You are on page 1of 6

Phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Lớp trưởng : Trịnh Thanh Trúc


Bài làm
Sinh thời nhà văn Nam Cao từng quan niệm : “ Một tác phẩm có giá trị
phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn . Nó ca tụng lòng thương tình bác ái
sự công bằng , nó làm cho người gần người hơn ” . Quả thật đọc một tác phẩm
văn chương đích thực người đọc không chỉ được sống với nhiều cuộc đời mà
còn được nuôi dưỡng bồi dưỡng thêm về tâm hồn nhân cách để vươn lên một lẽ
sống cao đẹp . Và truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài là một tác
phẩm như thế . Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm
của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là
một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy
đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng
mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại , Tô Hoài được biết đến là một
nhà văn lớn . Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều
vùng miền khác nhau trên đất nước ta . Ông luôn cố gắng tìm tòi , khám phá
trong sáng tạo nghệ thuật đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự
hấp dẫn , sức sống và ý nghĩa lâu bền ở các tác phẩm của ông đối với đời sống
tinh thần của nhiều thế hệ . Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm
viết về hiện thực cuộc sống con người Tây Bắc mà đặc biệt nhất là truyện ngắn
“ Vợ chồng A Phủ ” .
Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm
1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về
cuộc sống tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài , phần sau kể về Mị và A Phủ
ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng. Được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A
Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn
trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm. Trong tác phẩm này,
diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân được xem là ấn tượng
nhất – thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tô Hoài trong việc miêu tả tâm
lý nhân vật. Lớp trưởng : Trịnh Thanh Trúc
Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp:
Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị,
nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng
Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc
sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ. Mị tài hoa với điệu sáo
làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu
lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha
già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố
đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của
người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát
giữa rừng . Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của
bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc
đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã
biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và
một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm
tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa
xuân đến trên đất Hồng Ngài. Đúng như Tô Hoài nhận định “Kỳ lạ thay, dẫu
trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không tiêu diệt được
sức sống con người. Đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm
tàng mãnh liệt”. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết
nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang
bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình
mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi
dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng
cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của
những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc
sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài
đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám
tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Pau-top-xky từng nói: “Chi tiết là hạt bụi
vàng của tác phẩm”. Tô Hoài cũng đã tạo nên được những hạt bụi vàng lấp lánh
của tác phẩm, và tiếng sáo gọi bạn tình chính là hạt bụi vàng ấy. Tiếng sáo được
Tô Hoài miêu tả song hành với tâm trạng Mị. Lúc ở xa thì “lấp ló” ngoài đầu
núi, khi ở gần thì “lửng lơ bay ngoài đường”, gần hơn là lúc nó “rập rờn” trong
đầu Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ nghệ thuật được Tô Hoài khắc hoạ như một hình
tượng. Tiếng sáo là hiện thân của Mị – hiện thân của tuổi trẻ, khát vọng, tự do –
hiện thân của ký ức tươi đẹp, của những ngày còn xuân khi chưa bị bắt vào nhà
thống lý. Tiếng sáo bay xa, vang vọng làm sống lại ký ức của một thời tuổi trẻ
lắm mộng mơ, giàu khát vọng. Có lẽ chính vì vậy mà khi tiếng sáo vọng về, Mị
không chỉ cảm nhận tiếng sáo bằng thính giác mà còn cảm nhận nó bằng cả tâm
hồn: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Mị như đang lắng nghe từng
lời tha thiết trong tiếng sáo, cảm nhận được sự “bổi hổi – thiết tha” trong từng
âm vang của tiếng sáo, cũng như cảm nhận được tấm lòng, tâm hồn của người
đang thổi.Hay đó chính là nhịp đập trái tim Mị cũng như đang thổn thức rung
động theo từng giai âm của tiếng sáo. Rồi cứ thế đôi môi từng thổi sáo, thổi lá
