You are on page 1of 13

CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT THẾ GIỚI

Câu 8: Tính cách đặc trưng của con người phương Tây qua một số tác phẩm văn
học nghệ thuật tiêu biểu?

Mỗi người đều có quan hệ nhiều vẻ với thực tiễn và do đó có nhiều đặc điểm hay thuộc
tính cá nhân. Nhưng trong số những đặc điểm ấy, có ý nghĩa lớn nhất là những đặc điểm
nào của cá nhân nêu lên được đặc trưng của con người cụ thể coi như là một thành viên
của xã hội. Tương ứng với chúng là những hình thức riêng biệt, độc đáo của hành vi là sự
biểu hiện của những mối quan hệ trên. Tính cách là một phong cách đặc thù của mỗi
nguồn phản ánh lịch sử tác động của những điều kiện sông và giáo dục biểu thị ở thái độ
đặc thù của người đó đối với hiện thực khách quan ở cách xử sự, ở những đặc điểm trong
hành vi xã hội của người đó (A.G. Covaliốp). Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc
điểm tâm lý ổn định của cá nhân. Những đặc điểm tâm lý này quy định hành vi của cá
nhân. Tính cách bao gồm nhiều nét tính cách. Trong đời sống, những nét tính cách tốt
thường được gọi là “nết”, “lòng”, “tinh thần”, những nét tính cách xấu được gọi là “thói”,
“tật”. Các ví dụ về tính cách: Tính tốt: khiêm tốn, vị tha, kiên nhẫn, hòa đồng, cởi mở,
chừng mực, giúp đỡ người khác… Tính xấu: ích kỉ, khoe khoang, đặt điều, vụ lợi, gian
trá, lừa lọc, ác độc, vô duyên, đua đòi, đố kị, hách dịch,… Nền tảng của lịch sử nghệ
thuật có thể bắt nguồn từ hàng chục nghìn năm khi các nền văn minh cổ đại sử dụng các
kỹ thuật và phương tiện sẵn có để mô tả các chủ đề có ý nghĩa văn hóa. Nhiều phong
trào nghệ thuật đã ra đời, mỗi phong trào mang những phong cách và đặc điểm riêng biệt
phản ánh nền chính trị và xã hội của thời kỳ mà chúng xuất hiện.Cho dù bạn là một nhà
sưu tập đầy tham vọng hay chỉ là một nhà phê bình nghệ thuật thì việc nghiên cứu các
chuyển động chính của lịch sử nghệ thuật là một điểm đáng để bắt đầu. Các thể loại nghệ
thuật có ảnh hưởng từ thời Phục hưng đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hiện đại chắc chắn
đã ghi dấu ấn trong lịch sử. Với nhiều nghệ sĩ ngày nay như Banksy, Kerry James
Marshall, Mickalene Thomas và Kehinde Wiley luôn truyền tải các tham chiếu lịch
sử nghệ thuật vào các tác phẩm đương đại, việc hiểu được bối cảnh lịch sử và ý nghĩa của
từng thời kỳ và phong trào là rất quan trọng đối với các nhà sưu tập cũng như những
người đam mê nghệ thuật. Dưới đây là dòng thời gian toàn diện của các phong trào nghệ
thuật khám phá các đặc điểm, những người đóng góp hàng đầu và những ảnh hưởng quan
trọng của từng thời kỳ nổi bật trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Ở phương Tây được
kiến giải có hệ thống hơn. Có thể khái quát thành bốn quan niệm cơ bản về lý luận nghệ
thuật để giải quyết các vấn đề của sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ. Loại thứ nhất coi sáng
tạo và cảm thụ cái Đẹp là lĩnh vực huyền bí gắn liền với Thần Thánh. Platon - trong tác
phẩm "Ion" (427 - 347) trước công nguyên - cho rằng, cảm thụ và sáng tạo của nghệ sĩ
chủ yếu dựa vào Thần hứng, Thần nhập sinh ra Thần lực. Ở đây không có tính người, vì
nghệ sĩ là người phát ngôn cho Thần Thánh. Suốt hàng nghìn năm sau, các đồ đệ của
Platon giải thích sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp bằng giáo lý Thần học, bắt nguồn từ Chúa.
Trong tác phẩm "Đại thành về thần học", Thomas D'aquin tuy có tìm thấy các giác quan
khi bàn đến cái Đẹp, nhưng xuất phát từ Chúa Trời, nên ông không sao giải thích được
nguồn gốc trần thế của mỹ cảm và sáng tạo cái Đẹp. Loại thứ hai mà tiêu biểu là Hegel
(1770 - 1831). Theo Hegel, năng lực liên tưởng, sức tưởng tượng phản ánh hiện thực, đó
là năng lực sáng tạo, cảm thụ đặc trưng của nghệ sĩ. Năng lực cảm quan nghệ sĩ không
chỉ là thuộc tính của từng nghệ sĩ, mà còn là của một dân tộc: người Ý có thẩm âm rất tốt
và năng khiếu âm nhạc vượt trội; người Hy Lạp có con mắt tuyệt vời tạo nên tài năng
hàng đầu về điêu khắc và tạc tượng v.v… Loại quan niệm thứ ba mà tiêu biểu là I.Kant
coi cái sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp bằng sự thích thú vô tư, là sự thỏa mãn về tinh thần
chứ không phải là lý trí, chủ yếu dựa vào năng khiếu và thị hiếu. Sau Kant và trước
Freud, các nhà triết học Shiller, Spencer đã phát triển sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ bắt
nguồn từ sinh lực dư thừa của con người. Freud tiến xa hơn, coi sự thỏa mãn tình dục,
dục vọng là động lực của sáng tạo nghệ thuật, là những khoái cảm nồng nhiệt lúc thăng
hoa của vô thức và dục vọng (libido). Loại quan niệm thứ tư giải thích sáng tạo và cảm
thụ thẩm mỹ là sự tái hiện những hình ảnh của thế giới khách quan trong ý thức chủ quan
của con người.
Câu 10: Văn học nghệ thuật thế kỉ XX đã tái dựng bức tranh hiện thực thế giới trên
những bình diện nào? Giới thiệu ngắn gọn kèm dẫn chứng minh hoạ?

