Professional Documents
Culture Documents
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới giảng viên, PGS.TS Trần Thu
Hương. Cô là người đã tận tâm chỉ bảo và giúp đỡ em ngay từ những ý tưởng đầu
tiên về đề tài cho đến dòng cuối của đồ án. Chính sự tận tâm và nhiệt tình của cô
đã giúp em hiểu hơn về vấn đề, mở ra nhiều hướng tiếp cận đề tài nghiên cứu,
giúp em hoàn thiện bản thân mình trong chuyên môn cũng như kỹ năng viết.
Em cũng xin đặc biệt cảm ơn đến các anh chị trong Phòng Nghiên cứu và
ứng dụng hóa sinh, Trung tâm Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tích cực giúp đỡ chỉ dạy em trong quá
trình làm đề tài.
Tôi sẽ luôn ghi nhớ các bạn bè lớp Hóa Học-K60 đã luôn giúp đỡ, trao đổi,
góp ý cũng như cung cấp nhiều tài liệu cho đồ án tốt nghiệp này.
Tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình và bạn bè đã luôn đồng hành, động viên,
khích lệ tôi trên con đường học tập. Hơn tất cả, tôi xin trân trọng cảm ơn bản thân
mình vì đã kiên trì nỗ lực hoàn thành con đường học vấn và đề tài này.
Và cuối cùng, với tất cả lòng vị tha, mong thầy cô và bạn đọc thông cảm,
chia sẻ và giúp đỡ tôi khắc phục những hạn chế trong đề tài này.
3.3. Phân lập và tinh chế các chất từ cao chiết etyl axetat của cây Kim ngân ..............45
3.4. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của chất đã phân lập được .....................................46
4.1. Xác định cấu trúc các hợp chất phân lập được .......................................................48
1 Bảng 4.1. Các dữ liệu phổ 1H- NMR và 13C- NMR của 55
hợp chất 1
2 Bảng 4.2. Các dữ liệu phổ 1H- NMR và 13C- NMR của 58
hợp chất 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
𝛿(ppm) Chemical shift (parts per million) Độ chuyển dịch hóa học
s singlet
d doublet
dd doublet- doublet
m mutiplet
Lignan là một trong những khám phá mang tính tích cực của con người.
Giới khoa học đang tiếp tục nghiên cứu sâu về các lignan vì những lợi ích bất ngờ
cho cơ thể con người và khả năng tham gia vào nhiều vấn đề sức khỏe. Chế độ ăn
giàu Lignan có lợi rất tốt cho sức khỏe, đặc biệt nếu được tiêu thụ suốt đời. Bằng
chứng thực nghiệm ở động vật đã cho thấy tác dụng chống ung thư rõ ràng của
lignans. Bên cạnh đó, lignan còn mang lại nhiều hoạt tính sinh học, nổi bật là hoạt
tính gây đọc với tế bào ung thư.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, vì thế mà tài nguyên cây
thuốc của nước ta vô cùng phong phú, trong đó có nhiều loài giữ vai trò quan
trọng trong cuộc sống của con người. Từ lâu đời, các dân tộc ở Việt Nam đã biết
sử dụng cây cỏ làm thức ăn, làm thuốc chữa bệnh và còn dùng vào nhiều việc
khác. Chỉ tính riêng về cây thuốc ở Việt Nam, hiện đã biết tới trên bốn ngàn loài.
Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc lại có các loài cây thuốc, cũng như cách sử dụng cây
thuốc theo các kinh nghiệm truyền thống khác nhau. Mặc dù vậy, do kết quả của
quá trình giao lưu, quảng bá và học tập lẫn nhau, đã có rất nhiều cây thuốc và bài
thuốc được nhiều người và nhiều nơi cùng biết tới – Kim ngân là vị thuốc như
vậy. Dược liệu Kim ngân hoa là hoa của loài Kim ngân hoa (Lonicera
japonica Thunb.) được phơi hay sấy khô. Đây là vị thuốc cổ truyền, trong Y học
cổ truyền dùng riêng hay dùng phối hợp, để chữa các bệnh như mụn nhọt, mẩn
ngứa, dị ứng, sởi, cảm cúm, viêm phổi, viêm gan [3]. Tuy nhiên, trên thực tế người
ta sử dụng hoa khô của nhiều loài thuộc chi Kim ngân (Lonicera L.), họ Kim
ngân (Caprifoliaceae), với tên “Kim ngân hoa”. Ở Việt Nam, trong số các loài
Kim ngân đã biết, loài Kim ngân hoa (L. japonica Thunb.) được nhắc tới nhiều
nhất [7]. Theo một số nghiên cứu khảo sát sự phân bố của các loài thuộc chi Kim
ngân Lonicera L tại Việt Nam khá rộng. Việc tập trung nghiên cứu, tìm hiểu hóa
dược của cây kim ngân là cần thiết, có lợi, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn
có. Xuất pháp từ những lý do đó chúng tôi tiến hành nhiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu phân lập một số hợp chất Lignan từ kim ngân ( Lonicera
japonica Thumb.)”
Để góp phần nghiên cứu và phân lập một số hợp chất Lignan của cây kim
ngân các nhiệm vụ được đặt ra:
1- Xây dựng một quy trình chiết thích hợp để điều chế các phần chiết chứa
các hợp chất hữu cơ thiên nhiên từ cây kim ngân.
2- Nghiên cứu quy trình phân tích và phân tách các phần chiết nhận được
từ cây kim ngân.
3- Phân lập các hợp chất trong các phần chiết nhận được
4- Xác định cấu trúc của các hợp chất được phân lập.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Vài nét về họ Caprifoliaceae (Kim Ngân)
Thế giới có 16 chi và 400 loài, phân bố chủ yếu ở bán cầu Bắc, ít có ở Đông
Nam Á, châu Úc và Nam Mỹ. Việt Nam có 4 chi và khoảng 25 loài.
Đặc điểm thực vật: Cây dây leo, cây bụi hay cây gỗ nhỏ hoặc cỏ. Lá mọc
đối, đơn hay kép lông chim, ít khi kép 3, không có lá kèm. Phần lớn có gỗ mềm và
có tủy rộng, đôi khi có tuyến mật trên cuống lá. Cụm hoa xim 2 ngả, dạng ngủ.
Hoa lưỡng tính, đều hay đối xứng 2 bên, mẫu 4 - 5, cánh hoa hợp thành ống và
thành 2 môi, các thùy thường xếp lợp. Nhị đẳng số, đính trên ống tràng và xen kẽ
với thùy tràng. Bộ nhụy gồm (8)5-2 lá noãn hợp thành bầu hạ hay thường là bầu
trung. Bầu 5-1 ô, mỗi ô chứa 1 -nhiều noãn đảo và treo. Khi nở, 1 môi quặt lại rất
rõ. Quả mọng, nang hay hạch. Hạt có phôi nhỏ và nội nhũ nạc lớn. Các
chi Diervilla và Weigela có quả nang.
1
+ Lonicereae: gồm các chi Leycesteria, Lonicera.
+ Triostomeae: gồm các chi Triosteum.
Trong “Flowering Plants”, Năm 2009, tái bản lần thứ II có sửa chữa, của
Tác giả A. Takhtajan vẫn theo quan điểm của các nhà Thực vật học đi trước, đặc
biệt là việc ra đời hệ thống phân loại của A.L. de Jussieu năm 1789 [23]. A.
Takhtajan đặt tên họ Caprifoliaceae trên cơ sở hợp nhất 3 họ Diervillaceae Pyck
1998; Linnaeaceae Backlund 1998 và Loniceraceae Vest 1818 với tổng số gồm
275-300 loài của 12 chi [23,24,25]. Mặc dù vậy, Ông có đôi chút thay đổi trong
quan điểm của mình về hệ thống phân loại họ Caprifoliaceae, khi vẫn chia họ này
ra thành các phân họ, tuy nhiên các chi thuộc mỗi phân họ có sự thay đổi. Cụ thể
như sau:
+ Diervilleae: Weigela, Diervilla
+Triostomeae: Triosteum
Có thể nói, trong thế kỉ XVIII, XIX là thời kì bắt đầu và phát triển rất mạnh
của Thực vật học, có rất nhiều quan điểm, nhiều trường phái khác nhau trong việc
xếp chi Lonicera vào họ nào, phân họ nào, ngay cả họ Caprifoliaceae có những
phân họ nào cũng có những sự khác nhau rất rõ rệt. Nhưng theo quan điểm của
đa số các nhà thực vật học nổi tiếng trên thế giới thì vẫn ủng hộ quan điểm của
Linnaeus và Jussieu đó là xếp chi Lonicera nằm trong họ Caprifoliaceae.
2
Chi Kim ngân hay còn gọi là chi nhẫn đông (danh pháp khoa
học: Lonicera, đồng nghĩa: Caprifolium Mill.) là chi thực vật gồm một số loài cây
bụi hoặc dây leo trong họ Kim ngân (Caprifoliaceae) thực vật bản địa của Bắc
bán cầu. Có khoảng 180 loài kim ngân, ở Trung Quốc có độ đa dạng cao nhất với
hơn 100 loài, châu Âu và Bắc Mỹ mỗi nơi có khoảng 20 loài. Các loài phổ biến
gồm có Lonicera periclymenum (kim ngân châu Âu), Lonicera japonica (kim
ngân trắng hay kim ngân Nhật, phổ biến ở Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam)
và Lonicera sempervirens. Kim ngân rất thu hút chim ruồi.
Lá kim ngân mọc đối, hình bầu dục, dài từ 1 đến 10 cm. Đa số các loài kim
ngân có lá sớm rụng, nhưng một số là cây thường xanh. Nhiều loài có hoa thơm,
hình chuông, trong có chứa mật ngọt ăn được. Khi bẻ cuống hoa sẽ thấy mùi
hương thơm. Quả kim ngân là loại quả đơn (mỗi quả phát triển từ một noãn) màu
đen, xanh lam, hoặc đỏ, trong có chứa vài hạt. Quả của đa số các loài kim ngân
có chứa chất độc nhẹ, một số loài (nổi tiếng nhất là Lonicera caerulea) có quả ăn
được.
Một số loài kim ngân được dùng làm thuốc Đông y như Lonicera
confusa[1] và Lonicera japonica.
Về cơ bản các tác giả khi nghiên cứu phân loại chi Lonicera đều
thống nhất mô tả đặc điểm chung của chi Lonicera, họ Caprifoliaceae như sau:
Cây bụi đứng hay bụi trườn, đôi khi là dạng leo; rụng lá hoặc thường xanh.
Cành rỗng với lõi màu trắng hoặc nâu; có chồi ngủ mùa đông, với 1 hoặc vài cặp
lá vảy. Lá mọc đối, hiếm khi mọc vòng, nguyên, hiếm khi xẻ răng cưa, lá kèm ở
giữa cuống lá vắng hoặc hiếm khi phát triển tốt. Cụm hoa dạng chùy, mọc ở nách
lá hoặc đầu cành, dày đặc hoặc thưa thớt, cụm hoa dạng xim 1 -, 2 - , hoặc 3 hoa.
