You are on page 1of 17

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP

1. Lập bảng so sánh sự khác nhau giữa cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc với
cách mạng tháng Mười ở Nga về: thời gian, lãnh tụ, giai cấp lãnh đạo, học
thuyết cách mạng, mục tiêu, kết quả, tính chất cách mạng?
Nội dung
Cách mạng Tân Hợi Cách mạng tháng Mười Nga
so sánh
Giai cấp tư sản đứng đầu là Tôn
Tổ chức Đảng Bônsêvích do Lê nin
Trung Sơn thành lập tổ chức Trung
lãnh đạo đứng đầu.
Quốc Đồng Minh Hội.
Học
thuyết Học thuyết Tam dân Chủ nghĩa Mác-Lê nin
CM
Cách mạng Dân chủ tư sản không
Tính chất Cách mạng XHCN
triệt để (kiểu cũ)
Đánh đổ Chính phủ tư sản
Đánh đổ Mãn Thanh, lập chế độ
Mục tiêu lâm thời, thành lập chính
cộng hòa, bình quân ruộng đất. 
quyền Xô viết
Lực Công nhân, nông dân và binh
Tư sản, tiểu tư sản, nông dân,…
lượng lính
*Hoàn cảnh:
- CM Tân Hợi: Trung Quốc bị biến thành thuộc địa nữa phong kiến, giai cấp tư
sản Trung Quốc lớn mạnh.
+ mục tiêu: lật đổ chế dộ phong kiến Mãn Thanh, đưa Trung Quốc tiến lên chế
độ tư bản chủ nghĩa, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân.
+ lãnh đạo: giai cấp tư sản, đứng đầu là Tôn Trung Sơn.
+ tính chất: cách mạng dân chủ tư sản (Cách mạng tư sản, theo học thuyết
Marx, là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản(hay quý tộc mới) lãnh đạo nhằm lật
đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền thống trị của giai cấp tư sản, mở đường cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.) …………Dân chủ tư sản là Chế độ, hình
thức quản lý nhà nước của giai cấp tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo, được thiết
lập sau khi thủ tiêu chế độ phong kiến và được thực hiện bằng những biện pháp:
1. Ban hành hiến pháp
2. Thực hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu để thành lập nghị viện và các cơ
quan đại diện khác.
3. Thực hiện nguyên tắc “Tam quyền phân lập”.
4. Tuyên bố nguyên tắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”; quyền tư
hữu tài sản là bất khả xâm phạm.
Dân chủ tư sản là bước tiến bộ lớn của lịch sử nhân loại so với chế độ chuyên
chế của giai cấp phong kiến. Nhưng dân chủ tư sản vẫn là chế độ dân chủ được
giành riêng cho giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế và
chính trị xã hội. Còn đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị nhiều hạn
chế trong thực thi các quyền dân chủ đã được long trọng tuyên bố trong các
hiến pháp tư sản. Vì vậy dân chủ tư sản bị coi là nền dân chủ bị cắt xén, là dân
chủ hình thức. Đến giai đoạn đế quốc, nhiều chế định dân chủ của nền dân chủ
tư sản bị xóa bỏ và chế độ độc tài, phát xít, chuyên chế có dịp tái sinh trở lại
nhằm mục đích phục vụ cho đường lối chính trị bằng thủ đoạn gây chiến tranh
cướp bóc tài nguyên, nô dịch các nước kém phát triển và đàn áp phong trào đấu
tranh giải phóng giai cấp của giai cấp công nhân trong nước.
+ kết quả: lật đổ chế độ phong kiến mãn thanh, lập ra nhà nước Trung Hoa dân
quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
*Cách mạng tháng 10 Nga:
+ hoàn cảnh: Nga hoàng bị lật đổ, cục diện 2 chính quyền song song cùng tồn tại ở
Nga sau CM tháng 2…..
+ Mục tiêu: lật đổ chính phủ tư sản lâm thời, đưa nước nga tiến lên CNXH.
+ lãnh đạo: giai cấp vô sản thông qua chính đảng bôn sê vích lê nin.
+ tính chất: cách mạng xã hội chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc
cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản -
nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động)
+ kết quả: lật đổ chính phủ lâm thời tư sản, lập ra nhà nước XHCN đầu tiên trên
thế giới.