Việt Nam trong thời đại quốc gia dân tộc: Chiến tranh, cách mạng và xung đột ý
thức hệ: Ở thời đại các quốc gia dân tộc, lịch sử thế giới, bao gồm cả Việt Nam, nổi lên
hai đặc điểm cơ bản: xung đột ý thức hệ diễn ra gay gắt và sự bùng nổ dữ dội của chiến
tranh, cách mạng. Lấy ngay cuộc các mạng Tân Hợi của Trung Quốc làm thí dụ. Nó nổ ra
ngày 10 tháng 10 năm 1911 bằng khởi nghĩa Vũ Xương (tên một quận của Vũ Hán, thủ
phủ tỉnh Hà Bắc), dẫn tới sự thành lập chính phủ Nam Kinh và sự ra đời của chính quyền
Trung Hoa dân quốc vào ngày 1 tháng 1 năm 1912. Đó là cuộc cách mạng dân chủ tư
sản, do những người trí thức cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo.
Cuộc cách mạng này đã lật đổ triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ
chuyên chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển, có ảnh hưởng nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số
nước Châu Á khác. Năm năm sau, năm 1917, chỉ trong vòng 8 tháng, tại nước Nga đã
nổ ra hai cuộc cách mạng, cuộc nào cũng có ý nghĩa toàn thế giới: Cách mạng tháng
Hai và Cách mạng tháng Mười. Về tính chất, khác với Cách mạng Tân Hợi, Cách mạng
tháng Hai là cuộc Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Nó là “dân chủ tư sản”, vì
cách mạng cũng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế Sa Hoàng Nhikolai đệ Nhị và
vương triều Romanov từng trị vì 300 ở nước Nga. Nhưng là “mới”, vì nó do đảng
Bolsevich lãnh đạo. Ngay sau khi đế quốc Nga cáo chung, chính quyền Nga hoàng bị lật
đổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik, ở nước Nga đồng loạt xuất hiện các tổ chức
“hội đồng”, hay “Xô Viết” (tiếng Nga: Совет) của công nhân, nông dân và binh lính để
bảo vệ quyền lợi của chính họ. Nhưng giai cấp tư sản nhân cơ hội đó cũng tìm cách giành
lấy chính quyền. Cho nên, sau cách mạng, nước Nga có hai chính quyền song song tồn
tại: Chính quyền trung ương là Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản nằm ở bên
trên, các sắc lệnh nó ban hành muốn được thực thi nhất thiết phải có sự chấp nhận
của các Xô viết tồn tại ở bên dưới. Sự tồn tại của hai chính quyền ở một quốc gia
không thể không dẫn tới xung đột. Nhân dân quá mệt mỏi vì chiến tranh, nền công
nghiệp và nông nghiệp của đất nước đứng bên bờ vực phá sản, kinh tế, tài chính
đình đốn, vấn đề ruộng đất cho nông dân và việc làm cho công nhân không thể giải
quyết… Đó là những nguyên nhân chính dẫn tới sự bùng nổ của Các mạng tháng Mười.
Ngày 12/10, Ủy ban quân sự – cách mạng – trung tâm chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang –
được thành lập. Kế hoạch khởi nghĩa vũ trang với mục đích giành chính quyền về tay các
Xô được Lênin vạch ra vào giữa tháng Mười. Ngày 24 khởi nghĩa bắt đầu nổ ra. Sáng
25, V. Lênin đến điện Smolnyi, trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa. Ngày 26, phe khởi nghĩa
chiếm được Cung điện Mùa Đông, Cách mạng tháng Mười hoàn toàn thắng lợi. Rồi Nhà
nước Liên Xô Xã hội chủ nghĩa được thành lập, lúc đầu (1922) gồm 6 nước (Nga,
Ukraina, Belorussia, Aizerbaidjan, Armenia, Gruzia), năm 1925, có thêm Uzbekistan,
Turkmenia, năm 192, thêm Tadjikistan, năm 1936, thêm Kazakhstan, Kirgizia và đến
năm 1940 thêm Moldavia, Latvia, Litva, Estonia, tổng cộng 15 nước Cộng hòa.
Dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Mười, hàng loạt quốc gia trên toàn thế giới đứng lên
làm cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Gắn liền với cách
mạng là chiến tranh. Cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc có nguyên nhân
một phần từ tâm trạng phẫn uất vì thất bại nhục nhã sau các cuộc chiến tranh Nha phiến
(1840 – 1842 và 1857 – 1860), chiến tranh Thanh – Nhật (1894 – 1895), nhất là việc liên
quân 8 nước kéo vào cướp phá Bắc Kinh (1900) khiến nhân dân trung Quốc muốn cải
cách thể chế, hoặc phế bỏ nhà Thanh. Trước Cách mạng tháng Hai, ở Nga đã có chiến
tranh Nga – Nhật (1905 – 1907). Sau Cách mạng tháng Mười, Nga lại có cuộc nội chiến
đẫm máu (1918 – 1922). Ở nửa đầu thế kỉ XX, cả thế giới bị cuốn vào hai cuộc Đại
chiến tàn khốc: 1914 – 1918 và 1939 -1945. Kết quả của hai cuộc đại chiến thế giới là
hàng trăm triệu người chết, hàng trăm triệu người trở thành tàn phế, nhiều thành phố,
làng mạc bị xóa sổ… Hết chiến tranh “nóng”, đến “chiến tranh lạnh” (1947 – 1991).
