Professional Documents
Culture Documents
10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại - Kỳ I Cao sơn lưu thủy
10 nhạc khúc nổi tiếng Trung Hoa cổ đại - Kỳ I Cao sơn lưu thủy
Cổ nhạc Trung Hoa bao gồm những nhạc khúc cổ, tiêu biểu c ủa nền văn hóa truy ền th ống, g ắn li ền v ới
những điển tích, điển cố khác nhau. Đằng sau mỗi nhạc khúc đều là các giai tho ại thú v ị. Nghe nh ạc
khúc mà không biết câu chuyện đằng sau, thì t ất yếu không th ể đi đ ến t ận cùng cái đ ẹp c ủa khúc ý,
cũng không thể thưởng thức được trọn vẹn cái hay của khúc nh ạc. Trong lo ạt bài này, hãy cùng Trí
Thức VN tìm hiểu về “Trung Hoa thập đại danh khúc” – 10 khúc nhạc nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
Chuyên đề Điển cố đằng sau 10 nhạc khúc nổi tiếng trong lịch s ử Trung Hoa c ổ đ ại
Ngày nay, những bài cổ nhạc Trung Hoa đã d ần dần bi ến m ất trong cu ộc s ống hi ện đ ại. Đi ều đó m ột ph ần là
do sự phát triển của âm nhạc hiện đại, v ới trào l ưu nh ạc nh ẹ, nh ạc tr ẻ, và m ột ph ần quan tr ọng h ơn là do
những bài cổ nhạc rất khó cảm thụ, rất kén người nghe. Nh ững giá tr ị văn hóa truy ền th ống cũng không còn
được lưu truyền lại một cách đầy đủ, khiến cho việc th ưởng th ức các nh ạc khúc này càng ngày càng tr ở nên
khó khăn hơn.
Trung Hoa cổ đại có lưu truyền “Thập đại danh khúc“, chính là 10 khúc nhạc nổi tiếng nhất thời bấy giờ, bao
gồm:
1. Cao sơn lưu thuỷ
2. Thập diện mai phục
3. Bình sa lạc nhạn
4. Mai hoa tam lộng
5. Quảng lăng tán
6. Tịch dương tiêu cổ
7. Ngư tiều vấn đáp
8. Hồ già thập bát phách
9. Hán cung thu nguyệt
10. Dương xuân bạch tuyết.
Trong kỳ này, hãy cùng tìm hiểu về “Cao sơn lưu thủy” cùng hai điển cố đằng sau khúc nhạc này. Điển cố th ứ
nhất là về tình tri âm của Bá Nha và Tử Kỳ, còn điển cố thứ hai là sự tích về cây đàn Dao c ầm.
Tình tri âm của Bá Nha và Tử Kỳ
Câu chuyện Bá Nha gặp Tử Kỳ bắt đầu khi ông đang trên thuy ền ở c ửa sông Hán D ương, sau khi ph ụng ch ỉ
vua Tấn đi sứ nước Sở trở về. Nhân lúc đêm Trung Thu trăng sáng, phong c ảnh h ữu tình, Bá Nha đ ặt h ết tâm
hồn đàn một khúc nhạc trầm bổng réo rắt. Tuy nhiên, khúc nh ạc ch ưa d ứt thì b ỗng đàn đ ứt dây. Bá Nha gi ật
mình tự nghĩ, hẳn là có người nào đang nghe lén tiếng đàn, bèn chu ẩn b ị cho quân lính lên b ờ tìm hi ểu.
Lúc này, trên bờ mới vọng lên tiếng nói của một gã tiều phu trấn an và ng ợi ca ti ếng đàn c ủa ng ười trên thuy ền.
Đó chính là Tử Kỳ. Đôi bên đối đáp không lâu thì Bá Nha nh ận ra, T ử Kỳ tuy thân ph ận th ấp hèn, nh ưng l ại có
thể hiểu thấu tiếng đàn của ông. Bá Nha sinh lòng kính phục, mời Tử Kỳ lên thuy ền đàm đ ạo.
