You are on page 1of 17

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO


----------

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Đề tài:
BÌNH LUẬN XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY VÀ
DỰ ĐOÁN QUAN HỆ QUỐC TẾ
TRONG MƯỜI NĂM TỚI

Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Thị Hạnh


Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Thu Hiền
Lớp : CT44B
MSSV : CT44B-046-1721

Hà Nội, tháng 10 năm 2018


1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................................................... 2
DẪN NHẬP ......................................................................................................................................... 3
PHẦN A. BÌNH LUẬN VỀ XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY ................................. 4
I. Cạnh tranh quyền lực giữa hai siêu cường Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng ................................. 4
II. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- tiêu điểm quan tâm của
các cường quốc hiện nay ...................................................................................................................... 7
1. Châu Á - Thái Bình Dương - tiêu điểm quan tâm của các cường quốc ........................................... 7
1.1. Mỹ........................................................................................................................................ 8
1.2. Nga....................................................................................................................................... 8
2. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương ..................................... 9
2.1. Trung Quốc .......................................................................................................................... 9
2.2. Ấn Độ ................................................................................................................................ 10
III. Mỹ - chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch “lên ngôi” ................................................................................ 10
1. Bối cảnh ......................................................................................................................................... 10
2. Diễn biến ........................................................................................................................................ 11
3. Đánh giá chung .............................................................................................................................. 12
PHẦN B. DỰ BÁO QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG 10 NĂM TỚI ................................................. 13
I. Xu thế hòa bình-hợp tác và phát triển. ........................................................................................... 13
II. An ninh ở các “khu vực nóng” và mối quan hệ giữa các nước lớn. .............................................. 13
III. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam ............................................................................................. 15
1. Cơ hội............................................................................................................................................. 15
2. Thách thức ..................................................................................................................................... 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 16
2

LỜI NÓI ĐẦU


Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ quốc tế diễn ra khá phức tạp, quan hệ giữa các nước
trên trường quốc tế đã có những thay đổi rõ ràng: từ xu thế hai cực sang xu thế đa cực, hình thành
nên một “trật tự thế giới mới”. Trong “trật tự thế giới mới” đó, những tiến bộ vượt bậc của khoa học
kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới
xuất hiện ngày càng nhanh và nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem
xét lại, nhiều quan niệm về địa-kinh tế, địa chính trị truyền thống,... trở nên lỗi thời và được thay thế
bằng những quan niệm mới. Tất cả những điều đó đòi hỏi các quốc gia phải nhận diện đúng xu thế và
các nhân tố mới đang quyết định tiến trình phát triển của thế giới đương đại, thay đổi nhận thức về
các giá trị và lợi ích cho phù hợp với trật tự thế giới mới. Nền kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của
các quốc gia ngày càng bị tác động và chi phối mạnh mẽ bởi quá trình toàn cầu hóa. Sự phát triển
mạnh mẽ của toàn cầu hóa làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một tăng lên, và
thế giới dường như thu hẹp lại trước những vấn đề toàn cầu như: biến đổi khí hậu, bùng nổ dân số,
dịch bệnh hay khủng hoảng. Cơ hội và thách thức của quá trình này khiến các quốc gia phải có
những sự điều chỉnh mang tính chiến lược nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia trên cơ sở vẫn theo kịp xu
hướng của thế giới hiện nay. Sự cân bằng giữa bảo hộ mậu dịch và hội nhập được cho là một trong
những sự điều chỉnh cần thiết của các quốc gia đặc biệt là Mỹ. Ở một khía cạnh khác, trong suốt
nhiều năm qua, Châu Á- Thái Bình Dương đang trở thành một mối quan tâm chung của thế giới, nơi
diễn ra sự cạnh tranh và chạy đua khốc liệt của các nước lớn cùng với sự trỗi dậy của các quốc gia
trong một thế giới đa cực hiện nay. Trong bối cảnh trên, Châu Á- Thái Bình Dương đang đối mặt với
những cơ hội và thách thức to lớn và đặc biệt ảnh hưởng đến xu hướng quan hệ quốc tế hiện tại và
trong những năm tới. Thêm vào đó, quan hệ Mỹ- Trung- quan hệ của những “tay chơi” chủ chốt của
trật tự thế giới mới đang có những bước thay đổi đáng kể và nó sẽ tác động không nhỏ đối với tình
hình chính trị quốc tế của thế kỷ XXI. Một mặt, Mỹ và Trung Quốc đã và đang có những bước phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trên nhiều lĩnh vực, đáng nhắc đến là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên
ở một khía cạnh khác, khi bàn về lợi ích chiến lược giữa hai nước và việc thực hiện ý đồ tranh giành
ảnh hưởng, tập hợp lực lượng trong khu vực và trên thế giới để kiềm chế lẫn nhau luôn là nguy cơ
châm ngòi nổ cho sự căng thẳng trong quan hệ Mỹ-Trung, điển hình là sự tương tác phức tạp của hai
nước lớn trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Liên quan đến sự thay đổi về tương quan lực
lượng và thay đổi trong đánh giá và kỳ vọng của mỗi bên thì khi Trung Quốc chủ động đề xuất ý
tưởng về mối “quan hệ nước lớn kiểu mới” cũng chính là thời điểm Mỹ bị đẩy vào tình thế phải phản
ứng bởi Mỹ trên thực tế coi vị thế của Trung Quốc ngày càng quan trọng trong tư duy duy chính sách
đối ngoại của mình, tương tự như việc Mỹ định vị Trung Quốc là “đối tác chiến lược” hoặc “ đối thủ
chiến lược” của mình, hay là “một cổ đông có trách nhiệm” trong hệ thống trật tự quốc tế mà Mỹ
đứng đầu1. Có thể nhận thấy mọi sự biến đổi dù lớn hay nhỏ của cục diện thế giới đều tác động trực
tiếp đến các mối quan hệ quốc tế, từ đó làm thay đổi tư duy phát triển và dẫn đến việc điều chỉnh
chính sách của các quốc gia. Vì vậy cục diện thế giới, cục diện khu vực và sự vận động của nó hiện
nay cũng như trong thời gian tới cần được nhận định và đánh giá kịp thời và nhanh chóng để gợi mở
những suy nghĩ trong việc nghiên cứu và hoạch định chiến lược đối ngoại cũng như chiến lược phát
triển của các quốc gia.

1
PGS. TS. Nguyễn Vũ Tùng- TS. Đặng Cẩm Tú. Quan hệ Mỹ-Trung trong nửa đầu thế kỷ XXI: Mối quan hệ nước lớn
kiểu mới?, tr.1.
3

DẪN NHẬP
Bài viết của tác giả sẽ tập trung trước hết là bình luận về tình hình quan hệ quốc tế hiện nay và đưa ra
những dự đoán về xu hướng quan hệ quốc tế trong mười năm tới.
Về xu hướng quan hệ quốc tế hiện nay, bài viết xin được đề cập đến ba vấn đề:
1. Cạnh tranh quyền lực giữa hai siêu cường Mỹ- Trung ngày càng căng thẳng
2. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- tiêu điểm quan
tâm của các cường quốc hiện nay
3. Mỹ- Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch “lên ngôi”
Trên cơ sở những diễn biến của tình hình hiện nay, bài viết sẽ đưa ra dự báo trong mười năm tới
với các nội dung:
1. Xu thế hòa bình-hợp tác và phát triển;
2. An ninh ở các khu vực “nóng” và mối quan hệ giữa các nước lớn;
3. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
Bài viết dưới đây chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót và khuyết điểm, chính
vì vậy tác giả rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến trao đổi và góp ý của quý
bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
4

