Professional Documents
Culture Documents
- Thông thường, người ta đề thơ lên tranh bằng chữ Hán. Những câu thơ ngắn
gọn, súc tích, hàm chứa chủ đề của bức tranh. Nhờ vậy, người xem dễ dàng
nắm bắt được ý nghĩa của bức tranh và tư tưởng mà người nghệ nhân muốn
truyền đạt.
- Mẫu vẽ xong được khắc lên ván in. Đây là khâu rất quan trọng và nó có ý
nghĩa quyết định đến giá trị tác phẩm.Thông thường mỗi ván chỉ in được
một màu. Do đó, số ván cần phải khắc bằng chính số màu trong tranh.Sau
khi hoàn tất việc khắc ván là công đoạn in tranh.
- Tranh in hoàn toàn bằng khắc ván, không dùng bút để vẽ hay tô màu. Khi in,
người ta dùng ván in đã phết màu lên giấy điệp. Mỗi lần in một màu, các
màu phải khít với nhau. Cuối cùng khi các màu đã được in hết, bản khắc nét
màu đen được in lên, hoàn thành một bức tranh .Tranh Đông Hồ là nghệ
thuật in tranh thủ công, bức tranh hoàn thành là do sự ghép lại của các mảng
màu theo đúng trình tự nhất định.
- Cho đến nay chỉ còn hai dòng họ vẫn giữ được nghề truyền thống là dòng họ
của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam. Từ
những năm 90, khi người dân làng tranh bán hết bản khắc gỗ để mưu sinh,
hoặc để mất mát, thất lạc, có khi còn bị mang ra chẻ làm củi đun hoặc che
chuồng gà, thì Nghệ nhân Đăng Chế đã “tỉnh táo” thu mua bằng hết. Cho
đến nay, ông vẫn còn lưu giữ được gần 100 bản khắc cổ và phục chế được
hàng trăm bản khắc khác.. Không chỉ khôi phục lại được dòng tranh mà bao
nhiêu năm ông ấp ủ và gia đình ông, cả ba thế hệ từ ông, con, cháu đang
sống sung túc nhờ làm tranh. Cách đây ít năm, ông Nguyễn Đăng Chế đã
thành lập Công ty TNHH Tranh dân gian Đông Hồ trên diện tích 5.500m2
chuyên khôi phục bản khắc cổ, sản xuất, dạy nghề cho con em địa phương
và giới thiệu sản phẩm tới du khách trong và ngoài nước.
- Nhiều khách công ty đã đặt tranh số lượng lớn với ông để xuất khẩu sang
nước ngoài. Hiện bên cạnh thị trường trong nước, ông Chế còn xuất khẩu
trực tiếp ra thị trường Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan…
Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
màu vàng từ hoa hoè, màu chàm của các loại nguyên liệu từ núi rừng, màu
son của sỏi đồi tán nhuyễn. Những màu sắc đó được pha với dung dịch hồ
nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện
đại không thể nào có được.
- Tô màu : Do cách tô màu bằng tay (vờn màu bằng tay, nét cản). tranh Hàng
Trống của Hà Nội lại sử dụng kỹ thuật nửa in, nửa vẽ. Tranh Hàng Trống là
thể loại tranh được in một lần bản nét, để làm xương sống cho tác phẩm sau
đó người nghệ nhân phải gia công bằng việc tô phẩm màu lên. Do đó, tuy
cùng một bản in như nhau nhưng tuỳ cảm hứng của người tô mà các tác
phẩm tranh dân gian Hàng Trống của Hà Nội vẫn có sự khác biệt nhau rõ
rệt.
- Chính cách thức làm tranh khác biệt này đã tạo nên dấu ấn riêng của tranh
Hàng Trống và cũng là nét tài hoa đặc sắc của người Kinh kỳ. Trong quá
trình tô màu, các nghệ nhân dân gian Hàng Trống đã vờn chuyển mầu, tạo
độ đậm, nhạt, sáng, tối, chuyển sắc tinh tế nên các nhân vật trong tranh
không còn là mảng bẹt như cách thể hiện của các dòng tranh đương thời.
