You are on page 1of 24

HAI DÒNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ VÀ HÀNG TRỐNG

1. Tranh dân gian Đông Hồ


a. Xuất xứ - mục đích sử dụng
- Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một
dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ thuộc xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trước kia tranh được bán ra chủ
zyếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về
dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới.
b. Nghệ thuật tranh
- Đề tài: tranh tết Đông Hồ có những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi
nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Tranh
Đông Hồ phản ánh các đề tài gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân,
phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con người về một cuộc sống no đủ,
hạnh phúc. Về đề tài vẽ, tranh Đông Hồ có loại chúc tụng như Đàn gà, ước
cho ai nấy đều xum xuê con cháu. Đứa bé ôm con gà Vinh hoa, ôm con vịt
Phú quý. Bên cạnh đó là tranh sinh hoạt: Đánh vật, đánh đu, tiến sĩ vinh
quy... Rồi tranh lịch sử như Bà Trưng, Phù Đổng thiên vương, Ngô Quyền...
Tranh truyện như Kiều, Thạch Sanh. Lại còn có loại tranh thờ
- Bố cục: Tranh dân gian Đông Hồ thường có bố cục chặt chẽ, ít khoảng
trống.. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong
bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tranh không áp dụng chặt chẽ về cơ
thể học, các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại Tất cả
đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian
ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý
hợp tình. Thẩm mỹ của tranh Đông Hồ - trong thẩm mỹ của nghệ thuật dân
gian nói chung, là nó giản dị, chân thật, có lúc ngây ngô đến vụng về. Nhưng
nó bao hàm một vẻ đẹp không thể cưỡng lại của một tâm hồn xa, như thật
còn phảng phất đâu đây của dân tộc, như sự nối tiếp âm thầm của một nền
văn hóa lâu đời.
- Tạo hình nhân vật: Nói tóm lại, tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo
hình đơn giản, dễ hiểu, hình tượng rõ ràng, nói lên tư tưởng, tình cảm và
mong ước, khát vọng sống của con người về một cuộc sống no đủ, hạnh
phúc.
- Với những chất liệu hoàn toàn tự nhiên, tranh Đông Hồ có màu sắc gần gũi,
ấm áp rất đặc biệt mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có. Chỉ với 4 màu cơ
bản: đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân vẫn làm nên những bức tranh hết
sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo. Đặc biệt, màu tranh được làm
theo phương pháp thủ công truyền thống, làm từ những nguyên liệu tự
nhiên, nên màu luôn giữ được độ tươi như tranh vừa mới in xong.

- Thông thường, người ta đề thơ lên tranh bằng chữ Hán. Những câu thơ ngắn
gọn, súc tích, hàm chứa chủ đề của bức tranh. Nhờ vậy, người xem dễ dàng
nắm bắt được ý nghĩa của bức tranh và tư tưởng mà người nghệ nhân muốn
truyền đạt.

c. Kỹ thuật sản xuất tranh


- Nét độc đáo đầu tiên thu hút cảm quan người xem của tranh chính là ở màu
sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là giấy dó được làm từ vỏ cây dó,
với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Trên
giấy được quét lên một lớp hồ điệp có nét sáng óng ánh rất đặc thù bằng
cách: người ta nghiền nát vỏ con điệp (một loại sò vỏ mỏng ở biển) trộn với
hồ (loại bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi là bột sắn), dùng chổi lá thông quét
lên mặt giấy dó. Với chổi lá thông sẽ tạo thành những đường ganh chạy theo
đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng có ánh lấp lánh của những
mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, trong quá trình làm giấy điệp có thể pha thêm
màu khác vào hồ.
- Màu sắc được sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như màu đen từ
than cây xoan hay than lá tre, màu xanh từ gỉ đồng, lá chàm, màu vàng từ
hoa hòe, màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang,… Đây là những màu cơ bản, không
pha trộn.. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất
giấy… Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền
của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà
tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu.Tranh luôn rực
rỡ như lúc mới in xong.
- Đầu tiên là khâu vẽ mẫu. Việc sáng tác tranh là do một người đảm nhận,
nhưng được mọi người tham gia bình luận, góp ý để sửa lại cho phù hợp
hơn. Vì vậy, cho đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng thì nó đã trở thành
sáng tác chung của tập thể

- Mẫu vẽ xong được khắc lên ván in. Đây là khâu rất quan trọng và nó có ý
nghĩa quyết định đến giá trị tác phẩm.Thông thường mỗi ván chỉ in được
một màu. Do đó, số ván cần phải khắc bằng chính số màu trong tranh.Sau
khi hoàn tất việc khắc ván là công đoạn in tranh. 
- Tranh in hoàn toàn bằng khắc ván, không dùng bút để vẽ hay tô màu. Khi in,
người ta dùng ván in đã phết màu lên giấy điệp. Mỗi lần in một màu, các
màu phải khít với nhau. Cuối cùng khi các màu đã được in hết, bản khắc nét
màu đen được in lên, hoàn thành một bức tranh .Tranh Đông Hồ là nghệ
thuật in tranh thủ công, bức tranh hoàn thành là do sự ghép lại của các mảng
màu theo đúng trình tự nhất định.

d. Các tác phẩm tiêu biểu


- Đám cưới chuột:
- Đánh ghen:
e. Nghệ nhân tiêu biểu
- Ngày nay nghề làm tranh Đông Hồ đã mai một nhiều do trong cuộc sống
hiện đại, không nhiều người tìm về dòng tranh này để chơi Tết nữa. Các nhà
làm tranh ở làng Đông Hồ phần nhiều đã chuyển sang nghề làm vàng mã để
mưu sinh.

- Cho đến nay chỉ còn hai dòng họ vẫn giữ được nghề truyền thống là dòng họ
của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam. Từ
những năm 90, khi người dân làng tranh bán hết bản khắc gỗ để mưu sinh,
hoặc để mất mát, thất lạc, có khi còn bị mang ra chẻ làm củi đun hoặc che
chuồng gà, thì Nghệ nhân Đăng Chế đã “tỉnh táo” thu mua bằng hết. Cho
đến nay, ông vẫn còn lưu giữ được gần 100 bản khắc cổ và phục chế được
hàng trăm bản khắc khác.. Không chỉ khôi phục lại được dòng tranh mà bao
nhiêu năm ông ấp ủ và gia đình ông, cả ba thế hệ từ ông, con, cháu đang
sống sung túc nhờ làm tranh. Cách đây ít năm, ông Nguyễn Đăng Chế đã
thành lập Công ty TNHH Tranh dân gian Đông Hồ trên diện tích 5.500m2
chuyên khôi phục bản khắc cổ, sản xuất, dạy nghề cho con em địa phương
và giới thiệu sản phẩm tới du khách trong và ngoài nước.

