You are on page 1of 265

1

GIẢI ĐÁP 188 CÂU HỎI VỀ GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC
Những năm gần đây, đại đa số giáo viên, phụ huynh và học sinh đã nhận thấy việc thay
sách rất cần thiết cho việc dạy và học.
Qua quá trình không ngừng nghiên cứu, biên soạn, thử nghiệm, điều chỉnh nội dung
chương trình, chuẩn kiến thức và kĩ năng của các môn, từ đó Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
thực hiện thay sách từng bước theo yêu cầu từng khối lớp, trọng tâm là sách Giáo khoa
của các môn trong đó có môn Tiếng việt.
Ở bậc tiểu học, môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng. Học tốt môn Tiếng Việt, học
sinh có cơ sở tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác.
Kính thưa quí thầy cô!
Chương trình sách giáo khoa mới ở Tiểu học nói chung, môn Tiếng Việt nói riêng triển
khai từ năm học 2002-2003 đến nay đã qua một chặng đường. Trong quá trình thực hiện
chương trình và sách giáo khoa môn Tiếng Việt, vẫn còn là những thách thức không thể
vượt qua đối với nhiều giáo viên hiện nay. Để giúp thầy cô nắm bắt được những vấn đề
trọng tâm trong quá trình giảng dạy, để giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của nhiều
thầy cô hiện nay về nội dung và phương pháp dạy học, để góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học môn môn Tiếng việt ở tiểu học, tôi xin trân trọng giới thiệu với quí thầy
cô cuốn GIẢI ĐÁP 188 CÂU HỎI VỀ GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC
của hai tác giả Trần Mạnh Hường và Lê Hữu Tỉnh do nhà xuất bản Giáo dục xuất bản
năm 2009.
Tập sách được in trên khổ 17x24cm và dày 320 trang, nội dung cuốn sách chứa 188 câu
hỏi và lời giải đáp.
Nổi bật tên sách, tên của tác giả và nhà xuất bản trên trang bìa màu xanh rất giản dị, tiếp
đó là lời nói đầu của các tác giả cùng bạn đọc.
Bìa sau cuốn sách giới thiệu một số tên sách tham khảo môn Tiếng Việt Tiểu học của nhà
xuất bản Giáo dục đã phát hành để chúng ta tìm đọc, giá bìa cuốn sách là 42000 đồng.
Nội dung chính của sách được chia làm hai phần:
Phần một: Hỏi – đáp về nội dung giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học của tác giả Lê
Hữu Tỉnh. Tác giả đã tham gia giảng dạy ở trường sư phạm và viết rất nhiều sách. Trong
phần này tác giả giải đáp 94 câu hỏi. Phạm vi nội dung được đề cập đến chủ yếu là một
số vấn đề thuộc các phân môn Luyện từ và câu (từ ngữ, ngữ pháp), Học vần và Chính tả.
Những câu hỏi và đáp chủ yếu đi sâu vào nội dung chương trình, sách giáo khoa và kiến
thức Tiếng việt liên quan đến môn học. Những câu hỏi ở phần này đề cập tới những đơn
vị kiến thức mà giáo viên chưa nắm chắc, hiểu kĩ hoặc có những cách hiểu chưa thống
nhất cần dược giải đáp mà người giáo viên thường đối diện khi lên lớp như:
- Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập dựa vào tranh tìm từ tương ứng có gì đáng lưu ý?
- Cần lưu ý những điều gì về loại bài tập giúp học sinh lớp 2 nắm nghĩa của từ?
- Có phải từ tượng thanh, từ tượng hình cũng là từ láy không?
- Tìm động từ trên câu tôi đang đi trên phố, có học sinh xác định là đi, có học sinh xác
định là đang đi. Giáo viên xử lí tình huống trên như thế nào?
- Từ và cụm từ khác nhau như thế nào?
- Bằng cách nào để hướng dẫn học sinh.
- Bằng cách nào để hướng dẫn học sinh tiểu học nhận ra một từ có nhiều nghĩa?

2
Còn rất nhiều câu hỏi phức tập, nan giải khác ở phần I này mời quí thầy cô tìm đọc để
tham khảo nhé!
Những câu hỏi của phần này sẽ giúp quí thầy cô giải quyết được nhiều khó khăn, vướng
mắc trong giảng dạy và từ đó thầy cô sẽ tự bồi dưỡng cho mình thêm nhiều kiến thức về
Tiếng Việt.
Phần hai cuốn sách hỏi đáp về phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu gồm có 94 câu
hỏi và đáp được tác giả Trần Mạnh Hưởng biên soạn
Những câu hỏi ở phần này góp phần tháo gỡ những khó khăn, thắc mắc hay những lúng
túng thường gặp của quí thầy cô về phương pháp dạy môn Tiếng việt theo tinh thần đổi
mới hiện nay, giải quyết một số vấn đề nảy sinh từ thực tiển dạy học các môn Học vần,
Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn.
Quí thầy cô sẽ tìm thấy ở phần hai này lời giải đáp cho những câu hỏi mà các thầy cô rất
quan tâm như:
- Sử dụng tranh ảnh trong SGK ở Tiểu học như thế nào cho hợp lý và hiệu quả?
- Một số vần khó không dạy ở phần Học vần nhưng vẫn xuất hiện trong bài Tập đọc cần
được GV giải quyết như thế nào?
- Tìm đại ý của bài Tập đọc có phải là yêu cầu bắt buộc hay không?
Trò chơi học tập là một trong những hình thức dạy học kích thích hứng thú học tập của
học sinh làm cho giờ học trở nên nhẹ nhàng mà vẫn đạt được mục đích, yêu cầu cũng
được tác giả đề cập đến:
- GV cần lưu ý những điểm gì khi lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập môn Tiếng việt ở
tiểu học?
Phân môn tập đọc ở tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu là dạy kĩ năng đọc. Ở đây cũng có câu
hỏi và đáp để giúp quí thầy cô giảng dạy có hiệu quả:
- Cần lưu ý những điểm gì về biện pháp và hinh thức tổ chức dạy học tập đọc?
Đối với phân môn Tập làm văn mức độ cần đạt về kiến thức, kĩ năng ở các lớp 1, 2, 3, 4,
5 cũng được tác giả giải đáp qua câu hỏi:
- Mức độ cần đạt về kiến thức và kĩ năng Tập làm văn ở các lớp 1, 2, 3, 4, 5 được xác
định như thế nào?
Mời thầy cô tìm đọc phần hai của cuốn sách này nhé! Phần giải đáp của tác giả Trần
Mạnh Hưởng không chỉ giúp thầy cô vững tâm, tự tin lên lớp mà còn tính chất gợi mở
giúp bạn đưa vào đó, tuỳ theo khả năng của mình, sáng tạo thêm cho mình nhiều hình
thức phong phú, đa dạng khi dạy học.
Kính thưa quí thầy cô!
Qua thực tế nghiên cứu và chỉ đạo, được tiếp xúc và “đối thoại” với đông đảo giáo viên
và cán bộ quản lý, chỉ đạo tiểu học trên toàn quốc, lắng nghe ý kiến của các sở Giáo dục
và Đào tạo sau 6 năm triển khai dạy học theo SGK Tiếng Việt tiểu học , các tác giả đã tập
hợp nhiều câu hỏi và ý kiến mong muốn giải đáp, từ đó đã biên soạn cuốn sách GIẢI
ĐÁP 188 CÂU HỎI VỀ GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC. Các bạn có
thể tìm đọc tập sách này ở các Thư viện trường tiểu học.
Tôi tin chắc rằng với lời giải đáp rõ ràng, chính xác của hai tác giả, cuốn sách là một
cuốn cẩm nang để dạy tốt Tiếng việt tiểu học. Cuốn sách không chỉ có ích cho giáo viên
Tiểu học mà đây cũng là cuốn sách dùng để tham khảo cho cán bộ quản lý và chỉ đạo tiểu

3
học, giảng viên và sinh viên các trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, các bậc cha
mẹ học sinh và bạn đọc quan tâm tới chương trình, sách giáo khoa và việc dạy học cấp
tiểu học.

4
Kí hiệu dùng trong sách

? Hỏi
: Đáp

5
TRẦN MẠNH HƯỞNG – LÊ HỮU TÌNH

GIẢI ĐÁP 188 CÂU HỎI VỀ GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

Lời nói đầu

Chương trình và sách giáo khoa mới ở Tiểu học nói chung, môn Tiếng Việt nói riêng
được triển khai từ năm học 2002 - 2003 đến nay đã đi qua một chặng đường. Trong quá
trình thực hiện chương trình và sách giáo khoa môn Tiếng Việt, những điểm mới về nội
dung dạy học, yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy môn Tiếng Việt (môn học có thời
lượng dạy học nhiều nhất trong cấp học) vẫn là những thách thức không dễ vượt qua đối
với nhiều giáo viên và cán bộ chỉ đạo tiểu học hiện nay. Để giúp giáo viên nắm được
những vấn đề cần quan tâm trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt, giải đáp những
băn khoăn, thắc mắc về nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt, chúng tôi biên soạn cuốn Giải đáp 188 câu hỏi
về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đây cũng là cuốn sách dùng để tham khảo cho
cán bộ quản lý và chỉ đạo tiểu học, giảng viên và sinh viên các trường sư phạm đào tạo
giáo viên tiểu học, các bác cha mẹ học sinh và bạn đọc quan tâm tới chương trình, sách
giáo khoa và việc dạy học môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.

Nội dung cuốn sách gồm hai phần :

Phần một: Giải đáp về nội dung giảng dạy

Phần này chủ yếu giải đáp về nội dung chương trình, sách giáo khoa và kiến thức tiếng
Việt liên quan đến môn học. Những câu hỏi ở phần này đề cập tới những đơn vị kiến thức
mà giáo viên hoặc chưa nắm chắc, hiểu kĩ hoặc có những cách hiểu chưa thống nhất, cần
được giải đáp, nói rõ hơn. Đối với một số đơn vị kiến thức và một số kiểu loại bài tập
quan trọng trong môn Tiếng Việt, các tác giả tập trung nói rõ về cơ sở lý luận (ngôn ngữ

6
học, Việt ngữ học), giúp giáo viên nắm chắc , hiểu kĩ các đơn vị kiến thức và các kiểu
loại bài tập. Phạm vi nội dung đề cập đến ở phần này chủ yếu là một số vấn đề thuộc các
phân môn Luyện từ và câu (Từ ngữ, Ngữ pháp), Học vần và Chính tả.