Với bút pháp diễn tả ấy, các nhân vật đã "nổi khối". Đồng thời với việc vờn
chuyển diễn tả khối này, các nghệ nhân còn đi sâu vào việc phát huy khả
năng diễn tả của nét. Cùng với những nét được khắc in qua bản gỗ, khi cần
nhấn, đẩy các chi tiết, các nghệ nhân tranh Hàng Trống không ngần ngại
dùng bút để nẩy, tỉa. Với cách thức sáng tạo của riêng mình, các nghệ nhân
dòng tranh dân gian Hàng Trống của Hà Nội không chỉ tạo nên nét riêng cho
dòng tranh, mà đã làm bật lên sức sống nội tại của nhân vật.
d. Các tác phẩm tiêu biểu
Màu sắc trong tranh Ngũ hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, uy linh. Cái đậm
đà của những nét đen được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
cái rực vàng của hoa hòe, thẫm của màu lục từ lá chàm, trắng từ vỏ điệp, đỏ của
sỏi đồi tán nhuyễn được tô vẽ thật khéo léo như một bản hòa tấu của màu sắc.
Những gam màu mạnh khi kết hợp với nhau không hề có cảm giác chói mà đầm
ấm, vui tươi như cái không khí của Tết vậy. Tuy có sự phối hợp của màu trên
toàn bộ bức tranh, nhưng mỗi màu lại được khu biệt riêng trên 5 nhân vật hổ.
Lối dùng màu này ngoài giá trị tạo ra những sắc thái hòa hợp, tươi mới mà thể
hiện rõ một hàm ý, mang triết lý sâu xa của quan niệm dân gian truyền thống:
quan niệm ngũ hành tương sinh.
Hoàng hổ: Con hổ ngồi chỉnh trện giữa tranh được vẽ vờn bằng màu vàng, tượng
trưng cho hành thổ - ứng với trung ương chính điện.
Thanh hổ: Con hổ được vẽ bằng màu xanh là tượng trưng cho hành Mộc, ứng với
phương Đông.
Bạch hổ: Con hổ được vẽ bằng màu trắng là hành Kim ứng với phương Tây.
Xích hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đỏ là hành Hỏa ứng với phương Nam.
Hắc hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đen là hành Thủy ứng với phương Bắc
GÍA TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TRANH DÂN GIAN
1. Đề tài
2. Bố cục
3. . Bố cục hình tròn, hình e-líp
4. Hình tròn thường tạo liên tưởng đến sự vận động tuần hoàn của vũ trụ,
những yếu tố động, xoay tròn, chuyển động… có trong quy luật tự nhiên. Bố
cục dạng tròn là dạng bố cục có trọng tâm, gây cảm giác tập trung, quy tụ tạo
ra sự đồng nhất và thường gây cảm giác chặt chẽ, trọn vẹn. Hình e-líp cũng
có nhiều điểm chung với quy luật của hình tròn tuy nhiên nó gợi sức chuyển
động theo chiều dài, ý nghĩa khái quát của hình cần hiểu thêm về sự biến
thiên của quy luật đời ơ]sống.
