Professional Documents
Culture Documents
1. Lập bảng so sánh sự khác nhau giữa cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc với
cách mạng tháng Mười ở Nga về: thời gian, lãnh tụ, giai cấp lãnh đạo, học
thuyết cách mạng, mục tiêu, kết quả, tính chất cách mạng?
Nội dung
Cách mạng Tân Hợi Cách mạng tháng Mười Nga
so sánh
Giai cấp tư sản đứng đầu là Tôn
Tổ chức Đảng Bônsêvích do Lê nin
Trung Sơn thành lập tổ chức Trung
lãnh đạo đứng đầu.
Quốc Đồng Minh Hội.
Học
thuyết Học thuyết Tam dân Chủ nghĩa Mác-Lê nin
CM
Cách mạng Dân chủ tư sản không
Tính chất Cách mạng XHCN
triệt để (kiểu cũ)
Đánh đổ Chính phủ tư sản
Đánh đổ Mãn Thanh, lập chế độ
Mục tiêu lâm thời, thành lập chính
cộng hòa, bình quân ruộng đất.
quyền Xô viết
Lực Công nhân, nông dân và binh
Tư sản, tiểu tư sản, nông dân,…
lượng lính
*Hoàn cảnh:
- CM Tân Hợi: Trung Quốc bị biến thành thuộc địa nữa phong kiến, giai cấp tư
sản Trung Quốc lớn mạnh.
+ mục tiêu: lật đổ chế dộ phong kiến Mãn Thanh, đưa Trung Quốc tiến lên chế
độ tư bản chủ nghĩa, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.
+ lãnh đạo: giai cấp tư sản, đứng đầu là Tôn Trung Sơn.
+ tính chất: cách mạng dân chủ tư sản (Cách mạng tư sản, theo học thuyết
Marx, là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản(hay quý tộc mới) lãnh đạo nhằm lật
đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.) …………Dân chủ tư sản là Chế độ, hình
thức quản lý nhà nước của giai cấp tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo, được thiết
lập sau khi thủ tiêu chế độ phong kiến và được thực hiện bằng những biện pháp:
1. Ban hành hiến pháp
2. Thực hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu để thành lập nghị viện và các cơ
quan đại diện khác.
3. Thực hiện nguyên tắc “Tam quyền phân lập”.
4. Tuyên bố nguyên tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; quyền tư
hữu tài sản là bất khả xâm phạm.
Dân chủ tư sản là bước tiến bộ lớn của lịch sử nhân loại so với chế độ chuyên
chế của giai cấp phong kiến. Nhưng dân chủ tư sản vẫn là chế độ dân chủ được
giành riêng cho giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế và
chính trị xã hội. Còn đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị nhiều hạn
chế trong thực thi các quyền dân chủ đã được long trọng tuyên bố trong các
hiến pháp tư sản. Vì vậy dân chủ tư sản bị coi là nền dân chủ bị cắt xén, là dân
chủ hình thức. Đến giai đoạn đế quốc, nhiều chế định dân chủ của nền dân chủ
tư sản bị xóa bỏ và chế độ độc tài, phát xít, chuyên chế có dịp tái sinh trở lại
nhằm mục đích phục vụ cho đường lối chính trị bằng thủ đoạn gây chiến tranh
cướp bóc tài nguyên, nô dịch các nước kém phát triển và đàn áp phong trào đấu
tranh giải phóng giai cấp của giai cấp công nhân trong nước.
+ kết quả: lật đổ chế độ phong kiến mãn thanh, lập ra nhà nước Trung Hoa dân
quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
*Cách mạng tháng 10 Nga:
+ hoàn cảnh: Nga hoàng bị lật đổ, cục diện 2 chính quyền song song cùng tồn tại ở
Nga sau CM tháng 2…..
+ Mục tiêu: lật đổ chính phủ tư sản lâm thời, đưa nước nga tiến lên CNXH.
+ lãnh đạo: giai cấp vô sản thông qua chính đảng bôn sê vích lê nin.
+ tính chất: cách mạng xã hội chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc
cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản -
nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động)
+ kết quả: lật đổ chính phủ lâm thời tư sản, lập ra nhà nước XHCN đầu tiên trên
thế giới.
2. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga tới Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến
việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ
nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới
Nguyễn Ái Quốc - người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc
gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân
Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp
cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi
còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể
hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác
phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười
- con đường duy nhất đúng đắn - cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự
do thực sự”. Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin, được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua
nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một
số nét lớn sau:
- Thành lập hội việt nam cách mạng thanh niên: Cuối năm 1928, thực hiện chủ
trương “vô sản hoá”, nhiều cán bộ của Hội đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,
để tuyên truyền vận động cách mạng. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị: tuyên truyền
lí luận cách mạng giải phóng dân tộc trong phong trào công nhân và phong trào
yêu nước ViệtNam.
