHẬN XÉT VỀ ĐỊCH, CHỦ YẾU VỀ SƯ ĐOÀN KỴ BINH ĐƯỜNG KHônG
SỐ 1 CỦA MỸ

Ở Plây Me, cả hai lực lượng Mỹ - ngụy đều tham chiến. Trong giai đoạn 1, lực lượng
tham chiến chủ yếu là quân ngụy. Quân Mỹ chỉ làm chỗ dựa và thúc ép bọn ngụy. Qua thực tế
diễn biến chiến đấu, cách đối phó của địch bộc lộ ra là:

Một là, khi Chư Ho bị diệt và Plây Me bị vây thì biện pháp đầu tiên của địch là dùng
không quân oanh tạc để giải vây. Chúng tiến hành mấy trăm cuộc ném bom, bắn phá quanh đồn
Plây Me từ 300 mét đến 2.000 mét bằng các loại máy bay chiến đấu và cả máy bay ném bom
chiến lược B.52. Đồng thời, chúng cho quân đổ bộ bằng máy bay lên thẳng gần cứ điểm để đánh
từ sau lưng Quân giải phóng. Bọn trong đồn cố phản kích nhưng rất yếu ớt.
Hai là, do Plây Me có tầm quan trọng lớn nên khi bị tiến công, địch tích cực viện, viện
ngay, viện to ngay từ đầu và viện nhiều lần. Khi đồn Chư Ho bị mất, đồn Plây Me bị vây, địch đã
vội vã điều động quân từ Tân Cảnh (Công Tum), Bình Định về ứng cứu. Đêm 19 rạng ngày 20-
10-1965 đồn bị vây thì ngày 23-11-1965 địch viện, lực lượng viện khá mạnh (2 tiểu đoàn bộ binh,
3 chi đoàn xe bọc thép). Bọn này bị tiêu diệt chiều ngày 23-10-1965 thì ngày 24-10-1965 chúng
cho đổ bộ 1 tiểu đoàn quân Mỹ xuống đông bắc đồn Plây Me khoảng 10 ki-lô-mét, và ngày 25-
10-1965 một tiểu đoàn quân Mỹ có xe tăng, cùng với bọn tàn quân lại tiếp tục theo đường bộ tiến
về Plây Me.

Ba là, do bị nhiều đòn phục kích nặng nên khi đi viện địch chuẩn bị và tổ chức hành
quân chu đáo. Trước khi hành quân tiếp viện địch tích cực trinh sát, thăm dò, nghi binh, đóng
những chốt lớn (một tiểu đoàn), sục sạo kỹ hai bên đường và hành quân rất chậm (2,5 đến 3 ki-lô-
mét một giờ).

Bốn là, quân ngụy vẫn tiếp tục lao nhanh trên đà suy sụp, tan rã về tinh thần, về sức
chiến đấu trước sự tiến công vũ bão của Quân giải phóng. Khi hành quân thì dò dẫm, sợ sệt, bọn
này đẩy bọn kia, khi bị tiến công thì chống đỡ yếu ớt, bọn đầu hàng, bọn tháo chạy tán loạn.

Trong giai đoạn 2, lực lượng tham chiến chủ yếu là quân Mỹ. Đây là lần đầu tiên sư
đoàn kỵ binh đường không của Mỹ ra quân với quy mô tương đối lớn. Qua thực tế diễn biến ở
Plây Me, ta có thể thấy những chỗ mạnh của sư đoàn kỵ binh này như sau:

Chúng có nhiều trang bị và kỹ thuật hiện đại, có nhiều phương tiện trinh sát, thông tin,
nhất là trinh sát trên không, nên chúng có thể phát hiện nhanh, báo tin nhanh, do đó có thể hành
động, đối phó nhanh. Được trang bị chừng 450 máy bay lên thẳng, sư đoàn này có sức cơ động
cao, có thể đổ bộ liên tục, nhiều nơi trong một lúc. Hỏa lực của chúng cũng khá mạnh, nhất là hỏa
lực trên không với sự hoạt động của máy bay phản lực chiến đấu, máy bay lên thẳng trang bị tên
lửa, và khi cần thiết có sự chi viện của máy bay ném bom chiến lược B.52.

Nếu được hoạt động trên địa hình thuận lợi, nếu được chủ động đánh theo cách đánh
của chúng và buộc đối phương đánh theo ý chúng, thì địch có thể phát huy những chỗ mạnh nói
trên và gây cho đối phương nhiều khó khăn. Trái lại, trên chiến trường rừng núi Tây Nguyên, điều
kiện địa hình, thời tiết không thích hợp, nhất là cách đánh tài tình, dũng cảm, mưu trí của Quân
giải phóng đã hạn chế và tước bỏ nhiều chỗ mạnh của địch.

Mặt khác, qua trận Plây Me, sư đoàn kỵ binh đường không của Mỹ bộc lộ nhiều điểm
yếu khác khó khắc phục. Tiếng là một sư đoàn, nhưng do khả năng vận chuyển, tiếp tế có hạn, lại
phải có lực lượng bảo vệ căn cứ, nên nếu sử dụng tập trung toàn sư đoàn tác chiến, cùng một lúc
thì chúng gặp rất nhiều khó khăn. Ở Plây Me, chúng chỉ ra quân được một lữ đoàn. Càng tác
chiến xa “hậu cứ” số lượng tham chiến có thể càng giảm, lực lượng phục vụ càng tăng, chúng
buộc phải thiết lập thêm căn cứ hành quân.

Mặc dầu chúng khoe khoang về khả năng hoạt động ở miền rừng núi, “có tiềm lực rất
lớn, có thể thực hiện được mọi kiểu hành quân”, nhưng là một binh đoàn cơ động bằng đường
không, vấn đề đổ quân nhanh hay chậm, tập trung hay phân tán, liên quan rất lớn đến điều kiện
triển khai đội hình, đến sức chiến đấu của nó. Ở Plây Me, do địa hình phức tạp, chúng phải đổ
quân “nhỏ giọt” từng đại đội xuống từng bãi cách xa nhau và bị địa hình chia cắt. Giữa các đợt đổ
bộ có một khoảng cách thời gian nhất định. Ngay khi mới đổ quân, địch đã bị dồn vào thế phân
tán, cô lập, xuống ít thì dễ bị tiêu diệt ngay, xuống nhiều nơi cùng một lúc để hình thành thế bao
vây hợp kích thì từng nơi một dễ bị bao vây và từng bộ phận một bị tiêu diệt (như trường hợp tiểu
đoàn 1 của Mỹ đổ xuống vùng Bắc Chư Pông). Không phải ngẫu nhiên mà có tên nghĩ quẩn đến
việc đổ quân xuống ngọn cây để tránh bị tiêu diệt.

Nếu trước khi đổ bộ chúng có thể phát dương mạnh mẽ hỏa lực để dọn bãi, cản đường
tiếp cận của Quân giải phóng, thì khi xuống đất, ở tư thế vận động, hoặc khi Quân giải phóng đã
bám sát được, sức chiến đấu của lực lượng xung kích của chúng không mạnh vì thiếu hỏa lực
pháo binh chi viện và cơ giới dẫn đầu, lại thêm những khó khăn khi triển khai đội hình chiến đấu
và vận động bằng đôi chân để tiếp cận mục tiêu. Không kể các đại đội “nhảy cóc”, bị đánh tan
ngay, các lực lượng lớn cũng không đủ sức đương đầu với những cuộc tiến công mạnh mẽ của
Quân giải phóng, “bị ghìm chặt dưới một lưới lửa dày đặc” (như bọn chúng đã phải thú nhận) và
bị tiêu diệt nhanh chóng.

Về chiến thuật, quân Mỹ tổ chức các cuộc đổ bộ nhỏ từng đại đội theo lối “cóc nhảy”
để thăm dò và phát hiện mục tiêu. Khi đã xác định được mục tiêu công kích chúng mới tổ chức
các gọng kìm lớn với lực lượng từng tiểu đoàn, tận dụng khả năng cơ động để chủ động và bất
ngờ tập kích vào sườn hoặc sau lưng đội hình chiến đấu hay cơ quan hậu phương của Quân giải
phóng. Chúng huênh hoang rằng chúng có khả năng đến nhanh, tiến công nhanh và rút lui nhanh.
Nhưng thực tế thì khi tiến công nhanh không thành công, khi buộc phải chiến đấu trong một thời
gian dài trên mặt đất thì sức chiến đấu của chúng càng kém, khả năng phòng ngự tồi, không chịu
nổi những đòn tập kích sấm sét của Quân giải phóng. Một đơn vị Quân giải phóng, bằng 2 trận
tập kích và 1 trận phục kích trong ba ngày liền, đã tiêu diệt toàn bộ 1 tiểu đoàn của Mỹ. Việc vận
dụng chiến thuật bị thất bại còn là do trình độ non kém của bọn chỉ huy. Bọn này hèn nhát, thiếu
kinh nghiệm, máy móc, rập khuôn theo điều lệnh, và tỏ ra rất lúng túng, hoang mang khi gặp
những tình huống phức tạp, khi không được máy bay, pháo binh chi viện.
Một điều làm cho bọn tướng tá Mỹ hết sức đau đầu là trong khi chúng đang gặp những
khó khăn rất lớn về tiếp tế, hậu cần, thì sư đoàn này với trang bị “quá hiện đại”, với chiến thuật
“đường không” đã ngốn một khối lượng vật chất khổng lồ, đòi hỏi nhiều sức phục vụ. Ở Plây Me,
một lữ đoàn ra quân, một ngày tiêu thụ gần 600 tấn nhiên liệu, lương thực, đạn dược. Bọn lính
“công tử” Mỹ không chịu đựng nổi những thiếu thốn về vật chất, và tinh thần vốn đã thấp kém
càng sa sút nghiêm trọng khi tiếp tế bị cắt đứt.

Là một đội quân xâm lược, điều yếu cơ bản nhất của quân Mỹ vẫn là tinh thần chiến
đấu. Bọn Giôn-xơn, Mắc Na-ma-ra đã hết lời ca tụng tinh thần “tuyệt vời” của lính “không vận”,
nhưng tại mặt trận Plây Me, tinh thần của sĩ quan và binh lính Mỹ rõ ràng là sa sút và bạc nhược
một cách thảm hại. Đây mới là nguyên nhân chính của sự phá sản của mọi ý đồ và hành động
chiến thuật “mới” của sư đoàn kỵ binh đường không số 1.

Tóm lại, khả năng cơ động cao của máy bay lên thẳng, hỏa lực nhiều của không quân
đã không tạo nên sức mạnh đáng kể và càng không bù đắp nổi nhược điểm về tinh thần chiến đấu
cho sư đoàn “kỵ binh bay” của Mỹ trong trận thử lửa thực sự đầu tiên này.

Qua đây, chúng ta càng hiểu thêm quân đội Mỹ, thấy và đánh giá đúng mức hơn những
chỗ mạnh của địch mà ta có đủ khả năng hạn chế được, đồng thời cũng thấy rõ hơn những chỗ
yếu rất cơ bản mà địch khó lòng khắc phục được và rất dễ bị khoét sâu.

Trước tình hình diễn biến và mấy nhận xét về địch như trên, chúng ta có thể rút ra mấy
bài học kinh nghiệm sau đây:

I. CHIẾN ĐẤU LIên TỤC

Thắng lợi rực rỡ của các lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc chiến đấu liên tục ở
mặt trận Plây Me trước hết và chủ yếu là thắng lợi của tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan
cường, mưu trí và bền bỉ của quân đội cách mạng, mà biểu hiện cụ thể là quyết tâm chiến đấu rất
cao. Thật vậy, trước hỏa lực dày đặc của không quân, pháo binh và sức đột kích của đoàn xe bọc
thép của địch, trong những tình huống chiến đấu vô cùng ác liệt, Quân giải phóng vẫn “vững như
thành đồng”, luôn đứng vững trên tư thế tiến công và tiến công liên tục, siết chặt vòng vây, đánh
hết trận này qua trận khác, nêu rất nhiều tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Một
phân đội bộ binh trong trận phục kích ngày 19-10 đã xung phong tiêu diệt cả một đoàn xe tăng và
xe bọc thép. Một tiểu đội chặn đánh gần một tiểu đoàn địch suốt mấy giờ liền. Có đơn vị đánh
liền 6 trận. Chiến đấu càng ác liệt thì khí phách anh hùng của Quân giải phóng càng nổi bật. Đơn
vị bao vây Plây Me, mặc dầu gặp nhiều khó khăn, chịu đựng hàng tấn bom đạn, vẫn kiên quyết
“bóp cổ” địch, buộc chúng phải kêu cứu. Vì sao vậy? Đó là vì quân đội ta có một trình độ giác
ngộ chính trị rất cao, căm thù giặc sâu sắc, có một niềm tin tất thắng mãnh liệt, nhận rõ nhiệm vụ
cách mạng, thấu suốt nhiệm vụ chiến đấu của mình. Các đơn vị ở đây nhận rõ là khi đã tham gia
chiến đấu là phải đánh to ngay, đánh liên tục, đánh cả Mỹ lẫn ngụy, trong những tình huống ác
liệt. Chính vì thế mà anh em có quyết tâm chiến đấu rất cao, không lùi bước trước bom đạn,
không sợ hy sinh, gian khổ, có gan dám đánh và quyết đánh thắng bất cứ kẻ địch nào, trong bất
cứ tình huống nào. Có đơn vị chạm trán ngay với quân Mỹ trong một tình huống hết sức khẩn
trương, đã đánh thắng trận đầu và chiến thắng liên tiếp. Trước kẻ địch ngoan cố, xảo quyệt, quân
ta luôn luôn biểu thị tinh thần tích cực, chủ động tạo mọi thời cơ đánh địch, sáng tạo và vận dụng
những hình thức chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu táo bạo đánh thắng địch, kiên trì, bền bỉ đánh
địch đến cùng.

Bài học ở đây rõ ràng vẫn là: trong việc xây dựng quân đội nói chung cũng như khi
làm nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu phải hết sức coi trọng xây dựng và chuẩn bị về mặt chính trị, tư
tưởng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định
mọi thắng lợi của quân đội nói chung và của mọi nhiệm vụ chiến đấu. Trong nhiệm vụ chống Mỹ,
cứu nước hiện nay, chúng ta phải đánh thắng một kẻ địch mạnh hơn ta về trang bị kỹ thuật, có
nhiều âm mưu thâm độc, nhiều thủ đoạn tàn bạo. Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng
phải tập trung xây dựng quyết tâm chiến đấu thật cao, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh,
quyết tâm tiêu diệt mọi kẻ địch trong mọi tình huống.

Chiến đấu liên tục thì công tác chính trị cũng phải liên tục. Công tác giáo dục chính trị,
lãnh đạo tư tưởng trong cuộc chiến đấu liên tục ở Plây Me được đặc biệt coi trọng trong suốt quá
trình chiến đấu, ngay sau những trận thắng lớn. Vấn đề này rất cần thiết. Vì rằng trong thắng lợi
ta vẫn có thể gặp một số khó khăn nhất định trong việc thu dọn chiến trường, nhanh chóng khôi
phục sức chiến đấu v.v… Kẻ địch bị thua sẽ điên cuồng giãy giụa. Quân viện trước khi bị tiêu
diệt, chúng tổ chức viện tiếp (có khi lớn hơn). Đợt đổ bộ này không thành công, chúng đổ thêm
đợt khác. Oanh tạc lần này chưa có kết quả, chúng tăng cường oanh tạc tiếp theo. Trong tình hình
ấy, chỉ có liên tục làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng, phát huy khí thế chiến thắng, khắc phục
hiện tượng thỏa mãn và các hiện tượng tiêu cực khác thì mới có thể nhanh chóng khôi phục sức
chiến đấu, liên tục chiến đấu, tranh thủ thời cơ giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.

Cuộc chiến đấu ở Plây Me phát triển thắng lợi và liên tục còn là do quân ta đã tích cực
tạo thời cơ và chủ động tranh thủ thời cơ đánh địch ngoài công sự, đánh liên tục bằng nhiều hình
thức. Quán triệt tinh thần lấy yếu đánh mạnh, vận dụng linh hoạt phương châm đánh địch ngoài
công sự, trước hết Quân giải phóng tạo thời cơ đánh viện bằng cách “đặt ngòi pháo” rất đúng chỗ
(Plây Me), và đã tạo nên một phản ứng dây chuyền: viện, từ viện nhỏ đến viện to, hết ngụy đến
Mỹ-ngụy, viện đường bộ, viện đường không, viện đi, viện về. Trong giai đoạn 2 của đợt hoạt
động, bọn Mỹ khoác lác rằng chúng đang “truy lùng, phản kích” Quân giải phóng, nhưng thực ra
đây chính là một phản ứng, một thời cơ do Quân giải phóng tạo ra trên cơ sở thắng lợi của giai
đoạn 1 buộc địch phản kích tức là buộc chúng tự dẫn thân ra để chịu những đòn tiến công ác liệt.
Tạo được những thời cơ rất thuận lợi như trên, Quân giải phóng đã tước bỏ nhiều chỗ mạnh của
địch như công sự kiên cố, hỏa lực có chuẩn bị sẵn, khả năng ngăn chặn đối phương từ xa, khả
năng ứng cứu lẫn nhau, khoét sâu những nhược điểm của địch về tinh thần chiến đấu khi thoát ly
công sự, khi bị phân tán, khi chiến đấu trên địa hình không quen thuộc, phức tạp; về trình độ tổ
chức chỉ huy tồi trong những tình huống phức tạp của bọn sĩ quan; về sức chịu đựng kém của
quân đội Mỹ và tay sai trong chiến đấu liên tục, xa hậu phương; về khả năng tiếp tế, vận chuyển,
hậu cần. Về phía mình, quân ta lại có điều kiện phát huy cao độ ưu thế về chính trị - tinh thần, có
điều kiện phát huy rộng rãi sự phối hợp ba thứ quân của lực lượng vũ trang, phát huy tính mưu trí
linh hoạt, phát huy sở trường đánh gần, đánh đêm, đánh liên tục.

Tạo được thời cơ tốt, Quân giải phóng cũng đã chủ động tranh thủ nhiều thời cơ đánh
địch. Đó là lúc địch kéo quân đi viện (trận phục kích ngày 23-10-1965), lúc tàn quân địch cụm lại
(đêm 23-10-1965), lúc địch vừa tổ chức căn cứ hành quân, lúc địch “nhảy cóc”, nhất là lúc địch
đổ quân liên tục, cụm lại và lúc chúng tháo chạy (tiểu đoàn 1 của Mỹ đổ quân lúc 9 giờ ngày 14-
11-1965 bị đánh phủ đầu ngay, một đại đội bị tiêu diệt; mờ sáng ngày 15-11-1965, một đại đội
khác bị tập kích và cũng bị tiêu diệt gọn sau 30 phút, mờ sáng ngày 16-11-1965 sở chỉ huy tiểu
đoàn và đại đội súng cối bị tập kích và bị tiêu hao nặng và chiều ngày 17-11-1965, khi số còn lại
của tiểu đoàn này rút chạy thì bị tiêu diệt nốt trong một trận phục kích ở Ia Đrăng).

Không những tranh thủ thời cơ đánh từng trận mà Quân giải phóng còn tranh thủ thời
cơ giữ vững thế liên tục tiến công trên chiến trường. Từng đơn vị cũng đã đánh nhiều trận nối tiếp
nhau; trong từng trận có đơn vị đã đánh liên tục hết ngày đến đêm như trận tiêu diệt tiểu đoàn 1
nói trên. Tính chất liên tục ngày càng cao cả về chiến dịch cũng như chiến đấu, về thời gian và về
trận đánh lại tăng thêm điều kiện thuận lợi tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ đánh địch.

Trong quá trình chiến đấu liên tục, Quân giải phóng còn khéo vận dụng nhiều hình
thức chiến thuật thích hợp và nhanh chóng chuyển từ hình thức này sang hình thức khác.

Hình thức đánh điểm, vây điểm, diệt viện đã được áp dụng một cách hết sức linh hoạt,
sáng tạo với quyết tâm và bản lĩnh cao. Bằng hình thức cường tập, Quân giải phóng đã diệt đồn
Chư Ho trong 6 phút, vây đồn Plây Me trong suốt 7 ngày đêm liền. Các hình thức phục kích vận
động (trận phục kích ngày 23-11-1965), hình thức tập kích quân địch tạm dừng ngày, đêm và hình
thức vận động tiến công vào quân địch đang đổ bộ, vừa tạm dừng, đang rút chạy đã được vận
dụng rộng rãi và thành công lớn, đáng chú ý là hình thức tiến công vận động. Trong giai đoạn 2,
quân Mỹ dựa vào sức cơ động cao, điều kiện địa hình, khả năng hỏa lực chi viện, đã cho đổ quân
nhiều nơi, liên tục. Nhưng nhờ vận dụng linh hoạt, kiên quyết hình thức tiến công vận động,
Quân giải phóng không bị động đối phó, vẫn nắm được lực lượng và cơ động đến tiến công vào
những mục tiêu đã định.

Trong quá trình chiến đấu, Quân giải phóng đã nhanh chóng chuyển từ hình thức chiến
thuật này sang hình thức chiến thuật khác, từ phục kích chuyển sang tập kích, từ công kiên đến
vận động, từ tiến công sang phòng ngự. Có đơn vị, ngày đánh phục kích, đêm tập kích. Có đơn vị
trong ba ngày liền hết tập kích, phục kích đến tiến công vận động. Một tiểu đội đang làm nhiệm
vụ bao vây đồn (tiến công) quay sang đánh phản kích (phòng ngự) một tiểu đoàn địch trong một
tình huống hết sức khẩn trương, bất ngờ.

Nhờ khéo vận dụng và kết hợp nhiều hình thức chiến thuật và nhanh chóng chuyển từ
hình thức này sang hình thức khác nên mặc dù địch tìm mọi thủ đoạn đối phó, tình huống có lúc
xảy ra ngoài dự kiến, Quân giải phóng vẫn giữ được quyền chủ động đánh địch trong mọi tình
huống, khuếch trương được chiến quả, phát triển chiến đấu thuận lợi, liên tục, không bị động
trước sự diễn biến phức tạp của chiến đấu, không phải dừng lại chuẩn bị lâu. Sự thành công của
Quân giải phóng về mặt này đánh dấu một bước trưởng thành nhanh chóng về tư tưởng, về chiến
thuật, kỹ thuật, thể lực, về trình độ lãnh đạo và tổ chức chỉ huy, về công tác bảo đảm hậu cần. Nó
chứng tỏ Quân giải phóng có khả năng mở những đợt hoạt động liên tục, dài ngày, có thể chiến
thắng bất cứ loại quân nào của Mỹ trong những tình huống rất khẩn trương và ác liệt.

Kéo địch ra ngoài công sự, ra xa hậu phương, kìm chân địch, phân tán địch, chọn và
nắm thời cơ đánh địch ở địa điểm và thời gian có lợi nhất, đánh liên tục, bằng nhiều hình thức
chiến thuật rất linh hoạt, Quân giải phóng đã lần lượt tiêu diệt hết đại đội này, tiểu đoàn này đến
đại đội khác, tiểu đoàn khác của cả Mỹ lẫn ngụy trong những trận đánh nhanh, gọn, liên tục.

Quân giải phóng thành công trong việc tạo thời cơ và nắm thời cơ đánh địch và đánh
liên tục vì có quyết tâm chiến đấu chính xác như xác định đúng mục đích, yêu cầu của đợt hoạt
động, phương châm tác chiến, hình thức chiến thuật, cách sử dụng lực lượng, chọn mục tiêu, v.v...
trên cơ sở đánh giá đúng đắn khả năng của mình, dự kiến đúng cách đối phó của địch, lợi dụng
được điều kiện chiến trường và do kiên trì giữ vững quyết tâm, linh hoạt xử trí trong quá trình
chiến đấu. Thành công ấy còn do sự nỗ lực chủ quan rất lớn của cán bộ và chiến sĩ đã nêu cao ý
chí chiến đấu, dũng khí cách mạng, vượt qua bom đạn, khắc phục khó khăn, luôn xốc tới, bám
địch mà đánh, đánh nạnh, đánh liên tục. Đó còn là do bộ đội có bản lĩnh chiến đấu cao, thường
xuyên sẵn sàng chiến đấu, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ giỏi, tổ chức chiến đấu khẩn
trương chu đáo, chỉ huy kiên quyết, linh hoạt, khôi phục sức chiến đấu kịp thời.

Thực tế chiến thắng Plây Me cho ta thấy rõ thêm một điều là muốn tiến hành những
đợt hoạt động dài ngày, bộ đội phải có khả năng vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, kết hợp
nhiều hình thức, hoặc nhanh chóng chuyển từ hình thức này sang hình thức khác. Khả năng ấy sẽ
tạo điều kiện cho đợt hoạt động càng phát triển liên tục.

