Professional Documents
Culture Documents
LSLTXHH
LSLTXHH
1
Auguste Comte được xem là cha đẻ của ngành Xã hội học. Với những đóng góp của mình,
Comte đã có công lao rất lớn đối với sự ra đời và phát triển của Xã hội học. Ông là một nhà
tư tưởng Pháp, nhà lý thuyết xã hội, người tạo ra ngành xã hội học, nhà thực chứng luận đã
đưa ra thuật ngữ "Xã hội học" ("Sociology"). Ông đã đóng góp không nhỏ vào lĩnh vực xã
hội học của thế giới.
5
Tĩnh học xã hội là bộ phận xã hội học chuyên nghiên cứu về trật tự xã hội, sự ổn định xã hội
và sự đồng thuận xã hội, cơ cấu xã hội, các thành phần và các mối liên hệ của các nhóm xã
hội, gia đình và cộng đồng xã hội. Chính vì những đối tượng nghiên cứu này tương đối ổn
định nên bộ phận tri thức xã hội học về chúng cũng được Comte gọi là tĩnh học. Tên gọi này
bắt nguồn từ vật lý học mà một bộ phận của nó nghiên cứu trạng thái tĩnh, đứng im của các
hiện tượng vật lý. Với tĩnh học xã hội, Comte đã nêu ra được những câu hỏi nghiên cứu cơ
bản của xã hội học: Trật tự xã hội là gì? Cái gì tạo nên sự ổn định, thống nhất xã hội? Làm
thế nào duy trì, củng cố sự trật tự xã hội?. Tĩnh học xã hội có đối tượng nghiên cứu cụ thể là
thành phần cấu trúc của gia đình, là thể chế xã hội, là các nhóm và các tổ chức xã hội.
Động học xã hội là một bộ phận xã hội học chuyên nghiên cứu các quy luật biến đổi xã hội
trong các hệ thống xã hội theo thời gian. Comte đưa ra quy luật ba giai đoạn để giải thích sự
phát triển của các hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ cấu xã hội tương ứng. Các câu hỏi
nghiên cứu của động học xã hội là: xã hội biến đổi như thế nào? Lịch sử xã hội đã trải qua
các giai đoạn nào? Cái gì làm cho xã hội biến đổi?. Biến đổi xã hội không phải là sự rối loạn
xã hội mà là một quá trình vận động của xã hội. Biến đổi xã hội là một quá trình thay đổi từ
trạng thái xã hội này sang trạng thái xã hội khác, từ kiểu trật tự xã hội này sang kiểu trật tự
xã hội khác. Do đó, tĩnh học xã hội – chuyên nghiên cứu trật tự xã hội giúp động học xã hội
trả lời được phần nào các câu hỏi về sự biến đổi xã hội. Động học xã hội sử dụng triệt để
phương pháp so sánh và phương pháp lịch sử để xem xã hội đã biến đổi từ trạng thái này
sang trạng thái khác như thế nào.
Với động học xã hội, Comte đã nêu ra “quy luật ba giai đoạn” của lịch sử xã hội loài người,
Theo quy luật này, xã hội loài người phát triển lần lượt qua ba giai đoạn:
1. Giai đoạn thần học tương ứng với xã hội chiếm hữu nô lệ.
2. Giai đoạn siêu hình tương ứng với xã hội phong kiến.
3. Giai đoạn thực chứng tương ứng với xã hội tư bản chủ nghĩa.
Mỗi giai đoạn lịch sử xã hội này đều đặc trưng bởi một kiểu nhận thức, một kiểu quan niệm:
giai đoạn thần học đặc trưng bởi sự nhận thức mang tính thần bí và niềm tin vào các thế lực
siêu tự nhiên, siêu nhân. Giai đoạn siêu hình đặc trưng bởi nhận thức cảm tính, kinh nghiệm
chứ không nặng về niềm tin vào thần thánh như giai đoạn trước. Giai đoạn thực chứng đặc
trưng bởi nhận thức của khoa học và vận dụng tri thức khoa học vào sản xuất kinh doanh.