PHẦN A. BÌNH LUẬN VỀ XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY


I. Cạnh tranh quyền lực giữa hai siêu cường Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng
Quan hệ Mỹ- Trung trong thời gian gần đây diễn biến rất phức tạp, quan hệ giữa hai nước vẫn
luôn đan cài các mặt hợp tác-kiềm chế và phối hợp-cạnh tranh. Tuy nhiên là dù cho ở bất kỳ hoàn
cảnh nào thì quan hệ Mỹ-Trung vẫn tránh dẫn tới sự đối đầu và đổ vỡ quan hệ, tổn hại trực tiếp đến
chính bản thân của hai nước. Mối liên kết và phụ thuộc sâu rộng giữa Mỹ và Trung Quốc về kinh tế,
thương mại cũng ngăn cản việc hai nước đi đến quan hệ đối đầu. Sự phụ thuộc đó thậm chí sâu sắc
đến mức được ví như có sức mạnh răn đe “chắn chắn hủy diệt lẫn nhau” ngang bằng vũ khí hạt
nhân2. Ngoài ra hiện nay cũng như trong tương lai lâu dài, nhân loại đang phải đối phó với hàng
loạt vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường, khủng bố quốc tế hay phổ
biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, vấn đề an ninh phi truyền thống,... mà Mỹ và Trung Quốc là hai siêu
cường có lợi ích lớn trong các vấn đề này nên việc hai nước thúc đẩy quan hệ hợp tác giữ vị trí vô
cùng quan trọng để giải quyết các thách thức trên. Sự tương tác can thiệp của hai quốc gia có ảnh
hưởng không nhỏ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- địa bàn mà Trung Quốc đang muốn xác lập
vai trò ảnh hưởng của mình, còn Mỹ thì quyết tâm duy trì vị thế lãnh đạo của mình. Những vấn đề
tranh chấp và cạnh tranh quyền lực ở biển Đông và biển Hoa Đông, vấn đề Đài Loan và hạt nhân ở
bán đảo Triều Tiên cũng dẫn đến những nghi kỵ, bất đồng sâu sắc trong chiến lược của hai nước
Trong quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa hai nước Mỹ-Trung, tâm điểm hiện nay trong
lĩnh vực đầu tư là cuộc thương lượng giữa hai nước về Hiệp định Đầu tư song phương(BIT)- gắn với
ý tưởng về mô hình ‘mối quan hệ nước lớn kiểu mới” của Mỹ-Trung nhắm tới việc cải cách nền kinh
tế ở Trung Quốc phối hợp với việc Mỹ ưu tiên mở cửa thị trường dịch vụ cho đầu tư nước ngoài. Bên
cạnh đó là sự cạnh tranh liên quan đến các ý tưởng khác nhau về thương mại tự do bao gồm WTO,
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện(RCEP), khu vực Mậu dịch tự do châu Á- Thái Bình
Dương(FTAAP) và TPP trong bối cảnh màu sắc của chủ nghĩa thương mại bảo hộ đang ngày càng
đậm nét ở Mỹ. Trung Quốc nghi ngờ Mỹ sử dụng TPP như một công cụ chính sách để kìm hãm
Trung Quốc và để đối trọng lại thì Trung Quốc cũng đẩy mạnh các sáng kiến như RCEP và FTAAP.
Trong thời gian gần đây chúng ta dễ nhận thấy một cuộc chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc đang dần được hình thành và có xu hướng nóng dần lên. Cuộc xung đột căng thẳng này
khởi nguồn từ sự không công bằng trong thực tiễn thương mại của Trung Quốc với xu hướng bảo hộ
thương mại mà Donald Trump đang áp lên nước Mỹ. Sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Donald
Trump nhiều lần chỉ trích Trung Quốc đang tìm cách làm suy giảm sự thịnh vượng của nước Mỹ,
làm ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người dân Mỹ và giảm sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp Mỹ bởi mức thâm hụt thương mại liên tục gia tăng và lý do được đưa ra là việc thao túng
đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Theo báo cáo của Cơ quan Thống kê Trung ương Mỹ, thâm hụt
thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc đạt 375 tỷ USD trong năm 2017. Căng thẳng thương mại
Mỹ - Trung dưới thời Tổng thống Donald Trump chính thức được khai màn vào thời điểm ngày
23/3/2018 khi ông Trump ký biên bản ghi nhớ áp đặt thuế nhập khẩu 25% đối với thép và 10% đối
với nhôm của Trung Quốc và sau đó Mỹ còn đưa ra một bản ghi nhớ áp đặt các khoản thuế bổ sung
trị giá 60 tỷ USD đối với Trung Quốc với cáo buộc là Bắc Kinh đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ. Để
đáp trả lại hàng loạt hành động của Mỹ, Trung Quốc đã có động thái là áp thuế nhập khẩu đối với
128 sản phẩm của Mỹ bắt đầu từ ngày 2/4/2018. Đánh giá mức độ cán cân thiệt hại sẽ nghiêng về
phía nào nhiều hơn trong cuộc chiến tranh thương mại này đã trở thành một chủ đề nóng với rất
nhiều tranh cãi. Theo tờ Straits Times trích dẫn lời của Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Christine Lagarde “Không có nước nào chiến thắng trong các cuộc chiến thương mại”. Ông
Nicholas Lardy, Giáo sư Viện Nghiên cứu Peterson, đưa ra quan điểm đánh giá là Mỹ sẽ chịu tác
động nặng nề hơn và cho rằng cái giá mà ông Donald Trump phải trả để duy trì các biện pháp bảo hộ
sẽ lớn hơn rất nhiều so với chi phí bỏ ra để trả đũa Trung Quốc. Với con bài dân tộc chủ nghĩa,

2
Fareed Zakaria: “The Post-American World”(Thế giới hậu Mỹ), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009
5

Trung Quốc có thể gây ra thiệt hại nặng nề cho ngành công nghiệp không khói của Washington với
việc khuyến cáo các chuyến du lịch tới Mỹ của người dân Trung Quốc 3. Chính các động thái “ăn
miếng, trả miếng” giữa hai bên Mỹ- Trung đang làm gia tăng tình trạng leo thang căng thẳng của
cuộc chiến tranh thương mại song phương.
Trong quan hệ chính trị song phương, cả Mỹ và Trung Quốc đều chú trọng tăng cường quan hệ
hợp tác và hữu nghị giữa hai nước. Tính đến nay Mỹ-Trung đã thiết lập được trên 90 cơ chế hợp tác,
trao đổi thông tin và xử lý bất đồng nên về cơ bản hai bên đã tránh được đổ vỡ quan hệ, nổi bật nhất
là cơ chế Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung(S&ED). Theo thống kê, đã có 196 nội dung
được hai nước Mỹ và Trung Quốc đưa ra trao đổi sau bảy vòng họp S&ED từ năm 2009-2015 gồm
bảy nhóm vấn đề chính như là xây dựng lòng tin, các vấn đề toàn cầu, tình hình khu vực, an ninh, an
toàn hàng hải, hợp tác kinh tế, nhân quyền, và hợp tác quân sự song phương. 4 Cựu ngoại trưởng Mỹ
Hillary Clinton đã từng phát biểu "quan hệ Mỹ-Trung không phải là mối quan hệ phân rõ trắng đen,
bạn thù mà hai bên cùng nhau xây dựng hình mẫu, cố gắng tìm được sự cân bằng ổn định giữa hợp
tác và cạnh tranh mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tuy đây là điều chưa có tiền lệ”. 5 Không
gian hợp tác trong các vấn đề toàn cầu từ lĩnh vực an ninh năng lượng,biến đổi khí hậu đến chống lại
khủng bố hay an ninh mạng và không gian mạng giữa Mỹ và Trung Quốc rất rộng lớn. Đài Loan vẫn
tiếp tục là một điểm phức tạp trong quan hệ Mỹ-Trung. Hiện nay với mong muốn khẳng định vị trí
cường quốc và tiến tới là siêu cường thì Trung Quốc buộc phải giải quyết ổn thỏa vấn đề Đài Loan.
Theo chính sách “Một Trung Quốc” của mình thì Bắc Kinh coi Đài Loan là một phần không thể tách
rời, đang chờ thống nhất và kể cả việc phải dùng đến vũ lực để thống nhất khu vực nếu cần thiết. Về
phía Mỹ, để “xoay trục” sang Châu Á thành công, Mỹ cũng không thể bỏ vị trí địa chiến lược quan
trọng của Đài Loan. Quan hệ Trung-Mỹ vốn được củng cố thông qua ba thông cáo báo chí chung(
được nhất trí vào các năm 1972, 1979 và 1982), theo đó thì Mỹ đã “thừa nhận” nhưng không công
khai chấp nhận lập trường của Trung Quốc rằng chỉ có “Một Trung Quốc” và Đài Loan là một phần
của Trung Quốc. Mỹ sẽ vẫn duy trì mối quan hệ “không chính thức”với Đài Loan, cả với “người dân
Đài Loan” và những người trong chính quyền Đài Loan, điển hình là sự thông qua một thực thể
giống như sứ quán- Học viện Mỹ ở Đài Loan nhờ việc đưa ra “Đạo luật quan hệ” với khu vực này từ
năm 1979. Đạo luật đưa ra tuyên bố là quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh được thiết lập dựa trên
mong đợi rằng tương lai của Đài Loan sẽ được định rõ bằng các biện pháp hòa bình. Để thúc đẩy
nguyện vọng đó, Mỹ sẽ bán vũ khí mang tính phòng thủ cho Đài Loan và duy trì khả năng quân sự
để chống lại sự ép buộc của Trung Quốc. 6Một mặt thì Mỹ vẫn xoa dịu trong mối quan hệ với Trung
Quốc tuy nhiên mặt khác Mỹ vẫn cam kết sẽ bảo vệ Đài Loan và tiếp tục bán các gói vũ khí cho đất
nước này như việc Washington bán công nghệ tàu ngầm cho Đài Loan gần đây, dù Mỹ không ủng hộ
Đài Loan độc lập vì quan ngại điều này sẽ gây ra tình trạng căng thẳng hai bờ và dễ dàng đẩy Mỹ
vào thế tiến thoái lưỡng nan. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một khả năng rất thực tế là Mỹ có
thể sẽ lợi dụng lá bài Đài Loan theo cách có nguy cơ gây ra xung đột quân sự với Trung Quốc. Trong
cuộc điện đàm với người đồng nhiệm là Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào hôm 9/2/2017, tổng
thống Mỹ Donald Trump đã đồng ý tôn trọng chính sách “Một Trung Quốc”( Chỉ có một Trung
Quốc trên thế giới và Đài Loan là một phần của Trung Quốc). Đây được coi là nền tảng chính trị
nhằm gia tăng sự ấm nồng và phát triển trong quan hệ Mỹ-Trung. Tuy nhiên chỉ với động thái là nhà
lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn vào ngày 14/8/2018 có bài phát biểu lần đầu tại Los Angeles sau
15 năm được cho là đã khiến cho Trung Quốc rất tức giận và ngay sau đó Mỹ đã phải khẳng định là
vẫn không có bất kỳ thay đổi nào trong việc bày tỏ sự tôn trọng đối với chính sách “Một Trung

