Professional Documents
Culture Documents
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
Sau đại học, Bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội, Ban Giám đốc,
các Khoa, Phòng Bệnh viện Tai Mũi Họng TW đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
trong học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn Đình Phúc,
người Thầy hướng dẫn của tôi. Thầy luôn tâm huyết với sự nghiệp đào tạo,
luôn sẵn sàng dạy dỗ, chỉ bảo, cung cấp cho tôi những phương pháp, kiến
thức quý báu giúp tôi thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm
giúp đỡ của các thầy, cô đã cho tôi những ý kiến đóng góp quý giá trong quá
trình hoàn thành luận văn: PGS.TS. Lương Thị Minh Hương, PGS.TS. Phạm
Tuấn Cảnh, PGS.TS. Tống Xuân Thắng, PGS.TS. Lê Công Định, PGS.TS.
Quách Thị Cần.
Tôi xin cảm ơn toàn thể cán bộ khoa Thính học - TDCN, Bệnh viện
Tai Mũi Họng TW, khoa Thanh học B8, khoa Nội soi, Phòng Kế hoạch tổng
hợp đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập, thu
thập số liệu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bố, mẹ, vợ, con, đã luôn chia
sẻ, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn
các bạn bè, đồng nghiệp đã luôn giúp đỡ tôi trong học tập và trong công việc.
Tôi là Nguyễn Duy Dương, học viên lớp Chuyên khoa II - K28 (2014-
2016) chuyên ngành Tai Mũi Họng, Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của GS.TS. Nguyễn Đình Phúc.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi
nghiên cứu (BV Tai Mũi Họng TW).
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hạt xơ dây thanh (HXDT) là tổn thương niêm mạc lành tính tại điểm nối
1/3 trước - 2/3 sau của bờ tự do dây thanh, có tính chất đối xứng hai bên. Đây
là bệnh lý điển hình của những người sử dụng giọng chuyên nghiệp hoặc nghề
phải nói nhiều như giáo viên, người bán hàng, ca sĩ [1]. Các nguyên nhân
chính gây ra HXDT gồm lạm dụng giọng nói, sử dụng giọng nói sai cách [1],
có thể có vai trò đóng góp của các yếu tố như trào ngược dạ dày - thực quản
[2] và dị ứng [3]. Đây là một trong những bệnh lý thanh quản phổ biến nhất
gặp tại các cơ sở Tai Mũi Họng. Trong HXDT thường có tình trạng rối loạn
chức năng phát âm do cường năng thanh quản kéo dài. Do đó, việc điều trị
HXDT tiềm ẩn nhiều phức tạp và dễ tái phát [4]. Hiện tại, các phương pháp
điều trị HXDT bao gồm trị liệu giọng nói - ngôn ngữ, phẫu thuật, hoặc phối
hợp cả hai phương pháp này [5].
Trong điều trị HXDT dù bằng trị liệu giọng nói hay vi phẫu thanh quản
(VPTQ), việc đánh giá cảm thụ giọng nói trước và sau điều trị có tầm quan
trọng đặc biệt. Thứ nhất, đánh giá cảm thụ giúp thầy thuốc chẩn đoán được
tình trạng rối loạn chức năng phát âm, từ đó đề ra phương thức điều trị phù
hợp. Thứ hai, cảm thụ giọng nói là cách đơn giản và trực quan nhất để đánh
giá kết quả điều trị. Do đó việc nghiên cứu ứng dụng các thang cảm thụ trong
đánh giá giọng nói trước và sau điều trị đóng vai trò rất quan trọng.
Đánh giá cảm thụ giọng nói là một phương pháp thăm khám trong Tai
Mũi Họng trong đó thầy thuốc dùng tai lắng nghe để đánh giá chất giọng của
bệnh nhân [6]. Cho đến nay, mặc dù công nghệ về thăm khám và đánh giá
khách quan phát triển, đánh giá cảm thụ giọng nói vẫn được coi là một biện
pháp không thể bỏ qua [7]. Vì tai người rất nhạy trong việc xác định và phân
biệt nhiều loại âm thanh khác nhau, nghe để đánh giá giọng nói là một công
cụ hữu ích [8] giúp thầy thuốc định hướng chẩn đoán, từ đó kết hợp với khám
thực thể để đưa ra chẩn đoán về tình trạng bệnh giọng - thanh quản của bệnh
nhân. Khi không có sẵn trang thiết bị khám thực thể (nội soi), thì đánh giá
cảm thụ là phương pháp duy nhất giúp định hướng chẩn đoán. Đánh giá cảm
thụ cũng giúp thầy thuốc theo dõi, tiên lượng các rối loạn giọng (RLG) trong
suốt quá trình điều trị.
Do tầm quan trọng của đánh giá cảm thụ, hiện tại có nhiều thang đánh
giá được xây dựng để làm công cụ khám giọng nói. Một trong những thang
đánh giá cảm thụ được sử dụng rộng rãi trên thế giới là GRBAS, được giới
thiệu và khuyến cáo sử dụng bởi Ủy ban Thăm dò Chức năng phát âm của
Hội Thanh học Nhật Bản [8]. Đây được coi là một thang đánh giá giọng có
các thông số được định nghĩa rõ ràng, rất phù hợp với các bệnh lý thường gặp
ở thanh quản [9, 10]. Các thông số của thang này gồm G (grade = mức độ
RLG), R (roughness = giọng khàn thô), B (breathiness = giọng thở), A
(asthenia = giọng nhược), và S (strain = giọng căng).
Hiện tại, ở Việt Nam, chưa có đề tài nào ứng dụng thang GRBAS trong
đánh giá giọng nói trước và sau VPTQ điều trị các tổn thương lành tính thanh
quản nói chung và HXDT nói riêng. Do đó, chúng tôi áp dụng thang này
trong đánh giá kết quả vi phẫu HXDT để nghiên cứu khả năng ứng dụng của
nó. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là:
1. Đánh giá kết quả vi phẫu hạt xơ dây thanh qua nội soi, thang
GRBAS và phân tích chất thanh.
2. Đối chiếu kết quả nội soi, phương pháp đánh giá bằng thang
GRBAS và phân tích chất thanh.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
- Độ 3: Hạt xơ nhú lên khỏi bờ tự do > 1mm. Thanh môn hình đồng hồ
cát rõ khi phát âm.
Việc phân độ tổn thương trong HXDT có ý nghĩa trong việc lựa chọn
phương pháp điều trị là nội khoa, trị liệu giọng nói - ngôn ngữ hay phẫu thuật.
Ngoài ra phân độ tổn thương cũng giúp đánh giá kết quả điều trị.
Là phương pháp điều trị quan trọng nhằm bổ trợ cho chức năng phát âm
và loại bỏ cơ chế sang chấn cơ học tại thanh quản. Vì HXDT xuất hiện do
cường năng thanh quản, nên trị liệu giọng nói là lựa chọn đầu tiên khi điều trị
HXDT dù có hay không có phẫu thuật [5].
- Giảm cường năng thanh quản, từ đó làm giảm cường độ va đập của dây
thanh khi phát âm.
- Điều hòa việc phối hợp giữa hơi thở và phát âm.
- Sử dụng kiểu tạo thanh, cao độ, cường độ hợp lý khi phát âm.
Sử dụng phẫu thuật để cắt bỏ HXDT được chỉ định trong một số trường
hợp nhất định:
- Điều trị bảo tồn bằng trị liệu giọng nói - ngôn ngữ không đỡ.
- HXDT kích thước lớn ảnh hưởng trầm trọng đến chức năng phát âm [1].
Sau phẫu thuật, bệnh nhân cần tiếp tục trải qua chương trình trị liệu
giọng nói - ngôn ngữ để khôi phục giọng nói và tránh tái phát. Bequignon,
Bach, Fugain và cộng sự [4] đã đánh giá tỷ lệ tái phát của HXDT trên các
bệnh nhân chỉ điều trị phẫu thuật đơn thuần so với các bệnh nhân có trị liệu
giọng nói - ngôn ngữ sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy 30% tái phát HXDT
sau mổ 5,2 năm. Nhóm không trị liệu giọng nói - ngôn ngữ sau mổ có tỷ lệ tái
phát cao hơn có ý nghĩa thống kê (56% tái phát khi không có trị liệu giọng nói
- ngôn ngữ sau mổ so với 22% tái phát khi có trị liệu giọng nói - ngôn ngữ sau
mổ). Kết quả này cho thấy trị liệu giọng nói - ngôn ngữ sau mổ làm giảm
nguy cơ tái phát.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Thông tin chung: Tuổi, giới, nghề nghiệp, triệu chứng cơ năng.
- Các thông số thanh quản được cho điểm để đánh giá mức độ tổn
thương thực thể và để đối chiếu với các thông số cảm thụ và phân tích chất
thanh. Điểm số thanh quản được chấm cho 6 thông số trong đó hai thông số
chính là HXDT và khe hở thanh môn được cho điểm theo tiêu chí mức độ.
Với HXDT, điểm số căn cứ vào kích thước và tính chất của hạt xơ qua nội
soi. Kích thước hạt xơ được tính từ bờ tự do đến chỗ nhô lên cao nhất. Với
thanh môn, điểm số căn cứ vào mức độ khe hở và hình dạng của thanh môn
khi phát âm. Đây là hai thông số được sử dụng để phân độ HXDT mà Nuss,
Ward, Recko và cộng sự đưa ra và đã được kiểm chứng [73]. Các thông số
khác được cho điểm theo tiêu chí có bất thường hay không (Bảng 2.2). Theo
cách cho điểm này, nếu thanh quản hoàn toàn bình thường thì được 6 điểm,
có đầy đủ các dấu hiệu bệnh lý được tối đa 16 điểm (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Cơ sở cách cho điểm các thông số thanh quản
STT Thông số và cơ sở để cho điểm Điểm
Không có hạt xơ 1
Khi phát âm có điểm tiếp xúc hai dây thanh ở
điểm nối 1/3 trước - 2/3 sau bờ tự do, chưa rõ 2
hạt xơ.
Hạt xơ nhỏ, kích thước < 0,5mm, thanh môn
1 HXDT 3
khép kín.
Hạt xơ có kích thước 0,5 - 1mm, thanh môn
4
khép không kín, chưa rõ hình đồng hồ cát.
Hạt xơ có kích thước > 1mm, thanh môn có
5
hình đồng hồ cát điển hình.
Thanh Khép kín 1
2 Khe hở nhỏ, không có hình đồng hồ cát 2
môn Khe hở hình đồng hồ cát 3
Bờ tự Mềm mại 1
3 Thô
do 2
Nhày Không 1
4 Có
đặc 2
Không 1
5 Nề
Có 2
Xung Không 1
6 Có
huyết 2
- Tình trạng cường năng thanh quản: Đánh giá bằng khám trương lực cơ
trên móng, vị trí thanh quản khi phát âm, co kéo trước - sau.
c. Thông tin về đánh giá cảm thụ
- Điểm số cảm thụ 5 thông số G, R, B, A, S của từng bệnh nhân được
chấm theo thang điểm cách đều có 11 điểm từ 0 - 10.
- Có 20 mẫu giọng được đánh giá cảm thụ 2 lần để tính độ tin cậy.
d. Các thông số phân tích chất thanh
- F0 theo đơn vị Hertz (Hz), chỉ số nhiễu loạn tần số (jitter) tính bằng
micro giây (µm), chỉ số nhiễu loạn biên độ (shimmer) tính theo %, và HNR
tính theo decibel (dB).
2.2.5.2. Thông tin sau phẫu thuật
Được thu thập tại thời điểm 1 tháng sau phẫu thuật.
a. Thông tin về khám thanh quản
- Tình trạng niêm mạc thanh quản.
- Bờ tự do dây thanh, tình trạng thanh môn khi phát âm.
- Cho điểm các thông số thanh quản: Cách cho điểm như trước phẫu thuật.
- Tình trạng cường năng thanh quản: Đánh giá như trên.
b. Thông tin về đánh giá cảm thụ
- Điểm số cảm thụ 5 thông số G, R, B, A, S sau phẫu thuật cho từng
bệnh nhân, tính theo thang điểm cách đều có 11 điểm từ 0 - 10.
c. Các thông số phân tích chất thanh
- Phân tích các thông số F0, jitter, shimmer, HNR sau phẫu thuật.
2.2.6. Phương pháp thu thập số liệu nghiên cứu
2.2.6.1. Thu thập số liệu về thanh quản
- Thu thập số liệu thanh quản qua soi thanh quản bằng ống optic, ghi nhận
thông tin trên bệnh án nghiên cứu tại 2 thời điểm: trước mổ, sau mổ 1 tháng.
2.2.6.2. Thu thập số liệu về giọng
- Ghi âm giọng: Được tiến hành trong phòng cách âm tại khoa Thính học
- TDCN, Bệnh viện Tai Mũi Họng TW. Bệnh nhân được yêu cầu đọc kéo dài
ít nhất 5 giây nguyên âm /a/ và /i/ bằng giọng thoải mái nhất về cao độ, cường
độ. Yêu cầu bệnh nhân đọc đều giọng, liên tục trong 1 hơi thở, không ngắt
giọng, không gắng sức, không dùng trọng âm. Micro được đặt cố định cách
miệng 20 cm và lệch 45 độ để tránh tiếng ồn hơi thở khi đọc.
- Xử lý và phân tích mẫu giọng: Tín hiệu chất thanh của giọng nói được
chuyển đổi kỹ thuật số với tần số lấy mẫu 44,1 kHz, 16-bit và được lưu dưới
dạng file [*.wav] và phân tích bằng phần mềm ngữ âm PRAAT.
2.2.6.3. Thu thập số liệu cảm thụ bằng thang GRBAS:
- Cách tiến hành:
+ Địa điểm tiến hành: Phòng cách âm có âm nền < 40dB tại khoa Thính
học - TDCN của Bệnh viện Tai Mũi Họng TW.
+ Tiến hành: 5 bác sĩ trong nhóm đánh giá cảm thụ nghe mẫu giọng
nguyên âm /a/ và /i/ của các đối tượng nghiên cứu. Lý do sử dụng 2 nguyên
âm này là vì các phân tích chất thanh được thực hiện trên 2 nguyên âm này.
