You are on page 1of 51

MỤC LỤC

1, Khấu hao vừa là chi phí vừa là chi của doanh nghiệp
1*, VAT vừa là doanh thu vừa là chi phí của DN
2,Doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho càng cao thì càng tốt
3, Trong đầu tư rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn( đây phải là lợi nhuận kì vọng
thì mới đúng)
4, Vai trò duy nhất của lợi nhuận giữ lại là để tiền tái đầu tư, mở rộng sản xuất
(CHƯA CÓ ĐÁP ÁN)
5, Đối với DN, càng hạn chế rủi ro, lợi nhuận càng giảm”. Phân tích những điều kiện
để hạn chế rủi ro của doanh nghiệp ?
6, Bình luận “phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn”
8, Một doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ cao chắc chắn sẽ đảm bảo chi trả tốt
10, Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, tỷ trọng nợ càng lớn thì ROE càng lớn”
9, Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính quan trọng nhất
11, Mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hóa lợi nhuận
12, Một DN có lợi nhuận cao vẫn có thể bị phá sản
13, NH cho DN vay khi DN có tình hình tài chính tốt
13* Câu hỏi: nêu ưu nhược điểm của IRR và NPV
7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí nợ vay. Bình luận
ý kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành
cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn?
8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận ý kiến
trên và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay?

MỘT SỐ CÂU HỎI SO SÁNH, PHÂN TÍCH

1, Hãy phân tích các điều kiện mà DN phải đáp ứng khi phát hành trái phiếu để huy
động vốn
2, So sánh tín dụng NH với phát hành trái phiếu để huy động nợ
3. So sánh phát hành trái phiếu để huy động vốn với phát hành cổ phiếu thường để
huy động vốn
4. Đánh giá ưu, nhược điểm của từng kênh huy động vốn của DN. Với mỗi kênh huy
động vốn hãy liên hệ với thực tiễn VN, nhận xét
5: So sánh hình thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu
ưu đãi
6.Phân biệt vốn tự có, vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, vốn pháp định của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nào doanh nghiệp nên huy động nhiều vốn chủ sở hữu?

1
7 Hãy phân biệt doanh thu, chi phí với thu, chi cuả DN. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
thu, chi trong quản trị tài chính doanh nghiệp ( CHỖ NÀY CÓ 2 CÂU BỔ SUNG VỚI
NHAU)
8, Hãy phân biệt báo cáo kết quả kinh doanh và ngân quỹ của DN
10. Phân biệt cổ phiếu với trái phiếu trên giác độ doanh nghiệp. Hãy bình luận ý kiến
“Phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn đối với DN”
11. Nguyên tắc quản lý tài chính của doanh nghiệp. Liên hệ thực tiễn VN
14 So sánh mô hình đặt hàng hiệu quả EOQ và dự trữ bằng 0 củ TOYOTA
2. Nêu một ví dụ thực tế về nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản lý tài
chính doanh nghiệp? Cho biết tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quản lý
tài chính?
9. Trình bày nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản trị tài chính doanh
nghiệp. Đưa ra ví dụ minh họa?
9. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí vốn và tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong
đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư.
11. Sử dụng nợ luôn bất lợi cho DN?
13. Trình bày mối liên hệ giữa các bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp
16. Trả cổ tức bằng tiền tốt or không? Chính sách cổ tức
17. Việc tăng thuế TNDN trong khi các yếu tố khác ko đổi chắc chắn làm giảm tỷ
lệ nợ trong cơ cấu vốn
19. Đòn bẩy tài chính tạo ra rủi ro tài chính. Tại sao các nhà quản trị không loại
bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt động kinh doanh bằng vốn cổ phần,
tránh sử dụng Nợ vay?
20. Tại sao nói đòn bẩy kinh doanh là đòn bẩy giai đoạn đầu, đòn bẩy tài chính là
đòn bẩy giai đoạn sau?
14. Khả năng thanh toán của DN được pt ntn thông qua các BCTC? Nhận xét về
tình hình pt TC của các doanh nghiệp VN hiện tại.

2
1, Khấu hao vừa là chi phí vừa là chi của doanh nghiệp

Khấu hao là việc định giá, tính toán, phân bổ một cách có hệ thống giá trị của tài sản
do sự hao mòn tài sản sau một khoảng thời gian sử dụng. Khấu hao tài sản cố
định được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong suốt thời gian sử dụng tài sản
cố định. Khấu hao tài sản cố định liên quan đến việc hao mòn tài sản, đó là sự giảm
dần về giá trị và giá trị sử dụng do tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, do
hao mòn tự nhiên hoặc do tiến bộ khoa học công nghệ.

Khấu hao là chi phí số tiền đã thực chi bỏ ra lúc mua tài sản cố định nếu đưa hết giá
trị vào chi phí tại thời điểm đó thì nó ko phản ảnh hết được bản chất ý nghĩa của giá
trị sử dụng của tài sản vì tài sản nó có tuổi sử dụng và vòng đời của nó sẽ được trích
khấu hao phân bổ dần giá trị TSCD vào sản phẩm để tính chi phí giá thành , hoặc chi
phí kinh doanh mà không thực sự là chi ra một khoản tiền để chi trả và khoản chi phí
này không hiện hữu bằng tiền mặt thực chi nên ko thể gọi là xuất quỹ được. và nó
được phân bổ cho đến hết vòng đời của tài sản khi ko còn sử dụng được nữa thì giá
trị khấu hao hay vòng đời của nó sẽ kết thúc chi phí trên sẽ ko được đưa vào chi phí
hợp lý để giảm 25% thuế TNDN nữa

1*, VAT vừa là doanh thu vừa là chi phí của DN

VAT là thuế gián thu. Người đóng thuế và người nộp thuế không cùng là một và đây
là loại thuế chỉ đánh vào người tiêu dùng cuối nên nó là chi phí của doanh nghiệp khi
doanh nghiệp là người tiêu dùng cuối cùng. Còn khi doanh nghiệp không phải là
người tiêu dùng cuối cùng thì VATcpn = VAT thu hộ - VAT nộp hộ. Khi VATcpn > 0
theo luật tthì doanh nghiêp phải nộp vào quý sau nhưng trong thực tế doanh nghiệp
có thể chiếm dụng số VAT đó để đi đầu tư thu lợi nhuận nên đó là doanh thu của
doanh nghiệp. Khi VATcpn < 0 thì đó là chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy phải căn cứ
vào từng trường hợp cụ thể mới có thể kết luận chính xác được.

2,Doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho càng cao thì càng tốt

Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng
lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ
quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc
3
độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành
nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.

Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro
hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua các
năm.

Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng dự
trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả
năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn
nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể
khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần
phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.

3, Trong đầu tư rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn( đây phải là lợi nhuận kì
vọng thì mới đúng)

Lợi nhuận thực tế phàn ánh kết quả hoạt động kinh doanh đã thực hiện,trong khi
đó,lợi nhuận kỳ vọng cho biết mong đợi của nhà đầu tư về lợi nhuận trong tương lai.

Rủi ro là một xác suất, một khả năng xảy ra tổn thất đối với nhà đầu tư hay doanh
nghiệp. Khi xảy ra,các tổn thất này sẽ làm cho lợi nhuận thực tế khác xa so với lợi
nhuận kỳ vọng

DN có thể lựa chọn những phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh khác nhau tùy
thuộc mức độ rủi ro mà họ chấp nhận và lợi nhuận kỳ vọng mà họ mong muốn.Khi bỏ
tiền vào những dự án có mức độ rủi ro cao,họ hy vọng dự án đó đem lại lợi nhuận kỳ
vọng cao.

Nhưng chấp nhận rủi ro cao hoàn toàn không đảm bảo rằng sẽ có được lợi nhuận
thực tế trong tương lai cao. Chấp nhận rủi ro cao là điều kiện cần, chứ hoàn toàn
không phải điều kiện đủ để có được lợi nhuận thực tế cao. Lợi nhuận thực tế cao hay
thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.

Do đó phải phát biểu là đối với Dn,rủi ro càng cao thì lợi nhuận kì vọng sẽ cao

4, Vai trò duy nhất của lợi nhuận giữ lại là để tiền tái đầu tư, mở rộng sản xuất

5, Đối với DN, càng hạn chế rủi ro, lợi nhuận càng giảm”. Phân tích những điều
kiện để hạn chế rủi ro của doanh nghiệp ?

Rủi ro chỉ phát sinh khi có sự không chắc chắn về mất mát xảy ra. Điều này có nghĩa
là nếu xác suất mất mát là 0 hoặc 1 thì không có rủi ro hay tóm lại rủi ro là nguy cơ
4
xảy ra tổn thất. Vậy việc doanh nghiệp hạn chế rủi ro không có nghĩa là doanh nghiệp
hạn chế lợi nhuận của mình, mà hạn chế rủi cũng chính là việc doanh nghiệp hạn chế
những tổn thất cho doanh nghiệp mình.

Ví dụ: Một ngân hàng cho vay nợ, và khi ngân hàng cho vay một khoản tiền càng lớn
với khoảng thời gian càng dài thì ngân hàng sẽ được hưởng lãi suất càng cao. Tuy
nhiên việc ngân hàng cho vay khoản tiền lớn với thời gian dài cũng đồng nghĩa với
việc ngân hàng đang mạo hiểm chấp nhận rủi ro, đó là khả năng không đòi được nợ.
Vậy việc ngân hàng đưa ra các điều kiện tín dụng như vật bảo đảm, thế chấp hay cân
nhắc tình hình tc của đối tượng cho vay cũng nhằm mục đích hạn chế những khả
năng không đòi được nợ. Chúng ta hãy thử hình dung: nếu ngân hàng không có các
biện pháp phòng ngừa rủi ro thì điều gì sẽ xảy ra, nguy cơ tổn thất cho các khoản cho
vay của ngân hàng càng lớn...→” càng hạn chể rủi ro thì lợi nhuận kỳ vọng càng
giảm”

Những điều kiện hạn chế RR


 RR kinh doanh:  (xuất phát từ tình trạng hoạt động của công ty, có thể sẽ bị sút
giảm lợi nhuận và cổ tức.) xây dựng kế hoạch kinh doanh chi tiết, cụ thể, đa dạng
hóa danh mục dự án đầu tư, trích lập các Quỹ dự phòng (Dự phòng giảm giá HTK,
Dự phòng Nợ phải thu khó đòi…)
 RR thanh toán: có kế hoạch xác định cơ cấu vốn tối ưu, sử dụng Nợ + VCSH hợp
lý, cũng như hợp lý hóa các khoản phải thu, đảm bảo dự trự tiền mặt để DN đủ khả
năng thanh toán
 RR thị trường: (xảy ra khi hàng hóa, dịch vụ không đạt được ưa chuộng như dự
kiến): Điều tra thị trường cẩn trọng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
 RR đạo đức: Có chế độ đãi ngộ hợp lý với nhân viên, cán bộ, chế độ chia trả cổ tức
hợp lý, quy định rõ ràng về quyền hạn và nghĩa vụ của cá nhân khi tham gia vào DN
6, Bình luận “phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn”
(trình bày ưu, nhược điểm của phát hành cổ phiếu)
Ngoài những ưu điểm của Cp: Dn có thể huy động vốn mà ko phải bắt buộc trả lãi
suất nhất định, tùy vào tình hình kinh doanh và chính sách của DN mà có phương án
chia cổ tức hợp lý
Thì Nhược điểm của hình thức này là
 nếu huy động vốn qua TTCK liên tục thì EPS (earning per share) sẽ ngày càng bị
chia nhỏ, do đó áp lực trả cổ tức hợp lý trên 1 cổ phiếu là rất lớn. Nếu ko hợp lý cổ
đông sẽ ko tin tưởng vào khả năng của DN và bán tháo CP đó, làm cho mất tính
thanh khoản và các lần sau sẽ rất khó để huy động vốn.
 Một nhược điểm khác khi huy động vốn bẳng cách phát hành cổ phiếu là DN phải
thực hiện những điều kiện nhất định như phải công khai tài chính, làm ảnh hưởng
đến các chiến lược kinh doanh khi đối thủ nắm giữ được điều này.
 Ngoài ra nếu so sánh với các hình thức phát hành trái phiếu, thì chi phí vốn chủ sở
hữu lớn hơn chi phí vốn nợ. Vì chi phí này là chi phí sau thuế, tức là phần lãi cổ phần
trả cho cô đông là khoản lợi nhuận sau thuế. Nếu sử dụng hình thức phát hành trái
5
phiếu, DN sẽ tiết kiệm được 1 khoản thuế. Do thứ tự ưu tiên thanh toán nên phần lãi
vay trả cho trái chủ sẽ được thực hiện trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Do những nhược điểm trên của việc phát hành cổ phiếu nên cổ phiếu ko phải luôn là
giải pháp tối ưu để huy động vốn. Tùy từng điều kiện KTXH, điều kiện của Dn, chiến
lược phát triển kinh doanh mà DN lựa chọn cho mình giải pháp tối ưu để huy động
vốn.
8, Một doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ cao chắc chắn sẽ đảm bảo chi trả tốt

Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong kỳ cao thì chưa chắc doanh nghiệp luôn có
khả năng thanh toán tốt trong kì đó vì khả năng thanh toán của một doanh nghiệp
phụ thuộc vào dòng tiền mặt của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận nhiều dưới dạng tài
sản cố định hoặc các dạng tài sản không thể chuyển hóa thành tiền mặt thì khả năng
thanh toán sẽ không tốt

Lợi nhuận= Tổng doanh thu- Tổng chi phí

Doanh thu là tổng giá trị bằng tiền của hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Quá
trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của DN đc coi là hoàn thành khi DN đc chấp nhận trả
tiền của bên mua hàng.

Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí lao động vật hoá và lao động
sống cần thiết mà DN đã phải bỏ ra để thực hiện sán xuất kinh doanh.

