You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM


KHOA DƯỢC
*****

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI 4: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sinh viên
hiện nay cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước của mình?

Tên sinh viên: Phạm Hà Phương


Lớp: Dược 14-03
SSV: 1457200115
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Đặng Thu

Hà Nội, tháng 9, năm 2021

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA DƯỢC
*****

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI 4: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước. Sinh viên hiện nay cần làm gì
để thể hiện lòng yêu nước của mình?

Tên sinh viên: Phạm Hà Phương


Lớp: Dược 14-03
MSSV: 1457200115
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Đặng Thu

Hà Nội, tháng 9, năm 2021

2
LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành đề tài tiểu luận này một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy
Cô, cũng như sự ủng hộ động viên của bạn bè xung quanh trong suốt thời gian
học tập nghiên cứu.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến cô Nguyễn Thị Đăng Thu – người
đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành bài tiểu
luận này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong
khoa đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều
kiện thuận lợi tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập.

Dưới đây là bài tiểu luận trình bày về đề tài số 4 của tôi, bài làm có thể có
nhiều thiếu sót, đôi khi có cả những lỗi sai nhưng tôi rất mong được quý thầy
cô đóng góp ý kiến để bản thân rút ra được nhiều kinh nghiệm và tiến bộ
trong tương lai. Rất mong được thầy cô đón đọc và đưa ra ý kiến về bài làm.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 2021

Sinh viên thực hiện

PHẠM HÀ PHƯƠNG

3
MỤC LỤC

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU ……………………………………………………….…...1-3


I. Lý do chọn đề tài: ………………………………………………………………..1
II. Mục tiêu nghiên cứu:……………………………………………………….........1
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:…………………………………………........2
IV. Phương pháp nghiên cứu:………………………………………………………..2

PHẦN HAI: NỘI DUNG ………………………………………………………….4-13


CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CÁC
NỘI DUNG LIÊN QUAN (sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam)…...……….....4-6
1. Đảng Cộng sản Việt Nam…………………………………………………………...4
2. Chủ nghĩa Mác- Lênin……………………………………………………………....5
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước………..5-6

CHƯƠNG II: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ SẢN PHẨM CỦA SỰ
KẾT HỢP GIỮA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHÒNG TRÀO YÊU NƯỚC………………..6-13
1. Nguyễn Ái Quốc đã đến với CN Mác - Lênin và tìm thấy con đường đi để giải phóng
dân tộc và truyền bá vào Việt Nam…………………………………………………….6-8
2. Phong trào công nhân Việt Nam phát triển từ tự phát sang tự giác, giai cấp công nhân
trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng……………………………………………....8-10
3. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử với rất nhiều phong trào theo
khuynh hướng khác nhau để giải phóng dân tộc…………………………………..10-13

CHƯƠNG III: LIÊN HỆ ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ NGÀY NAY ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI
VỚI SINH VIÊN………….........................................................................................13-17
1. Sinh viên hiện nay thể hiện lòng yêu nước của mình như thế nào?…………..13-15
2. Vai trò, trách nhiệm của sinh viên đối với Đảng ……………………………...15-17

PHẦN BA: KẾT LUẬN ……………………………………………………..18-22

4
PHẦN MỘT : MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trong
đối với lịch sử Việt Nam, đóng vai trò chủ đạo trong quốt quá trình từ khi giành lại
độc lập đến khi hòa bình ổn định và phát triển đất nước. Mang trong mình một
lòng yêu nước cháy bỏng, khát khao đòi lại độc lập, tự do cho dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lê nin và sớm nhận ra chỉ có chủ nghĩa cộng
sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho
mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc. Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn bám sát thực tiễn, nhạy bén với thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm
vụ, chiến lược, ban hành các điều lệnh, nghi quyết phù hợp để giải quyết mọi vấn
đề cho nhân dân. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối
đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của dân tộc Việt Nam.
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách
mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động
lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều
thắng lợi mới. Vậy nên hiểu biết rõ về Đảng Cộng sản Việt Nam là một vấn đề
quan trọng và cần thiết đặc biệt là với thế hệ sinh viên hiện nay - những người
đang cầm trên tay vận mệnh của đất nước. Từ đó, là công dân nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, là tương lai của một đất Việt, thế hệ sinh viên Việt Nam
cũng đã thấy được tầm quan trọng và luôn tự hào, tin yêu Đảng Cộng sản. Tất cả
đều được thể hiện và gói gọn trong ba từ “lòng yêu nước”. Để góp một phần cho
lòng yêu nước đó, sinh viên Việt Nam luôn luôn sẵn sàng, đã và đang tích cực
tham gia, tổ chức, giáo dục và tuyên truyền truyền thống yêu nước tốt đẹp của dân
tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam và lòng yêu nước của thế hệ sinh viên trẻ luôn là
một chủ đề nóng mang tính thời sự đáng được chú ý, đặc biệt trong tình hình dịch
bệnh Covid 19 như hiện nay.