Cụm hoa dạng xim đôi khi có cuống; hoặc không cuống, đôi khi hình thành cụm
hoa dạng đầu. Đài hoa 5 thùy. Cánh hoa màu trắng, màu vàng, đỏ, tím đỏ, thường
xuyên thay đổi màu sắc sau khi nở hoa, hình chuông, được mở rộng dần dần, 5
thùy, cánh hoa chẻ đôi và trên 4 thùy; ống dài hay ngắn. Nhị hoa 5, bao phấn đính
3
lưng. Buồng trứng 2 hoặc 3 (-5) ngăn; có lông hoặc nhẵn. Trái cây mọng, màu đỏ,
đen, hoặc màu xanh, đôi khi có phủ phấn trắng, thỉnh thoảng còn giữ lại lá bắc
con cùng với quả. Hạt từ 1 đến rất nhiều.
Giới: Plantae
Bộ: Dipsacales
Họ: Caprifoliaceae
Chi: Lonicera
4
khai ngũ điểm (Hình 4.18 I). Bộ nhị 5 nhị, rời, đều, đính gần miệng ống tràng,
xen kẽ cánh hoa; chỉ nhị hình sợi, màu trắng, dài 2,4-2,5 cm, có gai nhỏ; bao phấn
2 ô, hình thuôn dài, màu vàng, dài 4-5 mm, đính giữa, nứt dọc, hướng trong; hạt
phấn hình tam giác, có khuyết lõm, màu vàng, dài 60-70 µm. Bộ nhụy 3 lá noãn
dính nhau thành bầu dưới 3 ô, dài 1,5 mm, mỗi ô nhiều noãn, đính noãn trung trụ;
vòi nhụy hình sợi, màu trắng đỉnh màu xanh, dài 5-5,5 cm; đầu nhụy hình cầu,
màu xanh, bề mặt chia 3 khía.
5
Hình 1.2. Hoa Kim ngân.
6
1.2.3.1. Tinh dầu
Là một trong những thành phần quan trọng, tinh dầu tồn tại trong các bộ
phận trên không của Lonicera japonica, hoa (tươi và khô), lá và dây leo. Do môi
trường sống khác biệt, thời gian thu hoạch, bộ phận dược liệu, phương pháp chiết
xuất và chế biến, hàm lượng và thành phần của tinh dầu là khác nhau.
Từ hoa khô của Lonicera japonica ở tỉnh Hà Nam (Trung Quốc), 27 hợp
chất đã được xác định, chủ yếu bao gồm aromadendrene, linalool và geraniol, và
hầu hết chúng thuộc về monoterpen và sesquiterpen. Nhưng từ hoa khô của
Lonicera japonica ở tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc), hơn 65 hợp chất đã được xác
định, hợp chất chính là axit hexadecanoic và các hợp chất khác là aldehyd, ketone,
axit, este, v.v. (Wang, 2010). Năm 2009, Lin (2009) phát hiện ra rằng các hợp
chất chính của tinh dầu ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là axit hexadecanoic,
methyl linolenate, methylpalmita, v.v. Đồng thời, Ikeda và cộng sự đã nghiên cứu
các thành phần dễ bay hơi của tinh dầu từ hoa của Lonicera japonica tại Nhật Bản
với phương pháp GC-MS. 150 hợp chất, được tạo thành từ 36 hydrocacbon, 28
rượu, 21 aldehyd, 12 ketone, 38 este, 15 hợp chất khác đã được xác định. Các
thành phần quan trọng đặc trưng cho các chất bay hơi của hoa kim ngân được xác
định là linalool, (Z) -jasmone, (Z) -jasmin lactone, methyl jasmonate và methyl
epi-jasmonate. Ngoài ra, những thay đổi của các thành phần dễ bay hơi phát ra từ
những bông hoa sống suốt cả ngày đã được điều tra bằng phân tích không gian
động bằng cách sử dụng GC và GC-MS, và mùi mạnh nhất được phát hiện vào
giữa đêm (Ikeda và cộng sự, 1994). Năm 2010, Feng (2010) đã xác định hàm
lượng axit chlorogen từ Lonicera japonica trong các môi trường sống khác nhau
bằng TLC. Kết quả cho thấy thành phần lần lượt là 3,43%, 3,14%, 1,62% và
2,11% ở Sơn Tây, Sơn Đông, Hồ Bắc và Hà Nam. Vì vậy, môi trường sống khác
biệt sẽ thay đổi tỷ lệ của các hợp chất hóa học. Và các thành phần hóa học có mối
quan hệ mạnh mẽ với môi trường phát triển của y học cổ truyền Trung Quốc.
7
b, Thời gian thu hoạch khác nhau
Yang và Zhao (2007) đã điều tra các thành phần của tinh dầu từ Lonicera
japonica thu hoạch từ giữa tháng Sáu và tháng Tám. Kết quả cho thấy 32, 54 và
74 hợp chất đã được xác định bởi GC- MS từ hoa vào tháng Sáu, tháng Bảy và
tháng Tám tương ứng. Các thành phần chủ yếu tăng là số phân tử thấp và các hợp
chất điểm sôi thấp. Nhưng các hợp chất có hàm lượng cao tương tự nhau mỗi
tháng, đó là linalool (13,47%, 13,47%, 7,92%), dibutylphthalate (10,26%, 7,54%,
7,67%) và carvacrol (7,92%, 10,09% và 6,67%). Sau đó, nồng độ axit chlorogen
cao nhất được tìm thấy ở giai đoạn ra hoa trắng thứ hai và ra hoa trắng hoàn toàn.
Kết quả chỉ ra rằng thời điểm tốt nhất để thu hoạch hoa Lonicera japonica cho
tinh dầu là giai đoạn ra hoa bạc và đối với axit chlorogen là giai đoạn ra hoa trắng
thứ hai hoặc trắng hoàn toàn (Wang et al., 2009).
c, Các chất đã thu được
Hơn 140 hợp chất thu được có thể kể đến là Chlorogenic acid và
Isochlorogenic acid (Yip et al. (2006), Caffeic acid (Choi et al. (2007)),
Hexadecanoic acid và Myristic acid (Huang et al. 1996), Iwanhashi and Negoroy
(1986) đã thu được các chất 3,5-O-dicaffeoylquinic acid, 4,5-O-dicaffeoylquinic
acid, 3,4-O-dicaffeoylquinic acid, 1,3-O-dicaffeoylquinic acid, 3-
Ferulicoylquinic, 4-Ferulicoylquinic. Năm 2009 Qi và cộng sự đã thu được 6 chất
mới từ cây kim ngân là 5-O-caffeoylquinic acid, 4-O-caffeoylquinic acid,
Caffeoyl-CH2-O-quinic acid, 1,5-O-dicaffeoylquinic acid, 1,4-O-dicaffeoylquinic
acid, Methylated dicaffeoylquinic acid.
Năm 2007 Choi và cộng sự từ hoa kim ngân đã thu được Oleanolic acid
28-α-O-L-rhamnopyranosyl-(1→2)-[β-D-xylopyranosyl(1→6)]-β-D-glu-
copyranosyol ester. Từ nụ hoa kim ngân người ta đã thu được 3,5-O-
dicaffeoylquinic acid methyl ester, Methyl chlorogenate (Lee et al. 2010), 3-O-
caffeoylquinic acid butyl ester ( Ren et al. 2008), 3-O-caffeoylquinic acid, 3-
caffeoylquinic acid methyl ester, 3,5-dicaffeoylquinic acid buthyl ester bởi Peng
8
et al. (2000), Vanillic acid 4-O-β-D-(6-O-benzoylglucopyranoside) bởi Lee et al.
(2010), Protocatechuic acid bởi Choi et al. (2007) và Yip et al. (2006),
Chlorogenic acid butyl ester bởi Wang (2008c), Chlorogenin tetraacetate bởi Lou
et al. (1996), 5-Feruloylquinic acids được tách bởi Shanghai Institute of
Pharmaceutical Industry (1975), Methyl 3,5-di-O-caffeoylquinic acid, Methyl
3,4-di-O-caffeoylquinic acid bởi Chang et al. (1995), Caffeic acid methyl ester
bởi Ma et al. (2005) ………
Axit hữu cơ là một thành phần quan trọng khác của Lonicera japonica, và
nó chủ yếu chứa axit chlorogen (1), axit isochlorogen (2), axit caffeic (3), axit
hexadecanoic (4), v.v. (Zhang et al., 2000). Năm 1996, axit hexadecanoic (4) và
axit myristic (5) đã được phân lập từ chiết xuất chloroform của Lonicera japonica
(Huang và cộng sự, 1996), và axit tetraacetyl-phthalein được chiết xuất từ dịch
chiết của Lonicera japera et al., 1996). Đồng thời, sáu chất đồng phân của axit
isochlorogen đã được xác định, bao gồm axit 3,5-O-dicaffeoylquinic (6), axit 4,5-
O-dicaffeoylquinic (7), axit 3,4-O-dicaffeoylquinic (8), 1,3-O-dicaffeoylquinic
acid (9), 3-ferulicoylquinic (10) và 4 - ferulicoylquinic (11) (Iwanhashi và
Negoroy, 1986). Là một thành phần hoạt tính sinh học chính của hoa, axit
chlorogen (1) đã được chú ý nhiều. Các nghiên cứu cho thấy axit chlorogen có
hoạt tính kìm khuẩn mạnh hơn đối với vi khuẩn Gram âm so với vi khuẩn gram
dương. Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của axit chlorogen (1) đối với shigella và
salmonella là 0,125 mg/ml, gần như tương đương với 0,1 mg/ml kanamycin (Xu,
2008). Và các giá trị MIC kháng khuẩn lại với vi khuẩn Escherichia coli, Sarcina
luteus, Bacillus subtillis và Staphylococcus aureus là 0,025 g/ml, 0,025 g/ml, 0,1
g/ml và 0,8 g/ml (Wu, 2005). Trong khi đó, với liều 0,05 mg/ml, 0,1 mg/ml, 0,4
mg/ml, 0,8 mg/ml và 0,8 mg/ml, axit chlorogen (1) đã thể hiện hoạt tính kháng
virut đáng kể đối với virut hợp bào hô hấp, virut coxsackie B3 - liên kết 7 virus,
3 virus liên quan đến adeno và virus Coxsackie B5 tương ứng (Hu et al., 2001).
9
Liều độc 0%, nồng độ hiệu quả tối thiểu và chỉ số điều trị so với cytomegalovirus
ở người lần lượt là 100 𝜇G/ml, 1 𝜇G/ml và 100 (Chen và cộng sự, 2009).
10
11
Quercetin 3-O-β-D glucopyranoside
12
1.2.3.3. Flavones
Cho đến nay, khoảng 30 flavones đã được phân lập từ Lonicera japonica. Gao và
Mu (1995) phân lập quercetin-3-O-β-D-glucoside, luteolin-7-O-α-D-glucoside,
luteolin-7-O-β-D-galactoside và hyperoside từ chiết xuất n-butanol. Corymbosin
và 5-hydroxy-3’,4’,7-trimethoxylflavone được phân lập từ các chiết xuất
chloroform (Huang và cộng sự, 1996). Năm 2005, Kumar và cộng sự cô lập hai
biflavone mới, 3’-O-methyl loni-flavone [5,5”,7,7” -tetrahydroxy 3’ -methoxy 4’,
4’”-biflavonyl ether] và loniflavone [5,5”,7,7”,3’-Pentahydroxy 4’,4”’-
biflavonyl ether], từ lá của Lonicera japonica ở Ấn Độ (Kumar et al., 2005). Đồng
thời, phương pháp so màu được sử dụng để so sánh hàm lượng của flavones từ
13
môi trường sống khác nhau. Kết quả cho thấy hàm lượng thu được hơn 4,31% từ
Lonicera japonica ở Rizhao (Sơn Đông). Và hàm lượng lần lượt là 1,83%, 2,02%,
2,47% và 0,65% tại Pinyi (Sơn Đông), Fenqiu (Hà Nam), Xinmi (Hà Nam) và
Nanjin (Giang Tô). Xing và cộng sự (2002) đã sử dụng phương pháp quang phổ
tử ngoại để xác định hàm lượng flavones trong các bộ phận khác nhau của cây.
