You are on page 1of 12

POLYETYLEN BLEND GVHD:

CHƯƠNG 1: Tổng quan về nhựa nền Polyetylene


Em chào thầy và các bạn. Bài thuyết trình hôm nay chúng e tìm hiểu về một loại polyme blend rất
phổ biến đó là polymetylen blend. Biến tính etylen- không sử dụng nhiều vì đắt

Đánh giá khả năng tương hợp đối vs nhựa nóng chảy
Làm thế nào để nâng cao khả năng đồng trùng hợp ghép, copolyme ghép mà nền là PE

1.1 Lịch sử phát triển


- 1933 – Fawcett và Gibson ở ICI phát hiện ra polyethylene (PE)
- 1939 – Sản xuất thương mại đầu tiên cho nhựa polyethylene ở Anh (công ty ICI)
- 1945 – Việc sản xuất chai Sqezy bằng LDPE bởi công ty Monsanto đã gây nên sự
mở rộng nhanh chóng của ngành công nghiệp này, với các chai nhựa được sản
xuất thay thế cho chai thủy tinh chứa dầu gội đầu và xà phòng lỏng
- 1949 – Giới thiệu ở Hoa Kỳ các vật dụng gia đình làm từ polyethylene tỷ trọng
thấp (LDPE)
- 1950s – Túi PE lần đầu tiên xuất hiện
- 1955 – Sản xuất PE tỷ trọng cao (HDPE) đầu tiên tại Anh
- 1959 – Bằng sáng chế đầu tiên về khả năng tương hợp của blend PE từ năm với
PVC, PIB hoặc PS bằng cách thêm ít nhất một copolyme ghép PE, như styrene
hoặc vinylacetat ghép trên PE (Houillieres du Bassin-du-Nord và du Pas-de-Calais
và Ethylene-Plastique)
- 1960 – Polymer đồng trùng hợp Ethylene – Vinyl acetate được công bố bởi
DuPont
- 1970 – Ống dẫn khí chịu áp HDPE (màu vàng) đầu tiên được đưa vào Anh bởi
Wavin/British Gas
- 1980 – Lần đầu tiên sản xuất LDPE
- 1980 – Ống dẫn nước uống chịu áp HDPE (màu xanh) đầu tiên được giới thiệu
vào Anh
- 1981 – PE được trộn với cao su Neoprene với tỷ lệ 1: 1 tạo ra các vật liệu cho
thấy sức chịu lực cao, và cải thiện đáng kể các tính chất cơ lý khác
- 2005 – NASA khai thác lợi thế của polyethylene trên nền vật liệu RFX1 như là 1
loại vật liệu cho tàu không gian có thể gửi con người lên Sao Hỏa

1.2 Giới thiệu về nhựa nền PE


Polyetylen là một nhựa nhiệt dẻo được sử dụng rất phổ biến trên thế giới (hàng năm tiêu thụ trên
60 triệu tấn).

1.2.1. Cấu trúc


Với cấu trúc là một hợp chất hữu cơ gồm nhiều nhóm etylen -CH 2-CH2- liên kết với nhau bằng các
liên kết cộng hóa trị.

Polyetylen được điều chế bằng phản ứng trùng hợp các monome etylen (C 2H4).

NHÓ M 4 Page 1
POLYETYLEN BLEND GVHD:

Cấu trúc không gian và cấu trúc lập thể của PE.

1.2.2. Tính chất vật lý


Polyetylen màu trắng, hơi trong có ánh mờ, mặt bóng láng, mềm dẻo, không dẫn điện và không
dẫn nhiệt, không thấm nước, chống thấm khí O 2, CO2, N2 và dầu mỡ đều kém, ở dạng nguyên liệu có
hình dạng hạt nhỏ như hạt gạo. Tùy thuộc vào loại PE mà chúng có nhiệt độ hóa thủy tinh Tg ≈ -100 °C
và nhiệt độ nóng chảy Tm ≈ 120 °C.