II. Mục tiêu nghiên cứu:


Đề tài nhằm làm rõ vai trò to lớn của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đồng thời phân tích được nguồn gốc và những giá trị cốt lõi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Từ đó thông qua phân
1
tích, đưa ra những giải pháp và trách nhiệm của mỗi công dân hiện nay đặc biệt là
sinh viên cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước của mình, đưa dân tộc cùng phát
huy lòng yêu nước hào hùng của mình.
Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ Nghĩa Mác-Leenin và tìm thấy con đường
để giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam
Phong trào yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử có rất nhiều phong
chào theo các khuynh hướng khác nhau để giải phóng dân tộc
Phong trào công nhân Việt Nam phát triển từ tự phát sang tự giác, giai cấp
công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của Cách mạng

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


 Phạm vi không gian: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước
 Phạm vi thời gian: Từ khi bát đầu hình thành, phát triển cho đến khi đạt được
những thành công vẻ vang và đến cả ngày nay
 Phạm vi nội dung: Đảng cộng sản Việt Nam là sự kết hợp cực kì đặc biệt, có
chọn lọc vô cùng kĩ càng từ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Từ những nền tảng vững chắc
đó đã đem đến cho dân tộc ta những thành công vang dội. Đảng Cộng Sản đều
giữ vai trò vô vùng quan trọng

IV. Phương pháp nghiên cứu:


 Phương pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu các tài liệu liên quan về Đảng Cộng
sản Việt Nam, về Chủ nghĩa Mác - Leenin, về tư tưởng Hồ Chí Minh, về phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Sưu tầm những khái niệm, nhận xét về
Đảng Cộng sản Việt Nam, về thế hệ trẻ, thế hệ sinh viên Việt Nam. Sử dụng
những tài liệu sưu tầm được để phân tích, áp dụng vào đời sống thực tế.
 Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Sắp xếp các tài liệu nghiên
cứu được theo các nội dung, chủ đề lớn, sau đó chia nhỏ nội dung theo đơn vị,
vấn đề có cùng nội dung, dấu hiệu, bản chất. Cuối cùng hệ thống hóa lại và
trình bày nội dung đã hệ thống theo trình tự.
 Phương pháp quy nạp và diễn giải: Đưa ra các nội dung, ví dụ để nêu minh
chứng cho các nội dung đã nêu, minh chứng cho sinh viên thể hiện lòng yêu
2
nước. Đưa ra kết luận và sử dụng các nội dung, ví dụ để minh chứng cho kết
luận.
 Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Quan sát, tìm hiểu, xem xét sự
hình thành, vận động và biến đổi của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Dựa trên pháp luận khoa học Mác-Xít
 Nắm vững chue nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: để xem
xét và nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật
 Tư duy từ thực tiễn: từ hiện thực lịch sử, coi thực tiễn và kết quả của hoạt động
thực tiễn là chân lý
 Cùng với chủ nghĩa Mác-leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
là kim chỉ nam cho các hành động của Đảng

3
PHẦN HAI: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐẢNG CỘNG


SẢN VIỆT NAM VÀ CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN
(sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam)