Trang 4
Phần hai: Giải đáp về phương pháp giảng dạy
Phần này tập trung trả lời những câu hỏi liên quan đến phương pháp dạy học môn Tiếng
Việt ở Tiểu học theo tinh thần đổi mới hiện nay , góp phần tháo gỡ những khó khăn ,
lúng túng thường gặp của nhiều giáo viên về cách dạy một số bài cụ thể giải quyết một số
vấn đề nảy sinh từ thực tiễn dạy học các phân môn Học vần , Tập đọc , Kể chuyện ,
Chính tả , Tập viết , Luyện từ và câu , Tập làm văn .
Qua thực tế nghiên cứu và chỉ đạo , được tiếp xúc và " đối thoại ” với đông đảo giáo viên
và cán bộ quản lý , chỉ đạo tiểu học trên toàn quốc , lắng nghe ý kiến của các Sở Giáo dục
và Đào tạo sau 6 năm triển khai dạy học theo sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học , các tác
giả đã tập hợp được nhiều câu hỏi và ý kiến mong muốn giải đáp . Tuy nhiên , do khuôn
khổ cuốn sách , do khả năng và điều kiện còn hạn chế , có những vấn đề chưa được tác
giả để cập đến trong sách này , hoặc đã đề cập đến nhưng chưa thoả mãn yêu cầu hiểu
biết thật đầy đủ của các thầy giáo , cô giáo .
Rất mong bạn đọc lương thử và đóng góp ý kiến để cuốn sách thật sự là người bạn thân
thiết và hữu ích đối với giáo viên tiểu học .
Hà Nội , tháng 8 năm 2008
CÁC TÁC GIẢ

7
Trang 5
Mục lục
Lời nói đầu
Phần một: GIẢI ĐÁP VỀ NỘI DUNG GIẢNG DẠY
A – Lớp 1
STT Nội dung Trang
1 Vấn để dạy tổ hợp âm " quờ " ( qu ) như một phụ âm đầu trong SGK Tiếng 17
Việt 1
2 Hướng dẫn HS phân biệt âm " gờ " ( viết là g , gh ) và âm " đi " ( viết là gi ) 18
3 Về văn bản truyện in trong SGV Tiếng Việt 1 trong phần " Kể chuyện theo 19
tranh " ở các bài " Ôn tập ”
4 Về mục " Luyện nói theo chủ đẻ " trong SGK Tiếng Việt 1 19
5 Về ý kiến cho rằng " SGK Tiếng Việt làm hỏng tiếng Việt ” và lấy dẫn 20
chứng từ SGK Tiếng Việt 1
6 Vì sao SGK Tiếng Việt 1 không chọn những áng văn hay để dạy cho HS ? 21
7 Vấn để viết hoa trong SGK Tiếng Việt 1 22
8 Chữ cái " g " trong chữ gà và trong chữ gì biểu hiện 1 hay 2 phụ âm đầu ? 25
9 Sự thể hiện của nguyên âm " i " bằng các chữ cái : i , y 26
10 Sự thể hiện của nguyên âm đôi / ie / bằng các chữ cái : iề , , ia , ya 26
11 Về các khái niệm : chính tả ngữ âm ; chính tả ngữ nghĩa chính tả có ý thức ; 27
chính tả không có ý thức
12 Khái niệm chính âm . Chính âm trong tiếng Việt và chỉnh âm trong nhà 30
trường
13 Vấn đề quan hệ giữa chính âm và chính tả 31
14 Lỗi chính tả của học sinh đầu cấp Tiểu học 32

Trang 6
B –Lớp 2
15 Về tên gọi phân môn Luyện từ và câu " trong môn Tiếng Việt ở lớp 2 33
16 Các kiểu loại bài tập cơ bản trong phân môn " Luyện từ và câu " ở lớp 2 34

8
17 Về loại bài tập " Mở rộng vốn từ theo chủ điểm " trong SGK Tiếng Việt 2 35
18 Về kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ " và dạng bài tập " Ghép từ 36
cho sản với hình vẽ tượng ứng " trong SGK Tiếng Việt 2
19 Nội dung và yêu cầu của dung bài tập " Dựa vào tranh tìm từ tương ứng 37
20 Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập " Gọi tên các vật được vẽ ẩn trong 38
tranh " ( tranh đó )
21 Về kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa " trong SGK 39
Tiếng Việt 2
22 Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm " trong 40
SGK Tiếng Việt 2
23 Nội dung và yêu cầu của dung bài tập " Tìm từ cùng nghĩa , gần nghĩa hoặc 42
trái nghĩa với từ cho sản " trong SGK Tiếng Việt 2
24 " Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ " là thế nào ? 43
25 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu 44
tạo từ trong SGK Tiếng Việt 2
26 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 nắm nghĩa của từ 45
27 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 luyện tập sử dụng từ 47
28 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Điển từ vào chỗ trống trong câu " 48
trong SGK Tiếng Việt 2
29 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Dùng từ đặt câu ” trong SGK Tiếng 50
Việt 2
30 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 luyện tập phân loại , phân nhóm các từ , hệ 52
thống hoá vốn từ
31 Có gì đáng lưu ý về mục " Chú thích và giải nghĩa từ ngữ " ( Chú giải từ 53
ngữ ) ở cuối mỗi bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2 ?
32 Nội dung lay từ trong phân môn Tập đọc ở lớp 2 bao gồm những gì ? 55

Trang 7
B – Lớp 2
15 Về tên gọi phân môn Luyện từ và câu " trong môn Tiếng Việt ở lớp 2 33
16 Các kiểu loại bài tập cơ bản trong phân môn " Luyện từ và câu " ở lớp 2 34
17 Về loại bài tập " Mở rộng vốn từ theo chủ điểm " trong SGK Tiếng Việt 35

9
2
18 Về kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ " và dạng bài tập " Ghép 36
từ cho sản với hình vẽ tượng ứng " trong SGK Tiếng Việt 2
19 Nội dung và yêu cầu của dung bài tập " Dựa vào tranh tìm từ tương ứng 37
20 Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập " Gọi tên các vật được vẽ ẩn trong 38
tranh " ( tranh đó )
21 Về kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa " trong SGK 39
Tiếng Việt 2
22 Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm " trong 40
SGK Tiếng Việt 2
23 Nội dung và yêu cầu của dung bài tập " Tìm từ cùng nghĩa , gần nghĩa 42
hoặc trái nghĩa với từ cho sản " trong SGK Tiếng Việt 2
24 " Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ " là thế nào ? 43
25 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu 44
tạo từ trong SGK Tiếng Việt 2
26 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 nắm nghĩa của từ 45
27 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 luyện tập sử dụng từ 47
28 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Điển từ vào chỗ trống trong câu " 48
trong SGK Tiếng Việt 2
29 Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập " Dùng từ đặt câu ” trong SGK 50
Tiếng Việt 2
30 Về loại bài tập giúp HS lớp 2 luyện tập phân loại , phân nhóm các từ , 52
hệ thống hoá vốn từ
31 Có gì đáng lưu ý về mục " Chú thích và giải nghĩa từ ngữ " ( Chú giải từ 53
ngữ ) ở cuối mỗi bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2 ?
32 Nội dung lay từ trong phân môn Tập đọc ở lớp 2 bao gồm những gì ? 55

Trang 8
50 Vì sao tác giả SGK Tiếng Việt 4 ( phân môn " Luyện từ và câu " ) phân từ 80
láy tiếng Việt thành 3 kiểu : Từ láy âm đầu Từ láy vấn Từ láy cả âm đầu và
vần mà không phải là 4 kiểu như ở SGK Tiếng Việt 5 CCGD ?
51 Các từ : tươi tốt , đi đứng , buôn bán , mặt mũi , hốt hoảng , nhỏ nhẹ , ... là 81
từ ghép hay từ láy ?

10
52 Những từ : bạn bè , cây cối , máy móc , đất đai , chùa chiền , tuổi tác , gậy 82
gộc , mùa màng , chim chóc , thật thà , là từ ghép hay từ láy ?
53 Các từ như : đem đẹp , tôn tốt , khang khác , thình thích , chênh chếch , 82
thoăn thoắt , ... là từ láy âm hay là biến thể của từ láy tiếng ?
54 Các từ : cong queo , cuống quýt , công kênh , cập kênh , cập kèm , cặn kẽ , 83
cò kè , ... có phải là từ láy không ?
55 Các từ : bình mình , cần mẫn , chí khí , tham lam , bao biện , bảo bối , ban 83
bố , căn cơ , hoan hỉ , hào hiệp , hào hoa , hào hùng , hào hứng , hữu hạn ,
hữu hình , ... có phải là từ láy không ?
56 Các từ : êm ái , êm ả , ấm áp , ấm ức , ốm o , âm ĩ , inh ỏi , óc ách , ... có 84
phải là từ láy không ?
57 Vấn đề vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản . Nhận biết một tổ hợp là từ 85
ghép hay kết hợp 2 từ đơn
58 Từ và cụm từ khác nhau thế nào ? 86
59 Đặc trưng chung về nghĩa của từ láy 88
60 Có phải từ tượng thanh , từ tượng hình nào cũng là từ láy không ? 89
61 Từ loại là gì ? Sự phân loại các từ thành từ đơn , từ ghép , từ láy có phải là 90
từ loại không ?
62 Phân biệt hai loại tính từ : xanh , đỏ , dài , ngắn , tốt , xấu ... và xanh biếc , 91
gây nhom , to bự
63 Các từ : kỉ niệm , ảnh hưởng , ý thức , tâm tình ... , vui buồn là danh từ , 92
động từ hay tính từ ?
64 Xác định ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu 94
65 Về từ là trong kiểu câu Ai là gì ? 96
66 Phân biệt dấu chấm phẩy với dấu phẩy , dấu chấm 97

Trang 9
67 Phân biệt câu hỏi với câu có từ nghi vấn nhưng không dùng để hỏi 99
68 Về các tiểu loại danh từ : danh từ chỉ hiện tượng , danh từ chỉ khái niệm và 100
danh từ chỉ đơn vị
69 Phân biệt danh từ chung và danh từ riêng 102
70 Về các động từ chỉ trạng thái của sự vật 103
71 Xác định động từ trong câu 105

11
72 Phân biệt : từ chỉ đặc điểm , từ chỉ tính chất , từ chỉ trạng thái 105
73 Nói rõ hơn nội dung của định nghĩa về tính từ trong SGK Tiếng Việt 4 , tập 107
một
74 Các câu Bạn Lan học rất giỏi ; Con chim hót rất hay , Mẹ tôi nấu ăn rất ngon ... 108
thuộc kiểu câu Ai làm gì ? hay Ai thế nào ?
75 Biện pháp giúp HS phân biệt nhanh hai kiểu câu Ai làm gì ? và Ai thế nào? 110