 2. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga tới Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến
việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ
nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga, trước tiên đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới
Nguyễn Ái Quốc - người thanh niên Việt Nam yêu nước đang bôn ba ở nhiều quốc
gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân
Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp
cận với Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi
còn ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể
hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927) của Người. Trong tác
phẩm này, Người  khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười
- con đường duy nhất đúng đắn - cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự
do thực sự”. Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin, được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa cách mạng nước ta vượt qua
nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn. Có thể khái quát ở một
số nét lớn sau:
- Thành lập hội việt nam cách mạng thanh niên: Cuối năm 1928, thực hiện chủ
trương “vô sản hoá”, nhiều cán bộ của Hội đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền,
để tuyên truyền vận động cách mạng. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị: tuyên truyền
lí luận cách mạng giải phóng dân tộc trong phong trào công nhân và phong trào
yêu nước ViệtNam.
– Chuẩn bị về tổ chức: xây dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống tổ chức, đưa đến sự ra
đời các tổ chức cộng sản, từ đó hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng được V.I. Lênin vận dụng rất thành
công trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải
phóng dân tộc thành công: “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân
chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh
đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến
thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(2). Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã thực hiện thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị thực
dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á. Tiếp đó, sau 9 năm thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt
Nam đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” vào năm
1954. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân Việt Nam đã hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước (năm 1975), đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.  
Ba là, chớp thời cơ do điều kiện bên ngoài mang tới. Chiến thắng của Hồng quân
Liên Xô và quân đồng minh trên chiến trường châu Âu đánh bại phát xít Đức, quân
đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương đã tạo
thời cơ để nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa giành độc lập.
Đó là một cuộc cách mạng tự giải phóng bằng chính nội lực cách mạng dân tộc
Việt Nam; kết quả của nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời đúng đắn và sáng tạo
của Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới theo lý tưởng của Cách
mạng Tháng
Câu 3: 1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung và ý nghĩa của “Chính sách kinh tế mới”
a) Hoàn cảnh ra đời của “Chính sách kinh tế mới”
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc nội chiến, nền kinh tế quốc dân
của nước Nga xô-viết bị tàn phá nặng nề. Tình hình chính trị, xã hội thêm rối ren,
không ổn định. Chính sách cộng sản thời chiến trở nên không phù hợp, ngăn cản và
kìm hãm sự phát triển kinh tế: nông dân bất mãn với chế độ trưng thu lương thực,
không hào hứng sản xuất; công nhân không có việc làm, ngày càng mệt mỏi do đời
sống thiếu thốn. Bọn phản cách mạng tăng cường chống phá, kích động sự bất mãn
trong nhân dân, gây bạo loạn ở nhiều nơi. Trong nội bộ Đảng Bônsêvich đã xuất
hiện các nhóm đối lập chống lại đường lối của Đảng; không ít đảng viên, cán bộ
hoang mang, dao động trước tình hình đất nước.
Trước tình trạng đó, tháng 2 năm 1921, tại Hội nghị lần thứ XI, Đảng Cộng
sản Nga (Bônsêvich) đã nhất trí thông qua “Chính sách kinh tế mới”. Đảng đã
quyết định áp dụng ở nước Nga xô-viết những biện pháp khẩn cấp, kiên quyết
nhằm cải thiện tình cảnh của nông dân và phát triển lực lượng sản xuất ở nông
thôn..

b) Nội dung chủ yếu của “Chính sách kinh tế mới”


- Về thực chất:“Chính sách kinh tế mới” là chuyển từ nền kinh tế Nhà nước nắm
độc quyền về mọi mặt, dựa trên cơ sở cưỡng bức lao động, trưng thu và cung cấp
theo kiểu “cộng sản thời chiến” sang một nền kinh tế hàng hóa có sự điều tiết của
Nhà nước (kinh tế thị trường), công nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều thành
phần kinh tế khác nhau (trong một thời gian nhất định); sử dụng vốn, kỹ thuật và
kinh nghiệm của tư bản trong và ngoài nước để thúc đẩy nền kinh tế phát triển;
dung nạp và sử dụng các phần tử tư bản, thi đua và đấu tranh với những phần tử
đó; xây dựng nền tảng kinh tế xã hô ̣i chủ nghĩa.
- Về nô ̣i dung “Chính sách kinh tế mới” là sự cần thiết của nó trong thời kỳ quá đô ̣
từ chủ nghĩa tư bản trung bình lên chủ nghĩa xã hô ̣i:
+ Thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa (trong Chính sách cô ̣ng sản thời
chiến) bằng thu thuế lương thực. Nông dân được toàn quyền sử dụng số dư thừa,
kể cả tự do bán ra thị trường[2]. “Nông dân cần phải tin chắc rằng sau khi đã nô ̣p
cho nhà nước bao nhiêu rồi, thì họ còn bao nhiêu nữa có thể dùng cho lưu thông
địa phương”[3]. “Chúng ta có nhiê ̣m vụ phải làm tất cả những gì có thể làm được
cho viê ̣c khuyến khích nền sản xuất tiểu nông. Thuế lương thực là mô ̣t trong những
biê ̣n pháp nhỏ về mă ̣t này, nhưng đó là mô ̣t biê ̣n pháp tuyê ̣t đối cần thiết, sẽ đem
lại mô ̣t sự khuyến khích đối với nền sản xuất tiểu nông, mô ̣t biê ̣n pháp tuyê ̣t đối
phải chấp nhâ ̣n”[4].
