Professional Documents
Culture Documents
1
Chính trị Việt Nam hiện đại
CHÍNH TRỊ
Việt Nam hiện đại
2
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nội Dung
3
Chính trị Việt Nam hiện đại
4
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tại Việt Nam hiện nay, do sự kiểm soát chặt chẽ của
chính quyền nên không thể có một tổ chức độc lập nào
chuyên nghiên cứu về các vấn đề chính trị, chính sách
và xã hội. Những thông tin mà người Việt Nam tiếp
nhận được đa phần là từ các nguồn tin của Chính phủ
và do đó không khách quan; hoặc là những thông tin
manh mún, rời rạc từ những nguồn tin lẻ tẻ trên các
mạng xã hội rất khó để kiểm chứng. Do đó, để có thể
hình dung ra một bức tranh chính trị tổng thể là khá
khó khăn. Trong khi điều này lại rất quan trọng trong
việc định hướng các hoạt động xã hội dân sự cũng như
chính trị của những người bất đồng chính kiến và các
nhóm đối lập.
5
Chính trị Việt Nam hiện đại
Cuốn sách này gồm 6 bài viết của 5 tác giả: Lê Hồng
Hiệp, Bùi Hải Thiêm, Carlyle A. Thayer, Nguyễn Hải
Hồng và Benedict J. Tria Kerkvliet. Năm tác giả này
đều là các học giả chuyên nghiên cứu về các vấn đề
chính trị khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
6
Chính trị Việt Nam hiện đại
7
Chính trị Việt Nam hiện đại
Theo tôi, để có thể hoạt động xã hội tốt, bên cạnh việc
cần hiểu rõ những vấn đề cụ thể, thì cũng cần phải nắm
được bức tranh tổng thể. Và từ kinh nghiệm bản thân,
tôi thấy nhiều nhà hoạt động biết rất rõ những vấn đề
cụ thể đang xảy ra ở Việt Nam, tuy nhiên, lại chưa nắm
được những dịch chuyển lớn đằng sau những vấn đề cụ
thể đó.
8
Chính trị Việt Nam hiện đại
vấn đề, cũng như sự dịch chuyển chính trị đang xảy ra
ở Việt Nam. Và những nghiên cứu này rất đáng để cho
các nhà hoạt động tìm hiểu, nhằm bổ sung kiến thức,
và qua đó điều chỉnh lại đường hướng hoạt động của
mình cho tốt hơn.
Cuốn sách này chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng số
nghiên cứu về chính trị Việt Nam, và hi vọng rằng sẽ
có những nỗ lực dịch thuật tương tự trong tương lai,
nhằm mang lại cho các nhà hoạt động một bức tranh
toàn diện hơn.
9
Chính trị Việt Nam hiện đại
hoặc nhaxuatbantudo@protonmail.com
Hoài Nam
10
Chính trị Việt Nam hiện đại
11
Chính trị Việt Nam hiện đại
Lê Hồng Hiệp2
1. Giới thiệu
Kể từ khi thực hiện chính sách Đổi mới vào cuối những
năm 1980, tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt
Nam (ĐCSVN) ngày càng gia tăng ở cả trong nước lẫn
quốc tế. Bất chấp những bất ổn xã hội và thách thức lẻ
tẻ đến từ một số ít cán bộ cao cấp, giới trí thức ngoài
1
Contemporary Southeast Asia Vol. 34, No. 2 (2012
2
ISEAS - Yusof Ishak Institute · Vietnam Studies Programme
12
Chính trị Việt Nam hiện đại
đảng lẫn các nhà bất đồng chính kiến ủng hộ dân chủ,
sự chi phối tuyệt đối của ĐCSVN đối với hệ thống
chính trị Việt Nam nhiều khả năng sẽ tiếp tục kéo dài
trong tương lai. Trên bình diện quốc tế, hình ảnh của
Việt Nam với tư cách là một nền kinh tế mở và một bên
tham gia tích cực trong các vấn đề toàn cầu đã mang
đến cho ĐCSVN một sự thừa nhận quốc tế rộng rãi.
13
Chính trị Việt Nam hiện đại
Được thành lập vào năm 1930, tính chính danh của
ĐCSVN cho đến năm 1975 chủ yếu dựa trên vai trò
lãnh đạo của nó trong cuộc đấu tranh quân sự giành độc
lập và thống nhất đất nước, và ở mức độ thấp hơn, là
lời hứa về việc xây dựng một xã hội hiện đại và công
bằng thông qua sở hữu tập thể, kế hoạch hóa tập trung
và huy động đại chúng. Sau khi tái thống nhất đất nước
vào năm 1975, ĐCSVN phải đối mặt với thách thức
hoàn thành lời hứa đó thông qua phát triển nền kinh tế
để đạt được một “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
14
Chính trị Việt Nam hiện đại
Đối mặt với hoàn cảnh khó khăn như vậy, ĐCSVN đã
quyết định áp dụng chính sách Đổi mới vào năm 1986,
một chính sách dẫn đến những thay đổi sâu rộng đối
với đất nước cũng như chính với ĐCSVN. Bài báo này
xem việc áp dụng chính sách Đổi mới là một phần của
một quá trình rộng lớn hơn trong việc tìm kiếm tính
chính danh của ĐCSVN, và khẳng định rằng khi tính
chính danh dựa trên các nguồn truyền thống hầu như
không còn nữa vào cuối những năm 1980, thì tính
chính danh dựa trên thành tích trở thành nguồn quan
trọng nhất cho sự tồn tại của ĐCSVN.
15
Chính trị Việt Nam hiện đại
cảnh đất nước hội nhập với hệ thống kinh tế toàn cầu
đầy biến động kể từ năm 2008. Từ bối cảnh đó, chủ
nghĩa dân tộc, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến chủ
quyền ở Biển Đông, đã được hồi sinh trở thành một
nguồn bổ sung cho tính chính danh trong thời kỳ kinh
tế khó khăn.
Bài viết này bao gồm năm phần. Đầu tiên thảo luận về
lý thuyết chính danh và chính danh hóa. Phần thứ hai
xem xét tính chính danh của ĐCSVN trước khi thống
nhất đất nước vào năm 1975. Phần thứ ba xem xét cuộc
khủng hoảng tính chính danh của ĐCSVN vào những
năm 1980, và phần thứ tư xem xét các lý do đằng sau
sự chuyển đổi sang tính chính danh dựa trên thành tích.
Phần cuối cùng, thảo luận về các hàm ý của việc
chuyển đổi tính chính danh này, và những thách thức
đi cùng, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế Việt Nam
đang gặp phải những khó khăn gần đây.
16
Chính trị Việt Nam hiện đại
17
Chính trị Việt Nam hiện đại
18
Chính trị Việt Nam hiện đại
Khác với chế độ dân chủ, các chế độ cộng sản nhìn
chung có một quá trình chính danh hóa phức tạp hơn.
Trong khi hầu hết các chế độ dân chủ có được tính
chính danh của mình từ phương thức duy lý – pháp lý
(tức thông qua bầu cử đa đảng tự do và công bằng), thì
các chế độ cộng sản thường có được tính chính danh từ
sự kết hợp của nhiều nguồn, như tư tưởng Marxist, mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, cách mạng nhân dân, nhà lãnh
đạo lôi cuốn, chủ nghĩa dân tộc và thành tích kinh tế xã
hội... Tuy nhiên, nhiều học giả cho rằng trong số các
nguồn này, thì thành tích kinh tế xã hội, liên quan đến
việc cung cấp lợi ích kinh tế xã hội cho người dân, là
nguồn tính chính danh quan trọng nhất. Khẳng định
này được củng cố bởi thực tế cho thấy có một sự đánh
đổi trong các chế độ cộng sản, thường được mô tả như
một “hợp đồng xã hội” hay “thỏa hiệp xã hội”. Theo
đó, dưới chế độ cộng sản, một số quyền tự do dân sự
nhất định, như tự do ngôn luận, báo chí độc lập, pháp
19
Chính trị Việt Nam hiện đại
trị và bầu cử liêm chính sẽ bị hạn chế. Đổi lại, các chế
độ cộng sản hứa sẽ mang lại cho người dân mức phúc
lợi xã hội cao, bao gồm hệ thống giáo dục và chăm sóc
sức khỏe toàn diện, bảo đảm việc làm và giá cả ổn định,
mức sống cao hơn cùng sự dịch chuyển nghề nghiệp
theo hướng đi lên.
Những lời hứa này, trong khi giúp biện minh cho việc
công dân từ bỏ một số quyền tự do dân sự nhất định,
đòi hỏi các chế độ cộng sản phải tạo ra một nguồn lực
lớn để duy trì hệ thống phúc lợi xã hội. Một mục tiêu
như vậy sẽ không thể đạt được nếu kinh tế không tăng
trưởng cao và ổn định. Do đó, việc duy trì thành tích
kinh tế hợp lý là điều cần thiết để các chính phủ cộng
sản củng cố hợp đồng xã hội của họ, và qua đó đảm
bảo tính chính danh chính trị của mình.
Trong giai đoạn từ năm 1945 khi ĐCS nắm quyền cho
đến năm 1975 khi Việt Nam thống nhất dưới sự cai trị
20
Chính trị Việt Nam hiện đại
Chủ nghĩa dân tộc có thể được coi là nguồn quan trọng
nhất cho tính chính danh của ĐCS trong giai đoạn này.
Việc tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là một khoảnh khắc chính trị quan trọng, góp phần
làm gia tăng tình cảm dân tộc chủ nghĩa cũng như tạo
ra phần lớn tính chính danh ban đầu cho ĐCS. Điều
này đến từ thực tế là, ĐCS là lực lượng duy nhất thành
công trong việc giành độc lập cho Việt Nam kể từ khi
Pháp xâm lược vào năm 1885.
21
Chính trị Việt Nam hiện đại
Sau khi tuyên bố độc lập, ĐCS đã lãnh đạo thành công
đất nước qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ trong
giai đoạn từ 1946 đến 1975, trong đó chủ nghĩa dân tộc
tiếp tục đóng một vai trò quan trọng. Sự lãnh đạo của
ĐCS trong hai cuộc chiến này, vốn được người dân
Việt Nam coi là chính đáng, đã tạo ra thẩm quyền đạo
đức cho ĐCS. Việc hàng triệu người Việt Nam tự
nguyện gia nhập lực lượng vũ trang chiến đấu cho các
lý tưởng của ĐCS đã chứng minh cho việc nó có được
một mức độ chính danh cao trong giai đoạn này. Trong
khi đó, những chiến thắng dưới sự lãnh đạo của ĐCS
trong hai cuộc chiến tranh, với chủ quyền quốc gia
được khôi phục, càng làm tăng thêm tính chính danh
của nó.
Ngoài ra, tính chính danh của ĐCS trong giai đoạn này
cũng được củng cố đáng kể bởi mục tiêu lý tưởng của
nó là xây dựng một hệ thống xã hội chủ nghĩa thông
qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn, bắt
đầu từ năm 1953, ĐCS đã phát động các chiến dịch huy
động lớn như giảm tô thuế và cải cách ruộng đất. Dù
22
Chính trị Việt Nam hiện đại
các sai lầm “tả khuynh” đã gây tổn hại đến uy tín của
ĐCS, song cải cách ruộng đất thực sự giúp huy động
sự ủng hộ của nông dân cho các cuộc kháng chiến và
tăng cường tính chính danh của ĐCS khi chính sách
giành được sự ủng hộ rộng rãi của nông dân nghèo, cơ
sở quyền lực quan trọng nhất và rộng lớn nhất của ĐCS
lúc đó. Đồng thời, ĐCS thực hiện hợp tác hóa công
nghiệp và nông nghiệp như là động thái cải thiện điều
kiện kinh tế xã hội, từ đó hiện thực hóa cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Các chính sách khác nhằm tạo ra một
hệ thống quân bình xã hội chủ nghĩa, như miễn phí giáo
dục và chăm sóc sức khỏe ở miền Bắc, cũng mang lại
sự ủng hộ rộng rãi.
Một nguồn khác cho tính chính danh của ĐCS đến từ
uy tín cá nhân của Hồ Chí Minh. Được coi là cha già
dân tộc, Hồ Chí Minh đã giành được sự tôn trọng rộng
rãi của người dân Việt Nam nhờ chuyến đi ba mươi
năm tìm đường cứu nước cùng tính cách cá nhân của
mình. Rõ ràng, sức thu hút cá nhân của Hồ Chí Minh
đã mang lại cho ĐCS tính chính danh lớn không chỉ
23
Chính trị Việt Nam hiện đại
cho đến khi ông qua đời năm 1969 mà ngay cả ngày
nay. Tuy nhiên, vì Hồ Chí Minh không tìm cách áp đặt
sự kiểm soát cá nhân đối với ĐCS và chế độ chính trị,
nên ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
ĐCSVN đã đưa ra một hệ thống “lãnh đạo tập thể”, vốn
được thể chế hóa vào Đại hội lần thứ ba năm 1960.
Động thái này, góp phần vào việc xây dựng và duy trì
tính chính danh của Đảng.
24
Chính trị Việt Nam hiện đại
25
Chính trị Việt Nam hiện đại
26
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với ĐCS trong giai
đoạn sau thống nhất là quản lý và phát triển nền kinh
27
Chính trị Việt Nam hiện đại
tế. Tại Đại hội lần thứ tư năm 1976, ĐCS tuyên bố rằng
nền kinh tế quốc gia đang bước vào “thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội”, điều mà nó hy vọng sẽ đạt được
trong ba giai đoạn từ năm 1976 đến năm 2010. Tuy
nhiên, ngay từ đầu, các kỳ vọng của ĐCS gần như tiêu
tan khi kế hoạch năm năm lần thứ hai (1976 - 80) thất
bại với các mục tiêu chính không đạt được. Kết quả là,
mặc dù Đại hội lần thứ tư tuyên bố rằng các “nhiệm vụ
chính” và “mục tiêu cao nhất” của các chương trình
phát triển kinh tế là cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của người dân, nhưng mức sống của người dân bị
sụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 1976 - 1980.
28
Chính trị Việt Nam hiện đại
Đồng thừa nhận rằng thu nhập bình quân đầu người đã
tăng không nhiều so với mười năm trước đây. Tình
hình trở nên trầm trọng hơn bởi cải cách giá - lương -
tiền vào năm 1985 khiến lạm phát tăng 487%, gây ra
một cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng.
29
Chính trị Việt Nam hiện đại
30
Chính trị Việt Nam hiện đại
Mặc dù ĐCS nhấn mạnh việc cải thiện các điều kiện
kinh tế xã hội của người dân là một nguồn của tính
chính danh sau khi thống nhất, các tài liệu của Đại hội
31
Chính trị Việt Nam hiện đại
lần thứ tư và thứ năm cho thấy Đảng vẫn coi lý tưởng
xã hội chủ nghĩa là nguồn quan trọng nhất cho tính
chính danh của mình, như được thể hiện ở quyết tâm
đưa đất nước vào “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Tuy nhiên, sự thành công về kinh tế xã hội sẽ không
thể xảy ra nếu không thực hiện Đổi mới. Điều này
được chứng minh bằng những thất bại về kinh tế xã
hội trong giai đoạn 1976 - 1986 và thành công trong
giai đoạn sau năm 1986. Do đó, việc áp dụng chính
sách Đổi mới của ĐCS có thể được coi là sự chuyển
đổi mang tính chiến lược của nó sang tính chính danh
dựa trên thành tích.
Quyết định của Đảng là một lựa chọn duy lý, dựa trên
thực tế là vào năm 1986, các nguồn chính danh truyền
thống đã không còn. Đầu tiên, vào năm 1986, chủ
nghĩa dân tộc và yêu sách của đảng về “sứ mệnh lịch
sử” trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam gần như đã
mất đi hết ý nghĩa trong quá trình chính danh hóa của
Đảng. Hình ảnh ĐCS với tư cách là lực lượng bảo vệ
độc lập và thống nhất quốc gia đã bị thay thế bởi một
32
Chính trị Việt Nam hiện đại
hình ảnh kém cỏi trong cuộc chiến trên mặt trận kinh
tế với sự thất bại hoàn toàn.
Trên thực tế, từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của ĐCS đã tham gia vào hai cuộc xung đột
vũ trang khác: một cuộc chiến tranh biên giới ngắn
ngủi với Trung Quốc vào tháng 02/1979, và một cuộc
xung đột vũ trang lâu dài và tốn kém hơn với Khmer
Đỏ ở Campuchia. Ban đầu, những xung đột này đã tạo
ra một sự gia tăng đột biến tình cảm dân tộc và sự ủng
hộ cho Đảng, nhưng sự gia tăng này chỉ tồn tại trong
một thời gian ngắn. Cụ thể, những khó khăn kinh tế
cũng như thương vong của lực lượng vũ trang từ sự
chiếm đóng Campuchia đã đặt ra nghi vấn về tính hợp
lý trong các chính sách của Đảng. Chẳng hạn, cựu Thứ
trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ cho rằng việc Việt
Nam “can dự quá sâu và quá lâu dài vào vấn đề
Campuchia” là một trong bốn sai lầm lớn nhất trong
chính sách đối ngoại Việt Nam trong thập niên 1970.
33
Chính trị Việt Nam hiện đại
Hơn nữa, việc Việt Nam tham gia vào cuộc xung đột ở
Campuchia cũng khiến đất nước phải chịu sự cô lập về
ngoại giao khi các thành viên ASEAN, Trung Quốc và
các cường quốc phương Tây gây áp lực buộc Việt Nam
phải rút khỏi Campuchia. Trong khi gây tổn hại cho
hình ảnh quốc tế của mình, thì sự cô lập ngoại giao
cũng cản trở nỗ lực của ĐCS trong việc hồi phục nền
kinh tế.
Sau khi chủ nghĩa dân tộc mất đi ý nghĩa sau sự thống
nhất đất nước, chính những lý tưởng xã hội chủ nghĩa
nổi lên như là nguồn quan trọng nhất cho tính chính
danh của Đảng. Tuy nhiên, những thất bại về kinh tế
trong “thập kỷ thất bại” đã khiến cho nó không thể tạo
ra sự quá độ lên xã hội chủ nghĩa trên cả nước. Do đó,
ý thức hệ của Đảng bị xói mòn khi mọi người bắt đầu
mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, ĐCS
đã vi phạm “hợp đồng xã hội” với người Việt Nam, đó
là sự độc quyền về quyền lực dựa trên việc thực hiện
lời hứa về một xã hội giàu có và công bằng. Kết quả,
34
Chính trị Việt Nam hiện đại
35
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ngoài ra, các phương thức chính danh hóa thay thế
khác, như Leslie Holmes đề xuất, thì cho thấy không
tương thích hoặc không hiệu quả cho Đảng trong việc
củng cố tính chính danh đang suy giảm của mình.
Chẳng hạn, trong khi phương thức truyền thống cổ xưa
(sự cai trị dựa trên quyền thần thánh của vua chúa)
không thể áp dụng được với Đảng, thì những diễn tiến
chính trị ở Đông Âu khiến các nhà lãnh đạo Đảng né
tránh phương thức dựa trên nền tảng duy lý – pháp lý.