E – Lớp 5
76 Nội dung của phân môn " Luyện từ và câu " trong SGK Tiếng Việt 5 110
77 Dựa vào đâu để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ? 112
78 Các từ chuyển loại ( ví dụ : lấy cưa để cưa gỗ ... ) có phải là từ đồng âm 114
không ? Phân biệt hiện tượng chuyển loại của từ và hiện tượng đồng âm
79 Vấn để từ đồng nghĩa trong SGK cũ ( sách CCGD ) và SGK mới 116
80 Biện pháp hướng dẫn HS tiểu học nhận ra một từ có nhiều nghĩa 118
81 Từ trái nghĩa có những loại nhỏ nào ? 119
82 Phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ 121
83 Về biện pháp chơi chữ bằng từ đồng âm 122
84 Đại từ trong tiếng Việt có những tiểu loại nào ? 123
85 Về đại từ xưng hô trong tiếng Việt 124
86 Mức độ kiến thức cần dạy về đại từ cho HS lớp 5 126

Trang 10
87 Quan hệ từ có những tiểu loại nào ? 126
88 Các từ ngữ như tuy vậy , thậm chí , chính vì thế ... có phải là quan hệ từ 127
không ?
89 Định nghĩa về câu ghép trong SGK Tiếng Việt 5 có gì đáng chú ý ? 128
90 Hai vế trong câu ghép " Con phải mặc ấm , nếu trời rét " ... được nối bằng 129
cách nào ?
91 Phân biệt điện từ và phép lập từ ngữ trong liên kết câu 130

12
92 Phân biệt thành ngữ và tục ngữ 131
93 Phân biệt câu đặc biệt và câu rút gọn 132
94 Từ thuần Việt và từ Hán Việt khác nhau thế nào ? 134

Phần hai: GIẢI ĐÁP VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY


A – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
95 Những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng đối với học sinh từng lớp 136
96 Dạy học môn Tiếng Việt phù hợp với từng HS có hoàn cảnh khó khăn 140
97 Thực hiện yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học trong giờ Tiếng Việt, 141
GV cần chú ý những điểm gì
98 Một số TBDH có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc giảng dạy môn Tiếng 144
Việt ở Tiểu học
99 Sử dụng tranh ảnh trong SGK ở Tiểu học như thế nào cho hợp lí và có hiệu 146
quả
100 Quy định về kiểm tra định kì môn Tiếng Việt ở Tiểu học và yêu cầu kết hợp 147
giữa hình thức trắc nghiệm khách quan và tự luận
101 Một số loại trắc nghiệm khách quan có thể vận dụng vào việc thiết kế bài 149
kiểm tra đánh giá môn Tiếng Việt ở Tiểu học
102 Cần lưu ý những điểm gì về kĩ thuật soạn thảo trắc nghiệm 151
103 Những định hướng đổi mới trong cách soạn giáo án môn Tiếng Việt 155
104 Lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập môn Tiếng Việt ở Tiểu học 158

Trang 11
B – GIẢNG DẠY CÁC PHÂN MÔN I
I- Dạy Học vần (lớp 1)
105 Sử dụng Bộ chữ Học vần thực hành và Bộ chữ Học vần biểu diễn như thế 159
nào để phát huy tính tích cực học tập của HS
106 Phân bổ thời gian một cách hợp lí và đảm bảo yêu cầu cơ bản của bài 170
học trong hai tiết Ôn tập vần đã học

13
107 Một số vấn khó phát âm đối với HS cần được GV hướng dẫn như thế nào ? 175
108 Một số vấn khó không dạy ở phần Học vần nhưng vẫn xuất hiện trong 176
bài Tập đọc cần được GV giải quyết như thế nào ?
109 Khi gặp một số chủ để chưa thật phù hợp với thực tế địa phương, 177
GV cần hướng dẫn HS luyện nói như thế nào ?
II – Dạy Tập đọc
110 Cần lưu ý những điểm gì về biện pháp và hình thức tổ chức dạy học Tập 179
đọc.
111 Vận dụng linh hoạt một số điểm về nội dung và phương pháp dạy - Tập đọc 181
ở các lớp 2, 3 như thế nào ?
112 Vận dụng linh hoạt một số điểm về nội dung và phương pháp dạy Tập đọc ở 185
các lớp 4, 5 như thế nào ?
113 Hướng dẫn HS học thuộc lòng trong giờ Tập đọc như thế nào để đạt hiệu 188
quả tốt.
114 GV sử dụng biện pháp đọc mẫu như thế nào để đạt hiệu quả tốt trong giờ 189
Tập đọc.
115 Có nên cho HS đọc đồng thanh trong giờ Tập đọc ở các lớp 4, 5 hay 190
không ?
116  Khi HS đọc sai tiếng, từ, câu, GV cần sửa lỗi đọc như thế nào ? 191
117 Hướng dẫn HS luyện đọc từng đoạn nối tiếp ở các lớp 2, 3 và các lớp 4, 5 191
như thế nào cho hợp lí.
118 Yêu cầu về đọc diễn cảm và một số biện pháp, hình thức tổ chức dạy đọc 193
diễn cảm trong giờ Tập đọc ở các lớp 4, 5.
119 Hướng dẫn HS tập đọc văn bản kịch trong SGK Tiếng Việt 4, 194
Tiếng Việt 5.
120 Có nhất thiết phải ghi vào bảng phụ những đoạn văn (thơ) cần luyện đọc 196
đúng ở các lớp 2, 3 và luyện đọc diễn cảm ở các lớp 4, 5 hay không ?

14
Trang 12
121 Đưa các từ ngữ được chủ giải trong SGK vào bước tìm hiểu bài để 197
hướng dẫn HS giải nghĩa từ có được không ?
122 Khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài Tập đọc ở các lớp 4, 5, GV có bắt buộc 198
phải tóm tắt và ghi ý chính của từng đoạn lên bảng hay không ?
123 Tìm đại lý của bài Tập đọc có phải là yêu cầu bắt buộc hay không ? 200
124 Có cần ghi bằng các từ ngữ được chủ giải trong SGK Tiếng Việt và từ ngữ 200
được giải nghĩa thêm hay không ?
125 Nội dung và cách trình bày bảng lớp trong giờ Tập đọc ở Tiểu học. 201
126 Yêu cầu ghi chép vào vở đối với HS khi học bài Tập đọc, 203
127  Dạy bài Tập đọc theo lối "bỏ dọc" hay lối "cắt ngang" là dạy như thế nào ? 204
128 Tổ chức HS làm việc theo cặp, theo nhóm trong giờ Tập đọc 1 208
129 Văn bản đọc khá dài được dạy trong 2 tiết nhưng không xếp gần nhau có thể 209
điều chỉnh cho HS học 2 tiết gần nhau trong cùng một tuần được không ?
130 Đối với các lớp 4, 5 vùng dân tộc thiểu số, GV chỉ tập trung vào bước 210
Hướng dẫn luyện đọc, lướt qua các bước Tìm hiểu bài và Đọc diễn cảm
trong giờ Tập đọc có được không ?

 II –Dạy Kể chuyện


131  Nội dung, yêu cầu của các loại bài tập về phân môn Kể chuyện trong SGK 211
Tiếng Việt 2,Tiếng Việt 3.
132 Sử dụng tranh phóng to từ SGK và dùng tranh minh hoạ để dạy bài tập kể 212
chuyện theo gợi ý bằng lời có giống nhau không ?
133 Dạy kiểu bài Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy (cô) kể trên lớp. 215
134  Dạy kiểu bài Kể chuyện gồm 4 bài tập, GV cần hướng dẫn như thế nào ? 217
135 Day kiểu bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc cho HS các lớp 4, 5 các vùng khó 210
khăn,
136 Một số điểm lưu ý khi dạy bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. 221
137 Nếu để bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia chưa phù hợp với HS 222
thì GV giải quyết thế nào ?

15
Trang 13
138 Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, nếu có HS không chọn được 223
câu chuyện để kể hoặc kẻ được câu chuyện đúng chủ điểm nhưng lại là câu
chuyện không được chứng kiến hoặc tham gia thì ứng xử thế nào ?

IV – Dạy Chính tả
139 Bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2,Tiếng Việt 3 đã được điều chỉnh thành 224
bài đọc thêm thì dạy HS viết chính tả như thế nào ?
140 Một số bài chính tả khá dài, nếu HS viết chậm, GV giảm độ dài bài viết 225
hoặc bớt bài tập có được không ?
141 Bài tập yêu cầu HS dựa vào tranh vẽ để viết tên các vật nhưng các em khó 227
nhận ra sự vật trong tranh thì xử lý thế nào ?
142  Nếu HS không có Vở bài tập in sẵn thì GV hướng dẫn các em làm 229
bài tập chính tả theo cách nào ?
143 Trò chơi về chính tả nhằm phục vụ cho yêu cầu luyện tập chính tả âm - vần 231
theo SGK Tiếng Việt ở Tiểu học.
144 Xin cho biết quy định về tính lỗi chính tả khi chấm bài của HS. 236
145  GV cần lưu ý những điểm gì về việc chấm, chữa bài chính tả cho HS. 238
146  Để giúp HS viết đúng chính tả tiếng Việt, cần quan tâm thực hiện những 239
biện pháp gì ?
V – Dạy Tập viết (lớp 1, 2, 3)
147 Trong dạy học Tập viết, GV hướng dẫn HS viết trên vở có dòng 4 lí hay 5 240
li.
148 Cách dạy HS tập viết trong tiết Học vần và trong tiết Tập viết ở lớp 1 có 241
những điểm gì khác nhau ?
149 Khái niệm chữ, chữ cái và việc sử dụng các thuật ngữ này trong dạy học 243
Tập viết.
150 Trong giờ Tập viết dùng các thuật ngữ rê bút và lia bát như thế nào cho 245
chính xác ?
151 Hướng dẫn tập tô chữ viết hoa và luyện viết củng cố chữ ghi 246
vấn - tiếng ở lớp 1 như thế nào ?
152 Dụng ý thiết kế trang vở Tập viết ở các lớp 2, 3. 248
16
153 Yêu cầu chấm bài và đánh giá kết quả bài tập viết của HS các lớp 2, 3. 251

