Professional Documents
Culture Documents
Phép biện chứng của Hegel một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức
Phép biện chứng của Hegel một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức
Hegel sinh tại Stuttgart vào ngày 27/8/1770, là con trai của Georg
Ludwig Hegel, một nhân viên hải quan thuộc lãnh địa công tước của
Wurttemburg. Là anh cả trong số ba đứa con (em trai ông, Georg
Ludwig, sớm qua đời lúc là một sĩ quan trong quân đội Napoleon trong
chiến dịch Nga), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành
ngoan đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông tới trường,
nhưng bà đã mất khi ông lên 11. Ông rất gắn bó với chị mình,
Christiane, sau này bà thường gây nên những ghen tỵ thất thường trong
vợ của ông khi ông kết hôn vào độ tuổi 40 và đã tự vẫn ba tháng sau cái
chết của ông. Hegel phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối loạn thần kinh
của chị ông và phát triển những ý tưởng về tâm thần học dựa trên
những khái niệm biện chứng.
Hegel đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã
cổ đại khi đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn
học và khoa học Đức. Cha ông cổ vũ ông trở thành một giáo sĩ, và
Hegel đã vào trường dòng tại đại học Tübingen năm 1788. Ở đó ông đã
phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich Holderlin và nhà triết học
Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc biệt là do ảnh hưởng từ
Holderlin, Hegel đã phát triển một niềm say mê sâu sắc đối với văn học
và triết học Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời, Hegel đã
ghi lại và nhớ tất cả những gì ông đọc – và số lượng ông đọc thì nhiều
vô kể! Ông khâm phục Goethe và tự luôn đặt mình thấp hơn những
thiên tài đương thời ông, Holderlin và Schelling.
Nước Đức thời Hegel cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do
rất nhiều quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những
biến động sôi nổi của châu Âu. Hegel rất say mê đọc Schiller và
Rousseau. Năm Hegel 18 cũng là lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm
và Nền cộng hòa ra công khai ở Pháp, Hegel đã nhiệt tình ủng hộ cho
cuộc cách mạng, và là thành viên trong một nhóm ủng hộ được thành
lập ở Tübingen. Hegel hoàn thành tác phẩm vĩ đại đầu tiên của mình,
Hiện tương học tinh thần vào ngay trước ngày xảy ra cuộc chiến quyết
định Jena, trong đó Napoleon đã phá tan quân đội Phổ và chia cắt
Vương quốc đó ra. Binh lính Pháp ập vào và đốt nhà của Hegel ngay
sau khi ông kịp nhét nốt trang bản thảo cuối cùng của Hiện tượng học
vào trong túi và ẩn náu vào nhà một viên công chức cao trong thị trấn.
Trong Hiện tượng học ông cố gắng để hiểu được nỗi kinh hoàng cách
mạng của những người Gia-cô-banh thông qua những lời phát biểu của
họ về Tự do. Hegel ăn mừng ngày chiếm ngục Bastille trong suốt cuộc
đời mình.
Sau khi hoàn thành khóa học về triết học và thần học và quyết
định không vào đoàn mục sư, Hegel đã trở thành một gia sư tư ở Berne,
Switzerland. Vào khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông
Holderlin, Hegel bắt đầu nghiên cứu về Immanuel Kant và Johann
Fichte nhưng những trước tác đầu tiên của ông trong thời kì này lại là
Cuộc đời Jesus và Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc.
Năm 1796, Hegel viết Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy
tâm chủ nghĩa Đức cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn:
“… quốc gia là một cái gì đó hoàn toàn máy móc – và không có ý niệm
(phi vật chất) về một cái máy. Chỉ cái gì là khách thể của tự do mới có
thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần phải vượt quá quốc gia! Mọi
quốc gia cần đối xử với những người tự do như những cái răng trong
một cái máy. Và đây chính là điều không nên xảy ra; do đó quốc gia
phải bị lụi tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hegel một địa điểm
ở Frankfurt, nhưng hai năm sau đó cha ông mất, giải thoát cho ông khỏi
nghề gia sư.
Năm 1801, Hegel đến đại học Jena. Fichte đã rời Jena năm 1799,
Schiller thì rời khỏi đó năm 1793, nhưng Schelling còn ở lại cho mãi
tận đến năm 1803 và Hegel cùng Schelling đã cộng tác với nhau trong
suốt quãng thời gian hai ông còn chung ở Jena.
Hegel đã nghiên cứu, viết lách và giảng bài tại đó, mặc dù ông đã
không được nhận lương cho đến tận cuối năm 1806, ngay trước khi
hoàn thành bản phác thảo đầu tiên cuốn Hiện tượng học tinh thần – tác
phẩm đầu tiên giới thiệu sự đóng góp độc nhất vô nhị của ông cho triết
học – một phần trong đó lấy từ những nét về nước Pháp do một người
đưa thư cho bạn của ông Niethammer ở Bamburg, Bavaria, đem đến
trước khi Jena bị quân đội Napoleon chiếm và Hegel bị buộc phải chạy
trốn – những trang còn lại ở trong túi ông.
Sau khi tiêu hết gia tài của người cha quá cố để lại, Hegel trở
thành biên tập viên của tờ Thiên chúa giáo nhật báo Bamberger
Zeitung. Tuy nhiên, ông không thích nghề báo, và chuyển đến
Nuremberg, ở đó ông làm hiệu trưởng một trường trung học trong 8
năm. Ông tiếp tục làm việc về Hiện tượng học. Hầu hết mọi thứ Hegel
phát triển một cách có hệ thống kín khắp thời gian rỗi của mình trong
suốt cuộc đời ông đã được báo trước trong Hiện tượng học, nhưng cuốn
sách này thiếu tính hệ thống và cực kỳ khó đọc. Hiện tượng học giới
thiệu về lịch sử nhân loại, với tất cả các cuộc cách mạng, chiến tranh và
những khám phá khoa học, như là một sự tự phát triển duy tâm của một
khách thể Tinh thần hay Linh hồn.