Trong tình trạng “chưa đủ sức để chuyển trực tiếp sang những hình thức thuần túy
xã hội chủ nghĩa, sang việc phân phối thuần túy xã hội chủ nghĩa”, Lênin chủ
trương “chúng ta cứ thực hiê ̣n nhiều hơn nữa những sự nhượng bô ̣, tất nhiên là
trong phạm vi những điều mà giai cấp vô sản có thể nhân nhượng được, đồng thời
vẫn giữ vững địa vị là giai cấp thống trị; thu thuế lương thực theo mức phải chăng,
càng nhanh càng tốt; mở rô ̣ng cao đô ̣ quyền tự do để phát triển, tăng cường và
phục hồi nền kinh tế nông dân;.. Chúng ta cần có mô ̣t sự liên kết, hoă ̣c mô ̣t sự liên
minh giữa nhà nước vô sản và chủ nghĩa tư bản nhà nước, để chống lại thế lực tự
phát tiểu tư sản”[5], “có thể đứng vững trong cuô ̣c chiến đấu vô cùng gian khổ
chống bọn địa chủ,.. đồng thời làm cho nông dân quan tâm đến viê ̣c tăng diê ̣n tích
gieo trồng và cải tiến canh tác”[6].
Lênin đánh giá rất cao vai trò của chính sách thuế lương thực và cơ chế thị trường.
Thực tiễn thực hiện chính sách thuế lương thực có nghĩa là tự do buôn bán lúa mì
thừa và các sản phẩm khác sau khi đã nộp thuế. Đây là một chính sách thông minh
và hợp lý trong tình trạng mô ̣t nước tư bản trung bình đi lên chủ nghĩa xã hô ̣i. Nhờ
nó mà củng cố khối liên minh công - nông là nền tảng giai cấp của chủ nghĩa xã
hội tương lai; tạo ra sự phát triển thương mại tự do, chủ động và góp phần khôi
phục toàn bộ nền kinh tế thông qua việc hồi sinh các quan hệ tư bản tư nhân. Theo
Lênin, tự do thương mại chính là đòn bẩy phát triển lực lượng sản xuất của nền
kinh tế nông nghiệp và tiểu công nghiệp, cũng như mở rộng cuộc đấu tranh chống
lại chủ nghĩa quan liêu trong kinh tế: ““Cơ sở kinh tế” của sự tiêu vong của chủ
nghĩa quan liêu, của sự tiêu vong các tầng lớp trên và tầng lớp dưới, của sự tiêu
vong sự bất bình đẳng... là ở việc trao đổi hàng hoá với nông dân”[7]. Rằng, “kinh
tế nông dân, với tư cách là một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được,
nếu không có một sự tự do trao đổi nào đó, và không có những quan hệ tư bản chủ
nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó”[8]. “Do vậy, theo Lênin, với nước Nga khi đó,
thương nghiệp là “phương sách kiểm nghiệm” đời sống kinh tế nhà nước, là “mối
ghép” duy nhất, là cái có thể liên minh đội ngũ tiên tiến của giai cấp vô sản với
nông dân để từ đó, mới có thể có sự phát triển kinh tế”[9].
+ “Chính sách kinh tế mới” nhằm khôi phục và phát triển đại công nghiệp, công
nghiê ̣p nă ̣ng là cơ sở của chủ nghĩa xã hô ̣i. Nhà nước tập trung lực lượng và
phương tiện vào việc khôi phục và phát triển những ngành công nghiệp nặng: “Cần
phải nhớ rằng xây dựng mô ̣t nhà nước vô sản có nền sản xuất lớn dễ hơn trong mô ̣t
nước mà nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế”[10]. “Mọi sự cải thiê ̣n tình hình của đại
công nghiê ̣p và khả năng có thể cho chạy mô ̣t số công xưởng lớn, sẽ củng cố địa vị
của giai cấp
vô sản đến mức khiến cho chúng ta không viê ̣c gì phải sợ thế lực tự phát của giai
cấp tiểu tư sản, ngay cả khi nó phát triển nữa”[11]. “Chỉ khi nào ngành vâ ̣n tải và
nền đại công nghiê ̣p, đã hoàn toàn được khôi phục, khiến giai cấp vô sản có thể
cung cấp cho nông dân, nhằm đổi lấy sản phẩm nông nghiê ̣p, tất cả những vâ ̣t
phẩm công nghiê ̣p mà nông dân cần dùng cho bản thân họ, thì khi đó, đứng về
quan điểm xã hô ̣i chủ nghĩa mà nói, sự liên minh giữa người tiểu nông và giai cấp
vô sản mới trở nên hoàn toàn đúng đắn và vững chắc”[12].