Trang 14
VI - Dạy Luyện từ và câu
154 Dạy tiết Luyện từ và câu lớp 2 có 4 bài tập với 4 dạng khác nhau (ghép từ, 252
điện từ, nhìn tranh - nói thành câu, đặt dấu phẩy trong câu).
155 Dạy bài Từ chỉ hoạt động, trạng thái – Dấu phẩy ở lớp 2 có phải phân 254
biệt rõ về từ chỉ hoạt động và từ chỉ trạng thái hay không ?
156 Làm thế nào để hướng dẫn HS thực hiện bài tập đặt dấu chấm, 255
dấu phẩy trong khi các em chưa học về câu và các bộ phận trong câu.
157 Dạy loại bài Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ ở các lớp 4, 5 cho đối 258
tượng HS học yếu hoặc còn hạn chế về tiếng Việt.
158 Day loại bài Cung cấp kiến thức mới và Thực hành luyện tập ở các lớp 4, 5 260
cho đối tượng HS học yếu hoặc còn hạn chế về tiếng Việt.
159 Hai bài Mở rộng vốn từ cùng chủ điểm (lớp 4, 5) không dạy ở 2 tiết kế 261
tiếp nhau. Khi dạy bài thứ hai ở tuần sau, có phải kiểm tra bài thứ nhất
tuần trước không ?
160 Khi hướng dẫn thực hiện bài tập 1, tiết Luyện từ và câu Tuần 13 (lớp 4), 262
có cắn yêu cầu HS tìm các từ theo từng nhóm nhỏ (Ý chí/ Nghị lực),
giải nghĩa và đặt câu với các từ tìm được hay không ?
161 Trong bài Từ trái nghĩa (lớp 5), bài tập 1 (Nhận xét) yêu cầu : So sánh 263
nghĩa của các từ phi nghĩa - chính nghĩa. Nếu HS không hiểu nghĩa của hai
từ trên thì giải quyết thế nào ?
162 Dạy bài Mở rộng vốn từ ở các lớp 4, 5 có phải cung cấp cho HS đầy đủ 265
các từ ngữ nêu trong SGV Tiếng Việt 4 Tiếng Việt 5 hay không ?
163 Dạy về 3 kiểu câu kể Ai làm gì ? Ai thế nào ? Ai là gì ? ở lớp 4, 266
GV gọi hai bộ phận câu là “bộ phận chủ ngữ", "bộ phận vị ngữ" hay "chủ
ngữ", "vị ngữ" ?

VII - Day Tập làm văn


164 Mức độ cần đạt về kiến thức và kĩ năng Tập làm văn ở các lớp 1, 2, 3, 267
17
4, 5 được xác định như thế nào ?
165 Dạy tiết Tập làm văn ở lớp 2 với 3 hoặc 4 bài tập, trong đó có cả bài tập 268
luyện nói và bài tập luyện viết.

Trang 15
Đối với HS chưa thấy biển, cần hướng dẫn thực hiện yêu cầu: Quan sát 272
166 tranh và trả lời câu hỏi về cảnh biển và viết lại những câu trả lời về
cảnh biển ở lớp 2 như thế nào.
167 Giúp HS lớp 3 thực hiện hai bài tập ở Tuần 6 (Kể lại buổi đầu em đi 273
học,Viết những điều em vừa kể thành một đoạn văn ngắn)
168 Làm thế nào để hướng dẫn HS lớp 3 thực hiện tốt yêu cầu của hai tiết Tập 275
làm văn về Tập tổ chức cuộc họp.
169 Dạy hai tiết Tập làm văn ở lớp 3 (Kể về lễ hội ; Kể về một ngày hội) 279
có những điểm gì khác nhau ?
170  Dạy tiết Tập làm văn có hai bài tập về hai kĩ năng khác nhau (Kể lại 281
một trận thi đấu thể thao – Viết lại một tin thể thao trên báo, đài)
cần lưu ý những điểm gì ?
171 Dạy tiết Tập làm văn ở lớp 3 :Viết một bức thư ngắn (khoảng 10 câu) 283
cho một bạn nước ngoài để làm quen và bày tỏ tình thân ái.
172  Hướng dẫn HS luyện tập phát triển câu chuyện theo trình tự không gian ở 286
lớp 4
173  Dạy bài Luyện tập giới thiệu địa phương ở lớp 4 289
174 Dạy tiết Tập làm văn Luyện tập quan sát cây cối ở lớp 4 291
175 Hướng dẫn HS thực hiện tốt hai tiết Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây 293
cối ở lớp 4.
176 Hướng dẫn HS hoàn chỉnh 4 đoạn văn tả cây chuối tiêu trong tiết | Luyện tập 296
xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối ở lớp 4
177 Hướng dẫn HS viết mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng cho bài văn 297

18
kể chuyện hoặc miêu tả.
178 Hướng dẫn HS luyện tập kĩ năng tóm tắt tin tức ở lớp 4. 300
179 Day các bài Điền vào giấy tờ in sẵn ở lớp 4 đối với HS không có điều kiện 3303
được trang bị mẫu in sắn
180 Dạy bài Luyện tập tả cảnh ở lớp 5 phù hợp với các đối tượng HS 3306

181 3308
HS luyện tập tả một người trong gia đình (lớp 5) có cần mang ảnh chụp
người được tả đến lớp để làm bài hay không ?

182 3308
Hướng dẫn HS thực hiện tốt yêu cầu của 2 tiết Luyện tập thuyết trình,

tranh luận ở lớp 5.

Trang 16

183 Hướng dẫn HS thực hiện bài tập 2 (lập biên bản về cụ Ún trốn viện) trong 311
tiết làm biên bản một vụ việc ở lớp 5.

184 Khi dạy bài Lập chương trình hoạt động lớp 5, nếu HS chưa có điều kiện 312
tham gia các hoạt động nêu ở đề bài trong SGK thì giải quyết thế nào?
185 Dạy các tiết Tập viết đoạn đối thoại trong SGK Tiếng Việt 5 như thế nào 313
cho phù hợp đối tượng HS lớp 5?
186 Dạy học Tập làm văn ở các lớp 4,5 có nên sử dụng bài văn mẫu hay không 315
187 Đoạn văn, bài văn của HS tiểu học có những biểu hiện như thế nào thì được 316
coi là sáng tạo?
188 Đánh giá như thế nào khi HS kể lại câu chuyện Cây khế (theo lời của người 318
anh) có kết thúc không đúng như cốt truyện.

19
Trang 17
Phần một
GIẢI ĐÁP VỀ NỘI DUNG GIẢNG DẠY
A- LỚP 1
Câu 1
Trong sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt 1, tập một, ở bài 24, vì sao không dạy âm q
riêng, mà lại dạy tổ hợp âm qu (đọc là quờ)? Các tiếng hát đầu bằng qu được đánh
vần thế nào ?
- Trước hết, ta cần biết trong tiếng Việt, phu âm đầu "cờ " (kí hiệu /K/) được ghi bằng 3
chữ cái : thứ nhất, bằng chữ c khi nó đứng trước các nguyên âm: u, ô, o, ư, a, ă, â... (VD:
cổ cò, căn cứ...); thứ hai, ghi bàng k khi đứng trước i, ê, e... ( kì kèo, kể lể ...) thứ ba, ghi
bằng q khi đứng trước âm đệm. /-u-/ (quà quê, quanh quấn...). SGK Tiếng Việt 1 chủ
trương không dạy âm q riêng, mà dạy tổ hợp âm qu (quờ), coi qu như một phụ âm đấu
trong tiếng Việt (tương tự SGK Tiếng Việt 1 cải cách giáo dục (CCGD)1989). Bởi vì,
qua nghiên cứu, người ta nhận thấy khi phu âm đầu /K/ đi với âm đệm /-u- /, nó chi phối
âm đệm rất mạnh, gần như “đồng hoá” âm đệm, tạo thành một khối vững chắc – đó là tổ
hợp âm “quờ”. Về chữ viết, ta cũng nhận thấy q không đứng riêng mà luôn đi với u, tạo
thành qu. Ngoát lí do về mặt ngữ ân - văn tự nói trên, về phương diện sư phạm, dạy tổ
hợp âm “quờ”, học sinh (HS) Lớp 1 sẽ dễ đánh vần, ghép tiếng (Cần lưu ý Trong SGK
Tiếng Việt 1, ở bài 24, tên bài có giới thiệu chữ cái q (quy hoặc cu) để nhằm dẫn đến qu).
- Về cách đánh vần các tiếng bắt đầu bằng qu, có 2 cách:
+ Đánh vần tương ứng với viết chính tả: VD - quê (quờ - ê - quê), qua (quờ - a - qua),
quả (quờ-a-qua-hỏi-quả) (bài 24); quên (quờ - ên - quên) (bài 86)... Các trường hợp khác,
cách đánh vần cũng tương tự như: quy (quờ - y - quy), quan (quờ - an - quan), quai (quờ
- ai - quai), quay (quờ - ay - quay), quanh (quờ - anh - quanh), quân (quờ - ân - quân)...

20
Trang 18
+ Đánh vần không tương ứng với viết chính tả: VD: quốc (quờ – uôc - quốc – sắc - quốc),
quyển (quờ – uyên – quyên – hỏi - quyển), quỳnh (quờ – uynh – quynh - huyền - quỳnh),
quyết (quờ – uyêt – quyết - sắc - quyết)...
Theo cách đánh vần trên, lẽ ra các tiếng quốc, quyển, quỳnh, quyết phải viết : qu+ uốc =
quuốc ; qu + uyển = quuyển , qu + uỳnh = quuỳnh , qu + uyết = quyết. Nhưng trong thực
tế, các từ này được viết : quốc, quyền, quỳnh, quyết (lược bớt một chữ cái u). Nếu HS
thắc mắc về sự không nhất quán, về tính ngoại lệ của những trường hợp này, giáo viên
(GV) cần "viện dẫn" quy tắc chính tả cũng có tính ngoại lệ, như trường hợp ghép "gi" với
các vẫn "iêc", "iêu", "iêt", "iêng" kèm thanh điệu, khi viết được phép bỏ bớt một chữ cái
"i": giác, giễu, giết, giếng.... Trong thực tế, HS sẽ không thắc mắc, vì bằng trực cảm, các
em đã chấp nhận quy tắc bỏ một trong hai chữ cái giống nhau khi đứng cạnh nhau trong
một tiếng, và cách đánh vần có tính ngoại lệ này
cũng khá quen thuộc, gần gũi với các em.
Câu 2
Ở bài 23, học sinh làm quen với âm gờ (viết là g, gh) và đọc được các tiếng có gờ
đứng đầu như : gà gô, ghế gỗ,... Đến bài 24, khi giáo viên giới thiệu âm di (viết là
gi ), không ít học sinh đọc gi là ghi, đánh vần là : gờ - i - ghi. Đối với tình huống này,
giáo viên cần xử lý thế nào ?
Để tránh xảy ra tình huống này, ở bài 23, khi dạy cho HS về chữ g ("gờ" đơn) và gh
("gờ” kép), GV cần cho HS luyện tập kĩ về quy tắc ghép âm của âm đầu “gờ”. Cụ thể,
GV cho HS đọc và đánh vần các từ ứng dụng có g và gh ở đầu (VD: gà, gỗ, gõ, gỡ ; ghế,
ghi, ghé...), rồi HS nhận xét về quy tắc ghép âm (khi đi với a,o, ô, ơ... âm đầu "gờ" được
ghi là g; khi đi với i, e, e âm đầu “gờ được ghi là gh). Nếu HS được luyện tập kĩ và nắm
chắc quy tắc trên thì các em sẽ không mắc lỗi đọc gi là "ghi", đánh vần gi là gờ – i- ghi.
Bởi vì, khi đi với âm i, âm đầu "gờ" được viết là gh. Nói cách khác, không có tiếng “ghi”
nào được viết là gi.
Bên cạnh đó, ở bài 24, GV cần chủ động giới thiệu cho HS : chữ gi đọc là "di" (cách đọc
này là một quy ước sư phạm, để phân biệt với d (dờ), r (rờ)) và cho
HS tập đánh vần các tiếng có gi đứng đầu (VD: già : di - a - gia – huyền - già ; giã giò :
di - a - gia - ngã - giã, di – o - gio – huyền - giò...). Với cách làm này, GV sẽ giúp HS
tránh được loại lỗi nói trên.