Kết quả chỉ ra rằng hàm lượng trong lá là cao nhất và một số bộ phận là hoa, thân
và sự phân phối của flavones cũng tương tự như axit hexadecanoic (4). Vì vậy, lá
và hoa của Lonicera japonica cũng sẽ được sử dụng trong TCM để điều trị các
bệnh khác nhau.
Do khó khăn trong việc tách và tinh chế flavone, các tác dụng dược lý của
các hợp chất này đã không được nghiên cứu một cách có hệ thống, ngoại trừ
hyperoside và chiết xuất thô. Tang (2008) đã phát hiện ra rằng hyperoside kết hợp
với β-Lactams hoặc quinolone có thể tăng cường tác dụng kháng khuẩn đối với
một số vi khuẩn gây bệnh phổ biến. Ở sub-MIC (<0,5 mg / ml), hyperoside có thể
tăng cường tác dụng kháng khuẩn của quinolone ưa nước đối với vi khuẩn
SA26592 (pUT-norA). Nó cũng có thể làm giảm tổn thương tế bào do CCl 4 gây
ra trong tế bào gan L-02 với việc giảm ALT, AST và MDA, và tăng GSH và tỷ lệ
sống sót của tế bào. Nó cũng cho thấy một tác dụng bảo vệ gan đáng kể ở chuột
bị nhiễm CClb. Các chỉ số sinh hóa và kiểm tra mô bệnh học gan của chuột được
điều trị bằng hyperoside 30 mg/kg gần như tương tự với động vật bình thường.
1.2.3.4. Iridoids
Trong những thập kỷ qua, hơn 30 iridoids đã được tìm thấy từ Lonicera japonica
và HPLC với máy dò tán xạ ánh sáng bay hơi hoặc phát hiện đa phổ có thể được
sử dụng để phân tích các hợp chất này. Năm 2008, 9 iridoids là loganin, sweroside,
secoxyloganin, secologanin, kingiside, ketologanin, 7α-morroniside, 7β-
morroniside và secologanoside, với 12 alkcaloit muối bên trong pyridinium
lonijaposides A-L được phân lập từ nụ hoa. Và trong một thử nghiệm in vitro,
lonijaposide C cho thấy hoạt động ức chế chống lại sự giải phóng glucuronidase
14
trong bạch cầu đa nhân của chuột (PMNs) do yếu tố kích hoạt tiểu cầu (PAF) gây
ra với tỷ lệ ức chế 69,5% ở mức 10𝜇M ,trong khi các hợp chất lonijaposide A và
B cung cấp cho các hoạt động ức chế với tỷ lệ ức chế 11,0% và 35,8% ở cùng
nồng độ, tương ứng. Điều này cho thấy rằng đơn vị ethanol-2-yl ở N-1 và dạng
axit của C-11 có thể làm tăng hoạt động (Song và cộng sự, 2008). Sau đó, bốn
glycoside iridoid mới, được đặt tên là L- phenylalaninosecologanin, 7-O-(4-β-D-
glucopyranosyloxy-3-methoxy-benzoyl) secologanolic acid, 6’-O-(7-α
hydroxysweros và (Z)-aldsecologanin cũng được phân lập, cùng với một loại đã
biết, mới được đặt tên (E)-aldosecologanin được phân lập từ thân và lá (Machida
et al., 2002). Từ những nụ hoa khô của Lonicera japonica, 10 iridoids và
loniceracetides A, B (secoiridoid glycoside) đã được xác định (Kakuda et al.,
2000).
Sử dụng dược điển hỗ trợ, Ehrman và cộng sự (2010) sàng lọc các hợp chất
có thể hoạt động chống lại bốn mục tiêu liên quan đến kháng viêm. Kết quả cho
thấy iridoids, là thành phần hoạt động, đã trình bày khả năng chống viêm rõ rệt
chống lại COX, P38 và JNK. Đồng thời, các nghiên cứu dược lý cho rằng iridoids
cũng có khả năng chống khối u, chống viêm, hoạt động chống oxy hóa và tác dụng
bảo vệ gan tốt (Shang, 2010).
1.2.3.5. Saponin
15
glucopyranosyl(1→6)-β-D-glucopyranosyl] hederagenin. Đồng thời, thử nghiệm
dược lý đã chứng minh rằng monodesmoside cho thấy hoạt động tán huyết mạnh,
nhưng bisdesmosides cho thấy hoạt động tán huyết yếu. Năm 1996, Lou và cộng
sự (1996) đã phân lập ba hợp chất triterpenes từ nụ hoa của Lonicera japonica là
3-O-α-L-rhamnopyranosyl-(1→2)-α-L-arabinopyranosy hederagenin 28-O-β-D-
xylpyranosyl(1→6)-β-D-glucopyranosyl ester, 3-O-α-L-arabinopyranosy
hederagenin 28-O-α-D-rhamnopyranosyl(1→2)[β-D-xylpyranosyl(1→6)-β-D-
glucopyranosyl ester, 3-O-α-L-rhamnopyranos(1-2)-α-L-arabinopyranosy
hederagenin 28-O-α-D-rhamnopyranosyl (1→ 2) [β -D-xylpyranosyl (1→ 6)-β-
D-glucopyranosyl ester. Sau đó vào năm 2000, 3-O-β-D-glucopyranosyl-(1→ 4)-
β-L-glucopyranosyl(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl(1→2)-α-L-arabinopyranosy
hederagenin 28-O-β-D-glucopyranosyl(1→6)-β-D-glucopyranosyl este,
hederagenin-3-O-α-L-rhamnopyranosyl(1→2)-α-L-arabinopyranoside, 3-O-β-
D-glucopyranosyl-(1→3)-α-L-rhamnopyranosyl(1→2)-α-L-arabinopyranosyl
hederagenin 28-O-β-D-glucopyranosyl-(1→6)-β-D-glucopyranosyl este, 3-O-α-
L-rhamnopyranosyl-(1→2)-α-L-arabinopyranosy hederagenin 28-O-β-D-
glucopyranosyl (1→6)-β-D-glucopyranosyl ester (107) đã được xác định (Chen
et al., 2000).
Sau đó vào năm 2003, một loại triterpenoid saponin mới, loniceroside C đã được
phân lập từ các bộ phận trên không, cho thấy hoạt tính chống viêm in vivo ở liều
50, 100, 200 mg/kg (po) chống lại phù tai chuột với tỷ lệ ức chế lần lượt là 15%,
31% và 28,7%. Thuốc aspirin dương tính (100 mg / kg, p.o.) là ức chế 15% (Kwak
et al., 2003). Và vào năm 2008, hai saponin triterpeniod mới, loniceroside D và
loniceroside E, đã được phân lập từ hoa khô và chồi của Lonicera japonica (Lin
et al., 2008).
Từ Lonicera japonica, 15 nguyên tố vi lượng đã được tìm thấy, như Fe, Mn, Cu,
Zn, Ti, Sr, Mo, Ba, Ni, Cr, Pb, V, Co, Li, Ca (Wu, 1988). Năm 2006, Kumar và
16
cộng sự. đã xác định sáu hợp chất hóa học mới, lonijaposides A1-A4 và
lonijaposides B1-B2 (Kumar et al., 2006). Và tên của lonijaposide A1 tương tự
với lonijaposide A, nhưng cấu trúc hóa học của chúng thì khác. Năm 2008, Li đã
phân lập một hợp chất mới shuangkangsu với hoạt tính chống vi rút rõ rệt chống
lại virut cúm B (P <0,5), virut cúm A3 (P <0,5) và virut hợp bào hô hấp (RSV) (P
< 0,005), tương ứng (Li, 2008a) (+) - N- (3-methylbutyryl-β-D-glucopyranoyl)-
nicotinate, (+) - N- (3-methylbut-2-enoyl-β-D-glucopyranosyl)-nicotinate và 3
nucleoside cũng đã được tìm thấy từ nụ hoa của Lonicera japonica (Song, 2008).
Năm 1998, Lee và cộng sự. (1998) đã đánh giá hoạt tính chống viêm của
n-butanol (BuOH, 4.2% dựa trên trọng lượng khô) của Lonicera japonica. Với
liều uống 400 mg/kg, nó cho thấy các hoạt động chống viêm đáng kể chống lại
chứng phù tai AA, phù tai dầu croton, phù chân CGN, mô hạt dạng hạt bông chuột
và mô hình viêm AIA ở chuột, sự ức chế là 27 %, 23%, 26%, 18% và 42%, tương
ứng. Và tỷ lệ ức chế của thuốc dương tính, aspirin (100 mg/kg) là 27%, 13%,
13%, 0% và 58%.
Các đặc tính chống viêm của chiết xuất nước từ hoa Lonicera japonica
được đánh giá trong các tế bào A549. Chiết xuất này ức chế trực tiếp cả hoạt động
COX-1 và COX-2, biểu hiện của protein COX-2 và mRNA do IL-1 tạo ra. Nhưng
liều cao hơn của chiết xuất được yêu cầu để ngăn chặn sự biểu hiện của mRNA
so với protein. Kết quả này chỉ ra rằng dịch chiết đã hoạt động theo cách dịch hoặc
sau dịch mã ở liều thấp hơn và sao chép hoặc sau phiên mã ở liều cao hơn (Xu et
al., 2007). Kang và cộng sự đã xem xét ảnh hưởng của phần nước của Lonicera
japonica đối với hoạt hóa tế bào mast do trypsin gây ra (HMC-1). Sau khi được
17
kích thích với trypsin (100 𝜇M), Lonicera japonica có thể ức chế tiết TNF-α, biểu
hiện mRNA của tryptase và phosphoryl hóa ERK do trypsin gây ra ở liều phụ
thuộc. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng đến hoạt động của trypsin ngay cả với
1000 𝜇G/ml. Tất cả đều chỉ ra rằng Lonicera japonica có thể ức chế sự kích hoạt
tế bào mast do trypsin gây ra thông qua sự ức chế phosphoryl hóa ERK hơn là ức
chế hoạt động của trypsin (Kang et al., 2004). Mặt khác, tác dụng chống viêm của
chiết xuất nước trong chứng phù chân chuột đã được kích hoạt protein 2 (PAR2)
đã được nghiên cứu. Kết quả chỉ ra rằng với liều 50, 100 và 200 mg / kg op, nó
cho thấy sự ức chế đáng kể cả sự thay đổi độ dày của bàn chân và tính thấm của
mạch máu do PAR2 gây ra, tỷ lệ ức chế là 41,8%, 69,1%, 70,9% và 40,2%, 69,7%,
68,8%, tương ứng. Các chất chiết xuất từ nước (100 mg/kg) cũng ức chế đáng kể
hoạt động của chất chủ vận PAR2 do myeloperoxidase (MPO) gây ra và biểu hiện
TNF-α trong mô chân. (Tae và cộng sự, 2003)
Su et al. (2006) đã sử dụng quy trình chiết CO2 siêu tới hạn, nhiệt độ 35◦C,
áp suất 12 MPa, CO2 chảy 4,0 kg/giờ và thời gian 1,5 giờ, để thu được 1,08% dầu
dễ bay hơi từ Flos lonicerae. Các nghiên cứu dược lý cho thấy tác dụng chống
viêm mạnh mẽ của dầu dễ bay hơi trên mô hình sưng tai ở chuột.