3
Báo mới, Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung: Đe dọa triển vọng kinh tế toàn cầu, 4/4/2018
4
GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương: “Nhìn nhận ‘Đối thoại kinh tế và chiến lược Mỹ-Trung’ từ phân tích định lượng”,
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3(102), 2015, tr.126.
5
Linh Tú, Dương Đăng: “Tìm hiểu về khuôn khổ mối quan hệ nước lớn kiểu mới Trung-Mỹ”, Tạp chí Nghiên cứu quốc
tế, số 1(96), tr.131.
6
Văn Cường, Lá bài Đài Loan trong quan hệ Mỹ-Trung, Nghiên cứu Biển Đông, 3/4/2018
6

Quốc”. Một động thái khác được ghi nhận là vào ngày 16/3/2018 vừa qua, tổng thống Donald Trump
vừa ký ban hành “Đạo luật đi lại Đài Loan”, đạo luật này được đánh giá là sẽ làm thay đổi đáng kể
chính sách của Mỹ với lớp vỏ bọc chính trị bên ngoài, thắt chặt hơn mối quan hệ Mỹ-Đài Loan và
đương nhiên cách làm này sẽ khiến cho Trung Quốc vô vùng tức giận.
Sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ và Đại hội Đảng lần thứ XVIII ở Trung Quốc đều diễn ra vào
cuối năm 2012, bộ máy lãnh đạo mới ở Trung Quốc đã chủ trương đề xuất xây dựng một mô hình
“quan hệ nước lớn kiểu mới” Mỹ- Trung với các đặc điểm “không xung đột, không đối kháng, cùng
có lợi”. Tháng 3/2013, Trợ lý An ninh quốc gia Thomas Donilon cho biết chính quyền Mỹ nhất trí
với chính quyền của Tập Cận Bình là Mỹ sẽ hợp tác với Trung Quốc để “xây dựng mô hình quan hệ
kiểu mới giữa cường quốc tại vị và cường quốc đang trỗi dậy”. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp ở
Trung Đông và cuộc khủng hoảng Ucraina, đã dẫn đến những xung đột căng thẳng trong quan hệ
Mỹ- Nga thì đã khuyến khích Mỹ cân nhắc đến ý tưởng mô hình này và hạn chế căng thẳng với
Trung Quốc7. Gần đây Trung Quốc đưa ra một loạt sáng kiến để thực hiện Chiến lược “cường quốc
biển” thông qua các động thái trên biển Đông và biển Hoa Đông và cả việc hiện thực hóa “Giấc
mộng Trung Hoa” như Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á(AIIB) hay Con đường tơ lụa trên
biển(“Một vành đai, Một con đường”) đã khiến Mỹ tỏ ra vô cùng lo ngại trước ý đồ của Trung Quốc
là muốn xây dựng một trật tự thế giới mới với vai trò là trung tâm tương xứng với thế và lực của bản
thân về lâu dài và đây như là lời thách thức nhằm đảo lộn trật tự hiện hành. Triều Tiên có vai trò
quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung. Đối với Mỹ, vấn đề ở bán đảo Triều Tiên liên quan đến các trụ
cột của trật tự khu vực bao gồm không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo vệ đồng minh Hàn
Quốc và Nhật Bản, duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế khu vực Đông Bắc Á. Về phía Trung
Quốc thì từ trước đến nay vẫn giữ vai trò là “người hỗ trợ chính” cho Triều Tiên cả về đối nội và đối
ngoại để xây dựng “cơ chế hòa bình lâu dài và bền vững” của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên, nhất là vấn đề giải trừ hạt nhân ở Triều Tiên theo cơ chế phá hủy hoàn toàn, có thể kiểm chứng
và không thể đảo ngược (gọi tắt là CVID) và vấn đề “thống nhất hai miền” trên bán đảo Triều Tiên.
Trong vấn đề Biển Đông và biển Hoa Đông, cả Mỹ và Trung Quốc đều đang cố gắng quản lý để
tránh tình trạng leo thang căng thẳng ngoài tầm kiểm soát trong mối quan hệ và dẫn đến xung đột
quân sự. Mỹ với chính sách “Tái cân bằng” đang nỗ lực tăng cường sự hiện diện quân sự ở khu vực
này, tích cực thông qua các diễn đàn khu vực, hợp tác với các nước đồng minh và liên kết với các đối
tác để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông. Về phía Trung Quốc, Bắc Kinh vẫn sẽ
triển khai mạnh mẽ chiến lược “cường quốc biển”, kiên quyết đưa ra các biện pháp cứng rắng để bảo
vệ lợi ích cốt lõi của mình và loại trừ sự can thiệp của Mỹ ở biển Đông. Trung Quốc chọn Biển Đông
làm hướng đột phá trong quá trình “trỗi dậy” mạnh mẽ của mình và tăng cường các hoạt động đơn
phương ở Biển Hoa Đông, nổi trội là các hành động như đưa giàn khoan HD-981 vào sâu trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam(5/2014) , thực hiện tiến trình cải tạo đảo/đá quy mô lớn, phá vỡ
nguyên trạng của biển Đông(2014). Mỹ nâng cao mức độ chỉ trích Trung Quốc, tăng cường phối hợp
với các nước Đông Á để tập hợp lực lượng phản đối các hành vi của Trung Quốc trong các diễn đàn
đa phương, đồng thời cũng tăng cường hợp tác quân sự với các nước đồng minh và các nước trong
khu vực để chống lại các hành động đơn phương của Trung Quốc làm phức tạp tình hình và cưỡng
ép các nước láng giềng,...Mỹ có những động thái can dự nhiều hơn, trực tiếp hơn, triển khai một số
biện pháp quân sự với hàm ý răn đe như cho tàu khu trục USS Fort Worth và máy bay trinh sát P8-A
tiến sát tới khu vực các đảo mà Trung Quốc tôn tạo. Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương ngày càng
trở thành tâm điểm cạnh tranh trong chiến lược của Mỹ-Trung: đối với Mỹ thì đây là bộ phận cấu
thành quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay
Mỹ vẫn giữ vai trò chủ đạo trong khu vực, còn đối với Trung Quốc thì khu vực này nằm trong tầm

7
PGS.TS. Nguyễn Vũ Tùng- TS. Đặng Cẩm Tú, Quan hệ Mỹ-Trung trong nửa đầu thế kỷ XXI: Mối quan hệ nước lớn
kiểu mới?, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, tr.98,99.
7