Doanh thu đc xác nhận khi DN đc chấp nhận trả tiền mà chưa biết phương án trả tiền
của khách hàng là tiền mặt, thanh toán qua ngân hàng hay sẽ trở thành khoản phải
thu đối với DN, nó quyết định đến dòng tiền nhập quỹ của DN, ảnh hưởng khả năng
thanh toán của DN. Một khi số tiền bán hàng của DN bị khách hàng chiếm dụng chưa
đến thời đ’ thanh toán mà DN cấn xuất 1 khoản tiền để chi trả chi phí phát sinh ngoài
dự tính của DN, làm cho DN mất khả năng thanh toán, nếu số tiền là lớn hoàn toàn
có thể làm DN phá sản. Đặc biệt đvs các ngân hàng, nhu cầu chi trả hàng ngày là rất
lớn, do vậy hệ thống ngân hàng cần đảm bảo đc nhu cầu tiền mặt đẻ đáp ứng nhu
cầu rút tiền của các đối tượng không kì hạn. ngân hàng hầu hết đều làm ăn có lãi trên
sổ sách tuy nhiên vẫn có thể phá sản kho không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền hàng
loạt của khách hàng nhất lá khi có thông tin không tốt đối với ngân hàng

Chi phí chỉ phản ánh được lượng mà dn phải bỏ ra để thực hiện các hđ kinh doanh
tròn thời kì nhất định nó không thể phản ánh chính xác dòng tiền mà dn phải chi trả
trong kì . chi trả trong kì bao gồm chi trả tiền vật tư trong kì , chi trả nợ đén hạn ,trả
trước để có thể mua hàng kì sau… như vậy khoản chi lớn hơn rất nhiều chi phí của
dn, làm giảm lượng tiền mặt trong dn, làm giảm khả năng tự chủ của dn

6
Kết quả của 1 bên là thu thì quá ít và chi thì quá lớn làm thâm hụt ngân quỹ. Có
trường hợp dn có lợi nhuận cao nhưng ngân quỹ lại không thể đáp ứng nhu cầu chi
trả của dn.

10, Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, tỷ trọng nợ càng lớn thì ROE càng
lớn”

Sai. Xét ví dụ sau:

Chỉ tiêu Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B


Nền kinh tế Nền kinh tế Nền kinh tế Nền kinh tế
ổn định suy thoái ổn định suy thoái
Nợ dài hạn / 100tr / 100tr / 100tr 150tr / 50tr 150tr / 50tr
VCSH 100tr
EBIT 30 tr 20 tr 30 tr 20 tr
Lãi vay (lãi suất 12 tr 12 tr 18 tr 18 tr
12%)
LNTT 18 tr 8 tr 12 tr 2 tr
LNST(thuế suất 13,5 tr 6 tr 9 tr 1,5 tr
thuế TNDN =
25%)
ROA = EBIT/TS 15% 10% 15% 10%
ROE = 13,5% 6% 18% 3%
LNST/VCSH

Nhìn vào ví dụ trên, dễ dàng nhận thấy không phải lúc nào dùng nhiều nợ cũng tốt,
công ty B là công ty tích cực sử dụng nợ, trong điều kiện nền kinh tế ổn định, Công ty
B có ROE cao hơn, nhưng trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, công ty B lại có
ROE thấp hơn. (Các bạn tự bịa cho phần phân tích này nó dài hơn một chút nhé
).Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn chủ sỡ hữu đó
là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên nợ được miễn thuế. Tong khi đó thì cổ tức
hay các hình thức thưởng khác cho chủ sỡ hữu phải bị đánh thuế. Trên nguyên tắc
mà nói, nếu chúng ta thay vốn chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ giảm được thuế doanh
nghiệp phải trả, và vì thế tăng giá trị của doanh nghiệp lên Tuy vậy doanh nghiệp
không thể tăng nợ lên mức quá cao so với chủ sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình
trạng tài chánh không lành mạnh, và dẫn đến những rủi ro
Đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử dụng
thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy nhiên,
nếu giai đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền lượng tiền mặt đủ
lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là mặt trái của việc
tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ.
7
Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu nhập
trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập tương lai
của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó, các doanh
nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định thường sử dụng
nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro hơn. Các doanh
nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi nghiệp cũng sử
dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới
với sự không chắc chắn cao có thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm
được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài
trợ bằng vốn cổ phần.

9, Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính quan trọng nhất

Báo cáo tài chính là một hệ thống các số liệu và phân tích cho ta biết tình hình tài sản
và nguồn vốn, luồng tiền và hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính có 4 loại: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính. Mỗi loại báo cáo tài chính có 1 vai
trò riêng hỗ trợ nhau trong quá trình phân tích tài chính do vậy không thể nói
BCKQKD là quan trọng nhất vì

_ BCKQKD cho biết thu nhập, chi phí phát sinh để tính kết quả lãi, lỗ trong 1 kỳ kinh
doanh nhưng lại không phản ánh luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài
trợ, đầu tư bằng tiền của DN trogn từng thời kỳ mà BCLCTT phản ánh cho nên ko
dự đoán được dòng tiền trong tương lai, khả năng thanh toán nợ vay, khả ăng trả lãi
cổ phần bằng tiền và những biến động liên quan tới dòng tiền trong DN và ko phản
ánh dc khả năng thanh toán của DN tại thời điểm nhất định

_ Bảng cân đối kế toán hay còn gọi là báo cáo tình hình hay báo cáo vị thế tài
chính, cho biết tình trạng tài sản của công ty, nợ và vốn cổ đông vào một thời
điểm ấn định, thường là lúc cuối tháng. Đây là một cách để xem xét một công ty
kinh doanh dưới dạng một khối vốn (tài sản) được bố trí dựa trên nguồn của vốn
đó (nợ và vốn cổ đông) cái mà BCKQKD ko thể phản ánh. BCDKT là một ảnh
chụp (tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải được phân tích dựa
trên sự so sánh với các bản cân đối kế toán trước đây và các báo cáo hoạt động
khác.

11, Mục tiêu cuối cùng của DN là tối đa hóa lợi nhuận

Mục tiêu cuối cùng của DN phải là tối đa hóa giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Vì lợi
nhuận: Là khoản tài chính mà doanh nghiệp nhận được sau một chu kỳ hoạt động,
được xác định bằng cách lấy toàn bộ doanh thu trừ cho chi phí. Giá trị công ty là
thước đo về quy mô, về nguồn lực, về sự phát triển của một doanh nghiệp, và được
8
xác định bởi: nguồn lực tài chính, đội ngũ nhân viên, khả năng phát triển trong tương
lai, các phát minh, sáng chế mà họ đang nắm giữ....Vậy tối đa hóa lợi nhuận là mục
tiêu để cho doanh nghiệp thu về một khoản lợi nhuận cao nhất còn tối đa hóa giá trị
công ty là để công ty phát triển theo hướng tốt nhất. Để một doanh nghiệp phát triển
bền vững, nâng cao giá trị của mình thì đương nhiên mục tiêu cao nhất là lợi nhuận
nhưng đó không phải là mục tiêu duy nhất. Và vì lẽ đó, đương nhiên tối đa hóa giá trị
công ty là mục tiêu quan trọng hơn. Kinh doanh, không ai là không muốn lợi nhuận,
tuy nhiên, chỉ chăm chăm vào lợi nhuận sẽ chỉ là lối kinh doanh “mì ăn liền” và không
thích hợp với xu hướng thời đại, để có bước phát triển ổn định thật sự ta phải có
chiến lược lâu dài để nâng cao giá trị doanh nghiệp. Nếu chỉ thiêng về lợi nhuận, và
dựa theo lí thuyết tạo doanh thu cao nhất với mức chi phí nhỏ nhất. Đúng là ở hiện
tại, doanh nghiệp đó sẽ thu về khoản lợi cao nhất đó, nhưng ở tương lai thì sao? Hãy
nhìn vào bài học của Toyota, công ty cũng cố gắng đẩy mạnh doanh thu, và khi
doanh số toàn cầu tăng thì chất lượng đã ko theo kịp, tại thị trường Mỹ, Trung Quốc
và châu Âu, tổng số xe Toyota bị thu hồi xấp xỉ 8 triệu chiếc vì sự cố kĩ thuật ở ga và
phanh. Thương hiệu về chất lượng của Toyota như đứng trước nguy cơ sụp đổ. Rõ
ràng trước đó doanh thu của Toyota đã tăng rất mạnh đấy thôi, nhưng do sự tăng ồ
ạt này đã làm cho công ty không quản lý nỗi chất lượng và dẫn đến sự khủng hoảng
kể trên.Rõ ràng từ những thực tế trên, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nếu không được
xem xét cẩn thận, đi kèm cùng những mục tiêu khác rất có thể sẽ đẩy tình hình
doanh nghiệp vào tình trạng tồi tệ. Để đem đến sự phát triển, chúng ta cần tối đa hóa
giá trị công ty chứ không phải là lợi nhuận. Nghĩa là phải có những biện pháp phát
triển theo hướng lâu dài, lợi nhuận là quan trọng nhưng không là tất cả. lợi nhuận là
quan trong, rất quan trọng, bởi tình hình tài chính mà không ổn định thi doanh nghiệp
không thể vận hành trơn tru guồng máy của mình nhưng để guồng máy đó hoạt động
lâu dài thì lợi nhuận không phải là tất cả. Các hoạt động vạch ra cần phải đặt sự phát
triển dài lâu lên hàng đâu chứ không phải là lợi nhuận.

12, Một DN có lợi nhuận cao vẫn có thể bị phá sản

-DN lâm vào tình trạng phá sản là DN không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Một doanh nghiệp có mức lợi nhuận trong
kỳ cao thì chưa chắc doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán tốt trong kì đó vì khả
năng thanh toán của một doanh nghiệp phụ thuộc vào dòng tiền mặt của doanh
nghiệp. Nếu lợi nhuận nhiều dưới dạng tài sản cố định hoặc các dạng tài sản không
thể chuyển hóa thành tiền mặt thì khả năng thanh toán sẽ không tốt . Nên dù doanh
nghiệp có lợi nhuận cao thì vẫn có thể bị phá sản do tình hình tài chính ko tốt

13, NH cho DN vay khi DN có tình hình tài chính tốt

NH sẽ cho DN vay khi


9
Có mục đích vay vốn hợp pháp

Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết Đối với doanh
nghiệp ,ngân hàng sẽ xem xét tiêu chí này thông qua báo cáo tài chính thể hiện kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp trong ít nhất 1 năm trở lạ

Có phương án, dự án kinh doanh khả thi và hiệu quả Đây là yêu cầu quan trọng đồi
với hồ sơ vay của khách hàng doanh nghiệp.Vì thông qua phương án kinh doanh
,ngân hàng sẽ thẩm định cụ thể hơn về khả năng trả nợ của bạn sau khi dự án kết
thúc.Đa số ngân hàng sẽ yêu cầu vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án tối
thiểu là 30% nhu cầu vốn của dự án. Nếu phương án bạn đưa ra không được ngân
hàng chấp nhận đồng nghĩa với việc sẽ chẳng có khoản vay nào được kí kết

Có tài sản đảm bảo. Có lẽ đây là điều kiện tiên quyết khi ngân hàng xét cho khách
hàng vay. Trên thực tế hầu như bất kì một khoản vay nào cũng đòi hỏi phải có tài sản
đảm bảo. Thứ nhất nó giúp ngân hàng giảm thiểu được ruỉ ro khi KH không trả được
nợ bởi lẽ tài sản đảm bảo lúc nào cũng có giá trị hơn khoản vay rât nhiều. Thứ hai ,
việc thế chấp TSĐB cho ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có trách nhiệm hơn
trong nghĩa vụ trả nợ,doanh nghiệp sẽ không ỷ lại mà phải cố gắng kinh doanh để
hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đúng thời hạn.tuy nhiên để TSĐB được ngân hàng chấp
nhận còn phải qua nhiều bước xem xét khác nhau.

13* Câu hỏi: nêu ưu nhược điểm của IRR và NPV

IRR:

ưu điểm là dễ tính toán vì không phụ thuộc chi phí vốn, rất thuận tiện cho việc so
sánh cơ hội đầu tư vì cho biết khả năng sinh lời dưới dạng %. Ý nghĩa cốt lõi của IRR
là cho nhà đầu tư biết được chi phí sử dụng vốn cao nhất có thể chấp nhận được.
Nếu vượt quá thì kém hiệu quả sử dụng vốn.; đánh giá mức sinh lời của dự án có
tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền; so sánh mức sinh lời của dự án với chi phí
sử dụng vốn; đánh giá khả năngbù đắp chi phí sd vốn của dự án

Nhược điểm của IRR là không được tính toán trên cơ sở chi phí sử dụng vốn do đó
sẽ có thể dẫn tới nhận định sai về khả năng sinh lời của dự án. Nhà đầu tư sẽ không
biết được mình có bao nhiêu tiền trong tay.; không chú trọng đến quy mô vốn đầu tư

NPV:

- có tính tới hiệu quả kt của dự án, tính đến yếu tố thời gian của tiền

10
Cho phép đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra giúp cho việc đánh
giá và lựa chon dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lơi nhuân của DN

Có thể tính được giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư kết hợp bằng cách cộng giá
trị hiện tại thuần của các dự án với nhau

Nhược:

Không phản ánh mức sinh lời của đồng vốn đầu tư

Không cho thấy mối liên hệ giữa mức sinh lời của vốn đầu tư với WACC

Không thể đưa ra các kết luân lựa chon khi các dự án không đồng nhất về mặt thời
gian cũng như xếp hạng ưu tiên khi nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bị giới hạn

PI

Đánhgiá khả năng sinh lời của dự án đầu tư có tinh tói yếu tố thời gian của tiền

Cho thấy mới quan tâm giauc các dự án có số vốn đầu tư khác nhau để thấy đươc
được mức sinh lời giũa các dự án

Trong trường hợp nguồn vốn bị giới han phương pháp này tỏ ra hữu hiêu hơn cả

Nhược:không phản ánh trực tiếp giá trị tăng thêm của dự án đầu tư nên có thể dẫn
đế những quyết định sai lầm

2. Đánh giá dự án: NPV hay IRR

Nói chung, nhìn IRR thì dễ hình dung vì số % cụ thể, nhìn NPV bằng tiền rất khó diễn
dịch. Vì vậy người ta dùng cả 2 cách để đánh giá.