1.2.3. Tính chất hóa học


Polyetylen có tính chất hóa học như hydrocacbon no như không tác dụng với các dung dịch axít,
kiềm, thuốc tím và nước brôm. Ở nhiệt độ cao hơn 70ºC PE hòa tan kém trong các dung môi như toluen,
xilen, amilacetat, tricloetylen, dầu thông. dầu khoáng… Dù ở nhiệt độ cao, PE cũng không thể hòa tan
trong nước, trong các loại rượu béo, axeton, ete etylic, glicerin và các loại dầu thảo mộc hoặc các chất
tẩy như Ancol, Axeton, H2O2… Có thể cho khí, hương thẩm thấu xuyên qua, do đó PE cũng có thể hấp thu
giữ mùi trong bản thân bao bì, và cũng chính mùi này có thể được hấp thụ bởi thực phẩm được chứa
đựng, gây mất giá trị cảm quan của sản phẩm.

Dựa vào khối lượng phân tử, tỷ trọng, độ kết tinh và mức độ khâu mạch mà PE được chia thành
11 loại và nhóm e sẽ lần lượt tìm hiểu từng loại trong bài thuyết trình

- Ultra-high-molecular-weight polyethylene (UHMWPE)/PE có khối lượng phân tử


cực cao
- Ultra-low-molecular-weight polyethylene (ULMWPE or PE-WAX)/PE có khối
lượng phân tử cực thấp
- High-molecular-weight polyethylene (HMWPE)/PE có khối lượng phân tử cao
- High-density polyethylene (HDPE)/PE có tỉ trọng cao
- High-density cross-linked polyethylene (HDXLPE)/PE khâu mạch tỉ trọng cao
- Cross-linked polyethylene (PEX or XLPE)/PE khâu mạch
- Medium-density polyethylene (MDPE)/PE tỉ trọng trung bình
- Linear low-density polyethylene (LLDPE)/PE tỉ trọng thấp mạch thẳng
- Low-density polyethylene (LDPE)/PE tỉ trọng thấp
- Very-low-density polyethylene (VLDPE)/PE tỉ trọng rất thấp
- Chlorinated polyethylene (CPE)/PE clo hóa
Trong đó,phổ biến nhất là HDPE, LDPE và LLDPE với các tính chất nổi bật:

NHÓ M 4 Page 2
POLYETYLEN BLEND GVHD:

 HDPE (PE tỷ trọng cao)


- Tỷ trọng: 0.941 - 0,963 g/cm³
- Mạch HDPE có độ phân nhánh thấp, độ kết tinh cao và độ bền kéo cao, có thể
tổng hợp bằng cách sử dụng các hệ xúc tác Crom/Silic, Ziegler-Natta hay xúc tác
có kim loại là phối tử trung tâm (metallocene).
- Cứng hơn LLDPE và LDPE. HDPE có thể chịu được nhiệt độ lên tới 120oC và vì
vậy HDPE được dùng làm bao bì thanh trùng bằng hơi nước.
- HDPE cũng có thể được cắt thành những dây hẹp để dệt thành bao dệt.
- HDPE còn được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực đóng gói như làm chai đựng sữa,
chai đựng hóa chất như thuốc tẩy, cồn, xe đựng rác và ống nước. Khoảng 1/3 các
loại đồ chơi trẻ em được sản xuất từ HDPE.
- Năm 2007, lượng tiêu thụ HDPE toàn cầu đã lên đến hơn 30 triệu tấn.
 LDPE (PE tỷ trọng thấp)
- Tỷ trọng: 0,910 - 0,940 g/cm³
- Quan trọng nhất và thông dụng nhất dễ hàn nhiệt và là loại rẻ nhất, tổng hợp bằng
phương pháp khơi mào gốc tự do.
- LDPE có các mạch polymer có độ dài ngắn, phân nhánh cao và khác nhau, nên độ
kết tinh thấp và có đặc tính chảy rất tốt, dễ dàng gia công.
- LDPE có độ bền kéo thấp, độ bền va đập cao, có thể ứng dụng cho cả những đồ
vật chứa đựng cứng và màng nhựa mềm như sọt đựng rác hay màng gói rau quả.
- Năm 2009, doanh thu buôn bán LDPE trên toàn cầu là 22.2 tỉ USD (khoảng 15.9 tỉ
Euro).
 LLDPE (PE tỷ trọng thấp mạch thẳng)
- Có tỷ trọng trong khoảng 0.915-0.93 g/cm3.
- Là polymer mạch thẳng có những mạch phân nhánh ngắn, thông thường là
copolymer của ethylene với các alpha-olefin (olefin có liên kết đôi đầu mạch)
- LLDPE có độ bền kéo, tính va đập, kháng đâm xuyên, ứng suất nứt cao hơn
LDPE. Trong gia công thì có thể tạo được màng mỏng hơn LDPE với khả năng
kháng lại những tác động phá hủy của môi trường tốt hơn nhưng lại không dễ khi
gia công. LLDPE được ứng dụng nhiều trong đóng gói, bao bì, tấm, vỏ bọc dây
điện, đồ chơi trẻ em, vật chứa đựng, ống dẫn nước.
Nhờ cơ tính tốt như dai, dẻo, độ trong cao nên ứng dụng nhiều nhất của nó là thổi tạo màng, ứng
dụng trong màng phủ nông nghiệp, màng đa lớp hay composite film.