Theo quy luật ba giai đoạn, mỗi giai đoạn trước là điều kiện phát triển của mỗi giai đoạn sau.
Ví dụ, trong xã hội hiện đại, dòng họ không mất đi, cũng như các tư tưởng thần bí, siêu tự
nhiên không hoàn toàn bị biến mất. Việc biến đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác
thường trải qua thời kỳ bất ổn định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới. Comte cho rằng, hệ
thống văn hóa bao gồm đạo đức và tinh thần quy định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ
cấu xã hội. Quan niệm của Comte về lịch sử xã hội loài người có vẻ duy tâm nếu xét từ góc
6
độ triết học duy vật. Tuy nhiên, nếu xét nó trong bối cảnh xã hội Châu Âu lúc bấy giờ thì
quan niệm này đánh dấu một sự tiến bộ nhất định. Bởi vì lúc bấy giờ sự biến đổi xã hội trong
lịch sử vẫn là một điều đầy bí ẩn cần có lời giải đáp. Dựa vào quy luật ba giai đoạn, Comte
cho rằng việc "xã hội học" ra đời ở giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa là một tất yếu lịch
sử; và xã hội học là khoa học đứng trên tất cả các khoa học khác. Xã hội học ra đời ở giai
đoạn cuối của quá trình tiến hóa - giai đoạn thực chứng và đó là khoa học phức tạp nhất,
phải dựa trên nền tảng khoa học khác. Vì ra đời muộn nên xã hội học ngay lập tức đã phải là
một khoa học thực chứng và chiếm vị trí cao nhất trong hệ thống thứ bậc các khoa học.
2.4. Suy nghĩ về tôn giáo.
Auguste Comte cho rằng tôn giáo phát triển qua ba giai đoạn:
Một là, người tiền sử cho rằng những gì họ không hiểu được là một dạng sức mạnh siêu
nhiên nào đó.
Hai là, họ phát triển thành khái niệm về một vị thần trừu tượng.
Ba là, con người dần gạt bỏ suy nghĩ như trên, tiến tới việc nghiên cứu hiện tượng một cách
khoa học và chỉ tin vào những điều đã được kiểm nghiệm.
Tuy nhiên, Comte đã lo ngại rằng nếu như tôn giáo là một phần không thể thiếu của cuộc
sống thì việc phá bỏ nó sẽ gây ra tai họa. Vì vậy, ông có đề xuất về một tôn giáo mang tính
nhân loại, gồm từ thiện, trật tự và khoa học. Tư tưởng đó của ông cũng được một số nhà triết
học tiếp nhận như John Stuart Mill hay Alain de Botton. Nhưng việc xây dựng thành công
một tôn giáo như vậy là rất khó nếu không muốn nói là bất khả thi.
