You are on page 1of 16

Tiểu luận

PHÉP BIỆN CHỨNG CỦA HEGEL

MỘT THÀNH TỰU VĨ ĐẠI CỦA


TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
 Sơ lược về tiểu sử của Hegel.

Georg Wilhelm Friedrich Hegel, sinh ngày 27 tháng 8 năm


1770, mất năm 1831.

Hegel sinh tại Stuttgart vào ngày 27/8/1770, là con trai của Georg
Ludwig Hegel, một nhân viên hải quan thuộc lãnh địa công tước của
Wurttemburg. Là anh cả trong số ba đứa con (em trai ông, Georg
Ludwig, sớm qua đời lúc là một sĩ quan trong quân đội Napoleon trong
chiến dịch Nga), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành
ngoan đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông tới trường,
nhưng bà đã mất khi ông lên 11. Ông rất gắn bó với chị mình,
Christiane, sau này bà thường gây nên những ghen tỵ thất thường trong
vợ của ông khi ông kết hôn vào độ tuổi 40 và đã tự vẫn ba tháng sau cái
chết của ông. Hegel phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối loạn thần kinh
của chị ông và phát triển những ý tưởng về tâm thần học dựa trên
những khái niệm biện chứng.

Hegel đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã
cổ đại khi đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn
học và khoa học Đức. Cha ông cổ vũ ông trở thành một giáo sĩ, và
Hegel đã vào trường dòng tại đại học Tübingen năm 1788. Ở đó ông đã
phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich Holderlin và nhà triết học
Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc biệt là do ảnh hưởng từ
Holderlin, Hegel đã phát triển một niềm say mê sâu sắc đối với văn học
và triết học Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời, Hegel đã
ghi lại và nhớ tất cả những gì ông đọc – và số lượng ông đọc thì nhiều
vô kể! Ông khâm phục Goethe và tự luôn đặt mình thấp hơn những
thiên tài đương thời ông, Holderlin và Schelling.

Nước Đức thời Hegel cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do
rất nhiều quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những
biến động sôi nổi của châu Âu. Hegel rất say mê đọc Schiller và
Rousseau. Năm Hegel 18 cũng là lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm
và Nền cộng hòa ra công khai ở Pháp, Hegel đã nhiệt tình ủng hộ cho
cuộc cách mạng, và là thành viên trong một nhóm ủng hộ được thành
lập ở Tübingen. Hegel hoàn thành tác phẩm vĩ đại đầu tiên của mình,
Hiện tương học tinh thần vào ngay trước ngày xảy ra cuộc chiến quyết
định Jena, trong đó Napoleon đã phá tan quân đội Phổ và chia cắt
Vương quốc đó ra. Binh lính Pháp ập vào và đốt nhà của Hegel ngay
sau khi ông kịp nhét nốt trang bản thảo cuối cùng của Hiện tượng học
vào trong túi và ẩn náu vào nhà một viên công chức cao trong thị trấn.
Trong Hiện tượng học ông cố gắng để hiểu được nỗi kinh hoàng cách
mạng của những người Gia-cô-banh thông qua những lời phát biểu của
họ về Tự do. Hegel ăn mừng ngày chiếm ngục Bastille trong suốt cuộc
đời mình.

Sau khi hoàn thành khóa học về triết học và thần học và quyết
định không vào đoàn mục sư, Hegel đã trở thành một gia sư tư ở Berne,
Switzerland. Vào khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông
Holderlin, Hegel bắt đầu nghiên cứu về Immanuel Kant và Johann
Fichte nhưng những trước tác đầu tiên của ông trong thời kì này lại là
Cuộc đời Jesus và Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc.
Năm 1796, Hegel viết Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy
tâm chủ nghĩa Đức cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn:
“… quốc gia là một cái gì đó hoàn toàn máy móc – và không có ý niệm
(phi vật chất) về một cái máy. Chỉ cái gì là khách thể của tự do mới có
thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần phải vượt quá quốc gia! Mọi
quốc gia cần đối xử với những người tự do như những cái răng trong
một cái máy. Và đây chính là điều không nên xảy ra; do đó quốc gia
phải bị lụi tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hegel một địa điểm
ở Frankfurt, nhưng hai năm sau đó cha ông mất, giải thoát cho ông khỏi
nghề gia sư.