Học tập kinh nghiệm của chiến thắng Plây Me, chúng ta cần ra sức phấn đấu xây dựng
những đơn vị giỏi toàn diện. Trên cơ sở huấn luyện để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trước mắt,
các lực lượng vũ trang của ta, chủ yếu là bộ đội chủ lực, phải có trình độ chiến thuật toàn diện và
vững chắc: tiến công giỏi (chủ yếu là tiến công vận động), phòng ngự giỏi, đánh công sự vững
chắc cũng giỏi, đánh địch dưới đất giỏi, đánh địch trên không cũng giỏi, đánh đêm, đánh ngày,
đánh ở địa hình rừng núi hay đồng bằng đều giỏi. Phải có trình độ kỹ thuật điêu luyện: đánh giáp
lá cà, nhất là ban đêm, đánh xe cơ giới, đánh máy bay, hành quân, ngụy trang, đào công sự; tạo
điều kiện phát huy ưu thế về chính trị - tinh thần của ta, tránh được những chỗ mạnh về hỏa lực
của không quân và pháo binh địch. Phải thành thạo cả động tác giải quyết chiến trường (tự cấp
cứu, cấp cứu lẫn nhau, bắt tù binh, thu chiến lợi phẩm, rời khỏi trận địa). Bộ đội lại phải dẻo dai,
bền bỉ, đủ sức đánh liên tục, nhiều trận liên tục, suốt một đợt hoạt động dài. Cán bộ chúng ta cần
ra sức nâng cao trình độ lãnh đạo, năng lực tổ chức chỉ huy, rèn luyện tác phong chỉ huy, đi sâu
vào các khâu giáo dục và lãnh đạo tư tưởng, tạo và nắm thời cơ đánh địch, nắm và sử dụng lực
lượng, nhất là lực lượng dự bị, làm chủ chiến trường, giải quyết chiến trường sau chiến đấu, vấn
đề quản lý lực lượng, khôi phục sức chiến đấu của đơn vị sau từng trận và từng đợt v.v…

Ở Plây Me, tất cả các trận chiến đấu lớn, nhỏ, với mức độ khác nhau đều thắng lợi,
góp phần vào thắng lợi chung của cả đợt. Một nguyên nhân trực tiếp của những trận thắng ấy là
tinh thần chủ động hợp đồng của các phân đội. Ví dụ: một toán chiến sĩ của nhiều đơn vị đang đi
công tác nghe súng nổ lập tức tự tổ chức thành đơn vị chiến đấu, vận động đến tiến công vào
sườn quân địch trong khi một phân đội khác đánh địch ở trước mặt hình thành sự phối hợp tự
động nhưng rất ăn khớp. Được tin tàn quân của tiểu đoàn 1 (Mỹ) tháo chạy, hai phân đội của hai
đơn vị khác nhau vận động đuổi theo đánh địch. Phân đội này nổ súng, phấn đội kia lập tức phối
hợp, tạo thế bao vây chặt chẽ và tiêu diệt gọn quân địch. Các chiến sĩ Quân giải phóng đã biết lấy
việc tiêu diệt địch làm mục đích cao nhất của mọi hành động, lấy tiếng súng làm mệnh lệnh chiến
đấu, gặp địch là đánh, thấy bạn chiến đấu là tự động phối hợp, tích cực chi viện. Có ý thức chủ
động hợp đồng, tự động phối hợp như thế là do quân đội ta, một đội quân cách mạng, đã nhận rõ
nhiệm vụ và mục đích chiến đấu của mình. Cán bộ nhất là cấp đại đội và chiến sĩ đã quán triệt ý
định cấp trên, trên dưới nhất trí về tư tưởng chiến thuật, về cách đánh, có tinh thần đoàn kết chiến
đấu cao. Trong kháng chiến trước đây, nhiều đơn vị đã có tác phong chiến đấu tốt đẹp: nghe tiếng
súng là anh em có thể đoán được đơn vị bạn đang làm gì, tình huống thế nào, cấp trên muốn gì,
họ tự giác, chủ động nhanh chóng hành động theo sự hiểu biết, sự “thông cảm” ấy. Thực tế ở Plây
Me, cũng như nhiều trận khác ở miền Nam càng chứng tỏ rằng trong cuộc chiến đấu quyết liệt
với kẻ địch mạnh hơn ta về trang bị kỹ thuật, lại ngoan cố, xảo quyệt, tình huống sẽ diễn ra nhanh
chóng và phức tạp, nhất là trong tác chiến vận động. Việc nắm địch, nắm ta, tổ chức hợp đồng
động tác, chỉ huy sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ có phát huy cao độ tinh thần tích cực chủ động,
tính linh hoạt của cán bộ và chiến sĩ thì mới khắc phục được khó khăn và chiến thắng địch.

Học tập kinh nghiệm của chiến thắng Plây Me, chúng ta cần không ngừng rèn luyện
cho cán bộ và chiến sĩ tính linh hoạt, chủ động trên cơ sở quán triệt nhiệm vụ, thống nhất tư
tưởng, khắc phục những hiện tượng máy móc, cứng nhắc, chờ đợi kế hoạch, chờ đợi mệnh lệnh.
Đành rằng đánh nhau phải có kế hoạch, có mệnh lệnh, cán bộ các cấp phải làm tròn chức trách
chỉ huy của mình, nhưng trong những tình huống phức tạp phải có gan hành động thích ứng với
tình huống, lấy việc chi viện bạn, tiêu diệt địch, làm mục đích. Qua huấn luyện chiến đấu mà xây
dựng sự nhất trí, ăn ý, thông cảm lẫn nhau giữa cấp trên và cấp dưới, giữa phân đội này và phân
đội khác. Trong vấn đề này, đại đội giữ vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói đại đội là đơn vị có
điều kiện thực hành “tự động phối hợp” nhanh, gọn và có hiệu quả. Cần rèn luyện kỹ cả ba mặt:
tư tưởng, tác phong và năng lực chiến đấu cho đại đội.

Qua cuộc chiến đấu liên tục ở Plây Me, một vấn đề nữa được đặt ra là làm thế nào
giành quyền làm chủ chiến trường. Khi một đơn vị quân Mỹ đổ bộ xuống bị tiêu diệt, chúng
thường đối phó bằng cách đổ thêm quân, hòng đẩy lùi Quân giải phóng, giành quyền làm chủ
chiến trường, thu nhặt bọn bị giết, bị thương, số còn sống sót, vớt vát một phần ảnh hưởng, hoặc
dùng không quân đến bắn phá dữ dội quanh khu vực tác chiến để sát thương, ngăn cản Quân giải
phóng thu dọn chiến trường. Vậy làm thế nào để giành quyền làm chủ chiến trường, thu dọn
chiến trường tốt được? Theo kinh nghiệm của Quân giải phóng ở Plây Me, có ba vấn đề chính cần
phải giải quyết:

Một là, phải có tinh thần tiêu diệt địch cao, triệt để, cụ thể là mọi người phải nhận rõ
tiêu diệt địch không phải chỉ là giết được nhiều địch - tất nhiên đây là một yêu cầu hết sức quan
trọng - mà còn phải bắt được nhiều tù binh, thu được nhiều chiến lợi phẩm (vũ khí, đạn dược,
lương thực...) để bồi dưỡng mình, tăng sức chiến đấu cho mình, làm giảm sức chiến đấu của địch.
Có nhận thức đầy đủ như thế mới có quyết tâm, có biện pháp tích cực làm chủ chiến trường.
Hai là, phải có biện pháp tổ chức chu đáo. Người chỉ huy phải có kế hoạch và có lực
lượng dự bị sẵn sàng tung ra để giành quyền làm chủ chiến trường, phải tổ chức lực lượng thu
dọn; chiến sĩ phải thành thạo động tác thu dọn chiến trường, đặc biệt, phải tổ chức phòng không
chu đáo.

Ba là, tổ chức chỉ huy phải linh hoạt; chọn thời cơ nổ súng, địa điểm tác chiến, cách
đánh thích hợp, làm cho địch không đủ thời gian, đủ sức giành quyền làm chủ chiến trường với
ta.

Trong huấn luyện, kể cả diễn tập, chúng ta thường xem nhẹ, khi bỏ qua giai đoạn chiến
đấu này, một phần do chưa thấy hết tính chất phức tạp, ý nghĩa thực tiễn của nó đối với kết quả
của toàn bộ trận đánh, đó là mặt chủ yếu; một phần do có khó khăn trong việc thể hiện những tình
huống thực trên bãi tập. Cần khắc phục thiếu sót ấy bằng cả hai biện pháp: thông về tư tưởng và
có biện pháp tổ chức thích hợp trong huấn luyện, làm sao cho cán bộ, nhất là những cán bộ chưa
qua chiến đấu, hình dung được phần nào tình hình thực tế lúc bấy giờ; cần chuẩn bị tinh thần và
bồi dưỡng năng lực cho cán bộ để có thể xử trí tình huống một cách khẩn trương nhưng tỉnh táo,
chủ động.

II. CHỈ HUY TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG, KHẨN TRươNG, GươNG MẪU, MƯU TRÍ,
LINH HOẠT

Tích cực, chủ động, khẩn trương là một tác phong chỉ huy rất quan trọng trong hoàn
cảnh chiến đấu với kẻ địch có phương tiện cơ động nhanh, có hỏa lực nhiều như sư đoàn kỵ binh
đường không số 1. Nhiều cán bộ Quân giải phóng đã thể hiện rất tốt tác phong này. Ví dụ, có đơn
vị đang hành quân, chưa nắm được địch thật cụ thể, cán bộ đã mạnh dạn nhận nhiệm vụ, khắc
phục mọi khó khăn, lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh quân Mỹ đổ bộ trong
hoàn cảnh rất khẩn trương. Phát huy chiến thắng trận đầu, chỉ trong mấy ngày, đơn vị ấy đánh
liền mấy trận và đều thắng lợi giòn giã. Một chính trị viên đại đội đang cùng đi công tác với một
toán chiến sĩ của nhiều đơn vị thấy địch đổ bộ và nghe tiếng súng đơn vị bạn, đã nhanh chóng
động viên chiến sĩ, tổ chức thành đơn vị chiến đấu, tham gia đánh địch ngay. Cũng tại vùng núi
Chư Pông, đại đội “kỵ binh bay” của Mỹ vừa “nhảy cóc” xuống chưa đầy 10 phút đã bị đánh tan
tác. Người chỉ huy, cơ quan chỉ huy phải phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, khẩn trương
trong việc nắm địch, tổ chức đánh địch, khôi phục sức chiến đấu, v.v... thì mới có thể đánh như
thế, thắng như thế. Trong chiến đấu hiện đại đừng nói đến chậm 1 giờ mà chỉ cần chậm 1 giây, 1
phút là đủ bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch, có khi còn bị thiệt hại nữa.
Học tập tác phong chỉ huy tích cực, chủ động, khẩn trương tốt của cán bộ trong chiến
đấu, chúng ta cần nhận rõ ý nghĩa và nội dung của nó, phát huy những ưu điểm sẵn có và thường
xuyên rèn luyện trong công tác hàng ngày, trong huấn luyện và chiến đấu, như tranh thủ thời gian
xây dựng đơn vị trong khi đang công tác, chủ động kết hợp huấn luyện với chiến đấu, khẩn
trương và nghiêm túc chấp hành mọi mệnh lệnh với tinh thần triệt để, sáng tạo “nghe một làm
mười”. Cán bộ phải thường xuyên đi sát đơn vị, tìm hiểu tình hình, vì có nắm được tình hình,
hiểu được nguyện vọng và thấy khả năng quần chúng mới có ý kiến xác đáng, mới mạnh dạn làm.

Thái độ ỷ lại, do dự, dựa dẫm, “đợi trên chờ dưới”, quan liêu cách bức, tác phong chấp
hành mệnh lệnh theo kiểu “mặc cả”, “cao su”, không có gan làm, không dám chịu trách nhiệm là
hoàn toàn trái ngược với tác phong tích cực, chủ động, khẩn trương, hoàn toàn không phù hợp với
bản chất cách mạng của quân đội ta, với tình hình và nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu hiện nay.

Để đánh thắng kẻ địch tàn bạo, xảo quyệt, trong hoàn cảnh gay go, ác liệt, cán bộ
Quân giải phóng đã tỏ ra rất gương mẫu, mưu trí và linh hoạt. Theo tường thuật của Đài phát
thanh Giải phóng, chúng ta được biết chính trị viên phó Y suốt những chặng đường hành quân
luôn tích cực động viên đơn vị, săn sóc, nhắc nhở từng người, có khi mang thêm hai, ba khẩu
súng, khi dìu anh em ốm, góp phần bảo đảm đơn vị đi đến nơi đúng thời hạn, đủ quân số. Trung
đội trưởng T, trong trận phục kích ngày 23-10-1965, khi được lệnh xung phong đã dẫn đầu toàn
đơn vị xông vào đánh một đoàn xe bọc sắt của địch, vừa động viên, chỉ huy đơn vị, vừa tự mình
dùng vũ khí tiêu diệt địch. Tiểu đội trưởng X cùng với tiểu đội kiên cường, dũng mãnh đánh trả
mấy trăm tên địch ở Plây Me ngày 26-10-1965 là một biểu hiện tốt đẹp về tác phong gương mẫu
của người cán bộ cách mạng. Vừa dũng cảm lại vừa mưu trí, linh hoạt, cán bộ Quân giải phóng đã
nhiều lần dử địch lọt vào tròng, đánh cho chúng nhiều đòn bất ngờ. Lúc chúng tưởng sắp ăn to thì
đúng là lúc rơi vào “ổ kiến lửa” như cuộc “đuổi bắt” của một đơn vị quân Mỹ trong đợt “nhảy
cóc” từ 1-11-1965 đến 7-11-1965. Trên chiến trường rừng núi, trong thế “hổ về rừng”, Quân giải
phóng đã vận dụng nhiều hình thức đánh địch rất thích hợp, cơ động mau lẹ, khi ẩn, khi hiện,
thực thực hư hư, khiến cho địch tuy đông nhưng lại phải phân tán, bị động, ta ít nhưng luôn luôn
giành chủ động, giành ưu thế trong từng trận, buộc địch phải hành động theo ý định của mình,
phải đánh theo cách đánh của mình. Tác phong gương mẫu, mưu trí, linh hoạt của cán bộ các cấp
đã có tác dụng cổ vũ, động viên chiến sĩ, làm tăng thêm tình đoàn kết gắn bó giữa cán bộ và chiến
sĩ, tăng thêm lòng tin tưởng, thôi thúc anh em vượt mọi khó khăn, thử thách, đồng tâm hiệp lực
làm tròn nhiệm vụ.

Rèn luyện tác phong gương mẫu là cả một quá trình rèn luyện về tư tưởng, đạo đức và
tác phong. Học tập tác phong tốt ấy chúng ta cần coi trọng rèn luyện và thể hiện thường xuyên
trong công tác hàng ngày, trong hành quân, trong khi chuẩn bị chiến trường, khi gặp khó khăn,
không phải đợi đến lúc mặt đối mặt với địch.

Mặt khác, chúng ta cần tiếp tục kiên quyết khắc phục tác phong rập khuôn, máy móc,
giản đơn trong huấn luyện, chiến đấu. Một số tình huống diễn tập, một số phương án tác chiến
còn quá chân phương, địch thì ngờ nghệch, ta thì quá “thật thà”. Chúng ta cần ra sức học tập
những kinh nghiệm vô cùng quý báu của ông cha ta đã dùng mưu đánh thắng địch, quán triệt
đường lối quân sự của Đảng ta, cách đánh của ta, tìm hiểu kỹ kẻ địch, rèn luyện cho mình, cho cơ
quan chỉ huy tác phong mưu trí, linh hoạt, sáng tạo và chắc thắng.

Trong cuộc chiến đấu đánh bại quân đội của đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán
nước ở miền Nam, quy mô của những cuộc chiến đấu ngày càng lớn, tính chất liên tục ngày càng
cao, hoàn cảnh chiến đấu hết sức ác liệt. Học tập Quân giải phóng miền Nam, chúng ta phải rèn
luyện toàn diện về tinh thần, tư tưởng, về chiến thuật, tổ chức chỉ huy trước hết là tinh thần quyết
đánh thắng địch, dám đương đầu và vượt qua mọi thử thách, phát huy cao độ ưu thế chính trị tinh
thần của ta, hạn chế và đánh bại điểm mạnh tạm thời về binh khí kỹ thuật của địch, sẵn sàng đánh
và tiêu diệt bất cứ kẻ địch nào, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chiến đấu.

HUẤN LUYỆN TÁC CHIẾN HIỆP ĐỒNG BINH CHỦNG (38)

Tác chiến hiệp đồng binh chủng là sự phát triển tất yếu của quân đội ta, là quy luật
khách quan của sự phát huy sức mạnh tổng hợp của mình khi bộ đội chủ lực đã có những tiến bộ
về tổ chức và trang bị. Kinh nghiệm đánh thắng giặc Mỹ ở cả hai miền, kinh nghiệm huấn luyện
đã chỉ rõ, để nhanh chóng nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh
chủng, chúng ta cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau đây:

NẮM VỮNG VÀ QUÁN TRIỆT

NHỮNG QUAN ĐIỂM TÁC CHIẾN HIỆP ĐỒNG

CỦA QUân ĐỘI TA TRONG QUÁ TRÌNH HUẤN LUYỆN

Những quan điểm tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta là biểu hiện cụ thể
quan điểm giai cấp, quan điểm thực tiễn của sự quán triệt đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng
ta trong tác chiến. Nó là cơ sở để các lực lượng vũ trang ta xác định nội dung, nguyên tắc hành
động của các binh chủng, quân chủng, và giải quyết những vấn đề cụ thể trong chiến đấu, nghiên
cứu huấn luyện khi thực hiện các phương thức tác chiến cơ bản trên chiến trường. Nó còn là vũ
khí sắc bén để đấu tranh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng quân sự không vô sản, một chiều
nhấn mạnh uy lực của vũ khí, trang bị, mọi hiện tượng giáo điều, bảo thủ trong quá trình huấn
luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng, chống ảnh hưởng của cách đánh hiệp đồng binh chủng
theo trận địa thành tuyến không phù hợp với cách đánh độc đáo của Việt Nam ta.

Về cụ thể, chúng ta cần quán triệt những quan điểm:

Một là, phát huy cao độ tác dụng quyết định của con người có trình độ giác ngộ chính
trị cao, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, nắm vững và sử dụng thành thạo những vũ khí, trang bị
hiện đại.

Kinh nghiệm trên chiến trường miền Nam đã khẳng định một cách đanh thép rằng: con
người là yếu tố quyết định làm cho các loại vũ khí, trang bị hiện đại có phát huy được cao độ tác
dụng hay không, có phối hợp với nhau chặt chẽ hay không. Quân đội các nước đế quốc sùng bái
vũ khí, kỹ thuật, coi vũ khí, kỹ thuật là yếu tố quyết định thắng lợi chiến tranh nên trong tác chiến
hiệp đồng binh chủng, chúng đã biến binh lính và sĩ quan thành kẻ nô lệ của vũ khí, điều lệnh. Vì
vậy, chúng ta không lấy làm lạ, tại sao binh lính và sĩ quan của quân đội xâm lược Mỹ nắm trong
tay những vũ khí, phương tiện hiện đại bậc nhất của thế giới tư bản và được “cột” rất chặt về mặt
tổ chức mà trong chiến đấu hiệp đồng lại hành động máy móc, thụ động, và nếu khi bị Quân giải
phóng phá vỡ ở một khâu hiệp đồng nào là sức chiến đấu của chúng nhanh chóng bị rã rời. Hoàn
toàn trái với quan điểm quân sự tư sản, quân đội ta coi tác chiến hiệp đồng binh chủng trước hết
là sự phối hợp hoạt động có ý thức giữa người và người (cá nhân và đơn vị) trên cơ sở thống nhất
về tư tưởng và hành động, trên tinh thần tích cực, chủ động tiến công tiêu diệt địch, tình đoàn kết
chiến đấu, ý thức tổ chức, kỷ luật cao, tính tích cực, tính linh hoạt, sáng tạo, quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ chiến đấu. Cho nên, trong quá trình huấn luyện, chúng ta phải phát huy đầy đủ sức
mạnh tuyệt đối về chính trị, tinh thần của ta, phát huy cao độ tính năng động chủ quan của từng
cán bộ, chiến sĩ trong các binh chủng, quân chủng. Đó là yếu tố quyết định để phát huy ý thức
trách nhiệm chính trị của từng người, từng binh chủng, quân chủng trong việc giải quyết những
vấn đề huấn luyện tác chiến hiệp đồng của ta, sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những vũ
khí, trang bị hiện đại phù hợp với cách đánh của ta. Nếu trong quá trình huấn luyện, chúng ta chỉ
loay hoay với những vấn đề kỹ thuật cụ thể, về tính năng, tác dụng, về uy lực của vũ khí, v.v...
xem kỹ thuật là vấn đề trung tâm của tác chiến hiệp đồng, đi đến xem nhẹ chính trị, xem nhẹ quan
điểm, tư tưởng và cách đánh của ta, xem nhẹ việc phát huy tính năng động chủ quan của cán bộ
và chiến sĩ, thì không thể giải quyết được những nội dung cơ bản của tác chiến hiệp đồng.

Trong thực tế huấn luyện, chúng ta đã và đang giải quyết thành công một số vấn đề
mới về quán triệt tư tưởng tiến công, tiến công liên tục, ít đánh nhiều, đánh bất ngờ, hiệu suất
chiến đấu cao trong việc sử dụng các loại vũ khí, trang bị vào các phương thức tác chiến, hình
thức, chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu. Kinh nghiệm đó cho hay là: bản thân tính năng kỹ thuật
của mọi vũ khí, phương tiện đều không thể tự nó đáp ứng được những yêu cầu về tư tưởng và
cách đánh phong phú, độc đáo của quân đội ta. Mọi thứ vũ khí, phương tiện có được sử dụng
đúng quan điểm của ta hay không, có được sử dụng thành thạo và linh hoạt trong các hình thức
chiến thuật và mọi điều kiện của chiến trường hay không, có phát huy được đầy đủ tác dụng và
phối hợp chặt chẽ với nhau hay không là do trình độ quán triệt tư tưởng quân sự của Đảng, quyết
tâm sử dụng các binh chủng theo cách đánh của ta và trình độ nắm vững tư tưởng chỉ đạo tác
chiến, tính mưu trí, kiên quyết và trình độ khoa học kỹ thuật của cán bộ và chiến sĩ quyết định.
Rõ ràng vừa qua chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu trong huấn luyện tác chiến hiệp
đồng binh chủng chính là vì cán bộ và chiến sĩ đã hiểu rõ yêu cầu chiến đấu luôn luôn phát triển,
bám sát sự phát triển của địch và ta trên chiến trường, đã bền bỉ phấn đấu để làm chủ vũ khí, kỹ
thuật, rèn luyện bản lĩnh chỉ huy, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng của bộ đội lên quy mô
ngày càng cao, đã đề cao ý thức tự lực, tự cường để giải quyết một cách sáng tạo các vấn đề kỹ
thuật, chiến thuật, tổ chức, chỉ huy của tác chiến hiệp đồng theo cách đánh của ta. Chúng ta cần
tránh khuynh hướng như chỉ thấy đánh nhỏ, đánh từng trận mà không thấy đánh lớn, đánh liên
tục, chỉ muốn dùng vũ khí nhẹ mà ngại dùng vũ khí lớn, muốn tác chiến với bộ binh đơn thuần
cho “gọn” mà không tích cực phát huy các binh chủng kỹ thuật đã có, cũng như chống mọi biểu
hiện khác của tư tưởng ngại khó, giản đơn trong nghiên cứu huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh
chủng. Đồng thời cũng cần tránh khuynh hướng mê tín quá phương tiện, vũ khí hiện đại, muốn
đánh công khai theo kiểu phô trương rầm rộ hoặc dốc túi đánh một canh.

Hai là, tác chiến hiệp đồng binh chủng của ta hiện nay phải hiểu ta còn yếu về trang
bị, vũ khí, đánh với một kẻ địch mạnh về vật chất, kỹ thuật là đế quốc Mỹ.

Thực tế này chi phối cách tác chiến hiệp đồng binh chủng. Nếu không nắm vững điều
đó thì các binh chủng, quân chủng nghiên cứu cách đánh không đúng với tư tưởng quân sự của
Đảng ta. Kẻ địch tuy mạnh hơn ta về vật chất, kỹ thuật, nhưng chúng lại có những điểm yếu rất
cơ bản về chính trị và lúng túng, bế tắc về quân sự khi vào đánh ở chiến trường nước ta. Để đánh
thắng địch, trong quá trình huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng, phải quán triệt một tư
tưởng rất cơ bản của cách đánh là hết sức đề cao tính mưu trí và sáng tạo, hết sức khôn khéo tìm
cách hạn chế những chỗ mạnh và khoét sâu những chỗ yếu của địch, khéo phát huy triệt để những
chỗ mạnh của ta đánh vào những chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch, chủ động bắt quân địch đánh theo
cách đánh của ta, không cho chúng đánh theo cách sở trường của chúng. Do đó trong huấn luyện,
các binh chủng, quân chủng phải xem trọng việc phát huy sở trường đánh gần, đánh đêm, đánh
nhanh, giải quyết nhanh, đánh liên tục, đánh lớn kết hợp với đánh vừa và đánh nhỏ một cách linh
hoạt. Phải chú trọng phát huy triệt để yếu tố bí mật bất ngờ, nhằm nơi hiểm, nơi yếu của địch mà
đánh, trường hợp gặp quân địch mạnh cũng phải tìm chỗ yếu trong chỗ mạnh của chúng mà đánh,
vận dụng rộng rãi các thủ đoạn thọc sâu, chia cắt, bao vây, vu hồi, luôn luôn nắm vững nguyên
tắc tập trung binh lực, hỏa lực một cách linh hoạt và hợp lý ở địa điểm quyết định và thời cơ
quyết định trong chiến dịch và chiến đấu, bảo đảm cho ta có thể lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng
lớn, phát huy mọi trang bị của ta để đánh thắng quân địch có trang bị hiện đại với hiệu suất chiến
đấu cao. Đó là nội dung mà từng quân chủng, binh chủng phải giải quyết trong từng hình thức
chiến thuật sở trường của ta cho phù hợp với điều kiện mời. Tác chiến hiệp đồng binh chủng của
ta phản đối khuynh hướng tác chiến lấy kỹ thuật chọi kỹ thuật, lối dàn binh bố trận công khai,
như những hiện tượng: muốn đơn thuần dùng pháo chọi pháo, cơ giới chọi cơ giới, tính toán con
số trên giấy tờ, nặng về đánh vỗ mặt, v.v...