2.5. Hệ thống triết học tích cực (System of Positive Philosophy).
Comte đã sống trong một trong những thời kỳ hỗn loạn nhất trong lịch sử châu Âu. Vì vậy,
là một triết gia, mục đích của ông không chỉ là để hiểu xã hội loài người mà còn là quy định
một hệ thống mà chúng ta có thể tạo ra trật tự thoát khỏi sự hỗn loạn, và do đó thay đổi xã
hội theo hướng tốt đẹp hơn. Cuối cùng, ông đã phát triển cái mà ông gọi là "hệ thống triết
học tích cực", trong đó logic và toán học, kết hợp với kinh nghiệm giác quan, có thể hỗ trợ
tốt hơn trong việc hiểu các mối quan hệ và hành động của con người, giống như cách mà
phương pháp khoa học đã cho phép hiểu được tự nhiên thế giới. Năm 1826, Comte bắt đầu
một loạt bài giảng về hệ thống triết lý tích cực của mình cho một khán giả riêng, nhưng ông
sớm bị suy nhược thần kinh nghiêm trọng. Ông phải nhập viện và sau đó hồi phục với sự
giúp đỡ của vợ mình, Caroline Massin, người mà ông kết hôn vào năm 1824. Ông tiếp tục
giảng dạy khóa học vào tháng 1 năm 1829, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ thứ hai trong
cuộc đời của Comte kéo dài 13 năm. Trong thời gian này, ông đã xuất bản sáu tập của Khóa
học về Triết học Tích cực từ năm 1830 đến năm 1842. Toàn bộ tác phẩm nhấn mạnh đạo
đức và tiến bộ đạo đức là mối quan tâm chính của kiến thức và nỗ lực của con người, và đã
coi trọng tổ chức chính trị rằng điều này đòi hỏi. Auguste Comte đặt nền móng cho một triết
7
lý mới. Với dòng suy nghĩ mới này, Comte đã rửa tội cho nó cùng tên với tác phẩm của
mình và sau đó nó đã được đặt tên là "positivismo". Nhiều trí thức tiếng Anh đã bị ảnh
hưởng bởi ông, và dịch và ban hành công việc của ông. Tín đồ Pháp của ông cũng đã gia
tăng và xã hội thực chứng phát triển trên khắp thế giới.
2.6. Phát triển chủ nghĩa thực chứng và đối tượng của nó.
Đóng góp của Comte cho chủ nghĩa thực chứng không chỉ là đặt tên và mô tả nó, mà còn tìm
kiếm ứng dụng của nó để cải thiện xã hội.
Nhờ những đóng góp của Comte trong lĩnh vực này, các đối tượng của chủ nghĩa thực chứng
có thể được xác định:
1. Cung cấp tinh thần cá nhân với một hệ thống niềm tin thống nhất tinh thần tập thể.
Thiết lập các quy tắc phối hợp về niềm tin chung của hệ thống niềm tin.
2. Xác định một tổ chức chính trị, được tất cả đàn ông chấp nhận và đáp ứng nguyện vọng trí
tuệ và khuynh hướng đạo đức của họ.
3. Ý tưởng của Comte đã cho phép phát triển chủ nghĩa thực chứng sau này, một triết lý vẫn
còn hiệu lực.
2.7. Ý tưởng triết học khác.
Những đóng góp triết học của Comte không chỉ xảy ra trong các chủ đề của chủ nghĩa thực
chứng. Việc tạo ra triết lý tích cực của ông đòi hỏi Comte phải giải quyết các vấn đề triết học
liên quan khác, đóng góp quan trọng cho sự phát triển lịch sử của chúng. Trong số các chủ
đề triết học trong đó các ý tưởng của Comte đã được thảo luận rộng rãi là các khái niệm "ý
thức hệ" và "không tưởng", và mối liên hệ của chúng với lý thuyết tách rời tâm linh khỏi
thời gian. Ngay cả chủ đề của nghệ thuật cũng được Comte đối xử rộng rãi trong các lý
thuyết triết học của ông.
2.8. Chức năng luận.
Là người tiếp thu có chọn lọc những quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và sau
đó là tư tưởng khai sáng của Hobbe, Rousseau và các nhà khoa học tự nhiên, Comte cho
rằng, xã hội như cơ thể sống (biological organism) có cấu trúc bởi ba bộ phận rất quan trọng
đó là các thành phần (elements), chuỗi liên kết mô (tissues) và các cơ quan (organs). Xã hội
cũng là một loại cơ thể sống được cấu trúc bởi gia đình với tư cách là tế bào sống (cells) của
cơ thể; sau đó là các giai cấp, giai tầng (castes) với tư cách là chuỗi liên kết các tế bào thành
các mô thích hợp của cơ thể sống; cuối cùng là các thành phố hoặc các cộng động dân cư
(real organs). Comte coi xã hội như một cơ thể thống nhất bởi các bộ phận, mỗi bộ phận có
chức năng riêng đảm bảo sự tồn tại, phát triển của mình và có liên quan tới các bộ phận khác
trong cơ thể xã hội, Comte đề cao tính thống nhất chức năng để duy trì một trật tự xã hội.