Tất cả các báo cáo này đều ủng hộ việc sử dụng Lonicera japonica truyền
thống và cho rằng đây là một chất chống viêm an toàn và nhẹ để điều trị các chứng
rối loạn viêm khác nhau.
Từ những năm 1980, hoạt động chống vi-rút của Lonicera japonica đã và
chống NDV. Đồng thời, là loại thuốc truyền thống quan trọng, Lonicera japonica
đã được sử dụng để điều trị một số bệnh do virus ở Trung Quốc. Các hoạt động
dược lý này đã được hỗ trợ cho việc sử dụng truyền thống và bản chất thuốc của
Lonicera japonica trong TCM. Thứ nhất, Ma vsg cộng sự (2002) đã chọn bốn
mươi bốn loại dược liệu, được sử dụng để điều trị các bệnh truyền nhiễm đường
hô hấp ở Trung Quốc, và đã thử nghiệm các hoạt động chống vi-rút chống lại vi-
18
rút hợp bào hô hấp (RSV) bằng phương pháp xét nghiệm tế bào chất (CPE).
Lonicera japonica cho thấy các hoạt động chống vi rút mạnh đối với RSV, nồng
độ ức chế 50% (IC50) là 50,0 𝜇g/ml và chỉ số chọn lọc (SI) là hơn 20,0. Chang
và cộng sự (2003) đã áp dụng thử nghiệm ức chế sự hình thành hợp bào để nghiên
cứu các tác nhân chống HIV của 80 chiết xuất MeOH của mẫu thu tại Hàn Quốc.
Xét nghiệm này dựa trên sự tương tác giữa glycoprotein vỏ bọc HIV-1 gp120 41
và protein CD4 màng tế bào của tế bào lympho T. Hoa của Lonicera japonica cho
thấy sự ức chế 5,8 ± 1,7% ở nồng độ 100 𝜇G/ml. Và vào năm 2008, Xi (2008) đã
đề xuất rằng chiết xuất Lonicera japonica cho thấy một tác động trị liệu rõ ràng
đối với chuột Pneumonia bị nhiễm virus cúm A. Các chỉ số phổi của nhóm
Lonicera japonica và nhóm ribovirin thấp hơn nhóm mô hình với sự khác biệt có
ý nghĩa (P <0,01), nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa (P>0,05) giữa hai nhóm
này.
Lonicera japonica có thể làm giảm các thay đổi mô bệnh học, sự nhân đôi
của virus và hàm lượng axit nucleic của virut cúm (P<0,01), so với nhóm mô
hình). Đồng thời, TNF-α, IL-1β biểu hiện của nhóm Lonicera japonica và nhóm
ribovirin thấp hơn nhóm mô hình với sự khác biệt đáng kể (P <0,01).
Sau đó vào năm 2009, Chen et al. (2009) đã chứng minh rằng chiết xuất
Lonicera japonica và axit chlorogen có hoạt tính chống cytomegalovirus đáng kể
và liều độc 0%, nồng độ tác dụng tối thiểu (MEC) và chỉ số điều trị (TI) của hai
hợp chất này đối với cytomegalovirus ở người là 3000 𝜇g/ ml, 1 và 100 𝜇g/ml, 1
𝜇g/ml, 100, tương ứng. Thử nghiệm in vitro, Lonicera japonica cho thấy 104 và
72 lần TI cho kháng HSV (virus Herpes simplex) -1F và chống HSV-1HS-1 thành
acyclovir (ACV).
Nhưng xét nghiệm in vivo, hoạt động chống virut của Lonicera japonica
đã bị đóng cửa đối với ACV (Wang, 1999). Đối với beta herpesvirus 1, Lonicera
japonica cho thấy sự ức chế đáng kể sự nhân đôi của cytomegalovirus ở chuột
lang ở cấp độ tế bào. TI và chỉ số nhân đôi ức chế (100 và 2,61) (Wang et al.,
19
2005). Hoạt tính chống vi rút (H9N2) và chống AIV (LED = 3,90 mg / ml, in
vitro) của flavones từ nụ hoa của Lonicera japonica cũng được tìm thấy (Li et al.,
2001; Wang et al., 2006). Đồng thời, là thành phần chính, Lonicera japonica đã
được sử dụng rộng rãi trong các đơn thuốc TCM, được Cục Quản lý Nhà nước
TCM của Trung Quốc xuất bản, để ngăn chặn và kiểm soát SARS coronavirus
vào năm 2003. Và từ số liệu thống kê của bệnh viện Bắc Kinh Youan thuộc đại
học y khoa thủ đô, tần suất thực tế của Lonicera japonica để điều trị cúm A thuộc
nhóm virut cúm A-H1N1 đứng thứ hai trong 113 loài từ tháng 5 đến tháng 11 năm
2009 (Zheng, 2010).
Trong các tế bào Vero, ba chiết xuất khác nhau của Lonicera japonica (tỉnh
Hồ Nam), bao gồm tinh dầu dễ bay hơi (P1), chiết xuất axit chlorogen (P2) và
chiết xuất flavones (P3), đã được thử nghiệm về hoạt tính chống vi rút của virus
dại Pseudo (PRV) và Virus gây bệnh Newcastle (NDV). Ở liều 232,7 𝜇G/ml,
116,35 𝜇G/ml, 58,18 𝜇G / ml, 29,09 𝜇G/ml, tỷ lệ xen kẽ của P1 đối với PRV và
NDV là 40,13%, 17,83%, 13,16%, 2,24%, và 75,40%, 32,01%, 12,05%, 2,34%,
trong CPE tương ứng và đèn LED của P1 (Liều tối thiểu hiệu quả) là 232,7 𝜇g/ml
và 232,7 𝜇g/ml. Tỷ lệ xen kẽ của P2 (3.125 mg/ml, 1.563 mg kg, 0.781 mg/ml và
0.391 mg/ml) đối với PRV và NDV là 63,74%, 46,27%, 13,10%, 3,51% và
65,23%, 36,71%, 32,61%, 28,96% trong CPE tương ứng. Tỷ lệ xen kẽ của P3
(1.954 mg/ml, 0.977 mg/kg, 0.489 mg/ml và 0.244 mg/ml) đối với PRV và NDV
là 94,00%, 78,42%, 42,30%, 3,36% và 78,07%, 27,63%, 16,37%, 6,73%, tương
ứng. LED chống lại PRV và NVD của P2 và P3 là 0,997 mg/ml, 3.097 mg/ml
(P<0,05) và 0,781 mg ml, 1,563 mg/ml. Các nghiên cứu này cho thấy rằng chất
chiết xuất làm giảm tổn thương CPE và vô hiệu hóa virus phụ thuộc ở liều lượng,
cách ức chế virus trực tiếp và thúc đẩy chống vi-rút tế bào (Wang, 2008c).
Là một loại thuốc chống vi rút khác, một số tannin của Lonicera japonica
đã được điều tra. Axit 3,5-di-O-caffeoylquinic (6) và methyl 3,5-di-O-
caffeoylquinic (30) có tác dụng ức chế mạnh đối với HIV-1 RT và HDNAP-. Tỷ
20
lệ IC50 của hai hợp chất này đối với HIV-1 RT và HDNAP-α là 2.0 và 2.2. Trong
khi axit 3,4-di-O-caffeoylquinic (8) và methyl 3,4-di-O-caffeoylquinic (31) cho
thấy tác dụng ức chế cao hơn đối với HDNAP-α so với HIV-1 RT (Chang et al.,
1995). Trong khi đó, 13 axit caffeoylquinic khác, axit caffeic (3) và axit ester
methyl ester (32) được phân lập từ Lonicera japonica cũng trình bày các hoạt
động chống vi-rút chống lại virus đường hô hấp (Ma et al., 2005)
Hoạt động kháng khuẩn, như một tính chất quan trọng khác của Lonicera
japonica, đã được nghiên cứu toàn diện. Năm 2009, Rahman và cộng sự. đánh giá
khả năng kháng khuẩn của tinh dầu từ hoa và chiết xuất ethanol từ lá. Một tác
dụng kháng khuẩn đáng chú ý của dầu và chất chiết xuất đã được tiết lộ đối với
Listederia monocytogenes ATCC 19116, Bacillus subtilis ATCC 6633, Bacillus
cereus SCK 111, Staphylococcus aureus (ATCC 6538 và KCTC 1916), và
Salmonella aerogenes KCTC 2190 và Escherichia coli ATCC 8739. Đường kính
của vùng ức chế là 20.3, 17.8, 15.2, 16.3, 14.1, 15.3, 14.0, 12.4, 12.1, và 16.2,
15.4, 14.0, 15.0, 14.1, 14.1, 14.2 10,3 mm, tương ứng. Giá trị MIC là 62,5, 62,5,
250, 125, 250, 125, 250, 500, 500, và 125, 125, 250, 125, 125, 250, 250, 500,
500 𝜇G/ml. Những phát hiện này cho thấy rằng dầu và chiết xuất từ Lonicera
japonica có thể là một nguồn nguyên liệu tiềm năng cho ngành công nghiệp thực
phẩm hoặc dược phẩm (Rahman và Kang, 2009). Và các hoạt động kháng khuẩn,
chống lại Bacillus cereus và Staphylococcus aureus, của nụ hoa từ Lonicera
japonica đã được tìm thấy bằng phương pháp thử nghiệm đĩa khuếch tán agar
trong ống nghiệm. Đường kính của vùng ức chế là 6,3 và 7,2 mm, và hoạt động
này có thể liên quan chặt chẽ với sự tồn tại của các thành phần phenolic (Shan et
al., 2007). Trong khi đó, Lonicera japonica cũng đã cho thấy hoạt tính kháng
khuẩn rõ rệt đối với mười bốn chủng, bao gồm Staphylococcus aureus,
Streptococcus hemolyticus, Escherichia coli, Bacillus dysenteriae, Bacillus
comma, Bacillus typhosus, Bacillus paratyphosus, Pseudomonas aeruginosa,
21
Klebsiella pneumoniae, Bacillus tuberculosis, Streptococcus mutans,
Bacillus adhaerens, Bacteroides melanogenicus and Haemophilus
actinomycetemcomitans v.v. Và nghiên cứu kháng khuẩn chống lại các loại huyết
thanh khác nhau của Streptococcus mutans đã chứng minh rằng chiết xuất
Lonicera japonica có thể ức chế 87,5% chủng với MIC 25 mg/ml (Sun, 2002;
Song et al., 2003).