Ba là, quán triệt quan điểm của ta về địa vị, tác dụng cụ thể của tùng binh chủng,
quân chủng trong tác chiến hiệp đồng, phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam.

Địa vị, tác dụng của mỗi binh chủng, quân chủng trong tác chiến hiệp đồng của ta đã
được xác định đúng đắn, xuất phát từ đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng ta, từ thực tế trưởng
thành và phát triển của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, từ đặc điểm chiến trường Việt Nam và
đặc điểm kẻ địch mà ta phải đánh thắng, từ kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh vũ trang lâu dài của
ta. Chúng ta quyết không thể rập khuôn theo một công thức nào.

Các binh chủng, quân chủng tác chiến theo chiến thuật hiệp đồng binh chủng. Chiến
thuật hiệp đồng binh chủng của ta lấy bộ binh làm chủ, chứ không phải là chiến thuật bộ binh đơn
thuần. Chiến thuật hiệp đồng binh chủng là kết quả của sự vận dụng tổng hợp tính chất, khả năng
của mọi binh chủng, quân chủng cùng tham gia chiến đấu hay cũng có thể nói, đó là sự vận dụng
tổng hợp chiến thuật của các binh chủng, quân chủng, trong đó chiến thuật của bộ binh giữ vai
trò chủ đạo. Người chỉ huy binh chủng hợp thành, trong khi làm kế hoạch chiến đấu phải chiếu
cố thích đáng đến tính năng kỹ thuật của binh chủng, không nên chỉ xuất phát đơn thuần từ khả
năng của bộ binh. Nếu yêu cầu quá cao, không tính toán toàn diện đến khả năng, nhất là những
khó khăn và đặc điểm của các binh chủng khác thì không thể đặt kế hoạch hợp đồng đúng đắn,
kết quả sẽ là hợp đồng chuệch choạc, không phát huy được sức mạnh của các binh chủng, cũng
tức là làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của chính mình.

Ngược lại, đánh giá quá cao các binh chủng, quân chủng kỹ thuật, xem thường vai trò
quyết định của bộ binh, xem thường khâu hợp đồng chủ yếu là bộ binh và pháo binh lại càng sai
lầm.
Những quan điểm trên đây đã chỉ rõ cách tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội
ta có nhiều điểm khác với cách tác chiến hiệp đồng của quân đội nhiều nước. Tác chiến hiệp đồng
binh chủng của ta phụ thuộc vào đường lối, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự của Đảng ta,
vào con người và khả năng vật chất thực tế của ta, vào kinh nghiệm và truyền thống chiến đấu
của ta, vào địa hình, thời tiết nước ta, vào đối tượng tác chiến của ta nên phải đánh theo cách đánh
của Việt Nam ta. Ví dụ: xe tăng, pháo xe xích vẫn phải giữ yếu tố bí mật bất ngờ áp đảo địch; các
binh chủng, quân chủng của ta cũng không thể luôn luôn hành động theo một kiểu cách nhất định
mà phải linh hoạt trong thành phần hiệp đồng và lúc hiệp đồng về hướng, lúc hiệp đồng về thời
gian, có trận lại hiệp đồng về khu vực, mục tiêu, v.v...

Do đó, có thể rút ra một kết luận có tính chất nguyên tắc là, chúng ta phải đứng vững
trên quan điểm thực tiễn của Đảng ta khi giải quyết mọi vấn đề nghiên cứu và huấn luyện tác
chiến hiệp đồng. Chúng ta phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, hết sức đề cao tinh thần độc lập, tự
chủ, nghiên cứu giải quyết một cách sáng tạo mọi vấn đề tác chiến hiệp đồng theo cách đánh của
ta, không nên lấy cách tác chiến hiệp đồng của sách vở nước ngoài rồi chế biến gia giảm thành
cách tác chiến hiệp đồng của ta.

Tiếp tục nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của các binh chủng, quân chủng theo
chiến thuật của bộ đội hợp thành và tăng cường hợp luyện ở mỗi cấp

Thắng lợi tác chiến hiệp đồng binh chủng là do nhiều binh chủng, quân chủng cùng
tham gia chiến đấu quyết định. Cho nên, cũng dễ hiểu là muốn tác chiến hiệp đồng thì trước hết
phải huấn luyện thật tốt cho từng binh chủng, quân chủng, tạo cho từng binh chủng, quân chủng
có khả năng chiến đấu thật vững chắc, đủ sức làm tròn chức năng của mình trong nhiệm vụ chiến
đấu chung.

Trong tác chiến hiệp đồng, hành động chiến đấu của các binh chủng liên quan rất chặt
chẽ với nhau, “môi hở thì răng lạnh”, một bộ phận bị yếu là lập tức nhiều bộ phận khác đều chịu
ảnh hưởng. Vì vậy, một yêu cầu có tính chất nguyên tắc trong huấn luyện tác chiến hiệp đồng là
phải nâng trình độ các binh chủng, quân chủng lên một cách đồng đều. Càng tiến lên tác chiến
với quy nô lớn thì yêu cầu này đòi hỏi càng cao. Theo phương hướng huấn luyện tích cực nhất,
một mặt chúng ta phải có kế hoạch nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng giữa các binh chủng,
quân chủng; mặt khác, từng binh chủng, quân chủng phải ra sức phấn đấu vươn lên, quyết không
gây trở ngại cho các binh chủng, quân chủng khác trong chiến đấu hiệp đồng.

Để nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của các binh chủng, quân chủng, một vấn đề
rất quan trọng hiện nay là cần phải xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo tác chiến, những quan
điểm tác chiến hiệp đồng của quân đội ta, từ nhiệm vụ chiến đấu của quân đội ta và nhiệm vụ
từng binh chủng, quân chủng, làm cho cán bộ và chiến sĩ nắm vững yêu cầu cách đánh của ta
trong từng binh chủng, quân chủng để xoay quanh đó mà tập trung rèn luyện nâng cao trình độ kỹ
thuật, chiến thuật. Ví dụ: yêu cầu đối với pháo binh là phải thực hiện cơ động nhanh chóng và bí
mật, bắn chính xác, đồng thời tiết kiệm đạn mà hiệu suất lớn.

Đối với mỗi binh chủng, những yêu cầu theo cách đánh của ta không thể đặt ra một
cách tùy tiện, mà nó phải là kết quả của một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, dựa trên sự quán
triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến, những quan điểm tác chiến hiệp đồng của quân đội ta cũng như
nhiệm vụ và đặc điểm chiến đấu của ta hiện nay. Những yêu cầu cách đánh của ta được xác định
đúng đắn trong từng binh chủng, quân chủng là phương hướng rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật của
các binh chủng, quân chủng.

Trên cơ sở xác định đúng đắn và làm quán triệt những yêu cầu cách đánh trong từng
binh chủng, quân chủng, hiện nay cần phải chú trọng đẩy mạnh khâu huấn luyện kỹ thuật, chiến
thuật trong các binh chủng, quân chủng. Phải kiên quyết phấn đấu làm cho cán bộ và chiến sĩ
trong mọi binh chủng, quân chủng đều thực sự làm chủ được vũ khí, phương tiện của mình, đạt
trình độ cơ bản vững chắc và trình độ vận dụng thành thạo theo cách đánh của ta.

Để đạt yêu cầu trên, cần giải quyết tốt mối quan hệ đúng đắn giữa huấn luyện cơ bản
và ứng dụng trong huấn luyện kỹ thuật.

Chúng ta phải chú ý đầy đủ đến mặt ứng dụng trong huấn luyện kỹ thuật, vì đó là yêu
cầu của huấn luyện cần phải đạt tới, đặc biệt là trong hoàn cảnh huấn luyện thời chiến. Tuy nhiên,
nếu vin vào hoàn cảnh huấn luyện thời chiến mà xem nhẹ huấn luyện cơ bản là không đúng, vì
không có trình độ cơ bản vững chắc thì không có cơ sở để ứng dụng thành thạo. Lại cần thấy
rằng, những cách đánh của ta đòi hỏi bộ đội có trình độ vận dụng kỹ thuật rất cao và linh hoạt.

Trong huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng cũng phải kết hợp huấn luyện tắt với
huấn luyện có hệ thống. Một mặt, trong thời gian huấn luyện tắt, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu, chúng ta phải giải quyết thích đáng mối quan hệ giữa huấn luyện cơ bản và ứng dụng
ngay trong từng nội dung huấn luyện và tổ chức, phương pháp huấn luyện. Sau đó, cần tận dụng
mọi điều kiện và thời gian để không ngừng huấn luyện bổ sung một cách tương đối có hệ thống,
củng cố và nâng cao không ngừng trình độ cơ bản của bộ đội trong chiến đấu. Cần làm cho việc
kết hợp huấn luyện trong chiến đấu trở thành một nguyên tắc sinh hoạt tự nhiên của bộ đội: “giặc
đến là đánh - giặc đi lại huấn luyện”, “đánh - huấn luyện - lại đánh...”. Chỉ có như vậy, trình độ
tác chiến của bộ đội mới được nâng cao không ngừng và trở thành thiện chiến. Chống tư tưởng
xem việc huấn luyện trong chiến đấu chỉ là vấn đề tranh thủ, làm cũng được, không cũng được,
không có kế hoạch. Trong hoàn cảnh chiến tranh, nếu không tích cực kết hợp huấn luyện trong
chiến đấu thì dần dần sẽ lạc hậu với thực tiễn chiến đấu.

Muốn huấn luyện tốt về chiến thuật cho các binh chủng, quân chủng, trước hết cần đẩy
mạnh việc nghiên cứu chiến thuật của từng binh chủng, quân chủng theo cách đánh của ta. Trên
cơ sở quán triệt tư tưởng quân sự của Đảng và nắm vững yêu cầu cách đánh của ta, dựa vào kết
quả đã đạt được trong những năm qua, chúng ta cần đề cao ý thức tự chủ, tự cường, tinh thần dám
nghĩ, dám làm, dám sáng tạo để nghiên cứu cách đánh theo điều kiện thực tế và kinh nghiệm,
truyền thống của ta, hoàn thiện chiến thuật của các binh chủng, quân chủng.

Trong thực tế chấp hành nhiệm vụ chiến đấu, các binh chủng, quân chủng có tác chiến
độc lập và tác chiến hiệp đồng. Do đó, huấn luyện chiến thuật phải bảo đảm cho các đơn vị trong
từng binh chủng, quân chủng có khả năng chiến đấu độc lập giỏi ở cấp mình cũng như trong tác
chiến hiệp đồng với nhiều binh chủng, quân chủng. Phải chú trọng trước hết làm cho các phân đội
bộ binh, pháo binh, phòng không, v.v... đánh độc lập giỏi và đánh hiệp đồng giỏi.

Tác chiến hiệp đồng của ta lấy bộ binh làm chủ, vì vậy trong quá trình huấn luyện
chiến thuật, các binh chủng phải hiểu chiến thuật bộ binh, nắm vững phương hướng lấy việc huấn
luyện hiệp đồng với bộ binh làm chính, phục vụ đắc lực trước nhất cho bộ binh, phát huy sức
mạnh tập thể các binh chủng nhằm mục đích tiêu diệt địch nhanh và gọn. Nhưng trong tác chiến
hiệp đồng, không phải chỉ có một mối quan hệ duy nhất là quan hệ giữa các binh chủng với bộ
binh. Ngoài mối quan hệ giữa bộ binh với các binh chủng, còn có mối quan hệ hiệp đồng chiến
thuật giữa các binh chủng, quân chủng với nhau, như giữa công binh với xe tăng, công binh với
pháo binh, pháo binh với xe tăng, pháo binh với cao xạ, pháo cao xạ với xe tăng, với không quân,
không quân với xe tăng, với hải quân, v.v... Huấn luyện chiến thuật trong mỗi binh chủng, quân
chủng không được bỏ qua việc giải quyết mối quan hệ này. Thực tiễn chiến đấu cho thấy rằng,
nếu hiệp đồng về chiến thuật giữa các binh chủng đó không tốt thì cũng không thể có hiệp đồng
tốt giữa các binh chủng với bộ binh.

Từng binh chủng, quân chủng lại cần xuất phát từ nhiệm vụ chiến đấu của mình, tập
trung huấn luyện thật tốt những hình thức chiến thuật cơ bản (tác chiến hiệp đồng và tác chiến
độc lập) đã có quy định với từng đơn vị, bảo đảm học hình thức chiến thuật nào chắc hình thức
chiến thuật ấy, cấp nào giỏi chiến thuật cấp ấy, đi từ huấn luyện tốt quan hệ tác chiến hiệp đồng
trong từng binh chủng, quân chủng đến huấn luyện tốt tác chiến hiệp đồng giữa ba thứ quân và
tác chiến hiệp đồng giữa các binh chủng, quân chủng.
Trong quá trình huấn luyện, mọi binh chủng phải luôn luôn huấn luyện đơn vị cơ sở và
huấn luyện chiến thuật của các cấp tiểu đoàn, trung đoàn... cho giỏi, đồng thời hết sức chú ý huấn
luyện cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy. Các phân đội cơ sở là nơi trực tiếp chấp hành mọi ý
định chiến thuật và nhiệm vụ chiến đấu của binh chủng. Cho nên, phải huấn luyện cho phân đội
nhỏ có trình độ kỹ thuật, chiến thuật vững chắc, chính là cơ sở để rèn luyện chiến đấu hiệp đồng
lớn hơn được tốt. Đồng thời phải huấn luyện cho thủ trưởng và cơ quan chỉ huy các cấp trong
từng binh chủng, quân chủng, không chỉ nắm vững chiến thuật riêng của binh chủng mình, mà
còn phải nắm vững chiến thuật của bộ đội hợp thành và một số nguyên tắc chiến thuật cần thiết
của các binh chủng, quân chủng khác có liên quan. Cách đánh của ta đòi hỏi binh chủng này còn
phải làm được một phần nhiệm vụ của binh chủng khác. Lại cần phải chú trọng đúng mức đến
việc huấn luyện một số kỹ thuật, chiến thuật bộ binh cho cơ quan chỉ huy các cấp và các binh
chủng, quân chủng để có thể bảo đảm chiến đấu tự vệ và tham gia chiến đấu trong tình huống cần
thiết.

Trên cơ sở huấn luyện tốt từng binh chủng, quân chủng, cần đẩy mạnh việc hợp luyện
giữa các binh chủng và quân chủng. Hợp luyện là bước mà các binh chủng, quân chủng, vận
dụng một cách tổng hợp kỹ thuật và chiến thuật riêng của mình để hiệp đồng tác chiến với các
binh chủng khác theo chiến thuật của bộ đội hợp thành nhằm hoàn thành một nhiệm vụ chiến đấu
nhất định. Nó là giai đoạn huấn luyện cần thiết để các binh chủng, quân chủng tiếp tục nâng cao
trình độ kỹ thuật, chiến thuật, giải quyết ăn khớp chặt chẽ về thời gian, địa điểm, mục tiêu hiệp
đồng theo ý định tác chiến, tiếp tục hoàn thiện chiến thuật riêng của từng binh chủng và chiến
thuật của bộ đội hợp thành.

Trong giai đoạn hợp luyện, cần chú ý mấy vấn đề chính:

Hợp luyện cần tiến hành theo nguyên tắc “nhiệm vụ chiến đấu như thế nào, đánh như
thế nào thì hợp luyện như thế ấy”. Từng đơn vị cần tùy theo nhiệm vụ chiến đấu chiến trường
hoạt động, các hình thức chiến thuật cơ bản sẽ sử dụng trong chiến đấu, khả năng có thể được cấp
trên tăng cường, quy mô tác chiến, đối tượng tác chiến cụ thể... mà xác định nội dung và mức độ
hợp luyện, tránh máy móc, rập khuôn. Chúng ta không đòi hỏi bất cứ đơn vị nào cũng hợp luyện
đủ thành phần như nhau, mức độ như nhau. Việc hợp luyện trên địa hình nào, hợp luyện đến quy
mô nào... đều xuất phát từ nhiệm vụ chiến đấu và điều kiện thực tế mà định.

Sau khi đọc xong từng phần kỹ thuật, chiến thuật riêng của binh chủng, nhiều binh
chủng đã chủ động liên hệ với bộ binh, với các binh chủng khác để tiến hành hợp luyện rộng rãi ở
các cấp, ngay từ cấp phân đội dưới hình thức diễn tập bằng thực binh hoặc diễn tập thủ trưởng cơ
quan, nhiều trường của các binh chủng và nghiệp vụ chuyên môn đã quan hệ chặt chẽ với học
viện quân sự để hợp luyện cuối khóa. Đây là một kinh nghiệm huấn luyện tốt. Qua hợp luyện với
nhau từ cấp phân đội, các binh chủng có điều kiện hiểu sâu chiến thuật của nhau, thông cảm
những đặc điểm của nhau, từng bước kịp thời nhận rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của mỗi binh chủng để
giúp nhau phát huy và khắc phục ngay từ bước huấn luyện phân đội, xây dựng sự thống nhất về
tư tưởng chiến thuật, thúc đẩy nhau tiến bộ, không ngừng tăng cường tình đoàn kết chiến đấu
giữa các binh chủng, quân chủng. Nó đặt cơ sở chắc chắn cho việc hợp luyện ở cấp cao hơn trong
tác chiến tập trung lớn hơn.

Tăng cường rèn luyện cán bộ chỉ huy và c 굜 quan chỉ huy các cấp của đơn vị hợp
thành

Là đầu não, trung tâm tổ chức, chỉ huy của tác chiến hiệp đồng trong chiến dịch và
chiến đấu, cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy các đơn vị bộ binh giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong tác chiến hiệp đồng binh chủng.

Trên cơ sở trình độ và kinh nghiệm hiện có, chúng ta phải tích cực phấn đấu để mau
chóng nâng cao trình độ cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy lên mức có thể tổ chức, chỉ huy thành
thạo việc tác chiến hiệp đồng ở cấp mình trong mọi hình thức chiến thuật và mọi tình huống chiến
đấu phức tạp. Trong rèn luyện cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy các cấp, chúng ta cần chú trọng
cấp tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn. Chỉ có làm cho cán bộ và cơ quan chỉ huy thành thạo chỉ
huy đơn vị mình trong mọi tình huống thì mới đẩy mạnh được tác chiến tập trung lớn và bảo đảm
tác chiến lớn thắng lợi.

Trong rèn luyện cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy các đơn vị hợp thành, cần chú ý
giải quyết tốt những vấn đề sau:

Trước hết, cần làm cho cán bộ và cơ quan chỉ huy các cấp thấu suốt nhiệm vụ chiến
đấu và yêu cầu chiến đấu của bộ đội chủ lực trong giai đoạn hiện nay để phát huy cao độ trách
nhiệm chính trị, ra sức phấn đấu nâng cao trình độ tổ chức, chỉ huy tác chiến hiệp đồng. Tạo được
một chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ đối với vấn đề này là điều kiện rất quan trọng
để giải quyết mọi vấn đề khác trong huấn luyện cán bộ và cơ quan chỉ huy.

Phải tích cực huấn luyện cho cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy các cấp nắm vững và
chỉ huy chặt chẽ mọi lực lượng có trong biên chế và được tăng cường ở cấp mình. Muốn vậy thì
vấn đề mấu chốt vẫn là phải bằng mọi biện pháp, ra sức bồi dưỡng cho cán bộ chỉ huy và cơ quan
các cấp. Cán bộ binh chủng kỹ thuật phải nắm vững chiến thuật binh chủng hợp thành, và cán bộ
binh chủng hợp thành phải nắm vững về cơ bản chiến thuật, kỹ thuật của các binh chủng khác
như pháo binh, xe tăng, công binh, hóa học, pháo cao xạ, v.v... Thực tiễn chiến đấu đã chỉ rõ,
không có hiểu biết nhất định về các binh chủng thì người chỉ huy và cơ quan chỉ huy không tài
nào chỉ huy chặt chẽ và phát huy triệt để sức mạnh của các binh chủng trong chiến đấu. Cho nên,
một mặt cần động viên cán bộ bộ binh tích cực tranh thủ tự học để nâng cao hiểu biết các binh
chủng; mặt khác phải xác định rõ nội dung, yêu cầu học tập binh chủng của từng cấp cho phù hợp
với nhiệm vụ chiến đấu và tình hình cán bộ từng đơn vị, và phải dành thời gian thích đáng và có
biện pháp tổ chức chặt chẽ đối với nội dung học tập binh chủng. Cán bộ chỉ huy các binh chủng
có trách nhiệm chủ động tạo điều kiện cho cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy binh chủng hợp
thành hiểu biết binh chủng.

Trong điều kiện tác chiến với quân địch có ưu thế về không quân và phương tiện cơ
động như đế quốc Mỹ, việc bộ đội chủ lực thành thạo tác chiến với nhiều hình thức chiến thuật là
điều kiện rất quan trọng để giữ vững và phát triển thế chủ động tiến công trong chiến dịch và
chiến đấu. Vì vậy, cần huấn luyện cho cán bộ chỉ huy và cơ quan chỉ huy giỏi tổ chức, chỉ huy bộ
đội chiến đấu hiệp đồng theo nhiều hình thức chiến thuật sở trường của ta. Phải làm cho cán bộ
chỉ huy và cơ quan chỉ huy của ta giỏi, không chỉ giỏi chỉ huy từng hình thức chiến thuật riêng lẻ
mà còn phải giỏi vận dụng kết hợp linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật trong một trận đánh lớn,
trong một chiến dịch; không chỉ giỏi chỉ huy đánh đêm mà còn phải giỏi chiến đấu ban ngày,
đánh địch cả dưới đất và trên không, chiến đấu liên tục ngày đêm, dưới hỏa lực máy bay, pháo
binh ác liệt và cả vũ khí hóa học của địch.

Muốn vậy, xuất phát từ nhiệm vụ chiến đấu của từng đơn vị, chúng ta cần chú ý nâng
cao các mặt:

- Năng lực tổ chức, chỉ huy bộ đội hành quân chiến đấu đường dài; năng lực tổ chức,
chỉ huy bộ đội hợp thành cơ động xa, nhanh chóng, bí mật bất ngờ tiến công tiêu diệt địch.

- Năng lực tổ chức nắm vững địch, điều động địch, chủ động tạo thời cơ và nắm vững
thời cơ để đánh địch, nhất là trong tình hình địch luôn luôn biến động.

- Năng lực tổ chức nắm vững bộ đội và chỉ huy bộ đội hợp thành hiệp đồng chặt chẽ,
nhất là trong đánh vận động; năng lực chỉ huy bộ đội làm chủ chiến trường, giải quyết chiến
trường.

- Năng lực tổ chức, chỉ huy bộ đội đánh liên tục mà chủ yếu là vấn đề biết nhanh
chóng thu quân, nhanh chóng chấn chỉnh lực lượng, chỉ huy đánh tiếp những trận đánh mới.

Ngoài những vấn đề trên, cơ quan chỉ huy các cấp phải tiếp tục nâng cao năng lực tổ
chức nắm tình hình, trình độ phân tích, tổng hợp tình hình, chủ động đề xuất ý kiến chính xác
trong mọi tình huống. Cơ quan chỉ huy muốn giúp thủ trưởng chỉ huy bộ đội chiến đấu hiệp đồng
tốt thì bản thân mình phải hiệp đồng tốt trong nội bộ cơ quan.

Đi đôi với nâng cao năng lực chỉ huy, cần hết sức chú trọng rèn luyện tác phong chỉ
huy, tác phong chiến đấu cho cán bộ và cơ quan chỉ huy. Cần qua thực tiễn chiến đấu và huấn
luyện mà tiếp tục bồi dưỡng thật tốt các tác phong: tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, mưu
trí, sáng tạo, sâu sát, tỉ mỉ, tính chuẩn xác và tính kế hoạch.

Cần tận dụng mọi thời gian, vận dụng mọi hình thức và phương pháp để bồi dưỡng cán
bộ và cơ quan chỉ huy, nhưng quan trọng nhất là phải rèn luyện trong thực tiễn chiến đấu và huấn
luyện, đặc biệt là trong hợp luyện, luyện tập liên tục tổng hợp sát với yêu cầu chiến đấu. Phải đặc
biệt coi trọng và tổ chức tốt hơn nữa việc học tập kinh nghiệm của Quân giải phóng miền Nam và
kinh nghiệm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc.

Rèn luyện tinh thần tích cực, chủ động và tinh thần kỷ luật cao trong quá trình huấn
luyện

Để bảo đảm mọi lực lượng hiệp đồng chặt chẽ trong tác chiến tập trung với quy mô
lớn, đánh liên tục cao, chiến đấu diễn ra ngày càng khẩn trương và ác liệt, thì việc đề cao ý thức
chủ động hiệp đồng và tinh thần kỷ luật nghiêm minh là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Trong
điều kiện tác chiến với một kẻ địch có nhiều phương tiện cơ động hiện đại và có không quân
mạnh như đế quốc Mỹ, nếu không tuân thủ một quy định nhỏ để địch phát hiện, hoặc chỉ một
giây phút chểnh mảng của một chiến sĩ quan sát hoặc một sự chậm trễ nhỏ của cán bộ trong việc
chấp hành mệnh lệnh... thì có thể phá vỡ hiệp đồng và gây nên những hậu quả tai hại rất lớn. Vì
vậy, việc tăng cường kỷ luật trong tác chiến tập trung là hết sức quan trọng.