- Nhiều khách công ty đã đặt tranh số lượng lớn với ông để xuất khẩu sang
nước ngoài. Hiện bên cạnh thị trường trong nước, ông Chế còn xuất khẩu
trực tiếp ra thị trường Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan…

2. Tranh dân gian Hàng Trống


a. Xuất xứ - mục đích sử dụng
- Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được
làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa, dòng tranh này
hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo
tàng.Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng
tranh chính là tranh thờ và tranh Tết. Tranh thờ thì có tranh Phật, Tam hoà
Thánh mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quí, ...
- Tranh chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của
vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo,
Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét
đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày.
b. Nghệ thuật tranh
- Đề tài và nội dung tranh: Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là
tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông
hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như: Tố nữ, Bốn mùa
(mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các
vở tuồng. Có những bức dùng để chơi Tết như tranh Gà, Cá chép trông
trăng....
- Tranh Hàng Trống lại có khổ to, nhỏ tùy người đặt và được in trên giấy dó
bồi hay giấy báo khổ rộng. 
- Tranh Hàng Trống, do đặc điểm chủ đạo là dòng tranh thờ, nên bố cục tranh
rất chặt chẽ, thường là theo lối bố cục đăng đối giả, với màu sắc rực rỡ mà
trang nghiêm.
c. Kỹ thuật sản xuất tranh
- Nếu như ở Tranh Đông Hồ, in viền nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ thì ở
Tranh Hàng Trống in tranh chỉ dùng ván khắc gỗ in nét tranh trên chất liệu
giấy dó…Các ván khắc in tranh đều phải theo mẫu tranh, các mẫu tranh do
các nghệ nhân đảm nhiệm, gọi là “ra mẫu”. Người “ra mẫu” tranh thường là
người giỏi nhất của từng nhóm thợ, rất tinh tế, giàu kinh nghiệm, nên khi đặt
bút vẽ trên tờ giấy bản là lập tức hiện ra hình ảnh như bay như múa. Người
vẽ mẫu cũng là người đặt lời trên tranh. Chữ trên tranh phải đạt mức: làm rõ
nghĩa của tranh, làm cân đối thêm bố cục tác phẩm, mà không bị rườm rà.
Có mẫu tranh phải sáng tác hàng tháng mới xong.
- Màu sắc và cách tạo màu
Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da
cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để
cho thật thuận mắt và ưa nhìn.

Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
màu vàng từ hoa hoè, màu chàm của các loại nguyên liệu từ núi rừng, màu
son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những màu sắc đó được pha với dung dịch hồ
nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện
đại không thể nào có được.
- Tô màu : Do cách tô màu bằng tay (vờn màu bằng tay, nét cản). tranh Hàng
Trống của Hà Nội lại sử dụng kỹ thuật nửa in, nửa vẽ. Tranh Hàng Trống là
thể loại tranh được in một lần bản nét, để làm xương sống cho tác phẩm sau
đó người nghệ nhân phải gia công bằng việc tô phẩm màu lên. Do đó, tuy
cùng một bản in như nhau nhưng tuỳ cảm hứng của người tô mà các tác
phẩm tranh dân gian Hàng Trống của Hà Nội vẫn có sự khác biệt nhau rõ
rệt.

 
- Chính cách thức làm tranh khác biệt này đã tạo nên dấu ấn riêng của tranh
Hàng Trống và cũng là nét tài hoa đặc sắc của người Kinh kỳ. Trong quá
trình tô màu, các nghệ nhân dân gian Hàng Trống đã vờn chuyển mầu, tạo
độ đậm, nhạt, sáng, tối, chuyển sắc tinh tế nên các nhân vật trong tranh
không còn là mảng bẹt như cách thể hiện của các dòng tranh đương thời.
Với bút pháp diễn tả ấy, các nhân vật đã "nổi khối". Đồng thời với việc vờn
chuyển diễn tả khối này, các nghệ nhân còn đi sâu vào việc phát huy khả
năng diễn tả của nét. Cùng với những nét được khắc in qua bản gỗ, khi cần
nhấn, đẩy các chi tiết, các nghệ nhân tranh Hàng Trống không ngần ngại
dùng bút để nẩy, tỉa. Với cách thức sáng tạo của riêng mình, các nghệ nhân
dòng tranh dân gian Hàng Trống của Hà Nội không chỉ tạo nên nét riêng cho
dòng tranh, mà đã làm bật lên sức sống nội tại của nhân vật.
d. Các tác phẩm tiêu biểu

Màu sắc trong tranh Ngũ hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, uy linh. Cái đậm
đà của những nét đen được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
cái rực vàng của hoa hòe, thẫm của màu lục từ lá chàm, trắng từ vỏ điệp, đỏ của
sỏi đồi tán nhuyễn được tô vẽ thật khéo léo như một bản hòa tấu của màu sắc.
Những gam màu mạnh khi kết hợp với nhau không hề có cảm giác chói mà đầm
ấm, vui tươi như cái không khí của Tết vậy. Tuy có sự  phối hợp của màu trên
toàn bộ bức tranh, nhưng mỗi màu lại được khu biệt riêng trên 5 nhân vật hổ.
Lối dùng màu này ngoài giá trị tạo ra những sắc thái hòa hợp, tươi mới mà thể
hiện rõ một hàm ý, mang triết lý sâu xa của quan niệm dân gian truyền thống:
quan niệm ngũ hành tương sinh.
 

Hoàng hổ: Con hổ ngồi chỉnh trện giữa tranh được vẽ vờn bằng màu vàng, tượng
trưng cho hành thổ - ứng với trung ương chính điện.

 
Thanh hổ: Con hổ được vẽ bằng màu xanh là tượng trưng cho hành Mộc, ứng với
phương Đông.

Bạch hổ: Con hổ được vẽ bằng màu trắng là hành Kim ứng với phương Tây.

Xích hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đỏ là hành Hỏa ứng với phương Nam.