Người ta vẫn cho Bernard Mannes Baruch (1870 – 1965) là người đầu tiên sử dụng thuật
ngữ này để chỉ tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh
kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc
gia vệ tinh của nó, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ. Các
lực lượng tham gia chiến tranh lạnh không bao giờ xung đột chính thức với nhau. Họ thể
hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy
ước chiến lược, những cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh ủy nhiệm,
tuyên truyền và cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian. Trong các lần Thế
chiến I và II, các “phe” (phe Đồng minh), “trục” (trục phát xít) được hình thành. Trong
thời kì chiến tranh lạnh, lại hình thành các “phe”, “khối”. Thế giới chia thành hai “phe”:
phe các nước tư bản đứng đầu là Mĩ và phe các quốc gia xã hội chủ nghĩa với thành trì là
Liên Xô. Liên Xô lập ra Khối Đông Âu với các quốc gia Đông Âu mà họ giải phóng, sáp
nhập một số trở thành Các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết và duy trì các quốc
gia khác như nước vệ tinh của mình, một số nước trong số đó sau này được củng cố
vào Khối hiệp ước Warsaw (1955–1991). Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây Âu thành
lập chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản như là chính sách phòng vệ của họ và lập ra
các liên minh (ví dụ NATO, 1949) cho mục đích đó. Ngoài NATO và Khối hiệp ước
Warsaw, còn có Khối các quốc gia không liên kết. Khác chiến tranh “nóng”, chiến tranh
lạnh có nhiều giai đoạn yên tĩnh, nhưng cũng cũng có giai đoạn căng thẳng lên cao trong
quan hệ quốc tế, ví như cuộc phong toả Berlin (1948–1949), chiến tranh Triều
Tiên (1950–1953), Cách mạng Hugary 1956, khủng hoảng Berlin 1961, Mùa xuân Praha
1968, chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975), khủng hoảng tên lửa Cuba (1962), chiến tranh
Xô viết tại Afghanistan (1979 -1989) và những cuộc tập trận Able Archer 83 của NATO
vào tháng 11 năm 1983. Cả hai phía đã tìm cách làm giảm các căng thẳng chính trị và
tránh một cuộc tấn công quân sự trực tiếp, vốn dường như sẽ dẫn tới một sự tiêu diệt có
đảm bảo từ hai phía với các loại vũ khí hạt nhân. Trong thập niên 1980, Hoa Kỳ tăng
cường sức ép ngoại giao, quân sự và kinh tế chống lại Liên Xô, vốn đang ở tình trạng trì
trệ.Tổng thốngMikhail Gorbachev chủ trương “cải tổ” (perestroika ) đất nước, nhưng
không tránh được sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, kéo theo sự tan rã của phe xã hội
chủ nghĩa, kết thúc thời chiến tranh lạnh. Đằng sau những cuộc chiến tranh và cách mạng
là xung đột tư tưởng hệ. Rất dễ nhận ra xung đột tư tưởng hệ giữa hai “phe”, mỗi phe
kiến tạo ngôi nhà xã hội theo một hệ hình thế giới quan, một khung tri thức riêng. Nhiều
xu hướng, trường phái triết học, xã hội học, chính trị học, bao gồm cả chủ nghĩa Mác, với
rất nhều hệ thống lí thuyết thi nhau phát triển ở các nước tư bản. Phe xã hội chủ nghĩa lấy
chủ nghĩa Mác và thế giới quan vô sản làm nền móng xây dựng chủ nghĩa xã hội và con
người xã hội chủ nghĩa. Xung đột tư tưởng hệ diễn ra ngay giữa những người cùng theo
chủ nghĩa Mác. Có chủ nghĩa Mác – Lênin ở phương Đông và chủ nghĩa Mác phương
Tây. Chủ nghĩa Mác phương Tây đặt trọng tâm ở các vấn đề văn hóa và nghệ thuật thuộc
thượng tầng kiến trúc. Chủ nghĩa Mác – Lênin xoay quanh các vấn đề chính trị và đấu
tranh giai cấp. Phát triển di sản của C. Mác, F. Engels ở nửa đầu trong cuộc đời hoạt
động của họ, chủ nghĩa Mác phương Tây biến chủ nghĩa Mác thành khoa học hàn lâm.
Dựa vào di sản của Mác, Engels ở nửa sau trong cuộc đời của họ, chủ nghĩa Mác – Lênin
xây dựng chủ nghĩa Mác thành khoa học hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa Mác – Lênin
khẳng định tư tưởng chuyên chính vô sản. Antonio Gramsci và chủ nghĩa Mác phương
Tây lại đề xướng tư tưởng “bá quyền văn hóa”, xây dựng xã hội “đồng thuận”… Giữa
các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng có xung đột tư tưởng hệ. Trong bài nói chuyện
tại “Hội nghị phổ biến Nghị quyết của Quân ủy Trung ương cho cán bộ cao cấp” ngày
25/4/1974, Tổng bí thư Lê Duẩn đã chỉ ra “nhiều điều khó hiểu” ở quan điểm của Liên
Xô và Trung Quốc về tình hình thế giới. Liên Xô “khẳng định thế giới đang đi vào xu thế
hòa hoãn, rằng sở dĩ có sự hòa hoãn này chủ yếu là do đường lối và sức mạnh của Liên
Xô, và cho đó là sự thành công của đường lối hòa bình của Liên Xô, là kết quả của sự
đấu tranh kiên trì của Liên Xô để trừ bỏ các lò lửa chiến tranh và tình hình căng thẳng
trên thế giới”. Trong khi đó “Trung quốc thì nhận định tình hình thế giới ngày nay là đại
loạn”. Đặng Tiểu Bình chia các nước thành “ba thế giới”. “Thế giới thứ nhất gồm hai siêu
cường là Mĩ và Liên Xô đang tranh giành lẫn nhau mà bề ngoài thì tỏ ra hòa hoãn, thỏa
hiệp. Thế giới thứ ba gồm những nước mới trỗi dậy, đang phát triển, đang sôi nổi cách
mạng ở Á, Phi, Mĩ Latinh trong đó có Trung Quốc.Thế giới thứ hai là những nước đứng
giữa, là những nước phát triển bao gồm các nước đế quốc chủ nghĩa như Anh, Pháp, Nhật
Bản… và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu” …Ta hiểu vì sao, vào những năm 60 của
thế kỉ trước, Đảng cộng sản Trung Quốc xem Đảng cộng sản Liên Xô là “tập đoàn xét lại
hiện đại”, xếp đường lối “chung sống hòa bình” của Đảng cộng sản Liên Xô vào loại
“chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Cuối cùng, ngay trong nội bộ mỗi đảng cộng sản, từ nguồn
cội của nó, cũng thường xuyên có xung đột tư tưởng hệ. Xung đột trong nội bộ Đảng
công nhân xã – hội dân chủ Nga xuất hiện ngay từ Đại Hội lần thứ II năm 1903 dẫn tới sự
phân chia thành hai “cánh” – “cánh tả” và “cánh hữu”, phái “Bolsevich” và “Melsevich”
– là ví dụ tiêu biểu. Trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc, xung đột tư tưởng hệ cũng
diễn ra không kém phần quyết liệt. Hết chống “tả”, rồi họ lại phải chống “hữu”, và cuối
cùng là cuộc “Đại cách mạng văn hóa” diễn ra trong 10 năm (1966 – 1976) do Mao Trạch