Sự hiệp đồng chiến đấu của quân đội ta trước hết phải dựa trên tính tích cực, chủ động
của từng cán bộ và chiến sĩ trong mọi quân chủng, binh chủng. Tính tích cực, chủ động hiệp đồng
biểu hiện ở chỗ mọi người đều biết lấy việc tiêu diệt địch làm lợi ích cao nhất, làm xong nhiệm
vụ mình nhưng thấy bạn còn đánh là chủ động phối hợp, lấy tiếng súng làm mệnh lệnh hiệp đồng,
dám nhận nhiệm vụ khó khăn nhất, nhường thuận lợi cho bạn, phát huy tinh thần thi đua cách
mạng cùng giúp nhau tiêu diệt địch. Tính tích cực, chủ động hiệp đồng của quân đội ta chính là
một biểu hiện của tính kỷ luật tự giác. Nó bắt nguồn từ sự giác ngộ giai cấp, ý thức căm thù địch,
tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, tình hữu ái giai cấp, từ sự thấm nhuần sâu
sắc tư tưởng quân sự của Đảng ta. Cho nên, để đề cao tính tích cực, chủ động hiệp đồng, chúng ta
phải luôn luôn nắm vững việc lấy nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu, nâng cao
sự quán triệt tư tưởng quân sự của Đảng làm vấn đề cơ bản nhất. Phải xây dựng cho từng cán bộ,
chiến sĩ, đơn vị luôn luôn phấn đấu hoàn thành thật tốt nhiệm vụ của mình theo lời dạy của Bác:
“Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Chúng ta cần làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ, đơn vị thấy rõ địa vị quan trọng của mình trong guồng
máy chung, xác định rõ quan hệ giữa cá nhân, đơn vị với toàn trận đánh. Trên cơ sở đó, ai ai cũng
phát huy tinh thần quyết chiến quyết thắng, chấp hành bằng được nhiệm vụ trong bất cứ tình
huống gay go nào. Tự giác hoàn thành nhiệm vụ của mình là yêu cầu hàng đầu của kỷ luật hiệp
đồng.

Phải xây dựng cho bộ đội có tinh thần chấp hành mệnh lệnh thật nghiêm túc. Mệnh
lệnh, chỉ thị của cấp trên là thể hiện ý chí của Đảng. Cán bộ, chiến sĩ chấp hành mệnh lệnh
nghiêm túc hay không là thước đo lòng trung thành với Đảng. Trong tác chiến hiện đại, tình
huống chiến đấu biến hóa rất nhanh và phức tạp, thời cơ chiến đấu xuất hiện và biến đi cũng rất
nhanh, kẻ thù lại luôn luôn tận dụng mọi sơ hở của ta để đánh ta..., cho nên chỉ một sự chậm trễ,
trù trừ, co giãn trong chấp hành mệnh lệnh đều có thể gây nên những hậu quả lớn. Chúng ta phải
xây dựng cho bộ đội thành tập quán trong chiến đấu: hễ nhận mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên là
tuyệt đối phục tùng và chấp hành khẩn trương, sáng tạo, triệt để. Sau khi nhận lệnh, chỉ được bàn
để tìm biện pháp chấp hành cho nhanh, cho tốt, đúng thời gian, đúng yêu cầu. Đối với mệnh lệnh,
chỉ thị trong chiến đấu, phải xây dựng cho mọi người có tinh thần dũng cảm phụ trách, có gan
làm, dám chịu trách nhiệm, dù khó khăn, nguy hiểm đến mấy cũng kiên quyết tìm cách thực hiện
cho bằng được. Cần triệt để chống thái độ chấp hành mệnh lệnh theo kiểu “dây dưa”, “mặc cả”,
“tùy tiện”... là những tác phong xấu rất có hại trong tác chiến hiệp đồng.

Nâng cao kỷ luật tác chiến hiệp đồng của bộ đội ta cho phù hợp với yêu cầu tác chiến
là một yêu cầu cấp bách, đòi hỏi phải rèn luyện công phu và gian khổ. Trên cơ sở nâng cao giác
ngộ chính trị mà nhận thức sâu sắc nhiệm vụ chiến đấu của mình trong tác chiến hiệp đồng.

Tác chiến hiệp đồng binh chủng của ta phải theo cách đánh của ta, cách đánh độc đáo
của Việt Nam. Kinh nghiệm những năm qua cho thấy rằng, muốn giải quyết tốt việc nghiên cứu
và huấn luyện tác chiến hiệp đồng binh chủng thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải luôn lấy tư
tưởng quân sự của Đảng ta làm kim chỉ nam, lấy kinh nghiệm chiến đấu của ta làm cơ sở, lấy
điều kiện thực tế về mọi mặt của nước ta làm căn cứ, đề cao ý thức tự chủ, tự cường để giải quyết
mọi vấn đề một cách sáng tạo, tuyệt đối không được ỷ lại, bắt chước một cách thiếu suy nghĩ. Ra
sức phát huy những thuận lợi sẵn có, kiên quyết dựa vào trí sáng tạo vô bờ bến của đông đảo cán
bộ và chiến sĩ các binh chủng, quân chủng đoàn kết một lòng thì nhất định mọi vấn đề sẽ được
giải quyết tốt đẹp.
______________________

Mấy ý kiến về chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta(39)

Phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng nói chung, chiến đấu hiệp đồng binh
chủng nói riêng, là vấn đề đã được nghiên cứu nhiều. Về mặt thực hành chiến đấu, quân đội ta
cũng đã trải qua chiến đấu hiệp đồng binh chủng theo nhiều quy mô, với tính chất, đặc điểm và
đối tượng tác chiến khác nhau. Nhưng trước sự phát triển về nhiều mặt và trên nhiều lĩnh vực, tác
chiến hiệp đồng binh chủng vẫn luôn luôn là một vấn đề mới.

Đối với quân đội ta, tác chiến hiệp đồng binh chủng rõ ràng đang ngày càng trở thành
phương thức tác chiến chủ yếu. Vì thế, nhiều nội dung của vấn đề đang được đặt ra, đòi hỏi chúng
ta phải nghiên cứu giải quyết kịp thời.

Xuất phát từ đường lối quân sự của Đảng ta, từ thực tiễn cuộc chiến tranh nhân dân
của ta, tôi muốn phát biểu một số ý kiến về chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta, tất
nhiên còn chưa đầy đủ và chưa có hệ thống, nhằm góp phần vào công tác nghiên cứu chung.

I. MẤY QUAN ĐIỂM CẦN THỐNG NHẤT KHI NGHIên CỨU VẤN ĐỀ CHIẾN
THUẬT HIỆP ĐỒNG BINH CHỦNG CỦA QUân ĐỘI TA

Trận chiến đấu là hiện tượng cơ sở của chiến tranh, là đối tượng nghiên cứu của chiến
thuật.

Trận chiến đấu không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà bao giờ cũng diễn ra theo
những quy luật nhất định, trong đó có những quy luật chung nhất đồng thời cũng có những quy
luật riêng, hình thành từ những điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể của hai bên đối chiến.

Quy luật xuyên suốt trong mọi hoạt động tác chiến của ta là quy luật của cuộc chiến
tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. “Chiến tranh nhân dân ở nước ta đã phát triển trong
điều kiện lịch sử chính trị và xã hội Việt Nam và đã đạt đến một trình độ rất cao với một nội dung
sáng tạo hết sức phong phú. Chiến tranh nhân dân ở nước ta phát triển theo các quy luật chung
của chiến tranh cách mạng nhưng đồng thời cũng theo những quy luật riêng biệt của xã hội Việt
Nam, của chiến trường Việt Nam” (40). Quy luật đó tạo nên những nhân tố có ảnh hưởng quyết
định tới trận chiến đấu mà quân đội ta tiến hành:

- Dù trong điều kiện nào, trận chiến đấu cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp dựa được
vào sức mạnh chiến đấu của toàn dân (với nòng cốt là các lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân),
khiến quân đội ta có ưu thế về nhiều mặt so với địch, có thể phát huy được sức mạnh của mình,
khắc phục được những khó khăn, nhược điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Dù trong điều kiện nào, trận chiến đấu cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp dựa vào
thế trận chiến lược, chiến dịch của chiến tranh nhân dân rộng khắp. Thế trận đó sẽ nhân sức mạnh
của quân đội ta lên gấp bội và hãm địch vào thế mạnh hóa yếu, nhiều hóa ít, đặc biệt là luôn luôn
hãm địch vào thế bị chia cắt, phân tán và bộc lộ nhiều chỗ sơ hở, nhiều chỗ yếu.

- Trận chiến đấu của quân đội ta luôn luôn có khả năng thực hiện được lấy ít thắng
nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, lấy mặt mạnh của mình đánh vào mặt yếu của
địch, buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta, không cho địch đánh theo cách đánh sở trường
của chúng.

- Trận chiến đấu của quân đội ta luôn luôn có khả năng phát huy sức mạnh của mọi
người, mọi đơn vị, mọi quân chủng, binh chủng, mọi trang bị vũ khí từ thô sơ đến hiện đại thành
một sức mạnh tổng hợp.

- Trận chiến đấu của quân đội ta luôn luôn được tiến hành một cách sáng tạo, phong
phú và không ngừng phát triển, hoàn chỉnh trên cơ sở quan điểm lý luận, nguyên tắc chiến thuật
đúng đắn, khoa học, bắt nguồn từ đường lối quân sự Mác-xít Lê-nin-nít của Đảng ta.

Do tác động của những nhân tố nói trên mà trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng của
ta, kể cả khi còn ở trình độ sơ khai, đã luôn luôn phản ánh quy luật chung nhất của chiến đấu hiệp
đồng binh chủng, đồng thời lại có những sáng tạo độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Đó là nói về phía ta, còn về phía địch thì những thủ đoạn tác chiến của chúng dĩ nhiên
cũng có những tác động trực tiếp đối với trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng của quân đội ta.
Như chúng ta đã biết, trong ba mươi năm qua chúng ta đã phải chiến đấu với những kẻ địch
mạnh, được trang bị hiện đại và có số lượng lớn, đặc biệt là đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ
mạnh nhất trong phe đế quốc. Chúng đều là những kẻ có sở trường chiến đấu hiệp đồng binh
chủng theo cách đánh cổ điển, tiêu biểu nhất của nghệ thuật quân sự tư sản, của nghệ thuật quân
sự xâm lược.

Về mặt quan điểm và hành động, chiến đấu hiệp đồng binh chủng của địch thường nổi
lên những điểm sau:

- Tận dụng ưu thế trang bị vũ khí hiện đại, nhất là ưu thế hỏa lực không quân, hải
quân, pháo binh và ưu thế khả năng cơ động bằng cơ giới ở trên bộ và cơ động bằng máy bay lên
thẳng. Có thể nói cái lõi trong chiến thuật của địch là nguyên tắc, hình thức và thủ đoạn sử dụng ồ
ạt sức mạnh của hỏa lực và cơ động để nhanh chóng đè bẹp đối phương, kết thúc trận đánh.
- Cố gắng phân tuyến với ta để tự do sử dụng sức mạnh hỏa lực. Tránh bị xen kẽ và
đánh kéo dài.

- Khi tiến công hoặc phản kích thường áp dụng đội hình song song. Cố gắng tạo điều
kiện và tranh thủ điều kiện để thọc sâu, vu hồi bao vây chia cắt ta bằng những mũi thọc sâu của
các đơn vị bộ binh cơ giới, đổ bộ đường không.

- Khi phòng ngự, kết hợp phòng thủ cố định bằng các điểm tựa, cứ điểm, cụm cứ điểm
vòng tròn với cơ động lực lượng, phát hiện và đánh chặn ta từ xa.

Tuy vậy như thực tiễn hai cuộc kháng chiến, nhất là thực tiễn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ đã cho thấy, mặc dầu kẻ địch đã giở ra mọi thủ đoạn, phương tiện chiến đấu hiện đại
nhất, chúng vẫn không sao khắc phục được những chỗ yếu, giải quyết được những mâu thuẫn
trong chiến thuật của chúng khi chúng vấp phải thế trận và cách đánh của chiến tranh nhân dân.

Những chỗ yếu và mâu thuẫn đó là:

- Muốn tập trung nhưng luôn luôn phải dàn mỏng lực lượng.

- Luôn luôn ở trong thế bị bao vây chia cắt về chiến lược, chiến dịch nên về chiến
thuật không tự do phát huy được sức mạnh của vũ khí trang bị hiện đại và khả năng cơ động lực
lượng bằng cơ giới.

- Khi phòng ngự hay tiến công thường bộc lộ nhiều nhược điểm như hở sườn, hở sau
lưng, khó xoay trở khi bị tiến công, đặc biệt là bộc lộ những nhược điểm của quân đội trang bị
hiện đại như: hậu phương cồng kềnh nặng nề; phụ thuộc vào địa hình, thời tiết, hệ thống đường
cơ động... Chúng thường dễ bị tiến công vào đúng những chỗ yếu và cũng là chỗ nguy hiểm nhất
đối với chúng...

Những điểm phân tích về ta, về địch nói trên tuy còn sơ lược, chưa đầy đủ song cũng
là những căn cứ khách quan giúp ta xác định được những quan điểm cần phải thống nhất khi
nghiên cứu về vấn đề chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta.

Một mặt, chúng ta không những không được xem nhẹ mà phải hết sức chú ý nghiên
cứu vận dụng các quy luật chung của tác chiến hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, phương
tiện chủ yếu; tốc độ mau lẹ trong triển khai bố trí, di chuyển lực lượng và trong diễn biến của các
bước chiến đấu; tình huống chiến đấu phức tạp và thay đổi nhanh chóng; cả hai bên đều cố gắng
tạo ưu thế lực lượng, phương tiện ở hướng lựa chọn có ý nghĩa quyết định nhất; đội hình bố trí
thường hình thành nhiều thê đội có chiều sâu, có lực lượng dự bị cơ động mạnh để bảo đảm tính
vững chắc và liên tục trong tiến công với tốc độ cao; vị trí của hỏa lực ngày càng được đề cao;
thủ đoạn cơ động, phương tiện cơ động được chú ý đặc biệt để phát huy hiệu quả của hỏa lực và
để tạo ưu thế về thời cơ phá vỡ thế bố trí của đối phương...

Nhưng mặt khác, chúng ta cũng không được phép thoát ly những điều kiện cụ thể của
đất nước ta, chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta nhất thiết phải tuân theo quy luật
của chiến tranh nhân dân trên đất nước ta. Khi nghiên cứu vận dụng chiến thuật hiệp đồng binh
chủng chúng ta phải triệt để tận dụng và phát huy những nhân tố thuận lợi của chiến tranh nhân
dân để khắc phục những khó khăn về điều kiện vật chất của mình cũng như để hạn chế chỗ mạnh
và khoét sâu mọi mâu thuẫn, sơ hở của địch, nhằm làm cho mỗi trận chiến đấu có hiệu suất cao
nhất. Chúng ta phải luôn luôn nắm vững yếu tố con người làm chủ vũ khí, yếu tố chất lượng, cách
đánh, sự kết hợp giữa thế và lực trong quá trình chuẩn bị và thực hành chiến đấu... Chúng ta phải
luôn luôn nắm vững các tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Đảng.

Nói một cách cụ thể:

- Chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta phải là chiến thuật quán triệt tư
tưởng tiến công, chủ yếu là chiến thuật tiến công, tiến công kiên quyết, chủ động, liên tục; phòng
ngự tích cực, vững chắc, kiên cường, phòng ngự là để tạo thời cơ tiến công.

- Chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta là chiến thuật biết dùng sức mạnh
tổng hợp của mọi lực lượng tinh thần và vật chất, biết phát huy trình độ giác ngộ chính trị và tinh
thần chiến đấu cao, kỹ thuật giỏi, làm chủ mọi trang bị vũ khí từ đơn giản đến hiện đại trong điều
kiện chưa đồng bộ, chưa cân đối để đánh bại mọi thủ đoạn và hành động tác chiến của kẻ địch
mạnh hơn về số lượng quân đội tập trung và trang bị kỹ thuật.

- Chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta phải là chiến thuật mưu trí linh
hoạt trong vận dụng mọi hình thức chiến thuật, mọi thủ đoạn chiến đấu nhằm buộc địch phải
đánh theo ý muốn của ta, không cho địch phát huy chỗ mạnh và sở trường của chúng.

Có thể nói, đó là những quan điểm chỉ đạo toát lên bản chất của chiến thuật hiệp đồng
binh chủng của quân đội ta. Không nắm vững những quan điểm đó, bắt chước kinh nghiệm nước
ngoài một cách máy móc rập khuôn thì khó tránh được “lai căng” trong nhận thức và hành động,
tất nhiên cũng khó giành được thắng lợi trong chiến đấu.

Chúng ta phải quán triệt các quan điểm nói trên trong mọi mặt hoạt động - từ nghiên
cứu lý luận, nguyên tắc đến chuẩn bị và thực hành chiến đấu - như một thể thống nhất, không
được coi nhẹ điểm nào. Tuy nhiên, trong phạm vi có hạn của bài này, tôi chỉ phát biểu về một vấn
đề thường được trao đổi ý kiến nhiều trong những năm qua. Đó là vấn đề quán triệt các quan
điểm nói trên trong việc nghiên cứu, vận dụng các hình thức chiến thuật hiệp đồng binh chủng
của quân đội ta.

Theo cách nghiên cứu sắp xếp tổng hợp của lý luận quân sự, xét về loại hình của hình
thức chiến thuật thì có hai loại hình cơ bản là tiến công và phòng ngự. Quán triệt tư tưởng tiến
công, trước nay quân đội ta vẫn lấy tiến công làm hình thức chiến thuật chủ yếu, đồng thời cũng
coi phòng ngự là hình thức chiến thuật không thể thiếu được. Đó là điều đã rõ ràng, không phải
bàn cãi.

Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ phải chăng chúng ta chỉ có một hình thức chiến thuật tiến
công hoặc một hình thức phòng ngự? Phải chăng trong điều kiện chiến tranh hiện nay, quân đội
hai bên đều đánh theo kiểu chính quy hiện đại thì có thể “xếp gọn” mọi hình thức chiến thuật
phong phú mà ta đã có vào một hình thức chiến thuật tiến công hay phòng ngự nào đó, như có
đồng chí đã nghĩ?

Cả về lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng nghĩ như vậy là không đúng.

Như chúng ta đều biết, chiến tranh là một hiện tượng luôn luôn biến hóa, phát triển.
Trong chiến đấu, cả hai bên đối chiến đều cố gắng dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt đối phương.
Tình huống trên chiến trường thường diễn biến hết sức phức tạp. Các yếu tố địa hình, thời tiết,
trang bị vũ khí... không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau. Vì vậy muốn giành được thắng
lợi thì không thể chỉ có một mà phải có nhiều hình thức tiến công hay phòng ngự khác nhau phù
hợp với các điều kiện khách quan khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện chiến đấu với kẻ địch xâm
lược, thế chiến tranh nhân dân rộng khắp trên đất nước ta chẳng những không bó tay trong khuôn
khổ một hình thức chiến thuật nào mà luôn luôn mở ra những thuận lợi cho ta vận dụng mọi hình
thức chiến thuật đánh địch phù hợp với thực tế nhất và có hiệu quả nhất.

Trong chiến tranh xâm lược nước ta, khi quân địch chiếm giữ các thành phố, thị xã, thị
trấn, các trục đường giao thông quan trọng, chúng thường tổ chức các trận địa phòng ngự kiên cố
(xây dựng các đồn bốt, cứ điểm, cụm cứ điểm) để chống lại các cuộc tiến công của ta.

Muốn tiến công quân địch trong điều kiện đó, quân đội ta đã dùng các hình thức tiến
công thích hợp như: chiến thuật tiến công địch trong công sự vững chắc; chiến thuật tập kích bí
mật, bất ngờ; chiến thuật vây điểm diệt viện, v.v... Trong điều kiện địch phòng ngự thành các cụm
cứ điểm, các căn cứ lớn, bố phòng rộng, hỏa lực mạnh mà ta chưa đủ lực lượng, phương tiện vũ
khí để tiêu diệt ngay một lúc thì phải có chiến thuật tiến công thích hợp: chiến thuật “bao vây
đánh lấn” (tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ năm 1954), vây lấn tiến tới tiêu diệt toàn bộ
vị trí như Bu Prăng, Đức Lập năm 1970... Hoặc ta đã tập trung sức mạnh đánh bằng hiệp đồng
binh chủng tiến công tiêu diệt các vị trí lớn của địch như Làng Vây (năm 1968), Đắc Tô, Tân
Cảnh (năm 1972), v.v... Ngoài các hình thức chiến thuật tiến công địch phòng ngự trong công sự
kiên cố, để đánh địch ở dã ngoại có trang bị vũ khí hiện đại nhất là có khả năng cơ động lực
lượng lớn, có hỏa lực máy bay, pháo binh mạnh đi tiến công, hoặc hành quân giải tỏa, hoặc phản
kích lại ta, chúng ta đã dùng các hình thức chiến thuật có hiệu lực như: vận động tiến công kết
hợp chốt, bao vây tiến công liên tục, phục kích đánh quân đổ bộ đường không, v.v..., với các quy
mô nhỏ, vừa và lớn bằng hiệp đồng binh chủng.

Như vậy là trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây và cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước ngày nay, quân đội ta đã có cả một hệ thống chiến thuật tiến công phong phú, đã
tác chiến hiệp đồng binh chủng theo nhiều quy mô nhỏ, vừa và lớn, dưới nhiều hình thức như
phục kích, tập kích, đánh công sự vững chắc bao vây đánh lấn, bao vây tiến công liên tục, vận
động tiến công kết hợp chốt, v.v… Mỗi hình thức chiến thuật tiến công đều có hiệu quả rõ rệt và
góp phần thắng lợi trong từng giai đoạn chiến tranh.

Trong thời gian tới, dù địch có những âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới thì hình
thái triển khai và bố trí của chúng cũng vẫn không thể thoát ra khỏi những quy luật của chiến
tranh xâm lược. Vì vậy, những hình thức chiến thuật tiến công phong phú nói trên của quân đội ta
chẳng những không hề “lỗi thời” mà vẫn phát huy được tác dụng tích cực của chúng. Nếu địch
vận động hoặc tạm dừng, ta vẫn có thể dùng các hình thức chiến thuật phục kích, tập kích, vận
động tiến công kết hợp chốt, vận động bao vây tiến công liên tục. Nếu địch co lại trong công sự
vững chắc, ta vẫn có thể dùng hình thức bao vây đánh lấn ngắn ngày, dài ngày hoặc tiến công
ngay bằng hiệp đồng binh chủng. Ta lại có thể dùng hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đánh địch
phòng ngự trong căn cứ, hoặc kết hợp với nổi dậy của quần chúng đánh địch trong các thành phố,
thị xã, thị trấn và vùng nông thôn.

Rõ ràng trong tình hình hiện nay, ta không thể xem nhẹ hoặc bỏ hẳn các hình thức
chiến thuật tiến công đã có mà còn phải làm cho chúng phong phú hơn lên, làm cho cách đánh
hiệp đồng binh chủng trong các hình thức chiến thuật đó trở thành phổ biến và dần dần nâng cao
từng bước. Đi đôi với việc nghiên cứu học tập đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn trong
những trận tiến công lớn, chúng ta vẫn phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển các hình
thức chiến thuật đã có để thực hiện đánh tiêu diệt lớn bằng hiệp đồng binh chủng. Điều quan
trọng là phải biết sử dụng các hình thức chiến thuật tiến công sao cho phù hợp với tình hình từng
nơi, từng lúc - tức là biết vận dụng linh hoạt hoặc thay đổi linh hoạt từng hình thức để tiêu diệt
địch nhiều hơn và nhanh hơn, buộc chúng lâm vào thế bị động lúng túng, không phát huy được sở
trường đánh chính diện có hỏa lực mạnh yểm trợ mà trước nay chúng thường sử dụng.
Trong những năm quan quân đội ta đều luôn luôn lấy chiến thuật tiến công làm chiến
thuật chủ yếu, và chiến thuật tiến công cũng xuất hiện một cách phổ biến. Tuy nhiên, giữa các
trận chiến đấu tiến công vẫn có những trận phòng ngự. Từ những trận phòng ngự có tính chất thô
sơ đơn giản hồi đầu kháng chiến chống Pháp đến các trận phòng ngự trong chiến dịch tiến công ở
Điện Biên Phủ, hầu hết đều nhằm giữ vững những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất
định, bảo đảm cho các trận chiến đấu tiến công diễn ra ở các mục tiêu khác, hoặc để giữ vững bàn
đạp tiến công và sau đó chuyển sang chiến đấu tiến công. Hình thức phòng ngự còn đơn giản
trong kháng chiến chống Pháp phát triển dần dần và đến kháng chiến chống Mỹ, suốt từ năm
1965 đến năm 1971, đã được vận dụng kết hợp với chiến đấu tiến công một cách sáng tạo: đó là
hình thức vận động tiến công kết hợp chốt, trong đó chốt là thành phần phòng ngự có tính chất
lâm thời. Chiến đấu phòng ngự đơn giản trên một chốt đã phát triển dần dần thành phòng ngự trên
một số chốt liên hoàn với nhau gọi là cụm chốt. Và trong chiến dịch kết thúc cuộc tiến công chiến
lược 1972, hình thức chiến thuật phòng ngự chốt, cụm chốt liên hoàn đã trở thành hình thức chiến
thuật cần thiết để giữ vững những mục tiêu quan trọng. Dựa vào công sự vững chắc, bộ đội ta đã
tiêu diệt địch trước trận địa bằng phản kích kiên quyết và liên tục (trận Tầu Ô trên đường 13...)
rồi chuyển sang chiến đấu tiến công hoặc tạo điều kiện cho nơi khác tiến công. Thực tiễn, trên
khắp các chiến trường đã chứng minh tác dụng ưu việt của hình thức chiến thuật phòng ngự chốt,
cụm chốt liên hoàn, đồng thời cũng chứng minh rằng: chỉ có quán triệt tư tưởng tiến công, quán
triệt tư tưởng phòng ngự tích cực thì chiến đấu phòng ngự mới thu được thắng lợi lớn, giữ vững
vùng giải phóng, giữ vững các địa bàn quan trọng, các bàn đạp để tiến công.