Trong năm 2009, doanh thu buôn bán LLDPE đạt tới 24 tỉ USD (17 tỉ Euro).

NHÓ M 4 Page 3
POLYETYLEN BLEND GVHD:

1.3 Phương pháp tổng hợp


Có 2 phương pháp tổng hợp chính là trùng hợp áp suất cao và trùng hợp áp suất thấp sử dụng xúc
tác Ziegler-Natta. Trùng hợp áp suất cao và trùng hợp áp suất thấp

1.3.1. Trùng hợp áp suất cao


- Thường dung để sản xuất LDPE
- Phản ứng tổng hợp

- Hình dạng PE tạo thành

- Cơ chế: Sử dụng chất khơi mào là ion hoặc gốc tự do


Đánh giá khả năng tương hợp ntn

Pp phổ biến để tăng cường khẩ năng tương hợp của etyleen

NHÓ M 4 Page 4
POLYETYLEN BLEND GVHD:

1.3.2. Trùng hợp áp suất thấp


- Thường dùng để trùng hượp HDPE
- Sử dụng hệ xúc tác Ziegler-Natta:

- Cấu trúc PE tạo thành:

- Cơ chế:
Chất xúc tác Ziegler-Natta là hợp chất kim loại, được chế tạo từ các hợp chất titan với trialkyl
nhôm hoạt động như một chất khơi mào

NHÓ M 4 Page 5
POLYETYLEN BLEND GVHD:

Các nhóm alkyl được sử dụng bao gồm ethyl, hexyl và octyl.Vai trò của chất xúc tác titan có thể
được biểu diễn như thể hiện trong hình dưới.

Monome anken tự gắn mình với một liên kết phối trí rỗng trên nguyên tử titan và phân tử anken
này sau đó tự chèn vào liên kết cacbon-titan để mở rộng chuỗi alkyl. Quá trình này tiếp tục diễn ra, do
đó tạo thành một polymer tuyến tính,không có mạch nhánh.Polyme sẽ kết tủa khi chất xúc tác bị phá
hủy khi bổ sung nước. Bởi vì tuyến tính, các phân tử polyme có thể xếp sát lại với nhau chặt chẽ, khiến
polyme có điểm nóng chảy và mật độ cao hơn polyetylen được tạo ra do khi trùng hợp gốc tự do.

1.4 Một số polyme blend từ nhựa nền PE

NHÓ M 4 Page 6
POLYETYLEN BLEND GVHD:

Vậy thì có những loại polymetylen blend nào được từ nhựa nền polyetylen này chúng ta cùng
nhóm 4 chúng e tìm hiểu trg bài thuyết trình hôm nay.

Vào năm 1933,Fawcet và Gibson của ICI đã phát hiện ra polyethylene tỉ trọng thấp (LDPE). Ngày
nay, nhiều loại PE khác nhau chiếm một phần ba tổng số thị trường nhựa nhiệt dẻo.