Năm 1801, Hegel đến đại học Jena. Fichte đã rời Jena năm 1799,
Schiller thì rời khỏi đó năm 1793, nhưng Schelling còn ở lại cho mãi
tận đến năm 1803 và Hegel cùng Schelling đã cộng tác với nhau trong
suốt quãng thời gian hai ông còn chung ở Jena.

Hegel đã nghiên cứu, viết lách và giảng bài tại đó, mặc dù ông đã
không được nhận lương cho đến tận cuối năm 1806, ngay trước khi
hoàn thành bản phác thảo đầu tiên cuốn Hiện tượng học tinh thần – tác
phẩm đầu tiên giới thiệu sự đóng góp độc nhất vô nhị của ông cho triết
học – một phần trong đó lấy từ những nét về nước Pháp do một người
đưa thư cho bạn của ông Niethammer ở Bamburg, Bavaria, đem đến
trước khi Jena bị quân đội Napoleon chiếm và Hegel bị buộc phải chạy
trốn – những trang còn lại ở trong túi ông.

Sau khi tiêu hết gia tài của người cha quá cố để lại, Hegel trở
thành biên tập viên của tờ Thiên chúa giáo nhật báo Bamberger
Zeitung. Tuy nhiên, ông không thích nghề báo, và chuyển đến
Nuremberg, ở đó ông làm hiệu trưởng một trường trung học trong 8
năm. Ông tiếp tục làm việc về Hiện tượng học. Hầu hết mọi thứ Hegel
phát triển một cách có hệ thống kín khắp thời gian rỗi của mình trong
suốt cuộc đời ông đã được báo trước trong Hiện tượng học, nhưng cuốn
sách này thiếu tính hệ thống và cực kỳ khó đọc. Hiện tượng học giới
thiệu về lịch sử nhân loại, với tất cả các cuộc cách mạng, chiến tranh và
những khám phá khoa học, như là một sự tự phát triển duy tâm của một
khách thể Tinh thần hay Linh hồn.

Trong suốt những năm ở Nuremberg, Hegel gặp rồi kết hôn với
Marie von Tucher (1791-1855). Họ có với nhau ba đứa con – một bé
gái mất ngay sau khi sinh, và hai con trai, Karl (1813-1901) và
Immanuel (1814-91). Hegel còn có một đứa con trai ngoài giá thú,
Ludwig, với vợ của người chủ nhà trọ trước của ông ở Jena. Ludw ig
được sinh ra ít lâu sau khi Hegel rời Jena nhưng sau rồi cũng đến sống
với ông.

Khi ở Nuremberg, Hegel trải qua một thời kỳ vài năm xuất bản
cuốn Khoa học của Logic (1812,1813,1816). Năm 1816, Hegel nhận
chức giáo sư triết học tại đại học Heidelberg. Ngay sau đó, ông công bố
dưới dạng tóm lược một báo cáo mang tính hệ thống về toàn bộ triết
học của ông nhan đề Bách khoa về các khoa học triết học được dịch lần
đầu tiên sang tiếng Anh năm 1959 và gồm cả The Shorter Logic, ở
dạng Phần I. Bộ Bách khoa tiếp tục được duyệt lại cho đến năm 1827,
và bản cuối cùng được xuất bản năm 1830.

Năm 1818, Hegel được mời đến dạy tại đại học Berlin, và ông đã
ở đó luôn. Ông mất ở Berlin ngày 14/11/1831, vì bệnh dịch tả.
Tác phẩm dài và đầy đủ cuối cùng Hegel xuất bản là Triết học về
quyềnTriết học về nghệ thuật thanh khiết, Các bài giảng về lịch sử triết
học (1833-36), Các bài giảng về lịch sử tôn giáo (1832), và Các bài
giảng về triết học lịch sử (1837). (1821), tuy nhiên có một vài mục
trong các bài giảng của ông, được bổ sung nhờ các ghi chép của sinh
viên, được xuất bản sau khi ông mất.