Do đó việc dùng 2 nguyên âm này để đánh giá cảm thụ sẽ làm việc đối chiếu
cảm thụ - chất thanh hợp lý hơn. Ngoài ra, Hội nghị về phân tích âm của
giọng nói năm 1995 ở Iowa (Hoa Kỳ) đã đưa ra khuyến cáo sử dụng các
nguyên âm này trong phân tích cảm thụ và chất thanh [31]. Các mẫu giọng
được phát từ máy tính Dell Inspiron 5448, thông qua bộ chuyển đổi digital-to-
analogue converter (DAC) C5D của JDS Labs (Mỹ) tại 44,1kHz, 16-bit và
phát qua loa Bose Soundlink. Hệ thống này bảo đảm chất lượng nguyên vẹn
các mẫu giọng gốc. Cường độ âm phát ra được giữ ổn định và điều chỉnh sao
cho thoải mái nhất đối với người đánh giá.
+ Trước khi tiến hành đánh giá cảm thụ thực sự, có một buổi tập huấn để
5 người đánh giá lắng nghe các chất giọng mẫu. Bộ giọng mẫu trải đều các
mức độ từ nhẹ đến nặng cho từng thông số G, R, B, A, S. Tác giả giải thích
cách tiến hành, giải đáp các vấn đề chưa rõ cho nhóm đánh giá.
+ Trong buổi tập huấn, toàn bộ nhóm đánh giá tiến hành đánh giá thử 10
mẫu giọng để làm quen với cách tiến hành.
+ Có 3 buổi đánh giá cảm thụ chính thức: 1 buổi cho các mẫu giọng
trước mổ (tổng thời gian kể cả nghỉ giải lao khoảng 90 phút), 1 buổi cho các
mẫu giọng sau mổ (tổng thời gian kể cả nghỉ giải lao khoảng 90 phút), và 1
buổi đánh giá lại 20 mẫu giọng /a/ trước mổ để tính độ tin cậy (khoảng 30
phút kể cả thời gian nghỉ giải lao). Để tránh mệt mỏi cho người đánh giá, cứ
sau 20 mẫu đánh giá lại có 10 phút tạm dừng để người đánh giá nghỉ giải lao.
+ Người đánh giá cho điểm từng thông số G, R, B, A, S bằng cách
khoanh vào 1 điểm số phù hợp (0, 1, 2... đến 10) trên thang điểm cách đều
(EAI) tương đương với mức độ biểu hiện của thông số (Phụ lục 2).
+ Số lượng mẫu giọng trước mổ: 30 mẫu của nguyên âm /a/ + 30 mẫu của
nguyên âm /i/= 60 mẫu. Số lượng mẫu giọng sau mổ: 30 mẫu /a/ + 30 mẫu /i/ =
60 mẫu. Độ dài mỗi mẫu giọng là 3 giây, được phát 3 lần cách nhau khoảng 2
giây để người nghe cảm thụ được các thông số giọng bệnh lý và cho điểm xong
từng thông số. Mẫu giọng có thể được phát lại nếu cần. Nhóm đánh giá 5 người
cho điểm độc lập và không được thảo luận khi cho điểm các thông số.
+ Đánh giá độ tin cậy: 20 mẫu giọng trước mổ của nguyên âm /a/ được
đánh giá lần 2 sau buổi đánh giá lần thứ nhất 1 tuần. Kết quả điểm số của 2
lần đánh giá này được sử dụng để tính toán độ tin cậy (mô tả trong phần
Phương pháp thống kê). Các nghiên cứu cảm thụ trên thế giới khuyến cáo lặp
lại ít nhất 50% mẫu giọng để tính độ tin cậy [6]. Do đó chúng tôi sử dụng 20
mẫu trong tổng số 30 mẫu giọng là phù hợp.
2.2.6.4. Thu thập số liệu chất thanh
- Các thông số chất thanh (F0, jitter, shimmer, HNR) được phân tích trên
mẫu giọng dài 3 giây của 2 nguyên âm /a/, /i/. Chúng tôi phân tích 100 chu kỳ
ở phần giữa của mẫu giọng [31] (là phần ổn định nhất về chất âm). Dùng lệnh
"Voice Report" của PRAAT.
2.2.7. Phương pháp thống kê
Số liệu được quản lý bằng Microsoft Excel 10 và được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS 16.0 cho Windows. Chúng tôi sử dụng thống kê mô tả, các test
tham số (parametric test). Các test tham số được kiểm định về phân phối chuẩn
(normal distribution) trước khi tính toán. Các thuật toán thống kê bao gồm:
2.2.7.1. Thống kê mô tả
27% 13%
≤ 30
31-
40
60%
3.1.2. Giới
Toàn bộ 30 đối tượng nghiên cứu là nữ giới.
3.1.3. Nghề nghiệp
Nhóm nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu được trình bày trong
Biểu đồ 3.2.
18 16
16
14
12
10 8
8 6
6
4
2
0
Kinh doanh Giáo viên Công nhân
Biểu đồ 3.2. Phân bố theo nghề nghiệp
Nhận xét: Phần lớn các đối tượng nghiên cứu làm nghề phải sử dụng
giọng nói nhiều như kinh doanh, giáo viên. Công nhân nằm trong nhóm bị
bệnh phần lớn lao động trong môi trường có nhiều tiếng ồn như may mặc.
3.1.4. Triệu chứng cơ năng
40
30
20
30
10 20
15
8
0
Khàn Gắng sức khi Nói mau mệt Giọng yếu
nói
Biểu đồ 3.3. Các triệu chứng cơ năng về giọng
Nhận xét: Khàn giọng là triệu chứng chính, chiếm 30/30 tổng số bệnh
nhân. Các triệu chứng khác gặp với tần suất thấp hơn là gắng sức khi nói,
giọng yếu. Đặc biệt là triệu chứng "nói mau mệt": bệnh nhân không nói được
lâu, giọng nhanh chóng bị khàn khi nói được 1 lúc. Ở các đối tượng này,
giọng nói thường suy giảm chất lượng về cuối ngày và cuối tuần làm việc.
3.1.5. Kết quả nội soi Tai Mũi Họng và thanh quản trước mổ
3.1.5.1. Tai Mũi Họng
- 100% các đối tượng nghiên cứu không có bệnh lý Tai Mũi Họng phối
hợp trước phẫu thuật. Điều này có thể do các bệnh nhân đã được điều trị nội
khoa trước phẫu thuật (dùng thuốc chống trào ngược, chống viêm...)
3.1.5.2. Thanh quản - cổ
Các tổn thương thực thể tại thanh quản trước phẫu thuật được trình bày
trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tình trạng thanh quản trước phẫu thuật
Thông số n %
Có HXDT Có 30 100
Không 0 0
Thanh môn Khe hở "đồng hồ cát" 30 100
Khép kín 0 0
Bờ tự do Thô 30 100
Mềm mại 0 0
Dịch nhày đặc 18 60
Nề dây thanh 10 33,3
Xung huyết 1 3,3
Nhận xét:
- 100% các đối tượng nghiên cứu có HXDT ở vị trí điển hình là điểm nối
1/3 trước - 2/3 sau bờ tự do dây thanh (Ảnh 3.1).
- 100% có hai dây thanh khép không kín khi phát âm. Khe hở thanh môn
khi phát âm có dạng hình đồng hồ cát (Ảnh 3.2).
- 100% bệnh nhân có bờ tự do "thô", tức là bờ tự do mất tính thẳng nhẵn,
mềm mại mà trở nên không đều do sự xuất hiện của HXDT.
- 18 (60%) có dịch nhày đặc ở dây thanh: Biểu hiện là dịch màu trắng, ở
bờ tự do, xuất hiện 1 vài giây sau khi bệnh nhân phát âm lúc soi thanh quản.
Khi hắng giọng thì mất đi, khi phát âm thì lại xuất hiện trở lại.
- Dấu hiệu nề và xung huyết dây thanh chỉ gặp ở mức độ nhẹ.
Sử dụng hệ thống cho điểm nội soi thanh quản trước mổ, điểm số nội soi
trước mổ trung bình là 13,9 ± 0,9 (min = 13; max = 16, n = 30).
Ảnh 3.2. Thanh môn hình đồng hồ cát (Ng.T.Ngh. Số bệnh án 16003019)
Bảng 3.2. Các dấu hiệu cường năng thanh quản trước phẫu thuật
Triệu chứng n %
Tăng 27 90,0
Trương lực cơ trên móng
Bình thường 3 10
Bị kéo lên
24 80,0
Vị trí thanh quản khi phát âm
Bình thường 6 20,0
Co kéo trước - sau Có 21 70,0
Không 9 30,0
Nhận xét: Phần lớn bệnh nhân có dấu hiệu cường năng thanh quản, biểu
hiện qua 3 dấu hiệu: Tăng trương lực cơ trên móng khi phát âm (90%), thanh
quản bị kéo lên trên khi phát âm (80%), co kéo trước - sau (70%).
3.1.6. Độ tin cậy trong đánh giá bằng thang GRBAS
3.1.6.1. Độ tin cậy trong cùng 1 người đánh giá
Được tính bằng 3 chỉ số: Tỷ lệ điểm số trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm,
test t, và hệ số tương quan r của Pearson.
a. Tỷ lệ điểm số lần 2 trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm so với điểm số lần 1
Bảng 3.3. Tỷ lệ điểm số lần 2 trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm so với
điểm số lần 1 cho cả 5 thông số
Người đánh giá % n
1 96 100
2 92 100
3 98 100
4 91 100
5 89 100
Nhận xét: 5 người đánh giá có tỷ lệ điểm số lần 2 trùng khít hoặc chênh
± 1 điểm so với điểm số lần 1 từ 89% - 98%, là mức có độ tin cậy rất tốt.
Bảng 3.4. Tần suất điểm số lần 2 trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm so
với điểm số lần 1 cho từng thông số (n=20 cho mỗi thông số)
Người đánh giá G R B A S
1 18 20 20 19 19
2 20 20 19 19 14
3 20 20 19 20 19
4 20 20 20 11 20
5 19 14 19 20 17
Nhận xét:
- Tính riêng cho từng thông số, G và R được đánh giá với tần suất có
điểm số trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm cao nhất, sau đó là B, A, S.
b. Test t
Điểm số GRBAS trung bình lần 1 và lần 2 của 5 người đánh giá được so
sánh bằng test t. Kết quả được trình bày trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5. So sánh điểm GRBAS trung bình lần 1 và 2 của 5 người
đánh giá (n = 20 x 5 thông số = 100)
Lần 1 Lần 2
Người đánh giá t p n
X X
±SD ±SD
1 6,4 ± 2,8 6,1 ± 2,9 0,654 > 0,05 100
2 5,8 ± 2,7 6,1 ± 2,9 0,501 > 0,05 100
3 5,8 ± 2,6 6,0 ± 2,9 0,536 > 0,05 100
4 6,4 ± 2,5 6,4 ± 3,1 0,153 > 0,05 100
5 6,4 ± 3,0 6,2 ± 2,7 0,687 > 0,05 100
Nhận xét: Tất cả 5 người đánh giá đều có điểm số đánh giá lần 2 tương
quan có ý nghĩa thống kê với điểm đánh giá lần 1 (p < 0,01).
3.1.6.2. Độ tin cậy giữa các cá nhân trong nhóm đánh giá
a. Hệ số tương quan đồng hạng (intraclass correlation coefficient, ICC)
Sử dụng mô hình ICC bằng ANOVA 2 chiều (2-way random effects)
trong SPSS 16.0: Coi cả người đánh giá và điểm số đánh giá là ngẫu nhiên.
Hệ số ICC được tính từ lần đánh giá 1 của 20 mẫu giọng dùng để đánh
giá độ tin cậy. Như vậy 20 mẫu giọng x 5 thông số = 100 điểm số đánh giá.
Bảng 3.7. Hệ số tương quan đồng hạng ICC*
Thông số ICC p
Độ tin cậy cá nhân ICC(2,1) 0,93 <0,001
Độ tin cậy chung ICC(2,5) 0,985 <0,001
Nhận xét: Hệ số ICC (2,1) cho thấy bất kỳ một người đánh giá nào trong
nhóm (5 người) đều có độ tin cậy rất cao. Hệ số ICC (2,5) cho thấy điểm đánh
giá trung bình tính từ 5 người đánh giá cũng có độ tin cậy rất cao (p < 0.001).
b. Hệ số tương quan r tính từ tất cả các cặp người đánh giá:
Bảng 3.8. Ma trận tương quan giữa 5 người đánh giá
Người đánh giá 1 2 3 4 5
1 1 0,944 0,959 0,940 0,931
2 1 0,937 0,914 0,935
3 1 0,939 0,944
4 1 0,909
5 1
Nhận xét: Bảng ma trận tương quan ở trên cho thấy có sự tương quan
chặt chẽ giữa từng cặp người đánh giá. Tất cả hệ số tương quan từ các cặp đều
> 0,9. Điều này cho thấy nhóm đánh giá có sự đồng thuận rất cao trong việc
cho điểm các thông số cảm thụ theo thang GRBAS.
c. Cronbach's alpha
Hệ số này có kết quả là 0,985 (n = 5 người đánh giá). Như vậy, 5 người
đánh giá đạt độ nhất trí rất cao trong việc cho điểm thang GRBAS.
3.1.7. Điểm số của thang GRBAS trước mổ
3.1.7.1. Điểm số cảm thụ của các thông số GRBAS trước mổ
Bảng 3.9 trình bày điểm số trung bình ( X ), độ lệch chuẩn (SD), số tối
thiểu và tối đa của các thông số trong thang GRBAS trước phẫu thuật. Số liệu
được biểu diễn trong Biểu đồ 3.4. Điểm của các thông số G, R, B, A, S của
từng bệnh nhân được tính trung bình cộng từ 5 người đánh giá. Sau đó lấy trị
số trung bình cộng đó để tính các tham số của quần thể nghiên cứu. Vì 5
người đánh giá đạt độ đồng thuận cao trong việc cho điểm các thông số, việc
lấy điểm số trung bình cộng của 5 người đánh giá sẽ cho giá trị điểm số mang
tính đại diện cho cả nhóm đánh giá.