1. Đảng Cộng sản Việt Nam


- Khái niệm:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được
phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính
thức hiện nay, Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hoạt động.
Cơ quan cao nhất của Đảng là Đai hội Đại biểu toàn quốc, nơi sẽ bầu ra Ban
Chấp hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng là cơ quan tối cao quyết định các vấn đề của Đảng. Sau Đại hội, Trung ương
sẽ bầu ra Bộ chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương và bầu một Ủy
viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư.
- Cương lĩnh: Cương lĩnh chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam
- Điều lệ: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
- Lịch sử thành lập:
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là
một bộ phận của Đệ Tam Quốc tế) yêu cầu Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu
cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930
tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông

4
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba
tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt).
- Tổ chức:
 Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam: Đã tổ chức 13 Đại hội Đại biểu toàn
quốc, Gồm: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban
Kiểm tra Trung ương.
 Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: tính đến năm 2019 là khoảng hơn 5.2
triệu đảng viên

2. Chủ nghĩa Mác- Lênin


- Khái niệm:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết" khoa học của C.Mác,
Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá
trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về
sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng
con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học
và thực tiễn cách mạng.
- Lịch sử ra đời:
Chủ nghĩa Marx–Lenin được xây dựng bởi các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản
Marx, Engels, đưa đến sự thành lập Đệ Nhất Quốc tế. Từ những cơ sở về khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội, Marx và Engels sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
và học thuyết giá trị thặng dư, từ đó chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Ảnh hưởng: Có ảnh hưởng to lớn đến Việt Nam

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong


trào yêu nước
- Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam
tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam định nghĩa: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

5
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
văn hoá nhân loại…”
- Khái niệm phong trào công nhân:
Phong trào công nhân là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa chống lại giai cấp tư sản, những người sẽ ‘đào mồ chôn” cho giai cấp tư sản.
- Khái niệm phong trào yêu nước:
Phong trào yêu nước được hiểu là các phong trào được tổ chức nhằm giải phóng
đất nước, đòi lại quyền lợi về tay nhân dân, hướng đên độc lập, tự do.

CHƯƠNG II: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA


ĐỜI LÀ SẢN PHẨM CỦA SỰ KẾT HỢP GIỮA CHỦ
NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHÒNG
TRÀO YÊU NƯỚC

Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời
của Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam..

1. Nguyễn Ái Quốc đã đến với CN Mác - Lê nin và tìm thấy con đường
đi để giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người
đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và
kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia
hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục
V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp

6
Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con
đường cách mạng của mình.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm
ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản1; xác định những vấn
đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc
gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xãhội, giai cấp vô
sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước
với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng
sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa;
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc
tế Cộng sản, tháng 1l-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người
sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và
viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi
dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận nhưngười đi đường đang khát
mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh
mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực
lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần
chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công

7
nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng
chính trị lãnh đạo.
Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17/6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l/l/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung
Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc -
cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam - là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các
tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6/l đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.

2. Phong trào công nhân Việt Nam phát triển từ tự phát sang tự giác,
giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Trước thế kỉ XV, Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển công, thương nghiệp và kinh tế hàng hoá, nhưng đã có tầng lớp thợ thủ
công.
- Sang thế kỉ XV, XVI đội ngũ “ Những người lao động làm thuê” đã xuất
hiện.
- Đầu thế kỉ XIX, ngành khai mỏ phát triển và hàng ngàn “thợ” mỏ làm việc
trong các mỏ khai thác than, thiếc.
- Nhưng đó chưa phải là công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công
nghiệp. Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ I (từ năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp.

8
 Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh
- Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng nhanh... Số lượng công
nhân năm 1906 là 49.500 người trong đó có 1.800 thợ chuyên môn.
 Nhiều xí nghiệp tập trung đông công nhân như: Xi măng Hải Phòng có
1.500 người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800
người, các nhà máy xay xát ở Sài Gòn có tới 3.000 người, riêng trên các
tuyến đường sắt Vân Nam - Hải Phòng đã thu hút tới 6 vạn người.
 Ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là chưa kể số “thợ theo mùa”.
Tổng số công nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh thế giới lần thứ I có
khoảng 10 vạn người.
- Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột
nhân dân thuộc địa để bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển
của một số ngành công nghiệp khai khoáng, dệt, giao thông vận tải, chế
biến... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh, công nhân mỏ và công nhân
đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người.
 ở các thành phố, nhiều nhà máy đã có trên 1.000 công nhân như nhà máy Xi
măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định.
 Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của
tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công
nhân các ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng
cây công nghiệp. Đó là chưa kể đến những người làm ở xí nghiệp thủ công
lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi bếp, khuân vác ở hải cảng...