 Nội dung phép biện chứng của Hegel.

 Tiền đề:

Biện chứng pháp duy tâm của Hegel là kết quả của quá trình xây
dựng phương pháp biện chứng trong triết học Đức mà khởi đầu là
Cantơ (Kant). Quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách
mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản
Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao được vai trò lao động
sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh
thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi hàng
hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để
sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp,
với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là
quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở
đây chỉ là hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong -
hàng hóa là sản sinh ra trong một quá trình sản xuất của m áy móc, có tổ
chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động sáng tạo đã được thực hiện
với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng thế giới của loài
người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.
Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa
phải là vật chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư
sản chỉ giữ lại phần lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính
toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động thực sự tức là con người
sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tư tưởng Kant
khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng
thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt
động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được
tính chất khách quan.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được
một khái niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử,
tức là quá trình lao động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân
duy lý.
Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình
thức kỹ thuật của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế
giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những cảm giác theo quy
luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản xuất
hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức
kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Kant mới
phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant
chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa
phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng
định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte đã tuyệt đối hóa quan niệm duy
tâm của Kant. Fichte nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà
có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy
nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.

Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng
phương pháp biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động
sáng tạo và thế giới được sáng tạo, giữa cái “tôi” và cái “không phải là
tôi”. Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh
hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt ra: tôi là
một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về
quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định);
và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy
định).
Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi
chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan.
Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi
đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.
Với Schelling, phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa.
Phương pháp mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và
bao gồm cả tự nhiên. Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự
nhiên xuất phát là từ cùng một nguồn gốc: đó là “Tuyệt đối”. Tự nhiên
không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách quan không nằm trong chủ
quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối.
Tư tưởng của Schelling đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ “lung
tung” sau khi chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ
tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một
cách “lung tung”.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó,
và xây dựng một chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu
cầu mới đó được phản ánh trong triết học của Hegel.

 Nội dung cơ bản của phép biện chứng Hegel.