Qua thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng trong hơn 30 năm qua với những kẻ
địch mạnh, có ưu thế so với ta về trang bị vũ khí hiện đại, chúng ta thấy nổi lên những điểm đáng
chú ý:

- Các quan điểm chiến thuật của ta rất đúng đắn và rất khoa học, tỏ ra hơn hẳn các
quan điểm chiến thuật của địch. Điều đó đã được chứng minh rõ rệt qua thắng lợi của ta trong tất
cả mọi điều kiện, tình huống chiến đấu (đương nhiên sự đúng đắn, khoa học, ưu việt của chiến
thuật chỉ là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến chiến đấu thắng lợi). Sự hơn hẳn về chiến thuật
của ta so với địch, nếu đi vào cụ thể, còn thể hiện ở chỗ nó nhận thức và giải đáp đúng đắn, sáng
tạo những vấn đề do thực tiễn chiến đấu hiện đang đặt ra. Những vấn đề được xem là lớn nhất
trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng hiện đại như phát huy sức mạnh tổng hợp của các quân
chủng, binh chủng; tận dụng tính năng, tác dụng của vũ khí trang bị hiện đại; nâng cao tính linh
hoạt, cơ động và hiệu quả trong chiến thuật, v.v... đã được chúng ta giải quyết rất thành công và
rất sáng tạo. Rõ ràng các đơn vị hợp thành của ta có sức mạnh lớn hơn của địch; các binh chủng
như pháo binh, xe tăng, cơ giới của ta có uy lực thực tế đối với chiến đấu cao hơn so với địch mặc
dù số lượng của ta còn kém so với địch.

- Thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng của chúng ta còn chứng minh rõ hơn bao
giờ hết tác dụng và vai trò của con người, với chất lượng tổng hợp về chính trị tinh thần, bản lĩnh
quân sự, tri thức khoa học, luôn luôn là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến đấu hiệp đồng
binh chủng. Chính do dựa vào con người, do phát huy tính năng động chủ quan của con người mà
chúng ta đã thắng kẻ địch có trang bị vũ khí hiện đại nhất là đế quốc Mỹ. Rõ ràng khi đã phát huy
được vai trò của con người cán bộ và chiến sĩ thì chiến thuật hiệp đồng binh chủng sẽ là chiến
thuật có khả năng và sức mạnh cao nhất, sẽ phát triển rất nhanh và rất phong phú, sáng tạo.

- Thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng của ta cũng cho thấy sự đúng đắn của
những tư tưởng quan điểm chiến thuật cơ bản như lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số
lượng đông, lấy mặt mạnh của ta đánh vào mặt yếu của địch... Chỗ mạnh nhất của địch là hiệp
đồng binh chủng trong tác chiến chiến dịch, chiến thuật nói chung đều bị hành động phối hợp
chiến trường của các lực lượng vũ trang ta trong thế chiến tranh nhân dân phá vỡ. Điều đó đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng binh chủng của ta phát huy tác dụng và có hiệu lực
thực tế lớn nhất. Thực tiễn đó đã chỉ ra cho chúng ta thấy phương hướng giải quyết các vấn đề do
chiến đấu hiện đại đặt ra thích hợp nhất với thực tiễn Việt Nam, với quan điểm, nghệ thuật quân
sự Việt Nam chính là phương hướng mà chúng ta đã thực hiện trong mấy chục năm chiến đấu vừa
qua. Ở đây cần chú ý là không phải chỉ vì ta kém địch về trang bị vũ khí, về số lượng quân tập
trung nên ta mới chủ trương lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông mà ngay
cả khi có ưu thế hơn địch, chúng ta vẫn không hề coi nhẹ cách đánh có hiệu quả chiến đấu cao
nhất trong sử dụng lực lượng và phương tiện chiến đấu. Đó luôn luôn là phương hướng chủ yếu
của ta trong thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

- Thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng của ta cũng cho thấy: ngay trong điều kiện
chiến tranh có sử dụng các binh chủng, quân chủng kỹ thuật hiện đại, nhân dân ta, bộ đội địa
phương, dân quân tự vệ và du kích vẫn cần thiết và có thể phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực.
Tác chiến hiệp đồng binh chủng cũng là một phương thức tác chiến mà các lực lượng vũ trang
quần chúng có thể và có khả năng vận dụng trong chiến đấu độc lập cũng như trong khi phối hợp
chiến đấu với bộ đội chủ lực.

Kinh nghiệm hiệp đồng chiến đấu của quân và dân ta trong chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc và trong cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam đã chứng tỏ bộ đội
địa phương, dân quân tự vệ có nhiều khả năng phát huy sức mạnh chiến đấu của mình khi được
tăng cường về khả năng vật chất, kỹ thuật và trình độ kiến thức khoa học. Kinh nghiệm thực tiễn
này đã bác bỏ luận điểm sai lầm, muốn phủ định khả năng và vai trò trực tiếp tham gia chiến đấu
của nhân dân, của các lực lượng dân quân trong điều kiện hiện đại.

Rồi đây, tình hình mọi mặt của ta về quân sự thay đổi, kẻ địch cụ thể cùng với cách
đánh và trang bị của chúng thay đổi thì chiến thuật của ta tất nhiên cũng phải có sự thay đổi cho
phù hợp. Nhưng dù thế nào thì quy luật của chiến tranh nhân dân trên đất nước ta, đặc điểm của
nền nghệ thuật quân sự nói chung cũng như chiến thuật hiệp đồng binh chủng nói riêng của ta vẫn
tồn tại và tác động thường xuyên đến chiến thuật của quân đội ta. Đặc biệt là tính chất khoa học,
sáng tạo, luôn luôn phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn chiến đấu của các lực lượng
vũ trang chúng ta, sẽ vẫn là một trong những đặc điểm nổi bật. Nếu hiện nay chúng ta có thái độ
khách quan, sáng tạo, không bó mình trong những kinh nghiệm cũ, những kinh nghiệm có tính
chất cục bộ tạm thời, mặt khác lại không bị mê hoặc bởi những “cái mới”, thiếu suy nghĩ, phân
tích hời hợt tác động của trang bị vũ khí hiện đại tới chiến thuật... thì sau này đó vẫn là bài học
cần được chú ý trong khi nghiên cứu phương hướng phát triển chiến thuật hiệp đồng binh chủng
của quân đội ta. “Nắm vữug quan điểm kế thừa biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta
phải ra sức giữ gìn và phát huy mọi vốn quý của quá trình xây dựng và tác chiến đã qua, căn cứ
vào yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, quân sự trước mắt và lâu dài, mà suy nghĩ về phương hướng
xây dựng và tác chiến sắp tới, không ngừng đưa sức chiến đấu của quân đội ta lên một trình độ
mới cao hơn nữa... không nên thỏa mãn dừng lại mà không thấy hết nhũng yêu cầu mới, đòi hỏi
mới đang đặt ra. Đồng thời cũng không thể thoát ly thực tế, đặt ra những yêu cầu mà tình hình
chung của đất nước chưa cho phép”(41)

II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHIẾN THUẬT HIỆP ĐỒNG BINH CHỦNG CỦA
QUân ĐỘI TA

Từ quan điểm lý luận chiến thuật và thực tiễn chiến đấu đã nêu ở trên, chúng ta thấy
phương pháp và hình thức chiến thuật của quân đội ta rõ ràng không giống với phương pháp và
hình thức chiến thuật của nhiều nước khác. Vì vậy khi đề cập tới các vấn đề về phương pháp và
hình thức chiến thuật hiệp đồng binh chủng, chúng ta không thể giải quyết theo những tiêu chuẩn,
những công thức có thể là rất thích hợp, rất hay với nước ngoài song lại không thích hợp với tình
hình thực tiễn của ta, không đúng với quan điểm của ta. Chúng ta phải xuất phát từ thực tiễn
chiến đấu và quan điểm lý luận của ta để tìm ra những đặc điểm nổi bật trong chiến thuật hiệp
đồng binh chủng của quân đội ta. Đó là các đặc điểm sau:

1. Đánh địch từ nhiều hướng, bằng nhiều mũi.


Từ xưa đến nay, bọn đế quốc xâm lược trên đất nước ta đều không có điều kiện và khả
năng triển khai lực lượng quy mô quá lớn với hình thức tác chiến thành chiến tuyến trong tiến
công cũng như phòng ngự. Chúng buộc phải hành quân theo các trục đường, dù chúng tiến công
trên nhiều hướng. Về phòng ngự, chúng cũng chiếm giữ các trục đường giao thông, các điểm cao
có giá trị về chiến lược, chiến thuật, xây dựng thành các cứ điểm, cụm cứ điểm. Nói chung, kẻ
địch thường đóng thành từng mục tiêu kể cả các cuộc hành quân cũng là mục tiêu. Bởi lẽ đó nên
về mặt chiến thuật, ta không thể và cũng không cần tiến công một hướng vỗ mặt theo kiểu chiến
tuyến mà phải đánh bằng nhiều hướng, nhiều mũi. Phương pháp tác chiến của ta là tiến công tiêu
diệt mục tiêu.

Đặc điểm chiến thuật này còn bắt nguồn từ đặc điểm của hình thái chiến tranh nhân
dân của ta luôn luôn ở thế bao vây, chia cắt địch và tạo ra cho ta khả năng triển khai, cơ động lực
lượng chiến đấu ở khắp nơi mà ta lựa chọn, nhằm hình thành thế mạnh hơn địch để tiêu diệt địch.

Đánh địch từ nhiều hướng, bằng nhiều mũi cũng là phương pháp chiến thuật thích hợp
nhất để khoét sâu những nhược điểm của phương pháp bố trí phòng ngự của địch. Phương pháp
phòng ngự cứ điểm, cụm cứ điểm của địch có nhiều khe hở lớn, cho phép ta hình thành thế bao
vây, chia cắt tiêu diệt từng cứ điểm, cụm cứ điểm của địch mà không cần phải qua quá trình cơ
động phức tạp trong đội hình chúng.

Trong điều kiện địch có ưu thế so với ta về trang bị vũ khí thì đó cũng là phương pháp
chiến thuật thích hợp nhất để ta phát huy được cao độ tính năng tác dụng của phương tiện vũ khí
của ta đồng thời hạn chế ưu thế về số lượng của địch. Nếu chỉ đánh địch từ một hướng vỗ mặt
theo kiểu chiến tuyến thì dù ta khéo triển khai lực lượng đến đâu cũng dễ bị địch phát hiện và
dùng ưu thế về vũ khí để ngăn chặn hoặc áp đảo. Ngược lại nếu đánh địch cả phía trước lẫn phía
sau, cả bên trái lẫn bên phải, đánh từ những hướng mà địch không dự kiến được thì dù có ưu thế,
địch vẫn phải phân tán lực lượng, dàn mỏng lực lượng ra để đối phó. Chỉ có chiến đấu hiệp đồng
binh chủng như vậy thì ta mới phá được thế bố trí của địch ngay từ đầu, mới nhanh chóng làm rối
loạn cách thức chiến đấu, phương pháp chỉ huy hiệp đồng binh chủng của địch, buộc địch không
thể phát huy được sở trường hiệp đồng binh chủng của chúng.

Sau này dù quân đội ta có trình độ trang bị tiên tiến đi nữa thì căn cứ vào quy luật
chiến tranh xâm lược của địch, vào quy luật chiến tranh nhân dân của ta, đặc điểm xen kẽ, không
phân biệt tuyến trước tuyến sau trong từng trận chiến đấu cũng vẫn có khả năng tồn tại. Qua dự
kiến này, chúng ta thấy phương pháp chiến thuật hiệp đồng binh chủng đánh từ nhiều hướng,
bằng nhiều mũi của ta hiện nay là bắt nguồn từ sự nhận thức đúng đắn, khoa học của ta về đặc
điểm chiến đấu trong điều kiện có trang bị vũ khí phương tiện hiện đại trên đất nước ta.
Tất nhiên phương pháp chiến thuật đó đặt ra nhiều vấn đề phức tạp về hiệp đồng giữa
các hướng, các mũi, các binh chủng... nhất là hiệp đồng giữa pháo binh tầm xa với các hướng tiến
công đối diện giữa bộ binh và xe tăng, thiết giáp. Việc chuẩn bị và cơ động chiến đấu của các
mũi, các hướng cũng sẽ có những khó khăn nhất định và đòi hỏi rất cao về nghệ thuật chỉ huy, về
nghệ thuật phối hợp, đặc biệt là về tinh thần dũng cảm, táo bạo, về bản lĩnh chiến đấu điêu luyện,
về tổ chức lực lượng gọn nhẹ, hợp lý. Có như vậy mới có thể cơ động thọc sâu vào những chỗ sơ
hở trong bố trí các cụm cứ điểm phòng ngự của địch, mới không cho địch phát hiện và phán đoán
được ý định tác chiến của ta.

2. Hiệp đồng trực tiếp vào từng mục tiêu trong phạm vi hẹp, chính diện nhỏ, chiều sâu
nông.

Mỗi trận đánh của quân đội ta trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng, có tập trung lực
lượng, phương tiện vũ khí ở quy mô vừa và tương đối lớn nhằm tiêu diệt một căn cứ hoặc cụm cứ
điểm của địch, sẽ diễn ra trong suốt quá trình của trận đánh từ khi bắt đầu nổ súng cho đến khi kết
thúc trận đánh. Qua thực tế chiến đấu, ta thường không hiệp đồng trên chính diện rộng, không
hiệp đồng theo trình tự từ chiến hào này đến chiến hào khác, hết dải này đến dải khác theo kiểu
phân tuyến. Vì tạo thế trận xen kẽ với địch, không phân tuyến, nên chúng ta hiệp đồng chiến đấu
theo cách đánh tiêu diệt từng mục tiêu, từng cứ điểm, cụm cứ điểm của địch, phạm vi hiệp đồng
tác chiến thường hẹp và chiều sâu nông.

Về không gian trong toàn bộ một căn cứ, một cụm cứ điểm, một khu vực địch chiếm
đóng thường bao gồm nhiều mục tiêu, trong đó có những mục tiêu hiểm yếu nhất, quan trọng
nhất đối với sự sống còn của căn cứ, cụm cứ điểm của địch. Về thời gian, trong quá trình trận
đánh cũng có những thời điểm quan trọng khác nhau, có thời điểm then chốt mà nếu ta biết nắm
lấy để tập trung sức mạnh thì sẽ nhanh chóng tiêu diệt được hoàn toàn quân địch. Bởi lẽ đó chiến
thuật hiệp đồng binh chủng của ta kiên quyết bác bỏ phương pháp dàn đều lực lượng, sử dụng các
phương tiện vũ khí kỹ thuật không có trọng điểm. Ta phải kiên quyết hình thành trung tâm hiệp
đồng binh chủng vào từng mục tiêu quan trọng, then chốt nhất ở thời điểm quyết định nhất của
trận đánh. Phương pháp chiến thuật đó cho phép ta tạo ra được sức mạnh tổng hợp lớn nhất vào
nơi hiểm yếu nhất của địch. Thực tiễn đánh Mỹ vừa qua đã chứng tỏ đó là phương pháp tác chiến
hiệp đồng có hiệu lực lớn, mang lại kết quả chiến đấu cao và địch cũng rất khó phán đoán quy
luật để tổ chức đối phó. Hiệp đồng như vậy cho phép ta kết hợp vận dụng nhiều hình thức chiến
thuật, thủ đoạn chiến đấu. Vì nếu hình thành trung tâm hiệp đồng binh chủng vào từng mục tiêu
then chốt có chính diện hẹp, chiều sâu nông thì đối với các mục tiêu khác ta lại có thể sử dụng
hình thức chiến thuật và thủ đoạn tác chiến khác.
Cũng xuất phát từ đặc điểm trên, khi thực hành chiến đấu hiệp đồng binh chủng, ta
phải tổ chức hiệp đồng tỉ mỉ, chu đáo và chắc chắn để nhanh chóng tiêu diệt được địch trong mục
tiêu đã định, bảo đảm thắng lợi hoàn toàn của toàn bộ trận đánh. Dù mục tiêu đó lớn hay nhỏ, là
cụm cứ điểm hay cứ điểm, là căn cứ lớn hay khu vực phòng thủ lớn của địch thì ta vẫn phải hiệp
đồng vào từng mục tiêu đi đến hiệp đồng trong toàn bộ trận đánh. Thực tế chiến đấu hiệp đồng
binh chủng của quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp trước đây và trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước ngày nay đã diễn ra một kiểu cách tác chiến hiệp đồng phổ biến là “hiệp đồng trực
tiếp gần vào từng mục tiêu”.

Tóm lại các binh chủng của ta thường phải triển khai hiệp đồng chiến đấu ở cự ly gần
vào mục tiêu có hiệu quả nhất: vừa bảo đảm tiết kiệm đạn dược, khí tài, vừa nhanh chóng, bất
ngờ đè bẹp địch. Vừa qua, cách hiệp đồng này không những chỉ diễn ra trong chiến thuật mà còn
diễn ra cả trong chiến dịch nữa. Nó quán triệt sâu sắc nguyên tắc “đánh gần”, một trong những
nguyên tắc đã chỉ đạo các lực lượng vũ trang ta giành thắng lợi trong các trận đánh địch đang vận
động cũng như đánh địch trong công sự. Nhất là đánh địch trong công sự vững chắc thì nguyên
tắc này đã tỏ ra có hiệu quả lớn: tiêu thụ ít đạn dược, giảm thương vong mà lại thắng giòn giã.

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là ta phủ nhận cách đánh xa hoặc bố trí từ xa.
Trong tình hình cụ thể nào đó, nếu có thời cơ hoặc điều kiện thực tế nào đó cho phép thì ta vẫn
phải vận động từ xa đến đánh địch; xe tăng, thiết giáp của ta vẫn phải cơ động từ xa đến để thọc
sâu, vu hồi bao vây chia cắt địch; pháo binh của ta vẫn phải bố trí xa để hiệp đồng...

3. Thời gian thực hiện hiệp đồng binh chủng trong trận đánh thường ngắn.

Đặc điểm này có liên quan mật thiết với hai đặc điểm trên. Vì khi phương pháp chiến
thuật hiệp đồng binh chủng là đánh theo nhiều hướng bằng nhiều mũi vào một mục tiêu, khi trung
tâm hiệp đồng binh chủng được tập trung vào từng mục tiêu có chính diện hẹp, chiều sâu nông thì
thời gian tập trung nỗ lục cao nhất để tiêu diệt địch cũng không cần thiết phải kéo dài.

Phương pháp chiến thuật này đã được thực tiễn chiến đấu hiệp đồng binh chủng của ta
chứng minh là một phương pháp có hiệu quả thực tế cao. Không những nó giúp ta nâng cao được
nhịp độ tiến công, tiêu diệt được địch, khiến địch vô cùng khiếp sợ mà còn cho phép ta tiết kiệm
được đạn dược và thời gian. Thế nhưng nó lại đòi hỏi rất cao về trình độ hiệp đồng của các binh
chủng, về trình độ tổ chức và chỉ huy của cơ quan tham mưu và người chỉ huy, về sự chuẩn bị sẵn
sàng hiệp đồng của từng đơn vị, từng binh chủng và toàn đơn vị hợp thành. Nó đòi hỏi rất cao về
khả năng lựa chọn, xác định thời cơ và thời gian hiệp đồng, về năng lực phát huy kết quả của
những đòn tập trung mãnh liệt của toàn thể đơn vị, của các binh chủng. Những yêu cầu này là một
thể hoàn chỉnh không thể thiếu hoặc yếu về một mặt nào. Tất cả các binh chủng có luôn luôn sẵn
sàng hiệp đồng thì khi có thời cơ nổ súng mới nhanh chóng thực hiện được kế hoạch, quy định
hiệp đồng đã đề ra cũng như mới nhanh chóng lợi dụng được kết quả chiến đấu đã đạt được để
nâng cao tốc độ chiến đấu, giành thắng lợi hoàn toàn cho toàn bộ trận đánh.

Kinh nghiệm chiến đấu hiệp đồng binh chủng của ta cho thấy trong các yêu cầu trên
thì yêu cầu về khả năng xác định đúng đắn, chính xác thời cơ và thời gian tập trung sức mạnh lớn
nhất để đánh vào những mục tiêu đã lựa chọn là rất quan trọng. Có khi chỉ cần qua phút đầu nổ
súng là đã có thể thấy trước được kết quả của toàn trận đánh như thế nào. Muốn đạt được yêu cầu
đó đòi hỏi người chỉ huy phải nắm và phân tích đúng tình hình địch, theo dõi sát diễn biến chiến
đấu, nhạy bén và quyết đoán trong khi hạ quyết tâm. Chỉ cần trù trừ, do dự một chút, chậm chạp
một chút là có thể để lỡ thời cơ, và như vậy việc tập trung sức mạnh hiệp đồng sẽ phải kéo dài, tất
sẽ không thể nhanh chóng giành được thắng lợi quyết định khi đã tung lực lượng, phương tiện
quyết định của mình ra. Hơn nữa cơ sở vật chất của ta lại chỉ có hạn, không thể trận nào cũng
đánh liên tục kéo dài; còn kẻ địch thì có phương tiện hiện đại, cơ động nhanh để ứng cứu, có hỏa
lực mạnh của không quân, pháo binh chi viện, nếu ta kéo dài trận đánh thì địch có thể nhanh
chóng đến cứu viện và gây cho ta nhiều khó khăn.

4. Luôn luôn giữ vững và tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn đơn vị hợp thành,
đồng thời phát huy cao độ sức mạnh của những binh chủng chủ yếu.

Như quan điểm cơ bản về tác chiến hiệp đồng binh chủng của ta đã nêu ở trên, phương
pháp chiến thuật của ta bao giờ cũng dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn đơn vị
hợp thành và sức mạnh của từng đơn vị binh chủng để giải quyết các yêu cầu chiến đấu trong cả
quá trình một trận đánh. Vị trí, chức năng của các quân chủng, binh chủng trong quân đội ta đã
được xác định rõ ràng, đúng đắn. Những binh chủng có vị trí chủ yếu trong chiến đấu tiêu diệt
địch như bộ binh, pháo binh, xe tăng, thiết giáp cũng đã được chúng ta luôn luôn chú trọng
nghiên cứu và tìm ra những phương pháp chiến thuật hiệp đồng binh chủng thích hợp nhất để
phát huy đến cao độ uy lực của chúng trong quá trình đột phá, tiêu diệt địch và làm chủ chiến
trường, nhất là trong khi tập trung sự nỗ lực cao nhất của đơn vị vào lúc và nơi quyết định của
trận đánh.

Phương pháp chiến thuật hiệp đồng binh chủng của ta đã lấy hiệp đồng giữa bộ binh,
xe tăng, thiết giáp (nếu có) với pháo binh làm nội dung chủ yếu. Trung tâm của hiệp đồng binh
chủng là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn đơn vị hợp thành bảo đảm cho bộ binh, xe tăng,
thiết giáp phát huy cao độ sức mạnh và tốc độ đột kích, tiêu diệt địch, chiếm lĩnh mục tiêu; bảo
đảm pháo binh gồm pháo đi cùng và pháo chi viện phát huy được vai trò hỏa lực chủ yếu chi viện
cho đột phá và tiêu diệt địch ở những mục tiêu lựa chọn.

Phương pháp chiến thuật này đòi hỏi các binh chủng phải có chiến thuật phù hợp với
yêu cầu phát huy tác dụng của mình trong khi thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm phục vụ cho trung
tâm hiệp đồng binh chủng bảo đảm hiệp đồng đúng lúc vào mục tiêu đã đề ra.

5. Hiệp đồng chiến thuật chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân
quân tự vệ.

Đây là đặc điểm bắt nguồn từ quy luật của chiến tranh nhân dân ở nước ta, trong đó
mọi hoạt động tác chiến và xây dựng của bộ đội chủ lực luôn luôn có sự phối hợp và hiệp đồng
chặt chẽ với bộ đội địa phương, dân quân tự vệ. Mặt khác sự nghiệp xây dựng kinh tế phát triển,
sự nghiệp củng cố quốc phòng được tăng cường thì bộ đội địa phương, dân quân tự vệ của ta
cũng ngày càng được cải tiến về trang bị vũ khí, được nâng cao về trình độ chiến thuật, kỹ thuật,
kể cả trình độ sử dụng trang bị vũ khí hiện đại. Do đó, khả năng hiệp đồng chiến đấu gồm ba thứ
quân trong một trận đánh sẽ ngày càng được tăng cường và phát triển hơn.

Vừa qua, những xã ở trọng điểm nói chung đã có dân quân du kích, công binh, pháo
binh, cao xạ, đặc công, v.v... Những xã ở ven biển lại có đơn vị làm nhiệm vụ rải mìn ở bãi cát
ven biển, thả thủy lôi thay nhiệm vụ của hải quân, v.v... Hình thức tổ chức của một xã hay một xí
nghiệp có đủ thành phần binh chủng là một thực tế khách quan tạo ra tính chất hợp thành của các
lực lượng vũ trang địa phương và dân quân tự vệ, dù quy mô còn nhỏ bé. Cho nên tác chiến hiệp
đồng binh chủng của các lực lượng vũ trang địa phương là vấn đề tất yếu phải đặt ra.