Tương tự, tính chính danh đến từ sự hỗ trợ không chính
thức (các quốc gia khác bày tỏ ủng hộ cho cách tiếp
cận của Đảng) là không đáng kể do sự biệt lập về ngoại
giao của Việt Nam. Phương thức truyền thống mới (các
nhà lãnh đạo kế tiếp trở lại cách tiếp cận của các nhà
lãnh đạo có uy tín trước đó để chính danh hóa sự cai
trị và chính sách của mình) phần lớn không liên quan,
vì cách tiếp cận của Hồ Chí Minh tập trung vào việc
bảo vệ chủ quyền quốc gia hơn là phát triển kinh tế.
Trong khi đó, phương thức mô hình bên ngoài (các nhà
lãnh đạo đi theo cách tiếp cận của một quốc gia hoặc
36
Chính trị Việt Nam hiện đại
tập hợp các quốc gia thành công nào đó) không thể tạo
ra tác động tích cực ngay lập tức đến tính chính danh
của Đảng. Không chỉ vì nó đòi hỏi thời gian để một mô
hình bên ngoài được nghiên cứu, điều chỉnh và áp dụng
vào bối cảnh Việt Nam, mà còn bởi vào năm 1986,
không có mô hình bên ngoài nổi bật nào mà ĐCS có
thể dựa vào. Mặc dù sự giới thiệu cải cách kinh tế của
Trung Quốc vào năm 1978 có thể đã được Đảng quan
tâm, tuy nhiên vào năm 1986 quá trình cải cách vẫn
còn ở giai đoạn đầu.
Tóm lại, vào năm 1986, hầu hết các phương thức chính
danh hóa hoặc không liên quan, không hiệu quả hoặc
trở nên lỗi thời đối với ĐCS. Trong bối cảnh đó, thành
tích kinh tế xã hội nổi lên trở thành phương thức chính
danh hóa khả thi duy nhất cho ĐCS khôi phục tính
chính danh đang tàn tạ cũng như duy trì sự tồn tại của
mình. Quyết tâm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội như
một biện pháp thiết yếu để duy trì sự tồn tại của chế độ
đã thể hiện rõ trong báo cáo chính trị của Ủy ban Trung
ương Đảng trước Đại hội giữa nhiệm kỳ vào tháng
37
Chính trị Việt Nam hiện đại
01/1994. Báo cáo xác định bốn mối đe dọa chính đối
với chế độ, đó là tụt hậu so với các nước khác về kinh
tế; đi chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa; tham
nhũng, quan liêu không hiệu quả; và “diễn biến hòa
bình”. Bị tụt hậu so với các nước khác về kinh tế được
coi là mối đe dọa nghiêm trọng nhất, vì Đảng tin rằng,
nền kinh tế kém phát triển sẽ gây ra sự bất ổn chính trị
và làm suy yếu sự cai trị của mình.
Hơn nữa, lãnh đạo Đảng cũng khẳng định rằng, phát
triển kinh tế và cải thiện điều kiện sống sẽ giúp tránh
khỏi các mối đe dọa khác đối với chế độ, đặc biệt là
“diễn biến hòa bình”. Do đó, có thể hiểu được tại sao
ĐCS quyết định thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội thông
qua Đổi mới, coi đó là nguồn chính danh quan trọng
nhất kể từ giữa những năm 1980.
38
Chính trị Việt Nam hiện đại
May mắn cho ĐCS, các cải cách được được áp dụng từ
Đổi mới đã giúp bảo vệ nó, nếu không muốn nói là giúp
tăng cường sự cai trị đối với đất nước. Thành tựu quan
trọng nhất mà Đổi mới mang lại cho Việt Nam là sự
phát triển kinh tế ấn tượng cùng với sự giảm nghèo đói
đáng kể. Từ Đổi mới, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
GDP trung bình hàng năm là 7,5% trong giai đoạn
1986-2006, trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ
hai ở châu Á, sau Trung Quốc. Theo đó, GDP của Việt
Nam đã tăng từ 9,8 tỷ đô la năm 1992 lên 103,5 tỷ đô
la năm 2010. GDP bình quân đầu người của Việt Nam
đã tăng gần tám lần so với cùng kỳ, từ 144 đô la năm
1992 lên 1.191 đô la vào năm 2010. Sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế đã mang lại lợi ích cho đa
số người Việt Nam, góp phần giảm đáng kể tỷ lệ nghèo
đói từ 58% năm 1993 xuống còn 14,7% năm 2007.
39
Chính trị Việt Nam hiện đại
thông qua viện trợ phát triển và đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mà còn là thị trường xuất khẩu quan trọng. Ví
dụ, việc mở rộng thị trường nước ngoài góp phần quan
trọng trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam khoảng 20% mỗi năm, từ 3,4 tỷ USD năm 1992
lên 73 tỷ USD năm 2010, khi xuất khẩu chiếm khoảng
71% GDP.
40
Chính trị Việt Nam hiện đại
yếu kém của xã hội dân sự trong nước, song việc duy
trì thành công sự ổn định chính trị trong hai mươi lăm
năm qua cho thấy ĐCS đã có được một mức chính danh
tích cực. Một số yếu tố liên quan đến chính sách Đổi
mới có thể quy cho điều này.
Đầu tiên, trong khi thành tích kinh tế kém cỏi trong
những năm 1980 đã làm dấy lên sự chỉ trích về sự cai
trị của ĐCS, thì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ đạt được
dưới thời Đổi mới cho đến gần đây đã giúp giảm bớt
sự bất mãn với sự độc quyền của ĐCS.
Hơn nữa, không giống như vào cuối những năm 1970
và đầu những năm 1980, khi một số chính sách của
ĐCS như tập thể hóa nông nghiệp và chuyển đổi
thương mại và công nghiệp ở miền Nam gặp phải sự
41
Chính trị Việt Nam hiện đại
phản kháng rộng rãi, thì hầu hết các chính sách được
ĐCS đưa ra trong thời kỳ Đổi mới giành được sự ủng
hộ rộng rãi.
Việc thực hiện chính sách Đổi mới cũng dẫn đến những
thay đổi trong chính sách đối ngoại của ĐCS, từ đó
nâng cao tính chính danh bên ngoài của nó. Ngày nay,
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 178 quốc gia, bao
gồm tất cả các cường quốc và thành viên thường trực
của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ngoài ra, Việt
Nam cũng đã trở thành thành viên của hơn sáu mươi tổ
chức liên chính phủ. Vào tháng 10/2007, lần đầu tiên
kể từ khi gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1977, Việt
Nam đã được bầu chọn một cách áp đảo để trở thành
thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an cho
nhiệm kỳ 2008-09. Năm 2007, Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh
tế toàn cầu sau hai thập kỷ cải cách kinh tế. Đây là
những thành tựu đáng chú ý đối với Việt Nam từ thực
tế là trong những năm 1980, nó vẫn phải chịu sự cô lập
42
Chính trị Việt Nam hiện đại
43
Chính trị Việt Nam hiện đại
nữa cải cách trong nước trong thời kỳ Đổi mới. Theo
đó, các mối quan hệ được cải thiện tạo điều kiện cho
Việt Nam học hỏi kinh nghiệm phát triển từ các thành
viên phát triển hơn của ASEAN. Thương mại và đầu
tư gia tăng từ các quốc gia ASEAN cũng đã đóng góp
đáng kể cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Chẳng
hạn, năm 2010 xuất và nhập khẩu với các nước
ASEAN lần lượt chiếm 13,3% và 19,3% tổng xuất
khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, vốn
FDI từ các nước thành viên ASEAN chiếm 26,4% tổng
vốn FDI đã đăng ký vào cuối năm 2010.
Tương tự, sau khi ĐCS áp dụng chính sách Đổi mới,
việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ vẫn là một vấn
đề rất quan trọng đối với ĐCS. Về mặt chính trị, việc
bình thường hóa quan hệ với Mỹ, quốc gia hùng mạnh
nhất thế giới, sẽ là một sự kiện mang tính biểu tượng
cao, đánh dấu sự nổi lên của Việt Nam như một người
chơi hoàn toàn chính danh trong cộng đồng quốc tế.
44
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thật vậy, lợi ích lớn nhất mà Việt Nam đã tích lũy từ
việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ là thương mại.
Kể từ khi Hiệp định thương mại song phương có hiệu
lực vào cuối năm 2001, giá trị của kim ngạch thương
mại hai chiều đã tăng hơn mười hai lần, đạt hơn 20 tỷ
đô la vào năm 2011. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 1/5 kim ngạch
xuất khẩu. Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng tăng
đáng kể trong những năm gần đây và Mỹ là nhà đầu tư
nước ngoài lớn thứ bảy trong năm 2010.
45
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tóm lại, quá trình chính danh hóa của ĐCS đã đạt được
những thành tựu đáng kể từ việc cải thiện mối quan hệ
với ASEAN và Mỹ, thông qua cả sự công nhận rộng
rãi hơn lẫn các lợi ích về kinh tế. Nếu không có sự cải
thiện hai mối quan hệ chính này, thành công kinh tế
của Việt Nam, và do đó, sự chuyển đổi sang tính chính
danh dựa trên thành tích của ĐCS không thể thực hiện
được. Hơn nữa, sự phụ thuộc ngày càng tăng của Việt
Nam vào bên ngoài trong vấn đề phát triển kinh tế - mà
quan hệ với ASEAN và Mỹ chỉ là hai ví dụ - cũng đánh
dấu một bước chuyển lớn trong cách thức chính danh
hóa của ĐCS. Trước Đổi mới, các nguồn trong nước
đóng vai trò chính trong quá trình chính danh hóa ĐCS,
trong khi các nguồn bên ngoài có vai trò không đáng
kể. Tuy nhiên, trong thời kỳ Đổi mới, các nguồn bên
ngoài ngày càng trở nên quan trọng đối với việc chính
danh hóa của ĐCS. Xét cho cùng, thành tích kinh tế xã
hội trong thời kỳ Đổi mới, và do đó tính chính danh
của ĐCS, phần lớn phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài
được bảo đảm thông qua việc mở rộng quan hệ đối
ngoại cũng như sự công nhận rộng rãi hơn của cộng
46
Chính trị Việt Nam hiện đại
Mặc dù tính chính danh dựa trên thành tích sẽ tiếp tục
là nguồn chính của ĐCS trong tương lai gần, song ĐCS
sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn trong dài hạn.
Như Stephen White [Giáo sư triết học Đại học Tufts,
Mỹ] chỉ ra rằng, thành tích kinh tế xã hội chỉ có thể
cung cấp cho chế độ cộng sản một tính chính danh tạm
thời và bấp bênh. Thách thức chính đối với các chế độ
cộng sản khi dựa vào tính chính danh do thành tích, là
phải duy trì tăng trưởng kinh tế liên tục trong một thời
gian dài, mà đây vốn là một nhiệm vụ khó khăn. Do
đó, trong trường hợp tăng trưởng kinh tế xã hội bị gián
47
Chính trị Việt Nam hiện đại
đoạn, ĐCS sẽ phải đối mặt với thách thức lớn trong
việc duy trì tính chính danh của mình.
Ví dụ, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
và hậu quả của nó đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm từ
8,46% trong năm 2008 xuống còn 5,32% và 6,78%
trong năm 2009 và 2010. Mặc dù xuất khẩu tiếp tục
duy trì tốc độ, song nhập khẩu cũng tăng mạnh, khiến
thâm hụt thương mại năm 2010 tăng lên 12,4 tỷ USD,
tương đương 17,3% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi
đó, kể từ năm 2005, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam liên
tục tăng. Từ năm 2005 đến 2010, Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tăng 64,32% và năm 2007 chứng kiến tỷ lệ lạm
phát hàng năm cao nhất ở mức 22,97%. Giá cả tăng
lên, ở một mức độ nào đó, làm mất đi lợi ích của tăng
trưởng kinh tế và làm giảm đáng kể mức sống, đặc biệt
là đối với người nghèo. Lạm phát cao cũng dẫn đến các
chính sách thắt chặt tiền tệ, và điều này dẫn đến hàng
ngàn vụ phá sản do thiếu tín dụng và lãi suất cao.
Chẳng hạn, trong 9 tháng đầu năm 2011, 48.700 doanh
48
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong khi đó, từ những khó khăn kinh tế của đất nước,
các nhà hoạt động chính trị cũng mở rộng và tăng
cường các hoạt động phê phán của họ, dẫn đến một loạt
49
Chính trị Việt Nam hiện đại
các vụ bắt giữ và xét xử, đặc biệt là trong những tháng
trước Đại hội lần thứ XI của ĐCS vào tháng 01/2011.
Trong số các yêu cầu chính của các nhà hoạt động, bao
gồm việc loại bỏ Điều 4 Hiến pháp, vốn quy định sự
độc quyền về quyền lực của ĐCS.
Để đối phó với thành tích kinh tế kém của đất nước,
ĐCS đã tìm cách củng cố tính chính danh từ các nguồn
khác nhằm bổ sung cho tính chính danh dựa trên thành
tích. Trong số các nguồn quan trọng nhất mà ĐCS đã
sử dụng là chủ nghĩa dân tộc. Tranh chấp với Bắc Kinh
về chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng như ranh giới trên Biển Đông đã trở
thành tâm điểm trong nỗ lực này.
50
Chính trị Việt Nam hiện đại
gồm cạnh tranh trong việc tiếp cận các nguồn tài
nguyên, hàng hải cùng chính sách gây hấn hơn của
Trung Quốc, thì việc ĐCSVN sử dụng chủ nghĩa dân
tộc tại thời điểm khó khăn về kinh tế cũng trở thành
động lực quan trọng cho tranh chấp. Như Greg Austin
[nhà nghiên cứu thuộc Viện Đông Tây ở New York,
Mỹ] khẳng định, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ
quyền và tính chính danh của chế độ.
Ví dụ, xem phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam đối với
sự kiện vào ngày 26/05/2011, trong đó tàu Giám sát
Hàng hải Trung Quốc đã cắt thiết bị giám sát địa chấn
của tàu khảo sát dầu khí Việt Nam Bình Minh 02 đang
hoạt động tại khu kinh tế đặc quyền của Việt Nam. Các
nhà lãnh đạo quốc gia đã đưa ra những tuyên bố mạnh
mẽ khác thường để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Ví dụ,
vào ngày 08/06/2011, trong chuyến thăm đảo Cô Tô
ngoài khơi tỉnh Quảng Ninh, Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết tuyên bố Việt Nam quyết tâm bảo vệ các
đảo thuộc chủ quyền và khẳng định “chúng ta sẵn sàng
dành tất cả để bảo vệ quê hương và chủ quyền biển và
51
Chính trị Việt Nam hiện đại
đảo”. Một vài ngày sau đó, vào ngày 13/06, Việt Nam
đã thực hiện một cuộc tập trận bắn đạn thật ở vùng biển
gần đảo Hòn Ông ngoài khơi tỉnh Quảng Nam. Mặc dù
Bộ Ngoại giao Việt Nam mô tả cuộc tập trận này là
“một hoạt động đào tạo thường niên của Hải quân Việt
Nam”, song truyền thông Trung Quốc cáo buộc chính
phủ Việt Nam sử dụng nó để “phân tán áp lực và cũng
như gia tăng tinh thần trong nước”.
Tại Quốc hội vào ngày 26/11/2011, khi trả lời các câu
hỏi về các biện pháp của Chính phủ nhằm bảo vệ chủ
quyền quốc gia chống lại sự gây hấn ngày càng tăng
của Bắc Kinh ở Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng khẳng định chủ quyền không tranh cãi của Việt
Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, và nói thêm
rằng Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm giữ
Hoàng Sa từ Việt Nam vào năm 1974. Đây là lần đầu
tiên một nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam công khai
thừa nhận việc Trung Quốc chiếm giữ Hoàng Sa bằng
vũ lực.
52
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ngoài ra, để hỗ trợ cho yêu sách của mình, Việt Nam
đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa Lực lượng vũ
trang, đặc biệt là Lực lượng Hải quân và Không quân.
Chính phủ đã đặt hàng 6 tàu ngầm lớp Kilo, 20 máy
bay chiến đấu phản lực Sukhoi và 4 tàu khu trục tối tân
từ Nga. Mặc dù kinh tế khó khăn, ngân sách quốc
phòng Việt Nam vẫn tăng đều đặn trong vài năm qua.
Các báo cáo liên quan đến các nỗ lực hiện đại hóa quân
đội của Việt Nam và hình ảnh về các cuộc tập trận của
quân đội cũng đã được phổ biến rộng rãi thông qua các
phương tiện truyền thông nhà nước. Sau sự kiện Bình
Minh 02, chính quyền Việt Nam thậm chí đi xa hơn khi
cho phép biểu tình chống Trung Quốc được tổ chức
trong mười tuần liên tiếp tại Hà Nội, điều cực kỳ hiếm
ở Việt Nam khi Chính phủ kiểm soát chặt chẽ các cuộc
biểu tình của người dân.
Những quan sát trên cho thấy Chính phủ Việt Nam sử
dụng chủ nghĩa dân tộc không chỉ đơn thuần là một
công cụ để tập hợp sự ủng hộ của người dân cho chính
sách đối với các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.
53
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thay vào đó, các phản ứng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ
khác thường với những diễn tiến ở Biển Đông trong
bối cảnh bất ổn kinh tế trong nước cho thấy chủ nghĩa
dân tộc đã trở thành một công cụ bổ sung tính chính
danh cho ĐCS, nhằm bù đắp cho những tác động tiêu
cực mà khó khăn kinh tế gây ra cho tính chính danh
dựa trên thành tích của nó. Tuy nhiên, chúng ta cần
phải nhớ rằng chủ nghĩa dân tộc từ lâu đã được ĐCS
sử dụng như một nguồn của tính chính danh. Điều cần
lưu ý ở đây là ĐCS nhấn mạnh hơn vào chủ nghĩa dân
tộc trong thời kỳ kinh tế khó khăn khi tính chính danh
dựa trên thành tích của nó bị suy giảm.
Hơn nữa, trong khi tình cảm dân tộc có thể giúp tăng
cường sự ủng hộ của người dân, ĐCS nhận thức rõ rằng
chiến lược này có thể phản tác dụng nếu các phong trào
dân tộc phát triển vượt quá tầm kiểm soát. Ví dụ, sau
mười tuần biểu tình liên tiếp, Ủy ban Nhân dân Hà Nội
cuối cùng đã cấm các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
vào mùa hè năm 2011. Ủy ban đã đưa ra một thông báo
giải thích rằng các cuộc biểu tình ban đầu tạo ra tình
54
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thứ hai, khi chủ nghĩa dân tộc đã nổi lên như một
nguồn quan trọng mà từ đó ĐCS có thể có thêm được
sự hỗ trợ rộng rãi, thì quan hệ đối ngoại của Việt Nam
có thể bị ảnh hưởng. Như thể hiện trong phân tích trên,
các phản ứng dân tộc mạnh mẽ của Việt Nam đối với
55
Chính trị Việt Nam hiện đại
các diễn tiến ở Biển Đông đã làm căng thẳng thêm quan
hệ với Bắc Kinh. Do đó, ĐCS dường như thận trọng
trong việc sử dụng chủ nghĩa dân tộc để củng cố tính
chính danh của nó, không bao giờ cho phép nó đi xa
đến mức gây thiệt hại mối quan hệ với Trung Quốc.