2.1 Phương pháp luận biện chứng :
Hegel phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi
những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan
niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó
đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình
biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển lên
một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hegel.
Khi trình bày về “ ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển ,
Hegel cho rằng đó là sự vận động nội tại của “ ý niệm tuyệt đối”. Tự
vận động tức là thay đổi hình thức phát triển khác nhau của “ý niệm
tuyệt đối”. Lenin cũng đã tìm thấy hạt nhân hợp lý trong phương pháp
biện chứng của Hegel là sự tự vận động. Nội dung hợp lý và sâu sắc
này trong quan điểm của Hegel theo Lenin là mối liên hệ tất yếu, là
nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau. Khi trình bày sự phát triển
của “ý niệm tuyệt đối” Hegel thừa nhận tồn tại, khái niệm, bản chất là
ba sự quy định, ba hình thức biểu hiện chủ yếu trong quá trình phát
triển. Điều này phù hợp với quá trình suy nghĩ, nhận thức của con
người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản
chất, khi nắm được bản chất ta rút ra khái niệm. Phương pháp tư duy
này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay ở tất cả các bộ môn khoa
học khác nhau. Điều này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong phần sau:
“Giá trị và hạn chế của phép Biện chứng Duy tâm của Hegel”.
Hegel không phải là người đầu tiên xây dựng nên phép biện
chứng song qua tư tưởng và quá trình hoạt động của mình, Hegel đã
khiến nó trở nên hoàn thiện hơn và mang lại cho phép biện chứng một
vị trí quan trọng trong triết học. Ông quan niệm, phép biện chứng: “ nói
chung là nguyên tắc của mọi sự vận động, mọi sự sống và mọi hoạt
động trong phạm vi hiện thực. Ông coi biện chứng cũng là linh hồn của
mọi nhận thức khoa học chân chính”. Với tư tưởng như vậy, ông đã
xem xét mọi sự vật hiện tượng, ý thức dưới cái nhìn biện chứng. Và về
cốt lõi, phương pháp biện chứng của ông cũng bao gồm 02 nội dung cơ
bản:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh
hưởng nhau, ràng buộc nhau (cái toàn thể và cái bộ phận...).
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong
khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của
các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của
các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng của Hegel cũng đã thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần
thiết thì bên cạnh cái "hoặc là... hoặc là..." còn có cả cái "vừa là... vừa
là..." nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không
phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau
lại vừa gắn bó với nhau.
Như vậy, mặc dù chưa đạt được tính triệt để trong phép biện
chứng như chủ nghĩa Mác, chưa trình bày phương pháp biện chứng
dưới một hệ thống của gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định
của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật không
cơ bản(cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và
kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhien và ngẫu nhiên; khả năng và
hiện thực). Song phép biện chứng của Hegel đã đạt được những thành
tựu cơ bản của nó và trở thành hạt nhân hợp lý cho phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa Mác-xít.
Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về
thế giới. Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về
thế giới chứ không phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của
khoa học cụ thể.
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách
quan. Triết học của ông đầy mâu thuẫn giống như sự mâu thuẫn của cả
xã hội Đức nói chung, của nền triết học Đức lúc bấy giờ nói riêng. Nếu
phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư
tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông
phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn
có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội.
2.2 Hệ thống các phạm trù, quy luật:
Trong khuôn khổ phép biện chứng duy tâm của mình, Hegel
không chỉ trình bày các phạm trù: như chất, lượng, phủ định, mâu
thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và
ngược lại”, “phủ định của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”. Các cặp
phạm trù này được Hegel đặc biệt nhắc đến ở nội dung Logic học của
ông. Trong Logic học ở phần tồn tại, Hegel đã diễn đạt các phạm trù vật
chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hoá từ lượng đến
chất và ngược lại. Tư tưởng của Hegel về sự biến đổi của khái niệm
chất thành khái niệm lượng , và ngược lại, về độ như là sự thống nhất
giữa chất với lượng, đã bao hàm sự dự đoán hợp lý về phát triển. Công
lao của Hegel trong vấn đề này là ở chỗ ông đã dựa vào hóa học m à bác
bỏ quan niệm siêu hình về sự vận động liên tục và nêu lên khái niệm
đường dây nút của độ- nghĩa là nêu lên khái niệm về sự phát triển, trong
đó sự tiệm tiến bị gián đoạn bởi những bước nhảy vọt. Chính trong luận
điểm ấy Lenin đã nhìn thấy sự dự đoán của Hegel về sự phát triển theo
bước nhảy vọt.
Ở phần bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và thực hiện,
nguyên nhân và kết quả, và phần trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn
gốc của sự phát triển. Trong phương pháp biện chứng của Hegel đã bộc
lộ sự dự đoán hợp lý về sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực về
ngẫu nhiên là hình thức thể hiện của tất yếu. Quan niệm biện chứng của
Hegel về nguyên nhân và kết quả cũng rất đáng chú ý. Hegel cho rằng
kết quả nói chung chỉ mang trong nó cáo gì mà cũng có cả ở trong
nguyên nhân và cùng một sự vật, trong những trường hợp này thì
nguyên nhân, trong trường hợp khác là kết quả. Đây là quan niệm hợp
lý của Hegel về quan hệ nhân quả.
Ở phần khái niệm của học thuyết Logic, Hegel đã diễn đạt phạm
trù về cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng
hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con
người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại các quan
niệm phát triển với tư cách là phủ định của phủ định.