Ngồi đàm đạo không lâu, Bá Nha lại thử tài Tử Kỳ một lần n ữa. Ông n ối l ại dây đàn, t ập trung đ ến ch ốn non
cao, đánh lên một khúc, Tử Kỳ khen rằng: “ Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn ” (Nghĩa là:
Đánh đàn hay thay, vời vợi tựa Thái Sơn). Bá Nha ng ưng th ần, ý t ại l ưu th ủy, kh ảy lên m ột khúc n ữa, T ử Kỳ l ại
khen rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy ” (Nghĩa là: Cuồn cuộn như nước chảy). Sung s ướng vì tìm đ ược tri
âm, Bá Nha sai người bày tiệc đối ẩm, rồi sau đó l ại kết nghĩa anh em v ới T ử Kỳ. C ả hai h ẹn ước vào ngày
Trung thu năm sau sẽ lại gặp nhau ở ghềnh đá chân núi Mã Yên…
Tuy nhiên, trời không chiều lòng người, Tử Kỳ qua đ ời tr ước d ịp h ẹn ước. Tuy nhiên, ông ch ưa bao gi ờ quên l ời
hứa với người anh em kết nghĩa của mình. Tử Kỳ di ngôn l ại r ằng xin đ ược mai táng ở chân núi Mã Yên đ ể
hoàn thành lời hẹn ước với Bá Nha.
Ngày hẹn ước, Bá Nha tìm đến nơi thì nghe đ ược tin d ữ. Ông đau lòng đ ến vi ếng T ử Kỳ, và sau đó sai ng ười
mang cây Dao cầm tới, dốc hết tâm lực đàn khúc “ Thiên thu trường hận“. Tấu xong khúc nhạc, Bá Nha vái cây
Dao cầm một vái, đoạn tay nâng đàn lên cao, đập m ạnh vào phi ến đá tr ước m ộ T ử Kỳ. Dao c ầm v ỡ tan, tr ục
ngọc phím đồng rơi lả tả.
Sau đó Bá Nha ngâm bốn câu thơ nói rằng:
Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía tr ước r ộng 8 t ấc án theo Bát ti ết, sau r ộng 4
tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đ ầu nh ư Kim đ ồng, l ưng nh ư Ng ọc N ữ, trên ch ạm Long
Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Ðàn ấy có 12 phím t ượng trưng 12 tháng, l ại thêm m ột phím gi ữa t ượng tr ưng
tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm: Cung, Th ương, Gi ốc, Ch ủy, Vũ.
Vua Thuấn khảy Dao cầm, ca bài Nam phong, thiên h ạ đ ại tr ị. Vua Văn v ương b ị Tr ụ v ương giam c ầm n ơi Dũ
Lý, con trưởng Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm m ột dây n ữa g ọi là dây Văn (Văn huy ền), đàn
nghe thêm ai oán.
Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm vào Dao cầm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huy ền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữa thành 7 dây, g ọi là Th ất huy ền c ầm.
Sáu Kỵ là: Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết r ơi nhi ều.
Bảy Không là: Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhi ễu lo ạn thì không đàn, vi ệc b ận r ộn
thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không t ề ch ỉnh thì không đàn, không đ ốt lò h ương
thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.
Tám Tuyệt là: Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa v ời, d ằng dặc.
Ðàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, v ượn nghe không hú, m ột th ứ nhã nh ạc tuy ệt v ời. Chính
vì vậy, cây Dao cầm là một báu vật của trời đất. Bá Nha vì T ử Kỳ có th ể không ti ếc cây Dao C ầm, cũng là t ận
tình tri kỷ. Giống như Nhạc Phi từng nói trong Tiểu trùng san: “ Người tri âm thực ít, đàn không đứt thì biết lấy ai
nghe“…
Nhạc khúc “Cao sơn lưu thủy“
Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đ ời Thanh gia công và phát tri ển,
được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “ Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát
huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú, khiến hình t ượng núi cao, n ước ch ảy thêm r ạng r ỡ, nên m ới có danh
xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy“.
Khúc nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, c ụ th ể là 4 b ộ ph ận l ớn: kh ởi, th ừa, chuy ển và h ợp
(gần giống như bố cục một bài thơ Đường Luật). Qua tìm hiểu, tính ch ất và ý nghĩa các đo ạn đ ược nhi ều ng ười
nhận định như sau:
Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm tr ầm, h ồn h ậu, uy ển chuy ển và âm b ội sáng
rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng đi ệp, su ối ch ảy khe sâu m ột cách rõ ràng,
tươi sáng.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống nh ư nh ững gi ọt n ước ch ảy
trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh.
Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xu ống và âm gi ới c ủa 5 thanh đi lên, âm
hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, ph ất, nh ư m ột dòng thác ch ảy ào ạt xu ống, d ồn vào
sông biển cuộn trào sóng lớn.
Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một ph ần âm đi ệu c ủa ph ần th ừa và ph ần chuy ển t ạo thành
hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khi ến ng ười nghe có th ể c ảm nh ận d ư v ị h ết
sức ngỡ ngàng, thú vị.
Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn. Đến thời Tống lại phân cao sơn
thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên v ề lưu th ủy, khi ến cho ng ười nghe có c ảm giác bi ển l ớn đang v ỗ
sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.