21
Trang 19
Câu 3. Ở các bài Ôn tập trong SGK Tiếng Việt 1, sau phần Luyện đọc - Luyện viết
là phần Kể chuyện theo tranh. Văn bản truyện được in trong sách giáo viên (SGV).
Các truyện này đều ở dạng "lược trích" (lược bớt một số chi tiết). Điều này có làm
cho học sinh bị thiệt thòi vì không được tiếp xúc với văn bản truyện đầy đủ hay
không ?
Trong việc biên soạn sách dùng trong nhà trường, bên cạnh tính khoa học còn có yêu cầu
về tính sư phạm. Nội dung dạy phải phù hợp, sát hợp với trình độ của HS, với đặc
điểm về tư duy, nhận thức của trẻ. Trong phần Kể chuyện ở môn Tiếng Việt lớp 1, các
câu chuyện được dạy cho HS không đưa vào quá nhiều chi tiết (những người biên soạn
phải lược trích) để đỡ gây khó khăn cho trẻ trong việc tiếp thu văn bản. Văn bản có đơn
giản như vậy, GV và HS mới có thể đáp ứng được các yêu cầu như : GV đặt câu hỏi về
nội dung câu chuyện cho HS trả lời ; HS kể lại từng đoạn theo tranh...
Bên cạnh nguyên tắc nói trên, trong dạy học còn có nguyên tắc đồng tâm, nghĩa là nội
dung dạy học ở lớp dưới sẽ được nhắc lại, nhưng có đi sâu, mở rộng ở các lớp trên. Ví
dụ, ở lớp 1, trẻ tiếp xúc với nhân vật Thánh Gióng qua tiết Luyện nghe - nói theo chủ đề
tre ngà (bài 27, Tiếng Việt 1, tập một) ở mức độ đơn giản. Nhưng lên lớp 6, HS sẽ được
học văn bản truyện Thánh Gióng với tư cách là tác phẩm hoàn chỉnh, với đầy đủ các chi
tiết như ta đã từng đọc, từng nghe trong kho tàng truyện truyền thuyết của dân tộc ta (xin
xem SGK Ngữ văn 6, tập một, NXB Giáo dục, H, 2002, tr. 19).
Câu 4. Xin cho biết lí do ra đời và nội dung của mục Luyện nói theo chủ đề trong
SGK Tiếng Việt 1 (phần Học vần).
a) Lí do ra đời : Như ta biết, chương trình mới môn Tiếng Việt cấp Tiểu học nói chung
và lớp 1 nói riêng yêu cầu coi trong cả 4 kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong dạy học tiếng
Việt. Điều này thoạt nghe tưởng không có gì mới nhưng sự thực có nét mới. Nét mới biểu
hiện ở chỗ : chương trình cũ (tạm gọi như vậy) cũng yêu cầu dạy cả 4 kĩ năng, nhưng
trong thực tế, hai kĩ năng nghe – nói chưa được coi trọng đúng mức và gần như còn để
ngỏ (chỉ được thể hiện qua phân môn Kể chuyện nhưng không đáng kể). Nói cách khác,
đối với hai kĩ năng nghe – nói, HS chưa được rèn luyện nhiều. Chương trình mới

Trang 20
chú trọng hơn tới yêu cầu dạy đủ 4 kĩ năng, trong đó hai kĩ năng nghe - nói đã được quan
tâm một cách khá thoả đáng. Mục "Luyện nói theo chủ đề trong SGK Tiếng Việt 1 (phần
Học vần) được thiết kế nhằm đáp ứng yêu cầu nói trên (Tên gọi đầy đủ của mục này là
"Luyện nghe - nói theo chủ đề").
b) Nội dung : Luyện nghe - nói về các chủ để gần gũi, quen thuộc với HS lớp 1. Trong lời
nói của GV và HS (hỏi và trả lời) cần chú ý đến các từ ngữ chứa âm, vần mới học, từ đó
mở rộng sử dụng cả những từ ngữ chứa âm, vần chưa học nhằm phát triển lời nói tự
nhiên cho HS. HS nghe câu hỏi gợi dẫn của GV và trả lời bằng những câu đơn giản, trọn
nghĩa để rèn kĩ năng nghe - nói nhằm phục vụ cho học tập và giao tiếp.
Câu 5 (?) Có ý kiến cho rằng "SGK Tiếng Việt làm hỏng tiếng Việt" và lấy dẫn
chứng từ những từ ngữ, câu văn, đoạn văn trong SGK Tiếng Việt 1, tập hai. Điều đó
có đúng hay không ?

22
Trên báo chí, từng có ý kiến thắc mắc rằng tại sao SGK Tiếng Việt 1, tập hai lại dạy cho
HS lớp 1 các từ như nhân dịp, chụp đèn, khoai lang, áo choàng, đoạt giải, kể chuyện, mà
cũng những vần ấy, không dạy cho HS những từ có giá trị gợi tả, gợi cảm như : nhộn
nhịp, lụp bụp, thoai thoải, đi đoàng, loạt soạt, xao xuyến. Như ta biết, ngữ liệu (gồm các
từ, ngữ, câu ngắn, đoạn ngắn, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao...) được đưa vào SGK Tiếng
Việt 1 phải phù hợp với yêu cầu học chữ và rèn kĩ năng. Cụ thể, ngữ liệu đó phải đáp ứng
được một số yêu cầu, đồng thời là các tiêu chí lựa chọn sau đây:
Thứ nhất, ngữ liệu phải chứa những âm, vần HS đã học. Ví dụ, ngữ liệu được no sử dụng
ở bài 40 (học về 2 vần: iu, êu) phải chứa những âm, vần HS đã học từ bài 1 đến bài 39.
Những vẫn chưa học từ bài 41 đến bài 103 (bài kết thúc phần Học vần) thì chưa được sử
dụng. Do đó, việc soạn ngữ liệu phục vụ hoạt động luyện đọc, luyện viết của HS lớp 1
quả là điều không dễ.
Thứ hai, ngữ liệu đó phải là những từ ngữ, những câu văn, câu thơ phù hợp với lứa tuổi
của HS, có tác dụng giáo dục và mở rộng sự hiểu biết cho các em. Vì vậy, có thể có
những từ ngữ mang màu sắc văn chương, gợi hình ảnh, gợi âm thanh, gợi cảm xúc,...
nhưng lại không gần gũi, quen thuộc với trẻ ; hoặc quá cao, quá khó ; hoặc chưa phù hợp
về mặt giáo dục đối với các em... thì vẫn không thể lựa chọn.

Trang 21
Thứ ba, ngữ liệu đó ở một mức độ nhất định, còn phải phù hợp với chủ điểm dạy học. Cụ
thể, ở phần Luyện tập tổng hợp trong sách, các đoạn văn, đoạn thơ phải có nội dung phù
hợp với các chủ điểm: Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên - Đất nước.
Thứ tư, ngữ liệu sử dụng trong sách còn phải đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc dạy
học : vừa đảm bảo tính đồng tâm, vừa đảm bảo tính phát triển hai phần Học vần và Luyện
tập tổng hợp.
Cuối cùng, cũng phải nói tới một yêu cầu rất "bếp núc" của việc làm sách : đó là các từ
ngữ đưa vào sách (nhất là các từ khoá, mở đầu bài học) phải dễ minh hoạ. Bởi vì, như ta
biết, kênh hình có vai trò rất quan trọng trong các tài liệu dạy học cho HS nhỏ. Kênh hình
phải phù hợp với đặc điểm tư duy trực quan, tư duy hình ảnh của trẻ. Vì vậy, các từ như
chuồn chuồn, dòng sông, con đường, măng tre, cây bàng, còn dễ vẽ, chứ một số từ như
lụp bụp, đi đoàng, loạt soạt, xao xuyến thì nếu phải minh họa, các họa sĩ cũng sẽ... chào
thua.
Câu 6 (?) Có ý kiến so sánh: Cùng viết về chủ điểm Nhà trường nhưng bài văn
Trường em trong SGK Tiếng Việt 1, tập hai khô như ngói, đầy vẻ áp đặt, còn bài
Tôi đi học của nhà văn Thanh Tịnh thì không một học sinh nào thời trước lại không
cất giữ trong tim mình.Vậy tại sao không chọn những áng văn hay để dạy ?
Chọn những áng văn hay để dạy là điều mà bất cứ người soạn SGK Ngữ văn nào cũng
đều mong muốn. Nhưng như đã nói ở trên, việc lựa chọn ngữ liệu, lựa chọn văn bản đưa
vào SGK còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Trong SGK Tiếng Việt 1, tập hai, ngữ liệu
đưa vào phần Luyện tập tổng hợp (sau phần Học vần) là những đoạn văn, bài văn, ngoài
yêu cầu phải phù hợp với chủ điểm, còn có các yêu cầu khác như : chứa các vấn cẩn ôn
luyện, có cách diễn đạt trong sáng, dễ hiểu đối với HS lớp 1. Bài văn Tôi đi học của
Thanh Tịnh là một áng văn hay nhưng dạy cho HS lớp 1 – ở trình độ đang còn phải đánh

23
vần, kĩ năng đọc trơn chưa thuần thục - thì có phần chưa phù hợp. Sự băn khoăn của
người có ý kiến trên sẽ không còn nếu họ biết rằng hiện tại, áng văn này của Thanh Tịnh
đã được dạy một phần cho HS lớp 3, với tên bài Nhớ lại buổi đầu đi học (SGK Tiếng
Việt 3, tập một, tr. 51) và được dạy toàn bộ tác phẩm trong SGK Ngữ văn 8, tập một, tr. 5
(Truyện ngắn Tôi đi học in trong tập Quê mẹ của Thanh Tịnh, xuất bản năm 1941).