Đồng thời trong khoa học logic phương pháp biện chứng của
Hegel còn được thể hiện ở chỗ: Ông đặt ra vấn đề sự thống nhất quá
trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự
tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình
thức và đòi hỏi một logic có nội dung thực tế, sinh động; ông nêu lên
những tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận
nhận thức.
 Tư tưởng biện chứng của Hegel về sự phát triển của đời
sống xã hội
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hegel trình bày
trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”.
Khi bàn đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học
Anh và Pháp thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần
mà ông quan niệm con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ
thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình, chính
qua quá trình hoạt động mà ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí
tự do của con người mới phát triển. Do đó, con người mới hoàn thiện.
Như vậy, ở đây Hegel không bàn đến con người cụ thể mà bàn đến con
người
trừu tượng, lý tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hegel thường gắn với
quan điểm về nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng
định mọi người về bản tính vốn bình đẳng là không đúng ..., cần phải
nói ngược lại rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây
dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu
xuất phát từ bản tính con người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy
ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác
nhau. Chính từ đó nhà nước xuất hiện. Theo Hegel, nhà nước ra đời
nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định hướng sự
phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà là
tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức,
pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào
của lịch sử.
Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời
sống xã hội nó có quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự
phát triển đó, vì nó là đại biểu cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn
tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì
hợp lý”; ở đây, Hegel đã lập luận để bảo vệ sự tồn
tại của nhà nước phong kiến Phổ.

Khi bàn đến chiến tranh, Hegel cho rằng, chiến tranh là một hiện
tượng vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể
trạng đạo đức của dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc
tránh khỏi sự thối nát.
Hegel cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính
chủ quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra
theo ý muốn chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất
yếu trải qua các thời đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn
mực, ưu việt của thời đại này so với thời đại khác. Nhưng ông hiểu tự
do một cách duy tâm: tự do còn thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo
ý chúa.