Bảng 3.9. Điểm số trung bình GRBAS trước phẫu thuật
X Min - Max
± SD
Thông số n
/a/ /i/ /a/ /i/
G 30 7,8 ± 0,6 7,6 ± 0,5 6,6 - 8,8 6,8 - 8,8
R 30 7,9± 0,6 7,6 ± 0,6 6,6 - 9,0 6,6 - 9,0
B 30 7,5 ± 0,6 7,3 ± 0,5 6,2 - 8,6 6,2 - 8,2
A 30 0,9 ± 0,3 0,8 ± 0,2 0,4 - 1,4 0,4 - 1,6
S 30 6,9 ± 0,6 6,7 ± 0,5 5,8 - 8,0 5,8 - 8,0
10
7.8 7.6 7.9 7.6
8 7.5 7.3
6.9 6.7
6
a
4 i
2 0.9 0.8
0
G R B A S
Biểu đồ 3.4. Điểm số trung bình GRBAS trước mổ (thang điểm 0-10)
Nhận xét:
- Các thông số cảm thụ có điểm số cao là giọng khàn thô (R), giọng thở (B) và
giọng căng (S), trong đó điểm số của R và B đều cao trên 7 trong thang 10 điểm.
- Chất giọng nhược (A) không phải là kiểu giọng đặc trưng của HXDT,
phản ánh qua điểm của thông số này rất thấp < 1.
- Nguyên âm /a/ được đánh giá cảm thụ cho mức độ rối loạn cao hơn so
với nguyên âm /i/, tức là cảm nhận độ khàn thì /a/ sẽ luôn bị đánh giá là khàn
hơn so với /i/.
- Điểm số của thông số mức độ RLG (thông số G) tương đồng với điểm
số của thông số R và thông số B.
3.1.7.2. Tương quan giữa các thông số trong thang GRBAS
Bảng 3.10 trình bày mối tương quan giữa các thông số trong thang
GRBAS. Kết quả được tính từ điểm số cảm thụ của nguyên âm /a/.
Bảng 3.10. Tương quan giữa các thông số trong thang GRBAS (n = 30)
G R B A S
G r 1 0,946 0,865 -0,233 0,868
p < 0,01 < 0,01 > 0,05 < 0,01
R r 0,946 1 0,788 -0,295 0,910
p < 0,01 < 0,01 > 0,05 < 0,01
B r 0,865 0,788 1 -0,092 0,763
p < 0,01 < 0,01 > 0,05 < 0,01
A r -0,233 -0,295 -0,092 1 -0,358
p > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05
S r 0,868 0,910 0,763 -0,358 1
p < 0,01 < 0,01 < 0,01 > 0,05
Nhận xét:
- Mức độ RLG (G) có tương quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) với các
thông số R (r = 0,946), B (r = 0,865) và S (r = 0,868). Không có mối tương
quan nào giữa R và A (p > 0,05).
- R tương quan có ý nghĩa thống kê với B (r = 0,788) và S (r = 0,910).
- B có tương quan có ý nghĩa thống kê với S (r = 0,763).
Nhận xét: Các chỉ số nhiễu loạn tần số (jitter) và nhiễu loạn biên độ
(shimmer) không có sự khác biệt giữa 2 nguyên âm nghiên cứu là /a/ và /i/.
Duy nhất có chỉ số hài thanh HNR có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nguyên âm này: nguyên âm /a/ có chỉ số hài thanh thấp hơn /i/, tức là độ khàn
cao hơn (p < 0,05).
3.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VI PHẪU HẠT XƠ DÂY THANH QUA NỘI
SOI, THANG GRBAS VÀ PHÂN TÍCH CHẤT THANH
3.2.1. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT qua nội soi thanh quản
3.2.1.1. Kết quả nội soi thanh quản
Bảng 3.12. So sánh các thông số thanh quản trước và sau mổ 1 tháng
Trước mổ Sau mổ
Triệu chứng p
n % n %
HXDT 30 100 0 0 <0,05
Khe hở thanh môn 30 100 0 0 <0,05
Bờ tự do thô 30 100 6 20,0 <0,05
Nhày đặc 18 60,0 9 30,0 <0,05
Nề dây thanh 10 33,3 3 10,0 <0,05
Xung huyết 1 3,3 0 0,0 <0,05
Nhận xét:
- Sau phẫu thuật, có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê các tổn thương tại
thanh quản.
- Tình trạng HXDT: 100% bệnh nhân sau mổ đã hết HXDT.
- Khe hở thanh môn: Tỷ lệ có khe hở thanh môn đã giảm từ 100% trước
mổ xuống 0% sau mổ.
- Bờ tự do dây thanh được cải thiện sau mổ: Tỷ lệ có bờ tự do thô sau mổ
chỉ còn 20%, giảm có ý nghĩa thống kê so với 100% trước mổ.
- Các dấu hiệu đọng dịch nhày đặc, nề dây thanh giảm có ý nghĩa thống
kê sau phẫu thuật (p < 0,05).
3.2.1.2. Điểm nội soi thanh quản trước và sau mổ
Kết quả nội soi thanh quản trước mổ và sau mổ của toàn bộ 30 bệnh nhân
được tính điểm. Theo hệ thống cho điểm của chúng tôi thì tổn thương nặng nhất
với tất cả các dấu hiệu thực thể đều có mặt (6 dấu hiệu như trên, Bảng 3.12) thì
được 16 điểm. Thanh quản không có tổn thương thực thể nào được 6 điểm. Điểm
số nội soi thanh quản trước mổ và sau mổ được trình bày trong Biểu đồ 3.5.
Bn30 7 13
Bn29 6 14
Bn28 6 14
Bn27 7 13
Bn26 6 13
Bn25 6 14
Bn24 6 13
Bn23 6 14
Bn22 10 13
Bn21 6 14
Bn20 6 15
Bn19 7 16
Bn18 7 15
Bn17 6 15
Bn16 9 15
Bn15 7 14 Sau mổ
Bn14 7 13
Bn13 6 13
Bn12 6 14
Bn11 6 15
Bn10 6 13
Bn9 6 15
Bn8 8 15
Bn7 6 13
Bn6 7 15
Bn5 6 13
Bn4 6 14
Bn3 8 13
Bn2 6 13
Bn1 7 15
0 2 4 6 8 10 12 14 16
Biểu đồ 3.5. Điểm số nội soi thanh quản trước mổ và sau mổ của
30 bệnh nhân (Bn = Bệnh nhân)
Nhận xét: Sau mổ điểm nội soi thanh quản của các bệnh nhân giảm
đáng kể so với trước mổ. Có 18 bệnh nhân có điểm nội soi thanh quản sau mổ
là 6, thể hiện mức thấp nhất của điểm số thanh quản.
Điểm số thanh quản trung bình trước và sau phẫu thuật được trình bày
trong Bảng 3.13.
Bảng 3.13. So sánh điểm số thực thể thanh quản trước và sau mổ
Trước mổ Sau mổ
Thông số p n
X X
±SD ±SD
Điểm số thanh quản 13,9 ± 0,9 6,6 ± 0,9 < 0,01 30
Nhận xét: Điểm số thanh quản trung bình trước mổ đã giảm từ 13,9
xuống còn 6,6 sau mổ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.
3.2.1.3. Các dấu hiệu cường năng phát âm
Bảng 3.14. Các dấu hiệu cường năng phát âm trước và sau mổ
Trước mổ Sau mổ
Triệu chứng p
n % n %
Trương lực cơ Tăng 27 90,0 12 40,0
< 0,05
trên móng Bình thường 3 10,0 18 60,0
Bị kéo lên trên 24 80,0 10 33,3
Vị trí thanh quản < 0,05
Bình thường 6 20,0 20 66,7
Có 21 70,0 11 36,7
Co kéo trước - sau < 0,05
Không 9 30,0 19 63,3
Nhận xét:
- Số bệnh nhân bị cường năng thanh quản có giảm sau phẫu thuật, mức
giảm có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhất định có các dấu
hiệu cường năng sau phẫu thuật.
- Sau mổ, 12 bệnh nhân vẫn có tăng trương lực cơ trên móng.
- 10 bệnh nhân vẫn có tình trạng thanh quản bị kéo lên trên khi phát âm.
- 11 bệnh nhân vẫn có tình trạng co kéo trước - sau.
3.2.2. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT qua thang GRBAS
3.2.2.1. Điểm số GRBAS sau mổ
Bảng 3.15. Điểm số trung bình GRBAS sau mổ
X Min - Max
± SD
Thông số n
/a/ /i/ /a/ /i/
G 30 3,2 ± 0,4 2,8 ± 0,4 2,2 - 4,0 1,8 - 3,6
R 30 3,1 ± 0,4 2,8 ± 0,5 2,4 - 3,8 1,8 - 3,8
B 30 3,1 ± 0,5 2,6 ± 0,5 2,0 - 4,4 1,40 - 3,6
A 30 0,4 ± 0,2 0,5 ± 0,2 0,20 - 0,8 0,20 - 1,0
S 30 2,5 ± 0,4 2,3 ± 0,4 1,60 - 3,6 1,40 - 2,8
10
6
a
4 3.2 3.1 2.8 3.1 i
2.8 2.6 2.5 2.3
2
0.4 0.5
0
G R B A S
Biểu đồ 3.6. Điểm số trung bình GRBAS sau mổ (thang điểm 0-10)
Nhận xét:
- Điểm số GRBAS trung bình sau mổ đều giảm xuống dưới 4 điểm cho
tất cả các thông số.
- Ngoại trừ thông số A, so với nguyên âm /a/, điểm các thông số của /i/
thấp hơn 1 chút nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.2.2.2. So sánh điểm số GRBAS trước và sau mổ
a. Nguyên âm /a/
10
7.8 7.9
8 7.5
6.9
6
Trước mổ
4 3.2 3.1 3.1 Sau mổ
2.5
2 0.9
0.4
0
G R B A S
Biểu đồ 3.7. So sánh điểm số trung bình GRBAS của /a/ trước và
sau mổ (thang điểm 0-10)
Bảng 3.16. So sánh điểm số GRBAS của /a/ trước và sau mổ
X
Thông số ± SD n p
Trước mổ Sau mổ
G 7,8 ± 0,6 3,2 ± 0,4 30 <0,01
R 7,9 ± 0,6 3,1 ± 0,4 30 <0,01
B 7,5 ± 0,6 3,1 ± 0,5 30 <0,01
A 0,9 ± 0,3 0,4 ± 0,2 30 <0,05
S 6,9 ± 0,6 2,5 ± 0,4 30 <0,05
Nhận xét:
- Sau phẫu thuật, có sự giảm có ý nghĩa thống kê về điểm số của toàn bộ
các thông số của thang GRBAS.
- Tuy nhiên, không thông số nào được đánh giá về mức hoàn toàn bình
thường. Cụ thể, 3 thông số G, R, B đều có điểm trung bình = 3,1 - 3,2 sau mổ,
thể hiện RLG ở mức độ nhẹ.
b. Nguyên âm /i/
10
9
8 7.6 7.6 7.3
6.7
7
6
5 Trước mổ
4 Sau mổ
2.8 2.8
3 2.6 2.3
2
0.8 0.5
1
0
G R B A S
Biểu đồ 3.8. So sánh điểm số trung bình GRBAS của /i/ trước và
sau mổ (thang điểm 0-10)
Bảng 3.17. So sánh điểm số GRBAS của /i/ trước và sau mổ
Thông X
± SD n p
số Trước mổ Sau mổ
G 7,6 ± 0,5 2,8 ± 0,4 30 <0,01
R 7,6 ± 0,6 2,8 ± 0,5 30 <0,01
B 7,3 ± 0,5 2,6 ± 0,5 30 <0,01
A 0,8 ± 0,2 0,5 ± 0,2 30 <0,05
S 6,7 ± 0,5 2,3 ± 0,4 30 <0,01
Nhận xét:
- Tương tự như với nguyên âm /a/, sau phẫu thuật, có sự giảm có ý nghĩa
thống kê về điểm số của toàn bộ các thông số của thang GRBAS đối với /i/.
- Điểm số sau phẫu thuật của các thông số không hoàn toàn bình thường.
Tuy nhiên so với /a/, điểm số sau phẫu thuật của /i/ thấp hơn một chút.
3.2.3. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT qua phân tích chất thanh
3.2.3.1. Kết quả phân tích chất thanh sau mổ
Bảng 3.18. Kết quả chất thanh sau mổ
Nguyên
Thông số X Min Max n p
± SD
âm
Nhận xét:
- Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 đối với F0 của /a/ so
với F0 của /i/.
- Không có sự khác biệt chỉ số jitter giữa /a/ và /i/ với p > 0,05.
- Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ số shimmer giữa /a/ và /i/ với p
< 0,05: Shimmer của /a/ cao hơn của /i/.
- Chỉ số HNR của /a/ thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với
HNR của /i/.
Nhận xét:
- Có mối tương quan rất chặt chẽ giữa điểm số thanh quản và các thông
số của G, R, B và S (p < 0,01). Nói cách khác, tổn thương thanh quản càng
nặng thì mức độ của các chất giọng khàn thô (R), giọng thở (B), giọng căng
(S) càng cao, đồng nghĩa với việc mức độ RLG càng nặng.
- Có mối tương quan ở mức độ vừa giữa điểm số thanh quản và thông số
A (p < 0,01), tức là tổn thương thanh quản càng nặng thì chất giọng yếu,
nhược càng biểu hiện rõ.
3.3.2. Đối chiếu kết quả nội soi và phương pháp đánh giá bằng phân tích
chất thanh
Điểm số thực thể thanh quản được đối chiếu với kết quả phân tích chất
thanh của nguyên âm /a/. Số liệu được tính từ kết quả trước mổ và sau mổ (N
= 30 trước mổ + 30 sau mổ = 60). Kết quả được trình bày trong bảng sau đây.
Bảng 3.21. Đối chiếu nội soi thanh quản và chất thanh
Nguyên
Hệ số F0 Jitter Shimmer HNR
âm
Điểm số r 0,191 0,587 0,492 -0,611
/a/
thanh quản p > 0,05 < 0,01 < 0,01 < 0,01
r 0,161 0,586 0,560 -0,679
Điểm số
/i/ p > 0,05 < 0,01 < 0,01 < 0,01
thanh quản
n 60 60 60 60
Nhận xét: Cho cả 2 nguyên âm khảo sát là /a/ và /i/ chúng tôi thấy:
- Có mối tương quan vừa giữa điểm số thanh quản và jitter, shimmer (p
< 0,01). Điều này có nghĩa là tổn thương thanh quản càng nặng, các chỉ số
jitter và shimmer càng cao (giọng càng khàn).