ấy bắt đầu “nhẩm thầm lời người đang thổi sáo”:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Điệu sáo ấy lâu rồi Mị không thổi nữa, bài hát ấy lâu rồi Mị
cũng không hát nữa. Nhưng Mị vẫn thuộc, vẫn nhớ – nghĩa là Mị không hoàn
toàn vô cảm. Tiếng sáo ấy đã thức dậy cả mùa xuân trong Mị, thức dậy cả ký ức
xa xôi những ngày xuân đến. Điều ấy làm ta chợt nhớ đến một anh Chí bâng
khuâng tỉnh dậy sau một cơn say dài bởi tiếng “chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng mấy bà đi chợ bán
vải về”. Chính những vang vọng của cuộc sống đánh thức những con người vốn
bị lãng quên trong tận cùng của đau khổ. Mị cũng như anh Chí kia quả thật đã
tỉnh giấc sau một cơn mê dài . Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi
cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính” và Mị tìm đến
rượu . Xưa nay, các nhân vật văn học uống rượu cũng không phải là ít. Một Chí
Phèo say tỉnh bao phen, một Hồ Xuân Hương luẩn quẩn trong “chén rượu
hương đưa say lại tỉnh”. Rượu – một khi không đủ sức làm lu mờ lí trí của con
người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí của con người. Mị – phải
chăng cũng là nhân vật được rượu thức tỉnh? Mị muốn say cho quên hết hiện tại
như muốn mượn rượu để uống hết đắng cay, uất hận vào lòng – “uống ực từng
bát”. Nhưng muốn uống cho say mà lại tỉnh, tỉnh rồi lại say, nhớ và quên. Hai
thế giới say tỉnh, nhớ quên ấy vừa làm Mị hạnh phúc vừa làm Mị tủi nhục, đắng
cay. Có thể nói, tiếng sáo và men rượu làm Mị sống lại những ký ức đẹp tươi
nhưng cũng chính men rượu và men tình từ tiếng sáo càng tô đậm thêm hiện tại
đầy bi kịch của Mị.
Ám ảnh nhất trong truyện ngắn Vợ chồng Aphủ có lẽ là hình ảnh “ô
cửa lỗ vuông bằng bàn tay”. Đó là hình ảnh gián tiếp miêu tả cuộc sống địa
ngục trần gian của Mị. Ngoài ô cửa ấy là thiên đường mùa xuân, tình yêu, tự do
đang vẫy gọi. Còn phía sau bức tường ấy Mị đang bị cầm tù tuổi trẻ và tình yêu,
hạnh phúc. Mị không còn ý thức được thời gian “không nhớ vào nhà thống lý
Pá Tra đã bao nhiêu năm” , Mị cũng mất hết ý niệm về không gian “không biết
sương hay là nắng”. Giữa thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau có một bàn
tay, vậy mà cuối cùng Mị cũng không thể nào thoát ra được. Bằng tài năng quan
sát và năng lực miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo – Tô Hoài đã làm người đọc xúc
động mãnh liệt trước những chuyển biến tâm lý giàu cung bậc cảm xúc ở Mị.
Vẫn cái quán tính ngồi xuống giường và nhìn ra ô cửa lỗ vuông. Nhưng trong
cái nhìn khắc khoải, đau đáu của Mị hôm nay, người đọc thấy ẩn sâu đằng sau
đôi mắt ấy là cả một khát vọng mãnh liệt – khát vọng TỰ DO. Mị đang sống về
ngày trước “đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng
như những đêm tết ngày trước”. Từ láy “phơi phới” kết hợp với phép so sánh
“như những đêm tết ngày trước” đã miêu tả thật chân thật niềm háo hức say mê
của Mị khi tìm lại được quãng đời thanh xuân đã mất của mình. Mị cũng nhận
ra rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Điệp ngữ “trẻ lắm” rồi lại “còn trẻ” tạo
nên nhịp điệu gấp gáp, dồn dập cho thấy trong lời độc thoại nội tâm của Mị là
nỗi mừng vui, hạnh phúc của Mị khi ý thức được giá trị bản thân mình. Mị chợt
thốt lên “Mị muốn đi chơi”. Lớp trưởng : Trịnh Thanh Trúc
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là
một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người
chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam
hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”.
Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui
sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người
mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu
chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm
lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ
không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi
đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết
Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu
hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại
cay đắng này.
Đúng lúc Mị tuyệt vọng thì tiếng sáo lại đến “tiếng sáo gọi bạn
yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Sáo nâng hồn Mị, kéo Mị dậy, nhấc bổng Mị
lên để thăng hoa cùng khát vọng tự do. Ở đoạn văn tiếp theo, Tô Hoài chủ yếu
miêu tả hành động của Mị. Mị thắp lên ngọn đèn trong căn phòng tăm tối như
thắp lên cả cuộc đời mình. Khoảnh khắc ngọn đèn được sáng lên cũng là
khoảnh khắc tâm hồn Mị như bùng cháy. Mị thoát ra khỏi thực tại, tâm hồn Mị
“đang rập rờn tiếng sáo”. Khát vọng tự do lại trỗi dậy “Mị muốn đi chơi. Mị
cũng sắp đi chơi”. Hành động của Mị cũng trở nên gấp gáp hơn, mãnh liệt hơn
“Mị cuốn lại tóc , Mị với tay lấy cái váy hoa , Mị rút thêm cái áo”. Hàng loạt
động từ được Tô Hoài huy động để tả hành động: đến, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn,
với, lấy, rút… đã diễn tả được sự quyết liệt cũng như lòng yêu tự do đang hối
thúc bên trong Mị. Mị quên đi sự hiện diện của A Sử. Nói đúng hơn khát vọng
tự do trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. A Sử hỏi, Mị không nghe, A Sử
trói, Mị không biết. Thể xác của Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo còn
linh hồn Mị thì đã ở ngoài kia – nơi thiên đường mùa xuân đang vẫy gọi.
Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả hành động Mị – “Mị vùng bước đi”.
Thực chất hành động này là sự tác động của tiếng sáo. Sức níu gọi của tiếng
sáo, men tình từ tiếng sáo tha thiết quá. Nó đã làm Mị quên đi thực tại ê chề, tủi
nhục của bản thân. Tiếng sáo đưa Mị vượt qua bốn bức tường lạnh lẽo để dạo
chơi trong thế giới của tự do. Khát vọng sống, khát vọng tự do làm Mị quên đi
nỗi đau thể xác hay nói đúng hơn sức mạnh tinh thần trong Mị đã chiến thắng
nỗi đau về thể xác.Chi tiết “Mị vùng bước đi” đã minh chứng được sức sống
mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Đó không còn là cô Mị vẫn “cúi mặt mặt buồn rười
rượi” nữa mà đã là một cô Mị giàu năng lượng sống. “Mị vùng bước đi” nghĩa
là Mị không sống trong thực tại, Mị đang sống trong men tình, trong những giai
âm tiếng sáo gọi bạn yêu. Tâm hồn ấy đang đến với tự do, đang tràn trề nỗi yêu
đương của tuổi trẻ. Lớp trưởng : Trịnh Thanh Trúc
Nhưng cũng chính tiếng sáo cũng làm cho Mị ý thức sâu sắc hơn về
thực tại. Khi “Mị vùng bước đi” sự đau nhức của thể xác đưa Mị về với hiện tại.
Tiếng sáo vụt mất rồi chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách. Âm thanh của tiếng
chân ngựa là âm thanh của hiện thực, âm thanh của tiếng sáo là âm thanh của
giấc mộng. Hiện thực đập vỡ giấc mộng của Mị làm tiếng sáo vụt tan biến đưa
Mị từ thiên đường trở lại địa ngục để thổn thức nhận ra rằng “mình không bằng
con ngựa”. Cuối đoạn văn Tô Hoài để lại một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa
to lớn. . Đó chính là chi tiết Mị nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể, đời trước ở
nhà thống lý có một người trói vợ rồi bỏ đi chơi ba ngày, khi trở về thì vợ chết
rồi. Nghĩ thế, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết. Mị đã từng muốn chết,
bây giờ lại sợ chết. Sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống.
Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát
khỏi cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc
tươi đẹp của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một
thử thách khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng
định một chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng
nó không chết mà luôn âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như
Lỗ Tấn đã từng nói: “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”.
Hành động của Mị tuy bột phát nhưng sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở
phía trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật
đặc sắc. Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn
biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm tình mùa xuân. Nghệ thuật trần
thuật uyển chuyển, linh hoạt, cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy
ấn tượng , kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài miêu tả thiên
nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ sinh động,
chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn
đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn , cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân
vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
Trang sách khép lại nhưng trong tâm trí người đọc vẫn còn xao
xuyến với hình ảnh cô Mị vẫn nghe thoáng đâu đó tiếng sáo . Và như Tô Hoài
từng tâm sự : Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là
đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi quá nhiều . Tôi
không thể quên lúc vợ chồng A Phủ đã tiễn tôi đến cái hốc núi Tà Sùa rồi cùng
vẫy tay gọi theo “ chào hì ! Chào hì ” ( trở lại ! Trở lại ) . Có lẽ đây chính là lí
do mà Vợ chồng A Phủ trở thành kiệt tác của Tô Hoài , tác phẩm giống như lời
tri ân dành cho mảnh đất và con người nơi đây đồng thời là tiếng nói bênh vực
cho cuộc đời con người ngợi ca những phẩm chất lấp lánh giữa hiện thực bất
công.
Lớp trưởng : Trịnh Thanh Trúc

You might also like