“Chính sách kinh tế mới” cho phép tư nhân được thuê (hoặc xây dựng) những xí
nghiệp loại nhỏ, khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư kinh doanh ở Nga; Nhà
nước nắm các mạch máu kinh tế công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng, ngoại
thương… Chấn chỉnh, tổ chức lại việc quản lý sản xuất công nghiệp, cải tiến chế
độ tiền lương, phần lớn các xí nghiệp chuyển sang chế độ hoạch toán kinh tế:
“Thông qua các tô nhượng, chính quyền vô sản có thể đảm bảo cho mình có được
những hiê ̣p định với những nước tư bản tiên tiến , và sự phát triển của công nghiê ̣p
chúng ta-không có sự phát triển này, chúng ta không thể tiếp tục tiến lên trên con
đường đi tới chế đô ̣ cô ̣ng sản-là phụ thuô ̣c vào những hiê ̣p định đó”[13]. “Không
hề tiến hành xóa bỏ quốc hữu hóa, nhà nước công nhân cho bọn tư bản nước ngoài
thuê những hầm mỏ, những khu rừng, những giếng dầu nào đó, v.v., bọn này sẽ
cung cấp thêm cho nhà nước công nhân mô ̣t số thiết bị và máy móc khiến có thể
đẩy mạnh viê ̣c khôi phục lại nền đại công nghiê ̣p xô-viết”[14]. “Ở Nga, nếu chúng
ta không khôi phục lại được vùng mỏ Đôn-bát, nếu chúng ta không nâng vùng đó
lên mô ̣t trình đô ̣ cao cần phải có, thì chúng ta không thể nói đến mô ̣t sự khôi phục
đại công nghiê ̣p nào cả, đến mô ̣t sự xây dựng chủ nghĩa xã hô ̣i thâ ̣t sự nào cả, - vì
người ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hô ̣i bằng cách nào khác hơn là bằng đại
cô ̣ng nghiê ̣p”[15]. “Thâ ̣t không thể hình dung được mô ̣t hiê ̣p định nào lại có lợi
hơn cái hiê ̣p định mà chúng ta ký với Vôn-phơ… Tôi cho rằng hiê ̣p định ký với
Vôn-phơ là mô ̣t hiê ̣p định điển hình được ký với các xí nghiê ̣p tư bản Đức… Vì
thế tôi dứt khoát kiên trì viê ̣c chuẩn y hiê ̣p định ký với Vôn-phơ”[16].
+ “Chính sách kinh tế mới” nhằm phát triển thương nghiệp và cải cách tiền tệ.
Chủ trương tư nhân được tự do buôn bán và trao đổi: “Trong khi chúng ta chưa cải
tạo được nông dân, trong khi cơ khí lớn chưa cải tạo nông dân thì phải bảo đảm
nông dân được tự do kinh doanh”[17]. “Có thể thõa mãn tiểu nông bằng hai viê ̣c
này: thứ nhất là, phải có tự do trao đổi nhất định, tức là tự do cho những người tư
hữu nhỏ; thứ hai là, phải kiếm ra hàng hóa và lương thực”[18]. “Ở đây, không thể
bỏ qua được sự tự do trao đổi ở địa phương… không thể không đòi hỏi giữa nông
nghiê ̣p và công nghiê ̣p địa phương, phải có sự tự do trao đổi sản phẩm nhất định
nào đó trong phạm vi địa phương”[19]. “Trong mô ̣t nước nông dân có mô ̣t nền
công nghiê ̣p đang hoạt đô ̣ng, và nếu có sẵn mô ̣t số hàng hóa nhất định, thì người ta
có thể áp dụng chế đô ̣ thuế khóa và tự do trao đổi, coi đó là mô ̣t biê ̣n pháp quá
đô ̣”[20].