Hắc hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đen là hành Thủy ứng với phương Bắc 
GÍA TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRANH DÂN GIAN
1. Đề tài
2. Bố cục
3. . Bố cục hình tròn, hình e-líp
4.             Hình tròn thường tạo liên tưởng đến sự vận động tuần hoàn của vũ trụ,
những yếu tố động, xoay tròn, chuyển động… có trong quy luật tự nhiên. Bố
cục dạng tròn là dạng bố cục có trọng tâm, gây cảm giác tập trung, quy tụ tạo
ra sự đồng nhất và thường gây cảm giác chặt chẽ, trọn vẹn. Hình e-líp cũng
có nhiều điểm chung với quy luật của hình tròn tuy nhiên nó gợi sức chuyển
động theo chiều dài, ý nghĩa khái quát của hình cần hiểu thêm về sự biến
thiên của quy luật đời ơ]sống.
5.             Dạng thức bố cục hình tròn được thể hiện rất rõ qua bức tranh Bịt mắt
bắt dê  (Hình 1). Toàn bộ khung cảnh vui chơi của trò chơi dân gian bịt mắt bắt
dê hiện lên ở trung tâm bức tranh quây thành một vòng tròn. Đôi trai gái đang
hào hứng đuổi bắt con dê, chàng trai bị bịt mắt đang rất chủ động và hăng hái,
hứng khởi nhập cuộc được sắp đặt ở gần chính giữa như một điểm bắt đầu dẫn
mắt người xem vào những tình tiết tiếp theo của trò chơi. Cùng tham gia trực
tiếp vào trò chơi là cô gái và con dê, cô gái như quên đi những bó buộc tâm lý
đời thường, cô vung chân, tung váy rất thoải mái. Phía dưới, góc phải tranh là
hình ảnh con dê dược thể hiện ở tư thế đang chạy dưới sự đuổi bắt của người
chơi và được chặn lại bởi tấm liếp như khóa chặt bố cục bức tranh. Cả ba nhân
vật chính trong trò chơi được thể hiện sinh động với các động tác hấp dẫn, mảng
hình phong phú, nhịp điệu uyển chuyển. Phía sau chàng trai và cô gái là khán
giả, những người cổ vũ cho trò chơi với nét mặt rất chăm chú cho thấy trò chơi
hấp dẫn đến mức nào. Xét về mặt tình tiết câu chuyện ta thấy toàn bộ hình ảnh
được dẫn dắt rất lôi cuốn, có trình tự. Có thể bắt đầu từ hình ảnh chàng trai đuổi
bắt dê, hình ảnh con dê, cô gái, khán giả phía sau và kết thúc ở hình ảnh đôi
nam nữ bên góc tranh tạo thành một vòng tròn liên kết và điểm kết thúc lại như
chuẩn bị cho một điểm khởi đầu mới của vòng tròn tiếp theo, trò chơi sẽ còn tiếp
diễn như hòa với không khí tưng bừng của mùa xuân. Màu trong tranh được
khái quát bởi nâu, lục, trắng, nét đen và màu nền của giấy điệp nhưng vẫn đủ
tạo ra sự hài hòa cần thiết. Đường nét sinh động, phóng khoáng vừa khái quát
được hình vừa hỗ trợ cho các mảng màu. Các nét thẳng, cong, uốn lượn được
sử dụng nhịp nhàng trong một tổng thể thống nhất. Mảng hình lôi cuốn được kết
hợp lúc đặc, lúc thoáng, mảng dài, mảng ngắn phong phú tạo ra các khoảng
trống sinh động gợi được không gian trong tranh mang tính chất ước lệ.
6.  
7.

8. Hình 1: Tranh “Bịt mắt bắt dê” 


9.  
10.             Dạng bố cục tròn, e-líp còn được thể hiện trong rất nhiều bức tranh thuộc
đề tài chúc tụng như Vinh hoa, Phú quý, Bé ôm tôm, Bé ôm cá… Các nhân vật
thường được thể hiện đan xen thành một khối thống nhất cả về hình mảng,
đường nét tạo thành một mảng lớn có xu hướng của hình e-líp trên nền giấy
điệp. Với bố cục trên rất thuận lợi cho việc liên tưởng đến các yếu tố về sự thống
nhất, khăng khít hay tròn trịa, đầy đặn… làm toát lên tư tưởng ẩn sau đề tài.
11. 2. Bố cục hình tam giác, hình thang
12.             Bố cục dạng hình tam giác với đáy thường nằm song song hoặc hơi
chếch so với đáy tranh tạo cảm giác vững chắc, khỏe khoắn, tin tưởng hoặc
trường tồn. Dạng bố cục này thường được sử dụng để phản ánh các nội dung
thuộc đề tài sinh hoạt, lịch sử, tạo ra kết cấu vững chãi, dễ quy mảng trong
những tranh đông người để tránh sự hỗn loạn hay lộn xộn. Với các tranh có nội
dung cần nhấn mạnh yếu tố vững vàng hoặc có xu hướng liên quan đến sự phát
triển lên trên thì dạng thức bố cục hình tam giác, hình thang là lựa chọn tối ưu để
tác giả thể hiện. Điều này được thấy rõ trong các tranh Đông Hồ như: Hứng dừa,
Hiếu học, Thượng võ, Đấu vật, Bà Triệu…
13.             Nằm trong mảng đề tài vẽ về lễ hội và mùa xuân được thể hiện nhiều
trong tranh dân gian Đông Hồ, bức tranh Đấu vật (Hình 2) là một trong những
bức tranh tiêu biểu diễn tả hoạt động đấu vật trong các lễ hội của vùng Kinh Bắc
xưa. Toàn bộ không gian tranh được thể hiện theo lối ước lệ, hình ảnh chính
hiện lên ở trung tâm là ba cặp đô vật được sắp xếp trong một hình tam giác lớn
với các tư thế, động tác khác nhau. Hai đô vật ngồi chờ ở hai bên và được hỗ
trợ bởi hình ảnh của bánh pháo hết sức cô đọng nhưng cũng đủ nói lên toàn bộ
không khí của lễ hội, gợi được không gian và thời gian khá cụ thể. Đấu vật là
một môn võ cổ truyền có từ thời dựng nước để luyện quân và được tổ chức thi
đấu rất nhiều trong các lễ hội truyền thống của dân tộc. Tính đối kháng giữa sức
mạnh của các đô vật được các nghệ nhân Đông Hồ thể hiện một cách cô đọng
và mang tính tượng trưng cao. Ba cặp đấu vật đóng khố theo phong tục truyền
thống để lộ thân hình vạm vỡ, tráng kiện vừa cân tài vừa cân sức. Yếu tố cân
sức cân tài còn được thể hiện ở việc nghệ nhân sắp xếp thành các cặp đôi trong
những hình học vững chãi. Cặp đôi bên trái tạo thành một hình thang cân, cặp
bên phải nằm trong hình bán nguyệt, cặp ở giữa nằm trong hình tam giác cân.
Cả ba hình đều có đáy lớn nằm phía dưới vững chãi cùng với cách diễn tả hình
ảnh, động tác tạo ra cảm giác khó thiên lệch về sức mạnh. Khi kết hợp cả ba đôi
vật lại ta lại thấy toàn bộ hình ảnh nằm trong một hình tam giác cân. Yếu tố cân
bằng không phân thắng thua càng được tăng thêm khi tác giả bố trí hai nhân vật
ngồi chờ hai bên cánh gà có vóc dáng tương đồng. Hai bánh pháo thể hiện
không khí của mùa xuân và lễ hội tưng bừng. Chỉ bằng những thủ pháp nghệ
thuật tượng trưng mà các nghệ nhân Đông Hồ đã diễn tả được những giá trị cốt
lõi của bức tranh khiến người xem cảm thấy thú vị.
14.  
15.