5. Dạng thức bố cục hình tròn được thể hiện rất rõ qua bức tranh Bịt mắt
bắt dê (Hình 1). Toàn bộ khung cảnh vui chơi của trò chơi dân gian bịt mắt bắt
dê hiện lên ở trung tâm bức tranh quây thành một vòng tròn. Đôi trai gái đang
hào hứng đuổi bắt con dê, chàng trai bị bịt mắt đang rất chủ động và hăng hái,
hứng khởi nhập cuộc được sắp đặt ở gần chính giữa như một điểm bắt đầu dẫn
mắt người xem vào những tình tiết tiếp theo của trò chơi. Cùng tham gia trực
tiếp vào trò chơi là cô gái và con dê, cô gái như quên đi những bó buộc tâm lý
đời thường, cô vung chân, tung váy rất thoải mái. Phía dưới, góc phải tranh là
hình ảnh con dê dược thể hiện ở tư thế đang chạy dưới sự đuổi bắt của người
chơi và được chặn lại bởi tấm liếp như khóa chặt bố cục bức tranh. Cả ba nhân
vật chính trong trò chơi được thể hiện sinh động với các động tác hấp dẫn, mảng
hình phong phú, nhịp điệu uyển chuyển. Phía sau chàng trai và cô gái là khán
giả, những người cổ vũ cho trò chơi với nét mặt rất chăm chú cho thấy trò chơi
hấp dẫn đến mức nào. Xét về mặt tình tiết câu chuyện ta thấy toàn bộ hình ảnh
được dẫn dắt rất lôi cuốn, có trình tự. Có thể bắt đầu từ hình ảnh chàng trai đuổi
bắt dê, hình ảnh con dê, cô gái, khán giả phía sau và kết thúc ở hình ảnh đôi
nam nữ bên góc tranh tạo thành một vòng tròn liên kết và điểm kết thúc lại như
chuẩn bị cho một điểm khởi đầu mới của vòng tròn tiếp theo, trò chơi sẽ còn tiếp
diễn như hòa với không khí tưng bừng của mùa xuân. Màu trong tranh được
khái quát bởi nâu, lục, trắng, nét đen và màu nền của giấy điệp nhưng vẫn đủ
tạo ra sự hài hòa cần thiết. Đường nét sinh động, phóng khoáng vừa khái quát
được hình vừa hỗ trợ cho các mảng màu. Các nét thẳng, cong, uốn lượn được
sử dụng nhịp nhàng trong một tổng thể thống nhất. Mảng hình lôi cuốn được kết
hợp lúc đặc, lúc thoáng, mảng dài, mảng ngắn phong phú tạo ra các khoảng
trống sinh động gợi được không gian trong tranh mang tính chất ước lệ.
6.
7.
Hình 4: Tranh “Bé ôm phật thủ”
Hình 5: Tranh “Bé cầm trái đào”
26.
27. 4. Bố cục theo nhịp điệu hình sin
Nhịp
điệu là một trong những nét đẹp điển hình của tự nhiên. Trong quy luật
của vũ trụ, cuộc sống đã bao hàm nhiều yếu tố mang tính nhịp điệu như sóng nước,
mây trôi hay những vận động mang tính quy luật được lặp đi lặp lại như ngày,
đêm, sáng, tối. Đối với bố cục theo nhịp điệu hình sin, các họa sĩ đề cao yếu tố
chuyển động, mềm mại và được lặp lại có tính toán để tạo ra hiệu quả thẩm mỹ.
Điều đó cũng đã được các nghệ nhân Đông Hồ thể hiện rất thành công trong nhiều
tác phẩm như Gà thư hùng, Công, Trạng chuột vinh quy, Đám cưới chuột, Đánh
đu, Đấu mộc, Tố nữ, Tố nữ ngồi, Tố nữ đứng, Trê cóc kiện nhau, Phù Đổng Thiên
Vương đại phá giặc Ân… Trong tranh Gà thư hùng (Hình 6) mô tả một gia đình
nhà gà gồm gà trống, gà mái và đàn con quấn quýt, một hình ảnh thường thấy trong
các tranh vẽ về các con vật thuô ̣c 12 con giáp hoặc những con vật gần gũi với con
người có những đức tính tốt để thể hiện những ý nghĩa ẩn dụ và hàm ý chúc tụng
cho những điều mong ước của con người trong cuộc sống, gợi không khí đầm ấm,
hạnh phúc gia đình với dòng chữ: “Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông”.
Hình ảnh uyển chuyển bắt đầu tính từ hình của mảng chữ nối sang đầu gà trống,
lưng, đuôi, bụng, ngực nối sang hai chú gà con trên lưng vòng sang đuôi, cánh gà
mái chạy xuống toàn bộ đàn con phía dưới đáy tranh từ phải sang trái tạo thành
một đường lượn hoàn hảo có nhịp chuyển động lúc dài, lúc ngắn, quãng chuyển
tiếp nhẹ nhàng, quãng lại đột ngột gấp khúc khiến ta khó mà rời mắt. Các mảng
hình sinh động, phong phú về kích cỡ, màu sắc được nhắc lại nhịp nhàng có tính
toán vừa tạo được sự cân bằng vừa dẫn dắt mắt người xem theo những trình tự của
sự vật. Hình ảnh gà trống tượng trưng cho nhân vật trụ cột gia đình với tư thế đầu
ngẩng cao rất oai hùng, gà mái mẹ cúi đầu sát đất che chở đàn con với hình vẽ theo
xu hướng xoay tròn có vẻ nũng nịu. Đàn gà con mỗi chú mỗi vẻ đều như rất mãn
nguyện hưởng thụ cuộc sống no đủ, hạnh phúc, bình an bên sự che chở của cha mẹ.