Phát triển thương nghiệp, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị và
nông thôn; tiến hành cải cách tiền tệ, phát hành đồng rúp mới: “Bô ̣ chính trị tuyê ̣t
đối yêu cầu tất cả các bô ̣ trưởng dân ủy phải tuyê ̣t đối hết sức nhanh chóng, cương
quyết, vứt bỏ thói quan liêu giấy tờ trong viê ̣c thực hiê ̣n chính sách kinh tế mới; Bô ̣
chính trị tuyê ̣t đối yêu cầu chế đô ̣ thưởng cho các nhân viên phụ trách – càng có
nhiều người được thưởng càng tốt – đã có tinh thần khẩn trương, đã tăng mức sản
xuất và mở rô ̣ng thương nghiê ̣p, cả nô ̣i thương lẫn ngoại thương”[21]. “Điều thâ ̣t
sự quan trọng, chính là viê ̣c ổn định đồng rúp. Hiê ̣n nay chúng tôi, những lực
lượng ưu tú của chúng tôi đang giải quyết vấn đề ấy, và chúng tôi coi nhiê ̣m vụ đó
có tầm quan trọng quyết định”[22]. “Nhưng điều quan trọng hơn hết, chính là
thương nghiê ̣p, tức là sự lưu thông hàng hóa cần thiết cho chúng tôi… ở đây chúng
tôi đã đạt được những kết quả có ý nghĩa quyết định, như là: chúng tối bắt đầu
hướng nền kinh tế đi vào ổn định đồng rúp, - điều đó có mô ̣t ý nghĩa cực kỳ lớn lao
đối với thương nghiê ̣p, đối với tự do lưu thông hàng hóa, đối với nông dân và rất
đông những người sản xuất nhỏ”[23].
+ Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện quá đô ̣ lên chủ nghĩa xã hô ̣i từ
nước tư bản trung bình, “Chính sách kinh tế mới” khẳng định cần phải kiên quyết
duy trì nền kinh tế nhiều thành phần. Nghĩa là, ngoài phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa mới chỉ phôi thai về nguyên tắc có vai trò chủ đạo, cần phải cho phép
tồn tại những phương thức sản xuất khác và cần phải phát triển ở mức độ nhất định
một số thành phần kinh tế khác. Trong khi vận dụng “Chính sách kinh tế mới”,
Lênin đã dùng từ “quá độ” để chỉ rõ trong nền kinh tế của nước Nga xô-viết khi đó
“có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội”[24].
c) Ý nghĩa của “Chính sách kinh tế mới”
Nước Nga xô-viết chỉ trong một thời gian ngắn đã có nhiều chuyển biến tích cực:
từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực, thực phẩm, năm 1925 sản xuất nông
nghiệp đạt 87%; công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm 1913; đời sống nhân dân
cải thiện rõ rệt, tình hình chính trị-xã hội ngày càng ổn định, khối liên minh công
nông chỗ dựa của chính quyền xô-viết được củng cố, phát triển. Nông dân yên tâm,
phấn khởi sản xuất. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và phát
triển, đảm bảo cung cấp lương thực, nông phẩm cho thành phố và các trung tâm
công nghiệp. Sản xuất công nghiệp và hoạt động thương nghiệp được khôi phục và
gia tăng.
Những quan niê ̣m mới mẻ và đúng đắn của “Chính sách kinh tế mới” đã được thực
tiễn xác nhâ ̣n. Ở giai đoạn “Chính sách kinh tế mới”, tư duy về xã hội xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ đã “lùi một bước để tiến hai bước”. Bước lùi trên thực
tiễn thực chất lại là bước tiến của tư duy từ “quá độ trực tiếp” sang “quá độ gián
tiếp” với những bước đi phù hợp để xây dựng chủ nghĩa xã hô ̣i. Chấp nhận quan hệ
sản xuất có tính chất đa dạng trên cơ sở của sản xuất hàng hóa - thị trường để phát
triển lực lượng sản xuất là bước tiến đúng đắn của tư duy từ “Chính sách kinh tế
mới”.
Lênin khẳng định: “Hiê ̣n nay, chúng ta ảnh hưởng tới cách mạng quốc tế chủ yếu
là bằng chính sách kinh tế của mình. Tất cả mọi người, tất cả những người lao
đô ̣ng khắp các nước trên thế giới, không trừ mô ̣t ai (không khuếch đại mô ̣t chút
nào), đều chăm chú nhìn vào nước Cô ̣ng hòa xô-viết Nga”[27]. “Xét theo quan
điểm phát triển của cách mạng vô sản thế giới, với tính cách là mô ̣t quá trình thống
nhất, thì ý nghĩa thời đại mà nước Nga đang trải qua, là ở chỗ khảo nghiê ̣m và
kiểm nghiê ̣m trên thực tiễn chính sách mà giai cấp vô sản nắm chính quyền thi
hành đối với quần chúng tiểu tư sản…đối với giai cấp tư bản cuối cùng ở
Nga”[28]. “Chúng tôi đã liên minh với nông dân… giai cấp vô sản giải phóng nông
dân khỏi ách bóc lô ̣t của giai cấp tư sản, khỏi sự lãnh đạo và ảnh hưởng của giai
cấp tư sản, và kéo nông dân đứng về phía mình để cùng nhau chiến thắng bọn bóc
lô ̣t”[29]. “Nhất định sẽ có mô ̣t xã hô ̣i mới lấy liên minh công nông làm cơ sở…và
khi chúng ta áp dụng chính sách kinh tế mới của chúng ta là chúng ta đang giúp đỡ
vạch ra những hình thức liên minh công nông cho xã hô ̣i mới đó”[30].