“ảnh hưởng” và thuộc một trong các trụ cột chính sách chủ yếu của Trung Quốc. 8 Việc “trỗi dậy” của
Trung Quốc cũng đang đánh dấu sự giảm sút vị trí và ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này. Mỹ đẩy
mạnh xây dựng thái độ tích cực bằng cách tham gia vào các cơ chế khu vực để nâng tầm và duy trì
ảnh hưởng ở Châu Á-Thái Bình Dương như tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông
Nam Á(2009)9, Hội nghị Cấp Cao Đông Á EAS,..Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đã được xác
định rõ là coi Châu Á là khu vực ảnh hưởng trực tiếp, là cơ sở quyền lực để Trung Quốc mở rộng
ảnh hưởng ra các khu vực khác “vững chân ở Châu Á, vươn ra thế giới”. Thứ nhất là xét về khu vực
Đông Bắc Á thì Mỹ có những lợi ích chiến lược quan trọng ở khu vực này và có hai đồng minh quan
trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, trong thời gian gần đây với sự “trỗi dậy”mạnh mẽ của Trung Quốc
đã vượt mặt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã có tác động sâu sắc tới cục diện
khu vực. Chính vì lẽ đó Hàn Quốc và Nhật Bản đã có những điều chỉnh quan trọng trong đối sách
của mình: một mặt là sẽ vẫn duy trì quan hệ Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật tuy nhiên mặt khác cũng sẽ đẩy
mạnh ý tưởng thành lập cộng đồng Đông Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để tránh tình
trạng hai nước bị kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Đối với việc giải quyết các điểm nóng, tranh chấp
hiện tại như tranh chấp lãnh thổ Nhật-Trung, vấn đề hạt nhân Triều Tiên và vấn đề Đài Loan cũng sẽ
ảnh hưởng nhất định đến không chỉ sự tương tác trong quan hệ Mỹ-Trung và còn ảnh hưởng đến cả
hòa bình và ổn định của khu vực. Thứ hai là xét về khu vực Đông Nam Á, đây là khu vực có thể nói
là chịu tác động rõ rệt nhất của cặp quan hệ Mỹ-Trung. Các nhà hoạch định chiến lược của Trung
Quốc coi khu vực này là “sân sau”của mình, khu vực ảnh hưởng truyền thống và là một ưu tiên trong
chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Thông qua nhiều biện pháp tổng hợp về chính trị, kinh tế,
đầu tư, viện trợ, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN toàn diện và thực chất hơn
như xây dựng cơ chế đối thoại và hiệp thương định kỳ nhiều cấp( ASEAN+1, ASEAN+3,Uỷ ban
hợp tác liên hợp, ký Tuyên bố chung về ứng xử Biển Đông(DOC). Trung Quốc còn dần hình thành
và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược với các nước khu vực Đông Nam Á ở các hình thức khác
nhau và Trung Quốc được xem là đầu tàu thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển, duy trì sự ổn định tài
chính-tiền tệ trong bối cảnh biến động phức tạp của kinh tế thế giới. Về phía Mỹ thì Mỹ sẽ ưu tiên
đưa việc nâng tầm quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á vào chính sách đối ngoại của mình,
thể chế hóa từ nay đến năm 2020. Tuy nhiên ở khu vực Đông Nam Á cũng sẽ “nóng hơn” với sự va
chạm lợi ích và căng thẳng Mỹ-Trung trong các vấn đề ở biển Đông, vấn đề quan hệ đối tác xuyên
Thái Bình Dương-TPP hay là việc Mỹ tham gia vào EAS(Cộng đồng Đông Á),...Nói tóm lại với khu
vực phát triển năng động nhất thế giới Châu Á-Thái Bình Dương thì va chạm lợi ích và sự cạnh tranh
ảnh hưởng giữa hai cường quốc Mỹ-Trung là hết sức gay gắt thế nhưng cả hai nước đều sẽ nỗ lực
xây dựng một khuôn khổ hợp tác an ninh để giảm thiểu các tác động tiêu cực và cân bằng kiềm chế
lẫn nhau.
II. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- tiêu
điểm quan tâm của các cường quốc hiện nay
1. Châu Á - Thái Bình Dương - tiêu điểm quan tâm của các cường quốc
Châu Á - Thái Bình Dương bao gồm một khu vực rộng lớn với khoảng gần 40 nước và lãnh thổ10,
chiếm 44% dân số thế giới. Cả năm nước lớn Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều nằm ở khu

8
Theo Phạm Sao Mai: “ Trung Quốc và chiến lược đối ngoại đến 2020”. Xu hướng vận động chiến lược đối ngoại của
Trung Quốc phát triển xoay quanh một loại trụ cột chính sách chủ yếu: ngoại giao nước lớn, ngoại giao láng giềng, ngoại
giao năng lượng, chiến lược”đi ra ngoài”, tăng cường phát triển sức mạng mềm. Trong Phạm Bình Minh(Chủ biên): Cục
diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2010, tr.437.
9
Theo www.aseansec.org/ PR-42AMM-US-Signed-TAC.pdf
10
Bao gồm:
- Các nước và lãnh thổ ở phía Bắc Thái Bình Dương là Nga, Trung Quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông(Trung Quốc)
- Các nước Đông Nam Á: Brunay, Campuchia, Indonexia, Malaixia, Lào, Mianma, Philippine, Xingapo, Thái Lan, Việt
Nam
8

vực và lợi ích của họ đan xen nhau rất phức tạp. Mối quan hệ giữa các nước lớn này có ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình an ninh, chính trị và kinh tế ở Châu Á-Thái Bình Dương. Hiện nay, khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương tiếp tục là điểm sáng trong xu hướng phục hồi kinh tế toàn cầu cũng như dẫn dắt
tiến trình liên kết, hội nhập kinh tế khu vực. Các điểm nóng khu vực như biển Đông, biển Hoa Đông có
chiều hướng diễn biến phức tạp hơn do có sự can dự ngày càng sâu sắc của các nước lớn. Tình hình
trên cho thấy sự mất cân đối giữa một bên là xu thế hợp tác, liên kết kinh tế khu vực với một bên là
cạnh tranh về an ninh-chiến lược ở Châu Á- Thái Bình Dương, có thể gây những tác động trái chiều
đối với khu vực nói chung
1.1. Mỹ
Chính sách “ xoay trục” sang Châu Á nhiều khả năng sẽ là một di sản được nhiều người nhắc tới
trong số những thành tựu chính sách đối ngoại của tổng thống Obama. Chính sách này đã đem đến
cho các nước Châu Á một đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Thế nhưng tương lai của chính sách này lại vô cùng bấp bênh. Ngày 8/11/2016, Donald Trump đã
đắc cử và trở thành tổng thống thứ 45 của Mỹ, ngay sau đó ông đã đảo ngược nền móng của một số
chính sách của chính quyền tiền nhiệm trong đó có cả vấn đề về Châu Á- Thái Bình Dương, tuy
nhiên các động thái của Trump cho thấy ông vẫn tiếp tục duy trì chính sách “xoay trục” sang Châu
Á, thế nhưng ông đã đề cập đến một thuật ngữ mới “Ấn Độ- Thái Bình Dương”(Indo-Pacific). “Ấn
Độ - Thái Bình Dương” bắt đầu được chú ý đặc biệt khi Donald J. Trump mở đầu bài phát biểu của
mình tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) Đà Nẵng tháng 11/2017 bằng
việc bày tỏ sự vinh hạnh được “hiện diện tại Việt Nam - trái tim của khu vực Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương.” Trong suốt chuyến công du Châu Á dài gần hai tuần của mình, Tổng thống Trump đã
liên tục sử dụng thuật ngữ này như có hàm ý về chiến lược mới của Mỹ ở khu vực vốn thường được
biết đến là Châu Á - Thái Bình Dương (Asia - Pacific). Thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương” đã ra đời như là một tầm nhìn chiến lược mới trong khu vực.
1.2. Nga
“Nga là cường quốc quan trọng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, các nhà phân tích phương Tây có khuynh hướng đánh giá không đúng tầm quan trọng
của Nga đối với hòa bình và an ninh khu vực này. Chiến lược “Xoay trục sang châu Á” của Moskva
không kém phần quan trọng hơn so với của Mỹ, nhất là khi mối quan hệ Nga-Trung đang được cải
thiện nhanh chóng.” 11
Nước Nga đi theo đường lối kiên quyết tăng cường vị thế của mình ở khu vực châu Á- Thái
Bình Dương, thúc đẩy hội nhập với đời sống kinh tế, chính trị khu vực. Ngoại trưởng Nga Lavrov
nêu rõ: “Chúng tôi đặc biệt coi trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc và Ấn Độ,
tăng cường hợp tác đa phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương khác”. Nga trước hết là sử dụng tiềm năng
khu vực để nâng cao phát triển vùng Siberia và Viễn Đông, tăng cường hợp tác khu vực trong vấn đề
chống khủng bố và bảo vệ an ninh quốc gia. Chiến lược thúc đẩy chính sách đối ngoại thông qua hợp
tác quốc phòng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay là một bước ngoặt của Nga, nước
trước đây vốn chỉ quan tâm tới châu Âu và Trung Đông. Động lực tạo nên bước ngoặt này là việc thị
trường vũ khí châu Á đang phát triển mạnh, trong khi nhu cầu từ các thị trường khác giảm sút. Chính