Rốt cuộc, ĐCS nhận thức rõ rằng mối quan hệ xấu đi
với Trung Quốc có thể tác động tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế của Việt Nam, và do đó, làm suy giảm tính
chính danh dựa trên thành tích của mình.
7. Kết luận
56
Chính trị Việt Nam hiện đại
57
Chính trị Việt Nam hiện đại
cộng sản “không có lựa chọn nào khác ngoài việc thiết
lâp tính chính danh dựa trên thủ tục”.
58
Chính trị Việt Nam hiện đại
những thay đổi tích cực trong việc thúc đẩy cải cách
dân chủ và quản trị tốt. Ví dụ gần đây nhất là quyết
định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng
03/2012 về việc bỏ phiếu tín nhiệm hàng năm đối với
các chức vụ chủ chốt do Quốc hội bầu, bao gồm Chủ
tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, các thành
viên Nội các, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao,
Giám đốc Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và Kiểm
toán Nhà nước. Theo đó, quyết định cũng có thể được
quy định trong bản Hiến pháp sửa đổi sắp tới. Những
ví dụ này phản ánh những nỗ lực liên tục của ĐCS
trong việc duy trì tính chính danh, và qua đó là sự cai
trị của mình đối với đất nước.
59
Chính trị Việt Nam hiện đại
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, dễ thấy chính trị phi chính
thức (ngoài lề) tương tác ngày càng tăng với chính trị
chóp bu và trở nên nổi bật hơn, một xu hướng rõ ràng
gắn liền với truyền thông xã hội. Sự bùng nổ của các
diễn đàn dân sự trên internet đã và đang trở thành một
3
Journal of Current Southeast Asian Affairs 2/2016
4
A researcher at the Institute for Legislative Studies in Hanoi
60
Chính trị Việt Nam hiện đại
đặc trưng chính trong nền chính trị thông tin mới ở Việt
Nam. Sự phát triển của xã hội dân sự cũng như sự mở
rộng không gian chính trị tại Việt Nam, trước đây đến
từ các hoạt động phát triển của giới NGO [các tổ chức
phi chính phủ] hay giới bất đồng chính kiến “trung
thành”, thì nay đến từ đa dạng các hoạt động chính trị
và xã hội, bao gồm việc tham gia vào truyền thông xã
hội cũng như hành động tập thể cùng nhau của các cá
nhân tổ chức phi chính thức (ngoài lề) nhằm giải quyết
một vấn đề cụ thể.
61
Chính trị Việt Nam hiện đại
62
Chính trị Việt Nam hiện đại
Những sự phát triển gần đây cho thấy “sự nhạy cảm”
của một số vấn đề sẽ tùy thuộc thời điểm và tình hình,
cũng như các tác nhân luôn sẵn sàng mở rộng ranh giới
ngôn luận và không gian chính trị. Các cụm từ như
“minh bạch”, “trách nhiệm giải trình” và “vận động”,
từng bị coi là cấm kị, giờ đây được sử dụng phổ biến,
và thậm chí cụm từ “xã hội dân sự” giờ đây cũng được
sử dụng rộng rãi hơn so với quá khứ.
Không gian mạng cho phép sự tham gia chính trị theo
cách cả chính thức lẫn phi chính thức. Trên truyền
thông xã hội ở Việt Nam, chúng ta thấy sự tranh cãi
ngày càng tăng về chính trị, với sự tham gia của đa
dạng các lực lượng/tác nhân ở mọi mức. Việc sử dụng
truyền thông xã hội để sản xuất và phát tán thông tin
ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp trong những năm
gần đây. Các tác nhân trên không gian mạng rất đa
dạng, từ các lực lượng của nhà nước, các nhà bình
luận/phân tích chính trị độc lập, các công dân
“internet”, cho đến các nhà bất đồng chính kiến. Sự
63
Chính trị Việt Nam hiện đại
tương tác giữa các tác nhân này đã góp phần quan trọng
trong việc mở rộng không gian chính trị ở Việt Nam.
64
Chính trị Việt Nam hiện đại
65
Chính trị Việt Nam hiện đại
66
Chính trị Việt Nam hiện đại
67
Chính trị Việt Nam hiện đại
68
Chính trị Việt Nam hiện đại
69
Chính trị Việt Nam hiện đại
70
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ảnh hưởng ngày càng tăng của truyền thông xã hội góp
phần tạo ra những thay đổi lớn trong ý thức công chúng
cũng như vai trò của truyền thông truyền thống do nhà
nước kiểm soát, tới mức mà Facebook giờ đây trở
thành nguồn thông tin quan trọng và ảnh hưởng nhất ở
Việt Nam. Các nhà báo dòng chính thậm chí phải theo
dõi những tranh luận trên Facebook để viết bài cho
truyền thông in ấn. Phần lớn trong số 18.000 nhà báo
được Nhà nước cấp phép có tài khoản Facebook và tích
cực tương tác trên không gian này. Kết quả, truyền
thông in ấn dòng chính do Nhà nước kiểm soát cũng
ngày càng chuyển sang online. Một áp lực ngày càng
tăng đối với truyền thông dòng chính, đó chính là nguy
cơ mất đi niềm tin và sự quan tâm của độc giả.
71
Chính trị Việt Nam hiện đại
công chúng cũng như làm cho mình trở nên thân thiện
hơn. Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Văn
phòng Chính phủ là hai trong số những cá nhân/tổ chức
Nhà nước đi đầu trong cách tiếp cận này, khi sử dụng
Facebook để thông tin các hoạt động của mình tới công
chúng. Việc sử dụng truyền thông xã hội của họ nhận
được nhiều sự phản hồi tích cực.
72
Chính trị Việt Nam hiện đại
Hội nghị này cho thấy những tín hiệu về một nỗ lực
ngày càng tăng trong việc tước bỏ quyền lực của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi một chủ đề quan trọng
trong chương trình của Hội nghị là đánh giá lại các nỗ
lực chống tham nhũng, bao gồm thành tích của Ủy ban
73
Chính trị Việt Nam hiện đại
74
Chính trị Việt Nam hiện đại
75
Chính trị Việt Nam hiện đại
76
Chính trị Việt Nam hiện đại
Chẳng hạn, blog Ba Sàm ra đời vào năm 2007 với mục
đích giáo dục người dân về các vấn đề chính trị, xã hội,
kinh tế và văn hóa từ một góc nhìn khác. Trang này
đăng các bản dịch từ các bài báo và đoạn trích từ các
quyển sách tiếng Anh và tiếng Pháp, và link tới nhiều
nguồn mới.
77
Chính trị Việt Nam hiện đại
Từ lời kết tội chống lại chủ trang Ba Sàm, cho thấy thế
giới blog có một ảnh hưởng rõ ràng đối với chính trị
Việt Nam.
78
Chính trị Việt Nam hiện đại
79
Chính trị Việt Nam hiện đại
80
Chính trị Việt Nam hiện đại
cấp cao. Trong một số trường hợp, những bài viết thậm
chí tiết lộ các bí mật và thông tin rất nhạy cảm mà sau
đó được xác nhận bởi truyền thông Nhà nước. Blog này
thu hút hàng triệu độc giả và người theo dõi thường
xuyên ở lúc cao điểm. Quan tâm của với blog giảm đi
vào năm 2013 khi giới lãnh đạo chính trị đạt được một
sự thỏa hiệp và blog đã không thể tiếp tục cung cấp
thông tin/phân tích có thể kiểm chứng về các quan chức
tham nhũng cùng các phi vụ của họ.
81
Chính trị Việt Nam hiện đại
lượng lãnh đạo’ Nhà nước và xã hội cũng như vai trò
của quân đội, với tư cách thiết chế bảo vệ ĐCS và chế
độ, hơn là bảo vệ người dân, lãnh thổ. Ngoài ra họ kêu
gọi công khai cho một hệ thống đa đảng. Sau khi quá
trình sửa đổi Hiến pháp kết thúc, Diễn đàn Xã hội Dân
sự vẫn tiếp tục hoạt động, khởi xướng một loạt các
chiến dịch khác tập trung vào các vấn đề thể chế cũng
như thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân sự.
82
Chính trị Việt Nam hiện đại
Quan tâm của công chúng bắt đầu từ một số tiếng nói
riêng lẻ trên truyền thông xã hội về kế hoạch này và tác
83
Chính trị Việt Nam hiện đại
động tai hại của nó đối với môi trường và đời sống tình
cảm của người dân Hà Nội. Trần Đăng Tuấn - một cựu
quan chức cao cấp - viết một lá thư gửi cho Ủy ban
Nhân dân Tp Hà Nội yêu cầu giải thích về kế hoạch
cũng như đình chỉ việc thực hiện. Bức thư của ông
được đăng lên mạng vào ngày 16/03/2015, và lan
truyền rộng rãi trên Facebook.
Ngày hôm sau, trong phản ứng đầu tiên, đại diện chính
quyền, ông Phan Đăng Long, Phó Giám đốc Ban tuyên
giáo nói rằng việc chặt hạ cây không cần phải xin ý
kiến của người dân. Phát biểu này được xem như một
biểu hiện cho sự vô cảm của chính quyền địa phương
với sự lo lắng và bất an của người dân. Ngô Bảo Châu
- một giáo sư toán học nổi tiếng - cũng công khai một
bức thư gửi tới chính quyền Hà Nội, nêu lên ba vấn đề
lớn cùng 10 câu hỏi quan trọng về kế hoạch này.
Sự tích cực trực tuyến mà hai nhân vật công chúng này
khởi xướng ngay lập tức biến thành các hành động tập
thể. Chẳng hạn, trên một diễn đàn của các nhà báo, có
84
Chính trị Việt Nam hiện đại
các cuộc tranh luận gay gắt về các vấn đề nghiêm trọng
gắn liền với kế hoạch chặt hạ cây. Một số cuộc khảo
sát nhỏ trên các diễn đàn này cho thấy sự ủng hộ của
đại đa số nhà báo đối với ý tưởng của Trần Đăng Tuấn
và Ngô Bảo Châu.
85
Chính trị Việt Nam hiện đại
nghệ sĩ, ca sĩ, giảng viên đại học và sinh viên cũng đưa
ra các bình luận trên trang Facebook riêng của mình,
trên các cổng thông tin điện tử, và trên các tờ báo giấy
để thể hiện sự ủng hộ đối với việc bảo vệ cây cũng như
yêu cầu cho sự minh bạch thông tin, và sự tôn trọng
cho quan điểm của công chúng và chuyên gia.
86
Chính trị Việt Nam hiện đại
87
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nhà nước đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng của mạng
xã hội, khi nó đã triển khai nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát mạng xã hội, cả chính thức lẫn phi
chính thức. Các biện pháp chính thức bao gồm sử dụng
bộ máy quản lý, cùng các hình thức khuyến khích và
88
Chính trị Việt Nam hiện đại
Dù Nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ đối với thông
tin và thảo luận trên truyền thông truyền thống, song
nó ngày càng gặp khó khăn hơn trong việc kiểm soát
nội dung trên truyền thông xã hội. Đặc biệt là các nội
dung liên quan đến các vấn đề chính trị nhạy cảm và tự
do tôn giáo. Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của ĐCS -
bày tỏ sự quan ngại về sức mạnh ngầm của truyền
thông xã hội. Bài học về việc sử dụng Internet trong
những cuộc nổi dậy gần đây, đặc biệt là Mùa Xuân Ả
Rập vào đầu những năm 2010, khiến cho Nhà nước trở
nên cảnh giác với các bình luận và thảo luận chính trị
trên mạng xã hội.
Báo chí Việt Nam luôn được xem là một công cụ tuyên
truyền quan trọng của Nhà nước. Có 812 cơ quan báo
89
Chính trị Việt Nam hiện đại
chí, xuất bản 1.084 ấn bản, bao gồm tin tức hàng ngày
và tạp chí định kỳ; 1.174 website tin tức; và 67 tổ chức
truyền thông, với 101 kênh truyền hình và 78 kênh
radio. Tuy nhiên, tất cả do Nhà nước sở hữu và tuân
theo chỉ đạo của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng
như Ban Tuyên giáo Trung ương; và được coi là các
công cụ sản xuất và phổ biến những dạng thông tin chỉ
phục vụ lợi ích của ĐCS.
90
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thứ hai, ĐCS sử dụng ảnh hưởng chính trị của mình,
cũng như đưa ra khuyến khích tài chính cho mạng lưới
các doanh nghiệp, đại học, các nhóm hacker và các tổ
chức dân sự, tất cả kiểm soát hệ thống internet của
mình bằng cách sử dụng các bộ lọc, tường lửa, và cho
một số website vào danh sách ngăn chặn. Nhà nước yêu
cầu sự hợp tác và hỗ trợ từ các công ty truyền thông và
91
Chính trị Việt Nam hiện đại
92
Chính trị Việt Nam hiện đại
lưu trữ dữ liệu ở Việt Nam. Nghị định này cũng yêu
cầu người sử dụng internet sử dụng tên thật khi online,
điều sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tự do ngôn luận.
Hầu hết lo ngại của những người chỉ trích Nghị định
này liên quan đến sự giám sát rộng rãi và liên tục trên
không gian mạng nhằm kiểm soát các công dân online,
cũng như ngôn từ mơ hồ của Nghị định, vốn cho phép
chính quyền trừng phạt bất cứ công dân nào tùy theo ý
93
Chính trị Việt Nam hiện đại
94
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thay vào đó, nó nên được đánh giá một cách thận
trọng. Sự chân thực và nguồn gốc của các thông tin lan
truyền trên truyền thông xã hội, trong nhiều trường
hợp, rất khó kiểm chứng. Do đó, truyền thông xã hội
trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự lan truyền các tin
đồn chính trị.
95
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong khi nhiều nhà quan sát rất hi vọng rằng truyền
thông xã hội có thể trở thành công cụ quyền lực để thúc
đẩy các phong trào xã hội liên quan đến các vấn đề như
bất bình đẳng, bất công và môi trường. Tuy nhiên việc
chuyển các phản ứng của đám đông trên mạng xã hội
thành các hành động tập thể trên thực thế là một công
việc khó khăn. Trường hợp 6.700 người vì 6.700 cây
tương đối hiếm.
96
Chính trị Việt Nam hiện đại
7. Kết luận
97
Chính trị Việt Nam hiện đại
chúng và khiến cho các biện pháp kiểm soát theo kiểu
truyền thống, như kiểm duyệt, trở nên ít hữu hiệu.
Nhìn chung, với sự phát triển của truyền thông xã hội,
công chúng trở nên hiểu biết hơn về các vấn đề chính
trị và kinh tế quan trọng; làm cho xã hội dân sự có
những bước phát triển mới, xét về tác động cũng như
mức độ tổ chức, điều phối, huy động, dù còn một số
giới hạn. Với việc sử dụng truyền thông xã hội, các
tác nhân trong xã hội dân sự có thể mở rộng ranh giới
của những điều được chấp nhận và tạo ra một không
gian chính trị rộng mở hơn.
98
Chính trị Việt Nam hiện đại
99
Chính trị Việt Nam hiện đại
Carlyle A. Thayer6
1. Giới thiệu
Bài này khảo sát vai trò đàn áp của bốn tổ chức Nhà
nước chính, vốn là trụ đỡ cho chế độ độc tài Cộng sản
ở Việt Nam, gồm: Bộ Công an (BCA), Bộ đội Biên
phòng (BĐBP), Tổng cục II (tình báo quân đội) (TCII),
5
Politics in Contemporary Vietnam: Party, State, and Authority
Relations, edited by J. London, 2015
6
Carlyle A. Thayer is Emeritus Professor, The University of New
South Wales at the Australian Defense Force Academy, Canberra,
Australia
100
Chính trị Việt Nam hiện đại
Cơ quan an ninh Việt Nam thường kết tội các nhà hoạt
động dựa trên những từ ngữ mơ hồ của Điều 88 Bộ luật
Hình sự như “Tuyên truyền chống phá Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam” (nay là điều 117):
101
Chính trị Việt Nam hiện đại
102
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nhà nước, cũng như sự phản ứng mạnh của nó đối với
các quan điểm bất mãn. Và Nhà nước dựa vào đàn áp
để làm câm lặng các cá nhân tổ chức tạo thành “xã hội
dân sự chính trị”, qua đó củng cố quyền uy của nó cũng
như ngăn chặn sự xói mòn cơ sở cai trị độc tài.
2. Bộ máy đàn áp
Bộ Công an (BCA)
103
Chính trị Việt Nam hiện đại
BĐBP được thành lập năm 1959, hoạt động chủ yếu ở
các vùng nông thôn. Chịu trách nhiệm xử lý tội phạm
thông thường, hoạt động chính trị bất hợp pháp và các
cuộc nổi dậy. Theo một giải thích có thẩm quyền, trong
những năm 1980, BĐBP đã lờ đi hoặc chỉ phối hợp
theo phương ngang với Bộ Công An, cấp trên danh
nghĩa của mình, và báo cáo trực tiếp với Ban Bí thư.
Theo nghĩa này, BĐBP có thể được xem là một sự mở
rộng kiểm soát của ĐCS ở cấp địa phương. Trong
những năm gần đây, Bộ Công An đã có một sự kiểm
soát theo chiều dọc lớn hơn đối với BĐBP.
104
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tổng cục II
Rất ít thông tin về hoạt động của Tổng cục II cho đến
tháng 03/2001 khi nó thu hút sự chú ý của công chúng
về việc nghe lén điện thoại của các quan chức cao cấp
ĐCS. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu được cho đã sử dụng
105
Chính trị Việt Nam hiện đại
Năm 2004, hai trong số các tướng lĩnh quân đội nghỉ
hưu được kính trọng nhất của Việt Nam đã nêu lên sự
can thiệp của Tổng cục II vào các vấn đề nội bộ trong
thư riêng gửi cho lãnh đạo cấp cao. Tướng Võ Nguyên
Giáp yêu cầu điều tra “các hoạt động ngoài vòng pháp
luật” của Tổng cục II. Ông Giáp lưu ý rằng Ban Chấp
hành Trung ương ĐCS, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và
Ban Kiểm tra Trung ương đều biết vấn đề mà không có
biện pháp khắc phục nào. Trong nhiều năm, ông Giáp
buộc tội Tổng cục II đã cố gắng thao túng bè phái trong
ĐCS và đã bôi nhọ danh tiếng chính trị của nhiều nhân
vật hàng đầu trong đó có ông.
Các cáo buộc của Tướng Giáp được sự ủng hộ của một
Tướng nghỉ hưu khác là Nguyễn Nam Khánh trong một
106
Chính trị Việt Nam hiện đại
lá thư gửi lãnh đạo ĐCS trước thềm cuộc họp toàn thể
của Ban Chấp hành Trung ương. Ông Khánh cáo buộc
Tổng cục II “vu khống, đe dọa, tra tấn, ám sát chính
trị”, và thao túng phe phái nội bộ cho mục đích phe
phái của riêng mình. Ông Khánh cũng đã cung cấp các
trích đoạn từ Bản tin được phân loại của Tổng cục II
để bảo vệ cho các cáo buộc của mình.