Trước hết nếu xem xét hai chỉ số này trong cùng điều kiện thì tỉ suất hoàn vốn nội bộ
và  giá trị hiện tại thuần đều cho cùng một kết quả. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp
thì IRR lại không hiệu quả bằng NPV trong việc tính toán và chiết khấu dòng tiền.
Hạn chế lớn nhất của IRR cũng chính là ưu điểm của nó: chỉ sử dụng một tỷ lệ chiết
khấu duy nhất để đánh giá tất cả các kế hoạch đầu tư. Mặc dù việc sử dụng một tỉ lệ
chiết khấu duy nhất giúp đơn giản hóa quy trình tính toán, nhưng trong nhiều trường
hợp điều đó lại dẫn đến những sai lệch. Nếu một tiến hành đánh giá hai dự án đầu
tư, cả hai dự án cùng sử dụng chung một tỉ lệ chiết khấu, cùng dòng tiền tương lai,
cùng mức độ rủi ro, và cùng có thời gian thực hiện ngắn, IRR là một cách đánh giá
hiệu quả. Tuy nhiên bản thân tỉ lệ chiết khấu lại là một nhân tố động, nó luôn biến đổi
theo thời gian. Nếu quy ước sử dụng lãi suất trái phiếu chính phủ làm lãi suất chiết
khấu, lãi suất này có thể thay đổi từ 1% đến 20% trong vòng 20 năm, từ đó làm cho tỉ

11
lệ chiết khấu cũng biến động theo. Nếu không có sự điều chỉnh, tức là IRR không tính
đến sự thay đổi của tỉ lệ chiết khấu, phương pháp này sẽ không phù hợp với các dự
án dài hạn.

Một kiểu dự án khác mà việc áp dụng IRR sẽ không hiệu quả đó là các dự án có sự
đan xen của dòng tiền dương và dòng tiền âm. Ví dụ một dự án yêu cầu phải có kinh
phí ban đầu là -50,000USD (dòng tiền âm)  trong năm đầu tiên. Dự án này sẽ tạo ra
115,000 USD (dòng tiền dương) trong năm tiếp theo, sau đó cần tiếp chi phí đầu tư
-66,000USD trong năm thứ 3 vì có sự điều chỉnh lại dự án. Như vậy thì áp dụng một
tỉ lệ IRR duy nhất là không phù hợp.
Một hạn chế nữa trong việc áp dụng IRR là phải biết được tỉ lệ chiết khấu của dự án.
Để tiến hành đánh giá dự án thông qua IRR thì ta phải so sánh nó với tỉ lệ chiết khấu.
Nếu IRR cao hơn tỉ lệ chiết khấu thì dự án là khả thi. Không biết tỉ lệ chiết khấu hoặc
tỉ lệ chiết khấu vì lý do nào đó không thể áp dụng cho dự án thì phương pháp IRR sẽ
không còn giá trị.
Để khắc phục những hạn chế của phương pháp IRR ta có thể sử dụng NPV.
Ưu điểm của việc sử dụng NPV đó là phương pháp này cho phép sử dụng các tỉ lệ
chiết khấu khác nhau mà không dẫn đến sai lệch. Đồng thời cũng không cần phải so
sánh NPV với chỉ số nào khác, nếu như NPV lớn hơn 0 có nghĩa là dự án là khả thi
về mặt tài chính.
Vậy thì tại sao IRR vẫn được sử dụng phổ biến hơn trong việc tính toán phân bổ
nguồn vốn? Có lẽ phương pháp này được ưa thích hơn chỉ vì quy trình tính toán của
nó rất đơn giản. Phương pháp IRR đơn giản hoá dự án thành một con số duy nhất từ
đó nhà quản lý có thể xác định được liệu dự án này có kinh tế, có khả năng đem lại
lợi nhuận hay không. Nhìn chung thì IRR là phương pháp đơn giản nhưng đối với các
dự án dài hạn có dòng tiền khác nhau và tỉ lệ chiết khấu khác nhau, các dự án có
dòng tiền không ổn định, thì IRR không phải là chỉ số tốt mà NPV mới chính là sự lựa
chọn đúng đắn.
Một ví dụ minh hoạ là các dự án giao thông vận tải hoặc khai thác khoáng sản, rõ
ràng là sẽ có IRR thấp hơn các dự án trong lĩnh vực dịch vụ, chẳng hạn dự án mở
một cửa hàng đồ ăn nhanh, trong khi NPV chắc chắc sẽ cao hơn. Tuy nhiên, NPV
cao hơn không có nghĩa là dự án khai thác khoáng sản tốt hơn, vì chắc chắn lượng
vốn ban đầu bỏ ra của dự án này cao hơn dự án trong lĩnh vực dịch vụ rất nhiều. Một
12
lần nữa chúng ta thấy rằng IRR và NPV là những công cụ rất tốt nhưng có những
điều kiện áp dụng nhất định như đã trình bày ở trên. Vì vậy, khi so sánh hiệu quả của
các dự án, cần xem xét bản chất của ngành nghề kinh doanh và chi phí vốn bỏ ra
ban đầu để có những so sánh kết luận chính xác.
3. Kết luận
Khi phân tích đánh giá dự án, cần lưu ý rằng, các chỉ số trên là chỉ tiêu đánh giá tài
chính. Hiện nay, những người làm dự án còn quan tâm đến NPV, IRR Kinh tế. Có
nghĩa là lượng hoá các đại lượng kinh tế để tính hiệu quả của dự án đối với nền kinh
tế. Ví dụ như đầu tư 1 ngôi trường có thể lỗ về mặt tài chính nhưng nếu tính toán các
giá trị kinh tế khác có được từ ngôi trường vào thì NPV kinh tế đáng giá. Hoặc dự án
đầu tư vào một nhà máy công nghiệp chế tạo có lãi về mặt tài chính nhưng lại làm ô
nhiễm môi trường thì NPV kinh tế có thể lại không đáng giá.
Trong nền kinh tế hiện đại, để đảm bảo công bằng và bảo vệ môi trường, xu hướng
chung là tất cả các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế sẽ phải trả cho các tác động
ngoai lai mà họ gây ra với chủ thể khác. Một ví dụ là công cụ kinh tế giấy phép xả
thải. Theo đó, các công ty xả thải phải chịu một khoản chi phí nhất định cho việc làm
ô nhiễm môi trường chung. Tuy nhiên, để đánh giá NPV hay IRR kinh tế, cần các
điều tra xã hôi học và kinh tế rộng lớn, trong đó có xem xét tới các tác động ngoại lai
gây ra bởi các tất cả các chủ thể. Tác giả xin được phân tích và đi sâu về các khái
niệm và ý nghĩa của các chỉ số trên trong một bài viết khác.
7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí
nợ vay. Bình luận ý kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt
Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng
vốn?
Ở Vn hiện nay, thị trường trái phiếu công ty còn quá nhỏ và kém thanh khoản.
Nguyên nhân là hệ thống tài chính doanh nghiệp thiếu các hoạt động đánh giá
tín nhiệm đúng chuẩn và thường xuyên, hệ thống tài chính và giá trị đồng nội tệ
thiếu ổn định, dẫn đến không có đường cong lãi suất làm chuẩn.

Mặt khác, trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với 1 phần vốn nợ của công ty phát hành. Nhà phát hành có
nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng

13
vay. Nếu công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn
đề phá sản của công ty.

Ngược lại, cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với 1 phần vốn cổ phần của công ty phát hành. Thứ nhất, phát
hành cổ phiếu doanh nghiệp không phải chịu gánh nặng nợ nần, không tạo áp
lực với tính thanh khoản của doanh nghiệp. Thứ 2, các chủ đầu tư có thể cung
cấp cho doanh nghiệp những hỗ trợ kinh doanh quan trọng mà daonh nghiệp
không có. Cuối cùng, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp không phải thế chấp tài
sản hay nhờ bảo lãnh bởi vốn huy động là của chủ sở hữu.

=> doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là
phát hành trái phiếu để tăng vốn

8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận
ý kiến trên và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Thực tế, việc sử dụng nợ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giúp
doanh nghiệp có thêm nguồn vốn mạnh hơn trong quá trình đầu tư. Ngoài ra,
đây là một vấn đề mà CFO hoạch định một cấu trúc vốn mục tiêu với những lợi
ích từ tấm chắn thuế. Lãi từ chứng khoán nợ mà một công ty chi trả là một chi
phí được khấu trừ thuế. Khoản khấu trừ thuế của lãi từ chứng khoán nợ làm
tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo lý thuyết cấu trúc vốn của Miller và
Modigliani (MM), một doanh nghiệp nên gia tăng tỷ lệ nợ cho đến khi giá trị hiện
giá của tấm chắn thuế từ lãi vay vừa đủ để bù trừ bằng gia tăng trong hiện giá
của chi phí kiệt quệ tài chính. Vì vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp
phải phân tích và đưa ra mức vay nợ bao nhiêu là có lợi cho doanh nghiệp mình,
tránh trình trạng sử dụng quá nhiều nợ sẽ dẫn đến chi phí kiệt quệ tài chính lớn
hơn phần bù trừ tấm chắn thuế, khi đó sẽ đưa doanh nghiệp đến những rủi ro về
tài chính.
Theo định đề II của MM, khi nợ là phi rủi ro thì tỷ suất sinh lợi dự kiến từ cổ phần
thường của một doanh nghiệp có vay nợ tăng tương ứng với tỷ lệ nợ / vốn cổ
phần, tức là tỷ lệ nợ / vốn cổ phần càng nhiều thì tỷ suất sinh lợi từ cổ phiếu tăng
có lợi cho NĐT. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro không thực hiện

14
nghĩa vụ tăng lên và doanh nghiệp buộc phải chịu lãi suất vay nợ cao hơn. MM
dự báo rằng khi điều này xảy ra, tỷ lệ gia tăng trong tỷ suất sinh lợi dự kiến từ
vốn cổ phần chậm lại. Doanh nghiệp càng có nhiều nợ, tỷ suất sinh lợi dự kiến
càng ít nhạy cảm với các khoản nợ vay thêm.
Khi nợ có rủi ro thì trái chủ gánh chịu một phần rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro này chuyển từ các cổ đông
sang các trái chủ. Vay nợ làm tăng tỷ suất sinh lợi dự kiến từ đầu tư của các cổ
đông. Nhưng nó cũng làm gia tăng rủi ro của các cổ phiếu của doanh nghiệp.
MM cho thấy rằng rủi ro gia tăng vừa đúng bù trừ cho gia tăng trong tỷ suất sinh
lợi dự kiến, nên những người nắm giữ cổ phiếu không được lợi mà cũng không
bị thiệt.
Theo số liệu điều tra tại 108 Tổng công ty 90, 91 của Công ty tư vấn Mekong, số
nợ phải thu tồn đọng tính đến hết năm 2006 là 2.272 tỉ đồng, chiếm 4,7% tổng số
nợ phải thu. Nợ phải trả tồn đọng là 21.904 tỉ đồng, chiếm 13,7% tổng nợ phải
trả. Riêng trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, nợ quá hạn (nợ xấu)
lên tới 10.046 tỉ đồng. Nếu tính cả ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng
phát triển, tổng số nợ xấu lên đến 13.659 tỉ đồng. Còn theo số liệu ước tính của
các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới
WB, nợ xấu của các DN VN vào khoảng 6,2 tỉ USD, tức là chiếm hơn 13% GDP
cả nước.
Cho đến cuối năm 2006, theo Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN, các DNNN
mới xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách
nhà nước với tổng số tiền là 314,91 tỉ đồng; xử lý nợ đọng hơn 19 nghìn tỉ đồng,
chủ yếu bằng biện pháp thu hồi nợ, bán tài sản đảm bảo, sử dụng dự phòng rủi
ro của ngân hàng. Trong số DN đã CPH, có khoảng 2.000 DN có nợ và tài sản
loại trừ không tính vào giá trị DN.

Theo Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) thì số nợ phải trả của DNNN thường gấp
1,2 -1,5 lần vốn nhà nước tại DN, thậm chí có nhiều DN nợ gấp vài lần đến hàng
chục lần vốn chủ sở hữu. Số nợ phải thu cũng chiếm từ 50-60% vốn chủ sở hữu,
đặc biệt nợ khó đòi chiếm đến 15-20% lợi nhuận hàng năm, nhưng lại không
được ghi đầy đủ trong sổ sách kế toán DN. Đến thời điểm này, việc xử lý các
khoản nợ tồn đọng của khối DNNN mà Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đưa
ra biện pháp vẫn chủ yếu là giãn nợ, khoanh nợ.

15
11. Sử dụng nợ luôn bất lợi cho DN?
Trả lời :

Trước tiên, ta so sánh việc sử dụng nờ và vốn chủ sở hữu cái nào tốn ít chi phí
hơn, “chi phí” được đề cập ở đây chính là chi phí có thể đo lường được cho việc
huy động vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Với nợ, đó chính là chi phí
lãi vay mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ phần, chi
phí sử dụng vốn được hiểu như là quyền đối với thu nhập phải đủ thỏa mãn
được các cổ đông khi họ quyết định góp vốn vào côngty.

Ví dụ, nếu bạn điều hành một doanh nghiệp nhỏ và cần tài trợ khoảng $40,000,
bạn có thể hoặc là đi vay ở ngân hàng số tiền $40,000 với lãi suất 10% hoặc bạn
có thể bán 25% cổ phần doanh nghiệp cho người hàng xóm với giá $40,000.

Giả sử trong năm sau đó, doanh nghiệp của bạn có thể tạo ra được lợi nhuận
hoạt động là $20,000. Nếu ban đầu bạn quyết định đi vay ở ngân hàng với chi
phí lãi vay (hay còn gọi là chi phí tài trợ của nợ) sẽ là $4,000, bạn còn lại lợi
nhuận $16,000. Ngược lại, nếu bạn đã sử dụng tài trợ vốn cổ phần, nghĩa là bạn
không hề có nợ và dĩ nhiên là không có chi phí lãi vay nhưng bạn chỉ được nắm
giữ 75% lợi nhuận của doanh nghiệp thôi (25% khác thuộc sở hữu của người
hàng xóm nhà bạn). Do đó, lợi nhuận của bạn bây giờ chỉ có $15,000 (tức
75%*$20,000)

Từ ví dụ này, bạn có thể thấy nợ rẻ hơn vốn cổ phần là như thế nào, do đó cũng
rất dễ hiểu khi các cổ đông sáng lập của công ty quyết định lựa chọn phát hành
nợ chứ không phải vốn cổ phần. Thuế cũng là một yếu tố giúp cho tình huống
phát hành nợ trở nên tốt hơn. Nếu doanh nghiệp của bạn sử dụng nợ, bởi vì chi
phí lãi vay được khấu trừ ra khỏi thu nhập hoạt động trước khi thu nhập bị đánh
thuế, do đó chính hành động đã đem đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn
thuế từ nợ.