Tranh mang giá trị thẩm mỹ cao, được nhân dân ưa thích và thường treo trang trí
trong nhà với mong ước một cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
Hình 6: Tranh “Gà thư hùng”
Yếu tố nhịp điệu cũng được thể hiện rõ trong tranh Đấu mộc (Hình 7). Toàn bộ các
nhân vật trong tranh hiện lên theo hình sin chuyển động từ trái sang phải như nhịp
của sóng nước tạo nên yếu tố động để phản ánh một phần nội dung cần diễn giải.
Bức tranh vẽ về hoạt động đấu mộc, một trong những môn võ để rèn sức khỏe cho
trai tráng trong các hoạt động luyện quân và được duy trì trong các làng xóm xưa
kia. Hình ảnh các nhân vật, người ngồi nghỉ đợi đến lượt, người vung dao, người
co chân… tạo ra một nhịp liên hoàn có tính thống nhất. Màu sắc tối giản, đậm nhạt
được xử lý cô đọng, hình ảnh các đấu sĩ với tay cầm mác, tay cầm lá chắn, cởi trần
đóng khố được lặp lại trên mặt tranh mà chỉ thay đổi tư thế, động tác và một vài
chi tiết càng làm cho tính nhịp điệu được tăng lên.
Hình 7: Tranh “Đấu mô ̣c”
Một tác phẩm tạo hình muốn chuyển tải được nội dung tư tưởng đến với người
xem, trước tiên cần thông qua ngôn ngữ của hình mảng, đậm nhạt, đường nét, màu
sắc... Điều cốt lõi để các yếu tố thuộc ngôn ngữ của nghệ thuật trở nên có giá trị về
thẩm mỹ thì việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo hình đó được gọi là nghệ thuật bố
cục. Bố cục đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong một tác phẩm nghệ thuật,
nó có thể được hình thành trong công đoạn người nghệ sĩ xây dựng tác phẩm nhằm
thỏa mãn ý tưởng về nội dung, và được kiểm soát trong suốt quá trình sáng tạo và
hoàn thiện tác phẩm. Tranh dân gian Đông Hồ mang đầy đủ những yếu tố đặc
trưng của một dòng tranh riêng biệt, chất liệu độc đáo, bố cục đa dạng tạo được ý
vị thẩm mỹ riêng. Bên cạnh giá trị nội dung, tranh dân gian Đông Hồ đã đạt đến
giá trị nghệ thuật cao trong xử lý bố cục, cách điệu hình, màu sắc độc đáo hấp dẫn,
nét vẽ sinh động./
Treo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục đẹp của
người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình dù giàu
hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu đối đỏ
cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dán lên
tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh chơi tết
của vùng châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh những dòng tranh như Kim Hoàng ở Hà Tây,
Hàng Trống ở Hà Nội, có lẽ tranh dân gian Đông Hồ là điển hình hơn cả. Tranh
dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ ra đời từ
khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất trù phú, nông
nghiệp phát triển, đời sống văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nôi cho một dòng
tranh chân quê, đậm đà chất dân tộc. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với
những giá trị văn hóa to lớn. Tranh tết Đông Hồ không phải là sự minh họa về
ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm, là lời chúc
phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài, phát lộc, bằng
những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp
ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ
đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời
sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh
ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân
Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn... Cái hấp dẫn của tranh dân gian
Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, ước mong vinh
hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh
mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn
hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự
đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối
với cuộc sống.
Đánh vật Đám cưới chuột
Chất liệu, Mầu sắc
Nét độc đáo đầu tiên thu hút người xem của Tranh dân gian Đông Hồ chính là màu
sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó (làm từ vỏ cây dó) với
đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Loại giấy này
được quét lên một lớp hồ điệp để tạo nét sáng óng ánh đặc thù: người ta nghiền nát
vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ,
hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó.