Trang 22
Câu 7 (?) Xin nói rõ hơn về vấn đề viết hoa trong SGK Tiếng Việt 1.
SGK Tiếng Việt 1 sử dụng một khối lượng ngữ liệu lớn để phục vụ việc luyện đọc, luyện
viết cho HS. Ngữ liệu được sử dụng trong SGK bao gồm các từ ngữ, các đoạn văn, đoạn
thơ, bài văn, bài thơ... phù hợp với HS lớp 1. Một trong những vấn đề mà các tác giả
SGK phải xử lý trong quá trình biên soạn là vấn đề viết hoa trong các ngữ liệu này. Cách
xử lí không thể ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà phải dựa trên những căn cứ, những cơ sở nhất
định. Dưới đây là những nét chính trong cách xử lí vấn đề viết hoa của các tác giả SGK
Tiếng Việt 1.
1. Trong các bài Chữ cái và âm (phần Học vần)
Phần này dạy cho HS các âm (nguyên âm, phụ âm) và các chữ cái ghi âm trong tiếng
Việt, gồm 27 bài (từ bài 1 đến bài 27). Do HS chưa được học về chữ hoa (chữ viết hoa,
chữ in hoa) cho nên các ngữ liệu trong các bài học ở phần này chưa viết hoa. Cụ thể, các
chữ đứng đầu câu, các tên riêng chưa được viết hoa. Từ bài 28 (kết thúc phần dạy "Chữ
cái và âm"), SGK Tiếng Việt 1, tập một bắt đầu day chữ hoa cho HS và từ đây, các chữ
đầu câu, các tên riêng đều được viết hoa. Đó là một sự bố trí hợp lí. Bởi vì chữ hoa được
coi là khó viết đối với HS, do đó không thể bố trí day sớm hơn.
Về chủ trương ở 27 bài đầu chưa viết hoa các ngữ liệu - cũng cần được làm rõ hơn, để
tránh những thắc mắc có thể có ở người đọc. Cụ thể, mục tiêu của 27 bài đầu là giúp HS
nhận biết, nhận dạng được các chữ cái ghi âm (nguyên âm, phụ âm) trong tiếng Việt. Nói
cách khác, ở phần này, HS chỉ cần nhận biết được dạng chữ thường (chữ in thường và
chữ viết thường) của các chữ cái, để từ đó đánh vần được và đọc được các tiếng khoá, từ
khoá, từ và câu ứng dụng. Mục tiêu này phù hợp với giai đoạn đầu học chữ của trẻ, phù
hợp với những đặc điểm về tư duy, nhận thức của trẻ và tránh được tình trạng quá tải
trong dạy - học. Vì vậy, ở giai đoạn này, chủ trương chưa dạy chữ hoa (chữ cái ở dạng
viết hoa), theo đó là chưa viết hoa các ngữ liệu được sử dụng ở 27 bài đầu là một chủ
trương đúng đắn.
2. Trong các bài còn lại (phần Học vần và phần Luyện tập tổng hợp)
Phần này gồm từ bài 28 đến bài 103 (phần Học vần) và các bài trong phần Luyện tập tổng
hợp. Về vấn đề viết hoa trong các ngữ liệu được sử dụng ở phần này, có mấy khía cạnh
sau đây cần lưu ý:

Trang 23

24
a) Tên các chủ đề "Luyện nói" ở cuối mỗi bài Học vần mới chỉ viết hoa chữ đầu (VD: Bé
tự giới thiệu ; Nặn đồ chơi ; Mai sau khôn lớn,...) và ở cuối tập hợp từ này không có dấu
chấm kết thúc (giống như cách trình bày các đề mục, tiểu mục trong sách).
b) Tên câu chuyện trong phần Kể chuyện ở cuối các bài ôn tập cũng viết hoa chữ đầu,
viết hoa từ chỉ các con vật đã được nhân cách hoá, cá thể hoá - Với tư cách là các nhân
vật trong truyện (VD: Cây khế : Đi tìm bạn ; Khỉ và Rùa,...).
c) Tên người, tên đất, chữ đầu câu,... đều được viết hoa bình thường.
d) Vấn để viết hoa từ chỉ các con vật
Trong các ngữ liệu được sử dụng ở SGK Tiếng Việt 1, từ chỉ các con vật (VD: voi, kiến,
mèo, chuột, rùa, thỏ,...) xuất hiện khá nhiều. Những người biên soạn và biên tập SGK
Tiếng Việt 1 đã đưa vào một số tiêu chí sau đây để xử lí vấn đề viết hoa từ chỉ các con
vật:
- Trước hết, phải đặt từ đó vào văn cảnh (câu văn, đoạn văn,...) để xem xét. Cụ thể, một
từ chỉ loài vật như : voi, kiến, rùa, thỏ,... nếu xuất hiện trong từ điển, đứng cô lập, tách
khỏi văn cảnh thì hiển nhiên không thể viết hoa, vì nó là danh từ chung chỉ một loại sự
vật, chỉ giống loài. Nhưng, cũng từ đó, nếu đặt trong một văn cảnh cụ thể, được dùng làm
tên gọi của một cá thể sự vật, được nhân cách hoá thì nó đã trở thành tên riêng của một
nhân vật" và cũng hiển nhiên, phải viết hoa từ ấy. (Có thể gọi nguyên tắc này là nguyên
tắc : dựa vào văn cảnh.)
- Sau đó, như đã nói ở trên, ta xem xét từ ấy (nghĩa của từ ấy) có mang tính nhân cách
hoá, cá thể hoá hay không. Cụ thể, nhân cách hoá nghĩa là gán cho con vật những đặc
tính của con người, cũng cười nói, vui buồn như con người ; cá thể hoá nghĩa là từ đó là
tên gọi của một cá thể sự vật, một con vật cụ thể, duy nhất (nhân cách hoá và cá thể hoá
có thể nói tắt là nhân hoá và riêng hoá). Nếu một từ chỉ con vật mà mang cả hai đặc điểm
trên, thoả mãn hai tiêu chí trên thì từ đó được viết hoa (VD: Trong SGK Tiếng Việt 1, tập
một, các từ Cừu (tr. 87) ; Dế Mèn, Sên (tr. 97); Sử (tr. 133); Mèo, Chuột (tr. 151)...)
Ngược lại, nếu từ chỉ con vật không mang hại đặc điểm nổi trên thì không viết hoa. Ở
đây, có vấn đề thú vị nhưng không kém phần phức tạp, nan giải được đặt ra là: có một số
"hiện tượng trung gian", nghĩa là hai đặc điểm nói trên

Trang 24
không được thể hiện rõ nét, rõ ràng hoặc không thể hiện đầy đủ. Trường hợp không thể
hiện rõ nét có thể tìm thấy qua VD: Nhà Sáo Sậu ở sau dãy núi (Tiếng Việt 1, tập một, tr.
89)... (Trong văn cảnh này, tính nhân cách hoá, cá thể hoá của từ Sáo Sậu không thật rõ
nét. Nhưng trong hai phương án viết hoa /không viết hoa, phương án viết hoa được lựa
chọn, vì từ Sáo Sậu vẫn hội đủ cả hai đặc điểm nói trên). Còn trường hợp thể hiện không
đầy đủ, nghĩa là một từ nào đó mà nghĩa của nó chỉ thể hiện một trong hai đặc điểm, thoả
mãn một trong hai tiêu chí đã được nói tới ở trên. VD: lũ chuồn chuồn ngẩn ngơ bay lượn
(Tiếng Việt 1, tập một, tr. 103)... (Ở văn cảnh này, từ chuồn chuồn chỉ ít nhiều mang tính
nhân cách hoá, mà không mang tính cá thể hoá. Đối với những từ thuộc loại này, phương
án không viết hoa được lựa chọn, vì các từ đó không hội đủ cả hai đặc điểm nêu trên).
Như vậy, về những từ mang tính chất “ trung gian" như đã nói ở trên, việc lựa chọn
phương án viết hoa hay không viết hoa chỉ mang tính quy ước, tính tương đối.

25
- Còn một vấn đề khác được đặt ra cũng cần có cách giải quyết thoả đáng, để tránh những
thắc mắc ở người đọc, đó là vấn đề xác định ranh giới từ (từ chỉ con vật) khi viết hoa. Cụ
thể, tại sao Sư Tử, Chào Mào, Dế Mèn, Sáo Sậu, Bói Cá,... thì viết hoa cả hai chữ (tiếng),
còn Gấu mẹ, Thỏ con, Chuột nhà, Chuột đồng,... thì chỉ viết hoa một chữ ? Để trả lời câu
hỏi này, ta phải xem xét cấu trúc của các tổ hợp trên, xem xét mối quan hệ lỏng - chặt
giữa các yếu tố trong từng tổ hợp. Cụ thể, ở loại thứ nhất, quan hệ giữa các yếu tố (Sư và
Tử, Chào và Mào ; Dế và Mèn ; Sáo và Sậu...) khá chặt chẽ, không thể tách rời, mang
tính nhất thể hoá, tạo thành một khối và được hiểu cả khối này là một từ, gọi tên một con
vật. Còn ở loại thứ hai, quan hệ giữa các yếu tố (Gấu và mẹ ,Thỏ và con ; Chuột và
nhà...) khá lỏng lẻo, không hoặc ít có tính cố định, ổn định, bền vững, dễ tách rời thành
hai từ. Có thể hiểu đây là những cụm từ, những tập hợp từ. Do đó, không nên viết hoa hai
yếu tố trong tổ hợp này. Như vậy, mối quan hệ lỏng - chặt giữa các yếu tố trong tổ hợp từ
chỉ các con vật, cũng là một trong những tiêu chí dùng vào việc xử lí vấn để viết hoa.
- Cuối cùng, chúng tôi thấy cũng cần nói về một số trường hợp mà cách xử lí viết hoa tên
các con vật ở đó cũng dễ gây thắc mắc cho người đọc. Trước hết, trong tên một số chủ đề
"Luyện nói" ở SGK Tiếng Việt 1, tập một, có những cách viết sau : "Se, rỉ, bói cá, le le"
(tr. 67); "Hổ, báo, gấu, hươu, nai, voi" (tr. 87);