Đông khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục đích loại bỏ những phần tử “tư sản tự do” để
tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của tầng lớp cách mạng. Trong bài nói chuyện của Tổng bí
thư Lê Duẩn mà chúng tôi vừa nhắc ở trên có một nhận xét quan trọng: “Việt Nam
tuy là một nước nhỏ, nhưng trong cuộc đọ sức giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ,
nước ta đã trở thành nơi biểu hiện tập trung những mâu thuẫn cơ bản của thế giới:
mâu thuẫn giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa thực dân mới, mâu thuẫn giữa hai hệ
thống xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa hoà bình và chiến
tranh”. Từ nhận xét ấy, có thể suy rộng ra về đặc điểm của lịch sử nước ta kể từ khi bị
thực dân Pháp xâm lược. Hơn 150 năm qua, có lẽ không nơi nào, các phong trào cách
mạng bùng nổi dữ dội, chiến tranh diễn ra liên miên như trong lịch sử cận – hiện đại Việt
Nam. Thật vậy. Ngày 31 tháng 8 năm 1858, thực dân Pháp nã đại bác vào cửa biển Đà
Nẵng chính thức xâm lược Việt Nam. Một năm sau, chúng đánh chiếm Gia Định. Năm
1862, ba tỉnh miền Đông Nam bộ rơi vào tay giặc. Năm 1867, ta mất tiếp ba tỉnh miền
Tây. Ngày 19 tháng 11 năm 1873, F. Garnier nã súng vào thành Hà Nội, tấn công Bắc kì
lần thứ nhất. Ngày 26 tháng 3 năm 1882, Henri Rivière đem pháo thuyền đóng gần Hà
Nội, rồi sáng 25 tháng 4 gửi tối hậu thư đòi Tổng đốc Hoàng Diệu nộp thành. Hoàng
Diệu tự vẫn, thành Hà Nội rơi vào tay giặc. Năm 1884, triều đình Huế kí Hiệp ước Giáp
Thân, chia nước ta thành ba phần: Nam Kì là thuộc địa, Bắc kì nửa thuộc địa, còn Trung
Kì là đất bảo hộ. Thế là nước ta mất vào tay Pháp. Triều đình Huế thì công nhận sự đô hộ
của giặc ngoại xâm. Nhưng nhân dân và những người yêu nước Việt Nam, lớp lớp vẫn
đứng lên chống lại chúng. Không thể kể hết hàng trăm cuộc khởi nghĩa chống lại sự xâm
lược của Pháp, thoạt đầu là khởi nghĩa ở miền Đông của Trương Định, kế đến là khởi
nghĩa ở miền Tây của Nguyễn Trung Trực và Thủ khoa Huân. Sau Hòa ước Giáp Thân
1884, phong trào Cần vương nổi lên với các cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng,
Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Yên Thế lẫy lừng
của Hoàng Hoa Thám. Nối tiếp Phong trào Cần vương vừa bị dập tắt là hàng loạt phong
trào yêu nước nổi lên ở những năm đầu thế kỉ XX, ví như phong trào Đông du, phong
trào Duy tân do Phan Bội Châu khởi xướng, những hoạt động đòi cải thiện dân sinh, dân
quyền, dân chủ của Phan Châu Trinh, hoạt động của trường Đông Kinh Nghĩa Thục do
Lương Văn Can chủ trì. Ngảy 10 tháng 2 năm 1930 nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái của
Quốc dân đảng dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Năm 1930, Đảng cộng
sản Việt Nam thành lập, đưa Cách mạng Việt Nam phát triển lên một bước mới. Dưới sự
lãnh đạo lúc bí mật, khi ra công khai của Đảng Cộng sản, phong trào Xô viết Nghệ –
Tĩnh (1930 – 1931), phong trào Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) được phát động.
Khởi nghĩa Nam kì (1940) tuy thất bại, nhưng để lại tiếng vang lớn. Năm 1941, Đảng
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm thu hút sức
mạnh toàn dân tộc, tạo ra một vũ khí chính trị hiệu quả trong cuộc chiến đấu chống lại
thực dân Pháp và phát xít Nhật. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trân Việt minh, Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thành công vang dội, lật đổ ngai vàng của triều đình phong kiến,
đánh đuổi phát xit Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng ngay sau
khi vừa mới khai sinh, Nhà nước cộng hòa non trẻ đã phải đối mặt với nguy cơ ngoại
xâm. Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào nước ta với dã tâm
tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh. Ở phía Nam vĩ
tuyến 16, hơn 1 vạn quân Anh dưới danh nghĩa đại diện Đồng minh vào giải giáp quân
Nhật, nhưng thực tế là để dọn đường cho thực dân Pháp quay trở thành xâm lược nước ta
một lần nữa. Đêm ngày 22, rạng sáng 23 tháng 9 năm 1945, được sự giúp đỡ của quân
Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ và cơ quan tự vệ
thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau nhiều hòa
hoãn và nhân nhượng, càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, nhân dân ta lại
buộc phải đứng lên thề “quyết tử cho tổ Quốc quyết sinh” theo Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm (1945 –
1954). Sau kháng chiến chống pháp là 30 năm kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975). Sau
kháng chiến chống Mĩ là cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (1979). Trước đó, khi Chiến
dịch Hồ Chí Minh vừa kết thúc (30 – 4 – 1975), thì ngày 3 tháng 5 năm 1975, tập đoàn
Pon Pot đã cho quân đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, chúng
đánh chiếm đảo Thổ Chu, rồi trong những ngày tiếp theo, chúng xâm phạm nhiều vùng
lãnh thổ nước ta dọc biên giới từ Hà tiên đến Tây Ninh. Những sự kiện ấy mở đầu cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam kéo dài gần hai chục năm, cho tận tới tháng 12 năm 1989
mới kết thúc. Vậy là suốt 150 năm, Việt Nam không mấy khi im tiếng súng. Có điểm
đáng lưu ý. Ở nửa sau thế kỉ XIX, Phong trào Cần vương chỉ đấu tranh vũ trang và mũi
nhọn đấu tranh chỉ hướng vào thực dân Pháp. Sang đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu
nước chuyển qua đấu tranh chính trị, mục đích đấu tranh vừa là chống Pháp, vừa để chấn
hưng dân trí, dân khí. Luận cương Cách mạng tư sản dân quyền của Đảng cộng sản Việt
Nam vạch rõ hai nhiệm vụ chiến lược: phản đếvà phản phong. Điều này thật dễ hiểu. Gia
đoạn đầu thế kỉ XX là thời kì đánh dấu sự chuyển đổi ý thức hệ của con người Việt Nam,
từ hệ hình trung đại của con người thần dân, sang hệ hình hiện đại của con người công
dân, con người cá nhân. Cũng như các Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, ngay từ
đầu, Đảng cộng sản Việt Nam công khai khẳng định tính giai cấp và tính đảng của mình.