Mặt khác các trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng của ta trên địa bàn đông dân, địa
bàn có phong trào chiến tranh du kích phát triển cao, sẽ là hiện tượng tương đối phổ biến, phản
ánh quy luật của chiến tranh nhân dân. Trong điều kiện đó, cả ba thứ quân đều phải nghiêm chỉnh
thực hiện một trong những nguyên tắc lớn: nguyên tắc phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ với nhau
trong chiến đấu. Hiệp đồng giữa ba thứ quân trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng vừa là vấn đề
thuộc về nguyên tắc vừa là vấn đề xuất phát từ khả năng và điều kiện thực tế của các lực lượng vũ
trang ta. Nhưng ta phải thực hiện hiệp đồng binh chủng giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ như thế nào cho đúng và đạt hiệu quả thực tế lớn nhất?

Muốn thực hiện chiến đấu hiệp đồng binh chủng giữa ba thứ quân, vấn đề đầu tiên đặt
ra là phải hành động phù hợp với quy luật của chiến đấu hiệp đồng, nhất là những quy luật cơ bản
như: thống nhất hành động theo mục tiêu, thời gian và địa điểm dưới sự chỉ huy tập trung thống
nhất; các đơn vị binh chủng tham gia chiến đấu hiệp đồng binh chủng trên cơ sở phát huy tác
dụng, tính năng của đơn vị mình, binh chủng mình, đồng thời phải giúp đỡ khắc phục những
nhược điểm của binh chủng, đơn vị bạn cũng như phải ra sức phát huy chỗ mạnh và kết quả hiệp
đồng của binh chủng, của đơn vị bạn. Mỗi đơn vị, mỗi binh chủng đều có đặc điểm riêng nên chỉ
có thể phát huy được tác dụng của nó trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng khi giao nhiệm vụ và
có kế hoạch sử dụng đúng với đặc điểm, chức năng, tác dụng của nó.

Khi sử dụng các binh chủng trong tác chiến hiệp đồng, chúng ta cần:

- Sử dụng đúng tính năng của từng binh chủng.

- Đánh đúng đối tượng.

- Nhằm đúng thời cơ.

- Đánh đúng mức.

- Đánh có hiệu lực lớn nhất.

Đây là những yêu cầu hết sức quan trọng, không được tùy tiện.

Như chúng ta đã biết, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ có những mặt mạnh, mặt
nhược điểm khác với bộ đội chủ lực. Vì vậy, việc phân công nhiệm vụ, quy định nguyên tắc,
phương pháp hiệp đồng với bộ đội chủ lực phải thực tỉ mỉ, cụ thể, rõ ràng.

Trước tiên, cần phải xác định đúng mục tiêu phù hợp với mỗi thứ quân. Do khả năng
trang bị mạnh, tổ chức tập trung, thống nhất cao, trình độ chiến thuật, kỹ thuật được rèn luyện
thuần thục, đồng bộ, nên bộ đội chủ lực bao giờ cũng là lực lượng chủ yếu của trận đánh, đảm
đương đánh vào mục tiêu chủ yếu trong bố trí của địch. Còn những mục tiêu thứ yếu hoặc mục
tiêu ở sâu trong lòng địch mà bộ đội chủ lực không có điều kiện chuẩn bị kỹ về địa hình, chưa
thông thạo địa hình thì giao cho bộ đội địa phương, dân quân tự vệ là hợp lý hơn. Khi cần thiết,
có thể có bộ phận phối hợp tác chiến ngay trong đội hình của bộ đội chủ lực. Nhưng cần cố gắng
tránh phân công cho bộ đội địa phương, dân quân tự vệ một mục tiêu lớn quá sức. Như vậy tuyệt
nhiên không phải vì đánh giá thấp khả năng của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ mà là để bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ trận đánh chủ yếu.

Về quy định thời gian hiệp đồng thống nhất giữa ba thứ quân cũng không thể quan
niệm cứng nhắc như đối với nội bộ các binh chủng, các đơn vị trong bộ đội chủ lực. Thời gian
quy định thống nhất cho dân quân du kích có thể cùng lúc, hoặc trước hoặc sau khi đã nổ súng
của các đơn vị bộ đội chủ lực.

Về phương pháp chiến thuật trong hiệp đồng giữa ba thứ quân, bộ đội chủ lực cần phải
đảm đương vai trò chủ động, tích cực của mình trong chi viện, hiệp đồng về hỏa lực và xung lực
cho bộ đội địa phương, dân quân du kích. Đồng thời không nên đòi hỏi cao việc hiệp đồng của
dân quân du kích đối với mình. Tất nhiên các lực lượng vũ trang địa phương sẽ luôn luôn tích cực
và chủ động để hiệp đồng và phối hợp với bộ đội chủ lực, luôn luôn cố gắng phát huy khả năng,
sở trường của mình để hiệp đồng đắc lực với bộ đội chủ lực.

Khi phân công mục tiêu, kế hoạch hiệp đồng trên địa điểm gần nhau trong một khu
vực mục tiêu, có thể xảy ra tình trạng cản trở lẫn nhau đến mức độ nào đó trong quá trình chiến
đấu. Như vậy cần bàn bạc xác định rõ dứt khoát mấy vấn đề lớn như sau:

- Thời gian tiến công của bộ đội chủ lực làm chuẩn.

- Khu vực triển khai bố trí của từng thứ quân.

- Thống nhất kế hoạch chi viện của chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương cùng kế
hoạch tác chiến chung của trận đánh.

Kinh nghiệm cho thấy, dù hiệp đồng trong một trận chiến đấu hoặc giữa các trận chiến
đấu do ba thứ quân cùng đảm nhiệm hoặc đảm nhiệm riêng lẻ, biện pháp hàng đầu là sự nhất trí
cho đến từng chi tiết của trận đánh giữa các đồng chí chỉ huy của bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ. Sự thống nhất kế hoạch hiệp đồng càng chi tiết, cụ thể thì càng bảo
đảm nâng cao hiệu lực thực tế của ba thứ quân, càng tránh được những va vấp, khó khăn trong
quá trình chiến đấu. Các cán bộ chỉ huy của ba thứ quân, nhất là cán bộ pháo binh, xe tăng, thiết
giáp, cao xạ, cần thống nhất với cán bộ các lực lượng vũ trang địa phương về mục tiêu, nhiệm vụ
phân công hiệp đồng ngay trên thực địa, tại từng mục tiêu.

III. KHônG NGỪNG NânG CAO TRÌNH ĐỘ CHỈ HUY TÁC CHIẾN HIỆP ĐỒNG
BINH CHỦNG

Ngày nay, trang bị của các lực lượng vũ trang ta, đặc biệt của quân đội nhân dân, đã
dần dần được cải tiến; đồng thời nội dung và yêu cầu của chiến thuật hiệp đồng binh chủng cũng
ngày càng đòi hỏi cao và phức tạp. Vì vậy mỗi cán bộ phải luôn luôn lo lắng trau dồi về mặt nhận
thức quan điểm cũng như thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chỉ huy thì mới có thể đáp ứng được
với những đòi hỏi đó.

Trước hết là phải luôn luôn nâng cao nhiệt tình cách mạng mà biểu hiện cụ thể là có
quyết tâm vững chắc, có tác phong dũng cảm, sâu sát và tỉ mỉ để giải quyết mọi khâu khó khăn
nhất, trong chiến đấu hiệp đồng. Phải tận mắt nhìn thấy địch và ta, tận mắt nhìn thấy các mâu
thuẫn giữa ta và địch, giữa địa hình với tính năng vũ khí, giữa tính chính quy trong hiệp đồng với
trình độ, cách đánh của từng thứ quân, từng binh chủng thì mới tìm ra biện pháp khắc phục mâu
thuẫn. Suy cho cùng, chỉ huy chiến đấu giỏi tức là giải quyết thắng lợi các mâu thuẫn xảy ra trong
chiến đấu kịp thời.

Thứ hai là phải luôn luôn nâng cao trình độ tinh thông chiến thuật hiệp đồng binh
chủng và trình độ hiểu biết thành thạo kỹ thuật. Toàn bộ nội dung giải quyết những mâu thuẫn
trong chiến đấu là tùy thuộc ở trình độ hiểu biết của cán bộ. Làm sao có thể quyết tâm chuẩn xác
và sáng suốt xử trí nếu như không vận dụng được các thủ đoạn chiến thuật, không linh hoạt trong
việc sử dụng các hình thức chiến thuật, không hiểu được những yêu cầu kỹ thuật của các binh
chủng? Thiếu một trong những nội dung đó thì mặc dầu có đủ tinh thần dũng cảm, xông xáo, đi
sát xuống dưới vẫn không làm thế nào để phát triển chiến đấu thắng lợi được. Tình hình biến
chuyển nhanh chóng trong chiến đấu, những trục trặc khó khăn trong hiệp đồng sẽ làm cho cán
bộ rối trí, lúng túng, dần dần tác động xấu đến quyết tâm chiến đấu, thậm chí làm cho ta không
thể chỉ huy được nữa. Quá ỷ lại ở tinh thần chiến đấu vốn có của bộ đội, không chịu học tập nâng
cao trình độ chỉ huy thì chỉ có thể đánh thắng trong những trận nhỏ, những trận phục kích tập
kích chớp nhoáng ngày xưa trước một kẻ địch không phức tạp lắm, không thể giành được thắng
lợi trong những trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn ngày nay.

Đi đôi với việc học tập quan điểm, lý luận, nguyên tắc…, cán bộ phải tự mình rèn
luyện thử thách trong các cuộc diễn tập huấn luyện, tập bài chiến thuật, chiến dịch để quen tính
toán khả năng các binh chủng trong các điều kiện khác nhau, quen xử trí hiệp đồng chiến đấu
trong các tình huống phức tạp, tự mình tìm ra khuyết điểm, nhược điểm để nâng cao trình độ điều
khiển chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Cần bỏ hẳn tư tưởng chủ quan, tác phong bàn giấy, xem
đầu bài mà không tập giải quyết đầu bài, duyệt phương án diễn tập huấn luyện rồi giao cho cơ
quan thực hiện, ủy quyền người thay mình chỉ huy diễn tập, mà không tự mình nghiên cứu trực
tiếp làm, tự mình vẽ lấy bản đồ, tự mình tính toán và tự mình chỉ huy hiệp đồng để tiến lên thành
thạo “quen tay” trong chiến đấu thực sự.

Cán bộ chỉ huy giỏi tính toán làm kế hoạch và xây dựng phương án tác chiến giỏi chưa
hẳn đã là người cán bộ chỉ huy giỏi. Người cán bộ chỉ huy giỏi phải là người nuôi quân, luyện
quân giỏi, tổ chức lực lượng giỏi và chỉ huy điều binh khiển tướng giỏi theo tình huống diễn biến,
luôn luôn giữ được quyền chủ động từ đầu đến kết thúc trận đánh thắng lợi. Chiến đấu là sự vận
động của trí tuệ và hành động của con người luôn luôn biến động. Người cán bộ chỉ huy không
thể chỉ làm kế hoạch và xây dựng xong phương án tác chiến rồi ngồi chờ chiến thắng, mà phải
luôn luôn điều khiển hành động chiến đấu theo tình huống diễn ra và sửa chữa bổ sung phương án
cho phù hợp với thực tiễn khách quan thì mới giành được thắng lợi của trận chiến đấu.

*
Những vấn đề nêu trên về chiến thuật hiệp đồng binh chủng của quân đội ta chưa phải
là toàn bộ các vấn đề thuộc về nội dung, nguyên tắc của chiến thuật hiệp đồng binh chủng cũng
như những yêu cầu của nó đối với cán bộ chúng ta. Tuy nhiên chỉ trên những vấn đề đó chúng ta
cũng thấy tính chất phức tạp của nó. Nhiệm vụ nghiên cứu học tập nâng cao nhận thức, bản lĩnh
chiến đấu hiệp đồng binh chủng quả không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi chúng ta phải rất công
phu, tích cực. Nó không cho phép chúng ta đơn giản hóa vấn đề một cách tùy tiện và cũng không
được máy móc, giáo điều.

Những trận chiến đấu thắng lợi vang dội trong đợt tiến công và nổi dậy đầu xuân năm
1972 đã chứng minh một cách rõ nét và cho phép chúng ta khẳng định tầm quan trọng của việc
quán triệt và vận dụng các quan điểm và đặc điểm của chiến thuật hiệp đồng binh chủng Việt
Nam.

Trận đánh lớn vào căn cứ Đông Hà với quy mô sư đoàn được tăng cường mạnh mẽ xe
tăng, pháo binh các cỡ, cũng chỉ có thể thành công khi biết rút kinh nghiệm tổ chức chiến đấu tạo
bàn đạp bằng hình thức chốt, đập tan chỗ dựa xe tăng, thiết giáp của địch bằng cách phát huy uy
lực pháo binh của ta, và cuối cùng tập trung sức mạnh hiệp đồng đột phá và chi viện cho binh
đoàn đánh thọc sâu buộc địch phải tan vỡ, có bộ phận bị tiêu diệt, có bộ phận tháo chạy dẫn đến
sự tan rã hoàn toàn của tuyến phòng thủ Quảng Trị năm 1972.

Ngược lại, cũng chính trong đợt tiến công và nổi dậy năm 1972, trên một vài chiến
trường, có lúc trong một số trận chiến đấu, khi mà sức mạnh hiệp đồng binh chủng của ta không
dựa trên thế trận hiểm hóc, hoặc bị phân tán trên một chính diện quá rộng, hoặc thực hiện hiệp
đồng chiến đấu không tỉ mỉ, không trực tiếp trong cự ly gần có hiệu quả thì tác dụng của chiến
đấu hiệp đồng binh chủng bị giảm sút, thậm chí không còn tác dụng nữa.

Quán triệt đường lối, quan điểm quân sự của Đảng, nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân Việt Nam xuất phát từ thực tiễn của ta, kết hợp giữa vận dụng kinh nghiệm, truyền
thống của ta với nghiên cứu học tập chiến thuật hiệp đồng binh chủng hiện đại là con đường đúng
đắn, cần thiết để chúng ta có thể giải đáp đúng những vấn đề đặt ra trong chiến thuật hiệp đồng
binh chủng của ta hiện nay và sau này.

MỘT SỐ BÀI Văn VẦN VỀ QUân SỰ(42)

(Trích 24 trong số 56 bài văn vần)

Tổ quốc

Đồi(43) con danh gọi Vương Thừa Vũ


Dâng “Mẹ” trái tim cả cuộc đời

Hiếu, trung, trí, dũng nguyền giữ trọn

Mãi mãi đi theo bước của Người.

Chói lọi vầng hồng toả khắp nơi

Vinh quang rộng mở bốn phương trời

Ngọn cờ cách mạng giương cao mãi

Hướng tới tương lai - “Mẹ” sáng ngời!

Bác Hồ kính yêu

Đoàn tụ xung quanh vị Cha già

Kính dâng Người muôn triệu đoá hoa

Bàn tay truyền cảm lòng rung động

Hình ảnh yêu thương mãi chẳng nhoà.

Con cháu trưởng thành Cha hả dạ

Theo lời Người dạy phải nhìn xa.

“Vua Hùng dựng nước công xây đắp

Giữ lấy nước nhà Bác cháu ta”.

9-1969.

Bản sắc riêng

Đơn thuần sức mạnh chẳng được đâu

Truyền thống tổ tiên phải thấm sâu

Cách đánh cổ truyền nâng hiện đại

Việt Nam thao lược có từ lâu

Mỗi dân tộc có riêng bản sắc

Ta với người phong cách khác nhau

Biến Trúc thành Tùng đâu có được

Bản sắc Việt Nam vẫn nhiệm mầu.


11-1977

Tác chiến bảo vệ khu vực

“Độc lập, chủ quyền, gìn giữ mãi

Bảo vệ nhân dân, lẫn đất đai”.

Đất đai ta hẹp lại dài

Tầm tay vốn đã vươn ngoài biển Đông

Bầu trời cao rộng mênh mông

Kết thành một thể: hải, không, đất liền

Bảo vệ độc lập chủ quyền

Quốc phòng phải mạnh, giữ yên nước nhà.

Việt Nam Tổ quốc gấm hoa

Non sông hùng vĩ tạo ra thế bền,

Đồng bằng có thế hai bên

“Tay ngai”, chỗ dựa ta nên tận dùng

Núi rừng hiểm trở vô cùng,

Đồi cao, làng mạc nối cùng với nhau,

Đứng trên ngó trước nhìn sau,

Tuỳ cơ lật cánh, chuyển mau kịp thời.

Quân thù ngấp nghé lâu nay,

Bất ngờ tập kích máy bay điên cuồng

Mưu toan chặn lối, cắt đường

Cổ kia bóp nghẹt chiến trường nước ta,

Rồi lục quân chúng dàn ra


Ào ào các mũi tiến qua nhiều đường

Đông, Tây, Nam, Bắc khôn lường

Ta nên tổ chức chiến trường ra sao?

Nhưng dù địch giở trò nào

Bộ binh, thiết giáp phải vào tấn công

Quyết tâm ta xác định xong

Tổ chức khu vực hiệp đồng thế chung

Sức đâu rải khắp cho cùng

Phải có trọng điểm từng vùng tập trung

Các điểm thành thế dựa lưng

Chiều rộng vững chắc nối cùng chiều sâu.

Chiến tranh là của toàn dân

Lực lượng tại chỗ dân quân vững vàng

Đào hầm, xẻ hố, moi hang

Chặn địch, không để chúng tràn được qua

Chủ lực ta cách không xa

Kịp thời cơ động đến mà phản công

Thế này rắn thép, vững đồng

Kẻ thù phá được cũng không dễ gì.

Sức mạnh do biết tập trung

Thống nhất lãnh đạo từng vùng chỉ huy

Điều hành nắm vững thời cơ

Thông tin liên lạc không giờ phút lơi

Hành động bám địch kịp thời


Trinh sát tổ chức nơi nơi chu toàn

Cho dù diễn biến muôn vàn

Thống nhất tổ chức, vững vàng thế chung.

Ta nên tổ chức cùng nhau

Mặt trước cấy lúa, mặt sau trồng người(44)

Cánh đồng mở rộng từng nơi

Lúa thơm trĩu hạt để rồi nuôi quân

Đường ngang ngõ tắt xa gần(45)

Đồi cao khống chế nhiều tầng hầm sâu(46)

Phương châm giữ nước bền lâu

Kết hợp kinh tế với khâu quốc phòng.

Dân ta truyền thống anh hùng,

Tinh thần cứu nước phải cùng lo toan.

Cùng chung sức giữ biên cương,

Liên minh chiến đấu kết đoàn nơi đây.

Đông người, hiện đại vào đây

Anh em Lào, Việt phanh thây quân thù.

5-1962 - 7-1978

Chú thích cho các phần ở trên (1, 2, 3, 4, 5, 6)

(1) Địa hình Tổ quốc ta từ Hà Tuyên đến Cà Mau dài 1.650km. Bề ngang lại hẹp, có
nơi 50-60km. Nếu chiến tranh xảy ra, những nơi này địch thường chú ý chia cắt chiến trường ta
làm nhiều khúc.

Muốn có địa bàn lục địa rộng rãi, giữ được quyền chủ động, phải xây dựng Hải quân
mạnh làm chủ được hải phận, Không quân mạnh làm chủ được không phận, yêu cầu phải có công
nghiệp quốc phòng mạnh. Xây dựng được như vậy, sẽ tạo ra thế vững mạnh mới để bảo vệ Tổ
quốc.

(2) Đồng bằng rộng lớn trên đất nước ta từ Bắc chí Nam, phần nhiều nằm ở phía Đông
giáp biển. Đồi núi từ phía Tây duỗi ra ôm lấy các cánh đồng có “thế” như “tay ngai”.

Những nơi này đều có tác động tích cực của con người, có tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị
chu đáo thì đồng bằng của ta mỗi nơi có một thế bảo vệ Tổ quốc vững chắc. Đồng bằng Bắc Bộ,
Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh... đều có “thế công, thế phòng” tốt để diệt địch nếu chúng đột nhập vào
đây.

Ngoài các hải đảo ra, sát mép biển lại có những dãy đồi núi nhô ra như hàng chân rết,
tạo nên thế chiến thuật. Làng mạc ở đồng bằng dựa vào nhau thành thế liên hoàn từng vùng. Đây
là một thế mạnh của đồng bằng, nếu biết tổ chức làng, xã chiến đấu tốt. Từ tay ngai đó ta tập
trung lực lượng xuất kích sang hướng mà ta định phản công để tiêu diệt địch. Đặc điểm trên của
đồng bằng nước ta lại hạn chế rất nhiều đặc điểm chiến đấu hiện đại của địch.

(3) Chiến tranh hiện đại, địch có thể đổ quân từ biển, bằng máy bay lên thẳng, bằng cơ
giới, có thể cùng một lúc tiến quân theo nhiều hướng, kể cả đổ bộ bằng máy bay sâu vào hậu
phương ta, phối hợp các mũi tiến công bên ngoài. Vậy thế trận của ta chỉ có thể tổ chức liên hoàn
vòng tròn từng khu vực (trọng điểm), liên hoàn nhiều trọng điểm lại thành thế chung. Nếu phòng
thủ một hướng sẽ trở thành chiến tuyến hàng ngang dễ bị vu hồi bên sườn hoặc sau lưng.

(4) Trong Hội nghị tổng kết diễn tập “Tác chiến bảo vệ khu vực” ở Quân khu Hữu
Ngạn năm 1973, đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Không có gì nhanh bằng người đã sẵn sàng ở ngay
tại chỗ”.

Dân quân là lực lượng hùng hậu, lực lượng tác chiến tại chỗ nhanh nhất, kịp thời nhất.
Do đó phải được xây dựng và trang bị mạnh. Bộ đội địa phương là lực lượng cơ động trong địa
phương. Chủ lực của quân khu, của Bộ là lực lượng cơ động của chiến dịch và chiến lược. Như
vậy đã tạo cho chiến tranh nhân dân một thế cơ động rất lớn, một lực lượng phản công và tấn
công rất mạnh. Muốn có lực lượng phản công và tấn công mạnh phải kết hợp lực lượng tại chỗ
với lực lượng cơ động. Từ đó thế chiến tranh nhân dân của ta có thể kết hợp được ngay từ đầu
phương thức tác chiến du kích với phương thức tác chiến chính quy. Muốn vậy phải tổ chức tốt
làng xã chiến đấu, tổ chức trận địa có hầm hố chắc; tổ chức cho tốt lưới phòng không nhân dân
đánh địch, cơ động và phòng tránh, nghi binh tốt để tránh bị tổn thất khi bị địch oanh tạc.

(5) Trong khu vực tác chiến bao gồm nhiều lực lượng: kinh tế, chính trị, quân sự... Lực
lượng quân sự có dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, chủ lực các cấp, công an vũ trang... Nếu
không có sự lãnh đạo chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, không có sự
chỉ huy thống nhất của Bộ tư lệnh quân sự địa phương, thì không thể nào phát huy được sức
mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.

Phải tổ chức các mạng lưới thông tin liên lạc thông suốt, mạng lưới trinh sát cho chặt
chẽ, có vậy mới giữ được quyền chủ động điều hành trong mọi tình huống chiến đấu.

(6) Trong khi mở mang vùng kinh tế, phải gắn liền với “cấy người” lâu dài, xây dựng
lực lượng vũ trang tại chỗ, đó là sự kết hợp cơ bản, chủ yếu nhất giữa kinh tế với quốc phòng.

- Hệ thống mương máng sản xuất, đường sá, đê điều, thị tứ, thị trấn, thị xã, khu công
nghiệp, nhà kiên cố v.v... phải có ý thức, ý đồ quân sự về chiến dịch, chiến thuật. Ví dụ mương
máng dùng để tưới tiêu trong sản xuất, trong chiến đấu lại là hệ thống giao thông hào: đường sá
dùng để vận chuyển cho kinh tế, khi dùng cho quân sự vẫn phù hợp với ý đồ chiến thuật của ta,
không cho địch lợi dụng v.v...

- Các đồi cao có ý nghĩa chiến lược, chiến thuật, cần phải tổ chức thành các điểm tựa,
cụm điểm tựa, phối hợp với các điểm khác khống chế diện rộng bảo vệ vững chắc cho khu vực.
Cần được cấu trúc nhiều tầng hầm công sự phòng thủ vững chắc, đồng thời làm bàn đạp khi phản
kích, phản công, tấn công tiêu diệt địch.

Đánh tỉa

Bắn tỉa! Hỡi người dũng sĩ ơi

Súng chắc trong tay phải nắm “thời”

Ta ít, địch nhiều cần tạo “thế”

Bất ngờ, ẩn hiện khắp nơi nơi.

Lịch sử những lần chống ngoại xâm

Chín năm chống Pháp tiếng còn vang

Mười năm chống Mỹ thêm ngời sáng

Đánh tỉa - thành cách đánh Việt Nam

Cách đánh “êm đòn” nhưng rất đau.

Ví như đánh rắn, đánh dập đầu,

Chỉ huy, đài điện, tên gian ác

Những mục tiêu ấy cần diệt mau.


Cách đánh tỉa

Giặc kia rồi. Ta đời đây

Chúng nhô đầu dậy, cho ngay phát đoàng.