Phần lớn nhựa PE là các blend. Có thể xác định được bốn loại: (1) nhựa được chuẩn bị bằng cách
pha trộn hỗn hợp để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật tiêu chuẩn về tỉ trọng và chỉ số chảy; (2) PE blend với
tối đa 15% trọng lượng nhựa polyme khác được thêm vào để nâng cao hiệu suất PE, nhưng không được
tính là blend ; (3) PE blend thương mại ; và (4) các phản ứng chứa các nhóm chức

Nhựa loại 1 không được xem là blend vì sự biến đổi thường gặp trong tính chất giữa các hạt. Các
nguyên liệu phải được xử lý bằng thiết bị có thể tạo ra sự pha trộn tốt và đồng nhất cần thiết cho sự
phân tán của bất kì polyme blend nào. Trong thực tế, các polyethylene tỉ trọng thấp mạch thẳng, được
tạo ra bằng cách sử dụng các chất xúc tác Ziegler-Natta đa năng là blend của các polyethylen khác nhau
mà không phải là luôn tương hợp về nhiệt động học.

Đối với loại nhựa 2, ở hầu hết các quốc gia không cần thiết phải xác định nhựa là các blend, với
điều kiện hàm lượng phụ gia polyme dưới một giới hạn nhất định - thường cao đến 10 hoặc 15% khối
lượng.Do đó, loại blend thứ hai, không được tiết lộ như thể chúng có thể, đại diện cho một phần quan
trọng của thị trường blend.Ở đây blend của các loại PE khác nhau là mối quan tâm chính. Ví dụ, blend
của PE tỉ trọng thấp, với PE tỉ trọng thấp mạch thẳng, hoặc với PE tỉ trọng cao, thuộc loại này. Thị phần
của họ thay đổi từ nước này sang nước khác. Tại Canada, 70% khối lượng LLDPE là blend, trong khi tại
Mỹ chỉ khoảng 30% khối lượng có ích từ công nghệ này. Lưu ý rằng, với một vài ngoại lệ, các blend
polyalken không tương hợp (ví dụ, LDPE với LLDPE), hoặc thậm chí LLDPE với một LLDPE khác được điều
chế bằng các hệ thống xúc tác khác nhau (Utracki và Schlund, 1987, Schlund và Utracki, 1987). Các hệ
thống hai pha không đồng nhất (dị thể) này có thể yêu cầu phải tương hợp hóa học hoặc vật lý. Trong
trường hợp thứ hai, pha trộn có thể được thực hiện ở ứng suất cắt cao. Do hệ số áp lực trong các blend
này là nhỏ, gia công thô chậm, và các blend có thể thể hiện như một vật liệu đơn pha. Tuy nhiên, việc
quan tâm ,chế tạo phải được như các loại blend khác.

Loại nhựa thứ ba thuộc loại blend được xác định rõ ràng bởi các nhà sản xuất . Đây là hỗn hợp của
PE với các nhựa nhiệt dẻo hoặc cao su nhiệt dẻo.

Đối với loại thứ tư thuộc POs đa dụng mới thu được bằng cách sử dụng chất xúc tác metallocen.
Những vật liệu này có các phần khác biệt lớn về MI1 (ví dụ: 0,05 và 200) làm cho chúng khó kết hợp và
gia công.

Như đã đề cập ở trên, do bản chất hoá học của mạch PE, các nhựa này không tương hợp với gần
như tất cả các polyme, bao gồm các PE khác nhau trong cấu trúc chuỗi.

Vì lý do này, có thể áp dụng ba phương pháp pha trộn tiêu chuẩn: (1) chuẩn bị blend không tương
hợp với nồng độ thấp của pha phân tán, khoảng 5% thể tích của PE trong một loại nhựa khác, hoặc trong
nhựa PE khác; (2) chuẩn bị blend không tương hợp hoặc để sử dụng trong các ứng dụng không quan
trọng, hoặc blend có cấu trúc đồng liên tục, tốt nhất với polymer loại thứ hai là tương hợp ít nhất với
phần khối lượng thấp phân tử của PE: và (3) phát triển blend tương hợp. Trong lịch sử, sự cần thiết phải
tương hợp trở nên cấp bách kể từ đầu những năm 1960,khi mà ngay cả phương pháp (2) thường thất
bại.