Cho nên, gần một thế kỉ nay, bên cạnh đấu tranh vũ trang, Đảng cộng sản Việt Nam bao
giờ cũng coi trọng đấu tranh chính trị, và trong đấu tranh chính trị, việc giải quyết xung
đột tư tưởng hệ có một vị trí hết sức đặc biệt. Đấu tranh tư tưởng hệ được tiến hành trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa; lĩnh vực nào cũng là một “mặt
trận”. Mục đích đấu tranh vừa nhắm tới kẻ thù bên ngoài, vừa hướng vào nội bộ ở bên
trong nhằm rèn luyện cán bộ, nâng cao trình độ và ý thức giác ngộ cách mạng của quần
chúng. Đấu tranh tư tưởng được tiến hành bằng nhiều phương thức, biện pháp. Ở Việt
Nam, từ đầu thế kỉ XX, kĩ thuật in ấn, báo chí và xuất bản phát triển mạnh mẽ. Trên mặt
trận báo chí, các chiến sĩ cộng sản thường xuyên tham gia đấu tranh tư tưởng bằng tranh
luận, bút chiến, phê bình… Các cuộc bút chiến về “duy vật và duy tâm” (1933 – 1934)
giữa Hải triều và Phan Khôi, về “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”
(1935-1939) giữa Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư với Hải Triều và “chiến tuyến”
của ông hồi trước 1945, đợt phê bình rầm rộ quan điểm của nhóm Nhân văn Giai phẩm,
hoặc các cuộc phê bình một loạt tác phẩm văn học như Sắp cưới của Vũ Bão,Mùa hoa
dẻ của Văn Linh, Phá vây của Phù Thăng, Vào đời của Hà Minh Tuân là những ví dụ tiêu
biểu. Đấu tranh tư tưởng còn được tiến hành bằng các biện pháp hành chính, thông qua
các đợt “nhận đường”, “chỉnh huấn”, “học tập”, “phê bình và tự phê bình”…. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đấu tranh tư tưởng thường xuyên diễn ra ở cả thời chiến, lẫn thời
bình. Đấu tranh “chống diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh tư tưởng lớn nhất hiện nay
ở Việt Nam. Sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu xã hội, từ hạ tầng cơ sở tới thượng
tầng kiến trúc, theo hướng hiện đại hóa. Đây là đặc điểm riêng của lịch sử Việt
Nam. Nó là kết quả trực tiếp của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và là
hệ quả của sự tiếp xúc Đông – Tây diễn ra vào nửa đầu thế kỉ XX. Sau khi bình định
được nước ta, thực dân Pháp đã tiến hành hai đợt khai thác thuộc địa. Đợt thứ nhất diễn
ra trước Thế chiến I, từ 1897 đến 1914. Đợt thứ hai được triển khai từ 1919, kéo dài cho
tới trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), tức là trong khoảng 10 năm.
Muốn khai thác, dĩ nhiên phải đầu tư và có chính sách cụ thể. Ở đợt khai thác thứ nhất,
Pháp chỉ đầu tư nhỏ giọt. Trong vòng 30 năm, từ 1888 đến 1918, chúng chỉ đầu tư vào
Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) khoảng 1 tỉ francs. Sang lần khai thác thứ hai, chúng
tiến hành đầu tư nhanh hơn, ồ ạt hơn và qui mô lớn hơn. Riêng năm 1920, tư bản Pháp đã
đầu tư vào Việt Nam 255 triệu francs, từ năm 1924 đến 1929 đã lên tới 4.000 triệu francs.
Từ năm 1931 trở đi, mặc dù ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế, Pháp vẫn
không ngừng đầu tư vào Việt Nam và Đông Dương. Chúng đầu tư vào 5 lĩnh vực cơ bản:
1) Công nghiệp, 2) Khai khoáng, 3) Nông nghiệp và lâm nghiệp, 4) Vận tải và thương
mại, 5) Bất động sản và Ngân hàng. Giáo trình Đại cương lịch sử Việt Nam do Đinh
Xuân Lâm chủ biên đã đưa ra bảng thống kê số lượng vốn đầu tư theo các ngành kinh tế
mà các công ti vô danh của Pháp đã tiến hành trong những năm 1924 – 1930. Công cuộc
khai thác thuộc địa của Pháp không đơn thuần là đầu thư vốn và mở rộng qui mô khai
thác, mà kèm theo đó còn là quá trình đầu tư các nhân tố về kĩ thuật và con người sản
xuất, nhất là đầu tư chính sách. Có ba loại chính sách của Pháp sau khi thực hiện đã tác
động tới sự thay đổi cơ cấu và trình độ phát triển của xã hội Việt Nam trong thời gian
này: Thứ nhất: chính sách “cải lương hương chính”. Ý đồ “cải lương hương chính” được
khởi xướng từ năm 1904, nhưng phải 17 năm sau, năm 1921, nó mới được thực thi ở Bác
kì với Nghị định ngày 12/8/1921. Đến năm 1927, nó được triển khai đồng bộ ở cả Bắc kì
(với nghị định của Thống sứ Bắc kì kí ngày 27/2/1927), lẫn Nam kì (với Nghị định do
Toàn quyền Đông Dương kí ngày 30/10/1927). Ý đồ của thực dân Pháp trong việc “cải
lương hương chính” là đưa tầng lớp tân học lên cầm quyền thay cho tầng lớp cựu