-Các nước và lãnh thổ ở Nam Thái Bình Dương: Ôxtraylia, Niu Dilan, Papua Niu Ghine, Đảo Cúc, Phigi, Kiribati,
Xalomong. Tonga, Micronexia, v.v...
-Các nước ở Trung và Nam Mỹ: Mehico, Nicaragoa, Goatemala, Ônđurát, En Xanvado, Panama, Coolombia, Êcuađo và
Chilê
-Các nước ở phía Bắc bờ Đông Thái Bình Dương: Mỹ, Canada
11
Kevin Rudd, Vai trò của Nga trong cấu trúc Châu Á- Thái Bình Dương. Tạp chí “ Nước Nga trong chính sách toàn
cầu”, 17/06/2016
9

sách ngoại giao Nga xoay trục sang châu Á còn do các biện pháp trừng phạt của phương Tây sau khi
nước này sáp nhập bán đảo Crimea và can thiệp quân sự vào Syria.
Nga khẳng định là sẽ “hành động nhiều hơn nữa” cho dù Nga đã có “những lập trường đủ vững
vàng” trong các tổ chức khác nhau của Châu Á - Thái Bình Dương. Minh chứng là Nga hiện đang
tham gia hợp tác với một số tổ chức thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương với những hình thức
và mục đích khác nhau. Giới phân tích quốc tế cho rằng, đây là thời điểm thích hợp nhất để Nga thể
hiện vị thế và vai trò của mình trong khu vực phát triển năng động nhất của thế giới trong thế kỷ
XXI.12 Hiện nay trong tình hình căng thẳng giữa Nga và các nước phương Tây thì việc tăng cường
và phát triển quan hệ của Nga với các nước ở châu Á- Thái Bình Dương được xem là một trong
những bước đi cần thiết và quan trọng cho Nga để cân bằng lực lượng trong cuộc đối đầu căng thẳng
này. "Nga không muốn Trung Quốc hoặc Mỹ thống trị khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Thay vào
đó, họ muốn một môi trường an ninh đa cực, đề phòng khả năng Trung Quốc đẩy họ khỏi khu vực
khi trở nên quá mạnh ", chuyên gia Bobo Lo, cựu giám đốc chương trình Nga và Trung Quốc ở Viện
Chatham của Anh nhận định. Lợi ích của Nga có vẻ phù hợp với mục tiêu của nhiều nước trong khu
vực, cũng như với đối tác lâu đời là Ấn Độ. "Nga không ảo tưởng trở thành cường quốc quân sự lớn
ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu muốn được coi là cường quốc toàn cầu thực sự, họ cần tăng
cường hiện diện ở châu Á trước tiên", chuyên gia Lo nhấn mạnh.
2. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
Nếu thế kỷ XIX có thể được xem là “thế kỷ của nước Anh” và thế kỷ XX là “thế kỷ của
nước Mỹ” thì thế kỷ XXI có thể được xem là “thế kỷ của Châu Á”. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các
quốc gia châu Á đang ngày càng biến châu Á trở thành điểm sáng của thế giới và hứa hẹn một “trật
tự thế giới mới” đang được mầm mống hình thành
2.1. Trung Quốc
“Không còn nghi ngờ gì nữa, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ trở thành một trong những vở kịch
nổi bật của thế kỷ 21. Sự phát triển kinh tế phi thường và chính sách ngoại giao linh hoạt của Trung
Quốc đã tạo bước biến chuyển cho khu vực Đông Á, và những thập niên trong tương lai sẽ chứng
kiến quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ hơn.”13
Trung Quốc đang thực hiện tốt mục tiêu trở thành cường quốc toàn cầu của mình. Xét về kích
thước, nền kinh tế Trung Quốc đã lớn lên gấp 4 lần tính từ thời điểm ban hành chính sách cải cách
thị trường những năm cuối thập niên 1970 và ước tính sẽ được nhân đôi vào thập niên tiếp theo. Năm
2017, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết “kho dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới” đạt mức
3,14 nghìn tỷ USD. 14 Về chính trị và an ninh - quân sự, mặc dù Trung Quốc luôn trấn an dư luận
bằng việc đưa ra thông điệp “sức mạnh mềm” và sự “trỗi dậy hòa bình”, sẽ không làm phương hại
đến tình hình an ninh của khu vực cũng như toàn cầu, nhưng cũng không thể phủ nhận được sự gia
tăng sức mạnh quân sự và chính trị của Trung Quốc trong những năm gần đây luôn là nỗi “ám
ảnh” của rất nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, Trung Quốc là quốc gia sở hữu hạt nhân trên thế giới, tiềm
lực quân sự ngày càng vượt trội với chi phí ngân sách tăng cao trong những năm gần đây cũng khiến
thế giới trở nên lo ngại. Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh có tác động không chỉ ở khu vực Châu
Á- Thái Bình Dương mà còn vươn ra cả khu vực châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Trung Quốc
ngày càng tỏ ra quyết đoán hơn trong việc bảo vệ các lợi ích quố c gia của miǹ h, đẩy mạnh triển khai
chính sách đối ngoại dựa trên hai trụ cột là “ngoại giao nước lớn” và “ngoại giao láng giềng”. Trung
Quốc đang tiếp tục tập trung vào việc xây dựng “Cộng đồng nhân loại cùng chung vận mệnh”, thúc

PGS, TS. Đồng Xuân Thọ. Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tạp
12

chí Cộng sản, 19/10/2016


13
G. John Ikenberry (2008). “The Rise of China and the Future of the West: Can the Liberal System Survive?”, Foreign
Affairs, Vol. 87, No. 1 (Jan. – Feb.), pp. 23-37.
14
Theo Cục Quản lý Ngoại hối Quốc gia Trung Quốc (SAFE)
10

đẩy sáng kiến “Vành đai, con đường” và đặc biệt là khẳng định việc ủng hộ, thúc đẩy xu hướng tự do
hóa thương mại và xu thế toàn cầu hóa.15 Về văn hóa, khoa học công nghệ và một số lĩnh vực khác
thì trước hết với sức lan tỏa mạnh mẽ về văn hóa, đặc biệt là Nho gia đã tạo được dấu ấn và giá trị
đậm nét phổ quát đến thế giới bên ngoài. Về khoa học và công nghệ, tính đến tháng 10/2016 đã có
mười một lần Trung Quốc phóng thành công tàu vũ trụ có người lái “Thần châu", trở thành cường
quốc chinh phục vũ trụ thứ ba trên thế giới. Chỉ trong vòng 5 năm, Trung Quốc hoàn thành các công
trình trọng điểm, trong đó phải kể đến tuyến đường sắt Thanh Hải - Tây Tạng, công trình dẫn nước
Nam - Bắc, đập Tam Hợp. “Khoảng cách giữa Trung Quốc và các cường quốc khoa học tiên tiến
trên thế giới không ngừng được rút ngắn, một số lĩnh vực khoa học – công nghệ được xếp vào
hàng ngũ tiên tiến của thế giới”. Ông Tư Hòa Bình, phó chủ nhiệm Phòng nghiên cứu và khảo sát
chiến lược thuộc Bộ Khoa học – Công nghệ Trung Quốc đánh giá như vậy trong Báo cáo “Sức mạnh
Khoa học – Công nghệ của Trung Quốc” được công bố cuối tháng 9/2007
2.2. Ấn Độ
Là một nền văn minh có nguồn gốc lâu đời, những giá trị văn hóa Ấn Độ từ rất sớm đã thông
qua quá trình giao lưu, tiếp biến mà trở thành một bộ phận của Châu Á. Đáng chú ý là sự “trỗi dậy”
của Ấn Độ được đặt trong bối cảnh cạnh tranh về một cuộc chạy đua đường dài với Trung Quốc.
Trước một láng giềng giàu tiềm năng và tham vọng, Ấn Độ đã chú trọng đến kết quả thay vì quá
trình. Ấn Độ cũng thẳng thắn thừa nhận thực tế kết hợp với một tầm nhìn tương lai rằng “ Trung
Quốc đã thắng trong cuộc đua nước rút, còn chúng ta sẽ thắng trong cuộc chạy đường dài”.16
Về chính trị, Ấn Độ gia tăng ảnh hưởng với tư cách là một “ cường quốc ôn hòa”, khẳng định sự
“trỗi dậy” của mình trên cơ sở những ý tưởng hòa bình và bền vững. “Chính sách hướng Đông” và sau
này là “ hành động hướng Đông” của Ấn Độ đang được cụ thể hóa cho sự tương tác mạnh mẽ và đi vào
thực chất của Ấn Độ với Châu Á. Về khía cạnh kinh tế, nếu tổng sản phẩm quốc nội( GDP) của Ấn Độ
vào năm 1990 là 320,3 tỷ USD thì trong năm 2017 GDP quốc gia này đã vượt mốc 2.000 tỷ
USD(2597.49 tỷ USD). Như vậy, trong vòng chưa đầy một phần tư thế kỷ, GDP Ấn Độ đã gia tăng với
tốc độ ấn tượng là gần 8,1 lần. Theo đó, GDP của Ấn Độ đóng góp 4,19% vào tổng GDP của nền kinh tế
thế giới.17 Về khía cạnh quân sự, Ấn Độ đang có những nỗ lực cụ thể để tăng cường khả năng đảm bảo
an ninh từ vành đai Ấn Độ Dương, hiện đang là một trong những lực lượng hải quân lớn nhất tại khu
vực.
Trong bối cảnh hợp tác và cạnh tranh luôn đan xen, sự “trỗi dậy” của Ấn Độ đã và đang mang lại
nhiều tác động đối với Châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Với một ý nghĩa nhất định thì sự trỗi dậy
của Ấn Độ có thể được xem là một “hiện tượng” của Châu Á. Hòa cùng sự phát triển năng động của khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương, sự trỗi dậy của Ấn Độ càng khiến Châu Á được chú ý hơn trong nhãn
quan của các cường quốc trong và ngoài khu vực.
III. Mỹ - chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch “lên ngôi”
1. Bối cảnh
Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới với hai khối Đông-Tây đã bị phá vỡ và
tiến tới hình thành một trật tự thế giới mới mà ở đó quyền lực không còn ở một hay hai quốc gia mà
ta lại chứng kiến một trật tự thế giới mới đa cực. Có lẽ Mỹ không muốn điều này xảy ra bởi đơn giản
là nó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích và vị thế của Mỹ, tuy nhiên đó là điều không thể tránh khỏi, và
dù ở bất kỳ một trật tự nào thì Mỹ vẫn luôn muốn quyền lực và các lợi ích của họ được bảo đảm.
Trong nhiều thập kỷ qua toàn cầu hóa chính là nhân tố quan trọng trong quan hệ quốc tế và trở thành