Dĩ nhiên, lợi ích của tài trợ nợ với lãi suất cố định đôi khi lại có thể là điểm bất
lợi. Bởi vì nợ được xem chi phí tài chính cố định, dù doanh nghiệp của bạn có
hoạt động ra sao, thu nhập nhiều hay thậm chí đang thua lỗ thì doanh nghiệp

16
vẫn phải đảm bảo việc trả lãi vay đúng kỳ hạn và trả nợ gốc khi đáo hạn, do vậy
một sự gia tăng nợ của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc gia tăng thêm rủi
ro tài chính.

Quay trở lại ví dụ trên, giả sử trong năm sau, công ty của bạn chỉ tạo ra được có
$5,000. Với tài trợ nợ, bạn có thể vẫn có cùng $4,000 lãi vay phải trả và vì vậy
lợi nhuận của bạn chỉ còn lại $1,000 ($5,000 -$4,000). Trong trường hợp tài trợ
hoàn toàn bằng vốn cổ phần, tức là bạn không hề phải trả một đồng lãi vay nào
hết, thì bạn vẫn có 75% lợi nhuân tương đương với $3,750 (75% x $5,000).
Do vậy, đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được
sử dụng thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần.
Tuy nhiên, nếu giai đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền lượng
tiền mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là
mặt trái của việc tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ. Từ đây có thể thấy, dù
nợ có chi phí rẻ hơn vốn cổ phần, doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều
này, nhưng thời điểm nào thì sử dụng nợ là hợp lý? Hợp lý ở đây có nghĩa là tận
dụng được tối đa lợi ích của nợ, tận dụng tối đa lợi ích từ đòn bẩy tài chính từ
nợ.

Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu
nhập trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu
nhập tương lai của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng
lên. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền
ổn định thường sử dụng nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành
nhiều rủi ro hơn. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong
giai đoạn khởi nghiệp cũng sử dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có
sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới với sự không chắc chắn cao có thể phải trải
qua một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì
các hoạt động của chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần.

Ở Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường có tâm lý e dè, nhất là đối với các
doanh nghiệp đang trong thời kỳ “sung mãn”, lượng tiền mặt vô cùng dư thừa thì
dường như họ lại càng không quan tâm đến nợ. “Tiền tôi có, tại sao phải vay?”
Cũng vậy, sau 7 năm TTCKVN ra đời, đi vào hoạt động và đạt được sự phát

17
triển như hôm nay thì để giải quyết bài toán thiếu vốn, doanh nghiệp niêm yết
thường chọn giải pháp vốn cổ phần chứ không mấy mặn mà với việc sử dụng tài
trợ bằng nợ. Các doanh nghiệp dường như đã quên đi lợi ích từ việc sử dụng
đòn bẩy tài chính. Hi vọng trong tương lai không xa, vấn đề tài trợ bằng nợ sẽ
được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt
nhất trong việc sử dụng nợ. Cũng cần nhắc lại là, phát hành trái phiếu doanh
nghiệp cũng là một hình thức vay nợ của doanh nghiệp.

16. Trả cổ tức bằng tiền tốt or không? Chính sách cổ tức
- Trong đk nền kinh tế tốt, ko tìm kiếm đc cơ hội đầu tư nên trả cổ tức = tiền =>
kế hoạch mở rộng dài hạn của cty có thể có vấn đề => giá trị VCSH có thể giảm
- Không trả cổ tức = tiền vẫn có thể tạo niềm tin cho nhà đtư do giá trị TS nắm
giữ vẫn đang tăng dần
- Mở rộng quy mô DN => chính sách trả cổ tức = cổ phiếu có thể làm tăng giá trị
TS của CSH.)
Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại
chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân
nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm
hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để
phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những
năm kinh doanh không như mong đợi (vì một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay
vài năm trước, doanh nghiệp sẽ “khó ăn nói” với cổ đông nếu năm sau hạ mức
cổ tức xuống). Trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai là quan trọng nhất.
Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn
ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần
vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc
nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.

Do đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư.
Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì
khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh
nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.

Có hai phương thức chia cổ tức chính :  cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần.

18
Cổ tức tiền mặt là dạng cổ tức mà công ty lấy ra từ lợi nhuận có được chia cho
nhà đầu tư dưới dạng tiền mặt ( hoặc chuyển khoản). Cổ tức tiền mặt làm
chuyển giao giá trị kinh tế từ công ty sang cho các cổ đông thay vì công ty sử
dụng tiền đó cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra một sự
giảm mạnh trong giá cổ phần của công ty một lượng đúng bằng cổ tức được
chia.

Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi
kèm với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so
sánh giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có
nghĩa là cổ tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa
chọn nào ngoài việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ
tức tiền mặt vào công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn
nhất của tiền mặt là tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ
cũng chắc chắn hơn là bạn cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế
trên cổ tức tiền mặt được nhận vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn
là nhà đâu tư ngại rủi ro và muốn chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền
mặt hơn, vì giá trị của chúng rất chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức
bằng tiền mặt có thể là một sự lựa chọn của bạn.
Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn, công ty
có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức
bằng cổ phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ
thu được nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
được điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu
tư, đặc biệt khi thị trường đang lên.
Tóm lại, chia cổ tức bằng lợi nhuận cho dù dưới hình thức tiền mặt hay cổ phiếu
đều không làm thay đổi giá trị của cổ phiếu, DN nên có những pt đúng đắn để
đưa ra chính sách trả cổ tức phù hợp…..
17. Việc tăng thuế TNDN trong khi các yếu tố khác ko đổi chắc chắn làm
giảm tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn
Khi tăng thuế TNDN => DN ưu tiên sử dụng nợ ( đưa ra VD về lá chắn thuế), tuy
nhiên còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của nhà quản lý tài chính.
VD lá chắn thuế là lãi vay:

19
Chúng ta có 2 dự án xem xét:
Dự án 1: Doanh nghiệp không vay tiền để đầu tư mà chỉ sử dụng nguồn vốn nội
tại của mình.
Dự án 2: Doanh nghiệp đi vay để đầu tư. Vay 400.000 $, lãi vay 10%.
Thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả hai dự án đều là 35%.
Ta xem xét bảng sau:
Dự án 1                       Dự án 2
EBIT                                       100                              100
Lãi vay                                    0                                  40
LNTT                                      100                              60
Thuế (35%)                             35                                21
LNST                                      65                                39
TN cho cổ đông, chủ nợ         65                                79 ( =39+40)
Trong đó:
EBIT là thu nhập trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp, lúc này cả hai dự án
doanh nghiệp đều có thể thu về 100.000$.

18, doanh nghiệp bán chịu với mục đích duy nhất là mở rộng thị phần
Sai . việc bán chịu ngày càng phổ biến không chỉ với mục đích mở rộng thị phần
mà còn do hy vọng tăng giá trị cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường niêm yết và
thu hút khách hàng

Hy vọng tăng giá trị cổ phiếu: chi phí đầu vào cho các sản phẩm, dịch vụ ngày
càng tăng lượng hàng hóa bán chịu cho khách hàng với hy vọng làm tăng giá tri
cổ phiếu

Mong muốn thu hút khách hàng : đây cũng là một trong những chiến lược dài
hạn trong canh tranh bán hàng, nhất là các khách hàng mới. bạn bán hàng với
các chính sách đãi ngộ hấp dẫn về thanh toán và nợ chắc chắn khách hàng sẽ
để tâm đến bạn hơn là các đối thủ khác

19, sử dụng nợ luôn bất lợi cho doanh nghiêpj

Chưa chính xác

20
Có thể bất kì doanh nghiệp nào cũng luôn mong muốn và hướng tới xây dựng
một cơ cấu vốn mục tiêu, nhằm đạt được mục đích là gia tăng giá trị tài sản của
vốn chỉ sở hữu

Việc sử dụng nợ là có lợi hay bất lợi , phải tùy thuộc vào tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như phụ thuộc vào tình hình kinh tế

Việc sử dụng nhiều nợ khiến cho rủi ro của dn tăng lên nhưng không phải vậy
mà sử dụng nợ luôn bất lợi. cụ thể sủ dụng nợ đồng nghĩa với việc tồn tai đòn
bẩy làm tăng EPS với tốc độ nhanh hơn tốc độ gia tăng của doanh số. điều này
là có lợi

20, việc tăng thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi các yếu tố khac không tay đổi
chắc chắn làm giame tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn

Sai

Khi nhà nước ban hành về việc tăng thuế thu nhập dn như vậy sẽ khuyến khích
dn sử dụng nhiều nợ vay hơn bởi lẽ các nhà quản trị tài chính họ sẽ tận dụng
được chắn thuế trong trường hợp này

Ví dụ về việc sử dụng nhiều nợ vay hơn để tận dụng lá chắn thuế: phân tích sự
thay đổi lợi nhuân của dn, khi sử dụng tỷ lệ nợ 10% và 20% trong khi doanh thu
không đổi

Tuy nhiên quyết ddingj của doanh nghiệp có thay đổi cơ cấu hay không, cụ thể
là có sử dung thêm nhiều nợ vay hoặc ít nợ vay đi không là tùy thuộc và ý kiến
quản lí chủ quan của các nhà quản trị tài chính

Chính vì vậy không thể kết luận được tăng thuế thu nhập doanh nghiệp thì chắc
chắn 100% doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thay đổi

21, việc dn trả lãi vay cho vốn nợ và trả cổ tức cho cổ đông đều làm giảm khoản
thuế TNDN

Sai

Doanh nghiệp trả lãi vya cho vốn nợ làm giảm khoản thuế TNDN do lãi vay là chi
phí trước thuế nhưng trả cổ tức cho cổ đông thì không vì phân bổ cổ tức chi trả
thuộc khoản lợi nhuận sau thuế nó không ảnh hưởng tới khoản thuế TNDN

21
10. Bình luận : “Cổ phiếu ưu đãi là loại ghép giữa cổ phiếu thường và trái
phiếu”
Trước tiên ta sẽ làm rõ các khái niệm trái phiếu,cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu đãi

Trái phiếu :  một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả
cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái
phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành
có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu
doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường
hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là
công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là
cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi
trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi
(trái phiếu vô danh)
Đặc điểm nổi bật của trái phiếu,mà cụ thể trong vấn đề ta đề cập ở đây là
trái phiếu doanh nghiệp đó là :
- Người nắm giữ trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước người nắm
giữ cổ phiếu trong trường hợp doanh nghiệp phá sản
- Người nắm giữ trái phiếu được nhận tiền gốc và 1 khoản tiền lợi
tức cố định tùy theo lãi suất và mệnh giá ghi trên trái phiếu bất kể kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp ra sao
- Người nắm giữ trái phiếu có không có quyền tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động quản lý của doanh nghiệp

Cổ phiếu thường : chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với
công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi thông thường
trong công ty.
Đặc điểm của cổ phiếu thường như sau :
- Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh
của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng
cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty,
được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản trị của công ty
- Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải
là khoản nợ đối với công ty.
- Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty
sau khi công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu
đãi.

22
- Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra
khỏi công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức
bán lại cổ phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế.
Chính điều này đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng
hấp dẫn nhà đầu tư.
- Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu
mới để tăng vốn.
- Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật
định.
- Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp
phải, tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi
số lượng vốn góp vào công ty

Cổ phiếu ưu đãi : chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty,
đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền
lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được
gọi là cổ đông ưu đãi của công ty.

Các quyền lợi của cổ phiếu ưu đãi :

- Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người


có cổ phiếu ưu đãi chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ
được trả cổ tức trước khi chia lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của
cổ phiếu phổ thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước và thường
được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc
bằng số tiền nhất định in trên mỗi cổ phiếu.
- Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công
ty, nhưng sau người có trái phiếu.
- Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng
cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định những vấn đề quan trọng của công ty.
- Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và
mệnh giá của nó cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi.
Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ
thông, vì nó là căn cứ để trả cổ tức và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay
giải thể công ty.
- Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi
cũng chỉ được nhận cổ tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận

Qua sự đối chiếu trên,ta có thể dễ dàng nhận thấy cổ phiếu ưu đãi có
những đặc điểm của cả trái phiếu và cổ phiếu thường :

23
- Giống trái phiếu :
o cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định theo một tỷ lệ cố định trên
mệnh giá, cổ phiếu ưu đã giống như trái phiếu được ấn định một tỷ lệ lãi cố định
tính trên mệnh giá và mức lợi tức này ko thay đổi dù cho kết quả kinh doanh của
DN có thay đổi ra sao
o người giữ cổ phiếu ưu đãi không được tham gia ứng cử bầu cử vào
Hội đồng quản trị hoặc ban kiểm soát công ty, nhưng lại được ưu tiên chia cổ
tức trước cổ đông thường
- Giống cổ phiếu thường :
o chứng khoán vốn không có kỳ hạn và không hoàn vốn.  Người nắm
giữ cổ phiếu ưu đãi cũng là cổ đông đồng sở hữu công ty.

Như vậy,ta hoàn toàn có thể nhận định cổ phiếu ưu đãi là loại lai ghép
giữa cổ phiếu thường và trái phiếu,mà cụ thể ở đây là trái phiếu doanh nghiệp.

13. Ứng với từng kênh huy động vốn, doanh nghiệp trong trường hợp nào
nên sử dụng kênh huy động vốn nào.