Theo truyền thống, BTTTT đóng một vai trò lớn trong
việc kiểm soát thông tin của xã hội. Bộ này giám sát
ngành xuất bản, bao gồm sách báo, tạp chí định kỳ, và
sử dụng quyền hạn của mình để kiểm duyệt các quan
điểm cũng như cấm các ấn phẩm được cho là đi ngược
lại chính sách của ĐCS. Sự phát triển của internet đã
đặt ra những thách thức lớn đối với vai trò truyền thống
của BTTTT. Tuy nhiên, nó là một trong những tổ chức
chủ động nhất trong việc ban hành các quy định nhằm
chống lại việc sử dụng internet của những người bất
đồng chính kiến.
107
Chính trị Việt Nam hiện đại
Từ năm 2001, BTTTT đã ban hành một loạt các chỉ thị
khi nỗ lực theo kịp với những tiến bộ trong việc phổ
biến internet tại Việt Nam. Ví dụ, Nghị định 55/2001
về Quản lý và Sử dụng internet, quy định chủ quán cà
phê chịu trách nhiệm pháp lý trong việc giám sát khách
hàng của mình và báo cáo các vi phạm pháp luật.
Một quy định khác của BTTTT được ban hành vào
tháng 08/2005, cấm sử dụng internet để chống đối Nhà
nước; gây mất ổn định an ninh, nền kinh tế hoặc trật tự
xã hội; xâm phạm quyền của các tổ chức và cá nhân.
108
Chính trị Việt Nam hiện đại
109
Chính trị Việt Nam hiện đại
BTTTT cũng ban hành thêm các quy định yêu cầu
chủ quán cà phê internet phải có giấy phép đặc biệt,
trong đó yêu cầu kiểm tra gia đình, nghề nghiệp và
tài chính của họ. Bộ cũng thông báo rằng các nhà
cung cấp dịch vụ internet sẽ chịu trách nhiệm chặn
các trang web chống Chính phủ. Họ được yêu cầu lấy
ảnh ID, theo dõi và lưu trữ thông tin về các hoạt động
của người dùng.
Năm 2008, các hoạt động khai thác bauxite của Trung
Quốc tại Tây Nguyên đã chịu sự chỉ trích rộng rãi từ
một mạng lưới đa dạng người dân, vốn sử dụng mạng
xã hội, như Facebook, để bày tỏ quan điểm của họ.
Việc sử dụng truyền thông xã hội để chỉ trích các chính
sách của Chính phủ, một điều tương đối mới lạ lúc đó,
khiến cho vào cuối năm đó, cơ quan an ninh đã can
thiệp mạnh mẽ, trong đó có việc chặn Facebook và các
trang blog chống bauxite. Ở khía cạnh này, cơ quan an
110
Chính trị Việt Nam hiện đại
ninh Việt Nam bắt chước Trung Quốc, nơi chính quyền
chặn Facebook vào tháng 07/2008 cũng như áp đặt các
hạn chế đối với Twitter và YouTube sau đó. Khi các
nhà hoạt động Công giáo Việt Nam lập trang web để
công khai tranh chấp đất đai của họ với các chính
quyền, các quan chức an ninh cũng chặn các trang này.
111
Chính trị Việt Nam hiện đại
112
Chính trị Việt Nam hiện đại
113
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ở một khía cạnh, việc đàn áp vào năm 2009, được xem
nhằm xóa sạch hoạt động của Khối 8406. Nhưng ở một
khía cạnh khác, nó phản ánh một sự phát triển mới
trong nền chính trị trong nước. Trong quá khứ, các nhà
hoạt động chính trị tập trung sự phản kháng của họ vào
các vấn đề liên quan đến sự tự do biểu đạt, hội họp, và
đức tin. Vào năm 2009, những người bất đồng chính
kiến mở rộng chương trình để bao gồm các vấn đề về
môi trường liên quan đến khai thác bauxite, quan hệ
với Trung Quốc, tham nhũng của các quan chức cấp
cao, cùng những vấn đề khác.
Từ năm 2009 các nhà hoạt động chính trị ngày càng sử
dụng internet để thể hiện sự phê phán của mình đối với
Nhà nước. Việc sử dụng internet của các blogger cá
nhân có số lượng người người theo dõi đông là một sự
114
Chính trị Việt Nam hiện đại
phát triển mới khác. Các blogger nhanh chóng lựa chọn
các chủ đề và đưa ra quan điểm của họ trên internet và
mời độc giả đưa ra phản hồi. Không vấn đề nào nổi bật
hơn chuyện liên quan đến Biển Đông, nơi mà sự gây
hấn của Trung Quốc khiến cho những người dân tộc
chủ nghĩa tức giận, và sự lạm dụng quyền lực của các
quan chức. Vào năm 2012, ít nhất 25 nhà hoạt động
ủng hộ dân chủ, bao gồm các blogger và nhạc sĩ, bị kết
án với án tù nhiều năm. Trong nửa đầu năm 2013, 46
nhà hoạt động dân chủ và blogger bị bắt.
Việc mở rộng lĩnh vực đấu tranh mang đến một thách
thức mới cho tính chính danh của Nhà nước Việt Nam.
Ngoài những thách thức đối với tính chính danh dựa
trên các thành tích và duy lý – pháp lý, giờ đây Nhà
nước thấy rằng yêu sách về tính chính danh dựa trên
chủ nghĩa dân tộc cũng bị thách thức. Điều này mang
đến một mối đe dọa nghiêm trọng đối với quyền lực
của Nhà nước khi phản ứng chống Trung Quốc gia tăng
và lan rộng từ ngoài lề cho tới giới chóp bu. Ngày càng
có nhiều người trong giới này đặt vấn đề về sự phản
115
Chính trị Việt Nam hiện đại
ứng được cho là không thích đáng của Nhà nước đối
với sự xâm phạm của Trung Quốc ở Biển Đông.
Vào năm 2009, xảy ra một tranh chấp đất đai lớn khác
giữa Giáo hội Công giáo với chính quyền địa phương
ở Quảng Bình. Vấn đề liên quan đến quyền sở hữu
khuôn viên Nhà thờ Tam tòa. Nhà thờ bị Mỹ ném bom
116
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vấn đề tranh chấp quyền sở hữu nhà thờ Tam Tòa tiếp
tục nóng lên trong hai mươi năm tiếp theo, khi mà vào
năm 2009, các giáo chức Giáo hội Công giáo trở nên
mạnh mẽ hơn trong các yêu sách của mình thông qua
tổ chức các buổi tập trung ngoài trời trên nền của nhà
thờ và kêu gọi trả lại đất cho nhà thờ. Điều này khiến
Ủy ban Tôn giáo Nhà nước tuyên bố rằng chính quyền
“không có ý định trả lại bất cứ tài sản nào cho Giáo
hội Công giáo và bất cứ tổ chức tôn giáo khác” mà đã
bị Nhà nước tịch thu.
Trong suốt phần còn lại của năm 2009, vấn đề ngày
càng leo thang. Vào tháng 7, khi 150 giáo dân dựng
một nhà thờ tạm trên khu đất tranh chấp, họ nhanh
chóng bị công an giải tán, và sau đó công an bắt giữ
11 nhà hoạt động Công giáo. Việc bắt giữ này kích
117
Chính trị Việt Nam hiện đại
thích một loạt các cuộc biểu tình lớn của người Công
giáo ở các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An và Hà Tĩnh vào
cuối tháng 7.
Vào đầu tháng 8, truyền thông Công giáo cho biết rằng
toàn bộ giáo phận Vinh, với khoảng 500.000 người từ
178 giáo xứ, tuần hành phản đối bạo lực của công an.
Vào giữa tháng 8, trong ngày lễ Đức mẹ Lên trời, Giáo
hội Công giáo tổ chức một cuộc biểu dương khác với
200.000 giáo dân trước Tòa giám mục Vinh. Các băng
rôn và áp phích lên án sự tàn bạo của cảnh sát và kêu
gọi cho công lý. Cuộc mít-tinh được sự ủng hộ của giới
chức cấp cao trong Giáo hội và chắc chắn là cuộc biểu
tình tôn giáo lớn nhất trong lịch sử Việt Nam.
118
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào năm 2007, thầy Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam
lần hai và khiến quan chức chính quyền tức giận khi
119
Chính trị Việt Nam hiện đại
120
Chính trị Việt Nam hiện đại
Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc. Các nhóm thiểu
số chiếm khoảng 15% dân số. Trong Chiến tranh Việt
Nam, một vài nhóm thiểu số (còn được biết đến với tên
gọi “người Thượng”) phát triển một ý thức tập thể về
bản sắc nhằm đối phó lại với sự di cư của người Việt
lên Tây Nguyên. Họ sử dụng tên chung là Degar. Trong
những năm 1960 cộng đồng thiểu số Degar hình thành
một phong trào chính trị có tên gọi FULRO để theo
đuổi lý tưởng của mình. Sau năm 1975, một số bộ phận
của FULRO chống lại sự cai trị áp đặt của Cộng sản,
tuy nhiên vào giữa những năm 1990 họ chỉ còn là một
lực lượng yếu ớt.
121
Chính trị Việt Nam hiện đại
122
Chính trị Việt Nam hiện đại
4. Ba cấp độ đàn áp
Tổng cục An ninh được tổ chức theo lãnh thổ với văn
phòng ở tất cả 59 tỉnh và 5 thành phố trung ương. Các
viên chức công an cũng được phân công ở cấp
phường/xã, nơi họ tiến hành giám sát và báo cáo về các
hoạt động của những người ủng hộ dân chủ và tự do
tôn giáo. Việc giám sát cũng sử dụng rộng rãi mạng
lưới những người cung cấp thông tin địa phương
(informant).
123
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trường hợp của Khối 8406 minh họa cho cách an ninh
tiến hành theo dõi và giám sát. Chẳng hạn, trước và
trong Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2006 tại Hà
Nội, công an đã phong tỏa các con đường nơi các thành
viên của Khối 8406 sống, ngắt kết nối điện thoại và hạn
chế sự đi lại của họ; cùng với các thông báo cấm người
nước ngoài đi vào khu vực bị phong tỏa cũng như có
công an đứng chốt.
Khi internet lần đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam,
chính quyền đã thiết lập tường lửa để ngăn chặn truy
cập vào các trang web mà họ cho phản động, bao gồm
các trang web của các nhóm chống cộng của người
Việt Nam hải ngoại, các tổ chức nhân quyền quốc tế và
các cơ quan thông tấn quốc tế như Đài Á Châu Tự Do
và Đài Tiếng nói Mỹ. Việc chặn Đài Tiếng nói Mỹ đã
được dỡ bỏ vào năm 2009 nhưng vẫn được áp dụng cho
Đài Á Châu Tự Do. Vào cuối tháng 12/2009, các tường
lửa này đã được mở rộng áp dụng cho BBC tiếng Việt,
và đôi khi với cả Facebook.
124
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào năm 2008 2009, các quan chức Việt Nam phải
đối mặt với thách thức, ngày càng tăng, từ các blogger,
những người đăng các bình luận chính trị lên internet
và không có mối liên hệ rõ ràng nào với các nhà hoạt
động dân chủ. Ví dụ, vào đầu năm 2009, một nhóm bảy
trăm cá nhân đã tham gia vào một trang Facebook để
thúc đẩy sự phản đối của họ đối với việc khai thác
bauxite. Các nhà hoạt động môi trường khác đã thành
lập một trang web cực kỳ phổ biến dành cho tranh cãi
về khai thác bauxite. Một số blogger độc lập cũng trở
nên tích cực và thu hút được nhiều sự quan tâm đối với
blog của họ.
125
Chính trị Việt Nam hiện đại
Các nhà lãnh đạo ĐCS bị đặt vào tình thế không thuận
lợi khi phải bảo vệ cách họ xử lý mối quan hệ với Trung
Quốc, để không chịu sự chỉ trích của các công dân yêu
nước có tư tưởng dân tộc, trong đó bao gồm nhiều
người trong giới tinh hoa chính trị. Chế độ phản ứng
bằng cách đàn áp những người chỉ trích cũng như ngăn
chặn việc viết blog trên internet. Vào tháng 05/2010,
Trung tướng Vũ Hải Triều, Phó Tổng cục trưởng Tổng
cục II, đã tuyên bố trong một cuộc họp báo rằng bộ
phận của ông đã phá hủy 300 trang web và blog cá nhân
độc hại.
Một số người chỉ trích chế độ cho rằng Tổng cục II chịu
ảnh hưởng chính trị của Bắc Kinh và đang sử dụng thiết
bị điện tử tinh vi để xác định các nhà hoạt động chống
Trung Quốc. Năm 2010, một loạt các cuộc tấn công
vào trang Thông Luận, một trang web bình luận chính
trị, và Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, một trang web
Công giáo, mà địa chỉ IP của cuộc tấn công thuộc
Viettel, một công ty thuộc sở hữu của Bộ Quốc phòng.
126
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tin tặc xâm nhập vào trang blog Osin vào tháng
01/2010 và đăng các tin nhắn bịa đặt nói rằng chủ
trang, nhà báo Huy Đức, đã nghỉ hưu vì ông “không
còn ý tưởng mới”. Một thông báo bịa đặt cũng xuất
hiện trên DCVOnline, một trang tin tức và thảo luận,
thông báo rằng trang đóng cửa do xung đột nội bộ. Tin
tặc đã truy cập vào cơ sở dữ liệu của diễn đàn thảo luận
x-cafevn.org và đăng tên đăng nhập, email, và địa chỉ
IP của hơn 19.000 người dùng. Hồ sơ bịa đặt của quản
trị viên và nhà hoạt động liên quan đến x-cafevn.org đã
được đăng trên www.x-cafenv.db.info. Tóm lại, mục
127
Chính trị Việt Nam hiện đại
tiêu là làm cho cộng đồng mạng tin rằng các cơ quan
tình báo Hà Nội làm việc với các hacker có thể có được
hồ sơ hầu như bất kỳ nhà hoạt động hay người dùng
internet nào ở Việt Nam.
Các cuộc điều tra độc lập của Google và McAfee, một
công ty bảo mật internet uy tín, đã xác định phần lớn
các máy chủ liên quan đến các cuộc tấn công mạng
được thực hiện thông qua các địa chỉ IP ở Việt Nam.
Giám đốc kỹ thuật của McAfee, là George Kurtz, kết
luận rằng “chúng tôi tin rằng thủ phạm có động cơ
chính trị và có thể liên quan với chính phủ Việt Nam...
Đây có thể là ví dụ mới nhất về các cuộc tấn công mạng
có động cơ chính trị”.
128
Chính trị Việt Nam hiện đại
người Việt Nam ở hải ngoại truy cập các trang web
này. Neel Mehta, một thành viên của nhóm bảo mật
Google, đã kết luận rằng các cuộc tấn công mạng nhắm
vào các trang blog bất đồng chính trị. Cụ thể, các cuộc
tấn công này đã cố gắng ngăn chặn sự phản đối việc
khai thác bauxite tại Việt Nam. Vào tháng 12/2009 và
tháng 01/2010, cuộc tấn công đã đánh sập trang web
bauxiteViệtNam.info.
129
Chính trị Việt Nam hiện đại
130
Chính trị Việt Nam hiện đại
Kinh nghiệm của hai thành viên nổi bật của Khối 8406
minh họa việc sử dụng sự quấy rối và đe dọa của lực
lượng A42, Bộ Công An. Một nhà báo ở Hà Nội đã báo
cáo về sự việc của luật sư Nguyễn Văn Đài:
131
Chính trị Việt Nam hiện đại
132
Chính trị Việt Nam hiện đại
Chiến thuật đấu tố công khai liên quan đến việc huy
động hàng xóm chửi bới - và đôi khi sử dụng vũ lực.
Các ví dụ minh họa như Hoàng Minh Chính, Trần Khải
Thanh Thủy và Nguyễn Văn Đài.
133
Chính trị Việt Nam hiện đại
134
Chính trị Việt Nam hiện đại
Sau đó, cũng đột ngột như khi bắt đầu, đám đông nhanh
chóng giải tán. Các nhân chứng cho biết rằng một
nhóm mười công an đứng trong con hẻm bên ngoài
nhưng không có hành động gì. Ông Chính sau đó đã
kết luận, “chính công an tổ chức các vụ gây rối”.
135
Chính trị Việt Nam hiện đại
136
Chính trị Việt Nam hiện đại
độc lập và thẩm vấn họ kéo dài. Năm 2009, nhà báo
Huy Đức viết blog với bút danh Osin cùng các bình
luận về nhân quyền ở Liên Xô. Ông bị tờ báo Sài Gòn
Tiếp thị đuổi việc do áp lực từ cơ quan an ninh.
Bùi Thanh Hiếu, người viết blog dưới bút danh Người
Buôn Gió, đã đăng bình luận chỉ trích Việt Nam trong
các vấn đề liên quan đến quan hệ với Trung Quốc,
tranh chấp đất đai Công giáo, và khai thác bauxite.
Hiếu đã nhiều lần bị cảnh sát thẩm vấn vào năm 2008
- 2009, vì vai trò trong việc xúi giục các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc và bị bắt vào tháng 8.
137
Chính trị Việt Nam hiện đại
138
Chính trị Việt Nam hiện đại
hàng trăm cảnh sát được trang bị súng điện chỉ đứng
nhìn và không có hành động gì.
Trong các cuộc biểu tình tranh chấp đất đai của Giáo
hội Công giáo tại giáo xứ Tam Tòa ở miền Trung Việt
Nam năm 2009, chính quyền địa phương đã sử dụng
các chiến thuật nặng tay tương tự. Vào ngày 20/07, sau
khi người Công giáo dựng lên một nhà nguyện tạm trên
sân nhà thờ, họ đã bị cảnh sát đuổi đi bằng hơi cay và
dùi cui điện. Giới chức nhà thờ ở địa phương lên án sự
tàn bạo của cảnh sát và yêu cầu thả mười một giáo dân
đang bị giam giữ.
139
Chính trị Việt Nam hiện đại
chiến tranh của Mỹ, làm xáo trộn trật tự công cộng, và
tấn công các quan chức đang làm nhiệm vụ”. Khi
chính quyền địa phương triệu tập các quan chức của
Giáo hội, họ đã từ chối tuân thủ và yêu cầu trả tự do
cho những người bị giam giữ, trả lại tài sản của Giáo
hội, bồi thường cũng như tạm dừng tuyên truyền bôi
nhọ trên truyền thông Nhà nước.
140
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nhà nước tiếp tục phản ứng với các cuộc biểu tình
tranh chấp đất đai Công giáo bằng một chiến dịch phỉ
báng chưa từng thấy trên các phương tiện truyền thông
Nhà nước cũng như chặn các trang web Công giáo. Các
phương tiện truyền thông Nhà nước cũng đưa ra các
khẳng định của Chính phủ, phủ nhận mọi trách nhiệm
hoặc có liên quan đến bất kỳ hành vi bạo lực nào. Các
cuộc biểu tình tranh chấp đất đai Công Giáo ở Hà Nội
và Tam Tòa chấm dứt khi chính quyền địa phương đưa
máy ủi đến san bằng khu các đất tranh chấp và chuyển
chúng thành các công viên công cộng.