Chổi lá thông tạo nên những nét ganh chạy theo đường quét, và vỏ điệp tự nhiên
cho màu trắng với ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng. Có thể
nói trong tranh dân gian Đông Hồ, chỉ nguyên sự óng ả của nền điệp cũng đủ sự
hấp dẫn, nếu điệp lại được lướt thêm một nước hòe, màu in lại được thay đổi màu
một lần nữa, ngả sang màu óng ánh như màu tơ tằm, các màu hòa quện với nhau
tạo thành các màu kỳ diệu. Bên cạnh đó, màu in cũng là một nét độc đáo trong quá
trình sáng tạo, khám phá, tìm tòi và ứng dụng các nguyên vật liệu gần gũi từ tự
nhiên vào hoạt động nghệ thuật (Màu đen lấy từ than xoan hay than lá tre; Màu
vàng lấy từ hoa hòe; Màu đỏ lấy từ sỏi non, gỗ vang; Màu xanh từ lá chàm, gỉ
đồng... ) điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với thiên nhiên của con
người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất
giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền của
mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh Đông
Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi
trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Với 3 màu nền; trắng điệp, vàng hòe
và đỏ vang hòa quyện với bảng màu, tranh dân gian Đông Hồ được bổ sung thêm
các màu đen than lá tre, nâu sỏi, xanh chàm, cộng với màu rỉ đồng, đỏ gấc, vàng
thỏ tía... kết hợp cùng kỹ thuật pha trộn, đặc hay loãng; kỹ thuật in chồng màu
những màu đó được chắt lọc, khi đưa vào tranh tạo các hòa sắc rất đẹp Màu
khoáng tự nhiên làm cho các hạt màu tạo nên sắc tố có tính thuận mắt, phù hợp với
đời sống nông nghiệp của người nông dân Việt Nam. Chính sự tương phản của các
sắc tố, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu làm cho tranh đạt một giá trị thẩm mỹ
độc đáo và khác biệt với các dòng tranh khác. Cách sử dụng màu sắc của tranh dân
gian Đông Hồ còn chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết
ngũ hành: như màu trắng ứng với hành kim, màu xanh ứng với hành mộc, màu đen
ứng với hành thủy, màu đỏ ứng với hành hỏa, màu vàng ứng với hành thổ. Theo
quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông:
"màu xanh tượng trưng cho sự sống, sinh sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với
ánh mắt nhìn"; "màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt nóng, màu của mùa hạ". Màu
vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên... Cho
nên, trong các tranh Đông Hồ thường thấy xử lý màu vàng làm nền cho mặt tranh,
có ý nghĩa quan trọng trong tổng hòa quan hệ của bức tranh. Ví dụ trong tranh Ngũ
hổ, hình tượng 5 chú hổ bố trí bốn con 4 góc, còn chú hổ còn lại được bố trí ngay
chính giữa tranh, được xử lý bằng gam màu vàng, tượng trưng cho mẹ của muôn
loài. 4 chú hổ xung quanh bố trí 4 màu tượng trưng cho 4 hành theo chiều tương
khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh Đông Hồ thường được các nghệ
nhân khai thác từ độ lấp lánh của vỏ sò trộn với bột hồ tạo nên trên mặt tranh, tạo
hiệu quả đặc biệt, mang tính đặc trưng của dòng tranh. Tranh dân gian Việt Nam
khác với tranh của Nhật Bản bởi lối dùng mảng màu nguyên mang tính đối lập in
trên thớ điệp, giấy in tranh đồng thời là màu nền của tranh, với những màu tươi vui
rực rỡ làm làm nên bảng màu trong tranh dân gian Đông Hồ vừa đằm thắm vừa có
được cái hồn của dân tộc, một nhà văn đã miêu tả như sau: "tranh gà, tranh lợn đỏ
như xôi gấc, vàng như màu lúa chín, xanh như lá mạ hay vàng như nghệ kho cá,
xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cày, toàn những màu sắc thân mến
từ bao đời rồi, những màu sắc ấy đã in vào tâm trí người nông dân từ thế hệ này
đến thế hệ khác thành những màu sắc dân tộc".