Các kênh huy động vốn phân theo thời gian sử dụng vốn;

- Vốn ngắn hạn:


 Vốn vay ngắn hạn
 Vốn tín dụng thương mại
- Vốn dài hạn:
 Phát hành trái phiếu
 Vốn vay dài hạn
 Thuê tài chính
 Lợi nhuận giữ lại
 Phát hành cổ phiếu

Loại hình Ưu điểm Nhược điểm Ghi chú


Vốn vay -Đơn giản, dễ sử dụng - Thủ tục vay vốn Doanh nghiệp nên sử
ngắn hạn do sự phát triển của thị rườm rà dụng khi:
trường tài chính trung - Thời hạn vay -Có phương án sản
gian. ngắn xuất kinh doanh hiệu
-Nhanh chóng đáp ứng - Giá trị khoản vay quả
yêu cầu sản xuất kịp thường nhỏ -Khi doanh nghiệp có
thời. quan hệ tốt với Ngân
-Chi phí thấp hàng
-Cần huy đọng vốn
nhanh, gấp để đáp
ứng kịp thời tiến độ
24
sản xuất kinh doanh
Vốn tín -Chi phí thấp - Thời hạn huy Doanh nghiệp nên sử
dụng - động ngắn dụng khi:
thương - Giá trị nhỏ -Có điều kiện phát
mại - Không ổn định và sinh trong hoạt động
không thể tiến hành thương mại
huy động ngay khi cần
mà phát sinh trong hoạt
đọng kinh doanh
thương mại
Phát hành -Giá trị huy động lớn - Thủ tục rườm rà, Doanh nghiệp nên sử
trái phiếu -Thời hạn huy động đa yêu cầu khắt khe về dụng khi
dạng phong phú đáp pháp lý -Doanh nghiệp có tình
ứng được yêu cầu của - Bắt buộc phải hình sản xuất kinh
doanh nghiệp lần nhà công bố thông tin tài doanh thuận lợi
đầu tư chính ra công chúng -Có kế hoạch sử dụng
-Phương thức trả lãi chủ vốn hiệu quả
động -Tính cấp bách của
-Không phân tán quyền việc sử dụng vốn
kiểm soát công ty không cao
Thuê tài -Được sử dụng tài sản - Dịch vụ cho thuê Doanh nghiệp nên sử
chính khi chưa đủ năng lực tài chính chưa phát dụng khi:
tài chính để sở hữu triển tại Việt Nam: sản -Nguồn vốn eo hẹp
-Khi có khả năng có thể phẩm cho thuê chưa đa -Các sản phẩm thích
mua lại tài sản đó dạng nhất là các sản hợp
phẩm công nghệ cao
- Chi phí cao
Vay dài -Nhanh chóng đáp ứng - Thủ tục vay vốn Doanh nghiệp nên sử
hạn yêu cầu sản xuất kịp rườm rà dụng khi:
thời. - Chi phí cao và -Có dự án sản xuất
-Thời hạn vay dài khó kiểm soát kinh doanh hiệu quả
-Giá trị khoản vay đa -Khi doanh nghiệp có
dạng quan hệ tốt với Ngân
hàng
-Cần huy động vốn
lớn ổn định.
Lợi nhuận -Có khả năng tự quyết - Không ổn định về Doanh nghiệp nên sử
giữ lại nguồn vốn cao nhất thời gian cũng như là dụng khi
-Không thay đổi cơ cấu giá trị -Có lợi nhuận
quyền sở hữu công ty - Chi phí cao -Khi doanh nghiệp
- - Không đáp ứng đang đặt mục tiêu
kịp thời nhu cầu vốn tăng trưởng lên cao

Phát hành - Nguồn vốn huy động - Chi phí lớn Doanh nghiệp nên sử
cổ phiếu lớn - Thay đổi cơ cấu dụng khi
25
- quyền sở hữu công ty -Cần có nguồn vốn
- Thủ tục rườm rà lớn ổn định để mở
yêu cầu khắt khe về rộng sản xuất kinh
pháp lý doanh
- Bắt buộc phải -Có tình hình kinh
công bố thông tin tài doanh tốt
chính ra công chúng
- Tạo nguy cơ bị
mua bán và sát nhập
cho doanh nghiệp

1, Hãy phân tích các điều kiện mà DN phải đáp ứng khi phát hành trái phiếu để
huy động vốn
Để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phát hành cần có những điều kiện sau:
Loại hình doanh nghiệp: công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển
đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật
Doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào
hoạt động;
Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán;
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi;
Có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua

2, So sánh tín dụng NH với phát hành trái phiếu để huy động nợ
Trái phiếu doanh nghiệp là một loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp (DN) phát
hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của DN phát hành đối với người sở hữu trái
phiếu. Phát hành TPDN là phương thức huy động vốn trực tiếp từ thị trường vốn
không qua các định chế tài chính trung gian, nên chi phí thường rẻ hơn vay ngân
hàng.
khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cũng phải tuân thủ các điều kiện hoàn trả nợ
gốc và lãi như các khoản vay thông thường. Tuy nhiên, việc phát trái phiếu sẽ mang
đến cho các doanh nghiệp phát hành nhiều lợi ích hơn so với việc vay Ngân hàng để
tài trợ cho Dự án như:
Doanh nghiệp được chủ động sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu mà không cần
căn cứ theo tỷ lệ tham gia của vốn tự có và các nguồn vốn khác (điều kiện mà các
ngân hàng thương mại hay yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ khi giải ngân vốn tín
dụng);
Doanh nghiệp có nguồn vốn phát hành trái phiếu trong một thời gian ngắn mà không
cần xem xét đến tiến độ thực hiện dự án (điều kiện mà các ngân hàng thương mại
hay yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ khi giải ngân vốn tín dụng);
Tiền thu từ phát hành trái phiếu được dùng để đầu tư dự án/cơ cấu các khoản vay
trung và dài hạn/ tăng quy mô vốn hoạt động (phù hợp với phương án phát hành);

26
Doanh nghiệp có thể mua lại trái phiếu trước hạn; Trái phiếu được dùng để chuyển
nhượng, cho, tặng, để lại thừa kế, chiết khấu, thế chấp và cầm cố trong các quan hệ
dân sự theo quy định của pháp luật; (linh hoạt, chủ động hơn trong quá trình sử
dụng);
Thông qua việc phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phát hành tạo được chuẩn mực
và thước đo cho bản thân doanh nghiệp trên thị trường tài chính;
Tuy nhiên chỉ những DN quy mô lớn, khả năng tài chính tốt, thị trường tiêu thụ ổn
định mới phát hành được TPDN. Nhìn danh sách các DN phát hành thành công trái
phiếu trong 6 tháng đầu năm chủ yếu là các tập đoàn DNNN lớn hoặc các Cty niêm
yết có những dự án bất động sản hoặc dự án đầu tư cho hoạt động xuất khẩu. Các
DNNVV chiếm 96% tổng số DN của cả nước không thể phát hành TPDN vì không đủ
uy tín. Vì vậy, vốn NH vẫn là nguồn tài trợ chính của các DN.
3. So sánh phát hành trái phiếu để huy động vốn với phát hành cổ phiếu
thường để huy động vốn
1) Phát hành cổ phiếu:
+) Ưu điểm:
- Minh bạch, công khai, rõ ràng qua các đợt chào bán. DN thường có 1NH đứng ra
bảo lãnh và 1 công ty chứng khoán hỗ trợ chào báo cổ phiếu ra công chúng.
- Khối lượng vốn huy động được lớn, đủ cho kế hoạch kinh doanh của DN nếu chào
bán thành công.
+) Nhược điểm:
- Chi phí bảo lãnh, chi phí phát hành lớn mà DN phải trả cho phía các NH và công ty
CK tham gia.
- Thủ tục khá rườm rà và mất nhiều thời gian.(Chính vì những nhược điểm này mà
'Phát hành CP' thường là bước đi cuối cùng của DN để có vốn cho việc mở rộng
SXKD)
2) Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
+) Ưu điểm:
- Chi phí huy động vốn thấp.
- Không cần nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà vì ko cần 'lạy lục' thông qua trung gian
ngân hàng. (Theo luật quy định thì chỉ cần đăng báo vài chục ngày, họp báo, chào
bán.... )
- DN phát hành TP thường có những lợi thế như không phải chịu sức ép chi phối từ
cổ đông mới như phát hành CP, được hưởng lợi từ chính sách thuế đối với khoản lãi
trả TP, trong khi các khoản trả cổ tức thì không.
+) Nhược điểm:
- Độ đảm bảo thấp, chủ yếu là dựa vào uy tín của DN. Đôi khi DN dùng cả tài sản của
mình để đảm bảo nhưng vẫn khó có khả năng huy động được nhiều vốn như mong
muốn.

27
4. Đánh giá ưu, nhược điểm của từng kênh huy động vốn của DN. Với mỗi kênh
huy động vốn hãy liên hệ với thực tiễn VN, nhận xét

1 Vốn từ lợi nhuận không chia: là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở
rộng sản xuất kinh doanh của DN

a)ưu điểm:
_ DN ko bị phụ thuộc vào bên ngoài ( NH…)
_Tăng khả năng tự chủ về TC của DN
_Giúp DN dễ dàng hơn trong các quan hệ tín dụng tại các NH, tổ chức tín dụng hoặc
với các cổ đông
_Nguồn lợi nhuận để lại có tác động rất lớn đến nguồn vốn kinh doanh, tạo cơ hội
cho các cty thu dc lợi nhuận cao hơn trong các năm tiếp theo
b) nhược điểm:
khi DN ko trả cổ tức cho cổ đông mà giữ lại lợi nhuận có thể làm cho giá cổ phiếu
trên thị trường giảm, ảnh hưởng xấu đến DN
VN: việc huy động vốn từ lợi nhuận không chia để lại thì còn khá khiêm tốn. Thực tế
ở Vn, do TTCK dc thành lập rất muộn so với các nước, nên NDT chưa có kinh
nghiệm và trình độn cao trong đàu tư, bên cạnh đó lại chủ yếu là NDT ngắn hạn. Nếu
cty cổ phần niêm yết ko thanh toán cổ tức lập tức sẽ có sự phản ứng tức thời trên thị
trường, giá CP sẽ giảm. Vì thế nguồn tài trợ từ nguồn lợi nhuận giữ lại của các cty cổ
phần hiện nay chưa được quan tâm xem xét đúng mức

2. Tín dụng TM

o Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:


- Ưu điểm :
+ Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp
thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng
nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các
doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.
+ Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động
khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên có lợi
thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc
độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
+ Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ
chiết khấu thương phiếu.
- Nhược điểm :
+ Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có
28
thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần
đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc bán ra.
+ Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được
giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.
+ Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh cung cấp,
vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ có. Nếu
doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp
ứng được.
+ Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù
hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù
hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy
ra.
+ Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.

Thực tiễn: Lâu nay các DN và các NH đều đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán
xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tất cả giao dịch này đều thực hiện theo thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên trong thanh toán nội địa các DN chưa sử dụng thương phiếu
như là công cụ thanh toán phổ biến. NHTM cũng chưa đủ đk để cấp tín dụng cho DN
dưới các hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có bảo đảm bằng cầm cố
thương phiếu. Trong khi đó mua bán chịu giữa các DN, bán hàng gối đấu giữa nhà sx
và đại lý, giữa các tiểu thương ở chợ đầu mối là nu cầu thức tế. Ở VN hiện nay theo
thống kê có tới 80.5% số DN huy động vốn từ các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn
của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó chỉ dc ghi lại 1 cách đơn giản trên sổ nợ
của ng bán: ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên cũng chỉ lập 1 văn bản thỏa
thuận với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm. Vì vậy các khoản nợ đã
ko dc xác nhận về mặt pháp lý và chứng minh khi nảy sinh tranh chấp, dẫn đến nguy
nợ nần dây dưa, thậm chí mất trắng tiền tỷ của các tiểu thương chợ đầu mối,...

3 Thuê tài chính

- Ưu điểm :

+ Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình vào mục
đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải đầu tư vốn để mua tài sản cố
định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh doanh.

+ Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của
doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng.
+ Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt phù hợp với chu
chuyển vốn của doanh nghiệp.

29
+ Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm
nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.
+ Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
+ Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn thiết bị, dễ
dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy móc, thiết bị hiện đại nhất..,
từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh
doanh.
-Nhược điểm :
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên
thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị trường cho
thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu
khác nhau.
Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất
nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ đồng).
Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình
dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:

+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn
chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các
thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất
ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn
không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt
động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch
vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài
chính mang lại...

+ Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn
cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời
hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền
đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân
hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận
hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.

+ Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định
cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ...
trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.
30
Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu
USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các
tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không
phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị
cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính.
4.tín dụng NH
a) ưu điểm
_đối với doanh nghiệp lớn
Tập trung dc nguồn vốn lớn cung 1 lúc do có thể có Ts để thế chấp lớn, có uy tín với
NH,...
Mức độ rủi ro thấp hơn các DN nhỏ: đến kì thanh toán DN ko tră dc nợ sẽ dc Nh gia
hạn, các DNNN sẽ dc nhà nước trả hộ,...
_ đối với DN vừa và nhỏ: Ngày nay DN vừa và nhỏ đang dc sự giúp đỡ rất nhiều từ
phái nhà nước để có thể tiếp cận dc nguồn vốn này
b) nhược điểm:
_ bị động trong quá trình vay ví số lượng vay bao nhiêu còn phụ thuộc vào quyết định
từ phía NH
_ DN chịu sử giám sát của Nh trong thời gian sử dụng vốn vay. NH sẽ giám sát DN
về việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích ghi trong hợp đồng ko, về việc trả nợ gốc
và lãi cos đúng kì hạn cam kết ko,...
Thực trạng: TDNH là hình thức huy động vốn chủ yếu của các DN nước ta. Tuy nhiên
khả năng tiếp cận với nguồn vốn TDNH của các DNVVN còn nhiều hạn chế. Mặt
khác dù có vay dc thì vấn đề lãi suất cũng là nan giải dùng vốn đó sx kd cũng khó co
lãi
5. phát hành trái phiếu( ưu nhược diểm ở phần trên)

NHìn chung thị trương trái phiếu DN nước ta hiện nay chưa phát triển. Tổ chức phát
hành chủ yếu mới chỉ là các NHTM. Số DN phát hành trái phiếu rất ít, tập trung ở
những DN nhà nước quy mô lớn. Thêm vào đó khung pháp lý quản lý việc phát hành
trái phiếu còn thiếu toàn diện, chưa tạo đk thuận lợi cho các DN trong việc huy động
vốn

6. phát hành cổ phiếu

Đối với việc huy động vốn trên TTCK - một kênh huy động vốn quan trọng của nhiều
DN cũng đang ngày một khó khăn hơn vì chính sách tài khóa tiền tệ thắt chặt của
Chính phủ. Đó là chưa kể, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt khiến cho TTCK bị bội thực

31
nguồn cung vì thế kênh huy động này đã kông phát huy được hiệu quả trong thời
gian gần đây

5: So sánh hình thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu đãi

Sự khác nhau giữa cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu thường Cổ phiếu ưu đãi


Được hưởng cổ tức không cố Được hưởng cổ tức cố định bất kể kết quả
định có thể cao hay thấp, tùy kinh doanh cao hay thấp
theo kết quả kinh doanh
Được hưởng cổ tức sau cổ Được hưởng cổ tức trước cổ phiếu phổ
phiếu ưu đãi thông
Có quyền biểu quyết đối với các Chỉ có quyền biểu quyết nhất định đối với
quyết dịnh lớn tại đại hội cổ các quyết định lớn của công ty
đông
Được chia tài sản sau cùng Được chia tài sản trước khi chia cho cổ đông
trong trường hợp công ty bị phổ thông trong trường hợp công ty bị thanh
thanh lý lý
Giá cả thường dao động mạnh Giá cả thường ít dao động hơn cổ phiếu phổ
hơn cổ phiếu ưu đãi thông
Lợi nhuận và rủi ro cao hơn cổ Lợi nhuận và rủi ro thấp hơn cổ phiếu phổ
phiếu ưu đãi thông
Từ những đặc điểm khác nhau này ta có thể suy ra những ưu và nhược điểm thông
qua 2 hình thức huy động vốn này

Nguồn vốn cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi đều là vốn chủ sở hữu tuy nhiên cỏ
phiếu ưu đãi còn có tính chất của nợ vì được chia cổ tức và tài sản trước các cổ
đông nắm giữ cổ phiếu thường

Đối với phương thức sử dụng cổ phần ưu đãi có lợi thế là không phải trả vốn gốc, có
thể tùy chọn trả hoặc không trả cổ tức nhưng cổ tức không được khấu trừ thuế và
khó huy động được với khối lượng lớn. Đối với phương thức huy động bằng phát
hành cổ phần thường thì tuy không phải trả vốn gốc, không bị áp lực trả cổ tức

32
nhưng không được khấu trừ thuế đồng thời còn bị phân chia phiếu bầu và chịu tác
động đến quản trị công ty với các cổ đông mới.