16. Hình 2: Tranh “Đấu vật”


17.  
18. 3. Bố cục theo hình vuông, hình chữ nhật
19.             Nếu như hình tròn là hình vô hướng, biểu hiện yếu tố vận động tuần
hoàn của vũ trụ thì hình vuông lại mang các đặc điểm biểu hiện sự định hướng
của con người trong cái hữu hạn tương đối của không gian. Hình vuông chứa
đựng các yếu tố ngang bằng xổ thẳng, bốn phương tám hướng tạo cảm giác cân
bằng, vuông vức và ổn định.  Bố cục dạng hình vuông, hình chữ nhật phù hợp
với các đề tài thể hiện tính quy củ, có tổ chức hoặc tạo sự cân bằng có trên
dưới, có trật tự trước sau. Tranh dân gian Đông Hồ có nhiều tác phẩm thể hiện
theo lối bố cục dạng hình vuông, chữ nhật. Các mảng hình trong tranh thường
được kết hợp sinh động liên kết tạo thành một kết cấu chặt chẽ trong các khuôn
hình chữ nhật lúc ngang, lúc dọc theo đặc điểm của khổ tranh và theo từng nội
dung cụ thể. Điều này được thấy trong các tranh như: Hạnh phúc, Lợn đàn, Gà
đàn, Bé ôm phật thủ…
20. Trong bức tranh Lợn đàn (Hình 3) một bức tranh rất nổi tiếng vẽ con vật trong
mười hai con giáp. Hình ảnh đàn lợn nổi bật trên nền tranh đông đúc được sắp
đặt tài tình. Lợn mẹ được thể hiện ở góc nhìn ngang đã phô diễn toàn bộ sự béo
tốt và những đặc điểm về hình dáng của con vật. Ở tư thế này toàn bộ đường
cong trên thân con vật được kết hợp hết sức hài hòa tạo cảm giác uyển chuyển
mềm mại. Trên thân lợn có hai xoáy âm - dương vừa tạo ra vẻ đẹp hữu hình vừa
ẩn chứa quan niệm về ngũ hành. Bên cạnh là đàn lợn con đang quây quần bên
lợn mẹ, mỗi con mỗi dáng vẻ, con muốn trèo lên lưng, con muốn chui xuống
bụng, con mải mê đùa nghịch rất sinh động. Các hình ảnh giàu tính trang trí
được kết hợp nhịp nhàng tạo thành một hình chữ nhật chặt chẽ mà không hề
khô cứng làm toát lên vẻ đông đúc, đầm ấm phù hợp với mong ước về cuộc
sống ấm no hạnh phúc, năm mới tăng gia sản xuất sung túc, đời sống đủ đầy.
21.  
22.

23. Hình 3: Tranh “Lợn đàn”


24.  
25. Dạng bố cục hình chữ nhật cũng được thấy trong hai bức tranh khổ dọc Bé ôm
phật thủ và Bé cầm trái đào. Đây là hai trong số rất nhiều bức tranh của dòng
tranh dân gian Đông Hồ có bố cục tranh dọc cùng thể hiện nột đề tài chúc tụng.
Nhân vật chính thường là một cậu bé mũm mĩm, tươi tắn ngồi ôm những vật có
ý nghĩa may mắn, hạnh phúc để chuyển tải cho từng nội dung. Trong bức
tranh Bé ôm phật thủ (Hình 4), cậu bé ngồi ở tư thế như nửa quỳ, cẳng chân trái
dựng đứng song song với cạnh dọc của bức tranh, chân phải co gập làm điểm
ngồi và vuông góc với hướng của chân trái. Một tay đỡ quả phật thủ, một tay
cầm cuống giơ cao ngang mặt. Khuôn mặt tròn phúc hậu được thể hiện với góc
gần như chính diện và hơi hướng về phía quả. Toàn bộ cơ thể cậu bé, các bộ
phận được sắp xếp theo các chiều hướng sinh động, lôi cuốn kết hợp với quả
phật thủ tạo ra một kết cấu chặt chẽ trong khuôn hình chữ nhật đứng. Cái hay là ở
chỗ sự đông đặc thường thấy trong khi sắp xếp theo hình chữ nhật đã được nghệ
nhân giải quyết bằng tỉ lệ các mảng hình to nhỏ, khoảng trống tinh tế, chiều hướng
phong phú, đậm nhạt hài hòa và nét vẽ mềm mại để tạo nên một không gian ước
lệ đầy thú vị. Bức tranh Bé cầm trái đào (Hình 5) thường được treo theo cặp với
bức Bé ôm phật thủ có nhiều điểm tương đồng trong cách giải quyết bố cục. Vẫn
là cậu bé nhưng tư thế, động tác có nhiều thay đổi, nghệ nhân vẫn cho thấy sự
khéo léo và tài tình đối với dạng bố cục này. Khi ghép hai bức tranh ở gần nhau
thành một cặp ta lại thấy chúng dường như đăng đối nhau về nhiều mặt nhưng lại
giữ được sự ăn nhập hài hòa hỗ trợ lẫn nhau, tôn nhau lên trong một tổng thể vừa
tương phản vừa tương đồng tránh được sự nhàm chán.