15
Lê Hải Bình. Những chuyển động mới trong cục diện khu vực, thế giới và tác động đến Việt Nam. Tạp chí Cộng sản,
9/5/2018
16
Robyn Meredith(2009), Voi và Rồng- Sự nổi lên của Ấn Độ, Trung Quốc và ý nghĩa của điều đó đối với tất cả chúng
ta, Sđd, tr.91.
17
“ India GDP”, Trading Economics, tại địa chỉ: http://www.tradingeconomics.com/india/gdp, truy cập 17/10/2018
11

xu thế tất yếu và là mục tiêu phát triển chiến lược của mỗi quốc gia. Đối với toàn cầu hóa người ta
thấy có hai vấn đề thiết yếu: một là các nền kinh tế tiến hành mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng
và hai là nền kinh tế của các quốc gia ngày càng bị phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Bản thân nước
Mỹ trong những năm vừa qua trong quy luật của quá trình toàn cầu hóa cũng đã hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới tuy nhiên trong chính nội tại nước Mỹ lại đang tồn đọng rất nhiều vấn đề nan
giải, chính điều này đã khiến cho quá trình toàn cầu hóa cũng là một điểm bất lợi đối với Mỹ.
Chúng ta cần nhận thức rằng, chủ nghĩa bảo hộ vốn đã có từ rất lâu và luôn hiện hữu trong nền
kinh tế tuy nhiên với bối cảnh toàn cầu hóa được thúc đẩy và lan rộng như hiện nay đã làm cho chủ
nghĩa bảo hộ ẩn đi phần nào. Việc xem xét lại quá trình toàn cầu hóa để tìm ra hướng khôi phục lại
vị thế của nước Mỹ trong chiến lược của chính họ đã khiến cho chủ nghĩa bảo hộ ngày càng gia tăng
và trở thành một nhân tố ảnh hưởng to lớn đến tình hình quan hệ quốc tế.
2. Diễn biến
Donald Trump-tổng thống đương nhiệm thứ 45 của Mỹ đã nhận ra sự suy yếu của nước Mỹ trong
nhiều năm vừa qua, ông chỉ trích hàng loạt các chính sách dưới thời tổng thống Obama và thay thế
chúng bằng các quyết sách của ông. Donald Trump thực sự cho rằng nước Mỹ không được tôn trọng
một cách đầy đủ, thể hiện ở nhận thức chung cho rằng nước Mỹ đang yếu đi và e ngại sử dụng quyền
lực. Ông Trump sẽ tạo ra một nước Mỹ quyết đoán hơn, mạnh mẽ hơn và sẵn sàng hành động để bảo
vệ các giá trị cốt lõi. Khẩu hiểu “Nước Mỹ trên hết” sẽ trở thành nguyên tắc định hướng trong chính
sách đối ngoại mới của ông và người ta chính thức thừa nhận sự gia tăng của “chủ nghĩa bảo hộ” ở
nước này. Chính sách “Nước Mỹ trên hết” mà Donald Trump đưa ra đã chi phối hầu hết các quyết
sách quan trọng của Nhà Trắng trong quan hệ quốc tế. Về lý thuyết, chính sách này được cho là sẽ
bảo vệ quyền lợi tối ưu cho người dân Mỹ. Nhưng trên thực tế về ngoại giao, nó gây dựng nên sức
mạnh mềm và ảnh hưởng toàn cầu cho Mỹ. Dưới thời ông Donald Trump, Mỹ chuyển dần từ chủ
nghĩa đa phương sang đơn phương. Trong vòng hai năm kể từ khi trở thành Ông chủ Nhà Trắng,
Donald Trump đã quyết định rút khỏi một loạt các thỏa thuận quốc tế. Ngay sau khi nhậm chức,
Trump đã đặt bút ký sắc lệnh rút ra khỏi hiệp định TPP - Hiệp định thương mại tự do xuyên Thái
Bình Dương. Donald Trump mô tả TPP với nhứng lời lẽ khó nghe rằng: “... một thảm họa khác đã
được tạo ra và được thúc đẩy bới những nhóm lợi ích đặc biệt muốn cưỡng đoạt đất nước chúng ta,
đúng là một cuộc cưỡng đoạt đang tiếp diễn đối với đất nước ta. Thực sự là thế.” 18. Trump yêu cầu
đàm phán lại hiệp định NAFTA – Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ nhằm thay đổi các yêu cầu mà
có bất lợi cho Mỹ, tiến hành trì hoãn hiệp định TTIP- Hiệp định đối tác Thương mại và Đầu tư xuyên
Đại Tây Dương đối với EU. Donald Trump cũng rút khỏi hiệp định Paris về “biến đổi khí hậu, Mỹ
rút ra khỏi tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc UNESCO với cáo buộc là tổ
chức này có xu hướng chống lại Israel- một đồng minh của Mỹ. Chưa hết, Donald Trump còn rút
khỏi thỏa thuận hạt nhân đã được chính quyền ông Obama và các cường quốc bỏ ra nhiều công sức
mới ký kết được được với Iran, và ông khẳng định rằng sẽ sẵn sàng khai hỏa ở vùng Vịnh nếu Iran
thách thức sự hiện diện quân sự của Mỹ. Trong quan hệ với khu vực Mỹ-Latinh, Trump đảo ngược
chính sách dưới thời tổng thống Obama, đẩy mạnh hơn quan hệ với Cuba để tận dụng tối đa các cơ
hội phát triển kinh tế ở “hòn đảo tự do” này và tỏ ra cứng rắn hơn với Mexico trong vấn đề ngăn
dòng người nhập cư bất hợp pháp. Thêm vào đó, Trump đã yêu cầu Bộ Thương mại Mỹ điều tra kỹ
lưỡng hoạt động thương mại giữa Mỹ và 16 quốc gia được cho là “lạm dụng thương mại” và là
nguyên nhân dẫn đến thâm hụt thương mại ở Mỹ, trong đó có hơn một nửa là các quốc gia châu Á.
Donald Trump cũng đơn phương công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và sau đó là chuyển đại sứ
quán Mỹ về Jerusalem làm cho “thùng thuốc súng” Trung Đông trở nên nóng rực và Mỹ thì bị đồng
thanh lên án trước Liên Hiệp Quốc.19

18
TTXVN, “ Donald Trump và tương lai nước Mỹ” ,(11/2016), tr.141.
19
Phương Nam. Hoa Kỳ theo chủ nghĩa biệt lập. SGGP, 11/1/2018
12

Một điều đáng nói đến là với chính với các đồng minh của mình, Mỹ cũng đang có những bất
đồng sâu sắc. Đối với các đồng minh truyền thống của Mỹ ở Châu Á, ông Trump cũng đã từng yêu
cầu Nhật Bản, Hàn Quốc hãy tự bảo vệ lấy thân, nếu cần sẽ cho các nước này được trang bị vũ khí
nguyên tử, hơn là dựa vào sự che chở của Hoa Kỳ. Ngay cả với EU- đồng minh truyền thống của Mỹ
cũng cùng chung số phận bởi sự thâm hụt trong cán cân thương mại với Mỹ và sự đóng góp tài
chính của các nước thành viên trong khối NATO. Mỹ đe dọa rằng sẽ “đi đường riêng” nếu các thành
viên NATO không đóng góp vào ngân sách quốc phòng. Mỹ cũng đang đối phải đối đầu với những
căng thẳng thương mại với biểu hiện là những đòn đáp trả trừng phạt vào các mặt hàng của các bên
với các đối tác cạnh tranh lớn như Trung Quốc, EU,.. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch xuất hiện hiện nay
như một tất yếu biện pháp mang tính đối phó trong quan hệ thương mại giữa các nước nhằm duy trì
và khôi phục vị thế siêu cường của Mỹ.
3. Đánh giá chung
Việc Mỹ lần lượt rút khỏi các thỏa thuận đa phương được xem là những bước đi có tính toán
trong chính sách của nhà lãnh đạo Donald Trump, ông đã không còn đặt nhiều niềm tin vào hiệu quả
của chính sách tự do thương mại nữa. Mặc dù ở một phương diện nào đó thì nó rõ ràng là có đưa lại
những lợi ích nhất định cho nước Mỹ nhưng ta cần nhận thức rằng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch lúc
này mang tính đối phó trong quan hệ thương mại với các nước khác nhằm khôi phục lại vị thế của
một siêu cường chứ không phải là một chiến lược mang tính dài hạn. Xét trên phương diện quốc tế,
những bước đi này đang khiến thế giới lo ngại về một nước Mỹ “ ích kỷ và an toàn” hơn, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của từng quốc gia, chính vì thế mà từng nước cần có sự cân nhắc đối với
chính sách bảo hộ này. Chính sách “Nước Mỹ trên hết” của tổng thống Donald Trump dường như
đang trở thành “Nước Mỹ cô độc”. Việc điều chỉnh chính sách của Mỹ cũng là bài học kinh nghiệm
quý báu cho các quốc gia khác đang trong tiến trình toàn cầu hóa. Các nước phải tự mình cân bằng
giữa việc bảo hộ kinh tế với việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lấy sự phát triển an toàn
và ổn định của nền kinh tế trong nước làm động lực để vươn ra ngoài thế giới,tránh nguy cơ bị “tổn
thương”.
13