Bắn xong di chuyển chỗ nằm

Ở lâu một chỗ nó nhằm thấy ta,

Bắn gần kết hợp bắn xa

Bắn thằng phía trước cùng là xuyên hông

Chớ tuỳ tiện đánh tứ tung

Phải có chiến thuật với cùng mưu cao

Tổ ba, thế trận bước vào

Thay nhau ta tỉa đổ nhào từng tên

Xuyên rừng lội suối ngày đêm,

Đánh tỉa là cách đánh êm ngấm đòn.

DẪN CHỨNG:

Trong kháng chiến chống Pháp, ở Điện Biên Phủ các đội bắn tỉa đã góp công lớn vào
chiến thuật bao vây đánh lấn thắng lợi.

Trong chống Mỹ và bảo vệ biên giới phía Tây Nam, nổi bật về thành tích bắn tỉa có
những tập thể và cá nhân sau:

1. Đội bắn tỉa của Bộ Tổng tham mưu: gồm 60 cán bộ và chiến sĩ, trong năm 1968-
1969 tại đường 9, bằng súng bộ binh đã diệt: 307 tên Mỹ, 1 xe M.41, 1 xe M.113, 1 xe GMC, 2
máy bay.

2. Lực lượng bắn tỉa của Quân khu 9: gồm 192 cán bộ và chiến sĩ, từ 20-3 đến 15-5-
1978 tại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, bằng súng bộ binh đã diệt 1.594 tên địch.

3. Huỳnh Văn Đảnh: từ 1958-1960 tại chiến trường miền Nam, bằng súng bộ binh, bắn
100 phát diệt 100 tên địch.

4. Hà Văn Nhiều thuộc Bộ tư lệnh B5, từ 1966-1967 bằng súng bộ binh diệt 100 tên
Mỹ, ngụy.
5. Lương Văn Bình: thuộc Sư đoàn 4 từ 20-3 đến 15-5-1978 tại biên giới Tây Nam,
bằng súng bộ binh diệt 41 tên địch.

6. Bùi Văn Nội: thuộc tỉnh An Giang, từ 20-3 đến 15-5-1978 tại biên giới Tây Nam,
bằng súng bộ binh, diệt 34 tên địch.

Tập kích

Địch kia dừng nghỉ bên đường

Chúng đi càn quét lại càng kiêu căng

Đóng quân trú ở ngoài làng

Công sự ẩn nấp còn đang bới đào

Quây vùng đồi chặng thông hào

Lơ thơ mấy cọc hàng rào ngả nghiêng.

Canh phòng chúng chẳng có nghiêm

Lim dim gà gật gió đêm ào ào.

Bí mật trinh sát tiến vào,

Bám địch tạo thế, cùng bao vây liền.

Chủ lực vận động trước tiên,

Triển khai bí mật sát bên quân thù.

Nắm vững yếu tố bất ngờ

Người người súng đạn đến giờ phải xong

Bổ sung nhiệm vụ hiệp đồng

Nằm im ém kỹ đợi cùng xông lên

Tín hiệu tập kích dưới, trên

Quy định chiến đấu phải nêu rõ rành

Màu vàng, màu đỏ, màu xanh

Ba phát pháo hiệu vút nhanh lên trời

Đấy là lệnh đã ra rồi


Bất thần nổ súng đồng thời úp ngay.

Liên tục diệt gọn từng nơi

Gặp phản kích, ta thời chặn luôn,

Không nên vỗ mặt, đánh dồn,

Để địch co cụm lại càng(47) khó thêm.

Đột kích như lưỡi dao đâm

Chỉ huy phải diệt, thông tin phải vằm

Từng mũi diệt gọn lần lần

Cuối cùng diệt sạch hết quân tạm dừng.

Đánh xong thu gọn chiến trường

Nhanh chóng tổ chức nhiều đường rút ra.

Đây là kinh nghiệm gần xa

Mong bài tập kích chúng ta cùng bàn.

4-1973

Phục kích

Tư tưởng trước hết Bất Thần

Nổ súng chính xác đội quân chặn đầu

Kịp thời vòng khoá đuôi sau,

Xuyên Hông các mũi, Bao Vây trên đường

Chia Cắt bọc đánh ngang sườn

Tiêu diệt thật gọn, chiến trường thu nhanh.

Phục kích đánh địch trên đường,

Chúng đi tiếp viện lại càng nghênh ngang.

Xe người, xe đạn, thuốc thang


Lương khô, thịt hộp kềnh càng nặng khung,

Chúng đang ngạo nghễ ung dung

Bất ngờ bị đánh, rối tung thần hồn

Chặn Đầu khi địch vào tròng

Nhắm tốp đi trước nổ giòn cho tin

Bao vây gọn cả đội hình

Phút đầu tiên đã bị ghìm tại nơi

Khoá Đuôi: là phải kịp thời

Quyết không cho địch tháo lui đội hình

Bằng cách giăng lưới thực binh

Kết hợp bắn quét, bãi mìn sát thương,

Xuyên Hông: đánh cắt ngang sườn

Xung phong đồng loạt mặt đường chiếm ngay

Chiến trường phục kích lâu nay

Xuyên hông là chỗ rất dày tù binh.

Bao Vây, Chia Cắt: thật nhanh

Không để địch cụm kết thành ổ, hang,

Cũng đừng để chúng thoát thân.

Phải quây địch lại, gọi hàng bắt ngay.

Tiêu Diệt: những đứa trở tay

Ngoan cố chống cự hoặc bày mưu gian

Thấy ta đông, chúng trá hàng,

Khi ta sơ hở thì dang cánh chuồn

Điều này đã nhắc nhở luôn

Đánh xong thu dọn chiến trường cho hay

Vũ khí thu nhặt nhanh tay


Thương binh vận chuyển xa ngay trận tiền.

6-1973

Đánh gặp gỡ

(tao ngộ chiến)

Bất ngờ gặp địch trên đường,

Là đánh “Tao ngộ” trên đường của ta

Khi tình huống đó xảy ra

Kinh nghiệm chiến đấu nhắc ta điều này

Muốn giành chủ động được ngay

Phải nhanh “ba trước”(48) trở xoay ngoan cường

- Một trước, quan trọng vô cùng

Phát hiện địch trước để không bất ngờ

- Hai trước, bộ đội đang chờ

Dàn quân thế lợi bấy giờ cho mau

- Ba trước, phát lệnh làm đầu

Tấn công kiên quyết, thọc sâu, chặt sườn.

“Tam tiên” phải nhớ tỏ tường

Còn phải chú ý nhìn đường, tiến đâu.

Quan sát nhìn trước, nhìn sau

Mục tiêu then chốt, đánh đâu phải nhằm

Báng súng, lựu đạn đánh gần

Động tác kết hợp phải cần giỏi tay...

Bất ngờ nhưng phải đánh đau

Kịp thời tổ chức phủ đầu địch quân.

8-1973

Bao vây tấn công liên tục


Quân thù gặp mạnh là tan

Nhưng ta sơ hở nó tràn vào ngay

Nhùng nhằng chỉ đánh không vây

Đánh càng rầm rộ suốt ngày uổng công?

Máy bay, tăng pháo, phòng không

Pháo hoả chuẩn bị(49) càng không hợp thời

Ai ơi? Nhắc nhủ mấy lời

Nghệ thuật đánh Mỹ mọi người nhớ không

Ví như bắt cá quây vùng

Lưới giăng, đón lõng(50) rồi dùng lưới đơm

Kịp thời úp chặt tay nơm,

Vó te(51) đặt khắp tóm ngon từng luồng,

Ví như các tổ săn rừng

Lùng săn thú dữ bắt cùng(52) mới thôi,

Giặc kia phân tán tạm thời

Ta bao vây chặt xong rồi tấn công

Chiến trường địa thế mênh mông

Phải vây nhiều lớp, nhiều vòng gần xa.

Đội hình địch thường tản ra,

Ta đánh một trận quả là không xong

Nên khi tổ chức tấn công

Phải đánh liên tục mới mong diệt thù,

Lùng nhùng co giãn cao su(53)

Đó là biện pháp quân thù đang mong

Kinh nghiệm thực tế chiến trường

Bao vây liên tục, tấn công mới thành.


9-1977

Đánh địch

đổ bộ đường không

Quân địch hỗn hợp cuộc tấn công

Mặt đất trên không chúng hiệp đồng

Bắn phá nhiều nơi làm lạc hướng

Chỗ kia đổ thực, nơi này không

Mưu này lũ giặc ta hiểu rõ,

Thủ đoạn bọc sườn đánh bên hông

Quan sát ta phải tinh thông mắt

Cơ động nào bằng người tại chỗ,

Địch ở trên trời tập trung đông

Càng lợi cho ta lửa các tầm

Địch úp ta, địch sa vào bẫy,

Vây kẹp lính địch bằng phản vây.

Đánh cắt trên trời với mặt đất

Quân vừa đổ xuống phải diệt ngay.

Thế trận ta bày phải cơ động

Điều binh khiển tướng là quan trọng

Bắn rớt máy bay, diệt cả bầy...

Diệt hết bộ binh là xong trận.

5-1974

Vận động tấn công


kết hợp với chốt

Chiến trường là chốn giao tranh

Hai bên đọ sức để giành phần hơn

Địch vào ta chặn phản công

Khẩn trương vận động hiệp đồng triển khai;

Hình thành tam giác trước sau

Thế trận lúc đầu: Bộ, Pháo, Tăng, Thông.

Anh vận động mau chân lao tới

“Chốt” xong rồi tôi đợi sẵn đây

Địch vào Nam, Bắc, Đông, Tây

Đầu chặn, đuôi cắt diệt ngay từng phần.

Hướng giặc tiến vào dù mấy nẻo

Tôi chốt đây giương bẫy(54) chặn đường

Vận động anh quật ngang sườn

Bao vây, chia cắt, diệt thường gọn tay

Đũa kia từng chiếc bẻ rời

Nếu bẻ cả nắm sức người dễ đâu!

Trận trước liên tiếp trận sau

Tấn công liên tục đánh mau thắng giòn

Chiến trường tổng kết rõ ràng

“Vận động với chốt đều thường thành công”.

Đánh cứ điểm

có công sự vững chắc

Địch:

Cứ điểm địch đóng nơi cao


Công sự bát úp hàng rào kẽm gai

Ống bơ, mìn sáng chúng cài

Quân cù(55) cơ động bên ngoài tuần tra

Chúng đóng cố định là bị động

Giành quyền chủ động ta tấn công

Chọn cách phù hợp đánh sẽ thắng

Đã thành quy luật ai nhớ không?

Ta:

Quyết tâm muốn diệt địch mau

Đêm đêm trinh sát luồn sâu vào đồn

Điều tra từng cách bố phòng

Công sự, hoả điểm tỏ tường trước sau

Quân sự dân chủ cùng nhau

Cùng trên bàn cát góp câu luận bàn

Thống nhất kế hoạch hợp đồng

Chuẩn bị chu đáo, khẩn trương tiến hành.

Luồn sâu đánh úp thật nhanh

Hoặc là vây lấn hình thành cách hai;

Hiệp đồng binh chủng đánh ngay

Đó là ba cách đánh hay của mình

Hiệp đồng binh chủng:

Hiệp đồng nên nhớ điều này

Triển khai chiếm lĩnh mở đầu tiến công

Pháo binh dồn dập bắn xong

Bộ, Tăng các mũi xung phong tức thời;

Trận địa lửa khói mù trời


Lực lượng dự bị kịp thời vào ngay

Dứt điểm giải quyết nhanh tay

Trước khi trời sáng thì hay hơn nhiều.

Cách đánh:

Vài kinh nghiệm nhỏ

Trong khi đánh đồn

Bí mật áp gần

Dàn quân chu đáo,

Nhằm nơi hiểm yếu

Mãnh liệt đột nhiên

Đòn mạnh đầu tiên

Đập đầu quân địch

Tập trung kiên quyết

Mở cửa thật mau

Nối gót theo nhau

Thọc sâu chia cắt

Bổ đầu khoét mắt

Lòng giặc nở hoa(56)

Kiềm mẹ, đánh con(57)

Chia con diệt mẹ

Ta nên nhớ “Thế”

Diệt đồn trước đây

Thường đánh kiểu này:

Bốn cắt, một diệt(58)

Điều chú ý:

Tấn công một điểm, các mặt hợp đồng,


Thuốc nổ, kéo, thang, sẵn sàng quyết đánh,

Xông lên chớp nhoáng liên tục tiến công,

Dùng tổ ba người, dùng phân đội nhỏ,

Thời cơ nhận rõ, “bám lấy thắt lưng”,

Lực lượng tập trung, không nên nhỏ giọt(59)

Xung lực rời gót, hoả lực bám theo,

Đánh mạnh, đánh nhanh, chia ra diệt gọn,

Chiến trường thu dọn, tổ chức lui quân

Chu đáo an toàn, là điều nên nhớ.

11-1963

Bao vây đánh lấn

Khu cụm lại tập đoàn

Địch thường xây cứ điểm

Thành thế trận liên hoàn

Dây thép gai rào kín

Ta chưa thể diệt ngay

Phải lấn dần mà đánh

Hào râu tôm ta đào(60)

Mở giao thông nhiều nhánh

Vây rộng và vây hẹp

Vừa vây lại vừa đào

Vòng vây càng khép chặt

Gỡ mìn ta cắt rào

Lấn dần qua cửa mở

Nhằm tung thâm tiến vào.

Tấn công phải dồn dập


Liên tục, đánh đến cùng

Diệt viện binh tiếp tế

Cả đường bộ, đường không.

Quyết vây, lấn, tấn, phá

Triệt, diệt cả tập đoàn(61)

2-1970

Truy kích

Địch bị đánh thua tìm đường chạy,

Phương sách này chúng chẳng đổi thay

Ta đuổi đánh thì phải nhanh nhạy

Vượt lên chặn lại, đánh diệt ngay.

Địch chạy nhiều kiểu

Theo lối cuốn chiếu

Yểm trợ cho nhau

Thoát được tốp này

Tốp kia theo tiếp,

Hoặc là liều chết

Chạy ào tứ tung

Mỗi đứa mỗi phương

Vừa chạy vừa bắn.

Có đứa lẳng lặng

Lủi trong bụi bờ...

Còn nhiều tình huống bất ngờ

Khi địch bỏ chạy, bấy giờ xảy ra

Quyết tâm chung của chúng ta


Kiên quyết truy kích vượt qua đầu thù

Không được ngần ngại, trù trừ

Hoàn cảnh đuổi địch cho dù khó khăn,

Chớp thời cơ đánh thật hăng

“Quây, cắt, diệt” địch từng phần cho nhanh

Trong lúc truy hăng

Cần nên nhớ kỹ

Bộ phận nào đuổi

Vượt lên hàng đầu

Chỉ đuổi phía sau

Càng dồn địch chạy

Đầu không chặn lại

Địch sẽ thoát thân

Nhưng cũng chớ quên,

Chỉ vì ham đuổi

Để lỡ cơ hội

Bỏ sổng tù binh

Kỷ luật nghiêm minh

Chiến trường thu dọn

Trật tự nhanh gọn

Đề phòng phản công...

Lời dạy Ăng-ghen:

“Kết quả tấn công bằng đuổi đánh nhanh,

Truy kích đến cùng, thắng lợi càng lớn” (62).

Phòng ngự trận địa

Hình thức tổ chức điểm tựa (chốt)


Cụm điểm tựa (cụm chốt liên hoàn)

Trận địa tổ chức xong rồi

Dự bị cơ động kịp thời phản công

Tác chiến phải có hiệp đồng

Dân quân, chủ lực ta cùng triển khai

Phòng ngự tích cực(63) ai ơi

Kiên cường giữ vững, không rời, không lùi.

Dù cho còn có một người

Trận địa không dễ lọt rơi tay thù

Chốt kia điểm nọ liên hoàn

Tập trung trọng điểm tạo thành trước, sau(64)

Các chốt đều tựa vào nhau(65)

Chính diện đã rộng chiều sâu lại dày...

… Chốt này hình thái vòng tròn(66)

Xoay người đánh giữ bốn phương tuỳ thời.

Công sự đất mới đào ra

Nếu không che phủ ý ta, địch nhìn

Nguỵ trang bí mật nghi binh

Khéo léo(67) hiểm hóc địa hình tạo ra

Sức mạnh ở trái tim ta

Tim người cách mạng thật là thép gang(68)

Cùng với hoả lực chéo đan

Kết hợp vật cản lại càng vững hơn

Chiến hào với lại giao thông

Cơ động trận địa nối cùng với nhau(69),


Địch dù đánh trước, bọc sau(70)

Chủ động ta chuyển thế mau, ngại gì

Tổ chức đánh địch từ xa

Chông, mìn, cạm, bẫy, cự đà, rào gai

Bắn tỉa, đánh lén khắp nơi

“Vật cản”, bám sát(71) không rời địch quân.

Pháo binh hoả lực các tầm

Chặn đầu địch lại, xa gần sát thương.

Dân quân đánh nhỏ tiêu mòn

Chủ lực đánh lớn thắng giòn khắp nơi.

Đánh địch phải diệt trước rào(72)

Để chúng qua hào đuổi được tốn công

Giặc kia đang lúc hoang mang

Chặn ngay chúng lại phản công kịp thời.

Mìn phóng, lựu đạn cần nhiều.

Lương ăn nước uống những điều chớ quên

Cáng thương, băng gạc thuốc men

Có lương dự trữ chớ nên lơ là.

Ta giăng “địa võng thiên la”.

Địch vào là vướng, địch ra không đường

Phòng ngự mưu trí kiên cường

“Ba quân” (73) sát cánh diệt phường ngoại xâm

Muốn thắng, trí phải uyên thâm

“Thế” đây, “lực” đó điều quân nhịp nhàng


Tấn công, phòng ngự rõ ràng

Vận dụng tài tình chung sức lập công.

10-1972

Trận địa phòng ngự

Trận địa thường đào cạnh đỉnh cao,

Um tùm khe núi địch luồn vào.

Ta nên tổ chức hai sườn dưới(74),

Địch nó bò lên ta phóng lao(75)

Thế trận hiểm do ta cải tạo(76)

Bất ngờ ta giáng, địch thoát sao.

Dưới trên kẹp địch, ta cùng đánh

Điều khiển hiệp đồng nghệ thuật cao(77)

8-3-1979

Đánh giữ hải đảo

Đất, trời biển rộng Tổ quốc ta

Núi, sông biên giới với đảo xa

Hình thành thế trận phòng các mặt(78)

Bảo vệ vững chắc nước non nhà.

Đương đầu sóng dữ cản phong ba

Bình phong, điểm tựa dải nhìn xa

Quần đảo liên hoàn căn cứ hiểm

Tiêu diệt từ đầu bọn quỷ ma.

Các đảo kiên cường vươn tay ra

Bảo vệ chủ quyền của quốc gia


Gìn giữ tài nguyên thềm lục địa,

Thông thương quốc tế bạn và ta.

Chiến đấu lòng yêu đảo thiết tha

Giữ từng tấc đất, từng nhành hoa

Kế hoạch chu toàn phương án tốt,

Dựng xây mọi mặt chẳng lơ là.

Luyện rèn bản lĩnh cán binh ta

Tinh thông, mưu trí, sáng tạo ra

Lương ăn, nước uống, thuốc và đạn

Dự trữ lâu dài hãy nhìn xa.

Dũng sĩ kiên cường giữ đảo ơi!

Hầm hào, công sự, chỗ nghỉ ngơi

Hoả lực xoay tròn đạn bắn chéo,

Cơ động, chuyển thế đánh kịp thời(79).

Vững chốt đảo xa, đất nước này

Pháo đài trên biển chính là đây.

Quân thù đổ bộ vào ven biển

Đánh cắt, sau, sườn, đánh thắng ngay.

Tạo thế liên hoàn không lẻ loi

Yểm trợ trên bờ đã sẵn rồi

Tên lửa, pháo xa, tàu, thuyền chiến


Không quân chi viện phải kịp thời.

Tính trước nhìn sau cả tương lai

Đảo ta vững chắc mạnh lâu dài

Đâu dân chưa có, đưa dân tới

Kinh tế quốc phòng mạnh cả hai.

Nguyện với non sông đảo là nhà

Đất liền nghĩa mẹ, đảo tình cha

Vì dân, vì Đảng tim còn đập

Chiến đấu không rời với đảo ta.

8-1963

Đánh giữ thành phố

Thành phố thường ở cạnh sông

Tập trung đầu mối giao thông ngả đường

Nông thôn lân cận bốn phương

Là nơi tiếp xúc các nguồn bổ sung(80)

Dân cư đông đúc tập trung

Cửa nhà, đường phố sáng bừng đèn pha

Phường ngang, phố dọc phân ra

Chia ô từng khoảng gọi là phường, khu.

Dựa vào phố cũ, cống xưa,

Tổ chức chiến đấu để phù hợp hơn.

Thành thị đầu não tập trung

Tuyên - Văn - Chính - Xã từng vùng toả ra.


*

Tổ chức hệ thống điều hoà

Điện, nước, lương thực đều là nguồn chung

Sống theo hệ thống cầu – cung(81)

Khâu nào trục trặc vô cùng khó khăn.

Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng

Đánh giữ thành phố phải càng tính sâu

Uỷ ban kháng chiến bắt đầu

Chuẩn bị tổ chức khắp hầu mọi nơi.

Tiểu ban sơ tán lập rồi,

Người, của cần chuyển kịp thời chuyển ngay.

Chống cháy, chống sập từ đây,

Y tế công cộng ngày ngày không quên.

Truyền thanh loa gọi xa gần

Mọi người hưởng ứng nhân dân một lòng

Mọi việc chuẩn bị vừa xong

Đạn dược, lương thực kho trong chuyển vào

Muối, đường cân đóng từng bao

Đỗ kia ngâm giá thay vào làm rau

Nước ăn, bể chứa, giếng sâu,

Phòng mất nước máy, khỏi cầu mưa rơi.

*
Luyện tập tác chiến kịp thời

Các mặt bảo đảm người người chăm lo

Phòng khi bến vắng con đò

Đánh giữ thành phố phải dò khúc sông.

Nghi binh, mưu kế song song

Hư hư, thực thực khó lòng đoán ra.

Lực lượng đây đó gần xa,

Điều hành thống nhất mới là nghi binh.

Đào hầm đắp ụ thế nào?

Ngõ ngang, phố dọc ta rào từng khu

Thông tường nhà nọ nhà kia

Làm đường cơ động những khi cần dùng.

Phản công phản kích

Trận địa liên hoàn tạo thế chung

Địch chui vào bẫy kẹp bên trong

Xoay tròn ta đánh hai sườn nách

Pháo, Bộ, Tăng, Thông đã hiệp đồng

Bảo đảm phản công đánh liên tục

Đạn cần dự trữ để bổ sung

Sức người mệt mỏi được thay mới

Khí thế xung phong đánh thắng cùng.

Chỉ huy mắt phải nhìn chung

Phải có ý định phản công từ đầu

Quân địch có lắm mưu sâu


Đằng trước đánh nhử, đằng sau vu hồi

Vu hồi đâu chỉ thế thôi

Cao điểm vây kín để rồi hiệp công

Từ xa chúng bủa quây vùng

Làm ta cạn sức cuối cùng hết hơi

Pháo binh nó dập tới nơi

Cỏ cây tan nát huống người nằm trơ.

Xử trí tình huống bây giờ

Ta cho ẩn nấp để chờ phản công

Mỗi khi pháo chúng bắn xong,

Bộ binh của chúng xung phong lên đồi

Chờ cho chúng gần tới nơi

Bắn ghìm địch lại, đồng thời quật ngang

Chốt kia phối hợp đánh sang

Chốt đây dự bị xoay ngang đánh sườn

Chỉ huy hết sức tinh tường

Điều hành phối hợp bằng đường phản công

Phản công, liên tiếp phản công

Đằng sau giữ “Thế” để không mất “Thời”.

Ai ơi nhắc nhủ mấy lời

Điều hành trực tiếp phải người chỉ huy

Thành công chiến thắng một khi

Bài học kinh nghiệm diệu kỳ vừa qua.

28-3-1979

Hành quân chiến đấu

Địch còn ở cách đây xa


Hành quân cấp tốc đến mà tấn công

Đội hình quân số đi đông

Phải có tổ chức, đề phòng trước sau

Tiền vệ ta phải đi đầu

Sục sạo cảnh giới xích hầu tổ ba

Hậu vệ xin chớ bỏ qua

Đằng sau cảnh giới phái ra số người

Trước sau chỉ thế không thôi

Cạnh sườn sơ hở buông trôi sao đành

Bên đường căn cứ địch tình

Cần phải trắc vệ canh mình mới yên

Đây là tổ chức đầu tiên

Đội hình bảo vệ dưới, trên, cạnh sườn.

Bảo đảm hành quân trên đường

Lương ăn, nước uống phải thường chăm lo

Giao thông điều chỉnh qua đò

Duy trì trật tự đi cho kịp ngày.

Gấp cần có lệnh truyền ngay

Từng người truyền tiếp đủ đầy đằng sau

Chỉ huy vị trí đi đầu

Tình huống xử trí yêu cầu nhanh tay.

Nguỵ trang cảnh giới máy bay

Tổ chức báo động truyền ngay phút đầu.

Đi xa có ốm, có đau

Thu dung tổ chức dìu nhau đi cùng

Khi đi nghĩ đến trú quân


Tiền trạm ta cử một phân đi đầu.

An toàn, bí mật trước sau

Nhanh gọn, trật tự, yêu cầu phải tuân

Hành quân nhắc nhủ mấy vần

Thuộc về chức trách rất cần đừng quên.