Nếu là công ty cổ phần với mục tiêu chính của quản lý tài chính là đem lại lợi ích tối
đa cho cổ động thông qua chỉ tiêu thu nhập trên cổ phần (EPS) thì việc lựa chọn
phương thức huy động vốn còn tùy thuộc vào EBIT (thu nhập trước thuế và lãi suất)
kỳ vọng của DN. Nếu EBIT kỳ vọng vượt qua điểm hòa vốn giữa phương án sử dụng
vốn cổ phần thường và cổ phần ưu đãi thì chọn vốn cổ phần ưu đãi sẽ mang lại EPS
cao hơn

6.Phân biệt vốn tự có, vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, vốn pháp định của doanh
nghiệp. Trong điều kiện nào doanh nghiệp nên huy động nhiều vốn chủ sở
hữu?

-Vốn điều lệ: Là số vốn do các thanh viên góp vốn cam kết sẽ góp vào khi thành lập
doanh nghiệp ( không được phép thấp hơn vốn pháp định - nếu có ).
Vốn pháp định là mức vốn góp tổi thiểu do pháp luật quy định đối với từng ngành
nghề kinh doanh.

-Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn đầu tư huy động từ nội lực doanh nghiệp ( Nguồn vốn
kinh doanh, các quỹ của doanh nghiệp, lợi nhuận chưa phân phối ).Vốn chủ sở hữu
là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, của các thành viên trong
công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần, kinh phí quản lý do các
đơn vị trực thuộc nộp lên...
Như vậy vốn điều lệ là vốn ghi trên giấy phép đăng ký kimh doanh còn vốn chủ sở
hữu là số vốn thực của chủ doanh nghiệp

Theo quan điểm tài chính, thì vốn chủ sở hữu còn được gọi là vốn tự có của doanh
nghiệp hay gọi là tự tài trợ đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ
có thể được sử dụng thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn
cổ phần. Tuy nhiên, nếu giai đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền
lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính
là mặt trái của việc tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ.

Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu nhập
trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập tương lai
của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó, các doanh
nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định thường sử dụng
nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro hơn. Các doanh
nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi nghiệp cũng sử
dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới
với sự không chắc chắn cao có thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm
33
được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài
trợ bằng vốn cổ phần.

7 Hãy phân biệt doanh thu, chi phí với thu, chi cuả DN. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu thu, chi trong quản trị tài chính doanh nghiệp

* Phân biệt doanh thu và thu

- giống nhau: đều là khoản tiền


- khác nhau
+Thời điểm ghi nhận doanh thu: khi khách hàng chấp nhận trả
+ thời điểm ghi nhận thu: khi KH trả, DN nhận được trực tiếp tiền mặt về
+Doanh thu là khoản tiền của DN
+ Thu là khoản tiền chưa chắc của DN
- Khoản là doanh thu nhưng không phải là thu: khoản chênh lệch tỷ giá, lãi suất
- Khoản là thu nhưng không phải doanh thu: thu, khoản tiền đi vay
* Phân biệt chi phí với chi của DN
- Chi phí: tập hợp các hao phí của DN trong thời kỳ nào đó
- Chi; là các khoản tiền chi trực tiếp bằng tiền mặt
Chi phí nhưng không phải chi; khấu hao, chênh lệch lãi suất, tỷ giá, khoản trích dự
phòng
Nghiên cứu thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh chưa cho biết được khả năng
thanh toán, chi trả của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ngắn hơn. Vì vậy cần thiết
phải nghiên cứu ngân quỹ DN. Nghiên cứu ngân quỹ DN giúp xác định các luồng tiền
vào, ra, các khoản phải thu, phải trả phát sinh trong kỳ, đồng thời lập kế hoạch tài
chính ngắn hạn, dự báo các luồng thu, chi phát sinh trong các tháng, nhu cầu và khả
năng tiến mặt, để chủ động trong đầu tư hoặc huy động vốn tài trợ
15. Phân biệt DT và thu, CP và chi.
- DT và thu:
+ DT là số tiền mà khách hàng chấp nhận thanh toán cho DN trong quá trình
cung cấp sp, hàng hóa, dvu
+ Thu là số tiền mà khách hàng thanh toán , số tiền thực thu đc của DN, là thời
điểm xuất hiện dòng tiền di vào
vd: Dn bán đc 1000 sp với số tiền là 2000$, khách hàng chấp nhận thanh toán
trc 50% số tiền. Vậy DN là 2000, thu la 1000.
- CP và chi:
+ chi fi là số tiền DN chấp nhận thanh toán cho nhà  cung cấp từ việc mua bán
các yếu tố đầu vào

34
+ Chi là khoản tiền thực chi của DN được xác định tại thời điểm xuất hiện dòng
tiền đi ra
DT và CP được phản ánh trên BCKQKD và được sử dụng để xđ kết quả hđ kinh
doanh của DN
Thu và chi phản ảnh các luồng tiền vào, tiền ra của doanh nghiệp thường trong
thời kỳ ngắn: từng tuần, từng tháng, cho biết khả năng thanh toán đích thực hay
khả năng chi trả của DN. Các khoản thu và khoản chi đc thể hiện trong báo cáo
LCTT. Đây là cơ sở quan trọng để xd kế hoạch tiền mặt cho DN.
8, Hãy phân biệt báo cáo kết quả kinh doanh và ngân quỹ của DN

* Giống - Đều là các báo cáo TC được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp
số liệu từ sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tc phát sinh tại những thới điểm hoặc thời
kỳ nhất định

- Giúp đối tượng sử dụng thông tin của bản báo cáo nhận biết được thực trạng tc,
tình hình sx kd để ra quyết dịnh phù hợp

- Đều là báo cáo thời kỳ

* Khác

Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo ngân quỹ
- Cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để - Luồng tiền vào, ra trong DN, tình hình
tính kq lãi, lỗ trong 1 kì kd tài trợ, đầu tư bằng tiền của DN trong
từng thời kỳ (khoản thu, chi)
- Sở hữu hàng hóa, dịch vụ đã thực sự
chuyển giao nhưng trong thực tế việc thanh - Chỉ ghi những dòng tiền thực ra và
toán tiền lại lại xảy ra vào 1 thời điểm khác thực vào trong DN ở thời điểm nhất
định
- K phản ánh được khả năng thanh toán
của DN tại thời điểm nhất định - Phản ánh được khả năng thanh toán
của DN ở thời điểm nhất định
- Phụ thuộc vào quan điểm kế toán nên
trong quá trình hạch toán có thể gât ra sai - Khách quan, k phụ thuộc vào quan
sót điểm chủ quan của kế toán

- K dự đoán được dòng tiền trong tương lai và


- Dự đoán được dòng tiền trong tương
những biến động liên quan đến tiền lai, khả năng thanh toán nợ vay, khả
năng trả lãi cổ phần bằng tiền và những
biến đọng liên quan đến dòng tiền trong
DN

35
10. Phân biệt cổ phiếu với trái phiếu trên giác độ doanh nghiệp. Hãy bình luận ý
kiến “Phát hành cổ phiếu luôn là giải pháp tối ưu để huy động vốn đối với DN”
 Giống nhau
- Đều là công cụ huy động vốn dài hạn của DN
- Đều có tên chung là chứng khoán (tài sản tài chính)
 Khác nhau
Cổ phiếu Trái phiếu
Cổ phiếu là chứng từ xác nhận quyền Trái phiếu là một loại chứng khoán quy
sở hữu và lợi ích hợp pháp của người định nghĩa vụ của người phát hành (người
sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vay tiền) phải trả cho người nắm giữ
vốn của công ty cổ phần chứng khoán (người cho vay) một khoản
tiền xác định, thường là trong những
khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả
khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Phát hành cổ phiếu để tạo vốn chủ sở Phát hành trái phiếu tạo nên vốn nợ
hữu của DN (vốn tự có) của DN
Độ an toàn Cao hơn. Vì công ty ko Độ an toàn Thấp hơn. Vì đòi hỏi phải
bị áp lực trả lãi có vốn đối ứng, đồng thời gây áp lực
trả lãi cho DN
Chi phí huy động vốn chủ sở hữu của Chi phí vốn nợ chính là lãi vay của trái chủ
Dn chính là lãi cổ phần của cổ đông Chi phí vốn nợ là chi phí trước thuế
Chi phí vốn chủ là chi phí sau thuế
Khi phát hành DN có thể bị chia sẻ Khi phát hành Dn tránh được hiệu ứng
quyền điều hành, hay bị thao túng “pha loãng”

11. Nguyên tắc quản lý tài chính của doanh nghiệp. Liên hệ thực tiễn VN

Lí thuyết ( GIÁO TRÌNH TR18)

Thực tiễn:

Công tác quản lý tài chính còn yếu và thiếu minh bạch, cụ thể:
  - Đội ngũ nhân sự quản lý còn thiếu các kiến thức, kỹ năng tổ chức công tác tài
chính.
  - Tập trung nhiều vào công tác kế toán, kê khai và báo cáo thuế.
  - Chủ yếu ghi chép các số liệu quá khứ, yếu ở khâu lập, tổ chức và quản lý thực
hiện các kế hoạch kinh doanh, tài chính (bao gồm cả ngân sách hàng năm).
  - Chưa có hệ thống báo cáo quản trị tốt.
  - Tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro, chuẩn hóa các quy trình tài
chính cho doanh nghiệp còn hạn chế.
  - Thiếu kinh nghiệm trong việc hoạch định chiến lược huy động và sử dụng vốn.
  - Duy trì đồng thời nhiều hệ thống kế toán, báo cáo tài chính.
Nguyên nhân:

36
  - Hệ thống đào tạo nghề tài chính, kế toán của Việt Nam vẫn nặng về lý thuyết, thiếu
thực tế.
  - Nhận thức về vai trò của CFO, Kế toán trưởng tại doanh nghiệp còn hạn chế.
  - Mới chỉ có các chuẩn mực về Kế toán, chưa có các chuẩn mực và quy trình tài
chính mẫu.
  - Lãnh đạo doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về ảnh hưởng từ sự thiếu minh
bạch và kém hiệu quả của công tác tài chính.

Một số biện pháp tránh những rắc rối tài chính:

- Luôn tuân thủ nghĩa vụ thuế


- Ngăn chặn các rắc rối về lưu lượng tiền mặt. Khi nhận ra không có đủ tiền để thanh
toán các hoá đơn đến hạn, cần giảm tỷ lệ tiêu dung tiền mặt ngay lập tức bằng việc
cắt giảm chi phí tới mức thấp nhất. Sau đó, chuẩn bị dự án tiền mặt ngắn hạn và
chuẩn bị ngay những nhu cầu cấp thiết.
- Cân nhắc về các khoản vay
- Tránh thanh toán ưu đãi cho các chủ nợ

Câu 14 So sánh mô hình đặt hàng hiệu quả EOQ và dự trữ bằng 0 củ TOYOTA

Mô hình sản lượng tồn kho tối ưu (EOQ-Economic Oder Quantity)

Mô hình EOQ là một mô hình quản trị hàng tồn kho mang tính định lượng, được sử
dụng để tìm mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp.

Mô hình EOQ nhằm mục đích đạt được tổng chi phí tồn kho là nhỏ nhất trong điều
kiện giá mua hàng là ổn định, tổng chi phí tồn kho chỉ xét đến hai loại:
- Chi phí đặt hàng: được tính bằng cách lấy số lần đặt hàng trong kỳ nhân với chi phí
đặt hàng ở mỗi kỳ.

- Chi phí lưu kho: được xác định bằng cách lấy số lượng hàng tồn kho bình quân
trong kỳ nhân với chi phí tồn trữ bình quân của một đơn vị hàng tồn kho.

Mô hình tồn kho đúng lúc (JIT-Just In Time)

Phương pháp này còn được gọi là phương pháp Kaban, được hãng TOYOTA (Nhật
bản) phát triển vào những năm 30 của thế kỷ 20.

37
Về lý thuyết, phương pháp này có số tồn kho bằng 0 vì nguyên vật liệu và các chi tiết
sản phẩm được đặt hàng trước, đúng lúc cần thiết đơn vị cung cấp mới đưa hàng
đến và sau khi sản xuất xong, hàng hoá được chở đi ngay.
Có thể thấy , ứng dụng phương pháp này đòi hỏi tổ chức và kế hoạch sản xuất phải
hết sức chính xác và chặt chẽ. Phương pháp này chỉ có thể áp dụng trong một số loại
dự trữ nào đó của doanh nghiệp và phải kết hợp chặt chẽ với các phương pháp quản
lý khác, đồng thời các yếu tố môi trường kinh doanh phải ổn định, dự báo được.
Phương pháp JIT áp dụng trong những điều kiện sau:
 Mức độ sản xuất đều và cố định.
 Tồn kho thấp.
 Kích thước lô hàng nhỏ.
 Bố trí mặt bằng hợp lý.
 Sửa chữa và bảo trì định kỳ.
 Sử dụng công nhân đa năng.
 Đảm bảo mức chất lượng cao.
 Lựa chọn người bán hàng tin cậy và nâng cao tinh thần hợp tác của các thành viên
trong hệ thống.
 Nhanh chóng giải quyết các sự cố trong quá trình hoạt động.
 Liên tục cải tiến.
Tóm lại, JIT là hệ thống sản xuất được sử dụng chủ yếu trong sản xuất lặp lại, trong
đó sản phẩm lưu chuyển qua hệ thống được hoàn thành đúng lịch trình và có rất ít
tồn kho, do đó giúp doanh nghiệp giảm thấp chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh.