học trước kia nhằm can thiệp vào bộ máy làng xã. Thứ hai: lập Viện dân biểu Bắc kì và
Trung kì, tăng cường tuyển dụng quan lại, công chức người Việt làm việc cho Pháp. Đây
là chính sách nhất quán được các viên Toàn quyền từ Maurice Long đến Alexandr
Varenne thực hiện. Có hai sắc lệnh quan trọng. Ngày 20/6/1921 Maurece Long ban hành
sắc lệnh về việc tăng cường tuyển dụng các quan lại người Việt vào bộ máy hành chính
của Pháp. Ngày 27/2/1926, Alexandre Varenne ban hành Nghị định mở rộng ngạch tương
đương (cadres latérants) trong các công sở cho người Việt có đủ bằng cấp được quyền
nắm giữ các chức vụ tương đương với người Pháp. Thứ ba: chính sách giáo dục. Từ đầu
thế kỉ, Toàn quyền Paul Beau đã tiến hành việc cải cách giáo dục, lấy tân học bằng chữ
Pháp thay cho cựu học bằng chữ Hán. Năm 1917, sau khi được bổ nhiệm làm Toàn
quyền Đông Dương lần thứ hai, Albert Pierre Sarraut ban hành Nghị định “Học chính
tổng qui” (“Règlement général de L’Instruction publique”), tiếp tục cải cách giáo dục
sâu rộng hơn nữa. Tinh thần cải cách được thể hiện ở ba mặt sau đây: a) Xóa bỏ nền giáo
dục Nho học lấy luân lí làm trọng tâm, mở rộng hệ thống giáo dục Pháp – Việt lấy khoa
học làm trụ cột. Tuy có trường Pháp riêng cho học sinh người Pháp và trường Pháp –
Việt dành cho học sinh người Việt, nhưng hệ thống giáo dục và chương trình đào tạo thì
nhất loạt chia thành ba cấp: tiểu học (5 năm), trung học (4 năm) và cao đẳng, đại học theo
mô hình của Pháp. b) Bên cạnh các trường đại học và cao đẳng, mở thêm các trường
Bách công, Bách nghệ (“École pratique d’industrie”) và các trung tâm nghiên cứu khoa
học, lớn nhất là Viễn Đông bác cổ(École française d’Extrême-Orient, thành lập ngày
20/1/1900), Hội đồng nghiên cứu khoa học(Conseil des recherché scientifique, thành lập
năm 1928), Túc mễ cục, Viện hải dương học… c) Xóa bỏ hệ thống thi cử cũ, bằng cấp
cũ, trường đào tạo quan lại cũ, thay bằng hệ thống thi cử mới, bằng cấp mới, trường đào
tạo công chức mới. Ta biết, khoa thi Hương cuối cùng được tổ chức tại Nam Định (Bắc
kì) vào năm 1915, ở Trung kì vào năm 1918, và khoa thi Hội cuối cùng được tổ chức vào
năm 1919. Năm 1917, các Trường Sĩ hoạn ở Hà Nội và Trường Hậu bổ ở Huế bị gải tán,
thay vào đó, Trường Pháp – chính (École de Droit et d’Administralion) được thành lập.
Với những khoản đầu tư về vốn, về chính sách, hai đợt khai thác thuộc địa của Pháp đã
đưa toàn bộ xã hội Việt Nam, từ hạ tầng cơ sở cho tới thượng tầng kiến trúc, phát triển
theo hướng hiện đại hóa, mà thực chất là phương Tây hóa. Xu hướng hiện đại này được
thể ở ba bình diện cơ bản sau đây: a) Cơ cấu kinh tế và phương thức sản xuất thay đổi
theo hướng hiện đại. Công nghiệp, nhất là công nghiệp khai khoáng và công nghiệp chế
biến phát triển rất nhanh khiến cho xí nghiệp mọc lên ngày càng nhiều. Chẳng hạn, năm
1903, cả nước mới có 82 xí nghiệp, năm 1906 đã có 200 xí nghiệp]. Cho đến năm 1945,
Việt nam về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, với 90% dân số là nông
dân. Nhưng ngay từ đầu thế kỉ, bản thân sản xuất nông nghiệp đã có nhiều thay đổi. Ở
miền Nam và miền Bắc xuất hiện nhiều đồn điền, có đồn điền rộng tới hàng nghìn héc-ta.
Đặc biệt, nông nghiệp bắt đầu tham gia sản xuất hàng hóa. Năm 1880, sản lượng gạo xuất
khẩu của Việt Nam là 240. 000 tấn, năm 1928, sản lượng xuất khẩu lên tới 1.700.000
tấn. Vào thời điểm này, Việt nam là nước cung cấp gạo lớn thứ hai cho thị trường thế
giới, sau Malaysia. b) Cấu trúc giai cấp xã hội thay đổi theo hướng hiện đại. Từ đầu thế
kỉ, ở Việt Nam đã hình thành giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Ví như, công nhân
mỏ vào năm 1904 có 4000, năm 1914 đã có 15.000. Nhiều đô thị mọc lên, tầng lớp thị
dân và tầng lớp trí thức “Tây học” ngày càng trở nên đông đảo. Chỉ xin dẫn một vài số
liệu về học sinh và giáo viên trong hệ thống giáo dục phổ thông. Từ niên khóa 1923 –
1925 đến năm 1930, số lượng học sinh tăng từ 187.000 người lên 434.335 người. Theo
thống kê của chính quyền Pháp, ở Việt nam, năm 1930 có 12.000 giáo viên các cấp. c)
Quan hệ quốc tế thay đổi theo hướng hiện đại. Từ đầu thế kỉ XX, Việt Nam thực sự gia
nhậpvào tiến trình lịch sử thế giới, phá vỡ tình trạng khép kín của xã hội phương Đông.
Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu xã hội Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đã được ghi nhận
trong nhiều tài liệu, qua nhiều thời kì, từ nhiều góc độ khác nhau. Xin dẫn ba ý kiến được
trích từ lời phát biểu của một viên Toàn quyền, một nhà phê bình văn học và một nhà sử
học về một Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa: Trong Báo cáo gửi về Pháp ngày 22
tháng 2 năm 1902, Toàn quyền Joseph Athanase Paul Doumer viết: “Đông Dương ngày
nay là một thuộc địa lớn, hoàn toàn bình định và có tổ chức, có một nền tài chính rự
rỡ, một nền thương mại quan trọng, một nền nông nghiệp phát triển nhanh chóng,
số thực dân ngày một tăng và có những phương tiện hoạt động cao đẳng, một thiết
bị kinh tế hùng hậu đang được xây dựng… Có thể nói rằng thuộc địa Đông dương
của chúng ta đã làm rạng rỡ văn minh nước Pháp”. Năm 1941, trong Một thời đại thi
ca, Hoài Thanh viết: “Trước mắt chúng ta bỗng bày ra những cảnh lạ lùng chưa bao giờ
từng thấy <…> Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giầy Tây, mặc áo Tây. Chúng ta
dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp… còn gì nữa. Nói làm sao cho xiết những
điều thay đổi về vật chất, phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho tới những nơi hang
cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu Tây,
diêm Tây, nào vải Tây, chỉ Tây, đinh Tây. Đừng bảo tôi bao biện. Một cái đinh cũng
mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ, và có ngày ta
sẽ thấy thay đổi cả quan niệm của phương Đông”.Và đây là nhận xét khái quát của tác giả
sách giáo khoa lịch sử viết năm 1989: “Lịch sử dân tộc Việt Nam, thời gian từ sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất đến năm 1930 là môt khoảng thời gian không dài. Nhưng trong
khoảng thời gian đó đã diễn ra những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ trong các lĩnh vực
kinh tế và xã hội, giáo dục và văn hóa, tư tưởng và tâm lí… Cùng với bước chuyển mình
của phong trào dân tộc, nhất là sự lớn mạnh của xu hướng cách mạng xã hội chủ nghĩa,
một mô hình giáo dục hiện đại và một nền văn hóa mới đang trên đường hình thành và
phát triển tạo tiền đề thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như cho các giai
đoạn tiếp sau của dân tộc Việt Nam”. Chiến tranh, xung đột ý thức hệ trên phạm vi toàn
thế giới, sự chuyển đổi cơ cấu xã hội theo hướng hiện đại hóa ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cách mạng dân tộc – dân chủ, trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội… là những nhân tố cơ bản nhất làm nên bối cảnh tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ
nước ngoài vào Việt Nam trong thời đại quốc gia dân tộc trước 1986. Việt Nam trong
thời đại toàn cầu hóa: Có hai nhân tố cơ bản làm nên bối cảnh tiếp nhận tư tưởng văn
nghệ nước ngoài vào Việt Nam sau 1986: xu hướng toàn cầu hóa và đường lối kiên định
chủ nghĩa xã hội gắn với đổi mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản: 1. Xu hướng
toàn cầu hóa. Đó là quá trình tác động quốc tế ngày càng lớn của các nhân tố khác nhau
(ví như các mối liên hệ kinh tế và chính trị, sự trao đổi văn hóa và thông tin) tới thực tại
xã hội của các nước riêng lẻ. Theo nghĩa đen, thuật ngữ này được sử dụng chỉ sự “hội
nhập quốc tế”. Nó thường được mô tả như một tiến trình mà qua đó nhân loại trên toàn
thế giới kết nối lại với nhau thành một khối thống nhất. Đó là quá trình liên kết các lực
lượng kinh tế, kĩ nghệ, văn hóa xã hội và chính trị. Theo định nghĩa rộng, toàn cầu hóa là
hệ thống quốc tế chủ lưu sau chiến tranh lạnh. Nó là sự hòa nhập của các nền kinh tế dân
tộc vào một hệ thống duy nhất toàn thế giới nhờ vào sự di chuyển dòng vốn dễ dàng, sự
cởi mở của thông tin thế giới, việc nâng cấp công nghệ nhanh chóng, việc dỡ bỏ các rào
cản thuế quan và tự do hóa vận chuyển hàng hóa, nhờ vào thông tin liên lạc thuận tiện,
vào cuộc cách mạng khoa học trên hành tinh, vào các phong trào xã hội xuyên quốc gia,
các hình thức giao thông mới, việc thực hiện các công nghệ viễn thông, giáo dục quốc
tế…Có một thực tế là nhiều vấn đề không thể đánh giá và nghiên cứu chính xác ở cấp độ
quốc gia dân tộc, từ quan điểm của các nhà nước riêng lẻ. Thế tức là, những vấn đề ấy
dứt khoát phải được nhìn nhận từ góc độ của những quá trình toàn cầu. Một số nhà
nghiên cứu đã tiên đoán rằng, trong tương lai, các sức mạnh toàn cầu (hiểu theo nghĩa là
các công ty đa quốc gia, các tổ chức kinh tế toàn cầu, văn hóa toàn cầu hoặc hệ tư tưởng
toàn cầu hóa) sẽ quyết định sự tồn tại của từng quốc gia – dân tộc riêng lẻ. Chỉ cần nhìn
vào vai trò của Ngân hàng thế giới (World Bank), hoặc Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) đối với
nền kinh tế thế giới, nhất là với những nước đang phát triển như Việt Nam, cũng đủ để
nhận ra sức mạnh của toàn cầu hóa. Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc
của toàn cầu hóa. Có ý kiến giả định, rằng một số mầm mống của nó xuất hiện từ thời La
Mã cổ đại. Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng điểm khởi đầu của toàn cầu hóa là thế kỉ
XVI, XVII, khi sự phát triển của kinh tế châu Âu gắn liền với những tiến bộ trong ngành
hàng hải và những khám phá địa lí của họ. Sự lớn mạnh nhanh chóng của công nghiệp ở
thế kỉ XIX đã dẫn tới sự phát triển của thương mại và đầu tư giữa các đế chế châu Âu với
nhau, giữa các đế chế ấy với Mĩ và các nước thuộc địa của họ. Sự xích lại lịch sử nhân
loại trở thành những bước nhanh chậm khác nhau của các quốc gia và dân tộc theo xu
hướng toàn cầu hóa. Nhân loại tạo ra mối liên hệ toàn cầu trước khi thuật ngữ toàn cầu
hóa xuất hiện. Quá trình toàn cầu hóa lần đầu tiên đạt tới tốc độ phát triển nhanh chóng
có tính cách mạng diễn ra vào ranh giới giữa thế kỉ XIX và thế kỉ XX. Nhưng sau đó,
những cuộc chiến tranh “nóng” và chiến tranh “lạnh” đã kìm hãm sự phát triển của nó.
Phải đến những thập niên cuối cùng của thế kỉ XX, sau hai cuộc chiến tranh thế giới, sau
thời kỉ đại suy thoái và vô số những thí nghiệm xã hội, trật tự kinh tế tự do được hình
thành từ thế kỷ XIX mới lại hồi sinh. Sự hồi sinh của toàn cầu hóa bắt đầu vào cuối năm
1970, khi sự hoàn thiện tri thức trong thông tin và kĩ nghệ truyền thông đạt tới nhịp độ
phát triển cao chưa từng thấy. Năm 1982, Internet đã ra đời. Năm 1991, phòng thí
nghiệm vật lý châu Âu CERN đã thiết lập giao thức www – World Wide Web. Ở thời
điểm này, đã có hàng tỉ người sử dụng mạng Internet. “Cái chết” của không gian là nhân
tố quan trọng nhất mở đường cho các dân tộc xích lại gần nhau và tiến trình toàn cầu hóa.