Sau đó, hoạt động kháng khuẩn của chiết xuất nước và rượu từ Lonicera
japonica đã được điều tra. MIC và MBC của chiết xuất nước trên Staphyloccocu
saureus là 19,25% và 38,50%; MIC và MBC của chiết xuất rượu trên Salmonella
và Staphyloccocu aureus lần lượt là 9,80%, 19,60% và 19,60%, 39,20% (Kang et
al., 2010).
Trong khi đó, dịch cô đặc từ Lonicera japonica cho thấy tác dụng loại bỏ
hợp lý đối với plasmid R từ Pseudomonas aeruginosa in vivo. Tỷ lệ loại bỏ là 8%
(Wang et al., 2000). Cuối cùng, Tang et al. chỉ ra rằng flavonoid từ Lonicera
japonica cũng có tác dụng kháng khuẩn mạnh, đặc biệt đối với Staphylococcus
aureus kháng Methicillin (MIC 5 mg / ml) (Tang, 2008).
Chio và cộng sự đã đánh giá tác dụng chống oxy hóa của hoa Lonicera
japonica trong năm 2007. Phần EtOAc thể hiện các tác động khử / ức chế rõ rệt,
như sau: Giá trị IC50 là 4,37, 27,58± 0,71, 0,47 ± 0,05 và 12,13 ± 0,79 𝜇g/ml trong
1,1-diphenyl-2- picrylhydrazyl (DPPH), tổng các gốc tự do oxy hóa (ROS), gốc
hydroxyl (OH) và xét nghiệm peroxynitrite (ONOO−), tương ứng. Và các hợp
chất chính của phần EtOAc, luteolin, axit caffeic, axit protocatechuic,
isorhamnetin-3-O-n β-D-glucopyranoside, quercetin 3-O-β-D-glucopyranoside,
và luteolin 7-O-β-D-glucopyranoside, cũng đã chứng minh các hoạt động khử
được đánh dấu, với các giá trị IC50 là 2.08-11.76 𝜇M cho các gốc DPPH và 1.47-
6.98 𝜇M cho ONOO− (Choi et al., 2007). Và kết quả của các xét nghiệm chống
oxy hóa khác chỉ ra rằng các giá trị khả năng chống oxy hóa tương đương Trolox
22
(TEAC) và tổng hàm lượng phenolic đối với chiết xuất methan của chồi thực vật
từ Lonicera japonica là 589,1 𝜇mol Trolox / 100 g trọng lượng khô (DW) và 3,63
gallic axit tương đương / 100 g DW. Những nghiên cứu này cho thấy Lonicera
japonica có thể là chất chống oxy hóa tự nhiên tiềm năng và tác nhân hóa học có
lợi (Cai et al., 2004).
Sau đó, hoạt động chống oxy hóa của các polysacarit với các trọng lượng
phân tử khác nhau được tách ra từ Flos lonicerae bằng cách phương pháp
UltraFiltration (UF) cũng được nghiên cứu. Khả năng khử của các polysacarit có
mối tương quan trực tiếp giữa hoạt tính chống oxy hóa và nồng độ của một số
chiết xuất thực vật nhất định và phần siêu lọc có tác dụng ức chế đáng kể đối với
các gốc superoxide được tạo ra trong hệ thống PMS / NADA / NBT. Sử dụng cho
chuột, chiết xuất polysacarit thô (50-400 mg/kg) có thể làm giảm hàm lượng lipid
peroxidate malony dialdehyd (MDA), cải thiện hoạt tính của glutathione
peroxidase (GSH-Px) và catalase (CAT) trong huyết thanh và mô (Li, 2008b).
Lan và cộng sự (2007) đã sử dụng phương pháp sinh hóa để nghiên cứu
hoạt động và khả năng khử trên các gốc tự do của enzyme bảo vệ màng, được
chiết xuất từ nụ hoa, lá và thân cây của Lonicera japonica trong thời gian thu
hoạch khác nhau. Hoạt động của enzyme đã tăng lên kể từ tháng Tư và đạt mức
cao nhất vào tháng Sáu. Hoạt tính của enzyme chiết xuất từ lá cao hơn so với từ
hoa và cây thân cây, và khả năng làm sạch của dịch chiết từ nụ hoa trên các gốc
tự do OH và H2O2 mạnh hơn so với lá và thân cây.
Trong khi đó, khả năng làm sạch trên các gốc tự do của năm cây thuốc
Lonicerae từ một số tỉnh của Trung Quốc đã được nghiên cứu. Tất cả các mẫu cho
thấy khả năng làm sạch trên ba loại gốc tự do (O2−, −OH, H2O2) ở một mức độ
nào đó, và các mẫu từ Hà Nam và Sơn Đông cho thấy khả năng làm sạch mạnh
hơn so với các loại từ tỉnh Giang Tô. Thứ tự giảm dần của khả năng làm sạch từ
các loài khác nhau là Lonicera macranthoides, Lonicera japonica, Lonicera
similis, Lonicera Fulvotomentosa và Lonicera hypoglauca (Li et al., 2002b).
23
1.2.4.5. Bảo vệ gan
Trong dimethylnitrosamine (35 mg / kg o.p. 7 ngày) gây ra bệnh xơ gan,
chiết xuất ethanol 75% của Lonicera japonica cho thấy hiệu quả bảo vệ gan đáng
kể bằng các phân tích bệnh lý. 19 hợp chất, như 8-phenyl-8-azbicyclo[4,3,0]non-
3-ene-7,9-dione, 3-[1,3]dioxolan-2-yl-4-methoxy-6-nitro-benzo[d]isoxazole,
(E)-2-(5,5,5-Yip richloro-3-penten-1-yl)-1,3-dioxolane, 3,3-diphenyl-
cyclopropene, 2-(methoxy-imino)-hexanedioic acid, gamma-lactone-2
methoximinegluconic acid, 2-(6-heptynyl)-1,3-dioxolane, và bis(o-
methyloxime)-4-ketoglucose, đã được phân lập và xác định bằng phương pháp
GC-MS methol từ chiết xuất ethanol 75% (Sun et al., 2010). Nhưng, Hu và cộng
sự cho rằng tổng số flavones của Lonicera japonica có tác dụng bảo vệ đáng kể
đối với tổn thương gan miễn dịch ở chuột. Sử dụng ig * 10d, tổng số flavone (100,
200, 400 mg / kg) có thể làm giảm đáng kể các chỉ số ở gan và lá lách tăng, và cải
thiện các thay đổi mô bệnh học trong gan bị nặng hơn. Ngoài ra, chiết xuất này
có thể làm giảm nồng độ cao NO và iNOS8 trong homogenate gan và ức chế sự
biểu hiện của TNF- trong mô gan. Cơ chế này có thể là do làm giảm các chất trung
gian gây viêm (Hu et al., 2008).
Các cơ chế gây ra sự chết rụng tế bào có lập trình gây ra bởi liệu pháp quang
động (PDT) trong tế bào ung thư biểu mô CH27 ở phổi, được nuôi cấy với chiết
xuất rượu từ Lonicera japonica như chất cảm quang, đã được khám phá. Chiết
xuất này cho thấy độc tính tế bào quang đáng kể trong các tế bào CH27 ở khoảng
nồng độ 50-150 𝜇G / ml, với lượng ánh sáng là 0,41,2 J / cm2. Sự chết rụng tế
bào có lập trình gây ra bởi PDT kết hợp với chiết xuất Lonicera japonica đi kèm
với ngưng tụ DNA, ngoại hóa phosphatidylserine và hình thành cơ thể tự chết
rụng, nó cho thấy sự chết rụng tế bào độc lập caspase-3 thông qua kích hoạt AIF.
P38-con đường có thể liên quan đến sự chết rụng tế bào được lập trình gây ra bởi
PDT với Lonicera japonica trong các tế bào CH27. Những điều này chứng minh
24
rằng chúng gây ra sự chết rụng tế bào CH27 có lẽ liên quan đến khả năng thay đổi
biểu hiện protein và phân phối protein sốc nhiệt 27 (Leung et al., 2008). Khi chiết
xuất dung dịch Lonicera japonica (100 𝜇G/ ml) được sử dụng cho các tế bào
HepG2, các dung dịch của các tế bào được xử lý có liên quan đến sự tăng
phosphoryl hóa kích thích của JNK và P38 so với giá trị cơ bản, tương tự như hồ
sơ kích hoạt MAPK của PCA. Các thí nghiệm tiếp theo cho thấy chiết xuất nước
này cũng làm giảm khả năng sống sót của tế bào HepG2 xuống 50%. Vì vậy, Yip
nghĩ rằng dịch chiết Lonicera japonica có thể kích hoạt sự chết tế bào HepG2 theo
cách phụ thuộc vào JNK (Yip et al., 2006).
1.2.4.7. Tác dụng ngừa thai
Tác dụng chống mang thai tốt của chiết xuất Lonicera japonica đã được
tìm thấy ở chuột, chó và khỉ. Các chiết xuất đã đánh dấu tác dụng ức chế đối với
deciduoma của pseudopregnant ở chuột, với sự giảm đáng kể mức độ
progesterone huyết tương ở chuột mang thai sau khi dùng trong 24 giờ. Những
kết quả này ngụ ý rằng tác dụng gián đoạn của chiết xuất có thể liên quan đến việc
giảm mức độ progesterone huyết tương và hành động giống như tuyến tiền liệt
(Cao et al., 1986a, b).
25
một cách phụ thuộc vào liều lượng. Axit caffeic và axit isochlorogen có khả năng
chống lại tổn thương oxy hóa rõ rệt và axit chlorogen có tác dụng bảo vệ phòng
ngừa (Fan et al., 2007).
Nhóm còn lại đánh số từ 1’- 9’. Các vị trí 7, 8, 9 có thể thay thế tương ứng
α, β, γ. Cũng do đó, các vị trí 7’, 8’, 9’ được thay tương ứng bởi α’, β’, γ’ . Trên
cơ sở đó Haworth đề xuất nhóm hợp chất có nguồn gốc từ 2 đơn vị C6C3 có liên
kết β - β’ ( γ -γ’) với nhau gọi là lignan (lignane, lignans).
26
Nếu 2 nhóm C6C3 liên kết với nhau bởi các liên kết khác chắng hạn 3 - 3’
thay cho 8 - 8’ ta được Neolignan
3,3’- Neolignan
Nếu tạo một vòng bổ sung giữa giữa hai nhóm C6C3 gọi là cyclolignan
2,7’- cyclolignan
Hai nhóm C6C3 liên kết với nhau bằng các liên kết 8 - 8’ và một nguyên tố
O được epoxylignan.
Lignan được tìm thấy chủ yếu từ rễ, lõi, cành lá, quả, nhựa các cây hạt trần,
hạt kín. Theo các nghiên cứu khoa học, lignan là chất phytoestrogens có tiềm năng
27
chống ung thư (cancer) buồng trứng, tuyến tuyền liệt, vú, tử cung), lignan chiết từ
khoai tây kích thích hệ miễn dịch, tác động to lớn tới bào mòn sỏi túi mật (theo
bác sĩ Wilkinson-bệnh viện Sowthompton-Anh), lignan có tác dụng ngăn chặn
chu kỳ APM. Phosphodiesterase, làm nảy mầm chất ức chế đặc biệt dẫn xuất brom
của nó với các chỉ số E C850 và SI thích hợp có tác dụng chống HIV bằng cách ức
chế bản sao ngược của tế bào HIV- 1 và kết hợp với DNA polymerase và RANase.