Song rất tiếc, từ Đại hội XV của Đảng Cộng sản Liên Xô, tháng 12/1927, với
đường lối tập thể hóa nông nghiệp bằng con đường hợp tác hóa sản xuất và tổ chức
các nông trường quốc doanh lớn, với cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung…
“Chính sách kinh tế mới” đã chấm dứt vai trò lịch sử của nó ở Liên Xô.
Nhưng những bài học của “Chính sách kinh tế mới” vẫn còn có ý nghĩa phổ biến
hiện nay đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước có nền kinh
tế chậm phát triển, sức sản xuất còn yếu kém, trong đó có Viê ̣t Nam.
1. Hoàn cảnh lịch sử mới
a) Chủ quan
- Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1985), cách
mạng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt nhiều thành tựu và ưu điểm đáng kể, song
cũng gặp không ít khó khăn, khiến đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước
kết là về kinh tế – xã hội.
- Nguyên nhân cơ bản: do ta mắc phải “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”.
- Để khắc phục sai lầm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, Đảng và nhà nước ta
phải tiến hành đổi mới.
b) Khách quan
- Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của
cách mạng Khoa học - kỹ thuật.
- Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa khác, nên Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới.
Mục 2
2. Đường lối đổi mới của Đảng
- Đường lối đổi mới đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12 - 1986), được điều chỉnh,
bổ sung và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), VIII (6 - 1996), IX (4 - 2001).
* Quan điểm đối mới của Đảng:
- Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội, mà làm cho
những mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về
Chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
- Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng,
văn hóa. Đổi mới kinh tế và chính trị gắn bó mật thiết, nhưng trọng tâm là đổi mới
kinh tế.
- Về đổi mới kinh tế:
+ Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường
+ Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô,
trình độ công nghệ.
+ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Về đổi mới chính trị:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hữu
nghị, hợp tác.
Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức vì:
- Sự bất lực của Chính phủ Đức trước những khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh
tế.
- Ảnh hưởng của Đảng Quốc xã và Hít-le đối với giới đại tư bản Đức càng ngày
càng tăng.
- Đảng Xã hội dân chủ Đức từ chối đề nghị hợp tác với những người cộng sản để
thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa phát xít.
- Nước Đức có đặc trưng là quân phiệt, hiếu chiến. Trong lịch sử, nước Đức được
thống nhất bằng cuộc cách mạng “sắt và máu”.
Chủ nghĩa phát xít là gì?
Trong lịch sử, từng có rất nhiều tranh cãi xoay quanh bản chất tự nhiên của phát xít
cũng như định nghĩa của chủ nghĩa phát xít. Có thể hiểu chủ nghĩa phát xít là bước
cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, là chủ nghĩa độc tài, chuyên chế quân sự luôn
cho mình là ưu việt và có quyền sinh sát trên toàn thế giới.
Vì sao chủ nghĩa phát xít ra đời?
Nguyên nhân cơ bản bản hình thành chủ nghĩa phát xít đó là cuộc tổng khủng
hoảng kinh tế xã hội 1929 -1933. Cuộc khủng hoảng này đã gây ra tình trạng tiêu
điều của nền kinh tế. Từ đó vô số công ty rơi vào cảnh phá sản, hàng nghìn người
không có việc làm. Người thất nghiệp mất định hướng vào tương lai dẫn tới tình
trạng bạo lực gia tăng. Xã hội các nước phương Tây rơi vào bất ổn nghiêm trọng.
Lúc này, con đường duy nhất các chính phủ phương Tây nghĩ tới là tăng cường
chạy đua vũ trang. Đồng thời họ quân phiệt hoá nền kinh tế và toàn bộ thể chế
chính trị – xã hội.
Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa phát xít được dựa trên những xu hướng chính trị
– cực hữu phản động nhất đã xuất hiện và phát triển từ nhiều thập kỷ, như một hệ
quả lịch sử tất yếu của những sự chuyển biến trong xã hội thời kì đó.