 Như vậy, từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
dẫn tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam. Và đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai
cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.
- Đa số công nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân.
 Trong số 27.505 công nhân, đồn điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm
1929 thì có tới 24.658 người là nông dân (chiếm 84,6%). Sớm tiếp thu
truyền thống anh dũng bất khuất, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, giai cấp
công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp.

 Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ
chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước
mắt, với các hình thức như: bỏ việc về quê, lãn công, đòi tăng lương, chống
đánh đập.

9
 Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn,
công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao Bằng, gạch Yên Thế, dệt sợi Nam Định.
 Song cũng có một số cuộc đấu tranh của công nhân có tinh thần dân tộc cao
như phong trào đấu tranh ủng hộ nghĩa quân Yên Thế, tham gia biểu tình
đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu nước Phan
Chu Trinh... trong cao trào yêu nước những năm 1925 -1926 ở Sài Gòn.
- Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các
cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính chất
chính trị, có tổ chức lãnh đạo.
 Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm
1930 là 30 cuộc với số lượng người tham gia lên đến ngót 32.000 người.
 Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ
chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

3. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử với rất
nhiều phong trào theo khuynh hướng khác nhau để giải phóng dân tộc
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam vốn là sản phẩm tinh thần cao đẹp
của lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất của đạo lý làm người, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ đời sống văn hóa của nhân dân ta... Nó đã trở thành dòng chủ
lưu xuyên suốt lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nội
dung cơ bản của CNYN truyền thống là sự liên kết cộng đồng chặt chẽ giữa nhà,
làng, nước để bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ độc lập thống nhất dân tộc, bảo vệ
cuộc sống cộng đồng và sự trường tồn của nền văn hóa dân tộc. Đối với người Việt
Nam, “nước” phải gắn chặt với “dân” và CNYN mang nội dung nhân dân sâu sắc.
Những bậc anh hùng, hào kiệt của dân tộc ta trước đây đã nhận thức rất rõ chân lý
đó.
Trước lúc ra đi Người đã nhận thức một cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần trước
tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách
mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.
- Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì phong
trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân
tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là
cuộc chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương,
Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung

10
Trực... Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan
Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... Hưởng ứng khởi
nghĩa Ba đình ( Thanh Hóa) Bãi Sậy( Hưng yên), Hương Khê ( Hà Tĩnh)
Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt đó của Nhân dân ta chống thực dân
Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng các
phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đã xuất hiện các phong
trào yêu nước theo chủ trương mới và có xu hướng tư sản như các phong
trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa của tiểu
tư sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh
đạo…
- Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm dứt
vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống
thực dân Pháp ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái và Vua Duy
Tân tiếp tục đấu tranh chống Pháp, trong đó có khởi nghĩa của Vua Duy Tân
(5-1916).
- Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung
du phía Bắc, phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo
của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực
lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp.
Nhưng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong
kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
- Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh
hưởng, tác động của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động
của Phan Bội Châu, xuhướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là
phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng
(12/1927 – 2/1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc Kỳ, nhưng tất
cả đều không thành công.
- Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: Với chủ
trương tập hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng
chế độ chính trị như ở Nhật Bản, phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa
thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập (gọi là phong trào
“Đông Dư”). Đến năm 1908, Chính phủ Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp
trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu. Sau khi phong
trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911)
Trung Quốc, năm 1912 Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục
hội với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam,
thành lập nước cộng hòa dân quốc Việt Nam. Nhưng chương trình, kế hoạch
hoạt động của Hội lại thiếu rõ ràng. Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực
dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917 và sau này bị quản
11
chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hưởng xu hướng bạo động của
tổ chức Việt Nam Quang phục hội đối với phong trào yêu nước Việt Nam
đến đây chấm dứt.
- Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những
người cùng chí hướng muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo
con đường bạo động như Phan Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước.
Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo động, bạo động tắc tử”; phải “khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân
quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ
trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị Nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành
cải
- Đó chính là sự hạn chế trong xu hướng cải cách để cứu nước, vì Phan
Châu Trinh đã “đặt vào lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh
cho nước Nam,... Cụ không rõ bản chất của đế quốc thực dân”. Do vậy, khi
phong trào Duy Tân lan rộng khắp cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ
chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp đã đàn áp dã man, giết hại
nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu tình. Nhiều sĩ phu bị bắt, bị đày đi
Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên
Cẩn... Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị thực dân Pháp dập tắt, cùng với
sự kiện tháng 12/1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh
Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong trào cứu
nước của Việt Nam.
- Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng: Khi thực dân Pháp đẩy
mạnh khai thác thuộc địa lần thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp càng trở nên gay gắt, các giai cấp, tầng lớp mới
trong xã hội Việt Nam đều bước lên vũđài chính trị. Trong đó, hoạt động có
ảnh hưởng rộng và thu hút nhiều học sinh, sinh viên yêu nước ở Bắc Kỳ là tổ
chức Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Trên cơ sở
các tổ chức yêu nước của tiểu tư sản trí thức, Việt Nam Quốc dân đảng được
chính thức thành lập tháng 12/1927 tại Bắc Kỳ.
- Mục đích của Việt Nam Quốc dân đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tự sản, với phương
pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân và lực
lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên.... Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở một số tỉnh,
chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2/1930) tuy oanh liệt nhưng nhanh
chóng bị thất bại. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái của tổ chức Việt Nam
Quốc dân đảng đã thể hiện là 12/1907 thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách
trong phong trào cứu nước của Việt Nam.

12
- “một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn
không bao giờ ngóc đầu lên nổi. Khẩu hiệu “không thành công thì thành
nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và
đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư
sản”.
- Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống
yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước
theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã
diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành
khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc. Tuy
nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư
sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”. Nguyên nhân
thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để
giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một
tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác
định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
- Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ
XX đều thất bại, nhưng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của
nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp
phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên tri thức tiên tiến
chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc
theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu
nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường
lối cửu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
- Trong khi các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa
dạng, sôi nổi phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản như: Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào
chống sưu thuế của nông dân ở Trung kỳ, phong trào đánh Pháp như vụ đầu
độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế….