Trang 25
"Chuồn chuồn, châu chấu, cào cào" (tr. 103) thì nên hiểu Sẻ, Hổ, Chuồn được viết hoa vì
các từ này đứng đầu trong tên chủ đề "Luyện nói", còn các từ đứng sau không được viết
hoa vì chúng là danh từ chung, chỉ giống loài. Cạnh đó, có người hỏi: Vì sao trong cùng
trang 67, từ Bói Cá ở câu ứng dụng được viết hoa, còn từ bói cá trong tên chủ đề "Luyện
nói" lại không được viết hoa? Câu trả lời khá đơn giản : từ Bói Cá ở trên thể hiện đầy đủ
2 đặc điểm: nhân cách hoá, cá thể hoá ; còn từ bói cá ở dưới chỉ là danh từ chung, chỉ
giống loài. 
- Để kết thúc mục d (Vấn để viết hoa từ chỉ các con vật), chúng tôi muốn nói tới một cách
xử lí khá đơn giản mà GV tiểu học có thể làm được, trước một từ chỉ con vật trong một
văn cảnh. Cụ thể, ta đặt hai câu hỏi: 
(1) Từ này (hoặc : nghĩa của từ này) có mang tính nhân hoá, riêng hoá, là tên riêng của
một "nhân vật” hay không ? (Nếu có :Viết hoa ; không có : Không viết hoa). 
(2) Quan hệ giữa các tiếng trong từ (trong tổ hợp) chặt hay lỏng ? (Nếu chặt chẽ: Viết hoa
tất cả các tiếng - chữ ; nếu lỏng lẻo : Chỉ viết hoa tiếng - chữ đứng đầu.)
Câu 8  (?) Chữ cái "g" trong chữ gà và trong chữ gì biểu hiện (ghi lại) một phụ âm
đầu hay hai phụ âm đầu khác nhau ?
| Phụ âm đầu trong tiếng (âm tiết) gà là phụ âm "gờ" (kí hiệu là ..). Phụ âm này có các đặc
trưng ngữ âm : xát, cuối lưỡi, hữu thanh ; chữ viết ghi bằng | "g" khi sau nó là các nguyên
âm hàng sau (u, ô, o, a, ă, ơ, â, uô, ươ), ghi bằng "gh" khi sau nó là nguyên âm hàng trước
(I,e,ê, iê). Còn phụ âm đầu trong tiếng gì là phụ âm "dờ" (kí hiệu là /z/). Phụ âm này có
các đặc trưng ngữ âm : xát, đầu lưỡi răng, hữu thanh ; chữ viết ghi bằng "d" (VD : duyên
dáng, dữ dội,...) và "gi" (VD: giặc giã, gia giáo,...). Ngoài ra, trong một số trường hợp,
phụ âm đầu "dờ" còn được ghi bằng "g" (lược bớt "i" trong "gi" – VD: gì, giếng, giết,...).

26
Như vậy, trong chữ gà và chữ gì, chữ cái "g" được dùng để ghi lại hai phụ âm đầu hoàn
toàn khác nhau.

Trang 26
- Cuối cùng, chúng tôi thấy cũng cần nói về một số trường hợp mà cách xử lí viết hoa tên
các con vật ở đó cũng dễ gây thắc mắc cho người đọc. Trước hết, trong tên một số chủ đề
"Luyện nói" ở SGK Tiếng Việt 1, tập một, có những cách viết sau : "Se, ri, bói cá, le le"
(t, 67); "Hổ, báo, gấu, hươu, nai, voi" (tr. 87);
Câu 9 (?) Nguyên âm /i/ được thể hiện bằng chữ cái i hoặc chữ cái y trong những
trường hợp nào ?
: Nguyên âm /i/ có các đặc trưng ngữ âm sau : nguyên âm hàng trước, hẹp, không tròn
môi. Về chữ viết thể hiện, nó được ghi bằng :
- Chữ cái "y":
+ Khi /i/ đứng sau âm đệm (âm đệm được ghi bằng chữ cái "u"), VD : huy, tay, luỹ, quý,
thuỷ, buýt,...
+ Khi /i/ đứng một mình và là tiếng Hán - Việt, VD : y học, y khoa, y án, y bạ, y cụ, y
nguyên, y phục, y sĩ, y viện, y vụ, ý chí, ý đồ, ý kiến, ý nghĩa, ý nguyện, ý niệm, ý thức,...
- Chữ cái "i":
+ Khi i/ đứng đầu tiếng (âm tiết), VD: im ỉm, in it, inh ỏi, ít ỏi, ỉu xìu,...
+ Khi /i/ đứng giữa tiếng mà đằng trước nó không có âm đệm, VD: lim dim, kìn kìn, lỉnh
kỉnh, bìm bịp, xích mích,...
+ Khi /i/ đứng cuối tiếng (trừ uy, ay, ay), VD: li kì, chí khí, tươi cười,...
+ Khi /i/ đứng một mình và là tiếng thuần Việt, VD: ì ạch, ỉ eo, í ới, í a í ới, ì ấm,... Chú
ý: Trên sách báo, việc viết i hoặc y còn khá tuỳ tiện, tạo nên hiện tượng "song tổn” trong
cách viết chính tả âm /s/. Ví dụ, có thể thấy một số cách viết sau cùng tồn tại: ỳ ạch – ì
ạch, ỷ eo - ỉ eo, lý luận – lí luận ; kỹ thuật – kĩ thuật,...
Trong nhà trường, nhất là ở cấp Tiểu học, GV cần nắm chắc quy tắc chính tả đối với
nguyên âm /i/ đã được đề cập ở trên và hướng dẫn HS thực hiện đúng quy tắc chính tả
này.
Câu 10 (?) Nguyên âm đôi /ie/ được thể hiện bằng từng nhóm chữ cái iê, yê, ia, ya
trong những trường hợp nào ?
- Nguyên âm đôi /ie/ có các đặc trưng ngữ âm sau : nguyên âm hàng trước, không tròn
môi, chuyển từ hẹp sang hơi hẹp. Nó được ghi bằng 4 hình thức chữ viết :

Trang 27
- Viết ‘iê" khi đằng trước nó không có âm đệm, đằng sau có âm cuối; VD: tiên tiến, tiềm
tiệm, nhiệt liệt, thiêng liêng, liêu xiêu,...
- Viết "yê" khi đứng đầu tiếng hoặc đằng trước có âm đệm, đằng sau có âm cuối , VD :
yêu, yên, yếm, vếng ; tuyên truyền, truyền thuyết, con thuyền, trăng khuyết, tuyệt vời,...
- Viết “ia" khi đứng một mình hoặc đứng cuối tiếng mà đằng trước không có âm đệm ;
VD: kia kìa, chia mía, tia chớp, bìa sách, vỉa hè,...

27
- Viết "ya" khi đằng trước có âm đệm, đằng sau không có âm cuối , VD: khuya, pơ-luya,
phéc mơ tuya,...
Khi hướng dẫn HS ghi nhớ nguyên tắc chính tả nói trên, GV nhắc HS lưu ý hai trường
hợp : viết "yê" và "ya", vì HS ở các lớp đầu cấp Tiểu học thường
mắc lỗi chính tả khi viết các tiếng có "yê" và "ya" (VD: HS thường viết : con thuyền →
con thuền, trăng khuyết → trăng khuết , đêm khuya → đêm khua,...).
Câu 11 (?) Các khái niệm sau đây cần được hiểu và vận dụng như thế nào ở Tiểu
học :"chính tả ngữ âm" ;"chính tả ngữ nghĩa" , "chính tả có ý thức" ;"chính tả
không có ý thức" ?
a) Chính tả ngữ âm
- Có thể hiểu cách nói "chính tả ngữ âm" muốn để cập tới nguyên tắc chính tả cơ bản của
chữ Việt là nguyên tắc ngữ âm học. Theo nguyên tắc này, cách viết của từ phải biểu hiện
đúng âm hưởng của từ. Nói cách khác, phát âm thế nào thì viết như thế ấy, giữa cách đọc
và cách viết thống nhất với nhau. Trong giờ chính tả, HS sẽ xác định được cách viết đúng
(đúng chính tả) bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói (VD: hình thức chính
tả nghe – ghi). Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và
chữ viết. Từ đó, có thể đi tới kết luận : day chính tả (nhất là ở Tiểu học) cần phải kết hợp
với việc rèn luyện phát âm. Trước hết là thầy giáo, cô giáo cần phải đọc đúng, sau đó HS
cũng phải rèn luyện để đọc đúng.
- Nói rằng chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm học, giữa cách đọc và cách viết thống
nhất với nhau là nói về nguyên tắc chung, còn trong thực tế,

Trang 28
sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc (phát âm) và viết (viết chính tả) khá phong phú, đa
dạng. Cụ thể, chính tả tiếng Việt không dựa hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của một
phương ngữ nhất định nào. Cách phát âm thực tế của các phương ngữ đều có những sai
lệch so với chính âm, cho nên không thể thực hiện phương châm "nghe như thế nào, viết
như thế nấy" được (VD: không thể viết là bo vang, Ba Vì,... như cách phát âm của
phương ngữ vùng Sơn Tây; suy nghĩ, sạch sẽ, ở vùng Thanh Hoá ; bắc bẻ, Buông Mê
Thuộc,... trong phương ngữ Nam Bộ,...). Như vậy, phát âm làm cơ sở cho chính tả tiếng
Việt không phải là phát âm riêng của một địa phương nào mà là sự tổng hợp lối phát âm
của cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Tiếc rằng, cho đến nay, vì nhiểu lẽ, ta chưa quy định
được một cách cụ thể nội dung của chính âm trong tiếng Việt Điều này gây khó khăn
không nhỏ cho GV trong quá trình hướng dẫn cho HS đọc đúng" (chính âm) và "viết
đúng" (chính tả).
b) Chính tả ngữ nghĩa
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm học, nhưng trong thực tế, muốn viết đúng chính tả,
việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp
người học viết đúng chính tả. Ví dụ, nếu GV đọc một từ có hình thức ngữ âm là "za" thì
HS có thể lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc gia
đình hoặc da thit hay ra vào (đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì HS
dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể hiểu rằng chính tả tiếng Việt còn là loại chính
tả ngữ nghĩa.