Lignan pinoresinol và laricresnol là thành phần quan trọng trong thực đơn
ăn kiêng của bệnh nhân tiểu đường. Đông y Trung Quốc sử dụng lignan để điều
trị viêm gan và bảo vệ gan. Dựa trên hoạt tính oxi hóa mạnh, khoa học đã tìm ra
nhiều hóa chất nguồn gốc lignan đa dạng, công sinh với nhiều loại virut để tạo
hướng phát triến mới trong y dược.
Hibalactone từ T.baccata
28
Dẫn xuất este
Cùng với sự tạo phức Fe3+ - ADP-O2 tác dụng oxi hóa chất béo.
29
Dẫn xuất của ete
Theo Sibi
30
Theo Bath
Theo Enders
c: MsCl, pyridine
31
Theo Wikstromol
32
33
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Phương pháp chiết và phân tách các hợp chất trong mẫu thực vật
Thường thì các chất chuyển hoá thứ cấp trong cây có độ phân cực khác nhau.
Tuy nhiên những thành phần tan trong nước ít khi được quan tâm. Dung môi dùng
trong quá trình chiết cần phải được lựa chọn rất cẩn thận.
Theo các tài liệu đã nghiên cứu trên thế giới thì thành phần hóa học chủ yếu
của cây Kim ngân là các hợp chất axit hữu cơ, flavonoid, iridoids. Đây là các hợp
chất có độ phân cực từ trung bình đến phân cực mạnh, có khả năng tan trong nước
do thành phần của chúng có chứa một hoặc nhiều gốc hydroxyl. Chính vì thế để
tạo dịch chiết tổng từ lá cây Kim ngân thường lựa chọn dung môi methanol.
Methanol là một dung môi thuộc nhóm ancol, được xem là dung môi vạn
năng, có khả năng hoà tan được các chất không phân cực, đồng thời cũng có khả
năng hòa tan các chất phân cực do tạo liên kết hydro với các nhóm phân cực khác.
Dịch chiết methanol được cất loại dung môi dưới áp suất giảm sẽ thu được cao
chiết toàn phần metanol chứa hầu hết hợp chất của các mẫu nghiên cứu. Methanol
34
còn có ưu điểm là một dung môi đa năng và giá thành thấp. Với phương pháp
chiết, thu hồi dung môi sẽ giảm thiểu được lượng dung môi thải ra môi trường.
2.2.2. Các phương pháp phân tích, phân tách và phân lập sắc ký
2.2.2.1. Chiết siêu âm
Chiết bằng phương pháp ngâm chiết cổ truyền có sử dụng thiết bị siêu âm.
Sóng siêu âm với tần số 20 KHz được sử dụng để tăng hiệu quả chiết. Sóng siêu
âm có tác dụng làm tăng sự hòa tan của chất tan vào dung môi và tăng quá trình
khuếch tán của chất tan. Sóng siêu âm cường độ cao cũng có thể phá vỡ cấu trúc
tế bào, thúc đẩy quá trình chiết. Chiết với sự hỗ trợ của sóng siêu âm thường được
sử dụng trong chuẩn bị mẫu phân tích thay cho phương pháp ngâm lạnh hay chiết
Soxhlet cổ điển. Khi đó, người ta nhúng bình chiết vào một bể siêu âm có chứa
nước, sóng siêu âm phát ra từ các đầu phát sẽ truyền qua môi trường nước và đi
vào hỗn hợp chiết.
Đây là một phương pháp chiết có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với các
phương pháp chiết khác (chiết ngâm cổ truyển, chiết đun hồi lưu...) như:
+ Thời gian chiết xuất ngắn: 90phút/mẻ. So với phương pháp chiết ngâm
thông thường có thời gian chiết xuất dài (24 tiếng/mẻ) thì việc chiết siêu âm tiết
kiệm được thời gian chiết.
Nhiệt độ chiết xuất khoảng 45-50oC không làm thay đổi các hoạt chất trong
nguyênliệu thực vật.
+ Chiết siêu âm tiết kiệm dung môi chiết do sóng siêu âm tăng khả năng
hòa trộn của các thành phần, tạo điều kiện thuận tiện cho việc chiết xuất, có khả
năng chiết xuất chọn lọc và quá trình chiết triệt để.
Phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC) là một phương pháp hiện đang được
sử dụng rất rộng rãi trong các ngành khoa học hoá học, sinh học, hoá dược với
nhiều mục đích khác nhau do các đặc tính ưu việt của nó: độ nhạy cao, lượng mẫu
35
phân tích nhỏ (thường từ 1 đến 100x10-6 g), tốc độ phân tích nhanh, kỹ thuật phân
tích dễ thực hiện. Phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC) có thể được dùng để phân
tích định tính hay định lượng hoặc kiểm tra độ tinh khiết của các hợp chất cũng
như hỗ trợ cho các phương pháp sắc ký cột để xác định và kiểm soát điều kiện
phân tách. Đối với sắc kí bản mỏng, việc lựa chọn dung môi hay hệ dung môi chạy
sắc kí cho Rf tốt là quan trọng nhất. Cụ thể với yêu cầu khảo sát hỗn hợp thì chọn
dung môi sao cho các vệt tròn, sắc nét, rải đều trên toàn bản và có Rf càng xa nhau
càng tốt.
a
Rf
b
Sắc ký cột thường (CC) được thực hiện dưới trọng lực của dung môi trên
silica gel theo cơ chế sắc ký hấp phụ và được sử dụng để phân tách các phần chiết,
phân lập và tinh chế các hợp chất.
Sắc ký cột nhanh (FC) được thực hiện dưới áp lực không khí nén để dung
môi rửa giải đi qua cột nhanh hơn.
Sắc ký cột tinh chế (Mini-C) được thực hiện để tinh chế lượng nhỏ các mẫu
chất.
36
Hình 2.2 Sắc ký cột
Sắc kí cột thường được tiến hành với chất hấp phụ là silicagel pha thường
và pha đảo. Silicagel pha thường có kích thước là 0,040-0,063 mm (240-430
mesh). Silicagel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50 𝜇m, Fujisilisa Chemical Ltd.)
Phương pháp này được sử dụng để tách và làm sạch chất rắn. Việc làm sạch
chất rắn bằng kết tinh là dựa trên sự khác nhau về độ tan của hợp chất mục tiêu
và của tạp chất trong dung môi hoặc một hệ dung môi đã chọn.
2.2.3. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc (các phương pháp phổ)
2.2.3.1. Phổ hồng ngoại (Infrared spectroscopy, IR).
Phổ hồng ngoại được xây dựng dựa vào sự khác nhau về dao động của các
liên kết trong phân tử hợp chất dưới sự kích thích của tia hồng ngoại. Mỗi kiểu
liên kết được đặc trưng bởi một vùng bước sóng khác nhau. Do đó, dựa vào phổ
hồng ngoại, có thể xác định được các nhóm chức đặc trưng trong hợp chất, ví dụ
như dao động hoá trị của nhóm OH tự do trong các nhóm hydroxyl là 3300- 3450
cm-1, của nhóm cacbonyl C = O trong khoảng 1700-1750 cm-1…
37
2.2.3.2. Phổ khối lượng (Mass spectroscopy, MS).
Nguyên tắc của phương pháp phổ này là dựa vào sự phân mảnh ion của phân
tử chất dưới sự bắn phá của chùm ion bên ngoài. Phổ MS còn cho các pic ion
mảnh khác mà dựa vào đó người ta có thể xác định được cơ chế phân mảnh và
dựng lại được cấu trúc hoá học các hợp chất. Hiện nay có rất nhiều loại phổ khối
lượng, như những phương pháp chủ yếu sau:
- Ngoài ra, hiện nay người ta còn sử dụng kết hợp các phương pháp sắc ký
kết hợp với khối phổ khác như: GC-MS (sắc ký khí-khối phổ), LC-MS (sắc ký
lỏng-khối phổ). Các phương pháp kết hợp này còn đặc biệt hữu hiệu khi phân tích
thành phần của hỗn hợp chất (nhất là phân tích thuốc trong ngành dược).
2.2.3.3. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy,
NMR).
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân là một phương pháp phổ hiện đại và hữu hiệu
nhất hiện nay. Với việc sử dụng kết hợp các kỹ thuật phổ NMR một chiều và hai
chiều, các nhà nghiên cứu có thể xác định chính xác cấu trúc của hợp chất, kể cả
cấu trúc lập thể của phân tử.
38
Nguyên lý chung của các phương pháp phổ NMR (phổ proton và cacbon) là
sự cộng hưởng khác nhau của các hạt nhân từ (1H và 13C) dưới tác dụng của từ
trường ngoài. Sự cộng hưởng khác nhau này được biểu diễn bằng độ chuyển dịch
hoá học (chemical shift). Ngoài ra, đặc trưng của phân tử còn được xác định dựa
vào tương tác spin giữa các hạt nhân từ với nhau (spin coupling).
2.2.3.3.1. Phổ 1H-NMR
Phổ proton có thể xem là phổcó ñộ nhạy cao nhất trong kỹ thuật 1D-NMR
vì hàm lượng H-1 trong tự nhiên chiếm đến 99.98% ( trong khi ñó hàm lượng C-
13 trong tự nhiên chỉ chiếm 1.108% ). Vì thế đây là một phổ rất quan trọng và có
thể cung cấp nhiều thông tin quý giá về cấu trúc của hợp chất.Phổ 1H-NMR là
một kỹ thuật sử dụng để xác định cấu trúc hóa học của hợp chất hữu cơ.
Phổ proton cho ta biết được số loại proton có trong phân tử (không phải là
số proton, mà chỉ là số loại proton ). Mỗi loại proton ñó sẽ có tính chất khác nhau
(như proton liên kết với vòng benzen sẽ khác với proton liên kết với Csp 3) vì thế
sẽcó độ dịch chuyển khác nhau trên phổ proton.
Người ta sử dụng TMS (tetramethylsilan) làm chất chuẩn trong phổ proton
và độ dịch chuyển của proton trong TMS được chọn là 0 pmm. Một điểm đặc biệt
của phổ proton là ngoài cho biết loại proton trong phân tử, phổ còn cho biết mối
quan hệ giữa các proton ở gần nhau thông qua sự ghép spin và hằng số ghép. Hai
proton liên kết với hai carbon kề nhau sẽ tương tác với nhau thông thường qua 3
liên kết H-C-C-H và dạng mũi ghép spin sẽ theo nguyên tắc (n + 1) ( ví dụ CH 3-
CH2- thì proton CH2- sẽ có dạng mũi 3 và proton CH3- sẽ có dạng mũi 4 do cạnh
đó là ba proton )và sẽ có cùng hằng số ghép ( coupling constant).
Trong phổ 1H-NMR, độ chuyển dịch hoá học của các proton được xác định
trong thang ppm từ 0-14ppm, tuỳ thuộc vào mức độ lai hoá của nguyên tử cũng
như đặc trưng riêng của từng phần. Dựa vào những đặc trưng của độ chuyển dịch
hoá học và tương tác spin mà ta có thể xác định được cấu trúc hoá học của hợp
chất.