 
 
Hình 4: Tranh “Bé ôm phật thủ”
Hình 5: Tranh “Bé cầm trái đào”
26.  
27. 4. Bố cục theo nhịp điệu hình sin
            Nhịp
điệu là một trong những nét đẹp điển hình của tự nhiên. Trong quy luật
của vũ trụ, cuộc sống đã bao hàm nhiều yếu tố mang tính nhịp điệu như sóng nước,
mây trôi hay những vận động mang tính quy luật được lặp đi lặp lại như ngày,
đêm, sáng, tối. Đối với bố cục theo nhịp điệu hình sin, các họa sĩ đề cao yếu tố
chuyển động, mềm mại và được lặp lại có tính toán để tạo ra hiệu quả thẩm mỹ.
Điều đó cũng đã được các nghệ nhân Đông Hồ thể hiện rất thành công trong nhiều
tác phẩm như Gà thư hùng, Công, Trạng chuột vinh quy, Đám cưới chuột, Đánh
đu, Đấu mộc, Tố nữ, Tố nữ ngồi, Tố nữ đứng, Trê cóc kiện nhau, Phù Đổng Thiên
Vương đại phá giặc Ân… Trong tranh Gà thư hùng (Hình 6) mô tả một gia đình
nhà gà gồm gà trống, gà mái và đàn con quấn quýt, một hình ảnh thường thấy trong
các tranh vẽ về các con vật thuô ̣c 12 con giáp hoặc những con vật gần gũi với con
người có những đức tính tốt để thể hiện những ý nghĩa ẩn dụ và hàm ý chúc tụng
cho những điều mong ước của con người trong cuộc sống, gợi không khí đầm ấm,
hạnh phúc gia đình với dòng chữ: “Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông”.
Hình ảnh uyển chuyển bắt đầu tính từ hình của mảng chữ nối sang đầu gà trống,
lưng, đuôi, bụng, ngực nối sang hai chú gà con trên lưng vòng sang đuôi, cánh gà
mái chạy xuống toàn bộ đàn con phía dưới đáy tranh từ phải sang trái tạo thành
một đường lượn hoàn hảo có nhịp chuyển động lúc dài, lúc ngắn, quãng chuyển
tiếp nhẹ nhàng, quãng lại đột ngột gấp khúc khiến ta khó mà rời mắt. Các mảng
hình sinh động, phong phú về kích cỡ, màu sắc được nhắc lại nhịp nhàng có tính
toán vừa tạo được sự cân bằng vừa dẫn dắt mắt người xem theo những trình tự của
sự vật. Hình ảnh gà trống tượng trưng cho nhân vật trụ cột gia đình với tư thế đầu
ngẩng cao rất oai hùng, gà mái mẹ cúi đầu sát đất che chở đàn con với hình vẽ theo
xu hướng xoay tròn có vẻ nũng nịu. Đàn gà con mỗi chú mỗi vẻ đều như rất mãn
nguyện hưởng thụ cuộc sống no đủ, hạnh phúc, bình an bên sự che chở của cha mẹ.
Tranh mang giá trị thẩm mỹ cao, được nhân dân ưa thích và thường treo trang trí
trong nhà với mong ước một cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
 
Hình 6: Tranh “Gà thư hùng”
 
Yếu tố nhịp điệu cũng được thể hiện rõ trong tranh Đấu mộc (Hình 7). Toàn bộ các
nhân vật trong tranh hiện lên theo hình sin chuyển động từ trái sang phải như nhịp
của sóng nước tạo nên yếu tố động để phản ánh một phần nội dung cần diễn giải.
Bức tranh vẽ về hoạt động đấu mộc, một trong những môn võ để rèn sức khỏe cho
trai tráng trong các hoạt động luyện quân và được duy trì trong các làng xóm xưa
kia. Hình ảnh các nhân vật, người ngồi nghỉ đợi đến lượt, người vung dao, người
co chân… tạo ra một nhịp liên hoàn có tính thống nhất. Màu sắc tối giản, đậm nhạt
được xử lý cô đọng, hình ảnh các đấu sĩ với tay cầm mác, tay cầm lá chắn, cởi trần
đóng khố được lặp lại trên mặt tranh mà chỉ thay đổi tư thế, động tác và một vài
chi tiết càng làm cho tính nhịp điệu được tăng lên.
Hình 7: Tranh “Đấu mô ̣c”
Một tác phẩm tạo hình muốn chuyển tải được nội dung tư tưởng đến với người
xem, trước tiên cần thông qua ngôn ngữ của hình mảng, đậm nhạt, đường nét, màu
sắc... Điều cốt lõi để các yếu tố thuộc ngôn ngữ của nghệ thuật trở nên có giá trị về
thẩm mỹ thì việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo hình đó được gọi là nghệ thuật bố
cục. Bố cục đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong một tác phẩm nghệ thuật,
nó có thể được hình thành trong công đoạn người nghệ sĩ xây dựng tác phẩm nhằm
thỏa mãn ý tưởng về nội dung, và được kiểm soát trong suốt quá trình sáng tạo và
hoàn thiện tác phẩm. Tranh dân gian Đông Hồ mang đầy đủ những yếu tố đặc
trưng của một dòng tranh riêng biệt, chất liệu độc đáo, bố cục đa dạng tạo được ý
vị thẩm mỹ riêng. Bên cạnh giá trị nội dung, tranh dân gian Đông Hồ đã đạt đến
giá trị nghệ thuật cao trong xử lý bố cục, cách điệu hình, màu sắc độc đáo hấp dẫn,
nét vẽ sinh động./

Treo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục đẹp của
người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình dù giàu
hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu đối đỏ
cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dán lên
tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh chơi tết
của vùng châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh những dòng tranh như Kim Hoàng ở Hà Tây,
Hàng Trống ở Hà Nội, có lẽ tranh dân gian Đông Hồ là điển hình hơn cả. Tranh
dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ ra đời từ
khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất trù phú, nông
nghiệp phát triển, đời sống  văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nôi cho một dòng
tranh chân quê, đậm đà chất dân tộc. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với
những giá trị văn hóa to lớn. Tranh tết Đông Hồ không phải là sự minh họa về
ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm, là lời chúc
phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài, phát lộc, bằng
những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp
ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ
đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời
sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh
ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân
Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn... Cái hấp dẫn của tranh dân gian
Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, ước mong vinh
hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh
mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn
hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự
đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối
với cuộc sống.
 