141
Chính trị Việt Nam hiện đại
hoạt động phi pháp và “lạm dụng các quy định tôn giáo
của Đảng và Chính phủ, để phá hoại Chính phủ và
chống lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Các quan
chức Chính phủ được chỉ thị buộc các đệ tử của thầy
Hạnh rời khỏi tu viện Bát Nhã và phân tán họ đến các
chùa Phật giáo nằm dưới sự kiểm soát của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam hoặc trở về quê của mình.
Vào ngày 27/09, một đám đông ước tính khoảng từ 100
đến 150 người, bao gồm cảnh sát mặc thường phục,
được trang bị dao, dùi cui điện và gậy, đã bao vây tu
viện, đuổi 150 tu sĩ và sau đó lục soát nơi này. Cảnh
sát mặc đồng phục đứng gần đó nhưng không có hành
động. Các đệ tử của thầy Hạnh được đưa lên xe buýt,
xe tải, xe hơi đưa đi một quãng xa và bỏ lại bên đường.
Những người khác bị buộc phải tự rời đi. Vào ngày
hôm sau, đám đông quay trở lại và tấn công 200 nữ tu
và thanh niên buộc họ phải chạy trốn đến chùa Phúc
Huệ gần đó, nơi được cảnh sát bảo vệ. Ba nhà lãnh đạo
đã bị giam giữ riêng không thể liên lạc được. Cảnh sát
mặc đồng phục đã thiết lập các trạm kiểm soát để ngăn
142
Chính trị Việt Nam hiện đại
143
Chính trị Việt Nam hiện đại
Người Degar báo cáo một loạt các áp lực từ đe dọa đến
lạm dụng thể xác để buộc họ ký vào một văn bản từ bỏ
đức tin của họ và/hoặc tuyên bố là thành viên của Giáo
hội Tin Lành do Nhà nước cấp phép. Cũng có rất nhiều
báo cáo nhưng chưa được xác minh về các cuộc biểu
tình công cộng thường xuyên của người Degar bên
ngoài trụ sở xã và huyện. Thỉnh thoảng cảnh sát sử
dụng hơi cay và dùi cui điện để giải tán đám đông.
Sau hội nghị APEC năm 2006, Việt Nam đưa ra xét xử
các lãnh đạo của Khối 8406. Bảy thành viên của Khối
144
Chính trị Việt Nam hiện đại
8406 bị bắt và xét xử trong thời gian sáu tuần bắt đầu
vào tháng 05/2007. Vào ngày 11/05/2007, Lê Thị Công
Nhân và Nguyễn Văn Đài bị đưa ra trong một phiên tòa
kéo dài bốn giờ và bị kết án lần lượt là bốn và năm năm
tù vì tội tuyên truyền chống Nhà nước.
145
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào tháng 12/2009, các luật sư đại diện cho năm nhà
bất đồng chính kiến bị bắt đã cho biết rằng chính quyền
đã sửa đổi lời kết tội để bao gồm việc vi phạm Điều 79
của Bộ luật Hình sự với án tối đa là tử hình đối với
những người thực hiện các hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân.
146
Chính trị Việt Nam hiện đại
147
Chính trị Việt Nam hiện đại
148
Chính trị Việt Nam hiện đại
thắng đưa tin rằng các nhà bất đồng chính kiến “đã
nhận tội và cầu xin sự khoan hồng”.
Tháng 10/2009, các quan chức an ninh bắt chín nhà bất
đồng chính trị khác và tiến hành xét xử chiếu lệ tại Hà
Nội và Hải Phòng. Tất cả các bị cáo đều bị kết tội, bị
kết án từ hai đến sáu năm tù cộng với hai đến ba năm
bị quản thúc tại gia.
149
Chính trị Việt Nam hiện đại
Xuân Nghĩa, là một nhà văn liên quan đến Khối 8406.
Ông bị buộc tội đăng 57 bài viết trên internet. Ông
Nghĩa bị kết án sáu năm tù giam. Nguyễn Văn Túc,
một nông dân, và nhà hoạt động vì quyền đất đai, bị kết
án bốn năm tù. Nguyễn Văn Tính, một nhà tiểu luận,
và Nguyễn Mẫn Sơn, một cựu đảng viên ĐCS đã đăng
22 bài viết trên internet, mỗi người bị kết án ba năm
rưỡi tù. Nguyễn Kim Nhân, một thợ điện, đã bị kết án
hai năm cộng với hai năm quản chế. Ngô Quỳnh, một
sinh viên đại học, người lên kế hoạch cho một cuộc
biểu tình ở thời điểm ngọn đuốc Olympic Trung Quốc
đến Thành phố Hồ Chí Minh, đã bị kết án ba năm tù.
Các Kitô hữu Degar bị giam giữ trong thời gian dài cho
biết thường xuyên bị cảnh sát địa phương đánh đập và
tra tấn. Vào tháng 05/2008, Y Ben Hdok, một người
gốc ở Đăk Lăk, đã chết trong khi bị giam giữ mà không
có lời giải thích thỏa đáng của chính quyền. Bộ Ngoại
giao Mỹ cho biết rằng trong năm 2009, không giống
như những năm trước, không có báo cáo đáng tin cậy
nào về số lượng người chết trong đồn công an. Tuy
150
Chính trị Việt Nam hiện đại
151
Chính trị Việt Nam hiện đại
5. Kết luận
Bài này trình bày tổng quan về các tổ chức chính quyền
có liên quan, gồm: Bộ Công an, Bộ đội Biên phòng,
Tổng cục II và Bộ Thông tin và Truyền thông; đồng
thời cũng chỉ ra ba thành phần đàn áp chính, gồm: theo
dõi và giám sát; quấy rối và đe dọa; và bắt giữ, giam
giữ, xét xử và bỏ tù.
152
Chính trị Việt Nam hiện đại
153
Chính trị Việt Nam hiện đại
1. Giới thiệu
7
Journal of Current Southeast Asian Affairs 2/2016
8
Hai Hong Nguyen currently works at Queensland University of
Technology (QUT)
154
Chính trị Việt Nam hiện đại
với tên gọi “Làn sóng Dân chủ hóa Thứ ba”. Làn
sóng này làm gia tăng số lượng các nền dân chủ từ 44
nước vào năm 1973 lên 86 nước vào năm 2001. Vào
năm 2011, “Mùa Xuân Ả Rập” lật đổ các chế độ độc
tài ở Tunisia, Ai Cập, và Libya, cũng như truyền cảm
hứng cho các cuộc nổi dậy khác trong thế giới Ả Rập,
từ Yemen, Bahrain cho đến Syria, Saudi Arabia và
Jordan, và từ đó dấy lên hi vọng về một làn sóng dân
chủ khác – “làn sóng thứ tư”. Các sự kiện này cho thấy
dân chủ có thể nảy nở và phát triển ở mọi nơi trên thế
giới, bao gồm các xã hội thần quyền trong thế giới Ả
Rập vốn trước đó bị coi là “ngoại lệ”, hay “miễn
nhiễm” đối với dân chủ hóa, cũng như củng cố hơn nữa
nhận thức rằng các chế độ độc tài, tự bản chất, cuối
cùng cũng sụp đổ.
155
Chính trị Việt Nam hiện đại
156
Chính trị Việt Nam hiện đại
157
Chính trị Việt Nam hiện đại
chủ, đó là sự trì trệ của nhiều nền dân chủ lâu đời lẫn
các nền dân chủ mới, cũng như tình trạng ngày một tệ
hơn của các quyền chính trị và dân sự trên toàn cầu.
Các chế độ độc tài đã khéo léo áp dụng các chiến lược
một cách chủ động nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát
và quyền lực của họ, bao gồm cả việc tận dụng internet.
Khi mới xuất hiện, internet được xem như “công cụ
giải phóng” cho các phong trào chống chế độ độc tài
trước đây, thì nay được dùng để giám sát các nhà hoạt
động dân chủ.
158
Chính trị Việt Nam hiện đại
Sự bền vững của các chế độ độc tài tại Việt Nam và
Trung Quốc cho thấy cần phải suy nghĩ lại niềm tin
truyền thống về tính mong manh của các chế độ này. Ở
Việt Nam, sự vươn lên và dẻo dai của chế độ gắn liền
với sự cai trị của ĐCSVN.
159
Chính trị Việt Nam hiện đại
Bài báo này xem Việt Nam như một trường hợp điển
hình về sự dẻo dai của chế độ độc tài. Nó bắt đầu với
160
Chính trị Việt Nam hiện đại
việc tóm tắt lại các nghiên cứu về sự dẻo dai của các
chế độ độc tài. Sau đó, phân tích các biện pháp mà
Đảng thực hiện từ sau Đổi mới. Phân tích cho thấy các
biện pháp của ĐCSVN nhằm thích ứng với các áp lực
nội sinh cũng như ngoại sinh và có ba mục đích chính:
161
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong thời điểm khủng hoảng, sự dẻo dai của các chế
độ độc tài thể hiện ở khả năng của nó trong việc dự
đoán cũng như chuẩn bị cho các cú sốc, thực hiện các
biện pháp hữu hiệu để đối phó với khủng hoảng khi nó
xảy ra. Chế độ nào có khả năng sống sót trước các cuộc
khủng hoảng như vậy, thì tính chính danh của nó sẽ
được tăng cường. Trong những thập kỷ gần đây, các
học giả đã xác định được một số yếu tố góp phần duy
trì sự dẻo dai của các chế độ độc tài. Những yếu tố này
có thể phân chia thành hai nhóm: các yếu tố trong nước,
được xác định bởi cách tiếp cận cấu trúc, và các ảnh
hưởng khuếch tán liên quốc gia, vốn được truyền cảm
ứng bởi sự gia tăng nhanh chóng số lượng các nền dân
chủ từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh.
Để giữ quyền lực, các nhà cai trị độc tài trước hết dựa
vào một bộ máy an ninh nội bộ trung thành, hữu hiệu,
được trang bị và đào tạo tốt. Bộ phận cốt lõi của bộ
máy này, được trao cho bổn phận đối phó với các cuộc
162
Chính trị Việt Nam hiện đại
biểu tình đại chúng, cũng như khi cần thiết, hăm dọa
hoặc sử dụng bạo lực để khôi phục trật tự.
Ngoài các hành động đàn áp như giải tán các cuộc biểu
tình, quấy rầy và bắt giữ những người đối lập, bộ máy
này cũng thực hiện các hành động “ít gây hấn” hơn như
không cấp giấy phép hay cắt các dịch vụ xã hội cơ bản,
đánh thuế đặc biệt, và lệnh cho những kẻ côn đồ tấn
công những người bất đồng chính kiến. Khi làm như
vậy, các nhà cai trị độc tài muốn truyền tới những
người bất đồng thông điệp là sự phản kháng có tổ chức
sẽ gây nguy hiểm cho cá nhân họ cũng như không thể
đạt được mục đích.
163
Chính trị Việt Nam hiện đại
164
Chính trị Việt Nam hiện đại
các lực lượng xã hội mới không thể kiểm soát thông
qua các hình thức kiểm soát cũ. Đối với các chế độ độc
tài sở hữu nguồn tài nguyên dồi dào, như các nước Ả
Rập, vấn đề này ít gai góc hơn. Điều này là vì chế độ
có thể thu về một nguồn tiền khổng lồ từ việc bán dầu,
khí đốt dự trữ. Và do đó, có thể dùng chúng để phân
phối cho những người ủng hộ mình. Từ đó tạo ra một
tầng lớp trung lưu phụ thuộc vào chế độ do sự sung túc
về vật chất. Đối với các chế độ độc tài nghèo tài
nguyên, tăng trưởng kinh tế là con dao hai lưỡi. Trong
khi biện minh cho sự cai trị của mình thông qua thành
tích kinh tế, họ cũng phải tránh những khủng hoảng
kinh tế ngắn hạn, và tìm kiếm các phương pháp mới để
kiểm soát một xã hội ngày càng phức tạp và năng động.
Tuổi thọ của chế độ độc tài cũng được quyết định bởi
việc nó có các thiết chế hình thức như đảng phái chính
trị hay không, cũng như các thiết chế này hoạt động có
hiệu quả không. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy
việc có một đảng chính trị mạnh, được thể chế hóa cao
có ý nghĩa quan trọng đối với sự bền vững của các chế
165
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ngoài ra, đảng cũng ràng buộc các thành viên lại với
nhau thông qua việc hợp pháp hóa một ý thức hệ chính
thức, cùng những chia sẻ về cuộc đấu tranh vũ trang
mà họ đã cùng nhau trải qua, đặc biệt trong trường hợp
của các chế độ độc tài cách mạng như Việt Nam, Trung
Quốc. Quan trọng nhất, là việc đảng thiết lập các thủ
tục dựa trên chế độ nhân tài và áp dụng cho mọi người,
về cách mà đảng viên được tuyển chọn và sa thải. Từ
lợi thế của việc trở thành đảng viên, điều này đem đến
một sự cam kết tín nhiệm hơn rằng, việc trung thành
liên tục với đảng sẽ chuyển thành các lợi ích cá nhân
và nghề nghiệp về dài hạn.
Các đảng chính trị mạnh cũng có thể củng cố quyền lực
của mình bằng cách quản lý tốt việc chuyển giao quyền
lực. Các đảng như vậy có xu hướng thiết lập các chuẩn
mực và thủ tục cho việc kế nhiệm. Cơ chế “dân chủ
166
Chính trị Việt Nam hiện đại
trong đảng” này giúp giảm bớt bất đồng trong đảng và
trong giới tinh hoa, qua đó giảm bớt rủi ro đảng mất đi
sự thống nhất. Kết quả là, giới tinh hoa cầm quyền trở
nên ít chia rẽ hơn khi đối mặt với sự phản đối của công
chúng. Đồng thời cho thấy không có sự chia rẽ rõ ràng
nào mà có thể bị những người bên ngoài khai thác.
Bầu cử, một tiêu chí của dân chủ, cũng có lợi cho sự
tồn tại của các chế độ độc tài. Dù nhiều người đặt nghi
vấn về ý nghĩa thực sự của chúng trong các chế độ độc
tài. Bởi vì chúng thường được coi là mang tính hình
thức, song bầu cử trong chế độc tài giúp kết nối giới
tinh hoa với công chúng. Trong thực tế, các chế độ độc
tài sử dụng bầu cử để củng cố và tăng cường tính chính
danh của mình; chia rẽ và làm suy yếu phe đối lập; xác
định những người phê phán chế độ; tạo ra diễn đàn cho
việc thúc đẩy sự thỏa hiệp giữa những người thách thức
tiềm năng; giảm bớt sự tham nhũng và lạm quyền; tăng
trách nhiệm của Chính phủ; và mang đến cho nhà độc
tài cơ hội rời bỏ quyền lực không thông qua bạo lực.
167
Chính trị Việt Nam hiện đại
Kết quả là, các chế độ độc tài thường tổ chức các cuộc
bầu cử mang hình thức dân chủ sẽ có tuổi thọ lớn hơn
các chế độ không thực hiện bầu cử.
Bên cạnh đó, một chế độ độc tài bền vững cần phải có
khả năng chống lại các áp lực thay đổi từ bên ngoài.
Có nghĩa là, tuổi thọ của chế độ độc tài không chỉ gắn
liền với các yếu tố trong nước, mà còn gắn liền với bối
cảnh quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây, các học
giả về chuyển đổi chế độ đã không còn xem sự chuyển
đổi dân chủ chỉ là do các yếu tố trong nước nữa.
Việc ở gần các nước dân chủ là một yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy dân chủ hóa hơn bất cứ yếu tố xã
hội cụ thể nào khác. Ngoài ra, việc thiết lập dân chủ ở
một nước cũng có một hiệu ứng lan tỏa mạnh lên các
nước lân cận. Điều này thể hiện ở việc dân chủ hóa ở
nước này, truyền cảm hứng cùng các kinh nghiệm huy
động cho phe đối lập thách thức và lật đổ một chế độ ở
nước khác. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, hiệu ứng
lan tỏa này không phải lúc nào cũng khiến chế độ độc
168
Chính trị Việt Nam hiện đại
tài sụp đổ, như trong trường hợp của Armenia năm
2003, Belarus năm 2006, khi bản thân những người cai
trị độc tài cũng học được các bài học từ quá khứ để
ngăn chặn hiệu ứng này.
169
Chính trị Việt Nam hiện đại
Từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến khi kết thúc
cuộc chiến chống Mỹ vào năm 1975, tính chính danh
và chế độ độc tài của ĐCSVN được xây dựng trên ba
nền tảng – truyền thống, duy lý – pháp lý, và uy tín cá
nhân. Trong thời kỳ hậu chiến, ĐCS dựa vào khả năng
của nó trong việc đương đầu và đối phó với khủng
hoảng. Vào giữa những năm 1980, Việt Nam rơi vào
khủng hoảng xã hội toàn diện dẫn đến sự xói mòn niềm
tin của công chúng vào chế độ, và vì vậy đe dọa tính
chính danh của nó. ĐCS lúc đó đối mặt với một câu hỏi
lớn: cải cách hay là chết?
Vào cuối năm 1986, ĐCS đưa ra một chính sách gọi là
Đổi mới, trong đó từ bỏ hệ thống kinh tế mệnh lệnh
vốn được cho là nguyên nhân gây ra khủng hoảng,
cũng như tiến hành các cải cách chính trị mang tính
chọn lọc mà dường như với các mục đích theo hướng
dân chủ hóa.
170
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào năm 1996, ĐCS khẳng định rằng đất nước đã vượt
qua cuộc khủng hoảng toàn diện; niềm tin của công
chúng đã được khôi phục và chế độ chính trị được đảm
bảo chắc chắn.
Vào đầu năm 2016, Việt Nam trở thành nước có thu
nhập trung bình thấp và đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với hầu hết các nước, bao gồm các cựu thù chiến tranh
của mình.
Phân tích sau đây sẽ tập trung vào các biện pháp mà
ĐCS thực hiện trong ba thập kỷ qua, bao gồm các chiến
thuật đàn áp để đối phó với một thách thức mới vốn là
hệ quả của Đổi mới – sự gia tăng phê phán đối với các
thiết chế Marx – Lenin và kêu gọi cải cách chính trị
nhằm thúc đẩy dân chủ thực sự.
171
Chính trị Việt Nam hiện đại
của người dân, vốn đã chịu khốn khổ sau hàng thập kỷ
chiến tranh. Trong khi đó, tham nhũng trong giới chóp
bu lan rộng, tương phản với sự bần cùng hóa của người
dân. Các cuộc biểu tình dân sự nổ ra ở các vùng nông
thôn và đô thị, bắt đầu vào giữa những năm 1980, thể
hiện sự suy yếu năng lực của chế độ, và đe dọa tính
chính danh của ĐCS.
Các nghiên cứu cho thấy rằng thành tích của chế độ là
một yếu tố quan trọng góp phần xây dựng và duy trì sự
ủng hộ rộng rãi cho nó. Cụ thể hơn, các chính sách kinh
tế rõ ràng và hữu hiệu trong việc mang lại cho người
dân điều mà họ kỳ vọng là một kích thước quan trọng
trong việc đánh giá năng lực, hiệu quả của chế độ.