2. Nêu một ví dụ thực tế về nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản
lý tài chính doanh nghiệp? Cho biết tầm quan trọng của nguyên tắc này
trong quản lý tài chính?
Ví dụ minh họa :
Một doanh nghiệp đầu tư 100 triệu vào trái phiếu chính phủ kì hạn 2 năm lãi suất
coupon là 8%/năm. Lãi suất chiết khấu trên thị trường là 8%/năm. (thị giá=mệnh
giá tại thời điểm hôm nay)
Sau 1 năm, thu nhập doanh nghiệp nhận được từ khoản đầu tư là :
100*0.08=8 triệu
Tại thời điểm đáo hạn, doanh nghiệp nhận được khoản thu nhập là: 100+8= 108
triệu

38
Giá trị tương lai của khoản đầu tư 100 triệu ngày hôm nay là : 8*(1+8%)
+108=116.64 triệu (giả sử lãi suất tái đầu tư của khoản coupon nhân được năm
1 là 8%)
Giá trị hiện tại của khoản thu nhập 116.64 triệu 2 năm sau là 100 triệu ngày
hôm nay (= 8/1.08+108/1.08^2).
Tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quản lý tài chính:
(Phần này mình có đáp án từ TCDN1 cũng khá đầy đủ, khi nào đi in tlieu, mình
photo luon trang này cho mọi người

5. Nhận xét vấn đề về chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Như chúng ta đã biết, vốn là một trong những đầu vào cơ bản cho tất cả các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế
chúng ta vừa thoát khỏi những ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu, và vẫn
đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thực tại như lạm phát, lãi suất cao, tỷ
giá bất ổn định, TTCK liên tục chạm đáy, và thêm vào đó là với chính sách tiền
tệ thắt chặt, dường như việc tiếp cận các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp Việt Nam lại càng khó khăn hơn bao giờ hết.

Khi xem xét chi phí vốn, ta cần xem xét 2 vấn đề : cơ cấu vốn ( tức là tỷ trọng
của từng loại vốn trong tổng nguồn ) và chi phí của từng loại vốn đó.

1. 1,  Cơ cấu vốn của các DN VN hiện nay:


Như đã biết, một cấu trúc nguồn vốn hợp lí phải đảm bảo sự hài hòa giữa vốn
chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả, có chi phí sử dụng vốn thấp và rủi ro chấp
nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của DN. Sự kết hợp giữa
hai nguồn vốn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà DN hoạt động, tuỳ
thuộc vào quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh
và tài chính của DN.
Cấu trúc nguồn vốn của DN được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Hệ số nợ    =        Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh bình quân mà DN đang sử
dụng có bao nhiêu đồng được hình thành từ vốn nợ.
Hệ số vốn chủ sở hữu    =    vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn   =    1 – Hệ số nợ

39
Hệ số vốn chủ sở hữu phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh mà DN đang sử
dụng có bao nhiêu đồng do chủ sở hữu DN bỏ ra. Nếu hệ số vốn chủ sở hữu
càng cao, các khoản nợ của DN càng được đảm bảo khả năng thanh toán và dĩ
nhiên tài chính của DN càng nằm trong giới hạn an toàn. Ngược lại, hệ số nợ
cao chứng tỏ DN sử dụng nhiều nợ vay, có khả năng gặp phải rủi ro thanh toán
lớn khi khoản vay đáo hạn.

Tuy nhiên, vốn vay sẽ là nhân tố quan trọng kích thích DN đang có những hợp
đồng, dự án thực sự hiệu quả tận dụng tốt lợi thế đòn bẩy tài chính để gia tăng
lợi nhuận. Do vậy, nhìn vào cấu trúc nguồn vốn có thể đánh giá được một cách
khái quát chính sách tài trợ vốn kinh doanh của DN, mức độ an toàn trong sử
dụng tài sản, mức độ an toàn hay rủi ro khác trong kinh doanh…

Ở Việt Nam cũng như một số quốc gia những năm qua tồn tại các DN có “đặc
quyền ” sử dụng vốn vay quá mức. Tình trạng này thường diễn ra trong các
DNNN. Trên danh nghĩa DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với
các DN khác, tuy nhiên trong thực tế DNNN hầu như vẫn được hưởng khoản “lợi
ích vô hình”, đó là dễ dàng hơn trong tiếp cận các nguồn vốn vay. Nếu không có
sự quản lý, giám sát chặt chẽ, nhiều DNNN sẽ sử dụng vốn vay tràn lan mà
không bị áp lực về nguy cơ phá sản.

Chính những điều đó đã khiến cho cấu trúc nguồn vốn của các DN này bị mất
cân đối nghiêm trọng, vốn cho hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn
đi vay. Vì vậy, phải tìm đội ngũ nhà quản lý DNNN thực sự tài năng, có chuyên
môn, năng lực quản lý và phát triển kinh doanh, coi trọng việc tái cấu trúc nguồn
vốn hướng đến hoạt động tài chính minh bạch và lành mạnh. Bên cạnh đó, cần
loại bỏ những nhà quản lý DN yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài hoặc không phát
huy được ưu thế của DNNN đúng với thế mạnh, tiềm năng.

2.      Chi phí nguồn vốn DNo hiện nay :


Theo khảo sát hiện nay, ở VN khoảng hơn 32% doanh nghiệp cho biết vay vốn
ngân hàng vẫn là nguồn huy động vốn chính trong thời gian qua. Hai hình thức
huy động vốn phổ biến tiếp theo là huy động vốn trong nội bộ DN (21%) và vốn
đối ứng của khách hàng (17%).

40
Chi phí nguồn vay : Mặc dù tín dụng ngân hàng vẫn là kênh truyền thông được
ưa chuộng, nhưng các DN cho rằng lạm phát và lãi suất cao, cộng với tỷ giá
không ổn định và thắt chặt cho vay và hạn mức tín dụng quá khắt khe của các
ngân hàng đang là những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới khả năng huy động vốn
của DN. Mức lãi suất vay vốn hiện nay của các NHTM đều lớn hơn 20%/năm.
Khó khăn lớn nhất mà họ phải đối mặt là lãi suất và các loại phí đi vay quá cao,
đồng thời, khó đáp ứng điều kiện cho vay của các nhà đầu tư hay bên cung ứng
vốn.
Trong bối cảnh siết tín dụng và thị trường chứng khoán ảm đạm như hiện nay,
DN cho rằng quan trọng nhất là phải tái cấu trúc nguồn vốn để sử dụng hiệu quả
đồng vốn hiện có của DN, tối ưu hóa các nguồn vốn nhàn rỗi và thu hẹp danh
mục đầu tư với những dự án chưa cần thiết để tiết kiệm chi phí. Lãi suất và tỉ giá
hiện đang là vấn đề rất lớn với DN nhưng đây cũng là cơ hội để DN tái cấu trúc
để hoạt động hiệu quả hơn. Chi phí vốn ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các
nước khác. Nó tác động đến dòng chảy của vốn vì người ta sẽ tìm tới những thị
trường có chi phí thấp hơn”.

Các DN Việt Nam cần phải bảo toàn vốn trong những lúc “bão tố”, còn khi sóng
yên biển lặng thì cũng phải duy trì quan hệ tốt với ngân hàng. Thực tế có những
DN vay vốn ở mức lãi suất 17% – 18% do có quan hệ tốt và được ngân hàng tin
tưởng.

Chi phí vốn CSH : Nguồn vốn CSH vẫn luôn là một nguồn quan trọng đối với mỗi
DN. Trong bối cảnh huy động vốn khó khăn như hiện nay, các DN cân nhắc các
nguồn vốn khác như liên kết theo chiều dọc, sáp nhập theo chiều ngang, từ các
quỹ đầu tư, tham gia vào thị trường chứng khoán quốc tế và huy động từ các
nhà đầu tư nhỏ lẻ.
Một số DN lớn, có uy tín đã biết tận dụng nguồn vốn trên kênh quốc tế như
Hoàng Anh Gia Lai là ví dụ khi phát hành thành công 100 triệu USD TPDN và
niêm yết trên TTCK Singapore. Sắp tới Vincom cũng có ý định phát hành 300
triệu USD TP cũng niêm yết tại Singapore. Tuy nhiên, theo khảo sát, chỉ có 10%
DN cho rằng tìm kiếm vốn từ các quỹ đầu tư nước ngoài là một biện pháp hiệu
quả để đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh. Khó khăn là hiện hữu nhưng đó

41
cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp có trình độ quản lý vốn tốt chiếm ưu thế để
vươn lên, mở rộng thị phần.

Như vậy. vấn đề nguồn vốn nào dành cho DN luôn là một vấn đề đau đầu của
bất cứ nhà quản trị tài chính. Yêu cầu cấp thiết đối với mỗi DN là phải có một
chính sách tái cấu trúc nguồn vốn , tức là cấu trúc lại nguồn vốn hợp lý hơn với
các chi phí vốn nhằm cân bằng giữa rủi ro và tỷ suất sinh lời để đạt tới tối đa hóa
giá trị DN. Quyết định cấu trúc nguồn vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối
với mỗi DN, bởi nó là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở
hữu và rủi ro tài chính mà DN có thể phải đối mặt. Tuy nhiên không phải bất kỳ
DN nào cũng có thể xác định được cho mình ngay từ đầu một cấu trúc nguồn
vốn hợp lý đảm bảo cho DN kinh doanh hiệu quả. Kể cả khi DN đã xây dựng
được một cấu trúc nguồn vốn hợp lý thì cấu trúc đó cũng không phải là bất biến
trong một thời gian dài.  Bối cảnh hiện nay đòi hỏi nhà quản lý DN ở Việt Nam
ngày càng phải am hiểu sâu về lĩnh vực tài chính DN – điều còn thiếu ở rất nhiều
lãnh đạo DN Việt Nam 

6.  Chứng khoán phái sinh


Chứng khoán phái sinh là những hợp đồng tài chính, hay công cụ tài chính mà
giá trị của nó được xác định dựa vào giá trị của một công cụ khác, thường gọi là
công cụ cơ sở (the underlying).

 Phân loại :
Chứng khoán phái sinh hay còn gọi là công cụ phái sinh, theo chuẩn mực Quốc
tế, bao gồm nhiều loại. Nhưng có thể liệt kê 5 loại chứng khoán phái sinh chủ
yếu sau: quyền mua cổ phần; chứng quyền; hợp đồng kỳ hạn; hợp đồng tương
lai; và quyền lựa chọn.

Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành
cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ
phần trong một đợt phát hành CP phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần
hiện có của họ trong công ty, tại mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời
ra công chúng và trong một thời hạn nhất định.

42
Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được
mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu
thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này
được phát hành khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty nhằm mục tiêu
khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi
có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư
có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.

Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán
chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một
thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá ấn định vào ngày hôm nay.

Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua
hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo
một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp
đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để
phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi.

Quyền lựa chọn: Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán)
một khối lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời
hạn nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm …

 Mặt tiêu cực của công cụ phái sinh:


Có thể gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng các công cụ đòn bẫy hay vay mượn;
rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng (đặc biệt là trong hợp đồng
swaps); tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với những nhà đầu tư nhỏ, thiếu kinh nghiệm.

Giá trị danh nghĩa quá lớn: rủi ro dẫn đến thua lỗ lớn mà nhà đầu tư không thể
bù đắp được. Khả năng dẫn đến phản ứng dây chuyển phá hủy hàng loạt khi có
khủng hoảng kinh tế. Giá trị danh nghĩa quá lớn dẫn tới việc làm méo mó thị
trường vốn thực. Nhà đầu tư bắt đầu nhìn vào thị trường các công cụ phái sinh

43
để quyết định mua hoặc bán chứng khoán, như vậy cái mà ban đầu được xem là
thị trường là để chuyển rủi ro trở thành một chỉ số hướng dẫn thị trường.

Đòn bẩy nợ trong nền kinh tế: việc gia tăng đòn bẩy nợ trong nền kinh tế làm
nền kinh tế thực không đủ khả năng để tài trợ cho nghĩa vụ nợ và điều chỉnh
những hoạt động kinh tế thực, điều này có thể gây ra suy thoái hay khủng hoảng
kinh tế.

 Mặt tích cực của công cụ phái sinh:


Thúc đẩy việc mua bán rủi ro, vì thế tạo ra một tác động tích cực trong nền kinh
tế. Trong điều kiện bình thường, giao dịch các chứng khoán phái sinh không tác
động nghiêm trọng đến hệ thống kinh tế vì nó không phải là một trò chơi có tổng
bằng không về tính hữu dụng, giảm tác động khi có suy giảm kinh tế xảy ra, giúp
tăng tính thanh khoản của các công cụ cơ sở; cho phép sử dụng đòn bẩy nâng
cao lợi nhuận.

9. Trình bày nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản trị tài chính doanh
nghiệp. Đưa ra ví dụ minh họa?

Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền: để đo lường giá trị tài sản của chủ sở hữu,
cần sử dụng khái niệm giá trị thời gian của tiền, tức là phải đưa lợi ích va chi phí
của dự án về một thời điểm , thường là thời điểm hiện tại . Theo quan điểm của
các nhà đầu tư , dự án được chấp nhận khi lợi ích lớn hơn chi phí . Trong
trường hợp này, chi phí cơ hội của vốn được đề cập như là tỷ lệ chiết khấu.