NHÓ M 4 Page 7
POLYETYLEN BLEND GVHD:

Trong văn bản sau đây về blend PE một số ví dụ được đưa ra cho việc sử dụng của mỗi phương
pháp.

 Loại 1: Trong tiết lộ năm 1968 của Asahi Chemical, PP hoặc PE được trộn với
polyvinylalcohol (2% trọng lượng PVAI). Kết quả của các vật liệu cho thấy đã cải
thiện tính cơ học, hút ẩm và chống tĩnh điện, rất hữu ích cho sản xuất màng, sợi,
ống hoặc lớp phủ (Minekawa và cộng sự., 1969)
 Loại 2: Trong một đơn xin cấp bằng độc quyền sáng chế từ Monsanto năm 1981,
PE được trộn với cao su Neoprene với tỷ lệ 1: 1. Để ổn định hình thái của những
blend pha trộn này, chúng được chiếu xạ bởi chùm electron. Kết quả của các vật
liệu cho thấy độ bền va đập cao, và cải thiện đáng kể các tính chất cơ lý khác
(Coran và Patel, 1982a).
 Loại 3: Bằng sáng chế đầu tiên về khả năng tương hợp của blend PE từ năm 1959.
Đã được tiết lộ rằng PE có thể phản ứng liên kết với PVC, PIB hoặc PS có thể
tương hợp với nhau bằng cách thêm ít nhất một copolyme ghép PE, như styrene
hoặc vinylacetat ghép trên PE (Houillieres du Bassin-du-Nord và du Pas-de-Calais
và Ethylene-Plastique, 1959)
Trong các phần sau đây, hỗn hợp PE được thảo luận theo thứ tự xuất hiện trong lịch sử, hệ thống PE
/ elastomer được nói đến đầu tiên, sau đó là PE blend với hàng hóa, kỹ thuật và đặc biệt là nhựa.

CHƯƠNG 2:  CÁC LOẠI POLYETYLEN BLENDS

2.1 PE/ELASTOMER BLEND

1.3.3. CAO SU BLEND


Trước tiên em muốn giới thiệu với mọi người về vật liệu elastomer blend với cao su blend, ionomer blend,
PIB blend, CSR blend.

Như đã biết thì Trong quá trình sử dụng, người ta thấy một số tính năng kỹ thuật của CSTN còn bị hạn
chế  (như kém bền dầu mỡ, môi trường,...), nên đến đầu thế kỷ 20 nhiều loại cao su tổng hợp  (CSTH)
với những tính chất đặc biệt đã lần lượt được nghiên cứu sản xuất như cao su clopren  (CR),  butađien
(BR), styren - butađien  (SBR), nitril - butađien  (NBR) và silicon. Các loại CSTH đã khắc phục được
những hạn chế của CSTN như NBR bền dầu mỡ, CR và EPDM bền môi trường, hoặc nhiều loại cao su
silicon có khả năng cách điện cao... . trong số đó phải kể đến cao su blend.

Bằng sáng chế đầu tiên về thay đổi tác động của polyalkenes (bằng cách bổ sung elastomers)
được ban hành vào năm 1937 (Standard Oil Development Co., 1937). Tài liệu mô tả việc bổ sung cao su
'như một chất làm mềm' để 'thấm vào,hydrocacbon mạch thẳng của loại tuyến tính, trọng lượng phân
tử trung bình của nó lớn hơn của parafin, giữa 800 và 500.000 '. Năm năm sau, LDPE được trộn với cao
su cyclo, tạo ra các hợp chất hữu ích cho liên kết polyethylene với kim loại (Child et al., 1942).

Để cải thiện thêm PE đã được pha trộn với polybutadiene (butyl cao su BR) như được mô tả trong
một bằng sáng chế của General Electric (Cole, 1959). Năm 1964 W.R. Grace & Company đã công bố
blend gồm 10-81% LDPE với cao su butyl, 15-50% khối lượng BR, và copolyme ethylene-vinylacetate, (4-
40% EVAc). Các blend đã cho thấy sự hữu ích cho việc đúc khuôn lạnh của miếng đệm (Ceresa và cộng

NHÓ M 4 Page 8
POLYETYLEN BLEND GVHD:

sự, 1968). PE pha trộn với 10% BR cũng được cấp bằng sáng chế vào năm 1980 bởi Polysar. Các công
thức này được phát triển để cải thiện độ bền va đập nhiệt độ thấp của PE –pha trộn được thực hiện
trên một máy cán (Kent, 1983).