Vào đầu những năm 1990, Việt Nam được xem là nước
kém phát triển, người dân ở trong tình trạng nghèo đói
và thiếu ăn kinh niên. Tuy nhiên, trong một thập kỷ
sau, Đổi mới đã mang lại thành tích kinh tế ấn tượng.
Tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm trong giai
đoạn từ 1991 – 1995 là 8.2%, và trong 10 năm từ 1988
172
Chính trị Việt Nam hiện đại
173
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong thời kỳ hậu Đổi mới, các cuộc biểu tình và tuần
hành của người dân trở nên bình thường trong đời sống
chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, một điều đáng ngạc
nhiên là, không cuộc biểu tình nào trong số này liên
quan đến suy thoái kinh tế, như xảy ra ở nhiều nước
khác. Điều này không có nghĩa là đất nước có hệ thống
quản trị tốt, nhưng chế độ đã tránh được cuộc khủng
hoảng xã hội do tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu vào năm 2008 thông qua việc đảm bảo nền
kinh tế tăng trưởng 4 - 6% trong bảy năm qua.
Trong khi thế giới nhiều khả năng phải đối mặt với một
chu kỳ suy thoái kinh tế mới, thì nền kinh tế Việt Nam
vẫn tăng trưởng ở mức 6.68% vào năm 2015 và được
kì vọng sẽ tăng 6.5% vào năm 2016 – tỉ lệ mà hầu hết
các nước đều mơ ước. ĐCSVN có thể đối mặt với
những chỉ trích về sự bóp nghẹt đối không gian tự do
chính trị, song thành tích kinh tế cao không thể phủ
nhận cho phép tăng cường tính chính danh của nó từ
Đổi mới khi các cơ sở truyền thống của tính chính danh
đang bị phai mờ.
174
Chính trị Việt Nam hiện đại
175
Chính trị Việt Nam hiện đại
hấp thụ sự tức giận vào trong các cơ chế do Đảng kiểm
soát, cũng như đến từ chính nhu cầu bên trong của
Đảng. Về phương diện tổ chức, chúng đã tăng cường
khả năng của Đảng trong việc đối phó với những thách
thức mới.
Cải cách chính trị đáng chú ý nhất là việc Đảng áp dụng
dân chủ cơ sở vào năm 1998 nhằm đối phó với các cuộc
biểu tình của nông dân ở Thái Bình vào năm 1997. Ban
đầu được thực hiện thí điểm, sau đó áp dụng trên diện
rộng. Dù dân chủ cơ sở thường được coi chỉ mang tính
hình thức, nhằm phục vụ cho những tu từ của Đảng về
dân chủ, song vẫn có những câu chuyện thành công
trong đó người dân địa phương có thể thực hiện một số
quyền chính trị. Nhìn chung, điều cần được nhấn mạnh
ở đây là dân chủ ở cơ sở cung cấp một cơ chế trao
quyền cho cả Đảng lẫn người nông dân. Dân chủ ở cơ
sở là cơ chế cho phép Đảng ổn định vùng nông thôn và
giảm bớt sự bất mãn của người dân.
176
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tóm lại, giải pháp mới này nhằm chính thức hóa một
thực tế chính trị đã được thực hiện từ đầu những năm
1990. Đó là, vào tháng 03/1994, theo Quyết định 90/91
của Thủ tướng, một số lượng lớn các doanh nghiệp Nhà
nước được sát nhập thành các Tập đoàn Nhà nước quy
177
Chính trị Việt Nam hiện đại
Các tập đoàn này được mô phỏng theo các Chaebol của
Hàn Quốc, và đứng đầu bởi một đảng viên. Chắc chắn,
chính sách doanh nghiệp của ĐCS nhằm thích ứng với
các điều kiện thị trường đã gia tăng khả năng của Đảng
trong việc thu nạp các lực lượng kinh tế mới trong thời
kì cải cách. Do đó góp phần hình thành nên một mối
quan hệ hỗ tương giữa doanh nhân và Đảng. Ngoài ra,
bằng việc bổ nhiệm đảng viên giám sát các tập đoàn,
vốn theo đuổi chủ nghĩa tư bản, Đảng tìm cách “gia
tăng sự tương thích của mình” và xây dựng hình ảnh
về “Đảng của cả dân tộc, đại diện cho các lực lượng
sản xuất tiến bộ nhất”.
178
Chính trị Việt Nam hiện đại
tức giận của công chúng khi Tổng Bí thư đảng cay đắng
thừa nhận rằng “tham nhũng ở mọi nơi”. Dù các chiến
dịch chống tham nhũng không đạt được nhiều thành
tựu và thường bị chỉ trích là chỉ nói mồm, song ít nhất
Đảng cũng đã thành công trong việc trấn an sự tức giận
của công chúng bằng cách cho thấy quyết tâm của mình
trong việc chiến đấu chống tham nhũng.
179
Chính trị Việt Nam hiện đại
Một trường hợp khác gần đây hơn là các cuộc biểu
tình bất ngờ của người dân Hà Nội chống lại chiến
dịch chặt bỏ 6.700 cây xanh do chính quyền địa
phương thực hiện. Biểu tình có sự tham gia của hàng
nghìn người dân và cuối cùng khiến chính quyền
ngừng chiến dịch và kỉ luật các quan chức liên quan.
Chủ tịch Tp Hà Nội sau đó phải xin lỗi. Dù vấn đề xảy
ra ở cấp độ địa phương, song một lần nữa cho thấy
cách mà chính quyền ứng phó linh hoạt với công luận,
qua đó kiểm soát được sự giận giữ, điều có thể trở
thành nguyên nhân gây ra khủng hoảng chính trị ở
nhiều nơi trên thế giới.
Một vị lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam gần đây đã ra
lệnh cho bộ máy an ninh của chế độ không được nhẹ
tay với các lực lượng chính trị đối lập và sẵn sàng đàn
áp bất cứ mối đe dọa đối lập nào ngay khi còn ở trong
trứng nước. Zachary Abuza chỉ ra năm chiến thuật mới
180
Chính trị Việt Nam hiện đại
Các chiến thuật này bao gồm: nhắm vào các luật gia,
những người đại diện cho các tù nhân chính trị; sử dụng
cáo buộc hình sự để làm chệch hướng những lời chỉ
trích rằng những người bị kết án là tù nhân chính trị;
dung túng cho các cuộc tấn công vật lý của cảnh sát
thường phục và những kẻ côn đồ đối với những người
bất đồng chính kiến; tuyển mộ một đội quân dư luận
viên để theo dõi và phát hiện các nhà hoạt động, các
blogger và những người dùng Facebook chống chính
quyền online; và sử dụng sức mạnh cưỡng chế đối với
các trang web đang cố gắng thực hiện bước nhảy từ các
blog riêng lẻ sang các cổng tin tức đa tác giả - một bước
chuyển quan trọng cho sự phát triển của truyền thông
độc lập.
181
Chính trị Việt Nam hiện đại
chính trị nổi tiếng như: Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy
Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, và gần đây nhất là
Tạ Phong Tần, đã bị trục xuất ra nước ngoài sau khi
được thả ra khỏi nhà tù. Đây không phải là một chiến
thuật mới mà các nhà cai trị độc tài sử dụng để tách
người bất đồng chính kiến khỏi quần chúng. Trường
hợp của nhà văn Xô viết nổi tiếng Aleksandr
Solzhenitsyn là một ví dụ điển hình. Bằng cách sử dụng
chiến thuật này, chính quyền Việt Nam đã vô hiệu hóa
tiếng nói của những người bất đồng chính kiến này và
ngăn không cho nó lan rộng ra toàn xã hội.
182
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tây”. Liên kết với phương Tây được xác định bằng sáu
mối quan hệ sau:
(1) liên kết kinh tế, với dòng thương mại, đầu
tư và tín dụng;
(2) liên kết liên chính phủ, bao gồm các quan
hệ quân sự và ngoại giao song phương cũng
như tham gia vào các liên minh, hiệp ước và
các tổ chức quốc tế do phương Tây lãnh đạo;
(3) liên kết kỹ trị, khi một phần của giới chóp
bu của quốc gia được giáo dục ở phương Tây
và/hoặc có mối quan hệ nghề nghiệp với các
trường đại học phương Tây hay các tổ chức đa
phương mà phương Tây lãnh đạo;
(5) liên kết thông tin, hay dòng thông tin vượt
qua biên giới thông qua công nghệ viễn thông,
183
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong khi liên kết có thể không phải là mối đe dọa trực
tiếp đối với chế độ, song Levitsky và Way cho rằng
liên kết rất hữu hiệu trong việc hạ bệ một chế độ độc
tài. Tuy nhiên, sự dẻo dai của chế độ độc tài ĐCSVN
khiến cho những người quan tâm đến lý thuyết liên kết
thấy rằng lý thuyết này không đúng cho Việt Nam
(hoặc không phải lúc này).
Mục tiêu mở rộng liên kết với phương Tây của ĐCS về
cơ bản là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như
bảo vệ nó khỏi những áp lực từ dân chủ hóa từ bên
ngoài. Kể từ sau Đổi mới, chế độ đã thành công trong
việc mở rộng quan hệ quốc tế, chuyển từ thành viên
184
Chính trị Việt Nam hiện đại
của phe xã hội chủ nghĩa thành thành viên của cộng
đồng quốc tế.
Mối liên kết của chế độ với phương Tây được tăng
cường hơn nữa thông qua việc Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới vào năm 1997, và tham gia
các hiệp định thương mại với Liên minh Châu Âu vào
năm 2015 và Mỹ năm 2000 và gần đây hơn là Hiệp ước
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương vào năm 2016. Quan
hệ ngoại giao với các quốc gia phương Tây được tăng
cường và thể hiện ở nhiều lớp khác nhau, từ quan hệ
đối tác thông thường đến toàn diện và chiến lược. Các
mối liên kết quốc gia với phương Tây cũng được minh
họa bằng sự hiện diện của hàng trăm tổ chức phi chính
phủ quốc tế, hầu hết có trụ sở tại các nước phương Tây
và hoạt động tại đó.
185
Chính trị Việt Nam hiện đại
186
Chính trị Việt Nam hiện đại
lập quan hệ đối tác chiến lược với các nước châu Âu
khác, như Anh, Đức, Pháp. Dù với bất cứ giả thuyết
nào về quan hệ quốc tế của chế độ, thì các mối liên kết
sâu sắc của nó với phương Tây cho đến nay chứng tỏ
là đòn bẩy giúp củng cố khả năng của chế độ trong việc
chống lại các thách thức ngoại sinh đối với sự tồn tại
của nó.
3. Kết luận
Đầu bài báo này, tôi đã khẳng định chế độ độc tài Cộng
sản Việt Nam trở nên dẻo dai hơn kể từ sau Đổi mới
khi nó có thể khôi phục và duy trì niềm tin của công
chúng, kiểm soát sự chống đối trong nước và giảm bớt
áp lực từ bên ngoài. Tôi đã minh họa cho lập luận này
bằng cách phân tích bốn yếu tố: thành tích kinh tế, uyển
chuyển về chính trị, đàn áp bất đồng chính kiến và mở
rộng quan hệ quốc tế.
187
Chính trị Việt Nam hiện đại
hậu Đổi mới, khi tính chính danh truyền thống đang
phai nhạt dần. ĐCSVN đã thừa nhận rằng, nhờ vào việc
tự do hóa kinh tế, niềm tin của người dân vào chế độ
đã được khôi phục. Trong lĩnh vực chính trị, ĐCS đã
thử nghiệm và áp dụng các thay đổi để tự điều chỉnh
theo các điều kiện của thị trường. Quan trọng hơn, với
tư cách là Đảng cầm quyền, những thay đổi của ĐCS
đã có tác động lớn đến việc quản lý khủng hoảng của
chế độ.
Về mặt chính trị, chế độ độc tài của ĐCSVN bao gồm
các đặc điểm có thể giải thích cho sự dẻo dai của nó
khi đối mặt với các cuộc khủng hoảng. Nó mang các
đặc điểm của một chế độ độc tài thông minh, theo định
nghĩa của David Shambaugh, khi đáp ứng các yêu cầu
của công chúng và tạo ra các cơ chế nhằm mục đích
hấp thụ và quản lý sự phẫn nộ của người dân. Việc áp
dụng dân chủ cơ sở là một ví dụ về cách mà Đảng sử
dụng một thiết chế Nhà nước để kiểm soát khủng
hoảng chính trị. Nó cũng có những đặc điểm của chế
độ độc tài cạnh tranh theo Levitsky và Way, khi không
188
Chính trị Việt Nam hiện đại
gian cạnh tranh phần nào được cho phép và dân chủ
được thực hiện ngay trong Đảng cầm quyền. Những
phát triển trong giới chóp bu chính trị trước và trong
Đại hội XII của Đảng, cũng như phong trào tự ứng cử
trong cuộc bầu cử Quốc hội vào năm 2016, minh họa
cho những đặc điểm này.
Bài báo này cũng cho thấy mối liên kết với phương Tây
không đặt ra một mối đe dọa nào cho sự tồn tại của nó,
mà thay vào đó lại giúp tăng cường tính chính danh của
chế độ.
189
Chính trị Việt Nam hiện đại
như sự thao túng bởi lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản
thân hữu đang xuất hiện, cùng sự hình thành của một
xã hội dân sự ngày càng tự tin với sự hỗ trợ của
internet, đã tạo ra những thách thức thực sự đối với sự
cai trị của ĐCS. Về ảnh hưởng của các mối quan hệ
quốc tế, tính chính danh của Đảng đang bị đe dọa bởi
mối quan hệ của nó với Trung Quốc hơn là mối quan
hệ gần gũi với phương Tây. Các yêu sách về chủ quyền
của Trung Quốc đối với Biển Đông và các hành động
hung hăng của họ đối với ngư dân Việt Nam đã khiến
ĐCSVN phải cảnh giác/thận trọng với người dân nếu
muốn thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với đồng minh ý
thức hệ của mình.
Tóm lại, trong những năm tới chế độ độc tài Cộng sản
Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức, và sự tồn tại của nó
sẽ phụ thuộc vào sự thông minh trong việc đối phó với
những thách thức liên quan đến niềm tin của công
chúng vào chế độ kể trên.
190
Chính trị Việt Nam hiện đại
191
Chính trị Việt Nam hiện đại
1. Giới thiệu
9
Critical Asian Studies 47:3; 2015
10
Department of Political and Social Change, Australian National
University, Canberra, Australia
192
Chính trị Việt Nam hiện đại
193
Chính trị Việt Nam hiện đại
trích trở nên trực diện hơn. Một tổ chức gồm các
cựu chiến binh chống Pháp, Mỹ và chính quyền
Sài Gòn đã kiến nghị Quốc hội và Ủy ban Trung
ương Đảng lựa chọn giới lãnh đạo bằng cách bỏ
phiếu kín. Họ cũng tổ chức các cuộc thảo luận
công khai tại Thành phố Hồ Chí Minh về các vấn
đề như làm thế nào để Quốc hội trở nên dân chủ
hơn. Tại cuộc họp ngày 07/01/1990, những người
tham gia đã “tạo nên một cơn bão chỉ trích sự thất
bại của ĐCS trong hầu hết mọi khía cạnh quản trị;
trở nên ngày một phi dân chủ; bị chi phối bởi các
nhóm tham nhũng với các quyền lợi cố hữu”; cùng
cảnh báo “hoặc chọn… thực hiện dân chủ hóa nếu
không người dân sẽ tự giải quyết vấn đề theo cách
của mình”.
194
Chính trị Việt Nam hiện đại
Cuộc thảo luận của nhóm cựu chiến binh vào tháng
01/1990 là cuộc thảo luận cuối cùng, và số thứ tư
của tạp chí không bao giờ xuất hiện. Tạp chí sinh
viên cũng nhanh chóng biến mất, còn Diễn đàn Tự
do thì ngừng phát hành vào tháng 8. Với một sự
cảnh giác ngày càng tăng đối với các hành động
của cựu chiến binh cùng các điểm bất mãn mới nổi
khác, chính quyền đã thực hiện các hành động kiên
quyết trong việc bóp nghẹt sự chỉ trích.
Trong vài năm tiếp theo, sự chỉ trích rút vào những
cuộc trò chuyện riêng tư giữa những người thân và
195
Chính trị Việt Nam hiện đại
196
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào năm 2001 - 2003, giai đoạn thứ hai, hoạt động
tập thể xuất hiện, dần trở thành một đặc điểm nổi
bật trong sự phản kháng chính trị đương đại. Ví dụ,
vào tháng 09/2001, Phạm Quế Dương ở Hà Nội và
Trần Khuê ở Thành phố Hồ Chí Minh, đã thành lập
một Hội chống tham nhũng, với sự tham gia của
nhiều người khác, mặc dù một số người bị lực
lượng an ninh bắt giữ. Vào tháng 04/2003, Câu lạc
bộ Dân chủ, được thành lập năm 2001, lưu hành
qua internet số đầu tiên có tên Thư điện tử. Câu lạc
197
Chính trị Việt Nam hiện đại
bộ này phát hành đều đặn tạp chí trong bốn năm
tiếp theo. Các bài báo nói về dân chủ hóa, phê phán
chế độ, và cáo buộc các nhà lãnh đạo Chính phủ
nhượng bộ Trung Quốc làm tổn hại đến lợi ích của
Việt Nam. Hầu hết các tác giả đã nêu tên và địa chỉ
của họ, không giống như một ấn phẩm đối lập khác
tồn tại khoảng trong thời gian 1996 - 1997, khi các
tác giả ẩn danh.
Giai đoạn thứ ba, trong năm 2006, một loạt các tổ
chức chính trị công khai đã xuất hiện. Một số nhấn
mạnh các quyền dân sự và dân chủ hóa. Hai trong
số đó là các đảng chính trị: Đảng Thăng tiến và
Đảng Dân chủ. Cùng với Đảng Dân chủ Nhân dân,
bí mật thành lập năm 2003 nhưng công khai vào
tháng 06/2005, ba đảng chính trị có trụ sở tại Việt
Nam hiện công khai chống lại Đảng Cộng sản.
Khối 8406, ra mắt vào cuối tháng 4, thúc đẩy các
quyền tự do chính trị thông qua Tuyên ngôn Tự do
và Dân chủ, lưu hành vào ngày 08/04; và đây là lần
198
Chính trị Việt Nam hiện đại
đầu tiên cho thấy những người bất đồng chính kiến
sử dụng internet một cách có hệ thống nhằm thu
hút sự ủng hộ trên toàn quốc. Ban đầu, Tuyên ngôn
nhận được sự ủng hộ của 118 cá nhân, sau đó lên
đến hơn một ngàn người tham gia ký tên ủng hộ,
tất cả đều cung cấp tên và địa chỉ của mình.