- Có mối tương quan nghịch giữa điểm số thanh quản và chỉ số hài thanh
HNR (p < 0,01). Điều này có nghĩa là tổn thương thanh quản càng nặng, chỉ
số hài thanh HNR càng giảm (giọng càng khàn) và ngược lại.
- Không có mối tương quan giữa điểm số thanh quản và F0 (p > 0,05).
3.3.3. Đối chiếu thang GRBAS với phân tích chất thanh
Bảng 3.22 đến Bảng 3.26 trình bày hệ số r biểu thị mối tương quan giữa
các thông số G, R, B, A, S và các thông số chất thanh. Mối tương quan được
tính trên cùng nguyên âm. N = 30 mẫu trước mổ + 30 mẫu sau mổ = 60.
3.3.3.1. G và F0, jitter, shimmer, HNR
Bảng 3.22. Mối tương quan giữa G và các thông số chất thanh
Thông số F0 Jitter Shimmer HNR
và nguyên
r p r p r p r p
âm
/a/ 0,152 > 0,05 0,671 < 0,01 0,481 < 0,01 -0,634 < 0,01
G
/i/ 0,118 > 0,05 0,587 < 0,01 0,558 < 0,01 -0,664 < 0,01
n 60 60 60 60
Nhận xét:
- Không có mối tương quan giữa G và F0 cho cả hai nguyên âm /a/ và /i/.
- Có mối tương quan giữa G và jitter và shimmer cho cả /a/ và /i/.
- Có mối tương quan nghịch giữa G và HNR (p < 0,01): Điểm số G càng
cao, HNR càng giảm và ngược lại (mức độ RLG càng nặng, HNR càng giảm).
3.3.3.2. R và F0, jitter, shimmer, HNR
Bảng 3.23. Mối tương quan giữa R và các thông số chất thanh
Thông số F0 Jitter Shimmer HNR
và nguyên
r p r p r p r p
âm
/a/ 0,145 > 0,05 0,651 < 0,01 0,462 < 0,01 -0,604 < 0,01
R
/i/ 0,109 > 0,05 0,596 < 0,01 0,555 < 0,01 -0,666 < 0,01
n 60 60 60 60
Nhận xét:
- Không có sự tương quan giữa R với F0 (p > 0,05) cho cả 2 nguyên âm.
- Có tương quan giữa R với jitter và shimmer cho cả /a/ và /i/ (p < 0,01).
- Có tương quan nghịch giữa R và HNR, thể hiện sự biến thiên theo 2
chiều ngược nhau của hai biến số này: R càng cao, độ hài thanh HNR càng
thấp. Điều này có nghĩa giọng càng thô ráp thì độ hài thanh càng giảm đi.
3.3.3.3. B và F0, jitter, shimmer, HNR
Bảng 3.24. Mối tương quan giữa B và các thông số chất thanh
Thông số
F0 Jitter Shimmer HNR
và nguyên
âm r p r p r p r p
/a/ 0,129 > 0,05 0,686 < 0,01 0,493 < 0,01 -0,640 < 0,01
B
/i/ 0,119 > 0,05 0,574 < 0,01 0,563 < 0,01 -0,667 < 0,01
n 60 60 60 60
Nhận xét: Mối tương quan của B với các thông số chất thanh giống như
của R: Có mối tương quan thuận giữa B và jitter, shimmer (p < 0,01), tương
quan nghịch giữa B và HNR. Không có mối tương quan giữa B và F0.
3.3.3.4. A và F0, jitter, shimmer, HNR
Bảng 3.25. Mối tương quan giữa A và các thông số chất thanh
Thông số
F0 Jitter Shimmer HNR
và nguyên
r p r p r p r p
âm
/a/ 0,008 > 0,05 0,518 < 0,01 0,443 < 0,01 -0,467 < 0,01
A
/i/ 0,173 > 0,05 0,330 < 0,05 0,352 < 0,05 -0,446 < 0,01
n 60 60 60 60
Nhận xét: Thông số A có mối tương quan với jitter, shimmer, HNR (p <
0,05). Không có mối tương quan giữa A với F0 của cả hai nguyên âm.
3.3.3.5. S và F0, jitter, shimmer, HNR
Bảng 3.26. Mối tương quan giữa S và các thông số chất thanh
Thông số
F0 Jitter Shimmer HNR
và nguyên
âm r p r p r p r p
/a/ 0,155 > 0,05 0,662 < 0,01 0,499 < 0,01 -0,634 < 0,01
S
/i/ 0,144 > 0,05 0,579 < 0,01 0,565 < 0,01 -0,654 < 0,01
n 60 60 60 60
Nhận xét:
- Không có tương quan giữa S và F0.
- Có mối tương quan giữa S và jitter, shimmer (p < 0,01), có mối tương
quan nghịch giữa S và HNR.
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
Tần suất trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm của lần đánh giá 2 so với lần 1
là một chỉ số đơn giản nhưng phản ánh trung thực mức độ di lệch về điểm số
giữa 2 lần đánh giá. Trên thang điểm có 11 điểm số (0 - 10), xác suất để điểm
số di lệch giữa 2 lần đánh giá là khá cao. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của
chúng tôi thu được tần suất trùng khít về điểm số rất tốt: từ 89% đến 98% cho
tất cả các thông số GRBAS. Xét riêng từng thông số, tần suất trùng khít hoặc
chênh ± 1 điểm cũng rất tốt, thậm chí với những thông số khó đánh giá như
chất giọng nhược (A) và giọng căng (S). Kết quả này phù hợp với đánh giá độ
tin cậy của Nguyễn Duy Dương và Kenny khi phân tích cảm thụ mức độ hỏng
giọng trong RLGCC [76].
Test t so sánh điểm số trung bình giữa 2 lần đánh giá là một thước đo
khác để đánh giá độ thống nhất về điểm số giữa lần 1 và lần 2. So với thước
đo tính % điểm số trùng khít hoặc chênh ± 1 điểm, test t đưa ra cái nhìn chi
tiết hơn về mặt thống kê đối với điểm số trung bình của 2 lần đánh giá. Nếu
điểm số trung bình giữa 2 lần có khác biệt có ý nghĩa thống kê, sự thống nhất
về điểm số giữa 2 lần là không có và ngược lại. Kết quả của chúng tôi cho
thấy cho cả 5 người đánh giá, điểm số trung bình của lần 2 không khác biệt so
với điểm số trung bình của lần 1 (p > 0,05).
Như vậy kết quả của 3 thước đo nói trên đều khẳng định về mặt cá nhân cả
5 người đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi đều tỏ ra rất nhất quán và có
tính lặp lại cao trong đánh giá cảm thụ. Nhóm 5 người đánh giá khác nhau về tuổi
đời, tuổi nghề, kinh nghiệm làm việc, tuy nhiên sự ổn định và nhất quán trong
đánh giá cảm thụ cho thấy thang GRBAS hoàn toàn thích hợp sử dụng cho thầy
thuốc Tai Mũi Họng để đánh giá về mặt chủ quan chất giọng của bệnh nhân.
4.2.2. Độ tin cậy giữa các cá nhân trong nhóm đánh giá
Khi xét độ tin cậy giữa các cá nhân trong nhóm đánh giá, bản chất vẫn là
xét tính nhất quán và tính lặp lại của điểm số đánh giá. Tính nhất quán ở đây
chính là sự thống nhất, độ đồng thuận, độ nhất trí về mặt điểm số giữa các cá
nhân trong nhóm đánh giá cho 1 mẫu giọng bệnh lý bất kỳ. Tính lặp lại là sự duy
trì cùng số điểm đó giữa các cá nhân khi đánh giá lại mẫu giọng đó lần 2, lần 3...
Chỉ số quan trọng nhất trong tính toán độ tin cậy giữa các cá nhân trong
nhóm đánh giá là chỉ số tương quan đồng hạng ICC. Chỉ số này được xem là
đáng tin cậy và mạnh nhất để đánh giá liệu 1 hay các cá nhân trong nhóm có
đưa ra điểm số đánh giá có đủ độ nhất quán, đồng thuận so với các cá nhân
khác hay không [6]. Chúng tôi sử dụng mô hình ANOVA 2 chiều coi cả
người đánh giá và điểm số đánh giá là ngẫu nhiên để bảo đảm tính khách
quan và chính xác. Kết quả được quy ra 2 chỉ số: Độ tin cậy cá nhân ICC
(2,1): thể hiện độ tin cậy của một cá nhân bất kỳ trong nhóm đánh giá. Kết
quả của chúng tôi cho chỉ số này là 0,93 (p < 0,01), đạt mức rất cao. Kết quả
ICC(2,1) của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Duy Dương và
Kenny [76] trong đó ICC(2,1) = 0,795. Độ tin cậy chung ICC(2,5) thể hiện độ
thống nhất của cả nhóm đánh giá dựa trên điểm số trung bình của từng thành
viên trong nhóm. Kết quả thu được cho chỉ số này là 0,985 (p < 0,01). Kết
quả này của chúng tôi phù hợp với kết quả của Nemr, Simoes-Zenari và cộng
sự [51] trong đó chỉ số ICC từ 0,923 đến 0,985 và phù hợp với kết quả của
Nguyễn Duy Dương và Kenny [76] trong đó độ tin cậy chung là 0,951.
Ma trận tương quan giữa tất cả các cặp người đánh giá trong nhóm 5
người cũng được tính toán. Kết quả cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa
tất cả các cặp người đánh giá, với r = 0,909 - 0,959. Chỉ số Cronbach's alpha
= 0,985, thể hiện độ thống nhất cao giữa các thành viên của nhóm đánh giá.
Các chỉ số này có giá trị bổ sung cho độ đồng thuận giữa các cá nhân trong
nhóm đánh giá. Các kết quả thống kê của độ tin cậy giữa các cá nhân trong
nhóm đánh giá cho thấy 5 người đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi có
độ tin cậy cao. Điều này bảo đảm độ chính xác và đáng tin cậy trong điểm số
cảm thụ của thang GRBAS.
Chúng tôi cho rằng lý do cơ bản để đạt được độ đồng thuận cao và tính
lặp lại đáng tin cậy của điểm số đánh giá cảm thụ giữa lần 1 và 2 của thang
GRBAS, cũng như sự thống nhất cao giữa các cá nhân trong nhóm đánh giá là
việc sử dụng các mẫu giọng nhắc (reference voice samples) trong buổi tập
huấn trước khi đánh giá. Các mẫu giọng nhắc trải đều các khoảng điểm số
khác nhau từ 1 đến 10 và nhóm đánh giá có thời gian nghe, hiểu, cảm thụ các
mẫu giọng đó trước buổi đánh giá thực sự. Đây là phương pháp đã được
khuyến cáo khi đánh giá cảm thụ giọng nói [6] nhằm giảm thiểu độ sai lệch
trong đánh giá do sự khác biệt về kinh nghiệm, trình độ thẩm âm, quan điểm
về giọng nói... của người đánh giá. Năm 2009, Nguyễn Duy Dương và Kenny
[76] cũng đã sử dụng các mẫu giọng nhắc trong đánh giá mức độ RLG và thu
được độ tin cậy tốt. Brinca, Batista và cộng sự [77] cũng sử dụng phương
pháp tập huấn kỹ cho người đánh giá và sử dụng mẫu giọng nhắc, thu được
kết quả tốt về độ tin cậy khi đánh giá cảm thụ các thông số của thang
GRBAS. Như vậy, tiêu chí quan trọng để đánh giá cảm thụ đạt độ tin cậy cao
là: 1) Sử dụng mẫu giọng nhắc phù hợp với chất giọng cần đánh giá; và 2)
Người đánh giá được tập huấn đầy đủ để làm quen với chất giọng cần đánh
giá và kỹ thuật đánh giá.
Toàn bộ 30 bệnh nhân trong đề tài này có vị trí hạt xơ điển hình ở điểm
nối 1/3 trước - 2/3 sau bờ tự do dây thanh. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Nguyễn Tuyết Xương trên 29 bệnh nhân HXDT [19] và nghiên cứu
của Nguyễn Giang Long [17]. Tính chất hạt xơ không giống nhau về kích
thước, hình dạng, độ dài chân bám nhưng đều ảnh hưởng đến bờ tự do dây
thanh, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giọng.
Vị trí xuất hiện hạt xơ như trên là vị trí kinh điển đã đề cập trên Y văn.
Theo Titze [41], vị trí điểm nối 1/3 trước - 2/3 sau dây thanh chính là điểm giữa
của phần dây thanh niêm mạc (membranous vocal fold), nơi biên độ rung động
đạt mức tối đa. Trong pha đóng, sự dịch chuyển của bờ tự do từ ngoài vào
trong là lớn nhất ở điểm này. Do đó mức độ va đập cơ học là lớn nhất tại đây.
Thông thường khi bệnh nhân sử dụng giọng nói hợp lý, lực va đập và thời gian
va đập sẽ nằm trong giới hạn chịu đựng của niêm mạc dây thanh. Nhưng khi
lạm dụng giọng (nói to, nói nhiều, nói gắng sức) trong thời gian đủ dài, lực va
đập và thời gian va đập đều tăng lên đáng kể, tác động mạnh vào vị trí này, dẫn
đến các tổn thương và hoạt động hàn gắn (tạo xơ) tại chỗ. Tổn thương dễ xảy
ra hơn nhiều khi tần số rung động (F0) ở mức cao (dây thanh phụ nữ và trẻ
em), vì khi đó số lần va đập trong 1 đơn vị thời gian sẽ tăng lên.