 
      
Đánh vật                              Đám cưới chuột
Chất liệu, Mầu sắc
 
Nét độc đáo đầu tiên thu hút người xem của Tranh dân gian Đông Hồ chính là màu
sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó (làm từ vỏ cây dó) với
đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Loại giấy này
được quét lên một lớp hồ điệp để tạo nét sáng óng ánh đặc thù: người ta nghiền nát
vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ,
hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.
Chổi lá thông tạo nên những nét ganh chạy theo đường quét, và vỏ điệp tự nhiên
cho màu trắng với ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng. Có thể
nói trong tranh dân gian Đông Hồ, chỉ nguyên sự óng ả của nền điệp cũng đủ sự
hấp dẫn, nếu điệp lại được lướt thêm một nước hòe, màu in lại được thay đổi màu
một lần nữa, ngả sang màu óng ánh như màu tơ tằm, các màu hòa quện với nhau
tạo thành các màu kỳ diệu. Bên cạnh đó, màu in cũng là một nét độc đáo trong quá
trình sáng tạo, khám phá, tìm tòi và ứng dụng các nguyên vật liệu gần gũi từ tự
nhiên vào hoạt động nghệ thuật (Màu đen lấy từ than xoan hay than lá tre; Màu
vàng lấy từ hoa hòe; Màu đỏ lấy từ sỏi non, gỗ vang; Màu xanh từ lá chàm, gỉ
đồng... ) điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với thiên nhiên của con
người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất
giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền của
mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh Đông
Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi
trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Với 3 màu nền; trắng điệp, vàng hòe
và đỏ vang hòa quyện với bảng màu, tranh dân gian Đông Hồ được bổ sung thêm
các màu đen than lá tre, nâu sỏi, xanh chàm, cộng với màu rỉ đồng, đỏ gấc, vàng
thỏ tía... kết hợp cùng kỹ thuật pha trộn, đặc hay loãng; kỹ thuật in chồng màu
những màu đó được chắt lọc, khi đưa vào tranh tạo các hòa sắc rất đẹp Màu
khoáng tự nhiên làm cho các hạt màu tạo nên sắc tố có tính thuận mắt, phù hợp với
đời sống nông nghiệp của người nông dân Việt Nam. Chính sự tương phản của các
sắc tố, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu làm cho tranh đạt một giá trị thẩm mỹ
độc đáo và khác biệt với các dòng tranh khác. Cách sử dụng màu sắc của tranh dân
gian Đông Hồ còn chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết
ngũ hành: như màu trắng ứng với hành kim, màu xanh ứng với hành mộc, màu đen
ứng với hành thủy, màu đỏ ứng với hành hỏa, màu vàng ứng với hành thổ. Theo
quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông:
"màu xanh tượng trưng cho sự sống, sinh sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với
ánh mắt nhìn"; "màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt nóng, màu của mùa hạ". Màu
vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên... Cho
nên, trong các tranh Đông Hồ thường thấy xử lý màu vàng làm nền cho mặt tranh,
có ý nghĩa quan trọng trong tổng hòa quan hệ của bức tranh. Ví dụ trong tranh Ngũ
hổ, hình tượng 5 chú hổ bố trí bốn con 4 góc, còn chú hổ còn lại được bố trí ngay
chính giữa tranh, được xử lý bằng gam màu vàng, tượng trưng cho mẹ của muôn
loài. 4 chú hổ xung quanh bố trí 4 màu tượng trưng cho 4 hành theo chiều tương
khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh Đông Hồ thường được các nghệ
nhân khai thác từ độ lấp lánh của vỏ sò trộn với bột hồ tạo nên trên mặt tranh, tạo
hiệu quả đặc biệt, mang tính đặc trưng của dòng tranh. Tranh dân gian Việt Nam
khác với tranh của Nhật Bản bởi lối dùng mảng màu nguyên mang tính đối lập in
trên thớ điệp, giấy in tranh đồng thời là màu nền của tranh, với những màu tươi vui
rực rỡ làm làm nên bảng màu trong tranh dân gian Đông Hồ vừa đằm thắm vừa có
được cái hồn của dân tộc, một nhà văn đã miêu tả như sau: "tranh gà, tranh lợn đỏ
như xôi gấc, vàng như màu lúa chín, xanh như lá mạ hay vàng như nghệ kho cá,
xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cày, toàn những màu sắc thân mến
từ bao đời rồi, những màu sắc ấy đã in vào tâm trí người nông dân từ thế hệ này
đến thế hệ khác thành những màu sắc dân tộc".