III. Giá trị và hạn chế


 Giá trị:
 Tiến bộ hơn những tư tưởng triết học cùng thời.
Có thể khẳng triết học Hegel là đỉnh cao của triết học Tây Âu thời
kỳ cận đại đúng như ông đã từng thừa nhận. Và cốt lõi để tạo nên sự
tiến bộ ấy chính là phép biện chứng của ông.
Mặc dù phương pháp tư duy siêu hình trong thời kỳ phục hưng là
một tiến bộ lớn để chống lại những tư tưởng của thần quyền. Tuy nhiên,
đến thời kỳ cận đại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản và
của khoa học tự nhiên, Triết học Tây Âu đã quá coi trọng tư duy siêu
hình, đề cao phương pháp thực nghiệm. Điều này khiến cho triết học
Tây Âu cận đại sa vào bế tắc khi giải quyết một số vấn đề mang tính
chất thời đại lúc bấy giờ. Điển hình như quan điểm siêu hình không thể
lý giải nổi những biến động đang diễn ra trong nền kinh tế, không thấy
được nguyên nhân và xu thế của các các cuộc các mạng tư sản Tây
Âu.... Hegel với phương pháp biện chứng của mình mà chủ yếu là tư
tưởng về sự vận động và phát triển đã lý giải nguyên nhân đồng thời
đưa ra những xu hướng phát triển cho giới tự nhiên và xã hội. Ông là
người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần
dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng vạch
ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy. Ví dụ: Bản
thân ông cũng đã từng ví triết học của mình là đỉnh cao bởi ông cho
rằng các triết học trước bản thân chúng cũng có sự mâu thuẫn và luôn
có sự đấu tranh thay thế để đạt đến đỉnh cao. Và đỉnh cao đó chính là
Triết học Hegel. Mặc dù sự tự phong này là mâu thuẫn với tư duy về sự
vận động phát triển của mình song qua cách lý giải đó có thể thấy được
cách thức giải quyết các vấn đề hóc búa của triết học thời kỳ đó của
Hegel là hợp lý.
 Tạo tiền đề cho TH Mac-Lênin:
Triết học Mac-Lenin với phương pháp Biện chứng duy vật là đỉnh
cao của triết học của thời đại ngày nay. Và chính những người sáng tạo
nên hệ thống triêt học đó đã thừa nhận sự kế thừa và phát triển cái nhân
hợp lý trong triết học của Hegel. Cái nhân ấy chính là phép biện chứng,
là hệ thống các quan điểm của ông. C. Mác không những chỉ phê phán
một cách sâu sắc phép biện chứng của Hegel mà còn cải tạo phép biện
chứng đó xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự
khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông -
bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã
mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành
người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung. Phép biện chứng ấy ở Hegel là phép biện chứng bị
lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái
hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Nhiều nhà triết học đã đánh giá: nếu loại bỏ đi cái xuất phát điểm
trong thế giới quan duy tâm của Hegel, người ta sẽ không thể phân biệt
được đâu là triết học Mác đâu là triết học Hegel. Mặc dù việc phát triển
của triết học Mác không đơn thuần là “chỉ cần dựng nó lại” nhưng hệ
thống triết học rõ ràng và khoa học của Hegel cũng chính là cái hệ
thống cơ bản để triết học Mác hoàn thiện nên phương pháp biện chứng
duy vật với dưới một hệ thống của gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt ối lập, quy luật từ những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ
định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật
không cơ bản(cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên
nhân và kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả
năng và hiện thực).
 Ý nghĩa của phép biện chứng đó đối với sự phát triển của
các khoa học khác:
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hegel
song không thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống
mạnh mẽ nhất trong triết học của ông chính là phép biện chứng mà thực
chất đó là học thuyết về sự phát triển toàn diện với tư cách là sự vận
động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư cách là sự đi lên theo
thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự phát triển bao
gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có và
đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Hệ vấn đề phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là
do tính chất biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận
thức khoa học hiện đại ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến
mang tính lịch sử toàn cầu và vô cùng đa dạng đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp hành tinh chúng ta hiện nay.
Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học tự nhiên hiện đại
cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát
triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được nghiên cứu ở
mọi cấp độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã xâm
nhập vào nhận thức khoa học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi
mô. Nguyên tắc phát triển thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến
trong nghiên cứu khoa học.
Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm
gần đây đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn
vào các bí mật trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất
sống. Điều nổi bật nhất về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử
ngày càng quay trở lại mạnh hơn với tư tưởng về sự phát triển và sự tự
phát triển.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần
được mở ra qua những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ
sinh học. Công nghệ nhân bản vô tính, công nghệ tế bào phôi.. tạo ra sự
phát triển mạn mẽ trong việc chữa bệnh cho con người. Cơ sở phân tử
và dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của sự tiến hoá nói chung vì