4.3.1.2. Thanh môn
Khe hở thanh môn hình đồng hồ cát điển hình gặp trên tất cả các bệnh
nhân trước điều trị. Sở dĩ có hình dạng này là do 2 nguyên nhân. Thứ nhất là
do vị trí của HXDT làm cản trở dây thanh khép kín. Thứ hai là do tình trạng
cường năng thanh quản dẫn đến bờ tự do dây thanh khép không đều trên toàn
bộ chiều dài của nó mà chỉ khép tại vị trí xuất hiện hạt xơ. Các nghiên cứu đã
đánh giá khách quan tình trạng khe hở thanh môn trong HXDT. Hussein
Gaber, Liang và cộng sự [78] tiến hành so sánh diện tích thanh môn tối thiểu
(minimum glottal area, MGA, là thông số đánh giá độ khép thanh môn khi
phát âm) giữa 30 bệnh nhân HXDT và nhóm chứng không có bệnh thanh
quản. Kết quả cho thấy trung vị của MGA của nhóm HXDT là 355,5 còn của
nhóm chứng là 121 (p < 0,01). Điều này có nghĩa là HXDT có khe hở thanh
môn rộng hơn so với người không có bệnh thanh quản.
Khe hở thanh môn là nguyên nhân gây ra một loạt các dấu hiệu giọng
nói của bệnh nhân như khàn, và nói mau mệt do tình trạng mất hơi qua khe
hở. Uloza, Vegiene và Saferis [79] xác định được các mối tương quan có ý
nghĩa thống kê giữa khe hở thanh môn với các chất giọng bệnh lý như khàn
thô (R) và giọng thở (B). Từ đó bệnh nhân có các hành vi cố sức phát âm bù
trừ, làm trầm trọng thêm tình trạng căng cơ vốn có của thanh quản.
4.3.1.3. Bờ tự do
Tất cả các bệnh nhân trong nhóm trước điều trị đều có bờ tự do thô, không
thẳng, mất tính mềm mại bình thường. Chúng tôi nhận thấy các dấu hiệu này
gặp chủ yếu ở đoạn 1/3 giữa dây thanh. Vì đây là khu vực đòi hỏi cao về độ
mềm mại, tính thông thuận của niêm mạc dây thanh, nên những tổn thương
như vậy tác động nhiều đến hoạt động rung sóng niêm mạc, gây ra RLG.
4.3.1.4. Các đặc điểm khác
Có 18 bệnh nhân (60%) xuất hiện dịch nhày đặc trên dây thanh. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Hsiung trong đó tỷ lệ bệnh nhân HXDT có
nhày đặc là 55% [80]. Theo quan sát của chúng tôi, nhày đặc không xuất hiện
khi mới soi thanh quản. Sau khi bệnh nhân phát âm được vài giây, trên bề mặt
niêm mạc bờ tự do mới xuất hiện dịch nhày trắng, đặc, hắng giọng thì mất đi
nhưng lại xuất hiện trở lại sau khi phát âm. Vị trí xuất hiện nhày đặc thường ở
1/3 giữa bờ tự do dây thanh và ở ngay vị trí HXDT. Đặc điểm này cho thấy
dịch nhày đặc xuất hiện không phải do tăng tiết liên quan đến viêm nhiễm tại
chỗ mà chính là do hậu quả của cường năng thanh quản: Tăng lực va đập và
ma sát giữa hai dây thanh làm tăng nhiệt độ tại thanh quản, dẫn đến thay đổi
tính chất dịch nhày [80]. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự xuất hiện
của dịch nhày có độ quánh cao sẽ góp phần làm giảm F0 và tăng thời gian của
pha đóng (closed phase) trong chu kỳ rung động dây thanh [81],[82], từ đó có
thể ảnh hưởng không tốt đến giọng nói.
Có 10 bệnh nhân bị nề dây thanh, chiếm 33,3%. Chúng tôi chỉ thấy dây
thanh có nề nhẹ, nhất là ở mặt trên. Tình trạng nề dây thanh là tổn thương
phối hợp có thể gặp trên dây thanh có các tổn thương lành tính như HXDT, u
nang. Đây là triệu chứng đã được đề cập trong nghiên cứu trước đây. Nguyễn
Khắc Hòa [83] khi nghiên cứu bệnh lý u nang dây thanh thấy rằng 89,4% có
nề và xung huyết trên dây thanh có u nang, và 62,8% có nề và xung huyết trên
dây thanh không có u nang.
Chỉ có 1 bệnh nhân có dấu hiệu xung huyết nhẹ bờ tự do dây thanh. Dấu
hiệu này không phải do viêm nhiễm mà có thể liên quan đến tình trạng sang
chấn cơ học trên niêm mạc dây thanh do cường năng thanh quản kéo dài.
4.3.1.5. Các dấu hiệu liên quan đến cường năng thanh quản
Các dấu hiệu cường năng thanh quản gặp với tần suất cao trên các đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Dấu hiệu tăng trương lực cơ trên móng gặp ở 27 bệnh nhân (90%). Biểu
hiện của tình trạng này là khi nghỉ ngơi, ấn tay vào vùng cổ giữa trên xương
móng thấy mềm mại, nhưng khi bệnh nhân phát âm, trương lực cơ tăng đẩy
vào ngón tay người khám, làm ngón tai như bị đẩy ra. Vùng cổ trên xương
móng ấn chắc như mo cau. Khi bệnh nhân ngừng phát âm thì tình trạng trên
lại hết. Không chỉ gặp ở nhóm cơ trên móng, tình trạng tăng trương lực khi
phát âm cũng gặp ở các nhóm cơ ngoài thanh quản, thậm chí có thể nhìn thấy
cơ cổ nổi rõ khi bệnh nhân phát âm.
Thanh quản bị kéo lên trên khi phát âm gặp ở 24 bệnh nhân (80%). Dấu hiệu
này xảy ra rõ rệt nhất khi bệnh nhân nói các âm cao hoặc cho bệnh nhân phát
âm /i/ từ trầm lên cao. Cùng với tăng trương lực cơ trên móng, dấu hiệu thanh
quản bị kéo lên trên khi phát âm tạo ra vị trí thanh quản không tối ưu cho phát âm.
4.3.2. Điểm số cảm thụ của các thông số GRBAS trước phẫu thuật
Có 5 thông số trong thang GRBAS, nhưng G dùng để chỉ mức độ hỏng
giọng nói chung của bệnh nhân, do dó chỉ có 4 thông số thực sự đánh giá chất
giọng. Điểm số trung bình cho mức độ RLG (thông số G) của HXDT là 7,8
cho /a/ và 7,6 cho /i/.
Trong các thông số chất lượng giọng của thang GRBAS, A chỉ chất
giọng thiểu nhược, yếu, là chất giọng đối lập với chất giọng S căng, mạnh,
dùng nhiều sức lực. Do đó A không phải là thông số thích hợp để đánh giá
HXDT, vốn là một bệnh thiên về cường năng thanh quản. Thực tế trong
nghiên cứu này của chúng tôi, điểm số trước phẫu thuật của A cho HXDT rất
thấp, trung bình là 0,9 cho /a/ và 0,8 cho /i/.
Chúng tôi thấy có mối tương quan chặt chẽ, có ý nghĩa thống kê giữa
mức độ RLG (thông số G) với 3 thông số: R (giọng khàn thô), B (giọng thở)
và S (giọng căng). Tuy vậy, khi phân tích hồi quy nhiều chiều sử dụng 4 biến
số R, B, A, S để đánh giá thông số nào quy định mức độ RLG (thông số G),
chỉ có 2 thông số R và B là biến số dự báo G có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
Hai thông số còn lại là S và A không tác động cảm thụ đủ mạnh để thầy thuốc
quyết định được mức độ hỏng giọng. Như vậy, mức độ RLG được quyết định
chủ yếu bởi cảm giác về chất giọng khàn thô (R), chất giọng thở (B), hoặc cả
hai. Chỉ cần trong giọng nói có 1 trong 2 thông số R và/hoặc B là đủ để xếp
loại mức độ RLG. Kết quả này phù hợp với phát hiện của Hussein Gaber,
Liang và cộng sự [78] về mối tương quan giữa các thông số cảm thụ trên các
bệnh nhân nữ bị HXDT trong đó chỉ số mức độ RLG (dysphonia severity
index, DSI) có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với R (r = -0,686, p <
0,01) và B (r = -0,609, p < 0,01).
4.3.3. Chất thanh trước phẫu thuật
Biểu hiện rõ nhất của các thông số chất thanh trước phẫu thuật là sự tăng
cao của các chỉ số nhiễu loạn tần số (jitter), nhiễu loạn biên độ (shimmer), và
sự giảm của chỉ số hài thanh (HNR). Mặc dù các chỉ số jitter và shimmer tăng
cao nhưng kết quả đo bằng chương trình PRAAT cho thấy tín hiệu giọng nói
của các bệnh nhân đều cho phép đo được F0 (jitter và shimmer là phép đo dựa
trên F0) vì đều thuộc tín hiệu loại I theo phân loại của Titze [31].
So sánh với kết quả phân tích chất thanh trên nữ giới không có bệnh
thanh quản của Nguyễn Duy Dương và Livesey [84], có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa tất cả các thông số chất thanh. F0 trung bình của các bệnh
nhân HXDT thấp hơn trị số của người bình thường. Các chỉ số biểu thị nhiễu
loạn rung động dây thanh (Jitter và shimmer) đều cao hơn trị số bình thường.
Chỉ số hài thanh HNR của HXDT thấp hơn trị số bình thường (Bảng 4.1).
Bảng 4.1. So sánh chất thanh giữa HXDT trước phẫu thuật và kết quả của
Nguyễn Duy Dương và Livesey (2006) [84]
X
± SD
Thông số Nguyên Chất thanh trước Nguyễn Duy
p
âm phẫu thuật Dương (2006)
/a/ 218,4 ± 26,5 264,1 ± 21,3 < 0,05
F0 (Hz)
/i/ 223,6 ± 33,6 267,8 ± 25,7 < 0,05
/a/ 38,8 ± 18,6 8,7 ± 2,3 < 0,05
Jitter (µs)
/i/ 35,9 ± 19,4 8,9 ± 6,6 < 0,05
/a/ 6,1 ± 4,0 1,7 ± 0,7 < 0,05
Shimmer (%)
/i/ 5,0 ± 2,9 0,9 ± 0,5 < 0,05
/a/ 16,4 ± 4,9 26,9 ± 2,9 < 0,05
HNR (dB)
/i/ 22,4 ± 3,9 29,8 ± 4,4 < 0,05
Sự giảm F0 trong HXDT không hoàn toàn do sự tăng khối lượng dây
thanh do sự xuất hiện của hạt xơ (vocal fold mass). Theo Titze [85], không
tồn tại mối tương quan giữa khối lượng dây thanh và F0. Thực tế, sự thay đổi
về F0 có liên quan đến sự thay đổi độ dài và đặc tính cơ học của dây thanh
liên quan đến thay đổi tính chất đàn hồi (elastic) và độ chắc (stiff) của dây
thanh. Như vậy, chất giọng khàn - trầm trong HXDT không hoàn toàn do
HXDT gây ra mà là do thay đổi tính chất cơ học của dây thanh do hậu quả
của cường năng thanh quản kéo dài (điều này có thể lý giải sự không khác
biệt có ý nghĩa thống kê về F0 sau điều trị so với F0 trước điều trị trong
nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau của chương này).
Có 1 số yếu tố làm các thông số chất thanh trở nên bất thường trong
HXDT. Thứ nhất, HXDT là yếu tố không nằm trong cấu trúc rung động sinh
lý của niêm mạc dây thanh, từ đó tổn thương này gây mất ổn định về tần số và
biên độ của rung động dây thanh. Thứ hai, HXDT ảnh hưởng đến tính thuần
nhất của sóng niêm mạc, ảnh hưởng đến cơ cấu rung - đàn hồi. Thứ ba, khe
hở thanh môn là nguồn gốc gây ra tiếng ồn trong tín hiệu giọng, làm tăng
phần tiếng ồn so với phần thanh, từ đó HNR giảm đi.
4.4. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VI PHẪU HẠT XƠ DÂY THANH QUA NỘI
SOI, THANG GRBAS VÀ PHÂN TÍCH CHẤT THANH
4.4.1. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT qua nội soi thanh quản
4.4.1.1. Đánh giá tổn thương tại thanh quản
Sau phẫu thuật, 100% bệnh nhân không còn tổn thương HXDT trên nội
soi thanh quản. Tất cả các bệnh nhân có thanh môn khép kín khi phát âm. Các
triệu chứng thực thể khác cũng có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê sau điều trị
(p < 0,05) như bờ tự do thô, phù nề, nhày đặc. Mặc dù sau phẫu thuật còn một
tỷ lệ nhỏ các bệnh nhân có các tổn thương nhẹ, tình trạng thanh quản như vậy
là hợp lý ở thời gian sau phẫu thuật 1 tháng. Theo Remacle và Eckel [86],
thời gian để dây thanh hồi phục hoàn toàn sau phẫu thuật có thể từ 4-8 tuần
tùy theo mức độ can thiệp vào bờ tự do dây thanh. Trong nghiên cứu này
chúng tôi chỉ thu thập số liệu tại thời điểm 1 tháng sau mổ, nên một số bệnh
nhân có dấu hiệu như bờ tự do thô, dịch nhày đặc, nề dây thanh tại thời điểm
này là chấp nhận được.
4.4.1.2. Đánh giá qua điểm số nội soi thanh quản
Sau phẫu thuật, điểm số nội soi thanh quản của các đối tượng nghiên cứu
đã có sự cải thiện rõ rệt (Biểu đồ 3.5). Có 18 bệnh nhân có điểm nội soi thanh
quản sau mổ ở mức 6 điểm, là mức điểm thể hiện "thanh quản bình thường"
theo cách cho điểm của chúng tôi. Điểm số thanh quản trung bình cũng giảm
từ 13,9 ± 0,9 điểm trước phẫu thuật xuống còn 6,6 ± 0,9 điểm sau phẫu thuật,
tức là giảm khoảng 50% so với trước phẫu thuật.
Trong cách cho điểm nội soi thanh quản của chúng tôi, phần đánh giá
HXDT và khe hở thanh môn dựa theo nguyên lý kích thước (mức độ), có
nghĩa là HXDT càng lớn và khe hở thanh môn càng rộng thì điểm càng cao.