– Chuẩn bị về tổ chức: xây dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống tổ chức, đưa đến sự ra
đời các tổ chức cộng sản, từ đó hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành
công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải
phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân
chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh
đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến
thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực
dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt
Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm
1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân
Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân
đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương đã tạo
thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập.
Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc
Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo
của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách
mạng Tháng
Câu 3: 1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung và ý nghĩa của “Chính sách kinh tế mới”
a) Hoàn cảnh ra đời của “Chính sách kinh tế mới”
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc nội chiến, nền kinh tế quốc dân
của nước Nga xô-viết bị tàn phá nặng nề. Tình hình chính trị, xã hội thêm rối ren,
không ổn định. Chính sách cộng sản thời chiến trở nên không phù hợp, ngăn cản và
kìm hãm sự phát triển kinh tế: nông dân bất mãn với chế độ trưng thu lương thực,
không hào hứng sản xuất; công nhân không có việc làm, ngày càng mệt mỏi do đời
sống thiếu thốn. Bọn phản cách mạng tăng cường chống phá, kích động sự bất mãn
trong nhân dân, gây bạo loạn ở nhiều nơi. Trong nội bộ Đảng Bônsêvich đã xuất
hiện các nhóm đối lập chống lại đường lối của Đảng; không ít đảng viên, cán bộ
hoang mang, dao động trước tình hình đất nước.
Trước tình trạng đó, tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng
sản Nga (Bônsêvich) đã nhất trí thông qua “Chính sách kinh tế mới”. Đảng đã
quyết định áp dụng ở nước Nga xô-viết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết
nhằm cải thiện tình cảnh của nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nông
thôn..
Một trong những di sản lý luận quan trọng nhất của V.I. Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội đó là Chính sách Kinh tế mới được soạn thảo năm 1921. Chính sách
Kinh tế mới của V.I. Lênin đến nay vẫn có ý nghĩa thời đại to lớn, nhất là trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay.
Tháng 3-1921, V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho
Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về
thuế lương thực”. V.I. Lênin đã xuất phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội
của nước Nga lúc bấy giờ: Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân;
sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ
nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đó tồn tại xen kẽ và tác động qua lại lẫn
nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông sản
xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất. Hai là, nền đại
công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng non
yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển. Ba là, sự khủng hoảng về kinh
tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc. Bốn là, nước Nga là
nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư
bản quốc tế bao vây chống phá.
Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên
chủ nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lênin đã đề ra
NEP trong giai đoạn nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.
Việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ,
những mắt xích trung gian để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, là phương thức để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, là những hình thức và phương pháp mới
xây dựng chủ nghĩa xã hội thay cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không
phù hợp với điều kiện đã thay đổi.
Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với sự thừa nhận
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ,
kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nghiệp và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế
lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó là một động lực quan
trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
*Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách Kinh tế mới trong giai đoạn hiện nay
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường và như vậy phải trải
qua chế độ tư hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng
của sự phát triển mà V.I. Lênin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính vì không
nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũ, như
Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương nhanh chóng xóa bỏ chế độ tư hữu,
thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị
trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng nội là chủ yếu, không
tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong
nền kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá
đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới, nhất
là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ
đi lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều
tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa, khẳng định sự cần thiết của việc sử
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội, coi tính kế hoạch là đặc
trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của
cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy, nhận thức của Đại hội VI mặc dù chưa đạt tới
nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta
ở các đại hội sau.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu
và phương tiện với khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã
hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được
xây dựng”(2).
Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4-2001), Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô
hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung
của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những
điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định của Nghị quyết Đại hội IX về mục
tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
một bước phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
được xác định tại Đại hội VIII. Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
qua 30 năm đổi mới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã bổ
sung hoàn thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước
được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu: “Đến năm
2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế
chính trị, giữa Nhà nước và thị trường”(3).
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăngghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội
cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi
các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của C. Mác và Ph.
Ăngghen trong điều kiện cụ thể của nước mình. Chính V.I. Lênin xuất phát từ thực
tiễn nước Nga đã tổng kết: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội
nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn
minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”(4).
Trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của mỗi nước, cần khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả
khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó. Thực tiễn
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây
và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc sống cho
thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với tính kế hoạch hóa tập trung cao độ, tập trung
đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan hệ sản xuất mà không chú trọng đầy đủ đến vai
trò của lực lượng sản xuất, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất gắn với sử dụng
quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô hình này không có
sức sống và lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định bài học đầu tiên qua tổng kết 30 năm
đổi mới là: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam”(5).
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo NEP của V.I.
Lênin trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế phù
hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, do vậy, đã đạt được những kết quả quan
trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế; tạo ra các tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển đất nước trong thời gian
tới./.