Tuy nhiên., khái niệm chức năng của Comte còn rất đơn giản và xã hội cũng được hiểu một
8
cách đơn giản như cơ thể sống, cơ thể sinh học. Sự tiến hóa của cơ thể xã hội lại được giải
thích trên cơ sở tiến hóa tinh thần thông qua thuyết ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực
chứng.
III. Vận dụng giải quyết hiện tượng xã hội Việt Nam đương đại.
3.1. Vận dụng tĩnh học xã hội.
Phương pháp luận
Lúc đầu, Comte nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị cấu
thành của cơ cấu xã hội. Comte xem cá nhân với tư cách là một tập hợp, một hệ thống gồm:
1. Các năng lực và nhu cầu đã có sẵn bên trong cá nhân;
2. Các nhu cầu, năng lực được tiếp thu từ bên ngoài qua quá trình cá nhân tham gia vào xã
hội.
Cấu trúc và trật tự xã hội.
Ở Việt Nam, cấu trúc xã hội thường được gọi là “Cơ cấu xã hội” biến đổi từ cấu trúc xã hội
“hai giai một tầng” gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức biến đổi
sang cấu trúc xã hội nhiều thành phần mà hiện nay chính thức được gọi là các giai tầng xã
hội. Những giai tầng mới xuất hiện và phát triển như “doanh nhân”, “người sản xuất nhỏ”.
Để giữ cho cấu trúc đó ổn định thì cần phải có một trật tự xã hội. Theo Comte, các yếu tố
gắn kết các cá nhân, các nhóm người lại với nhau thành một cấu trúc ổn định và trật tự là các
mối quan hệ vật chất và các quy tắc pháp luật, quy tắc đạo đức, tinh thần. Trật tự lao động,
trật tự giao tiếp, tôn ti đạo đức và trật tự tôn giáo và nhiều yếu tố khác đều đóng góp vào
việc thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Sau đó, quan niệm xã hội của Comte thay đổi, ông cho
rằng cá nhân không phải là "đơn vị xã hội đích thực". Comte coi nghiên cứu về cá nhân là
nghiên cứu thuộc về lĩnh vực sinh vật học, khác hẳn với nghiên cứu xã hội học chủ yếu phân
tích các "đơn vị xã hội". Đơn vị xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng nhất có mặt trong tất cả các đơn
vị xã hội khác là "gia đình". Điều thực sự có ý nghĩa về lý luận xã hội học là quan niệm của
Comte về cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội bao giờ cũng được tạo nên từ các cơ cấu xã hội khác
đơn giản hơn, gọi là tiểu cơ cấu xã hội. Do đó, hiểu cơ cấu xã hội có nghĩa là nắm bắt được
các đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội
phát triển theo con đường tiến hóa từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển
của xã hội biểu hiện ở mức độ phân hóa, đa dạng hóa và chuyên môn hóa chức năng, cũng
như mức độ liên kết giữa các tiểu cơ cấu xã hội. Comte đặt vấn đề nghiên cứu xem làm thế
nào duy trì được mối liên kết giữa các bộ phận (các tiểu cơ cấu xã hội) khi mức độ phân hóa
chức năng ngày một tăng lên trong xã hội. Comte đưa ra cách giải quyết nhấn mạnh tới vai
trò của nhà nước và yếu tố văn hóa, tinh thần xã hội.
9
1. Vai trò của nhà nước: Comte cho rằng ngoài sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tập trung quyền
lực vào tay nhà nước cho phép điều hòa, phối hợp và liên kết các bộ phận của hệ thống xã
hội đảm bảo chống lại sức ép của sự phân hóa và phân rã xã hội. Theo Comte nhà nước phải
vững mạnh thì mới giữ được ổn định trật tự xã hội.
Ở Việt Nam. Đảng Cộng sản được khẳng định là “như người cầm lái” cho con thuyền theo
như quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và nay là
cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, sự lãnh đạo và vai trò của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một điều tất yếu xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam.