39
2.2.3.3.2. Phổ 13C-NMR
Carbon -12 là đồng vị phổ biến của Carbon, là hạt nhân không hoạt động
NMR vì nó có spin =0. Tuy nhiên ñồng vị của nó Carbon-13 (13C) có số khối lẻ
và có spin hạt nhân với I=1/2
Việc nghiên cứu hạt nhân carbon 13 thông qua phổ NMR là 1 kỹ thuật quan
trọng ñể xác định cấu trúc cảu hợp chất hữu cơ. Khi sử dụng với phổ proton NMR
và phổ IR ta có thể xác định cấu trúc hoàn thiên của một hợp chất chưa biết cấu
trúc. Phổ Carbon 13 NMR có thể sử dụng xác định carbon không tương đương và
nhận biết các nguyên tử carbon có thể có mặt trong hợp chất. Do đó phổ carbon
13- NMR cung cấp thông tin trực tiếp về bộ khung Carbon của phân tử.
Phổ này cho tín hiệu vạch phổ cacbon. Mỗi nguyên tử cacbon sẽ cộng hưởng
ở một trường khác nhau và cho tín hiệu phổ khác nhau. Thang đo của phổ 13C-
NMR là ppm, với dải thang đo rộng 0 - 230ppm.
Biểu đồ tương quan chia thành 4 phần:
+ Carbon không no xuất hiện ở trường cao nhất, gần với TMS nhất (δ = 8-
60 ppm)
+ Carbon Carbonyl, xuất hiện ở các trường thấp nhất δ = 155-220 ppm
Ngoài việc sử dụng các loại phổ, người còn sử dụng kết hợp với các chuyển
hoá hoá học cũng như các phương pháp phân tích, so sánh kết hợp khác. Đặc biệt
đối với các phân tử nhiều mạch nhánh dài, tín hiệu phổ NMR bị chồng lấp nhiều
40
khó xác định chính xác được chiều dài các mạch. Đối với phân tử có các đơn vị
đường thì việc xác định chính xác loại đường cũng như cấu hình đường thông
thường phải sử dụng phương pháp thuỷ phân rồi xác định bằng phương pháp so
sánh LC-M hoặc GC-MS với các đường chuẩn dự kiến.
41
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM
- Các thuốc thử: dung dịch H2SO4 10%, hoặc phát hiện bằng đèn tử ngoại,
phát các bức xạ có bước sóng ngắn 254 nm và bước sóng dài 365 nm.
- Sắc ký cột thường (CC), sắ c ký cô ̣t nhanh (FC) và sắ c ký cô ̣t tinh chế
(Mini-C) được thực hiện trên silica gel Merck (Darm-Stadt, CHLB Đức) cỡ ha ̣t
63-200 μm, 63-100 μm và 40-63 μm.
- Phổ khối lượng va chạm điện tử (EI-MS) được ghi trên thiết bị LC-MS-
Orbitrap-XL (Thermo Scientific).
- Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton (1H-NMR), phổ cộng hưởng từ hạt
nhân cacbon 13 (13C-NMR) với chương trình DEPT và phổ cộng hưởng từ hạt
nhân hai chiều (2D NMR) HMBC được ghi trên thiết bị Bruker AV 500
spectrometer. Độ chuyển dịch hóa học (δ) được biểu diễn theo ppm.
Tetrametylsilan (TMS) là chất chuẩn nội zero.
Các dụng cụ và thiết bị dùng cho tách chiết và tinh chế chất sạch được sử
dụng bao gồm:
42
- Bình chiết 5 lít
- Micropipet
3.2.1. Xử lý mẫu
Mẫu Kim Ngân gồm phần thân và lá tươi được phơi khô, sau đó sấy bằng tủ
sấy ở nhiệt độ 500C và được nghiền thành bột thu được 2 kg bột khô.
43
Sơ đồ 3.1. Quy trình chiết các lớp chất trong cây Kim ngân
t < 60oC.
44
3.3. Phân lập và tinh chế các chất từ cao chiết etyl axetat của cây Kim ngân
3.3.1. Khảo sát định tính cao chiết EtOAc bằng sắc ký bản mỏng
Pha khoảng 5mg cao chiết EtOAc trong 5ml MeOH. Sau đó, dùng capilla
để hút chất, chấm lên bản mỏng (DC-Alufolien 60 F254 dày 0,2 mm) sao cho vết
chất cách mép dưới của bản 1,0 cm và cách đều 2 mép bên là 0,5 cm . Sau khi sử
dụng qua nhiều hệ dung môi và các tỉ lệ khác nhau (điclometan/n-hexan (9:1; 7:1;
5:1, v/v); etyl axetat/n-hexan; điclometan/etyl axetat; chlorofom/n-hexan;...),
nhận thấy hệ dung môi đichlomethane : methanol cho sự tách tốt nhất đối với cặn
ethyl axetate.
Phát hiện các vết chất dưới ánh sáng thường , sau đó soi bản mỏng dưới
đèn tử ngoại UV (λ = 254 nm), cuối cùng phun bản mỏng với dung dịch
vanilin/H2SO4, FeCl3 và hơ bản mỏng trên bếp điện để nhận biết vệt chất.
45
Phân đoạn F3.3 được tinh chế trên cột pha đảo RP-18 với hệ dung môi methanol-
nước 1,5:1 thu được hợp chất 2 (6 mg).
F1 F2 F3(5.0g) F4 F5
-CC,silicagel
- CC pha đảo RP-18
- hệ dung môi
- Hệ dung môi methanol-
dichloromethane:methanol:
nước 1.5:1
nước 5:1:0.1
3.4. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của chất đã phân lập được
3.4.1. Chất 1
Chất 1 thu được khi tinh chế phân đoạn F3.2 có dạng keo không màu, [α]D -
84.0 (MeOH; c 0.16). C26H32O11, M = 520.5.
46
1
H NMR (500 MHz, CD3OD): 4.78 (1H, d, J = 4.0 Hz, H-7), 3.69 (1H, d,
J = 5.0 Hz, Ha-9), 4.26 (1H, m, Hb-9), 4.73 (1H, d, J = 4.0 Hz, H-7), 3.72 (1H,
d, J = 5.0 Hz, Ha-9), 4.26 (1H, m, Hb-9), 7.05 (1H, d, J = 2.0 Hz, H-2), 7.16 (1H,
d, J = 8.0 Hz, H-5), 6.94 (1H, dd, J = 2.0, 8.5 Hz, H-6), 6.97 (1H, d, J = 1.5 Hz,
H-2), 6.79 (1H, d, J = 8.0 Hz, H-5), 6.83 (1H, dd, J = 1.5, 8.0 Hz, H-6), 4.89
(1H, d, J = 7.0 Hz, H-1), 3.87 (3H, s, OCH3), 3.89 (3H, s, OCH3).
13
C NMR (125 MHz, CD3OD): 55.3 (C-8), 87.0 (C-7), 72.2 (C-9'), 55.5 (C-
8'), 87.5 (C-7'), 72.6 (C-9), 133.8 (C-1), 111.0 (C-2), 146.2 (C-3), 148.2 (C-4),
116.2 (C-5), 119.8 (C-6), 137.5 (C-1'), 111.7 (C-2'), 147.5 (C-3'), 151.0 (C-4'),
118.1 (C-5'), 120.0 (C-6'), 102.8 (C-1''), 74.9 (C-2''), 77.8 (C-3''), 71.3 (C-4''),
3.4.2. Chất 2
Chất 2 thu được khi tinh chế phân đoạn F3.3 có dạng keo không màu,
C28H36O13 , M= 580,58
1
H-NMR (500 MHz, CD3OD) δ 6.73 (2H, s, H-2', 6'), 6.67 (2H, s, H-2, 6),
4.87 (1H, d, J = 7.5 Hz, H-1''), 4.77 (1H, d, J = 4.0 Hz, H-7), 4.72 (1H, d, J = 4.5
Hz, H-7'), 4.28 (2H, dd, J = 15.0, 9.0 Hz, H-4b, H-9b), 3.91 (2H, dd, J = 9.0, 3.0
Hz, H-4a, H-9a), 3.86 (6H, br s, 3',5'-OCH3), 3.85 (6H, br s, 3,5-OCH3), 3.79 (1H,
dd, J = 12.0, 2.5 Hz, H-'''a), 3.67 (1H, dd, J = 12.0, 5.5 Hz, H-6''b), 3.49 (1H, m,
H-2''), 3.43 (2H, m, H-3'', H-4''), 3.21 (1H, m, H-5'').
13
C-NMR (125 MHz, CD3OD): δ 133.2 (C-1), 104.7 (C-2, 6), 154.6 (C-3,
5), 136.3 (C-4), 87.3 (C-7), 55.7 (C-8), 73.0 (C-9), 139.7 (C-1'), 105.0 (C-2', 6'),
149.5 (C-3', 5'), 135.8 (C-4'), 87.8 (C-7'), 55.9 (C-8'), 73.1 (C-9'), 105.5 (C-1''),
75.9 (C-2''), 78.0 (C-3''), 71.5 (C-4''), 78.5 (C-5''), 62.7 (C-6''), 57.2 (3',5'-OCH3),
57.0 (3,5-OCH3).
47
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Xác định cấu trúc các hợp chất phân lập được
Hợp chất 1 thu được từ phân đoạn F3.2 từ cặn chiết EtOAc của cây Kim
ngân là chất keo không màu.
Việc xác định cấu trúc chất 1 dựa vào phổ 13C- NMR, DEPT và 1H- NMR
48
Hình 4.2. Phổ DEPT của 1
Phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu của 26 nguyên tử cacbon trong đó 12 tín hiệu
cacbon tại 111.6-151.0 (6 nhóm CH, 6 C bậc bốn) khẳng định sự có mặt của 2
vòng thơm thế 1,3,4. Ngoài các tín hiệu điển hình của phân tử đường glucose tại
độ dịch chuyển 102.8, 74.9, 77.8, 71.3, 78.2, 62.5 còn xuất hiện tín hiệu của hai
nhóm metin và hai nhóm metylen đính với oxy tại 87.0, 87.5 (CH) và 72.2, 72.6
(CH2), hai nhóm methoxy tại 56.4 và 56.8.
49
Hình 4.3. Phổ 1H-NMR của 1
Hợp chất 1 thu được dưới dạng chất keo không màu. Phổ 1H-NMR xác định
sự có mặt của 2 vòng thơm thế kiểu 1,3,4 bởi các tín hiệu proton hệ spin ABX tại
6.97 và 7.05 (d, J=2.0 Hz), 6.79 và 7.16 (d, J=8.0 Hz), 6.83 và 6.94 (dd,
J=2.0, 8.0 Hz) và tín hiệu của phân tử đường được xác định bởi proton anome tại
4.90 (1H, d, J=7.0 Hz). Ngoài ra còn xuất hiện tín hiệu của hai nhóm methoxy
tại 3.87 và 3.89, hai nhóm oxymethine tại 4.72 (1H, d, J=4.0 Hz) và 4.78
(1H, d, J=4.0 Hz).
Từ các dữ kiện đã phân tích ở trên có thể nhận định 1 là một hợp chất có dạng
khung lignan monoglucoside. So sánh cách dữ kiện phổ thu được với các số liệu
phổ trước đó cho phép xác định 1 là pinoresinol-4-O-β-D-glucoside [1].