Cách cho điểm này dựa vào phương pháp phân độ HXDT của Nuss, Ward,
Recko và cộng sự [73]. Toàn bộ các bệnh nhân HXDT trong nghiên cứu này
đều có chỉ định phẫu thuật do tổn thương đã hình thành rõ, kích thước lớn và
gây ra khe hở thanh môn hình đồng hồ cát đặc trưng. Do đó điểm số thanh
quản trước mổ là 5 điểm đối với HXDT và 3 điểm đối với thanh môn cho cả
30 bệnh nhân. Phần cho điểm các thông số khác như bờ tự do, dịch nhày, nề,
xung huyết dựa theo nguyên lý "có - không" vì rất khó định lượng chính xác
mức độ ảnh hưởng của các tổn thương này đối với giọng nói. Chúng tôi cho
rằng hệ thống chấm điểm nội soi thanh quản này phản ánh tương đối trung
thực tổn thương thực thể tại thanh quản trong HXDT. Tuy nhiên, phạm vi của
nghiên cứu hiện tại không cho phép kiểm định và xác thực thang điểm nội soi
này. Vấn đề kiểm định thang điểm này cần được thực hiện trong các đề tài
tiếp theo trên HXDT.
4.4.1.3. Đánh giá qua các dấu hiệu cường năng thanh quản
Sau phẫu thuật, cũng có sự giảm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) đối với
các dấu hiệu cường năng thanh quản. Tuy nhiên, sau phẫu thuật tình trạng
cường năng không mất đi mà vẫn tồn tại trên 1 tỷ lệ bệnh nhân nhất định. Ví
dụ, tình trạng tăng trương lực cơ trên móng giảm từ 90% trước mổ xuống còn
40% sau mổ. Thanh quản bị kéo lên trên khi phát âm cũng giảm từ 80% trước
mổ xuống 33,3% sau mổ. Tình trạng co kéo trước - sau giảm từ 70% xuống
36.7% sau mổ. Dấu hiệu cường năng còn tồn tại có thể tiếp tục ảnh hưởng
không tốt đến chất giọng của bệnh nhân sau phẫu thuật mặc dù niêm mạc dây
thanh đã trở về bình thường.
Tóm lại, sau khi lấy bỏ HXDT và điều trị nội khoa, kết hợp nghỉ giọng
sau phẫu thuật, tình trạng dây thanh đã được cải thiện đáng kể. Các yếu tố ảnh
hưởng đến rung động dây thanh đã được giải quyết, tạo điều kiện cho niêm
mạc dây thanh phục hồi. Dù HXDT đã được giải quyết tốt sau phẫu thuật, tuy
nhiên vẫn còn "tồn dư" các dấu hiệu tại thanh quản. Ngoài ra, việc còn tồn tại
các dấu hiệu cường năng thanh quản cho thấy việc đánh giá giọng nói bằng
cảm thụ là cần thiết.
4.4.2. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT bằng thang GRBAS
Điểm số của tất cả các thông số trong thang GRBAS đều giảm có ý
nghĩa thống kê sau phẫu thuật (p < 0,05). Sự cải thiện điểm số R sau mổ là do
dây thanh được loại bỏ HXDT, làm niêm mạc rung động dễ hơn và mềm mại,
hiệu quả hơn. Ngoài ra, sau khi cắt bỏ HXDT, sẽ không còn hiện tượng nhiễu
loạn rung động do rung dây thanh không đều. Từ đó chất giọng sẽ bớt tính thô
ráp mà nghe mềm mại hơn.
Chất giọng thở (thông số B) là do không khí không được điều biến thoát
tự do qua khe hở thanh môn khi phát âm. Sau phẫu thuật, 100% bệnh nhân có
thanh môn khép kín. Đây là yếu tố tiên quyết giúp điểm số của thông số B
giảm về mức thấp hơn so với trước phẫu thuật. Mặc dù vậy, tại thời điểm sau
mổ 1 tháng thì tình trạng nhiễu loạn biên độ chưa hẳn đã chấm dứt, nên đó có
thể cũng là 1 nguyên nhân làm cho chất giọng thở vẫn tồn tại ở một mức độ
thấp mà không về mức bình thường hẳn. Ngoài ra, yếu tố kỹ năng phát âm
của bệnh nhân tại thời điểm 1 tháng sau mổ có thể chưa hoàn toàn tự nhiên.
Có thể 1 số bệnh nhân vẫn có xu hướng nói nhỏ, thiên về kiểu tạo thanh thở
(breathy voice), cũng là một nguyên nhân của chất giọng thở sau mổ.
Sự cải thiện điểm số của giọng căng (thông số S) có liên quan đến nỗ lực
phát âm giảm đi đáng kể sau phẫu thuật. Cơ chế phát âm bù trừ thứ phát do
HXDT gây nên có thể đã tự mất đi hoặc giảm đi phần lớn. Do đó tình trạng
cường năng phát âm sau mổ cũng ở mức độ thấp hơn mặc dù vẫn còn 1 tỷ lệ
không nhỏ các bệnh nhân còn biểu hiện cường năng.
Như chúng tôi đã đề cập ở phần 3.1.7.3 (Các thông số dự báo mức độ
RLG), các thông số R và B có giá trị dự báo mức độ RLG. Nói cách khác, khi
2 thông số này giảm sau phẫu thuật, thông số G cũng được xếp loại giảm
theo. Thông số G luôn luôn đồng biến cùng R và B.
Sau phẫu thuật, trị số trung bình của các thông số GRBAS không đạt
điểm số tuyệt đối bình thường (0 điểm). Điều này có thể có nguyên nhân liên
quan đến bệnh nhân, đến người đánh giá, và liên quan đến thang điểm. Về
phía bệnh nhân, có một tỷ lệ các bệnh nhân vẫn còn các tổn thương tồn dư tại
thanh quản (20% còn bờ tự do thô, 30% còn nhày đặc ở dây thanh, 10% còn
nề dây thanh) cũng như còn các dấu hiệu cường năng phát âm sau mổ (40%
còn tăng trương lực cơ trên móng, 33,3% còn thanh quản bị kéo lên trên khi
phát âm, 36,7% còn co kéo trước - sau). Các dấu hiệu này có thể là tác nhân
làm ảnh hưởng chất giọng sau mổ. Về phía người đánh giá, việc đánh giá cảm
thụ RLG đặt người đánh giá vào vị trí rất khó quyết định là một mẫu giọng đã
cho có bình thường hay bất thường. Việc đánh giá về mặt cảm thụ tình trạng
có bất thường có vẻ đơn giản hơn, nhưng việc nhận định 1 mẫu giọng là bình
thường rất khó vì tiêu chí thế nào là giọng bình thường trên thực tế lâm sàng
rất khó xác định và rất khó đạt được sự đồng thuận. Về phía thang đánh giá,
vì thang điểm của chúng tôi là thang cách đều (EAI) có 11 điểm từ 0 đến 10.
Nên khả năng cho điểm vào 2 cực của thang (0 và 10) là rất nhỏ mặc dù có
thể trên thực tế mẫu giọng có biểu hiện thái cực (bình thường hoặc khàn mức
độ cao nhất). Đây cũng là hạn chế của hệ thống thang điểm đánh giá cảm thụ
nói chung và thang EAI nói riêng.
4.4.3. Đánh giá kết quả vi phẫu HXDT qua phân tích chất thanh
Sau phẫu thuật, có sự giảm có ý nghĩa thống kê đối với các chỉ số nhiễu
loạn rung động (perturbation) về tần số (jitter) và biên độ (shimmer). Cụ thể
đối với jitter (µs) của /a/ và /i/ đã giảm từ 38,8 ± 18,6 và 35,9 ± 19,4 xuống
17,1 ± 7,5 và 15,5 ± 5,9 với (p < 0,01). Shimmer (%) của /a/ và /i/ cũng giảm
từ 6,1 ± 4,0 và 5,0 ± 2,9 trước phẫu thuật xuống còn 2,6 ± 2,4 và 1,9 ± 1,7 sau
phẫu thuật (p < 0,01). Sau phẫu thuật, độ hài thanh HNR (dB) được cải thiện
có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) từ 16,4 ± 4,9 lên 23,4 ± 5,1 đối với /a/ và từ
Chúng tôi đã tiến hành so sánh các số liệu chất thanh sau phẫu thuật với
kết quả chất thanh trên người không có bệnh thanh quản của Nguyễn Duy
Dương và Livesey (2006) (Bảng 4.2). Chỉ có shimmer của /a/ và HNR của /i/
không có sự khác biệt (p > 0,05), còn các chỉ số khác vẫn chưa đạt đến giới
hạn bình thường. Như vậy mặc dù sau phẫu thuật 1 tháng, có sự cải thiện có ý
nghĩa thống kê các chỉ số nhiễu loạn và chỉ số hài thanh, hầu hết các chỉ số
này đều chưa đạt được mức chất thanh như bình thường. Điều này là chấp
nhận được sau vi phẫu thanh quản 1 tháng.
Bảng 4.2. So sánh chất thanh giữa HXDT sau phẫu thuật và kết quả
của Nguyễn Duy Dương và Livesey (2006) [84]
X ± SD
Thông số Nguyên Chất thanh sau Nguyễn Duy p
âm phẫu thuật Dương (2006)
/a/ 211,7 ± 22,3 264,1 ± 21,3 < 0,05
F0 (Hz)
/i/ 215,9 ± 21,7 267,8 ± 25,7 < 0,05
/a/ 17,1 ± 7,5 8,7 ± 2,3 < 0,05
Jitter (µs)
/i/ 15,5 ± 5,9 8,9 ± 6,6 < 0,05
/a/ 2,6 ± 2,4 1,7 ± 0,7 > 0,05
Shimmer (%)
/i/ 1,9 ± 1,7 0,9 ± 0,5 < 0,05
/a/ 23,4 ± 5,1 26,9 ± 2,9 < 0,05
HNR (dB)
/i/ 28,7 ± 3,7 29,8 ± 4,4 > 0,05
Sự giảm các chỉ số nhiễu động jitter, shimmer và cải thiện chỉ số hài
thanh HNR sau phẫu thuật là do một số lý do sau đây. Thứ nhất, việc cắt bỏ
HXDT đã loại bỏ 1 yếu tố gây mất ổn định về tần số và biên độ của rung động
dây thanh, từ đó tăng tính ổn định của rung động dây thanh. Thứ hai, loại bỏ
HXDT trả lại rung động tuyến tính (linear) cho cơ cấu rung - đàn hồi của lớp
vỏ của dây thanh, góp phần trả lại hoạt động theo pha đồng đều có chu kỳ.
Thứ ba, sau phẫu thuật có sự cải thiện về khép thanh môn. Thanh môn đóng
kín hơn khi phát âm sẽ làm thời gian đóng (closed phase) lâu hơn, lượng
không khí thoát tự do qua thanh môn sẽ ít hơn. Từ đó làm giảm phần tiếng ồn
và cải thiện chất thanh trong phổ âm của giọng nói.
Sau phẫu thuật, chúng tôi nhận thấy không có sự thay đổi có ý nghĩa
thống kê đối với tần số thanh cơ bản F0. Cụ thể, cho cả 2 nguyên âm /a/ và /i/,
chỉ số trước mổ và sau mổ lần lượt là 218,4 ± 26,5 và 211,7 ± 22,3 (của /a/)
và 223,6 ± 33,6 và 215,9 ± 21,7 (của /i/). Như vậy, việc giảm khối rung của
dây thanh sau khi cắt bỏ HXDT không ảnh hưởng đến F0. Điều này góp phần
minh chứng một quan điểm là F0 thấp hơn bình thường trong HXDT không
liên quan đến khối (mass) của dây thanh mà chính là do thay đổi về tính chất
đàn hồi và độ chắc của bản thân dây thanh [85] do hậu quả của cường năng
thanh quản kéo dài.
4.5. ĐỐI CHIẾU KẾT QUẢ NỘI SOI, PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
BẰNG THANG GRBAS VÀ PHÂN TÍCH CHẤT THANH
4.5.1. Đối chiếu kết quả nội soi và thang GRBAS
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy điểm số nội soi thanh quản có mối
tương quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) với tất cả các thông số của thang
cảm thụ GRBAS.
Cụ thể, có mối tương quan rất chặt chẽ giữa điểm số nội soi với G (r =
0,952), R (r = 0,948), B (r = 0,949) và S (r = 0,951). Có mối tương quan vừa
giữa điểm số nội soi với A (r = 0,682).
Sở dĩ có sự tương quan giữa điểm số nội soi thanh quản và thang GRBAS
là vì trên thanh quản có HXDT, có ít nhất 2 yếu tố sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
giọng nói. Thứ nhất là bản thân HXDT. Thứ hai là khe hở thanh môn do HXDT
gây nên. Ngoại trừ những trường hợp khe hở thanh môn sinh lý (ví dụ khe hở
thanh môn sau ở nữ giới trẻ tuổi), các trường hợp khe hở thanh môn bất thường
do tổn thương thực thể của niêm mạc dây thanh đều gây nên RLG. Hussein
Gaber, Liang và cộng sự [78] nhận thấy có sự khác biệt về độ khép thanh môn
giữa HXDT và nhóm bình thường (trong nhóm HXDT, sự khép thanh môn kém
hơn, diện tích khe hở lớn hơn). Từ đó các tác giả này thấy có mối tương quan
giữa độ khép thanh môn với chỉ số mức độ RLG (dysphonia severity index,
DSI), các thông số R, B, và H (hoarseness = giọng khàn). Cụ thể, độ khép thanh
môn càng kém (khe hở càng rộng) thì điểm số của R, B và H càng cao.
Mối tương quan rất chặt chẽ giữa điểm số nội soi với các thông số cảm
thụ R, B, và S có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, kết quả này cho thấy đây là các chất
giọng đặc trưng của HXDT. Thứ hai, có thể dựa vào các thông số R, B, và S
để suy luận về hình thái tổn thương thanh quản trong bệnh lý này, ít nhất là sự
có hay không của 2 triệu chứng nội soi quan trọng nhất: HXDT và khe hở
thanh môn. Mặc dù có nhiều tổn thương lành tính khác của dây thanh cũng có
chất giọng R, B, S, nhưng xét riêng trong phạm vi HXDT, sự tương quan giữa
hình ảnh nội soi và các chất giọng này có thể giúp thầy thuốc đánh giá kết quả
vi phẫu bằng cách đánh giá sự có mặt và điểm số của 3 chất giọng R, B, S.