Công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng - lý luận. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn
mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng đồng thời phải luôn luôn sáng tạo,
vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, từng lúc, từng nơi, không được phép giáo
điều, học tập kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản anh em,... Người lưu ý phải thường xuyên
giáo dục đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên; đồng thời, Người cũng cảnh
báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến sự nghiệp
cách mạng của Nhân dân, vận mệnh của Tổ quốc.
Thứ hai, xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần phải được tổ chức chặt chẽ, có tính
kỷ luật cao, có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, nhất là các tổ chức đảng cơ sở - tổ chức hạt
nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng. Cần chú trọng thực hiện nghiêm các nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung là để thống nhất
về tư tưởng, tổ chức, hành động, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng
viên chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng; dân chủ là tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Cần phát huy vai trò tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo, vì nhiều người thì
thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ
quan. Cá nhân phụ trách, vì mọi việc đã được bàn bạc kỹ lưỡng, nên khi giao cho một người
hoặc một nhóm người thi hành sẽ nâng cao tinh thần chuyên trách, công việc mới trôi chảy.
Bên cạnh đó, cần khắc phục tệ độc đoán, chuyên quyền, dựa dẫm tập thể, không quyết đoán,
không dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc.
Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận của toàn
thể dân tộc Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản – Giai cấp công nhân – Nhân dân
Việt Nam là mối quan hệ khăng khít, máu thịt. Hướng vào việc phục vụ dân – đó chính là
10
yêu cầu của Hồ Chí Minh, Đảng “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”,
phải chú ý nâng cao dân chúng.
Đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế trong
sáng. Trong Di chúc, Người mong Đảng “sẽ ra sức hoạt động, đóng góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại khối đại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
Thực hiện nghiêm việc phê bình và tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “… một
đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm. Như thế là một Đảng tiến
bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Trong xây dựng Đảng thì công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, để có cán bộ tốt, làm được việc phải chú trọng đến khâu đào tạo, huấn luyện cán bộ:
“Cán bộ là cái dây chuyền của nhà máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ
dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính
phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể
thực hiện được”.
Thứ ba, xây dựng Đảng về đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một đảng chân chính phải là đảng tiêu biểu về đạo đức, vì
vậy Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng đạo đức của Đảng. Mỗi đảng viên phải
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Giáo dục đạo
đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên
gắn với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nhằm làm cho Đảng ta luôn thực sự trong
sạch, xứng đáng vị trí, vai trò là một đảng cầm quyền.
2. Vai trò của văn hóa, tinh thần: Ngoài hành động "vật chất" của nhà nước, yếu tố trí tuệ và
đạo đức, thiện trí và thiện cảm của các thành viên xã hội, đóng vai trò là nhân tố duy trì sự
liên kết, trật tự xã hội.
Văn hóa là một lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng
trong sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, sự vững chắc của mỗi cộng đồng và rộng
hơn là sự phát triển của mỗi quốc gia. Sẽ không thể có một sự phát triển nhanh và bền vững
nếu không phát huy được nội lực của chính quốc gia đó. Mà nội lực quan trọng nhất của mỗi
một quốc gia chính là con người, là những sáng tạo của con người quốc gia đó. Chính vì vậy
“khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” phải được xem là
nhiệm vụ chiến lược để khơi dậy sức mạnh nội sinh của dân tộc trong giai đoạn cách mạng
hiện nay. Để xác định đúng vị trí và vai trò của văn hóa, cần thiết phải nhận thức sâu sắc
11
quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa. Năm 1943 Người nêu lên quan niệm tổng quát về
văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra, Người viết:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Quan niệm tổng quát của Hồ Chí Minh về văn hóa cho
thấy, văn hóa không chỉ là lĩnh vực tinh thần, văn hóa chính là đời sống lao động sáng tạo
gắn với phương thức tổ chức đời sống của xã hội loài người, văn hóa vừa là nhân tố bản chất
bên trong vừa là kết quả trực tiếp của quá trình phát triển con người, của nền sản xuất xã hội
và của các hình thức tổ chức tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, của xã hội loài người.