                     Hứng dừa                     Vinh hoa                         Phú quý


Bố cục, mảng, nét, hòa sắc
 
Về bố cục: Nếu phối cảnh không gian xa gần của hội họa phương Tây đã tạo ra lối
bố cục tuân thủ quy luật thị giác thì ở tranh dân gian Đông Hồ các nghệ nhân đã
dùng phối cảnh ước lệ Phương Đông làm cơ sở để tạo ra lối bố cục không gian
tượng trưng và khái quát, chắt lọc về đường nét, về màu sắc. Bố cục của tranh
thường được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn theo lối vẽ đơn tuyến bình đồ, do đó xem
tranh dân gian Đông Hồ ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô, đơn
giản nhưng hợp lý hợp tình. Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Đông Hồ,
đó là bên cạnh các hình thể, trong tranh thường có chữ đề thơ, mảng chữ là một
phần tạo nên sự chặt chẽ và hoàn chỉnh trong bố cục không gian của tranh bên
cạnh việc thể hiện rõ ý tưởng về nội dung. Nét chữ cũng là nét vẽ trong tranh, hài
hòa, ăn ý với nét vẽ ở các hình thể khác. Bởi vậy trong tranh dân gian Đông Hồ,
với chỉ vài nhân vật được tạo hình một cách đơn giản, không gian mang tính ước lệ
cùng những chữ đề thơ nhưng người xem vẫn cảm nhận thấy hết ý vị của tranh, dễ
dàng nắm bắt được ý nghĩa cũng như tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền
đạt. Ta có thể thấy, trong tranh Đánh ghen, nghệ nhân sử dụng phối cảnh ước lệ
"đơn tuyến bình đồ" tạo ra bố cục không gian tượng trưng và khái quát, cách tạo
hình nhân vật mang yếu tố biếm họa, thể hiện ở sự cường điệu hóa các hình thể và
đường nét trong tranh, tạo nên sự sôi động, nhưng không kém phần hài hước, vui
nhộn trước một tình huống bi kịch gia đình. Các hình ảnh được khắc họa một cách
chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật
và cảm thức trong sáng, hồn hậu, dí dỏm. Trong tranh là hình ảnh người vợ cả dữ
tợn, cầm kéo xông vào cô vợ trẻ đang thách thức chìa tóc ra, vênh váo, còn anh
chồng lấy thân hình của mình che chắn cho người vợ bé trước đường tiến của vợ
cả, tay trái ôm lấy bờ vai trần, lòng bàn tay vẫn không rời khỏi "bầu ngọc" của
nàng, tay phải đưa ra phía trước nửa như chống đỡ, nửa như phân trần, vừa như
van nài được thể hiện rõ ý qua 2 câu thơ đề phía trên: “Thôi thôi bớt giận làm lành
- Chi đừng sinh sự, hại mình nhục ta” . Bên cạnh hình tượng các nhân vật và không
gian ước lệ được hình tượng hóa gia cảnh của các nhân vật bằng các mảng tường
hoa, bình phong... khiến người xem cảm nhận được cái dư vị bi hài muôn thuở của
đời sống "chồng chung vợ chạ” thường xảy ra trong các gia đình giàu, có của ăn
của để. Thưởng thức bức tranh Đàn lợn âm dương nhìn một cách tổng thể, đây là
một bố cục hình chữ nhật được đặt trong khung hình chữ nhật. Bức tranh diễn tả
lợn mẹ và đàn lợn con trông thật sinh động, các nét cong của mông, lưng và đầu
lợn con trông mềm mại và nhịp nhàng song không làm mất đi hình mảng cơ bản
của nó. Để tăng thêm sự hài hòa, cân bằng của đường nét, trên mình lợn được điểm
xuyết bởi các vòng xoáy âm dương, vừa khiến các mảng đỡ đặc, vừa thể hiện tính
hài hòa trong trang trí. Những con lợn trong tranh không giống lợn thực, những
đặc điểm của mắt, mũi, miệng, tai, lưng được nghệ nhân khai thác triệt để và
cường điệu hóa trong cách nhìn trang trí. Đặc biệt sự sắp xếp các con lợn quây
quần bên nhau, giữa đàn lợn con và lợn mẹ hoà vào nhau tạo ra một bố cục chặt
chẽ, thể hiện rõ chủ đề "chúc tụng" của tranh, chúc cho sự sinh sôi nảy nở, con
cháu đầy đàn. Về mảng, nét và phối màu: Trong tranh dân gian Đông Hồ, nét là
một phần cực kỳ quan trọng, quyết định đến vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh,
đó là nét thực, nét tạo nên hình mảng trong tranh. Nét khoanh lấy các mảng màu
giữ cho màu đằm trên giấy, nét tạo nên sự nhất quán giữa hình và mảng, diễn tả
được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét viền to nhỏ đậm đà, dứt khoát.
Nét trong tranh dân gian Đông Hồ khỏe khoắn nhưng không thô cứng, chắc chắn
nhưng mềm mại, uyển chuyển, thanh thoát, tạo nên vẻ đẹp riêng của mình. Dưới
bàn tay của các nghệ nhân, nét rất được chú trọng. Nét và mảng trong tranh rất
phong phú, không những nêu bật được nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm,
mà còn gợi khối, tả chất rất giỏi. Chú trọng lột tả giá trị nội dung hơn là hình thức
của tác phẩm. Trên tinh thần đó, tranh dân gian Đông Hồ thoát ra yếu tố tả thực.
Xây dựng diện hình, mảng hình dẹt, bỏ qua vờn khối. Vai trò của thủ pháp ước lệ
trong tạo hình được đề cao và khai thác. Chính nhờ thủ pháp đó, người nghệ nhân
khi làm tranh đã bỏ qua các yếu tố đúng sai, đẹp xấu về mặt hình thức; chú trọng
biểu cảm về mặt nội dung, sao cho tác phẩm mang được tiếng nói riêng, tình cảm
của người sáng tác. Hơn thế nữa, sự tượng trưng, ước lệ về cách phối màu, dùng
màu, thoát li bản chất của cấu trúc tự nhiên sự vật, nâng lên bằng những gam màu,
mảng màu có tính khái quát cao... Các nghệ nhân đã quy các hình tượng nhân vật
trong tranh vào các dạng hình học cơ bản: như hình tam giác, hình thang, hình tròn,
ví dụ như trong tác phẩm Đánh vật, Hứng Dừa, Ngũ hổ... Trên cơ sở đó, nghệ nhân
kết hợp các thủ pháp nhấn mạnh và lược bỏ. Tập trung chú trọng vào những nhân
vật, đối tượng chính, quan tâm những nhận vật trung tâm để xử lí hình, mảng hay
biểu cảm nội tâm nhân vật qua đó, chuyển tải nội dung của tác phẩm đến người
xem với hiệu quả trực cảm mạnh mẽ. Tiêu biểu là bức tranh Đấu vật. Đây là một
trong những bức tranh nổi tiếng của tranh dân gian Đông Hồ, vẽ về cảnh đấu vật
của nam giới trong ngày xuân. Bức tranh chỉ tập trung diễn tả các đô vật (trong
tranh không có cảnh cờ hoa, mái đình, người xem...) cùng mầu sắc cực kỳ đơn giản
với chỉ có 3 mầu bao gồm cả mầu nền, nhưng với cách sử dụng nét, mảng tài tình,