PHẦN B. DỰ BÁO QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG 10 NĂM TỚI


I. Xu thế hòa bình-hợp tác và phát triển.
Hòa bình được xem là điều kiện cho hợp tác và liên kết giữa các nước vì mục tiêu phát triển;
hợp tác là phương thức tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, duy trì hòa bình và thúc
đẩy phát triển của các quốc gia; phát triển, nhất là phát triển bền vững, là mục tiêu chung của toàn
thể cộng đồng quốc tế. Hòa bình- hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế vận động khách quan của
toàn thế giới. Xu hướng hội nhập liên kết và xây dựng cộng đồng bền vững cùng với quá trình toàn
cầu hóa sẽ vẫn là mối quan tâm chung của các nước trên toàn thế giới bởi nó không chỉ mang lại
nhiều cơ hội cho các quốc gia mà còn là những thách thức to lớn. Các nước sẽ ngày càng mở cửa và
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đồng thời chính các nước sẽ ngày càng bị phụ thuộc vào
nhau. Tuy nhiên, sắp tới trước xu hướng bảo hộ mậu dịch của Mỹ thì các nước xem xét lại các khả
năng liên kết và hội nhập của mình trong xu thế toàn cầu hóa. Theo bản tin của Diễn đàn kinh tế thế
giới về “Tương lai của hệ thống tài chính toàn cầu” được phát hành đầu năm 2009, kịch bản tiêu
cực nhất xuất hiện khi quá trình chuyển dịch địa-kinh tế diễn ra chậm chạp và các quốc gia không thể
phối hợp-hợp tác với nhau và khi đó nền kinh tế toàn cầu sẽ bị chia cắt và xu hướng bảo hộ phát
triển20. Chủ nghĩa bảo hộ sẽ nổi lên, chi phối một bộ phận của thế giới tuy nhiên đây chắc chắn sẽ
không phải là nhân tố chủ đạo và lâu dài. Chính vì thế các nước cần phải cân đo đong đếm để đưa ra
các chiến lược hợp lý để vừa tự bảo vệ chính mình vừa theo kịp xu thế chung. Bên cạnh đó, những
vấn đề như phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, ô nhiễm môi trường, khủng bố, tội ác có tổ chức, ma
túy, dịch bệnh, v.v...cũng đòi hỏi cần có sự hợp tác của cộng đồng thế giới trong việc hợp tác, nghiên
cứu và đánh giá tác động, xây dựng biện pháp phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng
mới.
II. An ninh ở các “khu vực nóng” và mối quan hệ giữa các nước lớn.
Sắp tới các nước lớn sẽ tiếp tục thay đổi các chính sách và chiến lược quốc gia của mình và lẽ
đương nhiên nó sẽ có tác động to lớn đến tình hình an ninh-chính trị và kinh tế của các khu vực. Dựa
trên tình hình quan hệ quốc tế hiện tại, những dự đoán cho an ninh ở các “khu vực nóng” như Trung
Đông, Triều Tiên,... có lẽ sẽ tiếp tục thay đổi phức tạp, tuy nhiên hứa hẹn là sẽ có những dấu hiệu
tích cực và mối quan hệ giữa các nước lớn về lâu dài hoặc sẽ có xu hướng cạnh tranh nhau để phát
triển hoặc là chìm trong một cuộc Chiến tranh lạnh kiểu mới
Ở bán đảo Triều Tiên, trong thời gian tới hứa hẹn sẽ thu về rất nhiều kết quả tốt đẹp. Các nước
Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc và thậm chí là Triều Tiên sẽ tiếp tục ngồi lại với nhau để đàm phán giải
quyết những vấn đề tồn đọng trên bán đảo này, khả năng nối lại “đàm phán 6 bên” là có thể nghĩ tới.
Hiện nay, Triều Tiên đã có những bước đi đầu tiên để thực hiện những cam kết của mình trong việc
phi hạt nhân hóa bán đảo và đương nhiên là từ phía Mỹ cũng phải có các hành động tương xứng như
là dừng các cuộc tập trận Mỹ-Hàn,... “Lập trường của Washington đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ chỉ
nhượng bộ nếu Triều Tiên hành động trước. Điều này rất khó xảy ra. Triều Tiên sẽ không giảm quy
mô chương trình hạt nhân nếu không đạt được một cam kết chắc chắn về an ninh", Giáo sư Bridget
Coggins, chuyên gia khoa học chính trị từ Đại học California, nhận định. Vấn đề thống nhất hai miền
Triều Tiên cũng có những tín hiệu khởi sắc, nổi bật là ngày 27/4/2018, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim
Jong Un bước qua biên giới ở khu phi quân sự để tiến vào lãnh thổ Hàn Quốc và gặp gỡ Tổng thống
Moon Jae In. Đây là hội nghị thượng đỉnh liên Triều lần thứ ba sau hai hội nghị vào các năm 2000 và
2007. Ông Kim cũng là lãnh đạo đầu tiên của chính quyền Bình Nhưỡng băng qua vĩ tuyến 38 kể từ
khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953. Như vậy, hòa bình của bán đảo Triều Tiên là điều
chúng ta có thể tin tưởng và hy vọng ngay lúc này.