Trong suốt những năm ở Nuremberg, Hegel gặp rồi kết hôn với
Marie von Tucher (1791-1855). Họ có với nhau ba đứa con – một bé
gái mất ngay sau khi sinh, và hai con trai, Karl (1813-1901) và
Immanuel (1814-91). Hegel còn có một đứa con trai ngoài giá thú,
Ludwig, với vợ của người chủ nhà trọ trước của ông ở Jena. Ludw ig
được sinh ra ít lâu sau khi Hegel rời Jena nhưng sau rồi cũng đến sống
với ông.
Khi ở Nuremberg, Hegel trải qua một thời kỳ vài năm xuất bản
cuốn Khoa học của Logic (1812,1813,1816). Năm 1816, Hegel nhận
chức giáo sư triết học tại đại học Heidelberg. Ngay sau đó, ông công bố
dưới dạng tóm lược một báo cáo mang tính hệ thống về toàn bộ triết
học của ông nhan đề Bách khoa về các khoa học triết học được dịch lần
đầu tiên sang tiếng Anh năm 1959 và gồm cả The Shorter Logic, ở
dạng Phần I. Bộ Bách khoa tiếp tục được duyệt lại cho đến năm 1827,
và bản cuối cùng được xuất bản năm 1830.
Năm 1818, Hegel được mời đến dạy tại đại học Berlin, và ông đã
ở đó luôn. Ông mất ở Berlin ngày 14/11/1831, vì bệnh dịch tả.
Tác phẩm dài và đầy đủ cuối cùng Hegel xuất bản là Triết học về
quyềnTriết học về nghệ thuật thanh khiết, Các bài giảng về lịch sử triết
học (1833-36), Các bài giảng về lịch sử tôn giáo (1832), và Các bài
giảng về triết học lịch sử (1837). (1821), tuy nhiên có một vài mục
trong các bài giảng của ông, được bổ sung nhờ các ghi chép của sinh
viên, được xuất bản sau khi ông mất.
Tiền đề:
Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là kết quả của quá trình xây
dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức mà khởi đầu là
Cantơ (Kant). Quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách
mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản
Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động
sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh
thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng
hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để
sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp,
với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là
quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở
đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong -
hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của m áy móc, có tổ
chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện
với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài
người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.
Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa
phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư
sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính
toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người
sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant
khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng
thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt
động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được
tính chất khách quan.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được
một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử,
tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân
duy lý.
Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình
thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế
giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy
luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất
hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức
kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới
phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant
chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa
phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng
định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte đã tuyệt đối hóa quan niệm duy
tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà
có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy
nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.
Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng
phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động
sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái “tôi” và cái “không phải là
tôi”. Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh
hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là
một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về
quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định);
và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy
định).
Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi
chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan.
Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi
đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.
Với Schelling, phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa.
Phương pháp mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và
bao gồm cả tự nhiên. Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự
nhiên xuất phát là từ cùng một nguồn gốc: đó là “Tuyệt đối”. Tự nhiên
không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách quan không nằm trong chủ
quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối.
Tư tưởng của Schelling đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ “lung
tung” sau khi chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ
tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một
cách “lung tung”.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó,
và xây dựng một chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu
cầu mới đó được phản ánh trong triết học của Hegel.
Đồng thời trong khoa học logic phương pháp biện chứng của
Hegel còn được thể hiện ở chỗ: Ông đặt ra vấn đề sự thống nhất quá
trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự
tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình
thức và đòi hỏi một logic có nội dung thực tế, sinh động; ông nêu lên
những tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận
nhận thức.
Tư tưởng biện chứng của Hegel về sự phát triển của đời
sống xã hội
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hegel trình bày
trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”.
Khi bàn đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học
Anh và Pháp thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần
mà ông quan niệm con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ
thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình, chính
qua quá trình hoạt động mà ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí
tự do của con người mới phát triển. Do đó, con người mới hoàn thiện.
Như vậy, ở đây Hegel không bàn đến con người cụ thể mà bàn đến con
người
trừu tượng, lý tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hegel thường gắn với
quan điểm về nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng
định mọi người về bản tính vốn bình đẳng là không đúng ..., cần phải
nói ngược lại rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây
dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu
xuất phát từ bản tính con người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy
ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác
nhau. Chính từ đó nhà nước xuất hiện. Theo Hegel, nhà nước ra đời
nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định hướng sự
phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà là
tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức,
pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào
của lịch sử.
Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời
sống xã hội nó có quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự
phát triển đó, vì nó là đại biểu cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn
tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì
hợp lý”; ở đây, Hegel đã lập luận để bảo vệ sự tồn
tại của nhà nước phong kiến Phổ.
Khi bàn đến chiến tranh, Hegel cho rằng, chiến tranh là một hiện
tượng vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể
trạng đạo đức của dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc
tránh khỏi sự thối nát.
Hegel cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính
chủ quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra
theo ý muốn chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất
yếu trải qua các thời đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn
mực, ưu việt của thời đại này so với thời đại khác. Nhưng ông hiểu tự
do một cách duy tâm: tự do còn thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo
ý chúa.