Mối tương quan giữa điểm nội soi và G có nghĩa là mức độ RLG trong
HXDT có liên quan mật thiết đến hình thái thanh quản, cụ thể là liên quan đến
2 yếu tố chủ đạo trong triệu chứng thực thể của HXDT là sự có mặt của hạt
xơ và sự tồn tại của khe hở thanh môn. Thông số G kết hợp với 3 thông số R,
B, S có thể tạo thành bộ công cụ đánh giá tương đối chính xác và thuận tiện
các bệnh nhân sau vi phẫu HXDT.
4.5.2. Đối chiếu kết quả nội soi và phân tích chất thanh
Đối chiếu điểm số nội soi và phân tích chất thanh, cho cả 2 nguyên âm
/a/ và /i/ chúng tôi đều thấy có mối tương quan ở mức độ vừa giữa điểm số
thanh quản với jitter và shimmer (p < 0,01) và mối tương quan nghịch giữa
điểm số thanh quản với HNR (p < 0,01). Không có mối tương quan nào giữa
điểm số thanh quản và F0 của cả 2 nguyên âm này.
Mối tương quan giữa các chỉ số nhiễu loạn tần số (jitter) và nhiễu loạn
biên độ (shimmer) với điểm số nội soi thanh quản là sự thể hiện khách quan
các biến loạn về rung động dây thanh do tổn thương HXDT và các tổn thương
thực thể khác của niêm mạc dây thanh gây ra. HXDT chắc chắn là yếu tố
quan trọng nhất làm thay đổi đặc tính cơ học của lớp niêm mạc dây thanh,
thay đổi tính chất ghép cặp (coupling) giữa lớp vỏ (niêm mạc) và lõi (cơ) dây
thanh, từ đó làm giảm khả năng điều biến (modulation) năng lượng từ luồng
khí hạ thanh môn thành năng lượng âm (acoustic). Jiang và Stern [87] đã tiến
hành đo hiệu quả phát âm (vocal efficiency) trên bệnh nhân bị HXDT và so
sánh với người không có bệnh thanh quản. Hiệu quả phát âm được coi là một
chỉ số khách quan về khả năng chuyển áp lực hạ thanh môn (subglottal
pressure) thành năng lượng âm trong giọng nói, trực tiếp đánh giá năng lực
của niêm mạc dây thanh trong phát âm. Chỉ số này được tính bằng tỷ số giữa
mức áp suất hạ thanh môn và mức năng lượng âm. Kết quả cho thấy hiệu quả
phát âm của người bình thường có giá trị trung bình là 1,15 x 10(-5) tại 70
dB; 3,17 x 10(-5) tại 75 dB; 7,52 x 10(-5) tại 80 dB; và 1,41 x 10(-4) tại 85
dB. Giá trị trung bình của chỉ số này trên bệnh nhân HXDT là 4,32 x 10(-6)
tại 70 dB; 1,57 x 10(-5) tại 75 dB; 4,26 x 10(-5) tại 80 dB; và 8,34 x 10(-5) tại
85 dB. Như vậy so với người không có bệnh thanh quản, chỉ số hiệu quả phát
âm của HXDT thấp hơn đáng kể. Kết quả này cho thấy sự có mặt của tổn
thương HXDT trên niêm mạc dây thanh làm giảm chức năng phát âm của
thanh quản, ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số nhiễu loạn.
Có thể nhận thấy một điều là mối tương quan giữa điểm số nội soi thanh
quản với thang GRBAS là chặt chẽ hơn tương quan với các thông số chất
thanh. Mối tương quan có độ lớn nhất giữa điểm số thanh quản với chất thanh
là đối với HNR (r = -0,611 với /a/ và r = -0,679 với /i/). Trong khi đó, hệ số
tương quan giữa điểm số thanh quản và G, R, B và S đều cao trên 0,9. Từ kết
quả này, kết hợp với nhìn nhận thực tế là phân tích chất thanh mất nhiều thời
gian và đòi hỏi cao về độ chính xác, trang thiết bị, chúng tôi nhận định rằng
việc sử dụng thang GRBAS để đánh giá giọng nói trên thực tế sẽ hợp lý hơn
phân tích chất thanh. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần nội soi thanh
quản kết hợp với sử dụng thang GRBAS để đánh giá kết quả vi phẫu thanh
quản là hợp lý. Phân tích chất thanh có thể coi là biện pháp đo khách quan để
theo dõi những trường hợp đặc biệt có RLG kéo dài sau phẫu thuật.
4.5.3. Đối chiếu thang GRBAS với phân tích chất thanh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các thông số của thang GRBAS
có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với các thông số chất thanh. Tuy nhiên,
các mối tương quan chỉ ở mức độ vừa. Mức độ tương quan cao nhất là giữa G với
jitter (r = 0,671 cho /a/) và HNR (r = -0,634 cho /a/ và r = -0,664 cho /i/), giữa R
với jitter (r = 0,651 cho /a/) và HNR (r = -0,666 cho /i/), giữa B với jitter (r =
0,686 cho /a/) và HNR (r = -0,640 cho /a/ và r = -0,667 cho /i/), giữa S với jitter
(r = 0,662 cho /a/) và HNR (r = -0,634 cho /a/ và r = -0,654 cho /i/).
Kết quả này của chúng tôi phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây
về mối tương quan giữa các chất giọng bệnh lý với chất thanh, như nghiên cứu
của Bhuta, Patrick, và Garnett [33], Stranik, Cmejla, và Vokral [34], Gramuglia,
Tavares và cộng sự [35], và Vaz Freitas, Melo Pestana và cộng sự [36].
Các thông số jitter và shimmer biểu thị độ nhiễu loạn, mất ổn định trong
rung động dây thanh. Độ nhiễu loạn càng lớn thì jitter và shimmer càng cao
[71]. Còn HNR biểu thị sự pha trộn tiếng ồn vào giữa các hài thanh
(harmonics) của chất âm, giọng càng rối loạn nặng thì tiếng ồn sẽ càng nhiều
và HNR sẽ càng thấp [88]. Như vậy, 3 thông số chất thanh này chính là các
thước đo khách quan chức năng phát âm của thanh quản. Sự tương quan giữa
các thông số GRBAS với chất thanh có ý nghĩa quan trọng, đó là thang này có
các thông số có thể định lượng về mặt chất thanh và nó phản ánh đúng thực
trạng rối loạn chức năng của thanh quản trong bệnh lý thanh quản nói chung
và HXDT nói riêng.
Tuy nhiên có một vấn đề là mối liên hệ giữa chất thanh và các thông số
cảm thụ là không tuyến tính trên toàn bộ phạm vi của RLG từ nhẹ đến nặng
[31]. Chất thanh chỉ tương quan với các thông số cảm thụ khi RLG chưa quá
nặng đến mức làm gián đoạn F0. Nếu RLG nặng, việc đo F0 sẽ không thực
hiện được và hậu quả là sẽ không thể tính được jitter, shimmer, HNR vì cả 3
thông số này đều dựa vào F0 [71]. Theo khuyến cáo của Hội nghị về phân
tích âm của giọng nói năm 1995 ở Iowa (Hoa Kỳ) [31], ở các mức RLG nặng,
phân tích chất thanh sẽ không còn đáng tin cậy, khi đó phân tích cảm thụ sẽ là
lựa chọn số 1.
KẾT LUẬN
1. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VI PHẪU HXDT QUA NỘI SOI, THANG
GRBAS VÀ PHÂN TÍCH CHẤT THANH
1.1. Nội soi thanh quản là phương pháp đánh giá kết quả vi phẫu HXDT
căn bản và trực quan. Sau phẫu thuật, có sự cải thiện đáng kể các triệu chứng
thực thể tại thanh quản. Điểm số nội soi thanh quản sau mổ giảm có ý nghĩa
thống kê so với trước mổ.
1.2. Kết quả về chất lượng giọng của vi phẫu HXDT được phản ánh
trung thực qua thang cảm thụ GRBAS. Điểm số của các thông số trong thang
này giảm có ý nghĩa thống kê sau phẫu thuật. Mức giảm nhiều nhất là R, B, S.
1.3. Kết quả phân tích chất thanh cho thấy sau vi phẫu HXDT có sự cải
thiện có ý nghĩa thống kê các thông số jitter, shimmer, HNR. Chỉ số jitter và
shimmer đều giảm sau phẫu thuật, chỉ số HNR tăng sau phẫu thuật có ý nghĩa
thống kê. Điều này thể hiện chức năng phát âm của thanh quản được phục hồi
một cách đáng kể sau phẫu thuật.
2. Đối chiếu kết quả nội soi, phương pháp đánh giá bằng thang GRBAS
và phân tích chất thanh.
2.1. Có tương quan có ý nghĩa thống kê rất chặt chẽ giữa điểm số nội soi
thanh quản với các thông số GRBAS.
2.2. Có tương quan có ý nghĩa thống kê mức độ vừa giữa điểm số nội soi
thanh quản với các thông số phân tích chất thanh jitter, shimmer, HNR.
2.3. Có tương quan có ý nghĩa thống kê mức độ vừa giữa các thông số
GRBAS và phân tích chất thanh.
2.4. Mối tương quan giữa nội soi thanh quản và thang GRBAS là lớn
hơn nhiều so với mối tương quan giữa nội soi thanh quản và phân tích chất
thanh. Điều này cho thấy có thể sử dụng thang GRBAS như một công cụ hợp
lý, đáng tin cậy để đánh giá giọng nói trước và sau vi phẫu thanh quản thay vì
sử dụng bộ công cụ phân tích chất thanh đòi hỏi trang thiết bị, phòng cách âm,
tốn nhiều thời gian hơn.
KHUYẾN NGHỊ
1. Thang GRBAS có độ tin cậy rất cao trong đánh giá cảm thụ giọng nói.
Để đạt được độ tin cậy cao trong đánh giá cảm thụ bằng thang này, cần thầy
thuốc có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực Tai Mũi Họng, được tập huấn
các mẫu giọng đại diện cho các thông số, và được thực hành đánh giá. Cần
mở rộng ứng dụng thang này trong thực tiễn bằng cách tập huấn và đưa vào
sử dụng trên lâm sàng.
2. Các nghiên cứu tiếp theo nên ứng dụng thang GRBAS trong đánh giá
giọng nói của các tổn thương lành tính khác của thanh quản hoặc đánh giá kết
quả điều trị các bệnh lý khác của thanh quản như u ác tính thanh quản, các
bệnh lý thanh quản do căn nguyên thần kinh (ví dụ liệt dây thanh...).
3. Hệ thống cho điểm nội soi của HXDT được chúng tôi đề xuất dựa
theo một số tiêu chí liên quan đến bệnh lý này như kích thước hạt xơ và độ
lớn khe hở thanh môn đã được áp dụng trên Y văn thế giới [73]. Các nghiên
cứu tiếp theo cần đánh giá độ tin cậy (reliability) và độ xác thực (validity) của
hệ thống cho điểm này trên quần thể bệnh nhân lớn hơn bị HXDT. Ngoài ra,
cũng cần nghiên cứu áp dụng hệ thống cho điểm này trong việc chỉ định
phương pháp điều trị (ví dụ: điểm số như thế nào thì có thể phẫu thuật hay
điều trị bảo tồn...).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mathieson L (2001). The voice and its disorders, 6th edition, Whurr
Publishers Ltd., London.
2. Kuhn J, Toohill RJ, Ulualp SO et al (1998). Pharyngeal acid reflux events
in patients with vocal cord nodules. Laryngoscope, 108(8 Pt 1), 1146-9.
3. Karkos PD and McCormick M (2009). The etiology of vocal fold nodules
in adults. Curr Opin Otolaryngol Head Neck Surg, 17(6), 420-3.
4. Bequignon E, Bach C, Fugain C et al (2013). Long-term results of
surgical treatment of vocal fold nodules. Laryngoscope, 123(8), 1926-30.
5. Pannbacker M (1999). Treatment of vocal nodules: Options and outcomes.
American Journal of Speech-Language Pathology, 8(3), 209-217.
6. Kreiman J, Gerratt BR, Kempster GB et al (1993). Perceptual
evaluation of voice quality: review, tutorial, and a framework for future
research. Journal of Speech and Hearing Research, 36(1), 21-40.
7. Barsties B and De Bodt M (2015). Assessment of voice quality: Current
state-of-the-art. Auris Nasus Larynx, 42(3), 183-8.
8. Hirano M (1981). Clinical Examination of Voice, Springer-Verlag,
New York.
9. Dejonckere PH, Obbens C, de Moor GM et al (1993). Perceptual
evaluation of dysphonia: reliability and relevance. Folia Phoniatrica,
45(2), 76-83.
10. Dejonckere PH, Remacle M, Fresnel-Elbaz E et al (1996).
Differentiated perceptual evaluation of pathological voice quality:
reliability and correlations with acoustic measurements. Revue de
Laryngologie Otologie Rhinologie, 117(3), 219-224.
11. Gray SD (1991). Basement membrane zone injury in vocal nodules.
Vocal fold physiology: acoustic, perceptual, and physiological aspects
of voice mechanisms, Singular Publishing Group, San Diego,
California, 21-27.
12. Martins RH, Defaveri J, Custodio Domingues MA et al (2010). Vocal
fold nodules: morphological and immunohistochemical investigations.
J Voice, 24(5), 531-9.
13. Ragab SM (2009). Radiophonosurgery of vocal fold nodules. Curr
Opin Otolaryngol Head Neck Surg, 17(6), 445-8.
14. Tateya I (2009). Laryngeal steroid injection. Curr Opin Otolaryngol
Head Neck Surg, 17(6), 424-6.
15. Hsiung MW and Lee JC (2009). Augmentation after microsurgical
removal of vocal fold nodules. Curr Opin Otolaryngol Head Neck
Surg, 17(6), 436-9.
16. Radish Kumar B, Bhat JS, and Mukhi P (2011). Vowel harmonic
amplitude differences in persons with vocal nodules. J Voice, 25(5), 559-
61.
17. Nguyễn Giang Long (2000). Hạt xơ dây thanh: Đặc điểm lâm sàng, mô
bệnh học và ảnh hưởng phát âm thanh điệu, Luận văn Thạc sĩ Y học,
trường Đại học Y Hà Nội.