nghệ nhân đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Hình ảnh các đô vật
với vóc dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức, quyết tìm các thế vật khác để quật
ngã đối phương, dành phần thắng về mình. Trên nền đỏ tươi thắm của nền tranh,
chất óng ả của vỏ điệp, trên thân hình các đô vật được viền bằng những nét đen
chắc, khỏe, làm tôn vẻ đẹp của tinh thần thượng võ và gợi nên không gian trong
ngày hội. Trong tranh với 3 đôi vật tạo thành mảng tam giác ở giữa tranh tạo nên
một bố cục cho người xem cảm giác vững chắc, các mảng rất phong phú và ăn
nhập với nhau và tạo nên thế cân bằng. Kết hợp với nét đen chắc, khỏe, nghệ nhân
đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Mảng chữ nhật hai bên với cách
diễn tả nét cho thấy 2 đô vật đang ngồi ôm đùi, thu chân trước ngực, như nói lên
cái không khí se lạnh của tiết trời cũng như thể hiện sự nôn nóng đợi đến lượt mình
lên sới. Phía trên là 2 mảng hình chữ nhật, nhìn vào ta có cảm giác như 2 xâu tiền
thưởng hay hai xâu bánh pháo đang được treo nơi sân đình. Chỉ với những hình
ảnh đơn giản đó nhưng người thưởng ngoạn như vẫn cảm nhận hết cái gay cấn của
cuộc thi, cái se lạnh của tiết xuân, không khí rộn ràng, vui tươi của lễ hội dân tộc.
Giá trị thẩm mĩ trong tranh dân gian Đông Hồ nằm ở vẻ đẹp hài hòa, cân bằng, nét
luôn đạt giá trị cân bằng cần thiết trong tranh. Đó là sự cân bằng về lượng và chất,
là hậu thuẫn cho mảng và nét tồn tại một cách vững chắc. Nét trong tranh dân gian
Đông Hồ mang tính chất phóng khoáng của người nông dân thuần hậu, nét to,
chắc, khỏe, dứt khoát khiến cho người xem có những tình cảm gần gũi với cuộc
sống ruộng đồng và đầy màu sắc quê hương. Trong hội họa; mảng nét, tả chất và
hình thành khối rất cần thiết, trong tranh dân dân Đông Hồ mảng nét góp phần hình
thành khối, trong bức tranh Thầy đồ cóc với cách sử dụng nét kết hợp với mảng đã
diễn tả thành công hình khối nhân vật. Thầy đồ cóc nhân vật chính được diễn tả
bằng mảng hình to nhất, thầy đồ cóc ngồi chễm chệ trên sập, nét vẽ thầy đồ cóc là
những nét cong tả khối bụng, khối lưng, khối cổ và các nét chấm diễn tả chất xù xì
của da cóc, trong tranh thầy đồ cóc được thể hiện to nhất đầy tính hách dịch, phía
dưới là những học trò với những mảng, hình to nhỏ khác nhau và kích thước nhỏ
hơn Thầy đồ cóc rất nhiều. Các nhân vật học trò được diễn tả với những hoạt động
khác nhau cùng nét, mảng và màu sắc được thay đổi liên tục tạo nên tổng thể bức
tranh là một lớp học lộn xộn: chỗ thì học trò đang chịu hình phạt, chỗ thì đọc sách,
chỗ thì đang lo điếu đóm... Hay bức tranh Đàn gà mẹ con, với cách sử dụng mảng
nét không những nêu được đặc điểm mà còn gợi được khối và cảm giác về chất.
Bằng cách dùng mảng nét để tả khối hình, các nghệ nhân đã tạo nên bức tranh có
sức hút đặc biệt với người xem tranh, mỗi chú gà trong tranh đều có những nét
mảng chuyển động khác nhau, có con trèo lên lưng mẹ, có con quay đi quay lại, tạo
nên sự liên kết giữa gà mẹ và gà con. So sánh bức tranh Đánh ghen với bức tranh
Hứng dừa chúng ta đều thấy hai bức tranh đều giống nhau về cách tạo hình, không
gian, màu sắc, mang yếu tố hài hước dí dỏm nghịch ngợm. Các nghệ nhân Đông
Hồ luôn chú ý đến sự hài hòa giữa đường nét, mảng và màu sắc cũng như sự hài
hòa về hình thể và khoảng trống sao cho giữa chúng có một tỉ lệ hợp lý, các mảng
mầu tươi được đặt cạnh nhau, được làm dịu bởi nét đen thông qua tác dụng tương
phản và bổ túc. Tất cả những mầu sắc, giấy dó, và bàn tay tài hoa của người nghệ
nhân đã tạo nên những tác phẩm có giá trị lớn mang tính nghệ thuật. Trong hai bức
tranh Vinh hoa - Phú quý, hình vịt, gà, hoa sen, hoa cúc, các mảng to nhỏ, dài ngắn
khác nhau tạo nên sự phong phú về mảng nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng và hài
hòa. Ở đó, cách sử dụng nét và lượng rất tài tình, tạo nên sự cân bằng, mảng to
mảng nhỏ đặt khéo léo. Nét to, nhỏ hợp lý, chắc khỏe, có chỗ lại dùng nét đứt tạo
chất, tạo chu vi hình thể trên con vật. Có chỗ thì mảng nhỏ nhưng dùng nét để vẽ
(vòng yếm), vừa tạo hình, vừa có tính trang trí. Có thể nói, cách sử dụng mảng nét
và màu sắc tạo nên vẻ đẹp của tranh dân gian Đông Hồ, nét xác định hình màu, nét
xác địch hình, xác định màu, nét giữ cho mảng màu đằm trên giấy, tạo ra hòa sắc,
tăng thêm vẻ đẹp của bức tranh, nét còn tạo sự nhất quán của hình và các mảng
màu, diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét, to nhỏ đậm nhạt,
mạnh mẽ khác nhau nhưng không làm cho bức tranh khô cứng, chắc nhưng uyển
chuyển thanh thoát, có thể nói mảng nét trong sự phối hợp với màu sắc đã đạt đến
một tầm cao của nghệ thuật. Tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn
giản, dễ hiểu, hình tượng rõ ràng, đã đáp ứng được những nhu cầu về tâm lý, tư
tưởng, tình cảm và mong ước của người dân lao động, vì vậy tranh dân gian Đông
Hồ dễ đi vào lòng người với những ấn tượng sâu sắc, phản ánh các đề tài gần gũi
với đời sống sinh hoạt của người dân, phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con
người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa
những lời hay - ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để
lại vào tranh với những cách thể hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế và giàu chất biểu
cảm. Ngày nay "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" đã được công nhận là Di sản
Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và đang được lập hồ sơ trình UNESCO để xét
tặng danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Với sự thành
công cũng như sự quan tâm đó, mong rằng tranh dân gian Đông Hồ sẽ mãi "tồn tại,
phát triển", lưu giữ và phát huy những giá trị vốn có của mình, trở thành một phần
không thể thiếu trong đời sống của nhân dân lao động.

Tạo hình nhân vật


Màu sắc
Phương pháp chế tạo tranh

You might also like