Năm 1992, Liên minh châu Âu đã trở thành một không gian kinh tế thống nhất sau khi
hiệp định Maastricht được kí kết. Không gian này giúp dỡ bỏ hàng rào thuế quan, cho
phép dòng vốn và nhân công lưu chuyển tự do, tạo ra một hệ thống tiền tệ thống nhất
dựa vào đồng euro. Người ta thấy tuy lỏng lẻo, nhưng đã có sự hội nhập giữa các đối tác
tham gia thương mại tự do vùng Bắc Mĩ, gồm Mĩ, Canada và Mexico. Các nước cộng
hòa thuộc Liên Xô cũ cũng gia nhập vào Cộng đồng các quốc gia độc lập tạo ra một
không gian kinh tế chung. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa diễn ra ở tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa. Thomas Friedman, học giả người Mĩ ba lần đoạt giải Pulizer
danh giá (1983, 1988, 2002), từng đưa ra định nghĩa thế này: toàn cầu hóa là “sự hội nhập
không gì ngăn cản nổi của các thị trường, các quốc gia – dân tộc và của các nền kĩ nghệ.
Nó cho phép các cá nhân, các công ti và các quốc gia – dân tộc tiếp cận bất kì điểm nào
trên thế giới một cách nhanh hơn, xa hơn, sâu sắc hơn và rẻ hơn bao giờ hết”. Vì lợi ích
lớn lao như thế, Việt Nam tham gia hội nhập ngày càng sâu sộng vào các quan hệ quốc
tế. Ngày 28 tháng 5 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy của “Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tháng 11 năm 1998, Việt Nam tham gia “Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Ngày 01 tháng 02 năm 2016, Việt
Nam và EU công bố văn bản chính thức của “Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam
và Liên minh châu Âu (EVFTA). Và gần đây nhất, việc Hiệp định đối tác kinh tế chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), có Việt Nam tham gia, vừa được chính thức kí kết
tại New Zealand ngày 4 tháng 2năm 2016 là bằng chứng hiển nhiên về lợi ích của toàn
cầu hóa và xu hướng vận động không thể đảo ngược của nó. 2. Đường lối kiên định chủ
nghĩa xã hội gắn với đổi mới toàn diện đất nước. Có một điểm rất nhất quán: khi xác
định đường lối cách mạng Việt Nam, các văn kiện của Đảng và các ý kiến phát biểu của
lãnh tụ bao giờ cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Chánh cương văn tắt tháng 2 năm 1930 của Đảng cộng sản nêu rõ “chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
“Luận cương chính trị” của Đảng tháng 10 năm 1930 cũng nhấn mạnh: cách mạng Việt
Nam từ năm 1930 (do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo) là một quá trình liên tục từ
cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu “Luận cương” của
Đảng xác định mục đích của cách mạng dân tộc – dân chủ là chủ nghĩa xã hội, thì sau này
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, rằng chủ nghĩa xã hội là con đường đảm bảo
thắng lợi cho cách mang dân tộc – dân chủ, rằng “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong bài Con đường dẫn
tôi tới chủ nghĩa Lênin, viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (số 2, năm 1960) nhân
kỉ niệm lần thứ 90 ngày sinh Lênin, Hồ Chủ tịch nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba.
Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lênin, vừa làm công
tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Cho nên, nguyên tắc “nắm chắc”, “giương cao” hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, tư tưởng về cách mạng dân tộc – dân chủ Việt Nam tất yếu dẫn đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội cũng là tư tưởng nhất
quán trong các “Cương lĩnh” sau này của Đảng, như Cương lĩnh của Đảng Cộng sản
Đông Dương tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991), Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam (bổ sung và phát triển năm 2011). Đạị hội VI của Đảng đã vạch ra đường lối
“đổi mới” toàn diện và năm 1986 được xem là cái mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển
của đất nước sang thời kì “Đổi mới”. Hai mươi lăm năm sau, Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X về các văn kiện Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới;
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị – xã hội; tăng cường hoạt động đối
ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” (Những chữ in đậm do chúng tôi nhấn mạnh.- LKH). Khẳng định Việt Nam “vững
bước trên con đường Đổi mới” cũng là nội dung cốt lõi trong Báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng”. Như vậy, đường lối
“đổi mới” của Đảng là nhất quán. Có một điểm quan trọng cần nhấn mạnh: đường lối
“đổi mới” của Đảng cộng sản hoàn toàn không phải là chủ trương thay đổi mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà được hiểu là thay đổi cách thức để đạt được mục ấy. Trước sau, Đảng
cộng sản Việt Nam kiên định “quyết tâm không gì lay chuyển nổi của nhân dân ta đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ngay trong Báo cáo của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng” mới đây,
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày 6 nội dung cốt lõi, trong đó có tư tưởng về
“bảo vệ vững chắc Tổ quốc” và “hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đọc
lại văn kiện của Đảng qua các kì Đại hội VII (1991), VIII (1996), IX (2001), X (2006),
XI (2011), XII (2016) ta thấy, tinh thần cốt lõi của đường lối “đổi mới” được thể hiện ở
ba nội dung cơ bản: 1) Về kinh tế: xóa bỏ hệ thống tập trung bao cấp, xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2) Về chính
trị: đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành
của nhà nước cho phù hợp với cơ cấu và cơ chế kinh tế mớ. 3 )Về ngoại giao: trong bối
cảnh toàn cầu hóa trở thành xu thế không thể đảo ngược, Việt Nam tham gia hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Xu
hướng toàn cầu hóa, đường lối kiên định chủ nghĩa xã hội và chủ trương tăng cường hội
nhập quốc tế của Đảng cộng sản là những nhân tố quan trọng tạo nên bối cảnh tiếp nhận
các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam từ 1986 đến nay. * Có thể kết luận
chung lại thế này. Từ đầu thế kỉ XX, tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ hiện đại từ nước
ngoài để xây dựng một nền văn nghệ hiện đại và nền khoa học hiện đại về văn nghệ là ưu
tiên lựa chọn hàng đầu của Việt Nam Tuy nhiên, trước 1986, Việt Nam tiếp nhận các tư
tưởng văn nghệ nước ngoài trong bối cảnh chiến tranh và đối lập ý thức hệ. Sau 1986,
Việt Nam tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa và bản
thân Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào các quan hệ quốc tế. Hai bối cảnh khác nhau
tạo ra hai nguyên tắc tiếp nhận khác nhau. Trước năm 1986, các tư tưởng văn nghệ được
tiếp nhận vào Việt Nam theo nguyên tắc thắt chặt, thu hẹp qua hàng rào của mặt trận tư
tưởng hệ. Sau 1986, các tư tưởng văn nghệ nước ngoài được tiếp nhận vào Việt Nam theo
nguyên tắc nới lỏng, mở rộng cùng với xu hướng Việt Nam mở rộng cánh cửa làm bạn
với toàn thế giới.

You might also like