Năm 1979, công ty sản xuất chưng cất quốc gia và hóa chất đã phát triển các hỗn hợp bao gồm
ethylene-vinylacetate (EVAc) và EVAL bị thủy phân một phần.Các alloy trong suốt có độ bền va đập tốt
(Pritchett, 1980). Trong một bằng sáng chế sau đó, ethylene-co-vinylacetat hydrolyzed (EVAI) đã được
trộn với copolymer diene-nitril (NBR) và chất tương hợp axit để tăng độ bền va đập (Pritchett, 1981).
EVAc đã được xà phòng hóa một phần cũng được trộn với copolymer ghép grafin ethylene-vinylacetate-
maleic (50 - 98 % khối lượng EVAc-MA) để tạo ra các alloy có thể tạo được màng dùng cho nông nghiệp
(Mitsubishi Petrochemical Company, 1980).

Vào đầu những năm 1960, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Canadian Industries Limited tại
McMasterville, Quebec, là trung tâm nghiên cứu polymer hàng đầu thế giới. Các máy đo áp suất liên tục
đầu tiên được xây dựng, các phương pháp thử đã được thiết lập (chẳng hạn như sửa chữa áp lực Ed
Bagley (1957) và mối quan hệ đầu tiên giữa các chỉ số chảy và các phân tử được công bố. Trên nền tảng
cơ bản phong phú này, công ty đã ban hành một số bằng sáng chế liên quan đến công nghệ PE.

Ví dụ, năm 1962, đã áp dụng cho một bằng sáng chế về blend bao gồm LDPE hoặc các copolyme
của nó với poly-1- butene (PB). Các tài liệu này được báo cáo cho thấy khả năng gia công được cải thiện
và kháng ứng suất nứt môi trường (Rudin và Schreiber, 1964a).

Trong một bằng sáng chế ứng dụng của Monsanto năm 1981, blend của PE với cao su Neoprene ở
tỉ lệ 1: 1 được mô tả. Sau khi pha trộn, hỗn hợp được chiếu xạ bởi chùm electron. Các alloy cho thấy độ
bền kéo và các tính chất cơ học khác nhau (Coran và Patel, 1982a). Năm 1985, Daicel Huels đã gửi một
phát minh tài liệu cho việc sử dụng polytransoctanamer (PTO) như là một biến tính va đập chung của
polyalkenes. Blend của 100 phần PO với 0,1-100 phần PTO cho thấy khả năng tương hợp tốt và độ bền
va đập cao ở nhiệt độ thấp xuống -40 ° C (Kita và Hashimoto, 1987).

1.3.4. ATACTIC PP BLENDS


- Một Công ty đã phát triển các loại blend của Polyethylene mạch thẳng, tỉ
trọng thấp ( LLDPE) pha trộn với atactic polypropylene (0,1 – 0,5 % khối
lượng aPP). Vật liệu được tìm thấy này có rất có ích trong việc sản xuất
bằng phương pháp thổi hay kéo các loại bao bì đóng gói, độ bền kéo có
tính bất đẳng hướng và độ dãn dài tại điểm đứt lớn ( Nakamura và cộng sự
1973). Những loại blend tương tự đã được mô tả vào năm 1977 trong bằng
sáng chế đến từ Idemitsu Petrochemical. Atatic polypropylen blend này
được ứng dụng sản xuất các màng mỏng, mềm dẻo, phù hợp với việc đóng
gói đã được tạo ra bằng cách trộn PE ( hỗn hợp của LDPE và HDPE) với
EPDM hoặc aPP (Sakane và cộng sự 1979).
1.1.1. CSR BLENDS
- CSR nhiệt dẻo có thể dễ dàng gia công thành dạng tấm, nhưng có xu
hướng bị nứt, trong khi đó CSR lưu hóa có khả năng kháng vi khuẩn,
nhưng lại khó gia công. Vì vậy, một loại blend sẽ tối ưu hóa được đặc tính.
Những blend đầu tiên chứa CSR xuất hiện từ những năm 1950.