Nguyên nhân cho sự thắng thế của chủ nghĩa phát xít tại Đức
Sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với tư cách nước bại trận, Đức đã phải gánh chịu
những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội. Đức phải bồi thường thiệt hại
chiến tranh theo Hòa ước Versailles năm 1919. Chính phủ đã tiến hành in tiền để
trả nợ cho đất nước. Điều này khiến lạm phát tăng cao. Nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng và cuộc sống người dân trở nên khó khăn hơn. Cuộc tổng khủng hoảng kinh
tế thế giới (1929 – 1933) tiếp tục giáng đòn mạnh vào nền kinh tế Đức. Cuộc sống
người dân tràn ngập sự khủng hoảng, bất ổn và hỗn loạn.
Sự bất mãn của nhân dân Đức với Chính Đảng
*Hệ thống vecxai oasinhtơn được thiết lập như thế nào? em có nhận xét gì về
hệ thống đó?
Trong tình trạng bất ổn đó, công chúng Đức càng thêm bất mãn đối với các Chính
Đảng. Bởi họ không có chính sách hiệu quả để tăng cường sức mạnh cho nền kinh
tế và tạo ra việc làm cho người dân. Chính Đảng cũng quá mềm yếu khi không thể
tái lập trật tự và dẹp yên sự hỗn lại đang dâng cao trong xã hội. Điều này khiến chủ
nghĩa phát xít dễ dàng thắng thế và trở thành chủ nghĩa thống trị tại Đức.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước tư bản đã tổ chức Hội nghị hòa
bình ở Vécxai (1919-1920) và Oa-sinh-tơn (1921-1922) đã kí kết hòa ước và các
hiệp ước phân chia quyền lợi. Một trật tự thế giới mới được thiết lập thông qua các
văn kiện được kí ở Vécxai và Oa-sinh-tơn, thường được gọi là hệ thống Vécxai-
Oasinhtơn
Với hệ thống Vécxai-Oasinhtơn, một trật tự thế giới mới được thiết lập, phản ánh
tương quan lực lượng mới giữa các nước tư bản. Các nước thắng trận, trước hết là
Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản, giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp
đặt, nô dịch đối với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc. Đồng thời, ngay giữa các nước tư bản thắng trận cũng nảy sinh những bất
đồng do mâu thuẫn về quyền lợi. Chính vì thế, quan hệ hòa bình giữa các nước tư
bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh.
Nhằm duy trì trật tự thế giới mới, Hội Quốc liên-một tổ chức chính trị mang tính
quốc tế đầu tiên-được thành lập với sự tham gia của 44 nước thành viên.
*Vì sao chủ nghĩa phát xít thắng thế ở đức?
- So với các nước tư bản Anh, Pháp, Mĩ, thì Đức là nước ít thuộc địa, khan hiếm
thị trường và nguyên liệu. Đức tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất với mong
muốn chia lại thị trường nhưng kết quả lại không được gì. Đức chịu thất bại nặng
nề và bất mãn với trật tự Vécxai – Oasinhtơn, là nước mong muốn phá vỡ nhất trật
tự thế giới này.
- Chủ nghĩa phát xít có thể mê hoặc được nhân dân Đức là do sự yếu kém và sai
lầm của Đảng cộng sản Đức. Ban đầu, Dưới sự lãnh đạo đúng đắn Đảng cộng sản
Đức đã nêu ra Cương lĩnh giải phóng nhân dân Đức về mặt xã hội và dân tộc và
định rõ cương lĩnh ruộng đất. Tuy đề ra được nhưng lại không có biện pháp cụ thể
để phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Trong một thời gian dài, những người cộng
sản Đức đã chủ quan coi nhẹ coi nhẹ nguy cơ phát xít.
- Nguyên nhân chủ yếu khiến chủ nghĩa phát xít có thể nắm được chính quyền là
do sự phản bội của Đảng xã hội dân chủ Đức, do chính sách liên minh giai cấp đối
với giai cấp tư sản mà bọn lãnh tụ Đảng xã hội dân chủ Đức. Các lãnh tụ Đảng xã
hội dân chủ đã không chịu hợp tác với Đảng cộng sản, tạo điều kiện cho bọn phát
xít từng bước hành động và lên nắm chính quyền.
- Sự bất lực của Chính phủ Đức, ảnh hướng cùa Đảng Quốc xã và Hít-le đối với
giới đại tư bản Đức càng ngày càng tăng. Đảng Xã hội dân chủ Đức từ chối đề
nghị hợp tác với những người cộng sản để thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ
nghĩa phát xít.