Hay nói một cách khái quát, văn hóa là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Có thể chính vì vậy mà cách đây 7 thập kỷ, từ những ngày đầu cách mạng mới thành
công, Hồ Chí Minh đã nói đến nguyên lý “Văn hoá soi đường quốc dân đi”. Rõ ràng Người
đã xác định rất sâu sắc vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Ngoài nghĩa
tổng quát về văn hóa, Hồ Chí Minh cũng nói về văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị tinh
thần: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là
quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc
thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945); hoặc theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là
trình độ học vấn của con người, Người yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù
chữ”...Có thể thấy nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp về văn hóa trong quan niệm của Hồ Chí Ninh
cũng nằng trong quan niệm phổ quát của Người về văn hóa. Đảng ta kế thừa và phát triển
quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, đưa ra quan điểm: “Văn hóa là nhu cầu thiết
yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản
xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”. Nghị quyết Trung ương
9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước” đã nhấn mạnh “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hô ̣i, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt
ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Tiếp tục phát triển các quan điểm trước đây về
phát triển văn hóa, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Như vậy, quan niệm của Đảng ta về văn hóa cũng khảng định
12
“Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần”, nhưng đồng thời khẳng định vai trò
của văn hóa “là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người”, “ là lĩnh vực sản xuất tinh thần,
tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”, “là nền tảng tinh thần của xã hội, sức
mạnh nội sinh”, “là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời chỉ rõ vị trí
của văn hóa - “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Ở đây có
thể nêu lên hai nhận xét: Thứ nhất, Đảng ta vẫn xếp văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, và do
đó vai trò của văn hóa chủ yếu thuộc lĩnh vực tinh thần. Thứ hai, mặt khác, khi khẳng định
văn hóa “là sức mạnh nội sinh” của sự phát triển, và “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội ”, đã cho thấy trên thực tế vị trí và vai trò của văn hóa chưa được
nhận thức và coi trọng đúng mức, văn hóa chưa được tiếp cận là nội dung mang tính bản
chất, hữu cơ của chính các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, vẫn còn được coi là yếu tố “bên
ngoài, bên cạnh” tác động qua lại với các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
3.2. Vận dụng động học xã hội.
Giai đoạn thần học.
A.Comte cho rằng, đặc điểm của giai đoạn thần học là “tư tưởng con người, tìm kiếm bản
chất thiết yếu của sự tồn tại, nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng (nguồn gốc và mục
đích) của tất cả các hiện tượng-có nghĩa là, tìm kiếm tri thức tuyệt đối, bằng cách giả định
rằng tất cả các hiện tượng được tạo ra bởi những hành động của đấng siêu nhiên”. Con người
trong thời điểm ấy đã rơi vào một vòng luẩn quẩn “giữa sự cần thiết phải quan sát các sự
kiện để hình thành một lý thuyết và sự cần thiết phải có một lý thuyết để quan sát các sự
kiện. Cho nên tự trong bản chất của sự hiểu biết của mình đã buộc con người nguyên thuỷ
bắt đầu với hệ thống thần học để có thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn giữa thực tế và lý thuyết
chỉ bằng cách tạo ra các giả thuyết đó là thần thoại để giải thích vũ trụ.
Giai đoạn siêu hình.
A.Comte cho rằng: “Giai đoan siêu hình chỉ là một biến tướng của giai đoạn thần học, tư
tưởng tin rằng, thay vì vin vào một đấng siêu nhiên, thì lại vin vào sức mạnh trừu tượng, các
thực thể thật (nghĩa là, trừu tượng được nhân vị hoá hay còn gọi là siêu nghiệm) vốn có
trong mọi tồn tại, có khả năng sản sinh ra mọi hiện tượng. Những gì được gọi là giải thích
các hiện tượng thì, trong giai đoạn này, chỉ là gán cho nó một thực thể tương ứng với nó”.