199
Chính trị Việt Nam hiện đại
Bên cạnh việc đăng các tiểu luận và tin tức, các
trang web này đã giúp huy động hàng trăm người
dân vào tháng 12/2007 để biểu tình chống lại sự
xâm lấn của Trung Quốc vào vùng lãnh hải Việt
Nam. Sự tăng vọt các trang web quan trọng về
chính trị diễn ra từ cuối năm 2008 đến cuối năm
2010. Một số trang web mới, chẳng hạn như
Bauxite Việt Nam, đã bắt đầu với một vấn đề cụ
thể nhưng sau đó mở rộng ra nhiều chủ đề. Những
200
Chính trị Việt Nam hiện đại
201
Chính trị Việt Nam hiện đại
202
Chính trị Việt Nam hiện đại
203
Chính trị Việt Nam hiện đại
chính kiến phát hành tới độc giả trên khắp cả nước
hai lần một tháng.
204
Chính trị Việt Nam hiện đại
quan hệ với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước dân chủ, vốn không chấp nhận một chế độ
tàn bạo.
205
Chính trị Việt Nam hiện đại
Liên quan đến dân chủ, các nhà bất đồng chính
kiến thường cho rằng Tuyên ngôn Nhân quyền của
Liên Hợp Quốc là tiêu chuẩn mà Việt Nam cần
tuân theo. Đặc biệt là các quyền tự do báo chí,
ngôn luận, hội họp, tự do tôn giáo và công đoàn
độc lập. Các thiết chế dân chủ chính thường được
nhắc đến gồm pháp trị; tách rời các chức năng hành
pháp, lập pháp và tư pháp của chính quyền; xét xử
công bằng; và bầu cử cạnh tranh.
206
Chính trị Việt Nam hiện đại
nhận xét các nhà bất đồng chính kiến, cách rất xa
các tiêu chuẩn này.
Trong khi đó, theo những người chỉ trích chế độ,
Việt Nam kém phát triển hơn nhiều so với các
nước láng giềng. Họ thường nói, hãy nhìn sự phát
triển kinh tế to lớn của Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Ngay
207
Chính trị Việt Nam hiện đại
208
Chính trị Việt Nam hiện đại
Có thể phân chia thành bốn cách tiếp cận như sau:
209
Chính trị Việt Nam hiện đại
210
Chính trị Việt Nam hiện đại
211
Chính trị Việt Nam hiện đại
một gia đình công chức, trở thành thành viên của
ĐCS vào năm 1940, và sau đó tham gia lực lượng
kháng chiến. Ông là sĩ quan trong trận Điện Biên
Phủ, nơi quân đội Việt Nam đã đánh bại quân Pháp
vào năm 1954. Trong phần lớn cuộc chiến chống
Mỹ, ông chiến đấu trên nhiều chiến trường ở miền
Nam. Sau đó ông trở thành quan chức cao cấp
trong chính quyền. Khi nghỉ hưu vào năm 1991,
ông đang là Phó Chủ tịch Quốc hội.
212
Chính trị Việt Nam hiện đại
Theo Trần Độ, nền kinh tế Việt Nam tuy khá nhỏ
nhỏ bé so với nhiều nước ở châu Á, song đã được
cải thiện đáng kể từ những năm 1980. Và ông xem
thành tựu này là cơ sở cho lập luận về vai trò của
ĐCS trong việc dân chủ hóa. Trong những năm
1980, Đảng đã biết lắng nghe người dân, khi dân
đang bất mãn với việc Nhà nước kiểm soát sản xuất
và phân phối. Bằng cách cho phép nền kinh tế thị
trường, Đảng đã giải phóng năng lượng và sự sáng
tạo đang bị kìm hãm của người dân.
213
Chính trị Việt Nam hiện đại
214
Chính trị Việt Nam hiện đại
215
Chính trị Việt Nam hiện đại
Thứ ba, lãnh đạo Đảng có thể bắt đầu tiến trình
dân chủ hóa bằng cách thực hiện các điều khoản
về nhân quyền đã quy định trong Hiến pháp; tổ
chức các cuộc bầu cử với sự tham gia của nhiều
đảng chính trị; loại bỏ các quy định trong Hiến
pháp về đặc quyền của ĐCS; tách Đảng ra khỏi
Nhà nước; và tiến hành dân chủ hoá thủ tục nội bộ
của chính nó.
216
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vào cuối năm 2008, ông kết luận rằng việc tạo ra
một nền dân chủ thực sự sẽ không bắt đầu bằng
việc đa đảng. Thay vào đó, nền dân chủ xuất hiện
theo thời gian thông qua cải thiện điều kiện sống
217
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trên các blog và trong các kiến nghị gửi tới các
cơ quan chức năng trong giai đoạn 2006 - 2010,
cũng như trong bản tóm lược của một cuốn sách,
Trần Huỳnh Duy Thức cho rằng “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt
Nam sẽ đi đến sụp đổ. Dẫu nó cho phép mức độ
tự do kinh tế cao hơn và nó cũng giúp cải thiện
218
Chính trị Việt Nam hiện đại
219
Chính trị Việt Nam hiện đại
tập trung. Giờ đây, ông cho rằng lãnh đạo chính
quyền nên áp dụng nền kinh tế thị trường trong đó
các doanh nghiệp Việt Nam được phát triển theo
hướng dẫn của Nhà nước, dựa trên các lý tưởng
dân chủ xã hội và “tiến hành việc chuyển giao
quyền lực chính trị cho người dân”.
220
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ông lo lắng một cuộc nổi dậy như vậy có thể làm
bùng nổ sự thù hận dai dẳng giữa kẻ thắng và
người thua trong cuộc nội chiến đã qua, làm cho
hoàn cảnh quốc gia trở nên tồi tệ hơn, và biến nó
trở thành cơ hội cho những kẻ tư lợi. Để tránh
những hậu quả tai hại đó, sự tức giận của người
dân phải được chuyển sang nhắm tới các hành
động mang tính xây dựng. Trần Huỳnh Duy Thức
cho rằng các tổ chức đối lập ở Việt Nam hiện nay
quá non trẻ để có thể làm được điều đó. Theo ông,
tuy ĐCS bị suy yếu nhưng vẫn giữ được cả khả
năng lẫn trách nhiệm để hành động một cách tích
221
Chính trị Việt Nam hiện đại
222
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nhóm ủng hộ đường lối này hướng tới kiểu đối đầu
trực tiếp với chế độ, với ý nghĩ rằng ĐCS sẽ không
bao giờ tiến hành dân chủ hóa đất nước. Họ cho
rằng một khi không có các thiết chế dân chủ – đặc
biệt là bầu cử đa đảng và bảo vệ các quyền con
người cơ bản – thì Việt Nam sẽ không thể phát
triển được về kinh tế, giáo dục, văn hoá, và chính
trị để bắt kịp các nước khác trong cùng khu vực.
Theo họ, cách mạng bạo lực là điều không khả thi
cho Việt Nam. Vậy nên, cách duy nhất để tiến hành
dân chủ hóa chính là công khai thúc đẩy một hệ
thống đa đảng. Điều này đòi hỏi các tổ chức xã hội,
bao gồm các đảng chính trị, phải trực tiếp thách
thức ĐCS. Các tổ chức này cũng sẽ giúp cho phong
trào dân chủ hóa được liền mạch và bền vững khi
chính quyền bắt giữ và ngăn cản các nhà hoạt
động. Một câu hỏi thường xuyên được tranh luận
223
Chính trị Việt Nam hiện đại
224
Chính trị Việt Nam hiện đại
225
Chính trị Việt Nam hiện đại
Đỗ Nam Hải cho rằng, chính cái kiểu cai trị độc
Đảng đã tạo ra một Chính phủ tồi tệ: Việt Nam là
một trong những nước nghèo nhất trên thế giới,
tham nhũng tràn lan, và phải đối mặt với những
thách thức nghiêm trọng.
226
Chính trị Việt Nam hiện đại
227
Chính trị Việt Nam hiện đại
228
Chính trị Việt Nam hiện đại
229
Chính trị Việt Nam hiện đại
ninh đã dọa bắt ông nếu ông tiếp tục làm việc với
Khối 8406 và các nhà hoạt động khác. Họ cũng đã
thuyết phục cha ông, một đảng viên Cộng sản lớn
tuổi, và những người họ hàng của ông nhằm
khuyên ông dừng lại. Ông đã làm theo lời khuyên
của gia đình, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn.
Một nhà bất đồng chính kiến khác cũng dùng cách
tiếp cận đối đầu là luật sư Nguyễn Văn Đài. Trong
giai đoạn 2006 - 2007, luật sư Đài tham gia vào
Khối 8406, tạp chí Tiếng nói Tự do, và các tổ chức
ủng hộ dân chủ khác.
230
Chính trị Việt Nam hiện đại
231
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ngay sau khi ra tù, ông đã tiếp tục các hoạt động
của mình. Cuối năm 2011, ông kêu gọi rằng cần
phải tạo ra một áp lực thật lớn lên ĐCS. Rằng cần
232
Chính trị Việt Nam hiện đại
233
Chính trị Việt Nam hiện đại
Theo họ, dân chủ hóa đi cùng với sự cải thiện cuộc
sống của người dân. Nó xuất hiện khi đất nước tiến
bộ về kinh tế và xã hội. Như một nhà bất đồng
chính kiến ủng hộ cách tiếp cận tham dự từng viết,
dân chủ “không tự tồn tại, mà gắn liền với các mục
tiêu quan trọng khác” như bình đẳng, tự do và phát
triển kinh tế xã hội. Hệ thống đa đảng chưa hẳn đã
đảm bảo được những điều này, đây cũng là quan
điểm mà cách tiếp cận đảng dẫn dắt ủng hộ.
234
Chính trị Việt Nam hiện đại
235
Chính trị Việt Nam hiện đại
236
Chính trị Việt Nam hiện đại
237
Chính trị Việt Nam hiện đại
238
Chính trị Việt Nam hiện đại
cách tiếp cận tham dự, nhưng kiểu hành động của
ông cho thấy ông đồng tình với phương pháp
này. Cũng giống như những người ủng hộ
phương pháp tham dự, ông tránh tham gia vào
các tổ chức có mục tiêu loại bỏ ĐCS. Cách đấu
tranh của ông là cố gắng thay đổi hành vi của các
quan chức và hệ thống bằng cách sử dụng chính
luật pháp hiện hành.
239
Chính trị Việt Nam hiện đại
240
Chính trị Việt Nam hiện đại
241
Chính trị Việt Nam hiện đại
242
Chính trị Việt Nam hiện đại
243
Chính trị Việt Nam hiện đại
Xã hội dân sự đóng vai trò quan trọng vào việc dân
chủ hóa. Những người ủng hộ cách tiếp cận xã hội
dân sự cho rằng dân chủ không tự xuất hiện, chính
người dân cần phải đấu tranh cho nó theo một cách
244
Chính trị Việt Nam hiện đại
245
Chính trị Việt Nam hiện đại
cho Việt Nam trở thành “một dân tộc giàu có, một
quốc gia mạnh mẽ, một xã hội dân chủ, công bằng
và văn minh”.
246
Chính trị Việt Nam hiện đại
247
Chính trị Việt Nam hiện đại
Nam vào năm 1976, ông gia nhập quân đội. Năm
1983 ông trở lại Hungary, trở thành một nhà
nghiên cứu khoa học và một giáo sư. Về lại Việt
Nam vào năm 1987, ông rời quân đội, làm việc
cho Chính phủ trong một thời gian ngắn, rồi
chuyển từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh,
bắt đầu kinh doanh gia công phần mềm. Năm
1989, ông cùng với những người khác xây dựng
một trong những công ty thiết bị máy tính đầu tiên
của đất nước, và vào năm 1993, ông cùng một
nhóm doanh nhân thành lập một ngân hàng tại Hà
Nội, đây là một trong những ngân hàng tư nhân
đầu tiên ở Việt Nam sau năm 1975.
248
Chính trị Việt Nam hiện đại
249
Chính trị Việt Nam hiện đại
250
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tài liệu này được gọi là Kiến nghị 72, tên gọi này
xuất phát từ số người ban đầu tham gia ký tên.
Điểm chính của Kiến nghị 72 là, nó coi Hiến pháp
sửa đổi của Quốc hội “chắc chắn không phải là
một hiến pháp dân chủ” khi các nhánh chính
quyền không được tách biệt và không đảm bảo
“các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập
hội, và biểu tình”.
251
Chính trị Việt Nam hiện đại
252
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tuy thực hiện nhiều hoạt động lớn, song cảnh sát
chưa bao giờ bắt Nguyễn Quang A, mặc dù họ
thường xuyên quấy rầy ông.
Ông bị bắt vào năm 2012 với cáo buộc phân phối
tài liệu nhằm lật đổ chính quyền cũng như cấu kết
với các nhóm đối lập ở nước ngoài. Cảnh sát giam
giữ ông trong sáu tháng mà không chính thức kết
tội, rồi họ đã thả ông. Sau đó, cảnh sát thường
xuyên quấy rầy ông.
253
Chính trị Việt Nam hiện đại
254
Chính trị Việt Nam hiện đại
qua đi” và “hệ thống độc tài của đất nước đang
thay đổi hướng tới một hệ thống đa nguyên”.
Về mặt tiêu cực, ông cho rằng chất lượng của nhiều
tổ chức rất thấp, “họ không hoạt động tích cực và
các thành viên thường thuộc về nhóm người lớn
tuổi”. Ông cho rằng “cuộc đấu tranh cho dân chủ”
cần phải có những khuôn mặt mới, các tổ chức xã
hội dân sự phải có các thành viên đến từ các thế hệ
khác nhau, cũng như sự hợp tác giữa các nhóm.
255
Chính trị Việt Nam hiện đại
256
Chính trị Việt Nam hiện đại
Với hoàn cảnh như vậy, ông kết luận rằng giờ đây
Việt Nam phải dựa vào xã hội dân sự để có thể
tiến hành dân chủ hóa. Ông kêu gọi “phát triển xã
hội dân sự ở nhiều khía cạnh của cuộc sống”,
hướng các tổ chức theo các khuynh hướng chính
257
Chính trị Việt Nam hiện đại
258
Chính trị Việt Nam hiện đại
259
Chính trị Việt Nam hiện đại
Từ dân chủ xuất hiện trong ngôn ngữ Việt Nam vào
khoảng năm 1900 và theo nghĩa đen là “người dân
làm chủ”. Tuy nhiên, “người dân làm chủ” thực sự
nghĩa là gì và làm sao hiện thực hóa ý nghĩa đó lại là
một vấn đề gây ra tranh cãi từ lâu. Điều đó không có
11
Routledge Handbook of Southeast Asian Democratization
edited by William Case
12
Department of Political and Social Change, Australian National
University, Canberra, Australia
260
Chính trị Việt Nam hiện đại
Ở Việt Nam, cuộc tranh luận như vậy rất nổi bật trong
giai đoạn đấu tranh giải phóng khỏi ách thực dân trong
những năm 1920 đến 1940. Dù có một sự đồng thuận
về việc chủ quyền tối cao của nước Việt Nam độc lập
phải thuộc về người dân, chứ không phải những người
cai trị, một ông vua hay một vị thần, song về nội hàm
của khái niệm dân chủ và cách người dân “làm chủ”
như thế nào thì lại có sự bất đồng lớn.
Những bất đồng này tập trung vào hai khái niệm chính
về dân chủ. Một khái niệm, trong đó dân chủ là một
loại chính quyền dựa trên bầu cử đa đảng và tự do dân
sự. Một khái niệm khác, dân chủ là một dạng xã hội
với sự bình đẳng về kinh tế và xã hội, không có giai
cấp hay nhóm nào áp bức giai cấp hay nhóm khác. Sự
khác biệt như vậy không phải là đặc thù của Việt Nam,
261
Chính trị Việt Nam hiện đại
mà xuất hiện ở nhiều nơi khác. Các nhà khoa học chính
trị gán cho khái niệm đầu tiên là dân chủ thủ tục, hay
dân chủ tự do; khái niệm thứ hai là dân chủ thực chất,
hay dân chủ phi tự do.
Giới lãnh đạo chính trị Việt Nam hiện nay thường chỉ
trích khái niệm đầu là dân chủ tư sản, và ủng hộ khái
niệm thứ hai mà họ gọi là dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong khi đó, những người chỉ trích chế độ nhấn mạnh
rằng nền dân chủ thủ tục phải đi trước, làm nền tảng từ
đó mở đường cho việc hướng đến dạng thứ hai.
Các khía cạnh của nền dân chủ thủ tục đã được đề cao
và thể hiện rõ ở Việt Nam khi độc lập khỏi chế độ thực
dân Pháp năm 1945. Thật vậy, tên của quốc gia mới
độc lập là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và
tuyên bố độc lập, lên án sự cai trị của Pháp “đã tước đi
các quyền tự do dân chủ của chúng ta”. Tác giả của
văn bản quan trọng này là Hồ Chí Minh, người trình
bày chi tiết trong các tác phẩm của mình rằng người
dân Việt Nam đã bị tước đoạt các quyền tự do bao gồm
262
Chính trị Việt Nam hiện đại
Bầu cử nhiều lần được tổ chức ở Việt Nam sau khi độc
lập. Vào tháng 01/1946, thời điểm Pháp đe dọa sẽ tiến
hành một cuộc tấn công quân sự cũng như tái yêu sách
thuộc địa của mình, người dân Việt Nam trên khắp đất
nước đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên của một số đảng
chính trị tranh cử vào Quốc hội đầu tiên của nước Cộng
hòa mới ra đời.
Trong cuộc bầu cử đó, mà hầu hết các nhà quan sát
đánh giá là tương đối công bằng, các ứng cử viên của
Việt Minh - một Mặt trận gắn liền với Đảng Cộng sản
Việt Nam - đã giành được 85% trong số 350 ghế. Cũng
263
Chính trị Việt Nam hiện đại
Bất chấp các cuộc bầu cử như vậy, Việt Nam chưa bao
giờ có một nền dân chủ thủ tục thực sự. Các cuộc bầu
cử ở miền Nam - Việt Nam Cộng hòa - trong những
năm 1960 và đầu những năm 1970 đầy rẫy gian lận và
lạm dụng bầu cử. Trong khi đó, mười năm đầu tiên sau
khi thống nhất đất nước, hầu như tất cả các cuộc bầu
cử chỉ có một ứng cử viên cho mỗi vị trí, khiến cử tri
chỉ còn một lựa chọn khác là không bỏ phiếu, song như
vậy sẽ đối mặt với sự đe dọa (từ Nhà nước).
264
Chính trị Việt Nam hiện đại
Đảng Cộng sản là đảng chính trị hợp pháp duy nhất của
Việt Nam. Hiến pháp 1976 đổi tên nước thành Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cũng như quy định
“Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối
với Nhà nước và xã hội”, và các Hiến pháp khác cũng
quy định tương tự (Hiến Pháp 1980, Điều 4; Hiến Pháp
2013, Điều 4). Mặc dù đảng viên ĐCS chiếm chưa đến
4% dân số, nhưng thường chiếm hơn 90% số đại biểu
Quốc hội và đại đa số đại diện ở các hội đồng cấp tỉnh,
thành phố, quận, huyện, xã, phường trên khắp cả nước.