CHƯƠNG III: LIÊN HỆ ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ


NGÀY NAY ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI VỚI SINH VIÊN

1. Sinh viên hiện nay thể hiện lòng yêu nước của mình như thế
nào?

13
Với thế hệ trẻ, có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu nước chân chính của
mình. Nó không phải là những gì quá to tát hay cần phải phô trương, mà là những
việc bình dị hằng ngày, ai cũng có thể làm được để thể hiện lòng yêu nước.
- Đối với các bạn học sinh, sinh viên, lòng yêu nước được đo bằng điểm học
tập và rèn luyện…
- Thực hiện đầy đủ và tốt nhất nghĩa vụ của một công dân
- tham gia nghiên cứu khoa học, đó là yêu nước; tự giác thực hiện chính sách,
pháp luật, tôn trọng kỷ cương, đó cũng là yêu nước.
- Lựa chọn được một nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình, gắn bó và cống
hiến hết mình vì công việc, đó là yêu nước.
- Lao động tích cực, hăng hái, làm giàu chính đáng, đó là yêu nước.
- Có khi lại là việc nhỏ như không vứt rác bừa bãi, không tàn phá môi trường,
không hủy diệt muông thú.
- Và thậm chí, nói một câu tiếng Việt đúng ngữ pháp, văn cảnh, thể hiện sự tự
tôn với ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc mình, cũng là biểu hiện của lòng yêu
nước
- Hiến máu cứu người, nhặt được của rơi trả lại cho người đánh mất, tham gia
giao thông có văn hóa, gương mẫu chấp hành pháp luật, tôn trọng nét đẹp
văn hóa truyền thống, tinh thần đoàn kết cộng đồng, tình nguyện xung
phong về làm việc tại các địa phương vùng sâu, vùng xa, xây dựng các công
trình thanh niên vì cuộc sống cộng đồng
- Đối với các sinh viên trong trường lực lượng vũ trang, dũng cảm, mưu trí,
sáng tạo, vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ, chính là biểu hiện của tinh
thần yêu nước.
- luôn tích cực tham gia tốt các hoạt động do Đoàn trường và đoàn cấp trên
phát động. Nhiều hoạt động mang tính truyền thống đã đi vào đời sống học
tập và rèn luyện
- Có thể nói những thành công bước đầu trong các Hội thi về các lĩnh vực thể
thao, văn nghệ, báo chí học đường hứa hẹn nhiều chuyển biến tích cực trong
bản thân của các em. Là yếu tố góp phần xây dựng phong phú thêm đời sống
tinh thần, nâng cao vẻ đẹp trong tâm hồn cũng như có ý thức, trách nhiệm,
tự giác trong rèn luyện phẩm chất đạo đức của sinh viên.
- Tổ chức các hoạt động từ thiện, thiện nguyện: Hầu hết các trg đại học đều có
câu lạc bộ từ thiện…. Sinh viên tham gia câu lạc bộ từ thiện ở các tỉnh thành
phố.
- Luôn có tinh thần sẵn sàng khi tổ quốc cần .
- Giáo dục, truyền tải cho các thế hệ sau về tinh thần, lòng nồng nàn yêu nước
của đân tộc ta.
- Phấn đấu trở thành Đảng viên gương mẫu.

14
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân vì cả tập
thể chứ không vụ lợi cá nhân.
- Câu lạc bộ hiến máu nhân đạo:
 Máu hồng Nhân Văn
 Đội máu Mở
- Hiện nay trong tình hình dịch bệnh đang diễn biến ngày càng phức tạp:
 Sinh viên các ngành đặc thù như: Y, Dược, Điều dưỡng tham gia vào các
vùng đỏ để hỗ trợ y bác sĩ
 Tham gia thử vacxin
 Tham gia vào tuyến đầu chống dich, trực chốt
 Tham gia vào hiến máu
 Tham gia đi chăm sóc người bệnh
 Tổ chức hoạt động từ thiện, tình nguyện trực tổng đài, đi chợ hộ, ủng hộ
lương thực, xuất cơm 0đ…
 Tuyên truyền một cách đúng đắn, có hiệu quả về việc tiêm vacxin giúp
người dân hiểu thêm về công dụng, làm tư tưởng để mọi người không từ
chối tiêm vacxin.
 Chung tay đóng góp cả về vật chất, tinh thần sức người, sức của cùng cả
nước hướng về vùng dịch giúp đất nước nhanh chóng thoát khỏi đại dịch, ổn
định về sức khỏe, chính trị đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn.
 Không nghe các báo đài không chính thống đưa ra những thông tin sai lệch
về Đảng và nhà nước gây mất lòng tin chia rẽ nội bộ .

- Bên cạnh đó là những thanh niên có nhận thức hết sức lệch lạc. Họ cũng biết
hỏi rằng tại sao nước ta lại nghèo, lại thua kém nhiều quốc gia trên thế giới,
nhưng bản thân họ lại không biết phải làm gì và không làm gì để “cải thiện
tình hình". Một số thanh niên đang chạy theo lối sống thực dụng, ăn chơi sa
đọa, lãng phí, sống tự do, cá nhân, vô tổ chức. Bây giờ là thời đại hiện đại
hoá, đầy rẫy trên mạng là những bài báo viết về bệnh vô cảm của giới trẻ,
trong đó có cả sự vô cảm đối với ngay cả đất nước mình. Nhưng không! Đó
chỉ là một bộ phận rất nhỏ thanh niên. Lòng yêu nước được dân tộc Việt
Nam nuôi dưỡng từ đời này qua đời khác, dù có biến đổi nhưng không bao
giờ mất đi. Những thanh niên đó, đứng trước tiếng gọi của non sông và thời
đại, sớm muộn cũng sẽ nhận thức được về vai trò và nghĩa vụ của mình, sẽ
tìm được ra lối đi đúng đắn. Lúc ấy, lại chính lòng yêu nước sẽ nâng đỡ họ,
đưa họ vượt qua những xấu xa, cám dỗ và làm được nhiều việc có ích cho
bản thân, xã hội. Bởi vậy, ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự trong sạch,
vững mạnh của đội ngũ thanh niên Việt Nam. Và trong tương lai, chắc chắn
họ sẽ còn làm được nhiều hơn nữa. Lòng yêu nước truyền thống của cha ông