Thực tiễn hoạt động tài chính chỉ rõ: Một đồng ngày hôm nay có giá trị hơn một
đồng trong tương lai, bởi 3 lý do sau:
-          Thứ nhất: do lạm phát làm cho đồng tiền mất giá.
-          Thứ hai: do rủi ro trong đời sống kinh tế xã hội hàng ngày.
-          Thứ ba: do cơ hội đầu tư làm cho một đồng ngày hôm nay nếu để tới
ngày mai, ngoài tiền gốc còn có tiền lãi do chính nó sinh ra, còn một đồng ở
tương lai thì vẫn chỉ là một đồng mà thôi.
Ví dụ: một người lấy một dòng tiền, cho lãi suất chiết khấu rùi quy về hiện tại
nhéJ

44
9. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí vốn và tỷ lệ chiết khấu được sử dụng
trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư.
Trả lời:

-          Chi phi sử dụng vốn được xem như là 1 liên kết quyết định tài trợ và
quyết định đầu tư.
-          Chi phí sử dụng vốn thường được sử dụng để thay thế với tỷ suất sinh lời
đòi hỏi của doanh nghiệp, tỷ suất rào cản cho các nhà đầu tư mới và cơ hội phí
của sử dụng vốn.
-          Chi phí sử dụng vốn là:
+ tỷ suất sinh lời mà doanh nghiệp phải tạo ra từ những dự án đầu tư để đảm
bảo duy trì vốn cổ phần trên thị trường.
+ mức tỷ suất sinh lời mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu doanh
nghiệp phải trả nhằm đảm bảo tài trợ vốn của họ đối với doanh nghiệp.
ð  Chi phí sử dụng vốn là 1 khái niệm vô cùng quan trọng khi đề cập đến chiến
lược tài trợ của doanh nghiệp, là cầu nối quan trọng giữa các quyết định đầu tư
dài hạn của 1 doanh nghiệp với việc gia tăng giá trị tài sản của các chủ sở hữu
theo yêu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường, là cơ sở để lựa chọn dự án đầu
tư nào sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp.
-          Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp : tỷ lệ dùng để chiết khấu dòng
tiền bình quân của doanh nghiệp, qua đó tác động đến giá trị của doanh nghiệp.
-          Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án 
đầu tư là mức lãi suất chiết khấu được dùng khi rủi ro của dự án cá thể nàu khác
biệt với rủi ro của doanh nghiệp. Trong trường hợp nàu phải điều chỉnh mức lãi
suất chiết khấu phản ánh được mức độ lệch bình quân giữa rủi ro của doanh
nghiệp và rủi ro của dự án cá thể.
Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án = r +Δr +
Δr*Po/Io
Trong đó: r : chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp trước đầu tư
Δr : gia tăng trong chi phí sử dụng vốn do tính rủi ro của dự án mới này
Io: đầu tư ban đầu của dự án mới.
Po: giá trị của doanh nghiệp trước đầu tư
 Nhận xét: từ công thức trên ta thấy:

45
Chi phí sử dụng vốn sẽ khác nhau giữa dự án này với dự án khác tùy thuộc vào
mức độ rủi ro của dự án.
-          Nếu Δr = 0 thì chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp (WACC)
là lãi suất chiết khấu thích hợp.
-           Nếu Δr >0 ( đây là 1 dự án có rủi ro)thì cần cộng thêm phần bù rủi ro vào
WACC
-          Nếu Δr< 0 ( đây là 1 dự án ít rủi ro hơn độ rủi ro bình quân của doanh
nghiệp ) thì phải trừ đi 1 “ phí an toàn” từ WACC của doanh nghiệp.
13. Trình bày mối liên hệ giữa các bảng báo cáo tài chính của doanh
nghiệp
Báo cáo tài chính là một trong hai loại báo cáo của hệ thống báo cáo kế toán
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính được lập theo những chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành. Báo cáo tài chính phản ánh các chỉ tiêu kinh tế – Tài chính chủ
yếu của doanh nghiệp, nó phản ánh các thông tin tổng hợp nhất về tình hình tài
sản, nguồn vốn chủ sở hữu, công nợ, tình hình lưu chuyển tiền tệ cũng như tình
hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh
nhất định.

Theo quyết định số 15/2006 QĐ/BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ tài chính về ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp, hệ thống báo cáo tài
chính của doanh nghiệp, bao gồm 4 loại báo cáo sau đây: (1) Bảng cân đối kế
toán, Mã số B01 – DN; (2) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Mãsố B02 –
DN; (3) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Mã số B03 – DN; (4) Thuyết minh báo cáo
tài chính, Mã số B09 – DN.

Báo cáo tài chính đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như các khía cạnh phi tài
chính của một doanh nghiệp, nhằm dự báo tình hình hoạt động tài chính của
doanh nghiệp đó trong tương lai.

Mỗi loại báo cáo có những mục đích sử dụng riêng:

- Bảng cân đối kế toán mô tả tình trạng tài chính của 1 doanh nghiệp tại 1 thời
điểm nhất định, có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu,
quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Nhìn vào đó, nhà

46
phtich có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài
chính của DN, hơn nữa giúp các nhà ptich đánh giá đc khả năng cân bằng tài
chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.

- BC KQKD: cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình SXKD của DN và
cho phép dự tính khả năng hoạt động của DN trong tương lai, giúp nhà pt so
sánh doanh thu cới số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ, so sánh
tổng chi phí phát sinh vs số tiền thực xuất quỹ để vận hành DN => cung cấp
thông tin tổng hợp về tình hình và kết quae sử dụng các tiềm năng về vốn, lao
động, kỹ thuật và trình độ quản lý SXKD của DN.

- BCLCTT: xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập và thực xuất quỹ, trên cơ
sở đó, nhà pt thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xđ số dư
ngân quỹ cuối kỳ => từ đó thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho DN
nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.

Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của 1 DN, các nhà pt cần đọc và hiểu
được cá báo cáo tài chính, qua đó, nhận biết đc và tập trung vào các chỉ tiêu tài
chính liên quan trực tiếp tới  mục tiêu pt….

14. Khả năng thanh toán của DN được pt ntn thông qua các BCTC? Nhận
xét về tình hình pt TC của các doanh nghiệp VN hiện tại.
- Lý thuyết : sgk 41

- Liên hệ:

Thực trạng phân tích tài chính trong các doanh nghiệp hiện nay là kiêm nhiệm
bởi bộ phận tài chính – kế toán kiêm nhiệm. Nhân viên phân tích tài chính là
những người có liên quan đến việc thu thập và phân tích những thông tin tài
chính, phân tích xu hướng và đưa ra các dự báo kinh tế. Tuy nhiên các DN vẫn
còn rất coi nhẹ việc này.

Công việc của các nhân viên phân tích tài chính là vô cùng quan trọng vì các đề
xuất của họ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết định tài chính. Điều đó

47
đòi hỏi nhân viên phân tích phải đọc nhiều để nắm bắt được các thông tin liên
quan, các vấn đề về pháp luật, biến động thị trường, các tình hình hoạt động
được đăng tải trên tạp chí tài chính, sách báo…Vì vậy với tình hình hiện nay, các
doanh nghiệp nên chú trọng những vấn đề như: Chọn lọc những nhân viên cho
bộ phận tài chính phải có trình độ cơ bản về tài chính và có kinh nghiệm và thâm
niên trong công tác tài chính của công ty; Không ngừng đào tạo các bộ chuyên
trách thông qua các khoá tập huấn của Bộ Tài chính, trung tâm giáo dục của các
trường đại học chuyên ngành; Kịp thời tiếp nhận những thay đổi chính sách kế
toán và những chuẩn mực kế toán mới; Bổ sung những kiến thức về pháp luật
và các chính sách tài chính thông qua các thông tin trên các báo, công báo, các
trang Web liên quan; Khuyến khích tìm hiểu thông tin kinh tế trong và ngoài
nước từ mọi nguồn đăng tải; Có thể cử hoặc tạo điều kiện nhân viên tham gia
các khoán học ngắn, dài hạn tại các nước trên thế giới về kiến thức quản lý và
tài chính doanh nghiệp hiện đại; Tin học hoá đội ngũ nhân viên tài chính;
Thường xuyên cử họ đi dự các hội thảo chuyên ngành…

Tuy nhiên để thực hiện được những yêu cầu này về bản thân doanh nghiệp, cần
thực hiện nghiêm túc công tác kế toán và kiểm toán theo chế độ kế toán mới ban
hành, những chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và hệ thống pháp luật về
kinh tế.

Để có được những thông tin kế toán có giá trị, thì doanh nghiệp nên có những
biện pháp kiểm tra bằng chính nội bộ hoặc kiểm toán. Mặt khác, để doanh
nghiệp hoà nhập với quá trình phát triển của nền kinh tế, bắt nhịp với sự thay đổi
của đất nước, công tác kế toán phải tuân thủ theo chế độ kế toán mới và những
chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam. Bên cạnh đó cần chú trọng thực hiện
các vấn đề sau. Thứ nhất, bổ sung những báo cáo tài chính ngoài hệ thống báo
cáo tài chính bắt buộc của Bộ Tài chính để phục vụ luồng thông tin đầy đủ cho
công tác phân tích. Như phân tích Báo cáo thu nhập (Income statement) rất
quan trọng và được sử dụng trong hầu hết phân tích tài chính dùng cho những
quyết định về cơ cấu vốn, sử dụng vốn, các quyết định về đầu tư và sử dụng
những đòn bẩy… mà hầu như các doanh nghiệp hiện nay không sử dụng, sự
hiểu biết của họ về báo cáo thu nhập và các chỉ tiêu trong báo cáo là chưa rõ
ràng. Do vậy, doanh nghiệp nên đưa báo cáo thu nhập vào hệ thống báo cáo tài

48
chính. Thứ hai, nâng cao trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý. Tất cả các
quyết định về kinh doanh, tài chính, quản lý của doanh nghiệp đều từ cán bộ
quản lý. Do vậy, trình độ, năng lực và đạo đức của họ là quyết định sự hoạt động
có hiệu quả của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động tài chính và công tác phân
tích tài chính doanh nghiệp. Thứ ba, nâng cao trình độ nhân viên chuyên trách.
Và cuối cùng là thường xuyên trao đổi thông tin bên ngoài về kinh tế, tài chính,
thị trường qua trang Web hoặc các hình thức khác.

19. Đòn bẩy tài chính tạo ra rủi ro tài chính. Tại sao các nhà quản trị không
loại bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt động kinh doanh bằng vốn
cổ phần, tránh sử dụng Nợ vay?
-          Đòn bẩy tài chính tồn tại do chi phí tài chính cố định của doanh nghiệp
(chi phí lãi vay, cổ tức của cổ phiếu ưu tiên). Đòn bẩy tài chính là sự sử dụng
tiềm năng của chi phí tài chính cố định để làm gia tăng tác động của những thay
đổi trong lợi nhuận trước thuế lên lợi nhuận cơ bản trên mỗi cổ phiếu của doanh
nghiệp

-          Độ lớn của đòn bẩy tài chính (DFL)=%thay đổi EPS/% thay đổi EBIT.
Bằng sự biến đổi số học có thể có: DFL = (Q(P-VC)-FC)/ (Q(P-VC)-FC-I-DP/(1-
t)). Khi nào 1% thay đổi của EBIT tạo ra nhiều hơn 1% thay đổi của EPS thì đòn
bẩy tài chính tồn tại.

-          Xét tác động của đòn bẩy tài chính với 2 DN A và B, trong đó A sử dụng
100% VCSH (0% nợ vay, không có CP ưu tiên, DFL=1), B sử dụng 50% VCSH
(50% nợ vay, không có CP ưu tiên, DFL #1), xét 2 trường hợp khi doanh thu
tăng và doanh thu giảm. Với DN A, trong 2 TH DFL=1. Với DN B, khi doanh thu
tăng, EBIT tăng, DFL>1, EPS tăng nhiều hơn; khi doanh thu giảm, EBIT giảm,
DFL>1, EPS giảm nhiều hơn ~~> rủi ro khi sử dụng đòn bẩy tài chính (đòn bẩy
tài chính có tác động tiêu cực)

-          Các nhà quản trị không loại bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt
động kinh doanh bằng vốn cổ phần, tránh sử dụng nợ vay vì:

49
+ Đòn bẩy tài chính có thể mang lại rủi ro nhưng theo nguyên tắc rủi ro càng cao,
lợi nhuận kỳ vọng càng cao thì với những nhà quản trị “mạo hiểm” thì vẫn có thể
sử dụng đòn bẩy tài chính, thậm chí với mức cao.

+ Dựa trên lý thuyết lựa chọn cơ cấu vốn tối ưu, các nhà quản trị có thể đưa ra
quyết định về cơ cấu vốn. Trên lý thuyết, có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu
cho mọi doanh nghiệp nhưng trên thực tế không làm được điều này. Giải thích
tương tự câu “có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho mọi doanh nghiệp”

20. Tại sao nói đòn bẩy kinh doanh là đòn bẩy giai đoạn đầu, đòn bẩy tài
chính là đòn bẩy giai đoạn sau?
Câu này t không biết chính xác, nghĩ là: đòn bẩy kinh doanh có thể xác lập dựa
vào chí phí hoạt động cố định, ngay khi mới thành lập có thể sử dụng, còn đòn
bẩy tài chính, để huy động được nợ vay và cp ưu tiên cần có thời gian lấy được
lòng tin, thêm nữa, đòn bẩy tài chính có rủi ro, doanh nghiệp sau khi hoạt động 1
thời gian mới dám đối mặt với rủi ro này.

21, ưu nhược điểm công ty cổ phần

-Ưu điểm

1/ Chế độ trách nhiệm của Công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ


đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
2/ Khả năng hoạt động của Công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lịch vực,
ngành nghề (thực tế hiện nay thì ưu điểm này không phải là tuyệt đối vì các loại
hình công ty đều có quyền kinh doanh ngành nghề, lĩnh vực gần như nhau, thậm
chí công ty TNHH còn có nhiều lợi thế hơn trong việc kinh doanh các ngành nghề có
tính chất đối nhân - không đối vốn như dịch vụ kế toán, tư vấn Luật ...).
3/ Cơ cấu vốn của Công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng
góp vốn vào công ty;
 4/ Khả năng huy động vốn của Công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành
cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần;
5/ Việc chuyển nhượng vốn trong Công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy
phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ
công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của Công ty cổ phần (đối với công ty Đại
50
chúng, công ty niêm yết trên Sàn chứng khoán thì chỉ có công ty cổ phần
mới có quyền này).

- Nhược điểm:

Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có
thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân
hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích;
Việc giảm vốn trong công ty cổ phần hiện nay đang không được quy định cụ thể;
Sau 3 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông mới
mua cổ phần của công ty sẽ không có tên trên giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.

51

You might also like