Giai đoạn thực chứng
Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại,mục đích cuối cùng là
nhằm tái thiết một trật tự xã hội ổn định và phát triển. A. Comte cho rằng: “Trong giai đoạn
thực chứng, tư tưởng con người đã từ bỏ việc sau khi tìm kiếm một cách vô ích các khái
niệm tuyệt đối, về nguyên nhân đầu tiên và mục đích cuối cùng của vũ trụ hay những
nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng, mà chỉ chú tâm vào chính những hiện tượng đó để
nghiên cứu về những quy luật của chúng -đó là những tương quan bất biến giữa chúng”
13
Kết luận.
Quan điểm của A. Comte về sự phát triển của tư tưởng nhân loại trải qua ba giai đoạn tồn tại
như là một quy luật, do đó ông gọi nó là quy luật về ba giai đoạn. A.Comte tin rằng không
có gì ngẫu nhiên trong lịch sử, tất cả mọi thứ đều theo một thiết kế đã được định trước nhất
định, nó được tiến hoá từ một tổ chức trước đó. Ông còn chỉ ra quy luật này nó hiện diện
trong từng cá nhân cho đến cộng đồng và ở hầu khắp mọi lĩnh vực của tri thức con người,
trong mỗi khoa học, kể cả triết học, thậm chí nó “cũng ứng nghiệm cả trong lĩnh vực chính
trị”. Tóm lại, động học xã hội tập trung vào phân tích quá trình phát triển của lịch sử xã hội
và nhấn mạnh vai trò của hệ thống văn hóa (đạo đức, tinh thần và tri thức) quy định sự phát
triển của hệ thống xã hội và cấu trúc xã hội.
Ở Việt Nam.
Dưới nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, con người Việt Nam sống với một niềm tin rằng mình
là con Rồng cháu Tiên, do Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ sinh được 100 người con trai, 50
người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông (Lạc Việt), 50 người theo mẹ về núi
(Âu Việt), sau đó An Dương Vương thống nhất 2 bộ tộc gọi là Âu-Lạc. Cư dân Văn Lang-
Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên, một tập quán chung, Trong
quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai để hình thành lãnh thổ chung,
quốc gia thống nhất đầu tiên được mở rộng dần từ Văn Lang sang Âu Lạc, là sự biểu hiện
thắng thế của xu hướng tư tưởng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp so với tư tưởng phân hóa,
cục bộ trong các cộng đồng cư dân bấy giờ trước yêu cầu của đất nước (làm thuỷ lợi để phát
triển nông nghiệp và chống ngoại xâm). Điều đó cũng nói lên bước tiến bộ, phát triển về mặt
tư tưởng, tư duy của cư dân Văn Lang-Âu Lạc. Nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc trải qua
một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh
tiếp theo của dân tộc.
Lúc đầu chỉ là những yếu tố tự nhiên nguyên thuỷ thô sơ về duy vật và biện chứng, tư tưởng
người Việt trộn lẫn với tín ngưỡng. Tuy nhiên, xuất phát từ gốc văn hóa nông nghiệp, khác
với gốc văn hoá du mục ở chỗ trọng tĩnh hơn động, lại có liên quan nhiều với các hiện tượng
tự nhiên, tư tưởng triết học Việt Nam đặc biệt chú tâm đến các mối quan hệ mà sản phẩm
điển hình là thuyết âm dương ngũ hành (không hoàn toàn giống Trung Quốc) và biểu hiện cụ
thể rõ nhất là lối sống quân bình hướng tới sự hài hoà. Sau đó, chịu nhiều ảnh hưởng tư
tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo được dung hợp và Việt hoá đã góp phần vào sự
phát triển của xã hội và văn hoá Việt Nam. Đặc biệt các nhà Thiền học đời Trần đã suy nghĩ
và kiến giải hầu hết các vấn đề triết học mà Phật giáo đặt ra (Tâm-Phật, Không-Có, Sống-
Chết...) một cách độc đáo, riêng biệt. Họ tiếp nhận cả tinh thần Phật giáo, Lão-Trang nên tư
tưởng họ có phần thanh thoát, phóng khoáng, gần gũi nhân dân và hoà với thiên nhiên hơn.