Hà Nội, ngày 2-4-1979

Trú quân chiến đấu

Quân thù đóng ở gần đây

Dừng chân tạm trú mai ngày xuất quân

Trinh sát bủa khắp xa gần

Nhân dân tai mắt, dân quân hiệp đồng

Vị trí xác định đã xong

Điều tra cho kỹ bên trong, bên ngoài

Đội hình chớ có kéo dài

Đóng cụm một chỗ khó bài trở tay

Dừng chân phương án phải xây

Tác chiến dự kiến đêm ngày xảy ra

Đội hình “Thế” đứng ba ba

Một trên, hai dưới đấy là thế chung

Địa hình lân cận trong vùng

Bố trí cho thuận thế công, thế phòng

Xác định nhiệm vụ phân công

Công sự, lán trại cho xong mọi bề

Đêm đông cho chí đêm hè

Tuần phòng, canh gác dễ bề bỏ lơ

Sơ hở dễ bị bất ngờ
Quân thù tập kích tờ mờ rạng đông

Phải nên nghiêm ngặt canh phòng

Tuần tra cắt cử xoay vòng thay nhau

Ám hiệu mật ngữ đêm thâu

Nhận ra cho rõ kẻo hầu mắc mưu

Trú quân căn dặn sớm chiều

Bí mật gìn giữ là điều phải nghiêm.

Cán bộ các cấp luân phiên

Kiểm tra đôn đốc nhắc liền không lơi...

Tâm tư xin nhủ đôi lời

Trú quân ăn, ngủ, nghỉ ngơi an toàn

Vui mừng mọi sự bình an

Để rồi ta lại lên đàng hành quân.

1979

Vè bóng đá

Tặng đội Thể công

Tôi có mấy vần

Trao đổi chiến thuật

Điều quan trọng nhất

Hiểu bạn hiểu ta

Nắm ta thế nào?

Sở trường, sở đoản

Xác định tư tưởng

Kiên quyết tấn công.

Đoàn kết hiệp đồng

Vững vàng ý chí.


*

Đội hình dàn ra

Chỉ là cơ bản

Bóng lăn, người chuyển

Biến hoá khôn lường

Đánh lừa đối phương

Không sao đoán nổi

Dũng cảm lao tới

Bóng bay như tên

Người nhanh như sóc

Mắt luôn quan sát

Chuyền ngắn, chuyền nhanh

Chớ chuyền loanh quanh

Thời cơ mất hết

Ý ta bạn biết.

Bạn cụm trước thành

Ta phá bê tông

Khó khăn vất vả

Vậy thì bóng đá

Khi thuận, khi nguy

Tuỳ cơ ứng biến

Phục tùng mệnh lệnh

Điều binh khiển tướng

Ăn khớp nhịp nhàng

Răm rắp phục tùng

Lệnh trên truyền tới


*

Phía trước tiến lên

Mở rộng hai bên

Xuyên hông luồn lách

Đưa xuống sát vạch

Gần phía khung thành

Bật lên thật nhanh

Lật đi, lật lại

Đối phương bối rối

Lập tức sút ngay

Bàn chân lúc này

Phải thực khéo léo

Bất ngờ sút chéo

Thủ môn bàng hoàng.

Lưới bạn bật tung

Mà người chưa tỉnh

Còn nhiều lỗi đánh

Xoay chuyển kịp thời

Chọc kẽ qua người

Tiến chéo vào nách

Đánh thẳng một mạch

Sút ngay, ăn ngay

Hoặc dùng nhiều người

Làm chủ giữa bãi

Bật tường thẳng lối

Trung lộ tiến quân


Hoặc dùng nghi binh

Hút bạn một hướng

Phía kia lởn vởn

Bất ngờ cao lên

Đón bóng chớp liền

Sút ngay giành thắng

Tất cả cách đánh

Đều phải tập trung

Trên hướng tấn công

Xác định chủ yếu

Vận dụng khéo léo

Phân tán tập trung

Chớ mải tấn công

Mà quên chốt giữ

Phía sau sơ hở

Càng dễ bị thua

Chốt giữ của ta

Hình thành tam giác

Nhiều tầng, nhiều lớp

Phải có chiều sâu

Chớ ỷ lại nhau

Chớ lùi từng bước

Kẻ lao phía trước

Cản phá kiên cường

Người lót sau lưng

Sẵn sàng hỗ trợ


Xây dựng huấn luyện chiến đấu

Hiện đại chính quy niềm ước vọng

Điện tử điều hành ai chẳng mong

Lâu đài đồ sộ vì vững móng

Cao vút tường thành bởi gạch con.

Quân ta tổ chức thành nhiều cấp

Đơn vị, cơ quan, đủ các ngành

Tiểu đội nhỏ có binh đoàn lớn

Có chuyên môn binh chủng hợp thành.

Phương hướng yêu cầu trong luyện quân

Thích nghi đáp ứng chiến trường cần

Tình huống bất kỳ đều chiến thắng

Mỗi lần huấn luyện một lần răn!

Phương châm huấn luyện chỉ rõ đây:

“Địch thế nào tìm cách đánh nấy”

Để rồi huấn luyện đánh được ngay

Luyện quân nên nắm chắc hai khâu:

Cán bộ, cơ quan xếp hàng đầu

Trình độ chiến binh phân đội nhỏ.

Phải rèn hai mối, thiếu được đâu

Cơ bản là nền, hệ thống sâu,

Toàn diện, dưới, trên thống nhất nhau,

Cần kiệm, dựng xây quân đội mạnh,

Trách nhiệm chính trị xếp hàng đầu.

Kỹ thuật là cơ sở chiến thuật,

Chiến thuật cần gì, kỹ thuật tuân;


Hai khâu gắn bó không sao tách,

Rèn luyện tinh thông phải thấm nhuần

Trang bị thông thường theo biên chế

Phổ biến có gì giỏi luyện nên,

Đặc biệt: riêng, chung, đừng lẫn lộn

Khi cần, lúc có, mới tăng thêm,

Binh đoàn đánh lớn yêu cầu cao.

Phân đội đánh nhỏ bỏ qua sao?

Đội hình cấp trên, chung là đúng

Chiến thuật cấp mình, hoàn chỉnh cao.

Động tác từng người chưa thạo thông,

Phân đội không sành đánh chẳng xong,

Binh đoàn tổ chức dù lớn mấy

Cơ sở không tinh khó hiệp đồng.

Chất lượng cán binh là chủ yếu,

Đâu chỉ xếp quân tính số nhiều.

Chỉ huy có tài giỏi tạo thế.

Đông quân không thế, dễ bị tiêu.

Là người chiến sĩ đội tiên phong,

Chức trách hoàn thành, nghiệp vụ thông

Chấp hành chiến thuật trong chiến đấu,

Vận dụng tài tình lập chiến công.

Tiến lên cơ giới hoá rất cần

Sở trường vẫn luyện giỏi đôi chân,

Hành quân mang nặng, leo trèo giỏi,

Tiến công liên tục, gối săn gân.


Bao năm chiến đấu nhiều thực tiễn,

Xây dựng quân ta cách đánh riêng,

Cách đánh Việt Nam mang truyền thống,

Kết hợp thời đại với tổ tiên.

Bí mật, nắm thời, giành chủ động,

Một diệt, bốn cắt, suy cho rộng,

Thế mưu, công lực, hư hư thực,

Thế trụ, thế phòng, thế tiến công.

Tháng 10-1966

THAY LỜI KẾT

Đọc sách của Trung tướng Vương Thừa Vũ, tôi nhớ lại lời kể của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy: “Năm 1946, sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, kết thúc 60
ngày khói lửa ở Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ đang thăm đền thờ Lê Lợi ở tỉnh Thanh Hóa, điện ra Việt
Bắc cho Đại tướng yêu cầu tìm ngay các tài liệu về cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh
của Lê Lợi cho Bác”. Thời chống Mỹ, Tướng Vương Thừa Vũ cũng yêu cầu tôi tìm các tài liệu về
Quang Trung - Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo và của Nguyễn Trãi v.v... để ông nghiên cứu, vận
dụng.

Sau này, chắc rằng các thế hệ kế tiếp sẽ lại tìm các tài liệu kinh nghiệm của các cấp chỉ
huy, lãnh đạo, của các chiến sĩ đã từng trải qua suốt 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ xâm lược mà Tướng Vương Thừa Vũ thường nói: “Tấn vàng cũng không mua được”. Đó là
tài sản vô giá mà các thế hệ tiếp sau biết ơn và trân trọng.

Tuy nhiên, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai sẽ có rất nhiều điều khác trước
đây và hiện nay, do đó Tướng Vương Thừa Vũ thường nhắc nhở các cán bộ chỉ huy cấp dưới của
mình là phải luôn luôn vận dụng sáng tạo, linh hoạt những lý luận và kinh nghiệm, mặc dầu rất
hay ở hoàn cảnh, thời điểm nào đó, nhưng ở hoàn cảnh khác, không gian - thời gian khác nếu
người chỉ huy không biết vận dụng sáng tạo thì không những khó thắng lợi mà có khi còn tổn thất
lớn.

Đọc sách và một số bài viết của Tướng Vũ, mặc dầu có một số hồi ký chưa có ở cuốn
sách này chúng ta càng thêm hiểu và kính trọng ông - một người mà nhiều đồng cấp, cấp trên của
ông thường nói: “Anh Vũ là một con người thẳng thắn, trung thực, dũng cảm và kiên quyết trước
kẻ thù, nhưng sống rất nghĩa tình, nhân ái với đồng đội, bạn bè, không âm mưu, thủ đoạn thâm
hiểm, không làm hại bất cứ ai...”.

Hết
1

2
1, 2. Trích trang 96, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc phòng.
3

4
1. Trích mệnh lệnh trang 103, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc
phòng.

2. Số 254B phố Thuỵ Khuê.

7
1, 2. Trích Thông tri ngày 8 tháng 1 năm 1947, trang 105, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ,
Văn phòng Bộ Quốc phòng.

3. Trích thông tri ngày 9 tháng 1 năm 1947, trang 106, Bút ký chiến sự lục, Khu II, Phòng lưu trữ, Văn
phòng Bộ Quốc phòng.

9
1. Nay là Rạp Chuông Vàng.

2. Nay là Trường đại học Bách khoa.

10
Nay là khu vực khu tập thể Viện Chống lao.
11
Trung Hoa thời kỳ Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch
12
Phụ lục - Trích kế hoạch tác chiến. Bút ký chiến sự lục, Khu II, trang 125, Phòng lưu trữ, Văn phòng Bộ Quốc
phòng
13

14

15
Sau là Trường phổ thông Nguyễn Huệ.

2. Sau là Trường Trần Nhật Duật.

3. Trung đoàn Thủ Đô gồm có 3 tiểu đoàn: 101, 102 và 103


16
Phần này viết dài, giải thích tỉ mỉ về cách đánh. Ở đây chỉ nêu lên đầu đề.
17
18
Bài đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 8 năm 1963, có sửa chữa và bổ sung.
19

20

21

22

23

24
1. Bản thân một hỏa điểm, đến các điểm tựa, các khu then chốt trở lên đều phải thành hình thế tam
giác, đánh được các mặt và hỗ trợ được lẫn nhau.

2. Các điểm tựa kết hợp với nhau tạo thành thế đánh chéo sườn (nhiều tầng), chia cắt, đánh kẹp quân
địch và liên kết thành trận địa chéo để đánh thúc sườn, xuyên hông địch, cũng là trận địa để triển khai phản kích,
phản đột kích từ chiến thuật cho đến chiến dịch.

3. Về tư tưởng cũng như tổ chức vừa bảo đảm độc lập tác chiến, vừa bảo đảm dựa vào nhau liên hoàn
tác chiến. Bao gồm liên kết giữa trận địa kiên cố với dã chiến, giữa hỏa lực với xung lực, giữa hỏa khí với giao
thông hào và công sự đều phải hết sức nâng cao tính cơ động.

4. Bố trí phải có trọng điểm. Điểm đó là trận địa vững chắc khống chế được diện rộng. Và các diện
rộng ấy (bao gồm các trận địa dã chiến) kết hợp với điểm bảo vệ đắc lực cho điểm.

5. Muốn có chiều sâu vững chắc thì phải bố trí nhiều tầng từ các hỏa điểm đến các điểm tựa... Ví dụ 3
hỏa điểm bố trí thành một hàng ngang thì sẽ mỏng manh. Nhưng nếu bố trí xê xích một chút: “một trước, hai
sau” (chữ A = Tam giác) hoặc “hai trước, một sau” (chữ V = Tam giác) thì sẽ thành hai tầng, hỏa điểm nọ yểm hộ
cho hỏa điểm kia, tạo thành chiều sâu vững chắc. Ngược lại bố trí nhiều tầng thì tạo thành phòng ngự có chiều
sâu, có lực lượng vận động tiến công càng mạnh.

6. Lực lượng đánh xa như bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng cảnh giới, lực lượng cơ
động, trận địa giả, v.v… tiêu hao địch, làm địch mệt mỏi nản chí: hoặc chủ quan nghênh ngang đi vào cạm bẫy
của ta. (Chú ý: bản thân trận địa phòng ngự chính phải giữ bí mật từ đầu đến cuối đợi địch tới gần (nơi đã chọn
sẵn) đột nhiên, bất ngờ đánh dập đầu địch).

- Đánh phối hợp giữa trong khu vực phòng ngự với ngoài khu vực phòng ngự; trong khu cố thủ với
ngoài khu cố thủ.

- Đánh địch trước mặt ta, sẵn sàng đánh địch sau lưng ta; đánh địch đối diện, sẵn sàng đánh bọn phản
động nổi dậy; đánh trước mặt địch kết hợp đánh sau lưng địch; đánh quân địch ở tiền phương kết hợp với đánh
quân địch ở hậu cứ.
- Đánh ở mặt đất; bom, mìn, lựu đạn; hỏa lực từ trên cây, trên mái nhà đánh xuống; dưới đường hầm
bất ngờ nhô lên đánh quật sau lưng địch. Đánh quân địch dưới mặt đất đồng thời tổ chức đánh quân địch trên
không.

25

26

27

28
1. Ý nói địch dùng nhiều phương tiện cơ động, dùng hình thức tác chiến cơ động (phản ứng nhanh).
Do đó ta lại phải giữ bí mật ý định, xuất kích bất ngờ tạo mọi điều kiện cơ động hơn địch để luôn luôn giành chủ
động đánh vào chỗ hở của địch, tiến công vào cạnh sườn, sau lưng địch.

2. Địch dùng chiến thuật “bủa lưới phóng lao”. Nhưng lưới rất sợ chông chà và thoi lao được là nhờ
lẫy. Địch “bủa lưới” ta cắm chông chà, địch “phóng lao” ta bẻ lẫy. Chông chà là thế liên hoàn tác chiến của toàn
dân, của các lực lượng vũ trang thực hiện “nhân dân là thành đồng vách sắt, làng mạc là lô cốt pháo đài”, các nơi
đều bám sát địch mai phục đánh bất ngờ, đánh sau lưng, bên sườn địch, lôi kéo giằng co địch (làm cho lưới phải
thủng, phải rách). Một mặt chuẩn bị lực lượng đánh mạnh vào cơ quan chỉ huy, căn cứ hậu phương của địch, và
đường giao thông, đánh cho địch lao đao rung động, một mặt chuẩn bị lực lượng tập trung đập cho địch một đòn
quyết liệt, bẻ gãy hẳn một cánh quân trọng yếu làm cho cuộc tiến công của địch phải thất bại.

3. Kiên quyết giữ vững hạt nhân trong các khu then chốt yểm hộ các hỏa điểm, các ổ đề kháng, các
lực lượng xung quanh tích cực chiến đấu; và các lực lượng xung quanh, các ổ đề kháng, các hỏa điểm, v.v…
phải kiên cường chiến đấu bảo đảm vững chắc cho khu hạt nhân và các hỏa điểm đều phải xoay vòng đánh được
bốn phía.

4. Để đánh bại cuộc tiến công của địch, nói cho cùng vẫn là phải tạo mọi cơ hội chủ động dùng lực
lượng mạnh bí mật vận động bất ngờ tiến công đập thật mạnh vào sau lưng, bên sườn địch, đánh vào sở chỉ huy
và phương tiện vật chất chi viện tiến công của địch.

29
. Bài đăng báo Quân đội nhân dân, số 998, ngày 20-1-1962. Có sửa chữa.
30
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1964. Có sửa chữa.
31
Bài nói chuyện tại lớp tập huấn cán bộ huấn luyện toàn quân ngày 31 tháng 7 năm 1973
32
Bài đăng báo Quân đội nhân dân ngày 14-2-1966 dưới đầu đề “Học tập tác phong chỉ huy và tác phong chiến
đấu của Quân giải phóng miền Nam”. Có sửa chữa
33
Bài viết nhân kỷ niệm lần thứ 14 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 5
năm 1968
34
Bài đăng báo Quân đội nhân dân, số 1676, ngày 18-11-1965. Có sửa chữa.
35
Bài đăng báo Quân đội nhân dân, số 2332. ngày 23-11-1967
36
Bài đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 8 năm 1967. Có sửa chữa.
37
Bài đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 3 năm 1966 dưới đầu đề “Học tập chiến thắng Plây Me quyết tâm
rèn luyện nâng cao sức tiến công liên tục”. Có sửa chữa
38
Bài đăng tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 10 năm 1966
39

40
Bài viết cho Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tháng 10-1972.

2. Võ Nguyên Giáp, Mấy vấn để về đường lối quân sự của Đảng ta, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1970, tr.267.

41
Văn Tiến Dũng, Về vấn đề xây dựng và tác chiến của quân đội ta, tạp chí Quân đội nhân dân, số 8 năm 1974.
42

43
Trích in theo cuốn: Tướng Vương Thừa Vũ, năm tháng và cuộc đời binh nghiệp (tác giả: Nguyễn
Chu Phác, Trịnh Ngọc Nghi), Nhà xuất bản Hà Nội, 2001.

2. Đồi: bí danh của Trung tướng Vương Thừa Vũ.

44

45

46
1. Tư tưởng chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người”.

2. Xây dựng hệ thống đường sá theo yêu cầu của chiến dịch và chiến thuật trong chiến lược.

3. Xây dựng hầm phải theo yêu cầu, ý đồ chiến dịch, chiến thuật. Ví dụ như nếu đường hầm để xuất
kích, phản công thì ở tầng thấp. Nếu cố thủ thì ở tầng giữa. Nếu đánh địch đổ bộ đường không thì ở tầng cao, nói
chung có được nhiều tầng càng tốt.

47
Ý nói: Không để địch cụm lại thành lực lượng lớn, ta khó đánh tiêu diệt.
48

49

50
51

52

53
“Ba trước” thường gọi là “Tam tiên”: Phát hiện quân địch trước, triển khai chiếm lĩnh trước, nổ
súng tấn công trước.

2. Trận nào, đối tượng nào cũng cứ dùng pháo hoả chuẩn bị 15-20 phút, dễ trở thành quy luật máy
móc. Coi như đánh thức địch dậy. Mất yếu tố bất ngờ.

3. Trong thế vây có những hướng khả năng địch sẽ rút chạy qua đó. Ta bố trí mai phục, hình thành
từng vùng, dồn địch vào đó để bắt.

4. Trong thế vây có những hưởng khả năng địch sẽ rút chạy qua đó. Ta bố trí mai phục, hình thành
từng vùng, dồn địch vào đó để bắt.

5. Ý nói: Bắt cho hết địch.

6. Ý nói: quân địch co dãn, khi phân tán, lúc tập trung đàn hồi như cao su. Đó là chủ trương bảo toàn lực lượng
của địch
54
Đại tướng Văn Tiến Dũng nói ở Hội nghị tổng kết diễn tập khu vực tác chiến ở Quân khu Hữu Ngạn năm
1971: “Thế trận của chiến tranh nhân dân ta như giương sẵn chiếc bẫy, quân địch sa vào bẫy là bị tiêu diệt”.
55

56

57

58

59
Quân cù: Một bộ phận lực lượng của địch cơ động xung quanh cứ điểm.

2. Lòng giặc nở hoa: thọc sâu tới trung tâm cứ điểm của địch, từ bên trong các mũi đánh toả ra. Có
lúc ta gọi là “nở hoa trong lòng địch”.

3. Kèm “mẹ”, đánh “con”: cứ điểm của địch thường tổ chức có một lô cốt “mẹ” và một số lô cốt
“con” vây bọc xung quanh. Nên khi đánh diệt một lô cốt này thì phải kiềm chế lô cốt kia, hay khi đánh một cứ
điểm này thì phải kiềm chế cứ điểm kia. Vì chúng có liên quan với nhau.

4. Bốn cắt, một diệt: một diệt địch ở cứ điểm thì thường phải tiến hành: đánh viện binh địch để cắt
địch bên ngoài với bên trong; kiềm chế pháo binh địch để cắt pháo binh với bộ binh; bắn máy bay địch để cắt
địch trên không với địch ở mặt đất; đánh cắt xe tăng cơ giới địch với bộ binh địch. Một diệt tức là tiêu diệt chỉ
huy và thông tin địch ở trong cứ điểm, tiến tới diệt toàn cứ điểm.

5. Nhỏ giọt: trường hợp chiến đấu thuận lợi cần nhanh chóng quyết định dứt điểm. Hoặc khi chiến đấu gặp trục
trặc khó khăn, cần tung lực lượng dự bị vào không nên đưa từng bộ phận nhỏ vào có tính chất vá víu, nhỏ giọt lấp chỗ trống,
mà phải đưa vào với sức mạnh tập trung quyết định
60

61

62
Từng đoạn hào đào ngang ra hai bên như râu tôm dễ cơ động đánh địch.

2. Diệt cả khu vực địch tổ chức nhiều cứ điểm thành một hệ thống phòng thủ.

3. Theo Ăng-ghen: “Kết quả chiến thắng thường thường thu được khi truy kích địch: Truy kích càng
mạnh, thắng lợi càng lớn. Mặt khác mức độ hoàn hảo của thắng lợi cũng do năng lực truy kích quyết định” -
Ăng-ghen toàn tập - Luận văn quân sự, quyển V trang 80, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

63

64

65

66

67

68

69

70

71

72

73
1. Ăng-ghen, tập IV trang 92, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

2. Một trước, 2 sau - 2 trước, 1 sau, tam giác hoặc vuông, hoặc bình hoa mai v.v... tuỳ theo địa hình và
yêu cầu chiến thuật.

3. Người chỉ huy phải biết tổ chức một bộ phận phòng ngự, tránh dàn đều thành tuyến mành mành mà
phải có trọng điểm. Các chốt trên trận địa phòng ngự đều phải tổ chức thành thế liên hoàn chân vạc kiểu hoa mai
dựa vào nhau, tích cực chi viện cho nhau về hoả lực và xung lực. Hình thái tổ chức này từ tổ ba người trở lên
đều có thể vận dụng được.

4. Tổ chức thành vòng tròn để có thể xoay đánh được địch bất cứ chúng tiến vào hướng nào, ta vẫn
giữ được quyền chủ động, không bị hở sườn và hở sau lưng. Đồng thời yểm hộ và chi viện cho trận địa bên
cạnh.
5. Cải tạo địa hình làm cho trận địa trở nên vững chắc kiên cố, bất ngờ, hiểm hóc, chủ động khi đánh
địch.

6. Xây dựng “trận địa lòng người” kết hợp với xây dựng trận địa mặt đất sẽ có một sức mạnh vững
chắc, phi thường, mạnh hơn cả bom đạn.

7. Các hào giao thông nối liền các ổ đề kháng, các chiến hào, các hoả lực nối lại với nhau bằng những
đường hào ngang dọc, bảo đảm lực lượng cơ động khi cần tập trung tới các hướng.

8. Địch đánh trước, bọc sau: quân địch thường dùng thủ đoạn tấn công trước mặt và dùng một mũi bí
mật luồn rừng, đi đường hẹp, vu hồi bọc đằng sau lưng trận địa của ta. Nếu ta tổ chức trận địa thành một tuyến
theo một hướng thì dễ bị quân địch đánh đằng sau lưng.

9. “Vật cản” - đây là vật cản sống. Ngoài các vật cản cố định ra, ta còn có vật cản sống rất hùng hậu,
rất tích cực, chủ động và cơ động, hỗ trợ đắc lực cho tác chiến phòng ngự trận địa của ta. Tuy nhiên không phải
là đem người so với đồ vật mà đây là nói bóng, vì vậy phải căn cứ vào mục đích của phòng ngự mà phối hợp tác
chiến.

10. Phải tiêu diệt địch ở trước trận địa là nguyên tắc và yêu cầu chủ yếu của chiến đấu phòng ngự trận
địa. Nếu để địch lọt vào bên trong trận địa khi đó mới đánh thì sẽ tốn công, trừ khi bày mưu đưa địch vào túi
bẫy.

11. Chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ.

74

75

76

77

78

79
1. Dưới thấp hai bên sườn phía sau (trước) cần tổ chức chốt bổ trợ để tạo thành thế nhiều tầng, đánh
địch luồn bọc sườn

2. Pháo kích đánh địch.

3. Trận địa phải nguỵ trang, hết sức giữ bí mật, chốt cạnh đỉnh núi với chốt ở dưới thấp phải thành thế
(chân vạc) nhất là các ổ hoả điểm bí mật, ở nơi bất ngờ nhất.

4. Muốn phát huy được sức mạnh của thế trận liên hoàn cần phải có tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, cần
phải có chỉ huy điều hành của cán bộ. “Không có chỉ huy thì không có thế trận gì hết”.
5. Trận địa vòng tròn.

6. Luôn luôn xoay chiều thế trận.

80

81
Những nông thôn xung quanh thành phố là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho thành phố và
cũng là nơi bổ sung nhân lực cho thành phố.

2. Sống theo nhu cầu và cung cấp phân phối

You might also like