NHÓ M 4 Page 9
POLYETYLEN BLEND GVHD:

- Để sản xuất CSR blend như thế nào. PE được clo hóa để biến thành
elastomer, phản ứng này được thực hiện khi có mặt: SO2, chất rắn vô định
hình, nhựa nhiệt dẻo, chlorosulfonat polyethylene (CSR hoặc CSM). Các
đặc tính đàn hồi tốt nhất thu được khi hàm lượng Clo vào khoảng 27% và
S là 1,5%.
- vật liệu này phù hợp cho làm màng mịn, nhẵn, bền, được sử dụng như
màng phủ tự nhiên hoặc tổng hợp của các loại nhựa nhiệt dẻo. những ứng
dụng của blend CSR là làm các lớp màng, tấm lợp đơn lớp

- CSR thương mại có sẵn từ du Pont de Nemours.. Vào năm 1958, B.F.
Goodrich đã sang chế ra những loại blend có chứa 5-120 phần khối lượng
LDPE và 100 phần khối lượng CSR. Báo cáo đã chỉ ra rằng Một trong số.
Tuy nhiên, sự tác động của vi khuẩn là nguyên nhân gây nứt, đứt gãy,
alligatoring ( rạn kiểu da cá sấu)., kết hợp được các tính chất tốt của cả 2
loại vật liệu. Tuy nhiên, rất khó để liên kết một phần CSR khi có mặt của
các cấu trúc khác, mà không làm ảnh hưởng đến phần sau. Vào năm 1990,
công ty Dow Chemical đã tiết lộ phương pháp để giải quyết vấn đề này.
Đầu tiên, CSR hoặc CPe sẽ được phân tán trong polyakenne và tự lưu hóa
trong máy trộn Banbury ( khoảng 70% ), sau đó sản phẩm lưu hóa đã được
phân tán trong CSR tươi hoặc (CPE) để tạo thành 1 phần liên kết ngang
pha phân tán. Một ví dụ, CSR được trộn với polyethylene với mật độ cực
thấp (ULDPE). Sau khi trộn, hỗn hợp được lưu hóa một phần, sử dụng dẫn
xuất 2,5-dimercapto – 1,3,4 – thiadiazole. Sản phẩm tiếp tục được phân tán
bên trong CSR nhựa nhiệt dẻo, chất độn vô cơ ( 0-100 phần khối lượng
MgO, CaO, CaCO3 và/hoặc TiO2) đã được thêm vào. Blend này có thể
được hóa dẻo bằng cách sử dụng 0 – 150 phần khối lượng
trioctyltrimellitate. Các vật liệu này cho thấy khả năng gia công , độ bền
hàn nóng,độ bám dính và chống nứt tốt.
1.1.2. PIB BLENDS
- Polyethylene thường được trộn với polyisobutylene (PIB). Năm 1958,
Esso Research and Engineering đã được cấp bằng sáng chế cho Blend
LDPE với 25 – 30% khối lượng PIB, sử dụng như các bao bì đóng gói,
trong suốt, không thấm nước,( Briggs và cộng sự 1958). Một năm sau, tài
liệu về một bằng sáng chế của Phillips đã tiết lộ Blend của LLDPE với
PIB đã được phát triển để sản xuất các túi hàng tạp hóa ( Martinovitch và
March, 1963). BASF đã xin cấp bằng sáng chế vào năm 1960 mô tả
phương pháp trộn 2 bước của LDPE với PIB, kết quả thu được là sự phân
tán đồng nhất của pha chất dẻo, do đó mang lại hiệu suất cao. Đầu tiên,
một tiền blend( pre- blend) bao hồm LDPE với 60% PIB được chuẩn bị và
nghiền thành bột. Mẻ chính này có khả năng chảy rất tốt trong đường dẫn
nguyên liệu, đã được trộn với LDPE ứng với 5 – 15% khối lượng trong vật
liệu cuối cùng (Dietrich, 1969).