15
sẽ được phát huy để dù là ở đâu hay bất cứ lúc nào, lòng yêu nước đó cũng
sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên Việt Nam đạt được
những thành tích diệu kỳ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đem lại vinh quang cho Tổ quốc.

2. Vai trò, trách nhiệm của đảng là sinh viên


 Thứ nhất, đảng viên sinh viên là đội ngũ trẻ, là tấm gương, người dẫn đầu,
cổ vũ những cá nhân khác và trở thành nguồn lực quan trọng trong xây dựng
đội ngũ của bất kỳ một tổ chức, tập thể nào. Do vâ ̣y Đảng viên có gương
mẫu thì chi bô ̣ mới vững mạnh.
 Thứ hai, đảng viên sinh viên góp phần tìm ra những nhân tố quan trọng, có
tố chất trở thành đảng viên trong các chi đoàn. Bởi đảng viên sinh viên là
những người hiểu rõ nhất nguyê ̣n vọng của sinh viên muốn vào Đảng, từ đó
góp phần tuyên truyền, vận động và giải đáp những thắc mắc một cách
thuyết phục nhất, để từ đó các bạn có hướng phấn đấu rõ ràng hơn.
 Thứ ba, đảng viên sinh viên là đội ngũ gần gũi với sinh viên, tiếp xúc liên
tục, trực tiếp nhất với sinh viên nhất sẽ giúp cho việc nắm bắt tư tưởng và kỷ
luật trong sinh viên được thuận lợi hơn rất nhiều. Từ đó sẽ có tham mưu cho
chi bô ̣ và Nhà trường mô ̣t cách hiê ̣u quả.
 Thứ tư, đảng viên sinh viên là những người nắm bắt được tinh thần, thái độ
học tập và rèn luyện của sinh viên. Phát hiện những thành phần có tư tưởng
lệch lạc để báo cáo lên cấp trên có hướng giải quyết kịp thời.
Như vậy có thể thấy vai trò của Đảng viên sinh viên trong việc phát triển Đảng
trong sinh viên là vô cùng quan trọng.
Trở thành một Đảng viên khi còn là sinh viên là mơ ước của rất nhiều bạn trẻ.
Đó vừa là niềm vinh dự của bản thân vừa là niềm tự hào của gia đình. Đồng thời,
sinh viên được tạo điều kiện, giao việc để thử thách, thể hiện năng lực và phẩm
chất của mình, được học tập và rèn luyện ở môi trường tốt hơn, giúp chúng ta tự tin
hơn, năng động hơn, trưởng thành hơn trong mọi lĩnh vực. Vào Đảng, chúng ta
thường xuyên được bồi dưỡng về lập trường tư tưởng chính trị, giúp chúng ta
trưởng thành về phẩm chất chính trị, nâng cao vai trò tiên phong, tinh thần trách
nhiệm của bản thân trong mọi hoàn động đoàn thể. Là đảng viên sinh viên, chúng
ta có cơ hội để thể hiện bản thân và luôn không ngừng phấn đấu hoàn thiện mình
hơn nữa, để trở thành tấm gương sáng cho các đoàn viên khác noi theo. Đây cũng
là tiền đề quan trọng tạo nhiều cơ hội việc làm tốt cho sinh viên sau khi tốt nghiệp
ra trường. Cho dù là bạn học ở ngành nghề nào thì hiện nay tất cả mọi lĩnh vực đều
rất chú trọng đến công tác phát triển Đảng. Do vâ ̣y, là một Đảng viên sinh viên mỗi
đồng chí cần nêu cao hơn nữa trách nhiê ̣m của mình trong viê ̣c:

16
 Thứ nhất, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và phát huy những thế
mạnh của mình để giúp cho việc phát triển Đảng trong sinh viên ngày càng
mạnh và đạt được hiệu quả cao nhất.
 Thứ hai, kiên định với lâ ̣p trường của bản thân, với mục tiêu chính trị. Làm
chủ những phát ngôn của mình, nhất là những vấn đề nhạy cảm cần đảm bảo
tính chính xác của thông tin.
 Thứ ba, là mô ̣t sinh viên cần phải tích cực trau dồi vốn kiến thức, chủ đô ̣ng
tìm kiếm thông tin, tự rèn luyê ̣n bản thân và hoàn thành tốt nô ̣i dung công
viê ̣c được giao.
Cuối cùng, mỗi đảng viên là sinh viên cần giải quyết tốt, đảm bảo hài hòa giữa
vai trò nhiê ̣m vụ của mình dưới tư cách là mô ̣t đảng viên và là mô ̣t sinh viên. Có
như thế mới là mô ̣t sinh viên ưu tú, mô ̣t đảng viên gương mẫu, góp phần xây dựng
xã hô ̣i văn minh hơn.

17
PHẦN BA: KẾT LUẬN

1. Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách
mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội
là giành được những thắng lợi vẻ vang.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn
liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng
Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và
khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có
sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt
Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[1]. Trải qua
thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học,
Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hoà bình, hạnh phúc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu
sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi
thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ
XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu
18
thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực
hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành
lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập"[2].
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường
đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận
mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác
thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"[3].
3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn
nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều
thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị
lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức,
động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung
ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng
chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu
gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập
tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu
hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang
đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,
dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập"[4].
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó
trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng
chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy
19
sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi,
kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực
lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm
thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những
mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định
đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng
dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả
nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được
xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở
vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất
nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội"[5]. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép
lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách
mạng Việt Nam.
4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới
đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế
có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những
thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng
định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực
và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống
nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và
kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng
bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng
cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng
kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng
cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành
nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn
nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân
20
loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức
tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ
sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng
tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi
sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo
lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi
kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của
chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ
thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân,
bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh
chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí
quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của
sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi
mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự
của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định
rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: Một
là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.

21
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ
tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn
hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong suốt quá
trình từ khi giành lại độc lập đến khi hòa bình ổn định và phát triển đất nước.
Chính vì vậy việc nguyên cứu và làm sáng về nguồn gốc cốt lõi của sự hình thành
và phát triển của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như sự kết hợp tài tình, hợp lí
giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước là điều vô cùng cần thiết
Từ những giá trị cốt lõi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng và phát huy
qua bao thế hệ là sinh viên, lớp thế hệ trẻ với tuổi đời và sức trẻ vô song chúng ta
hãy cùng cố gắng để mỗi ngày đều cống hiến sức mình xây dựng đất nước, lòng
nồng nàn yêu nước ngay từ những hành dộng nhỏ nhất. Đặc biệt là trong khi đại
dịch COVID đang hoành hành trên toàn thế giới thì thế hệ trẻ, sinh viên chúng ta
lại cang phải cố gắng hết mình hơn nữa. Đừng để sức trẻ ấy bị phí hoài, hãy cùng
chung tay đánh tan dịch bệnh bằng những hành động như:
 Tham gia làm tình nguyện viên cho các chiến dịch đẩy lùi dịch bệnh
 Đi chợ hộ người dân
 Ủng hộ về cả vật chất và tinh thần cho người dân vùng dịch
 Tuân thủ các biện pháp mà Đảng Cộng sản đưa ra về phong chống dịch(5K)
 Không tin và những thông tin sai sự thật do các báo đài không chính thống
gây nhiễu loạn mất lòng tin về Đảng và nhà nước
 Tham gia hiến máu
 Học tập thật tốt, không vì dịch bệnh mà lơ là việc tiếp thu kiến thức

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


 Sách giáo trình
 Wiki media
 “khái quát lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, TS. Trịnh văn Toàn
 Các phương tiện truyền thông chính thống của kênh truyền hình quốc gia
Việt Nam

22

You might also like