20
World Economic Forum: The future of the Global Financial System, A Near-Term Outlook and Long Term Scenarios
2009
14

Trung Đông vốn là điểm nóng về an ninh, tiềm ẩn nhiều xung đột: Chiến tranh tại Syria và
Yemen, mâu thuẫn Ảrập - Israel, cuộc đấu tranh với các phe nhóm Hồi giáo cực đoan, xung đột giữa
các gia tộc Ảrập vùng Vịnh, căng thẳng chính trị tại Ai Cập, Iran, Iraq, Lybia, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi
Arabia,...Các cường quốc như Mỹ và Nga luôn đặt khu vực này trong mối quan tâm đặc biệt của
mình. Syria sau nhiều năm nội chiến nhiều khả năng là vẫn chưa thể đi đến được hiện trạng chấm dứt
thậm chí là có thể xấu hơn hiện tại bởi quan hệ Nga- Mỹ chưa có dấu hiệu tan băng và hai quốc gia
này ngày càng lún sâu vào tình hình khu vực. Quan hệ Mỹ-Iran trước mắt khó có thể mà cải thiện bởi
những trừng phạt mà Mỹ áp đặt lên Iran xoay quanh vấn đề hạt nhân của nước này. Iran mong muốn
hòa bình, hợp tác tuy nhiên cũng cần nhớ rằng Iran cũng là một quốc gia đã quá quen thuộc với trừng
phạt và cấm vận. Từ khi lên nắm quyền đến nay, Tổng thống Trump đặc biệt củng cố quan hệ với
Israel, Ai Cập. Chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Trump sau khi nhậm chức Tổng thống
cũng là các quốc gia Trung Đông. Với những nỗ lực của lực lượng quân sự Nga trong việc đánh bại
các phần tử khủng bố và giúp quân đội Syria thu hồi các tỉnh, thành phố trọng yếu đang giúp Nga xây
dựng hình ảnh “người trọng tài ở Trung Đông”. Do sức mạnh quốc gia có hạn, Nga cũng xác định sẽ
đóng vai trò người trung gian hòa giải ở Trung Đông, thông qua lấy thành quả Syria để mở rộng ra
nơi khác, dựa vào ngoại giao, sự đầu tư quân sự và buôn bán vũ khí có hạn để mở rộng ảnh hưởng.
Quan hệ Nga- Mỹ vẫn còn rất nhiều dấu bỏ ngõ. Cuộc gặp mặt Thượng đỉnh tại Helsinki ngày
16/7 vừa qua là cuộc hô ̣i nghị đươ ̣c mong đơ ̣i nhấ t suố t nhiề u năm qua trong bối cảnh quan hệ Nga -
Mỹ đang rơi xuống mức thấp nhất kể từ thời Chiến tranh Lạnh. Đặc biệt vấn đề Trung Đông đang có
xu hướng trở nên phức tạp hay những bất đồng tại các “điểm nóng”, điều này càng gây khó khăn cho
việc bình thường hóa quan hệ Nga-Mỹ.
Quan hệ Mỹ-Trung về cơ bản vẫn tiếp tục xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh. Hai nền kinh
tế Mỹ và Trung Quốc đã gắn chặt với nhau trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới “trong anh có
tôi, trong tôi có anh”. Cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nước khi nào sẽ đi đến hồi kết? Ngoại
trưởng Mỹ Mike Pompeo đã trấn an người dân Mỹ rằng những bất tiện mà họ đang đối mặt sẽ chỉ là
tạm thời và cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới sẽ kéo dài cho tới khi
người dân Mỹ nhận được những gì họ xứng đáng được hưởng . Trong chương trình phát sóng ngày
23/9/2018 trên kênh Fox News, Ngoại trưởng Pompeo đã khẳng định rằng: "Chúng ta sẽ nhận được
kết quả buộc Trung Quốc phải hành xử theo cách: nếu họ muốn trở thành cường quốc minh bạch
toàn cầu, họ không được ăn cắp bản quyền trí tuệ. Họ phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
thương mại trên toàn thế giới: công bằng và có đi có lại. Đây là những thứ người dân Mỹ đang yêu
cầu và người lao động Mỹ xứng đáng được hưởng". Châu Á- Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực
cạnh tranh địa-chính trị chủ yếu giữa Mỹ và Trung Quốc, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng nổ xung đột.
Cuộc cạnh tranh đó liên quan đến bốn vấn đề khu vực: vấn đề bán đảo Triều Tiên, vấn đề liên minh
Nhật Mỹ, vấn đề Đài Loan và vấn đề biển Đông (hay Đông Nam Á nói chung).Cạnh tranh quyền lực
Mỹ- Trung sẽ leo thang lên một mức mới, nhất là trên biển Đông và theo đó là sự bế tắc trong quan
hệ Mỹ- Trung liên quan đến đề xuất của Trung Quốc xây dựng mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới
với các đặc điểm “không xung đột, không đối kháng, cùng có lợi”. Nếu như mô hình quan hệ nước
lớn kiểu mới theo đề xuất của Trung Quốc không thành công thì dự báo là trong thời gian tới Mỹ và
Trung Quốc sẽ có những bước đi mới để tiếp tục tìm kiếm một mô hình khác nhằm ổn định hóa mối
quan hệ tuy phức tạp nhưng quan trọng đối với cả hai bên cũng như các nước khác trong khu vực và
trên thế giới. Với những căng thẳng dâng cao như hiện tại thì cũng không tránh khỏi trong tương lai
sẽ hình thành một trật tự thế giới “hai cực” như trong Chiến tranh lạnh trước đây với sự chi phối lớn
của hai siêu cường lớn là Mỹ và Trung Quốc đối với các nước khác trong khu vực và trên thế giới
15

III. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam


Môi trường đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới có thể sẽ tương đối thuận lợi ở cả ba
cấp độ: toàn cầu, khu vực và trong một số quan hệ song phương chủ chốt. Tất cả các nước lớn đều
có nhu cầu cải thiện và thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam phát triển
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và tăng cường sức mạnh của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên
với những diễn biến khó lường của tình hình quan hệ quốc tế thì trong thời gian tới chắc chắn là Việt
Nam sẽ không tránh khỏi nhũng thách thức to lớn
1. Cơ hội
Một là, Việt Nam đang bước vào chu kỳ tăng trưởng mới với nhiều yếu tố thuận lợi, tranh thủ
thị trường thế giới cũng như các nguồn lực khác tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất và phân
phối, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, trong bối cảnh các nước lớn cạnh tranh quyết liệt và ráo riết tập hợp lực lượng ở khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương, các nước lớn đều cần tới một Việt Nam hòa bình, ổn định, phát triển
năng động và có thiện chí hợp tác. Chính sách thêm bạn bớt thù theo phương châm đối tượng/ đối tác
vì lợi ích dân tộc sẽ tiếp tục giúp Việt Nam tranh thủ được sự hợp tác của tất cả các bên.
Ba là, sự phát triển của các thiết chế khu vực và toàn cầu, điển hình là Liên Hợp Quốc, các tổ
chức, diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, có tác dụng nhất định
trong việc thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, phổ biến các chuẩn mực trong quan hệ, và khuyến
khích sự hợp tác giữa các bên, hỗ trợ kiềm chế xung đột và giúp giảm căng thẳng giữa các bên liên
quan.
2. Thách thức
Thứ nhất, Việt Nam nằm ở khu vực địa-chính trị nhạy cảm, giao thoa lợi ích giữa nhiều nước
lớn, do đấy rất dễ ảnh hưởng tới độc lập và chủ quyền của ta.
Thứ hai, trong thế giới toàn cầu hóa, sự phát triển của Việt Nam gắn chặt vào nền kinh tế thế
giới có đặc điểm là luôn biến chuyển nhanh chóng, liên tục về xu hướng và cơ cấu. Nếu không nhận
thấy được sự chuyển đổi đó hoặc thích ứng không kịp, Việt Nam sẽ lập tức bị loại khỏi cuộc chơi
chung và sẽ tiếp tục bị tụt hậu.
Thứ ba, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa sẽ tiếp tục tạo ra các thách thức lớn và lâu dài đối
với sự phát triển của Việt Nam trong thời gian tới, các biểu hiện chủ yếu là các vấn đề cạn kiệt năng
lượng, biến đổi khí hậu, hủy hoại môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v... ngày càng trở nên cấp bách
trong khi nguồn lực để đối phó của ta cũng có hạn. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi truyền
thống ngày càng phát triển phức tạp. Thách thức liên quan tới các vấn đề tội phạm xuyên quốc gia,
khủng bố, dịch bệnh, di cư trái phép,v.v... phát triển nhanh và thường xuyên. Khi đất nước hội nhập
sâu rộng và toàn diện hơn, nền kinh tế trở nên “mở” hơn sẽ làm tăng khả năng bị tổn thương.
16

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. TTXVN: “ Donald Trump và tương lai nước Mỹ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, 11/2016
2. PGS. TS. Đồng Xuân Thọ: Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, Tạp chí Cộng sản, 19/10/2016
3. Lê Thế Mẫu: Thế giới: Một góc nhìn, Nxb. Chính trị quốc gia, 1/2010
4. Lê Sơn: Sự trỗi dậy đồng thời của Trung Quốc, Ấn Độ và Quan hệ Trung- Ấn, Tạp chí “Thế giới
đương đại”-Trung Quốc, 23/4/2013
5.Thanh Tú: Triều Tiên thể hiện thiện chí trước cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ- Triều, Tạp chí Cộng sản,
15/5/2018
6. Phương Nam: Hoa Kỳ theo chủ nghĩa biệt lập, SGGP Thứ Năm, 11/1/2018
7. TS. Lê Khương Thùy: Quan hệ Mỹ-Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb. Khoa học xã hội,
6/2012
8. Kevin Rudd: Vai trò của Nga trong cấu trúc Châu Á- Thái Bình Dương, Tạp chí “ Nước Nga trong
chính sách toàn cầu”, 17/06/2016
9. Lê Hải Bình: Những chuyển động mới trong cục diện khu vực, thế giới và tác động đến Việt Nam,
Tạp chí Cộng sản, 9/5/2018
10. GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương: Quan hệ Mỹ-Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc
độ cân bằng quyền lực, Nxb. Chính trị quốc gia, 11/2011
11. PGS.TS. Nguyễn Vũ Tùng- TS. Đặng Cẩm Tú: Quan hệ Mỹ- Trung trong nửa đầu thế kỷ XXI:
Mối quan hệ nước lớn kiểu mới?, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 1/2017
12. Fareed Zakaria: Thế giới hậu Mỹ, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009
13. Phạm Bình Minh(Chủ biên): Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2010
14. Báo mới: Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung: Đe dọa triển vọng kinh tế toàn cầu, 4/4/2018
15. Linh Tú, Dương Đăng: “Tìm hiểu về khuôn khổ quan hệ nước lớn kiểu mới Trung-Mỹ”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, số 1(96), 2014.
16. Văn Cường: Lá bài Đài Loan trong quan hệ Mỹ-Trung, Nghiên cứu biển Đông, 3/4/2018
17. GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương: “Nhìn nhận ‘Đối thoại kinh tế và chiến lược Mỹ-Trung’ từ
phân tích định lượng”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3(102), 2015
18. G. John Ikenberry(2008), “The Rise of China and the Future of the West: Can the Liberal System
Survive?”, Foreign Affairs, Vol.87, No.1(Jan.-Feb.)

You might also like