NHÓ M 4 Page 10
POLYETYLEN BLEND GVHD:

- Vào năm 1970, BASF đã phát triển công nghệ trộn tốc độ cao đặc biệt hữu
ích để đảm bảo sự phân tán đồng đều giữa các pha khi các pha trộn không
tương hợp.
- Ví dụ, LDPE đã được trộn với PIB trong một máy đùn 1 trục vít với tốc độ
cắt 600000 s-1. Thời gian lưu ở khu vực áp suất cao khoảng 34µs. Kết quả
hỗn hợp được phân tán đều với pha PIB có kích thước hạt khoảng 2 – 5
µm. Không có bằng chứng về sự suy giảm nhiệt độ.
- Vào năm 1973, công ty Tokuyama Soda đã thông báo rằng polyankyl, PP,
PE khi trộn với 4,5% khối lượng CSR và một lượng lớn chất độn CaSO4,
cho vật liệu có tính chất cơ học tốt.
1.1.3. IONOMER BLENDS
- Blend đầu tiên của PE/Ionomer xuất hiện vào năm 1966, khi du Pont de
Nemours và Imperial Chemical Industries cùng độc lập đưa ra tài liệu sáng
chế. Những tài liệu đầu tiên mô tả hỗn hợp gồm 20 – 40% khối lượng PE
với copolyme ethyleneacrylic với các ion đối Na + và / hoặc Zn++. Kết
quả vật liệu được tạo ra dùng để chế sản xuất các màng có độ xé tốt, hiệu
suất cao ( Murch, 1974). Trong tài liệu ICI, PE được trộn với ethylene-
methacrylic copolyme axit, Ionomer, và copolyme0 ethylene-vinylacetate
(EVAc) để tạo màng với tính dẻo, dai, bền và chịu va đập cao (Willott,
1968).
- Năm 1985, du Pont Canada công bố hỗn hợp PE với 10-40% khối lượng
của một trong hai (ethylene-co-vinylcarboxylate) hoặc một copolyme
acrylate. Những vật liệu này thể hiện độ bền va đập Izod lớn hơn gấp 3 lần
so với nhóm PE tự do.
- Năm 1992, Năm 1992, Solvay công bố các blend bao gồm LLDPE, tinh
bột và ít nhất một hợp chất ion (với số lượng như vậy mà nồng độ của các
anion và cation là từ 0,002 đến 5 mol / kg). Các alloy đã được sử dụng để
sản xuất có tần số cao. Tinh bột có thể chiếm đến 50% trọng lượng của
chất dẻo. Các vật liệu này có thể ép, đùn, đúc thành các màng, các tấm
mỏng và các phần có thể được hàn hoặc bít kín bằng cảm ứng nhiệt ở tần
số cao. Chúng rất hữu ích cho việc đóng gói hay làm giấy… Sự có mặt của
tinh bột giúp cải thiện sự biến đổi sinh học của vật liệu (Dehennau và cộng
sự., 1994).
Năm 1985, du Pont Canada công bố hỗn hợp PE với 10-40% khối lượng của một trong hai
(ethylene-co-vinylcarboxylate) hoặc một copolyme acrylate. Những vật liệu này thể hiện độ bền va đập
Izod lớn hơn gấp 3 lần so với nhóm PE tự do.

Năm 1992, Năm 1992, Solvay công bố các blend bao gồm LLDPE, tinh bột và ít nhất một hợp chất
ion (với số lượng như vậy mà nồng độ của các anion và cation là từ 0,002 đến 5 mol / kg). Các alloy đã
được sử dụng để sản xuất có tần số cao. Tinh bột có thể chiếm đến 50% trọng lượng của chất dẻo. Các
vật liệu này có thể ép, đùn, đúc thành các màng, các tấm mỏng và các phần có thể được hàn hoặc bít kín
bằng cảm ứng nhiệt ở tần số cao. Chúng rất hữu ích cho việc đóng gói hay làm giấy… Sự có mặt của tinh
bột giúp cải thiện sự biến đổi sinh học của vật liệu (Dehennau và cộng sự., 1994).

NHÓ M 4 Page 11
POLYETYLEN BLEND GVHD:

NHÓ M 4 Page 12

You might also like