-Vai trò của Hitle với tư cách là người đứng đầu Đảng Quốc xã là một người có tài
và mưu lược, đã lợi dụng sự bất mãn của quần chúng nhân dân đối với Hòa ước
Vécxai, tuyên truyền kích động tư tưởng phục thù nước Đức.
Chính sách Kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa thời đại của nó
26/04/2017

Một trong những di sản lý luận quan trọng nhất của V.I. Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội đó là Chính sách Kinh tế mới được soạn thảo năm 1921. Chính sách
Kinh tế mới của V.I. Lênin đến nay vẫn có ý nghĩa thời đại to lớn, nhất là trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay.

Hoàn cảnh ra đời của Chính sách Kinh tế mới

Tháng 3-1921, V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách Kinh tế mới (NEP) thay cho
Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bày đầu tiên trong tác phẩm “Bàn về
thuế lương thực”. V.I. Lênin đã xuất phát từ đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội
của nước Nga lúc bấy giờ: Một là, sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, như: kinh tế kiểu gia trưởng - kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của nông dân;
sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ
nghĩa xã hội. Tất cả các thành phần kinh tế đó tồn tại xen kẽ và tác động qua lại lẫn
nhau trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tiểu nông sản
xuất hàng hóa nhỏ chiếm ưu thế, đây là đặc điểm quan trọng nhất. Hai là, nền đại
công nghiệp cơ khí, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn vô cùng non
yếu; các quan hệ hàng hóa - tiền tệ chưa phát triển. Ba là, sự khủng hoảng về kinh
tế, chính trị, xã hội trầm trọng sau nội chiến mới kết thúc. Bốn là, nước Nga là
nước làm cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, phải tự khai phá con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị chủ nghĩa tư
bản quốc tế bao vây chống phá.

Từ sự phân tích này, khắc phục sự nóng vội chủ quan muốn trực tiếp đi thẳng lên
chủ nghĩa xã hội và khủng hoảng kinh tế, xã hội trong nước, V.I. Lênin đã đề ra
NEP trong giai đoạn nước Nga chuyển từ thời chiến sang thời bình.

Việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện pháp quá độ,
những mắt xích trung gian để chuyển sang chủ nghĩa xã hội, là phương thức để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, là những hình thức và phương pháp mới
xây dựng chủ nghĩa xã hội thay cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ ra không
phù hợp với điều kiện đã thay đổi.

Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội với sự thừa nhận
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hóa tiền tệ,
kinh tế thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nghiệp và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế
lương thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó là một động lực quan
trọng để phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
*Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách Kinh tế mới trong giai đoạn hiện nay
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường và như vậy phải trải
qua chế độ tư hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng
của sự phát triển mà V.I. Lênin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính vì không
nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũ, như
Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương nhanh chóng xóa bỏ chế độ tư hữu,
thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị
trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng nội là chủ yếu, không
tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong
nền kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá
đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới, nhất
là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ
đi lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều
tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa, khẳng định sự cần thiết của việc sử
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội, coi tính kế hoạch là đặc
trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của
cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy, nhận thức của Đại hội VI mặc dù chưa đạt tới
nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta
ở các đại hội sau.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu
và phương tiện với khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã
hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được
xây dựng”(2).
Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4-2001), Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô
hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung
của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những
điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định của Nghị quyết Đại hội IX về mục
tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
một bước phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
được xác định tại Đại hội VIII. Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
qua 30 năm đổi mới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã bổ
sung hoàn thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước
được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu: “Đến năm
2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế
chính trị, giữa Nhà nước và thị trường”(3).
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăngghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội
cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi
các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của C. Mác và Ph.
Ăngghen trong điều kiện cụ thể của nước mình. Chính V.I. Lênin xuất phát từ thực
tiễn nước Nga đã tổng kết: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội
nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn
minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”(4).
Trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của mỗi nước, cần khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả
khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó. Thực tiễn
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây
và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc sống cho
thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với tính kế hoạch hóa tập trung cao độ, tập trung
đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan hệ sản xuất mà không chú trọng đầy đủ đến vai
trò của lực lượng sản xuất, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất gắn với sử dụng
quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô hình này không có
sức sống và lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định bài học đầu tiên qua tổng kết 30 năm
đổi mới là: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam”(5).
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo NEP của V.I.
Lênin trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế phù
hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, do vậy, đã đạt được những kết quả quan
trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế; tạo ra các tiền đề quan trọng để tiếp tục phát triển đất nước trong thời gian
tới./.

You might also like