50
Bảng 4.1. Các dữ liệu phổ 1H- NMR và 13C- NMR của hợp chất 1
Vị trí Chất 1
H (m, JHz) C
1 133.8 (C-1)
3 146.2 (C-3)
4 148.2 (C-4)
8 55.3 (C-8),
51
5' 6.79 (1H, d, J = 8.0 Hz, H-5) 118.1 (C-5')
Hợp chất 2 thu được từ phân đoạn F3.3 từ cặn chiết EtoAc của cây Kim
ngân là chất keo không màu.
52
Hợp chất 2 có những tín hiệu phổ 1D-NMR tương đồng với 1 chứng tỏ đây
cũng là một lignan monoglucoside. Điểm khác biệt là tín hiệu proton hệ spin ABX
được thay thế bởi 2 tín hiệu singlet proton vòng thơm tại 6.73 và 6.67 và có thêm
tín hiệu nhóm methoxy. Các số liệu phổ thu được của 2 hoàn toàn trùng khớp với
số liệu đã công bố của hợp chất syringaresinol-4-O--D-glucopyranoside [2].
53
Hình 4.5. Phổ 13C-NMR của 2
54
Bảng 4.2. Các dữ liệu phổ 1H- NMR và 13C- NMR của hợp chất 2
Vị trí Chất 2
H (m, JHz) C
1 133.2 (C-1)
3 154.6 (C-3)
5 154.6 (C- 5)
8 55.7 (C-8)
55
8' 55.9 (C-8')
56
KẾT LUẬN
1. Đã thu thập mẫu và xác định được tên khoa học của cây Kim ngân là
Lonicera japonica Thunb.
2. Đã xây dựng được một quy trình điều chế các cặn chiết từ bột cây kim
ngân là ethyl acetate, chứa lớp họat chất mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu.
3. Bằng các phương pháp sắc ký và phổ kết hợp, đã phân lập được 2 hợp
chất từ cặn ethyl axetate của cây Kim ngân (Lonicera japonica Thunb). Các gợp
chất đó là :
- Chất 1 là pinoresinol-4-O-β-D-glucoside
- Chất 2 là syringaresinol-4-O--D-glucopyranoside
57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ardó, L., Yin, G.J., Xu, P., Váradi, L., Szigeti, G., Jeney, Z., Jeney, G.,
2008. Chinese herbs (Astragalus membranaceus and Lonicera japonica)
and boron enhance the nonspecific immune response of Nile tilapia
(Oreochromis niloticus) and resistance against Aeromonas hydrophila.
Aquaculture 275, 26–33.
2. Bassoli, B.K., Cassolla, P., Borba-Murad, G.R., Constantin, J., Salgueiro-
Pagadigorria, C.L., Bazotte, R.B., da Silva, R.S.d.S.F., de Souza, H.M.,
2008. Chlorogenic acid reduces the plasma glucose peak in the oral glucose
tolerance test: effects on hepatic glucose release and glycaemia. Cell
Biochemistry and Function 26, 320–328.
3. Cai, Y.Z., Luo, Q., Sun, M., Corke, H., 2004. Antioxidant activity and
phenolic compounds of 112 traditional Chinese medicinal plants associated
with anticancer. Life Sciences 74, 2157–2184.
4. Cao, C.P., Huang, Z.N., Qian, P.L., Pan, X.X., 1986a. Studies on the anti-
pregnant effect of the Lonicera japonica thunb extract. Pharmaceutical
Industry 17, 115–117 (in Chinese).
5. Cao, C.P., Huang, Z.N., Qian, P.L., Yan, D.P., Shen, Y.P., Pan, X.X.,
1986b. Pharmacological study of pregnancy termination effect of Lonicera
japonica thunb. Pharmaceutical Industry 17, 319–321 (in Chinese).
6. Chang, C.W., Lin, M.T., Lee, S.S., Karin, C.S., Liu, C., Hsu, F.L., Lin, J.Y.,
1995. Differential inhibition of reverse transcriptase and cellular DNA
polymerase-a activities by lignans isolated from Chinese herbs, Phyllanthus
myrtifolius Moon, and tannins from Lonicera japonica Thunb and
Castanopsis hystrix. Antiviral Research 27,367–374.
7. Chang, J., Sheng, P.P., Zhang, X.M., 2003. The toxicological assessment
of Lonicera japonica on food safety. The Chinese Academic Medical
Magazine of Organisms 2, 63–64 (in Chinese).
58
8. Choi, C.W., Jung, H.A., Kang, S.S., Choi, J.S., 2007. Antioxidant
constitutes and a new triterpenoid glycoside from Flos lonicerae. Archives
of Pharmacal Research 30, 1–7.
9. Chen, C.X., Wang, W.W., Ni, W., Chen, N.Y., Zhou, Jun, 2000.
Triterpenoid glycosides from the Lonicera japonica. Acta Botanica
Yunnanic 22, 201–208 (in Chinese).
10.Chen, C.Y., Qi, L.W., Li, H.J., Li, P., Yi, L., Ma, H.L., Tang, D., 2007.
Simultaneous determination of iridoids, phenolic acids, flavonoids, and
saponins in Flos lonicerae and Flos lonicerae japonicae by HPLC-DAD-
ELSD coupled with principal component analysis. Journal of Separation
Science 30, 318–3192.
11.Chen, J.J., Fang, J.G., Wan, J., Feng, L., Zhang, Y.W., Zhao, J.H., Zhao,
J.J., Wang, N., Chen, S.H., 2009. An in vitro study of the anti-
cytomegalovirus effect of chlorogenic acid. Herald of Medicine 28, 1138–
1140.
12.Chen, X.C., 2008. Utilization of Lonicera japonca. Forest By-Product and
Speciality in China 92, 37–39 (in Chinese). Committee for the
pharmacopoeia of PR China, 1995. Pharmacopoeia of PR China,
Part I. Chemical Industrial Press, Guangdong Science and Technology
Publishing House (in Chinese).
13.Committee for the Pharmacopoeia of PR China, 2010. Pharmacopoeia of
PR China, Part I. China Medical Science and Technology Press, PR China
(in Chinese).
14.Du, H.F., Zhang, Y., Wen, D.Q., Yang, D.J., 2009. Identify the contents of
fresh flower of L. japonica using GC–MS with the different extraction
methods. TCM Research of Chongqing 60, 13–15 (in Chinese).
15. Ehrman, T.M., Barlow, D.J., Hylands, P.J., 2010. In silico search for multi-
target anti-inflammatories in Chinese herbs and formulas. Bioorganic &
Medicinal Chemistry 18, 2204–2218.
59
16.Fan, H.W., Li, Y.B., Sun, M., Zhu, Q., 2007. Antithrombus effect of
honeysuckle and its organic acid compounds in vitro. Pharmacology and
Clinics of Chinese Materia Medica 23, 34–36 (in Chinese).
17.Feng, Y., 2010. Study on the quality of Lonicerae japonica flos from
different habitats. Chinese Medicine Journal Research Practice 24, 34–35
(in Chinese).
18.Gao, Y.M., Mu, H.J., 1995. Studies on the chemical constitutes of Japanese
Honeysuckle (Lonicera Japonica). Chinese Traditional and Herbal Drugs
26, 568–656 (in Chinese).
19.Gu, G.G., et al., 2007. Sheng Nong Ben Cao Jing. Harrbing Publishing
House, Harrbing (in Chinese).
20.He, S.Q., Hu, Q.F., Yang, G.Y., 2010. Research of honeysuckle. Yunnan
Chemical Technology 37, 72–75 (in Chinese).
21.http://www.satcm.gov.cn. State Administration of Traditional Chinese
Medicine of the People’s Republic of China (in Chinese).
22.http://www.zysj.com.cn (in Chinese).
23.Hu, C.M., Jiang, H., Liu, H.F., Li, R., Li, J., 2008. Effects of LJTF on
immunological liver injury in mice. Anhui Medical and Pharmaceutical
Journal 12, 295–296 (in Chinese).
24.Hu, K.J., Sun, K.X., Wang, J.L., 2001. Inhibited effect of chlorogenic acid
on virus in vitro. Journal of Harrbing Medical University 35, 430–432 (in
Chinese).
25.Huang, L.Y., Lv, Z.Z., Li, J.B., 1996. Studies on the chemical constitutes
of Japanese Honeysuckle. Chinese Traditional and Herbal Drugs 27, 645–
647 (in Chinese).
26.Huo, X.F., Tang, Y.P., Zhang, Q.L., Luo, S.H., 2003. Effect of chlorogenic
acid on the macrophages induced by lipoplysaccharide. Acta Academiae
Medicine Zunyi 26, 507–508 (in Chinese).
60
27.Ikeda, N., Ishihara, M., Tsuneya, T., Kawakita, M., Yoshihara, M., 1994.
Volatile components of honeysuckle (Lonicera japonica Thunb.) flowers.
Flavour and Fragrance Journal 9, 325–331.
28.Iwanhashi, H., Negoroy, I., 1986. Inhibation by chlorogenic acid of
haematincatalysed retinoic acid 5,6-epoxidation. Journal of Biochemistry
239, 641–646.
29.Jeong, J.J., Ha, Y.M., Jin, Y.C., Lee, E.J., Kim, J.S., Kim, H.J., Seo, H.G.,
Lee, J.H., Kang, S.S., Kim, Y.S., Chang, K.C., 2009. Rutin from Lonicera
japonica inhibits myocardial ischemia/reperfusion-induced apoptosis in
vivo and protects H9c2 cells against hydrogen peroxide-mediated injury via
ERK1/2 and PI3K/Akt signals in vitro. Food and Chemical Toxicology 47,
1569–1576.
30.Ji, L., Pan, J.G., Xu, Z.L., 1990. The GC–MS analysis of volatile oil from
Lonicera japonica thunb. Chinese Journal of Chinese Materia Medica l5,
680 (in Chinese).
31.Jiao, S.G., 2009. Research and comprehensive utilization of honeysuckle.
Qilu Pharmaceutical Affairs 28, 487–489 (in Chinese).
Kakuda, R., Imai, M., Yaoita, Y., Machida, K., Kikuchi, M., 2000.
Secoiridoid glycosides from the flower buds of Lonicera japonica.
Phytochemistry 55, 879–881.
32.Kang, O.H., Choi, Y.A., Park, H.J., Lee, J.Y., Kim, D.K., Choi, S.C., Kim,
T.H., Nah, Y.H., Yun, K.J., Choi, S.J., Kim, Y.H., Bae, K.H., Lee, Y.M.,
2004. Inhibition of trypsin-induced mast cell activation by water fraction
of Lonicera japonica. Archives of Pharmacal Research 27, 1141–1146.
33.Kang, X., Li, D.S., Deng, C., Yuan, J.L., 2010. Study on antimicrobial
activity of extracts from Lonicera japonica Thunb. Journal of Anhui
Agricultural Science 38, 14935–14936 (in Chinese).
61
34.Kawai, H., Kuroyanngi, M., Umehara, K., Ueno, A., Satake, M., 1988.
Studies on the saponins of Lonicera japonica Thunb. Chemical &
Pharmaceutical Bulletin 36, 4769–4775.
35.Kim, D.I., Park, J.D., Kim, S.G., Kuk, H., Jang, M.S., Kim, S.S., 2005.
Screening of some crude plant extracts for their acaricidal and insecticidal
efficacies. Journal of Asia-Pacific Entomology 8, 93–100.
62