Ở các triều đại chuyên chế quan liêu, tư tưởng phong kiến nặng nề đè nén nông dân và trói
14
buộc phụ nữ, nhưng nếp dân chủ làng mạc, tính cộng đồng nguyên thuỷ vẫn tồn tại trên cơ
sở kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc.
Thế kỷ 19, phong kiến trong nước suy tàn, văn minh Trung Hoa suy thoái, thì văn hoá
phương Tây bắt đầu xâm nhập Việt Nam theo nòng súng thực dân. Tư tưởng Mác-Lênin
được du nhập vào Việt Nam những năm 20-30 kết hợp với chủ nghĩa yêu nước trở thành
động lực biến đổi lịch sử đưa đất nước tiến lên độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xã hội
nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã
tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy lưỡng hợp, một cách
tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm,
nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Đó là một lối sống nặng tình
nghĩa, đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước (vì nước mất nhà tan, lụt thì lút cả làng). Đó
là một cách hành động theo xu hướng giải quyết dung hoà, quân bình, dựa dẫm các mối
quan hệ, đồng thời cũng khôn khéo giỏi ứng biến đã từng nhiều lần biết lấy nhu thắng
cương, lấy yếu chống mạnh trong lịch sử. Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn
phải làm các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hoá nổi bật: tư
tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc
nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức
dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội
Việt Nam có tính bất thường.
Ngày này, sự phát triển của khoa học, con người cũng đã dần loại bỏ một số niềm tin vào
các thế lực siêu nhiên, thần linh, ma quỷ... mà đặt niềm tin nhiều hơn vào những khoa học đã
được kiểm chứng nhưng đâu đó những tin ngưỡng, tôn giáo đã ăn sâu vào con người vẫn
không thể xóa bỏ. Văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo là đời sống tinh thần, là bản sắc của mỗi
một quốc gia, dân tộc vì vậy mà đến nay con người vẫn cố gắng duy trì . Đến ngày này,
trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất vẫn là tục thờ cúng tổ tiên, gần như trở
thành một thứ tôn giáo của người Việt Nam. Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn
ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả
nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng . Cả nước thờ
vua tổ, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng)... Bên cạnh đó cũng có những trường hợp mê
tín, dị đoan, tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống.
Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa
mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định.
Nhưng đứng trước thời kì hiện đại, tiên tiến và đang phát triển không ngừng chắc chắn con
người phải tính táo trong những nét văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của mình. Gìn giữ và duy
trì những nét truyền thống đẹp và phù hợp với thời kì hiện đại và loại bỏ dần những nét văn
hóa, truyền thống đã lỗi thời không còn phù hợp bằng cách không ngừng học tập, mở mang
15
tri thức, tìm tòi thông tin về xã hội xung quanh từ đó tiếp thu và đào thải có chọn lọc những
nét văn hóa, tín ngưỡng truyền thống mới và cũ
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Giáo trình “Các Lý Thuyết Xã Hội Học”, Vũ Hào Quang, NXB Đại Học Quốc gia Hà
Nội.
(2) Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Bộ GD&ĐT, 2019.
(3) “Hỏi & đáp Xã Hội Học đại cương (Xã Hội Học)”, Lưu Hồng Minh, NXB Chính Trị
- Hành Chính.
(4) “Auguste Comte”, Harry Elmer Barnes và Ronald Fletcher, Britannica.
(5) “Biography of Auguste Comte’’, Ashley Crossman, 8/7/2019, Thoughtco.
(6) “Auguste Comte”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
(7) “The Contribution of Auguste Comte to Sociology”, Shubhi, sociologygroup.com.