vậy đang thù hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học và nhiều
phòng thí nghiệm lớn của thế giới.
Nguyên tắc phát triển đang trở thành nguyên tắc cơ bản của toàn
bộ nhận thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của của tư tưởng phát
triển đối với sự tiến bộ của khoa sinh thái học và của thực tiễn sinh thái
ngày càng rõ nét hơn và hiển nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ những mâu thuẫn của sự tiến
bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự làm chủ của con
người đối với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống trị của
con người đối với giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự
thống trị đó không chỉ đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà
còn gây nên cả những tổn thất không nhỏ cho chính con người lẫn cho
giới tự nhiên một khi con người không kiểm soát được nó. Đồng thời:
việc áp dụng hợp lý các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm
góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển bản thân con người thúc đấy sự
phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo chỉ có thể thực
hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Chính sự
biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và
trên cơ sở nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn đề bức
bách đang được đặt ra trước nhân loại.
 Hạn chế:
Như chúng ta đã đề cập ở trên, triết học của Hegel đã đạt đến mức
đỉnh cao tại thời đại của ông. Và ý nghĩa, vai trò của triết học Hegel mà
cái hạt nhân của nó là phép biện chứng đã thể hiện không chỉ trong triết
học mà trong mọi ngành khoa học khác, trong thực tiễn đời sống xã hội.
Thế nhưng, do những mặt hạn chế bởi nguyên nhân chủ quan và khách
quan nhất định, triết học của Hegel nói chung và phép biện chứng duy
tâm của Hegel nói riêng đã không thể đạt đến chân lý của sự nhận thức.
Những hạn chế trong triết học cả Hegel xuất phát từ thế giới quan duy
tâm, bởi tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương thời.
2.1. Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm:
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hegel là sự
đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên
và lịch sử thế giới) là biểu hiện của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế
giới" mà Hegel gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý niệm tuyệt đối" có trước
tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử - tự nhận
thức về bản thân. Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của
triết học Hegel mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính
chất cách mạng của triết học này. Và đó là lý do để nhận xét Phép biện
chứng của Hegel là bị lộn ngược đầu xuống đất. Tất cả cái tài tình, cái
hợp lý của Phép biện chứng của ông là bị sử dụng để tô điểm, bao phủ
cho một thế giới quan đầy mâu thuẫn và lầm lạc. Phép biện chứng duy
tâm của ông như một tấm áo giáp hoàn hảo nhưng lại khoác lên mình
một chiến binh ốm yếu và đầy hoang mang. Chính vì thế, khi Mac phát
hiện ra phép biện chứng, khi sử dụng nó trở thành phương pháp luận
cho thế giới quan duy vật, ông đã có thể đập tan mọi luận điệu sai lầm
và phản động của Hegel, mang lại thắng lợi lớn lao cho chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
Chính thế giới quan duy tâm đã làm cho triết học cả Hegel yếu ớt
và đầy mâu thuẫn. Và đó lại chính là nguồn gốc khiến cho nó gặp phải
những hạn chế vốn có của triết học Duy tâm cũng như một số những
hạn chế riêng có.
2.2. Hệ thống triết học đóng.
Hegel đã tuyên bố triết học của mình là đỉnh cao của nền triết học
và không thể phát triển hơn học thuyết của mình. Và điều đó làm cho
phép biện chứng của ông trở thành một hệ thống triết học đóng. Điều
này có lẽ do hai nguyên nhân. Về mặt chủ quan, có lẽ cái nhận định về
Hegel là ông quá tài giỏi so với người cùng thời là một trong những lý
do để ông cho triết học của mình là đỉnh cao. Song cái chính phải xuất
phát từ chính thế giới quan của ông khi thừa nhận Ý niệm tuyệt đối là
có trước và quyết định thế giới tự nhiên và xã hội. Do đó, sự vận động
của thế giới tự nhiên và xã hội chẳng qua là quá trình phát triển của
nhận thức con người, đi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn
chỉnh và cuối cùng cái nhận thức ấy phản ánh chính xác Ý niệm tuyệt
đối. Khi đã đạt được điều đó, nó không thể tiến lên được nữa.
Khẳng định của ông mâu thuẫn với chính cái biện chứng của ông.
Nó làm cho chính phép biện chứng của ông giảm đi sức sống và sự vĩ
đại vốn có.
2.3. Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội.
Nếu thế giới quan duy tâm là nguyên nhân dẫn đến một hệ thống
triết học đóng thì chính cái tư tưởng đó cũng là nguồn gốc đưa đến rất
nhiều quan điểm mâu thuẫn khác trong phép biện chứng duy tâm, trong
việc giải thích các vấn đề trong xã hội. Quan điểm chính trị phản động
của Hegel, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản ánh
tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp
của nó với các thế lực phong kiến. Hegel ủng hộ chế độ quân chủ lập
hiến, bênh vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao
của sự phát triển xã hội. Như vậy ông đã nhận thức sai lầm về khái
niệm nhà nước, thừa nhận cái tuyệt đối của nó. Do đó, ông cũng như
các nhà triết học trước đó, chỉ tìm cách giải thích mà không thể tìm ra
được con đường đúng đắn để cải tạo xã hội hiện thực. Điều đó một lần
nữa phản ánh cái hệ thống triết học đóng, cái duy tâm và cái không biện
chứng của nhà triết học biện chứng duy tâm Hegel.

You might also like