ĐCS, một tổ chức toàn quốc với chi nhánh và chi bộ ở
265
Chính trị Việt Nam hiện đại
tất cả các cấp hành chính trên cả nước, làm việc mật
thiết với các cơ quan Chính phủ và quan chức ở mỗi
cấp đó.
Tương tự, với các đài phát thanh và truyền hình. Mặc
dù số lượng các đài trong nước đã tăng lên trong hai
thập kỷ qua, song tất cả các chương trình đều bị Nhà
nước kiểm soát chặt chẽ. Kể từ khi internet xuất hiện
vào giữa những năm 1990, chính quyền và ĐCS đã gặp
khó khăn hơn trong việc giám sát và kiểm soát các
phương tiện truyền thông đại chúng.
266
Chính trị Việt Nam hiện đại
267
Chính trị Việt Nam hiện đại
người dân không thể vượt qua nếu không muốn đối mặt
với những hậu quả nghiêm trọng, bao gồm cả tù đày.
268
Chính trị Việt Nam hiện đại
Đầu tiên liên quan đến giới chóp bu chính trị. Nếu
giới chóp bu đoàn kết chặt chẽ chống lại nền dân chủ
thủ tục, thì cơ hội để chuyển đổi là rất mong manh. Tuy
nhiên, nếu họ bị chia rẽ về vấn đề này, cơ hội sẽ lớn
hơn, đặc biệt khi xuất hiện nhóm phản đối hệ thống
hiện tại và cam kết với dân chủ hóa mạnh.
269
Chính trị Việt Nam hiện đại
cả công nhân lẫn trung lưu ủng hộ vào các cuộc bầu cử
tự do cùng các quyền tự do dân sự, thì khả năng chuyển
đổi dân chủ gia tăng lên nhiều.
270
Chính trị Việt Nam hiện đại
chức dân chủ ở các nước khác có thể khuyến khích chế
độ đương nhiệm làm điều tương tự.
3. Sáu yếu tố ảnh hưởng đến triển vọng dân chủ hóa
của Việt Nam
a. Giới chóp bu
271
Chính trị Việt Nam hiện đại
nền dân chủ phương Tây thế kỷ 19. Quan điểm này
dễ dàng du nhập vào một nước như Việt Nam, khi
từng là một xã hội phong kiến với sự phân chia giai
cấp giữa nông dân và địa chủ, và nhất là khi Việt
Nam từng bị Pháp và Mỹ – các nước có nền dân chủ
bầu cử – xâm chiếm, gây ra nhiều thiệt hại về người
và vật chất. Với lịch sử như vậy, giới lãnh đạo Việt
Nam thường coi các nước phương Tây là thù địch và
đạo đức giả khi họ muốn trừng phạt Việt Nam vì vi
phạm các nguyên tắc dân chủ.
Trên thực tế, giới lãnh đạo cho rằng, Việt Nam đang
hướng đến một nền dân chủ toàn diện và thực chất hơn
nhiều so với nền dân chủ bầu cử. Đó là nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, và đây chính là mục tiêu ưu tiên, chứ
không phải là đa đảng hay là các quyền tự do dân sự.
Cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự bình
đẳng của mọi công dân trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, và xã hội. Và để đạt đến nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa này, thì điều tiên quyết là phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng.
272
Chính trị Việt Nam hiện đại
Cũng có một vài quan chức cấp cao trong Đảng kêu gọi
cải cách chính trị toàn diện, nhưng rồi tiếng nói của họ
nhanh chóng bị dập tắt. Nổi bật nhất là Trần Xuân
Bách, người từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đã bị tước
bỏ hết mọi chức vụ trong Đảng khi kêu gọi Việt Nam
cần thực hiện nền dân chủ đa đảng. Một trường hợp
273
Chính trị Việt Nam hiện đại
Trong giới chóp bu của chế độ hiện nay, vẫn đang còn
những cá nhân ủng hộ cải cách chính trị hơn nữa. Họ
cũng cởi mở hơn đối với những tiếng nói bất đồng
trong xã hội. Tuy nhiên, hầu hết những người này
không ủng hộ nền dân chủ đa đảng; họ đồng ý với
những người bảo thủ – vốn chiếm số đông – rằng cần
phải duy trì vai trò lãnh đạo của ĐCS. Rõ ràng giới
chóp bu của ĐCS tương đối thống nhất về vấn đề này.
Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận lớn người Việt Nam
bắt đầu ủng hộ các cuộc bầu cử đa đảng, mở rộng tự do
dân sự, báo chí độc lập, cũng như nhiều đặc điểm khác
của nền dân chủ bầu cử. Trong số đó, có nhiều người
là những nhân vật nổi tiếng hoặc thậm chí là các đảng
274
Chính trị Việt Nam hiện đại
So với thời của những năm 1990 thì các phát biểu
công khai, các kiến nghị, và các hoạt động kêu gọi
cải cách chính trị sâu rộng đang tỏ ra là một bước
tiến quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh việc trong các
thế lực chính trị hiện đang có dấu hiệu rạn nứt nội
bộ, thì lượng người ủng hộ cải cách chính trị và dân
chủ bầu cử vẫn còn rất nhỏ so với những người phản
đối nó. Do đó, trong tương lai gần, giới chóp bu
275
Chính trị Việt Nam hiện đại
chính trị vẫn chưa đóng vai trò tích cực trong tiến
trình dân chủ hóa ở Việt Nam.
Tính chính danh của ĐCS tồn tại chủ yếu là nhờ những
thành tích của nó trong việc lãnh đạo các cuộc đấu
tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, cũng như
việc cải thiện điều kiện sống của người dân Việt Nam.
276
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tính chính danh của chế độ bắt đầu bị nghi ngờ từ giai
đoạn cuối những năm 1970 cho đến giữa những năm
1980. Nhiều người Việt Nam ở miền Nam cực kỳ bất
mãn và thậm chí thù ghét chính quyền Cộng sản mà họ
phải chấp nhận sau năm 1975. Ngoài ra, đời sống kinh
tế rất tồi tệ – không chỉ ở miền Nam mà còn trên toàn
quốc. Lạm phát tăng cao, sản xuất nông nghiệp sụt
giảm, khan hiếm lương thực đặc biệt là ở thành thị, và
viện trợ nước ngoài không còn nữa. Hệ thống kinh tế
kế hoạch hóa tập trung mà chính quyền Cộng sản theo
đuổi đã rơi vào khủng hoảng. Rất nhiều người Việt
Nam rời bỏ đất nước.
Những áp lực này đã buộc giới lãnh đạo đất nước phải
xem xét lại mô hình kinh tế của họ, và rồi cuối cùng họ
phải thay đổi nó. Vào cuối những năm 1980, kinh tế
Việt Nam dần chuyển đổi sang mô hình “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; trong đó có
nhiều điểm giống với các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
ở Thái Lan, Philippines, Indonesia và nhiều quốc gia
277
Chính trị Việt Nam hiện đại
châu Á khác. Đời sống người dân dần được cải thiện
và nền kinh tế nở rộ trên cả nước.
278
Chính trị Việt Nam hiện đại
279
Chính trị Việt Nam hiện đại
Vì lợi ích của nông dân, ĐCS đã tiến hành các chương
trình tái phân phối đất quy mô lớn từ địa chủ, gồm cả
đất của Giáo hội Công giáo chuyển cho giới nông dân,
để làm lợi cho gần ba phần tư dân số miền Bắc. Đất đai
lại được tái phân phối một lần nữa khi chương trình tập
thể hóa nông nghiệp kết thúc vào cuối những năm 1980
và đầu những năm 1990. Nông dân, và cả giới công
nhân, đều được hưởng lợi rất nhiều từ các chương trình
giáo dục và phúc lợi của chính phủ.
Cho tới giữa những năm 1990, một tầng lớp trung lưu
mới bắt đầu xuất hiện. Người ta cho rằng giới này
chiếm khoảng gần 20% dân số. Phần đông các blogger,
280
Chính trị Việt Nam hiện đại
những người biểu tình và các nhà bất đồng chính kiến
đến từ tầng lớp trung lưu, song không có bằng chứng
nào cho thấy rằng tâm lý bất mãn phổ biến trong tầng
lớp này. Đúng hơn thì hầu hết giới trung lưu đều chấp
nhận hiện trạng chính trị, và thậm chí họ còn phần nào
biết ơn chính quyền vì điều kiện sống thoải mái mà họ
đang được hưởng.
Trong khi đó, các cuộc biểu tình của nông dân thì tập
trung chống lại tham nhũng, tịch thu đất đai, và các
hình thức lạm dụng quyền lực khác của quan chức địa
phương. Cuộc biểu tình lớn nhất nổ ra vào năm 1997
với hơn 10 nghìn người dân tham gia từ khắp Thái Bình
281
Chính trị Việt Nam hiện đại
kéo về trung tâm tỉnh. Các cuộc biểu tình khác nhỏ hơn
nhưng thường kéo dài hơn, như cuộc biểu tình của hàng
trăm người dân ở một quận ven sông Hồng nhằm chống
lại một dự án phát triển đô thị trên đất của họ.
Tới nay, chính quyền bắt đầu có những phản ứng mang
tính đối thoại hơn là đàn áp đối với các cuộc biểu tình
của công nhân và nông dân. Mọi cuộc biểu tình đều bị
coi là bất hợp pháp song chính quyền không hình sự
hóa chúng, và thường đổ lỗi cho các chủ nhà máy hoặc
những người quản lý đã gây ra chúng.
282
Chính trị Việt Nam hiện đại
d. Xã hội dân sự
Hồi những năm 1980, tại Việt Nam mới chỉ có một vài
tổ chức xã hội dân sự do chính quyền thành lập, song
tới nay đã có vô số các tổ chức và hiệp hội – như các
tổ chức cộng đồng, các mạng lưới, các nhóm tiêu dùng,
các tổ chức từ thiện, v.v…
Một điều đáng chú ý là, các nhóm này có thể tận dụng
internet làm kênh truyền thông chính của mình, khi mà
trên 30% người Việt sử dụng internet – một trong
những tỉ lệ cao nhất Đông Nam Á – để tiếp cận
Facebook và YouTube, đọc báo trong nước và quốc tế,
nghe các chương trình truyền hình trên thế giới, cũng
283
Chính trị Việt Nam hiện đại
như tiếp cận hàng trăm blog trong nước (chưa kể đến
những blog của người Việt ở nước ngoài).
Các nhà phân tích đã từng tranh luận rất nhiều rằng với
dạng hình thức, số lượng và hoạt động của các tổ chức,
hiệp hội và các nhóm này, thì liệu có thể hình thành
nên một xã hội dân sự hay không. Tuy khái niệm xã
hội dân sự vẫn chưa được thống nhất, song có thể thấy
một điều rõ ràng là giờ đây người Việt Nam đã được
tự do hơn rất nhiều trong việc tương tác, liên kết và tổ
chức các hoạt động. Họ cũng đã có thể tiếp cận những
nguồn thông tin, những ý tưởng và cảm hứng đến từ
bên ngoài.
284
Chính trị Việt Nam hiện đại
phải thay đổi quy định để hợp pháp hóa những gì người
dân đã tạo ra.
Cũng như trong các xã hội khác, nhiều hoạt động dân
sự ở Việt Nam ít dính dáng đến các vấn đề chính trị.
Hầu hết họ ít chọn đối đầu chống lại hệ thống chính trị.
Nhiều tổ chức chọn tương tác với chính quyền để theo
đuổi các lợi ích, các mối quan tâm, chính sách cụ thể,
và thậm chí thúc đẩy cải cách ôn hòa. Chẳng hạn như
Hiệp hội Bảo vệ Người tiêu dùng, từ một nhóm nhỏ
các chuyên gia vào năm 1988 nay đã trở thành một
mạng lưới quốc gia với hơn 10 nghìn thành viên, có
chức năng giám sát chất lượng của nhiều loại thực
phẩm, đưa ra lời khuyên cho các cơ quan Chính phủ
trong việc phác thảo và ban hành luật. Mạng lưới Vì
Ngày mai Tươi sáng và Trung tâm Nghiên cứu và Đào
tạo Phát triển Cộng đồng - hai tổ chức hình thành độc
lập với nhau nhằm hỗ trợ người nhiễm HIV – giờ đây
cũng đã có những ảnh hưởng nhất định đến các chính
sách y tế của Nhà nước.
285
Chính trị Việt Nam hiện đại
Mối bận tâm lớn nhất của giới lãnh đạo là các hoạt
động xã hội dân sự có thể làm xói mòn vai trò của ĐCS,
286
Chính trị Việt Nam hiện đại
và khiến cho Việt Nam chệch khỏi con đường dân chủ
xã hội chủ nghĩa, hướng đến một “nền dân chủ tư sản”.
Thực vậy, có một số nhóm xã hội dân sự hy vọng rằng
sự tham dự của người dân theo thời gian sẽ dẫn tới dân
chủ hóa. Website “Diễn đàn Xã hội Dân sự” được tạo
ra vào tháng 9/2013 và nhận được sự ủng hộ của hàng
trăm người, đã kêu gọi người dân Việt Nam đưa ra
quan điểm của mình và sử dụng website để đối thoại
về cách thức giúp cho đất nước ngày càng dân chủ hơn.
287
Chính trị Việt Nam hiện đại
e. Ý thức hệ
Từ năm 1989, hầu hết các chế độ cộng sản đã sụp đổ,
ngoại trừ năm nước: Việt Nam, Lào, Trung Quốc, Bắc
Triều, và Cu Ba. Ở Việt Nam, các đặc trưng của hệ
thống cộng sản mà giới lãnh đạo từng khẳng định cũng
không còn nữa: nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
bị thay thế bởi nền kinh tế thị trường; nông trường tập
288
Chính trị Việt Nam hiện đại
thể được thay thế bởi các trang trại hộ gia đình; việc
cấm đầu tư nước ngoài được thay thế bằng các sáng
kiến khuyến khích đầu tư nước ngoài; và việc cấm cản
kinh tế tư nhân được thay thế bởi sự ca tụng các hoạt
động kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp và ngân hàng
do Nhà nước sở hữu tiếp tục tồn tại song đã phải tiến
hành cải cách nhằm cạnh tranh với các đối thủ tư nhân,
quốc tế.
289
Chính trị Việt Nam hiện đại
Tham nhũng cũng làm xói mòn niềm tin vào chủ nghĩa
cộng sản và chủ nghĩa xã hội bởi vì chính những người
ca ngợi và thúc đẩy các ý tưởng đó lại là những người
tham nhũng nhất. Rất nhiều nhà lãnh đạo của ĐCS
được cho là sở hữu tài sản lớn hơn rất nhiều so với mức
lương của họ.
Đối với nhiều người Việt Nam, việc các nhà lãnh đạo
tiến hành kỷ niệm ngày sinh của Marx và Lenin, cũng
như đưa ra các phát biểu ca ngợi chủ nghĩa cộng sản
khi mà niềm tin vào những điều này đang ngày càng
suy giảm là một điều rất lố bịch. Tình trạng tàn tạ của
ý thức hệ cũng dẫn đến sự bất mãn và phê phán đối với
chính quyền. Nhiều người phê phán cho rằng vẻ ngoài
giả dối của chủ nghĩa cộng sản phải được lột bỏ, và
ĐCS phải trở lại với tên gọi Đảng Lao động, vốn là tên
của nó từ năm 1951 đến 1976.
290
Chính trị Việt Nam hiện đại
hội. Tuy nhiên, cho đến gần đây, việc chính quyền liệu
có thực sự bảo vệ cho dân tộc Việt Nam cũng bị đặt
vấn đề. Trong nhận thức của nhiều người Việt, những
năm gần đây Đảng và Chính phủ đang từ bỏ chủ quyền
lãnh thổ và sự độc lập trước Trung Quốc. Chẳng hạn
như chính quyền đã để Trung Quốc giành được 200
km2 lãnh thổ tranh chấp vùng biên giới, cũng như cho
phép Trung Quốc đưa rất nhiều công nhân tới khai thác
bauxite và các khoáng sản khác ở Việt Nam. Đảng và
chính quyền dường như không đủ mạnh để ngăn chặn
Trung Quốc, thậm chí còn thờ ơ trong các vụ gây hấn
ở Biển Đông.
291
Chính trị Việt Nam hiện đại
phải bảo vệ quốc gia. Thậm chí nhiều người bắt đầu lên
tiếng rằng hệ thống chính trị hiện tại không còn phù
hợp và phải thay thế bằng một nền dân chủ đa nguyên.
Các cuộc nổi dậy thành công bằng “sức mạnh nhân
dân” chống lại các chế độ độc tài ở Philippines, Hàn
Quốc và cuộc nổi dậy bất thành ở Myanmar trong
những năm 1980 ít làm người Việt chú ý. Trong khi
đó, sự sụp đổ của các chế độ Cộng sản ở Đông Âu và
Liên Xô vào năm 1989-91 tuy đã gây ra cú sốc đối với
Việt Nam song không quá mạnh. Không sự kiện quốc
tế nào trong số các sự kiện này có thể kích thích sự
bùng phát bất mãn của dân chúng và đòi hỏi một nền
dân chủ đa nguyên.
292
Chính trị Việt Nam hiện đại
chính quyền Việt Nam theo đuổi các chính sách đối
ngoại đa phương, kết giao với nhiều nước và các tổ
chức quốc tế để giữ vững chế độ. Việc thực thi thành
công chính sách này đã phần nào củng cố cho Đảng.
293
Chính trị Việt Nam hiện đại
4. Kết luận
Trong sáu yếu tố thường gắn liền với sự sụp đổ của các
chế độ độc tài trong những thập kỷ gần đây, chỉ có một
yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đối với Việt Nam, còn các
yếu tố còn lại tương đối mờ nhạt. Điều này cho thấy
rằng việc chuyển đổi sang nền dân chủ đa nguyên của
Việt Nam có lẽ còn khá lâu mới xảy ra.
294
Chính trị Việt Nam hiện đại
Yếu tố thứ hai phần nào tác động tới Việt Nam chính
là số lượng tăng lên nhanh chóng và đa dạng của các tổ
chức, hiệp hội, và các mạng lưới xã hội dân sự. Mặc dù
vậy, chỉ một vài trong số đó thể hiện quan điểm phê
phán về mặt chính trị. Bốn nhân tố còn lại – mức độ
thống nhất trong giới chóp bu, tính chính danh của hệ
thống chính trị, cấu trúc xã hội, và bối cảnh quốc tế –
đều tỏ ra khá thuận lợi để duy trì hiện trạng.
295
Chính trị Việt Nam hiện đại
náo động nền chính trị Việt Nam. Hoặc khi tích tụ
những cuộc biểu tình lớn của nông dân chống lại các
quan chức tham nhũng và chống chiếm đoạt đất đai,
đặc biệt nếu nó có thể lôi kéo được sự ủng hộ của giới
công nhân – những người đang rất uất ức với điều kiện
sống tồi tệ của họ – và lôi kéo được cả những nhà bất
đồng chính kiến, thì việc chuyển đổi chính trị là điều
hoàn toàn khả dĩ.
296
Chính trị Việt Nam hiện đại
Quyển sách này được xuất bản và phát hành với mục
đích phi lợi nhuận.
297
Chính trị Việt Nam hiện đại
298