18. Nguyen DD (2003). Dysphonia in Northern Vietnamese Female
Teachers: an Acoustic, Tonetic and Perceptual Study, Master thesis,
The University of Sydney.
19. Nguyễn Tuyết Xương (2004). Nghiên cứu tình hình u lành tính dây
thanh và đánh giá kết quả vi phẫu qua phân tích ngữ âm, Luận văn
Thạc sĩ Y học, trường Đại học Y Hà Nội.
20. Hammarberg B, Fritzell B, Gauffin J et al (1980). Perceptual and
acoustic correlates of abnormal voice qualities. Acta Oto-
Laryngologica, 90(5-6), 441-451.
21. Hammarberg B, Fritzell B, Gauffin J et al (1986). Acoustic and perceptual
analysis of vocal dysfunction. Journal of Phonetics, 14, 533-547.
22. De Bodt MS, Wuyts FL, Van de Heyning PH et al (1997). Test-retest study
of the GRBAS scale: influence of experience and professional background
on perceptual rating of voice quality. Journal of Voice, 11(1), 74-80.
23. Wuyts FL, De Bodt MS, and Van de Heyning PH (1999). Is the
reliability of a visual analog scale higher than an ordinal scale? An
experiment with the GRBAS scale for the perceptual evaluation of
dysphonia. Journal of Voice, 13(4), 508-517.
24. Carding P, Carlson E, Epstein R et al (2000). Formal perceptual
evaluation of voice quality in the United Kingdom. Logoped Phoniatr
Vocol, 25(3), 133-8.
25. DeJonckere PH, Crevier-Buchman L, Marie JP et al (2003).
Implementation of the European Laryngological Society (ELS) basic
protocol for assessing voice treatment effect. Rev Laryngol Otol Rhinol
(Bord), 124(5), 279-83.
26. Webb AL, Carding PN, Deary IJ et al (2004). The reliability of three
perceptual evaluation scales for dysphonia. Eur Arch Otorhinolaryngol,
261(8), 429-34.
27. Dursun G, Ozgursoy OB, Kemal O et al (2007). One-year follow-up
results of combined use of CO2 laser and cold instrumentation for
Reinke's edema surgery in professional voice users. Eur Arch
Otorhinolaryngol, 264(9), 1027-32.
28. van Dinther JJ, De Bodt M, Wuyts FL et al (2009). Vocal fold surgery
of benign inflammatory lesions of Reinke's space: an outcome study in
47 subjects. Eur Arch Otorhinolaryngol, 266(11), 1753-7.
29. Cho KJ, Nam IC, Hwang YS et al (2011). Analysis of factors
influencing voice quality and therapeutic approaches in vocal polyp
patients. Eur Arch Otorhinolaryngol, 268(9), 1321-7.
30. Yanagihara N (1967). Significance of harmonic changes and noise
components in hoarseness. Journal of Speech and Hearing Research,
10(3), 531-541.
31. Titze IR (1995). Workshop on acoustic voice analysis: Summary
statement, National Center for Voice and Speech, Iowa City.
32. Rabinov CR, Kreiman J, Gerratt BR et al (1995). Comparing reliability
of perceptual ratings of roughness and acoustic measure of jitter.
Journal of Speech and Hearing Research, 38(1), 26-32.
33. Bhuta T, Patrick L, and Garnett JD (2004). Perceptual evaluation of
voice quality and its correlation with acoustic measurements. J Voice,
18(3), 299-304.
34. Stranik A, Cmejla R, and Vokral J (2014). Acoustic parameters for
classification of breathiness in continuous speech according to the
GRBAS scale. J Voice, 28(5), 653 e9-653 e17.
35. Gramuglia AC, Tavares EL, Rodrigues SA et al (2014). Perceptual and
acoustic parameters of vocal nodules in children. Int J Pediatr
Otorhinolaryngol, 78(2), 312-6.
36. Vaz Freitas S, Melo Pestana P, Almeida V et al (2015). Integrating
voice evaluation: correlation between acoustic and audio-perceptual
measures. J Voice, 29(3), 390 e1-7.
37. Van den Berg JW (1958). Myoelastic-aerodynamic theory of voice
production. Journal of Speech and Hearing Research, 1, 227-244.
38. Titze I, Jiang J, and Druker D (1988). Preliminaries to the body-cover
model of pitch control. Journal of Voice, 1(4), 314-319.
39. Rubin HJ (1960). Further observations on the neurochronaxic theory of
voice production. Arch Otolaryngol, 72, 207-11.
40. Rubin HJ (1960). The neurochronaxic theory of voice production--a
refutation. AMA Arch Otolaryngol, 71, 913-20.
41. Titze IR (1994). Principles of voice production, Prentice-Hall, Inc.,
Englewood Cliffs, NJ.
42. Klatt D and Klatt L (1990). Analysis, synthesis, and perception of voice
quality variations among female and male talkers. Journal of the
Acoustical Society of America, 87(2), 820-857.
43. Fujimura O, ed. Vocal physiology: Voice production, mechanisms and
functions. Vol. 2. New York: Raven Press; 1988.
44. Hirano M (1974). Morphological structure of the vocal cord as a
vibrator and its variations. Folia Phoniatrica, 26, 89-94.
45. Titze IR (1976). On the mechanics of vocal-fold vibration. Journal of
the Acoustical Society of America, 60(6), 1366-80.
46. Berke GS and Gerratt BR (1993). Laryngeal biomechanics: an
overview of mucosal wave mechanics. Journal of Voice, 7(2), 123-128.
47. Toner MA and Emanuel F (1989). Direct magnitude estimation and
equal appearing interval scaling of vowel roughness. Journal of Speech
and Hearing Research, 32, 78-82.
48. Schoentgen J, Fraj S, and Lucero JC (2015). Testing the reliability of
Grade, Roughness and Breathiness scores by means of synthetic speech
stimuli. Logoped Phoniatr Vocol, 40(1), 5-13.
49. Godino-Llorente JI, Gomez-Vilda P, Cruz-Roldan F et al (2010).
Pathological likelihood index as a measurement of the degree of voice
normality and perceived hoarseness. J Voice, 24(6), 667-77.
50. Petrovic-Lazic M, Jovanovic N, Kulic M et al (2015). Acoustic and
perceptual characteristics of the voice in patients with vocal polyps
after surgery and voice therapy. J Voice, 29(2), 241-6.
51. Nemr K, Simoes-Zenari M, Cordeiro GF et al (2012). GRBAS and
Cape-V scales: high reliability and consensus when applied at different
times. J Voice, 26(6), 812 e17-22.
52. Schaeffer N and Sidavi A (2011). Toward a more quantitative measure
to assess severity of dysphonia posttherapy: preliminary observations. J
Voice, 25(4), e159-65.
53. Teixeira LC and Behlau M (2015). Comparison Between Vocal
Function Exercises and Voice Amplification. J Voice, 29(6), 718-26.
54. Salturk Z, Kumral TL, Aydogdu I et al (2015). Psychological effects of
dysphonia in voice professionals. Laryngoscope, 125(8), 1908-10.
55. Zraick RI, Kempster GB, Connor NP et al (2011). Establishing validity
of the Consensus Auditory-Perceptual Evaluation of Voice (CAPE-V).
Am J Speech Lang Pathol, 20(1), 14-22.
56. Stepp CE, Hillman RE, and Heaton JT (2010). The impact of vocal
hyperfunction on relative fundamental frequency during voicing offset
and onset. J Speech Lang Hear Res, 53(5), 1220-6.
57. Stepp CE, Sawin DE, and Eadie TL (2012). The relationship between
perception of vocal effort and relative fundamental frequency during
voicing offset and onset. J Speech Lang Hear Res, 55(6), 1887-96.
58. Bassich C and Ludlow CL (1986). The use of perceptual methods by
new clinicians for assessing voice quality. Journal of Speech and
Hearing Disorders, 51, 125-133.
59. Wilson DK (1987). Voice Problems in Children, Third edition,
Williams and Wilkins Publishers, Baltimore.
60. Wirz S (1995). Perceptual approaches to communication disorders,
Whurr Publishers, London.
61. Carding P, Carlson E, Epstein R et al (2000). Formal perceptual
evaluation of voice quality in the United Kingdom. Logopedics,
Phoniatrics, Vocology, 25(3), 133-138.
62. Oates J and Russell A (1998). Learning voice analysis using an
interactive multi-media package: development and preliminary
evaluation. Journal of Voice, 12(4), 500-512.
63. Kempster GB, Gerratt BR, Verdolini Abbott K et al (2009). Consensus
auditory-perceptual evaluation of voice: development of a standardized
clinical protocol. Am J Speech Lang Pathol, 18(2), 124-32.
64. Dejonckere PH (2000). Clinical implementation of a multidimensional basic
protocol for assessing functional results of voice therapy. A preliminary
study. Revue de Laryngologie Otologie Rhinologie, 121(5), 311-313.
65. Wewers ME and Lowe NK (1990). A critical review of Visual
Analogue Scales in the measurement of clinical phenomena. Research
in Nursing and Health, 13, 227-236.
66. Klich RJ (1982). Relationships of vowel characteristics to listener ratings of
breathiness. Journal of Speech and Hearing Research, 25(4), 574-580.
67. Shrout PE and Fleiss JL (1979). Intraclass correlations: uses in
assessing rater reliability. Psychological Bulletin, 86(2), 420-428.
68. Kreul EJ and Hecker MH (1971). Descriptions of the speech of patients
with cancer of the vocal folds. II. Judgments of age and voice quality.
Journal of the Acoustical Society of America, 49(4), Suppl 2,1283-1287.
69. Yumoto E, Sasaki Y, and Okamura H (1984). Harmonics-to-noise ratio
and psychophysical measurement of the degree of hoarseness. Journal
of Speech and Hearing Research, 27(1), 2-6.
70. Ladefoged P (1993). A course in phonetics, Third edition, Harcourt
Brace Jovanovich, Inc., Fort Worth.
71. Baken RJ and Orlikoff RF (2000). Clinical measurement of speech and
voice, Second edition, Singular Publishing Group, San Diego, CA.
72. Powell J and Cocks HC (2013). Mucosal changes in laryngopharyngeal
reflux--prevalence, sensitivity, specificity and assessment.
Laryngoscope, 123(4), 985-91.
73. Nuss RC, Ward J, Recko T et al (2012). Validation of a pediatric vocal
fold nodule rating scale based on digital video images. Ann Otol Rhinol
Laryngol, 121(1), 1-6.
74. Kurtz LO and Cielo CA (2010). Maximum phonation time of vowels in
adult women with vocal nodules. Pro Fono, 22(4), 451-4.
75. Zhuang P, Sprecher AJ, Hoffman MR et al (2009). Phonation threshold
flow measurements in normal and pathological phonation.
Laryngoscope, 119(4), 811-5.
76. Nguyen DD and Kenny DT (2009). Randomized controlled trial of
vocal function exercises on muscle tension dysphonia in Vietnamese
female teachers. Journal of Otolaryngology-Head & Neck Surgery,
38(2), 261-278.
77. Brinca L, Batista AP, Tavares AI et al (2015). The Effect of Anchors
and Training on the Reliability of Voice Quality Ratings for Different
Types of Speech Stimuli. J Voice, 29(6), 776 e7-14.
78. Hussein Gaber AG, Liang FY, Yang JS et al (2014). Correlation among
the dysphonia severity index (DSI), the RBH voice perceptual
evaluation, and minimum glottal area in female patients with vocal fold
nodules. J Voice, 28(1), 20-3.
79. Uloza V, Vegiene A, and Saferis V (2013). Correlation between the
basic video laryngostroboscopic parameters and multidimensional
voice measurements. J Voice, 27(6), 744-52.
80. Hsiung MW (2004). Videolaryngostroboscopic observation of mucus
layer during vocal cord vibration in patients with vocal nodules before
and after surgery. Acta Otolaryngol, 124(2), 186-91.
81. Ayache S, Ouaknine M, Dejonkere P et al (2004). Experimental study
of the effects of surface mucus viscosity on the glottic cycle. Journal of
Voice, 18(1), 107-15.
82. Dollinger M, Grohn F, Berry DA et al (2014). Preliminary results on
the influence of engineered artificial mucus layer on phonation. J
Speech Lang Hear Res, 57(2), S637-47.
83. Nguyễn Khắc Hòa (2014). Nghiên cứu nội soi hoạt nghiệm, phân tích
chất thanh và đánh giá kết quả điều trị u nang dây thanh, Luận văn bác
sĩ chuyên khoa cấp II, trường Đại học Y Hà Nội.
84. Nguyễn Duy Dương, Livesey JR (2006). Bước đầu nghiên cứu các
thông số rung động dây thanh trên người không có bệnh thanh quản.
Tạp Chí Tai Mũi Họng, 2, 64-70.
85. Titze IR (2011). Vocal fold mass is not a useful quantity for describing
F0 in vocalization. J Speech Lang Hear Res, 54(2), 520-2.
86. Remacle M and Eckel HE (2010). Surgery of larynx and trachea,
Springer-Verlag, Berlin.
87. Jiang J, Stern J, Chen HJ et al (2004). Vocal efficiency measurements
in subjects with vocal polyps and nodules: a preliminary report. Annals
of Otology, Rhinology and Laryngology, 113(4), 277-282.
88. Yumoto E, Gould WJ, and Baer T (1982). Harmonics-to-noise ratio as
an index of the degree of hoarseness. Journal of the Acoustical Society
of America, 71(6), 1544-1550.
Phụ lục 1
BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
I. Hành chính:
Họ và tên: Năm sinh: Nam/Nữ
Địa chỉ: Nghề nghiệp:
Chẩn đoán:
Nề Không Có Không Có
Ngày......tháng.......năm 20........
Người khám
Phụ lục 2
PHIẾU ĐÁNH GIÁ CẢM THỤ GRBAS
Đánh giá mức độ RLG chung và cho điểm các chất giọng bằng cách
khoanh vào điểm phù hợp nhất.
* Trị số nhiễu loạn tần số cao bất thường làm ảnh hưởng đến phân phối
chuẩn nên chúng tôi loại khỏi số liệu tính toán.