28
Đây là một đặc trưng rất quan trọng của chính tả tiếng Việt. Vì vậy, không phải ngẫu
nhiên mà trong một số cuốn sách hướng dẫn HS làm các bài tập "chính tả so sánh”, người
soạn sách đã có ý thức cung cấp những thông tin cần thiết về nghĩa của các từ cho HS,
làm cơ sở, làm chỗ dựa cho HS viết đúng chính tả các từ này. Ví dụ, khi hướng dẫn HS
viết phân biệt các cặp : trú / chú trung chung,... người soạn sách đã gợi ý như sau :
- Phân biệt trù / chú .
Trú có nghĩa là "ở, ở tạm, dừng lại hoặc lánh vào một nơi nào" (cư trú, ngoại trú, tạm trú,
trú ẩn, trủ quản,...); chủ có nghĩa là "em trai của bố" (chú bác), "chua nghĩa" (chú thích,
chú dẫn,...), "tập trung vào việc gì đó" (chú ý, chú trọng,...).

Trang 29
- Phân biệt trung / chung:
Trung có nghĩa là "ở giữa, ở trong" (tập trung, trung tâm, không trung, trung thu,...),
"trung bình" (bậc trung), "hết lòng với người, hết lòng với nước" (trung thành, trung hiếu,
trung quân,...); chung có nghĩa là "không riêng, cùng" (chung sống), "cuối cùng" (chung
thuỷ, chung kết,...).
c) Chính tả có ý thức
Là loại chính tả nhằm phát hiện ra các quy tắc chính tả, trên cơ sở đó mà viết đúng chính
tả. Nói cách khác, để viết đúng chính tả, HS cần vận dụng có ý thức một số quy tắc làm
căn cứ để có thể viết đúng tất cả các từ (các chữ) năm trong phạm vi quy tắc mà không
cần gắng sức ghi nhớ cách viết của từng từ một. Day chính tả theo con đường có ý thức
có mấy cái lợi sau:
– Khi đã nắm được các quy tắc chính tả, HS nắm được cách viết đúng các từ mà không
cần phải ghi nhớ máy móc từng trường hợp chính tả riêng biệt.
- Rút ngắn được thời gian rèn luyện để hình thành, phát triển các kĩ năng, kĩ xảo chính tả.
- Qua việc phân tích, so sánh, đối chiếu, khái quát hoá, trừu tượng hoá,... để từ đó rút ra
các quy tắc chính tả, HS được rèn luyện về khả năng tư duy.
Trong nhà trường (nhất là trường tiểu học), GV cần sử dụng, khai thác tối đa phương
pháp có ý thức trong giảng dạy chính tả. Muốn vậy, trước hết, GV cẩn phải được trang bị
những kiến thức về ngữ âm học, từ vựng - ngữ nghĩa học có liên quan đến chính tả. Cụ
thể, GV phải biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học tiếng Việt vào việc phân loại
lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi ; nhất là việc xây dựng các quy tắc chính
tả, các "mẹo" chính tả, giúp HS ghi nhớ cách viết một cách khái quát, có hệ thống.
VD: - Khi đứng trước các nguyên âm: i, e, ê,...
Âm "cờ" viết là "k"
Âm "gờ" viết là "gh"
Âm "ngờ" viết là "ngh"
- Khi đứng trước các nguyên âm : u, ô, o, a, ă, â,...
Âm "cờ" viết là "c"
Âm "gờ" viết là "g"
Âm "ngờ" viết là "ng"
- Khi đứng trước âm đệm (âm đệm viết là a) thì âm "cờ" viết là "q".

29
Trang 30
d) Chính tả không có ý thức
Như ta biết, mọi hoạt động học tập đều phải là hoạt động có ý thức. Cách nói "chính tả
không có ý thức" ở đây được hiểu là người học phải học thuộc các trường hợp chính tả
"bất quy tắc", phải ghi nhớ một cách máy móc từng trường hợp chính tả cụ thể. Như vậy,
bên cạnh dạng chính tả có ý thức (đã để cập ở trên), chúng ta cần chú ý đến dạng chính tả
không có ý thức. Bởi vì, tìm hiểu tình hình chính tả tiếng Việt ta thấy, bên cạnh những
trường hợp chính tả có thể khái quát thành quy tắc chung, người Việt còn viết theo thói
quen, theo truyền thống lịch sử, tạo nên các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán,
hoặc không gắn với một quy luật, quy tắc nào, hoặc nếu có cũng là những quy tắc manh
mún, liên quan đến những kiến thức mà HS nhỏ tuổi chưa có được. Đó là các trường hợp
viết phân biệt :d và gi ; s và x ; tr và ch ;l và n ; dấu hỏi và dấu ngã,... Gặp những trường
hợp này, tốt nhất là phải cho HS sử dụng các hiện tượng chính tả dễ nhầm lẫn nhiều lần,
ghi nhớ máy móc từng trường hợp. Đi theo con đường này có thể mất nhiều thời gian và
công sức, nhưng có thể làm được, vì dù sao các trường hợp cụ thể cần nhớ vẫn chỉ là hữu
hạn. Điều cần lưu ý ở đây là khi cho HS ghi nhớ máy móc hình thức chính tả của các từ,
cần gắn liền với nghĩa của từ và như đã nói ở trên, tập cho HS sử dụng các từ này thường
xuyên trong giao tiếp, trong thực tiễn nói – viết.
Câu 12 Chính âm là gì ? Nội dung của chính âm trong tiếng Việt hiện thời là gì ? Có
tồn tại chính âm trong nhà trường hiện nay không ? :
a) Hiểu theo nghĩa hẹp, chính âm là cách phát âm phù hợp với chuẩn phát âm đã được
thừa nhận trong một ngôn ngữ, là hệ thống các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ đó. Yêu
cầu cơ bản của chính âm là xây dựng một cách phát âm chuẩn thống nhất trong phạm vi
toàn dân, để cho ngôn ngữ có thể thực hiện thuận lợi chức năng làm công cụ giao tiếp của
mình.
b) Theo đa số các nhà nghiên cứu, nội dung cơ bản của chính âm trong tiếng Việt hiện
thời nên lấy hệ thống ngữ âm (cách phát âm) của phương ngữ Bắc Bộ mà tiêu biểu là
tiếng Hà Nội làm căn cứ, bổ sung cách phát âm một số phụ âm đầu quặt lưỡi (tr, s, r) và
không phát âm phân biệt d /r /gi ; hệ thống vần giống như trên chữ viết.
Trang 31
Ở đây, có một điều quan trọng cần lưu ý là : chính âm trong tiếng Việt với nội dung cơ
bản như đã nói ở trên đã được nhân dân trên toàn quốc thừa nhận, nhưng nó lại không tồn
tại trong thực tế (mà chỉ tồn tại trong ý thức, trong đầu óc của đa số người nói tiếng Việt).
c) Vấn đề chính âm trong nhà trường
Như trên đã nói, chính âm tiếng Việt chỉ tổn tại như là những yêu cầu, những mong muốn
mà không hoặc ít tồn tại trong thực tế đời sống, trong thực tiễn giao tiếp của người bản

30
ngữ. Bên cạnh đó, trong giới nghiên cứu tiếng Việt lại tồn tại quan niệm cho rằng không
cẩn thống nhất giọng nói", cần phải tốn trọng màu sắc địa phương trong giọng nói, cần có
một quan niệm uyển chuyển và thực tế về vấn đề chính âm trong tiếng Việt, về hệ thống
ngữ âm chuẩn trong tiếng Việt. Thực tiễn nói trên đã gây những khó khăn không nhỏ cho
GV và HS trong quá trình dạy – học môn Tiếng Việt nói chung, các phân môn Tập đọc,
Chính tả nói riêng. Ví dụ, SGK Tiếng Việt tiểu học (phân môn Tập đọc) có yêu cầu HS
đọc đúng" một số từ ngữ mà HS dễ phát âm sai (trích trong bài Tập đọc). HS đọc (tất
nhiên theo giọng địa phương của mình), GV rất khó nhận xét đọc (phát âm) như vậy đã
đúng hay chưa, vì GV không có chuẩn mực để dựa vào, để so sánh, đối chiếu. Như vậy,
nội dung của yêu cầu "đọc đúng" trong SGK cũng được hiểu khác nhau và khó có thể
thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Những khó khăn mà GV và HS vấp phải trong dạy – học tiếng Việt, chủ yếu do chúng ta
chưa xây dựng được chính âm trong nhà trường.
Câu 13 Chính âm và chính tả có quan hệ với nhau như thế nào ? Có phải muốn viết
đúng chính tả thì trước hết phải tập phát âm đúng ?
Trong một ngôn ngữ mà chữ viết được xây dựng theo nguyên tắc ngữ âm học như tiếng
Việt thì chính âm và chính tả có mối quan hệ rất mất thiết. Nhưng xem xét mối quan hệ
giữa chính âm và chính tả trong tiếng Việt, người ta thấy tồn tại một điều dường như là
một nghịch lí. Cụ thể, như ta biết, phải có chuẩn phát âm trước rồi mới có chuẩn chính tả
(phát âm đúng làm cơ sở cho viết đúng chính tả). Nhưng với tiếng Việt, trong khi chuẩn
phát âm chưa được xác định, chưa được quy định một cách chính thức, chuẩn chính tả đã
hình
Trang 32

thành và tương đối ổn định. Vì vậy, trong thực tế (nhất là trong nhà trường, đôi khi người
ta lại dựa vào chính tả, dựa vào hình thức chữ viết của từ đó năn việc phát âm, nhất là
những cách phát âm địa phương có sự lệch chuẩn rệt. Về vấn đề này, nhà giáo Đình Cao
đã có ý kiến khá xác đáng, khi ông viết. "Trên thực tế, việc thống nhất chính tả sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình dần dần thống nhất ngữ âm, chứ không phải là ngược
lại. Vì rằng, việc thống nhất chính âm vốn khó thực hiện hơn rất nhiều, đó là công việc
lâu dài của nhiều thế hệ và còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác chứ không đơn thuần
là. Công việc của ngành giáo dục, của nhà trường... Cho nên, việc viết đúng chuẩn chính
tả cần phải đi trước, nó sẽ điều chỉnh, sửa chữa ngữ âm, củng cố và phổ biến các chuẩn
phát âm, Giải pháp bắt HS chữa phát âm để viết đúng chính tả là bất cập, là "đặt cái cày
trước con trâu". 

Tuy nhiên, tuỳ theo đối tượng HS từng vùng, có thể vận dụng phối hợp biên pháp chữa
lỗi phát âm để hỗ trợ cho việc chữa lỗi chính tả trong một số trường hợp mà lối phát âm
địa phương lệch chuẩn rõ rệt. Mặc dầu vậy, cần. quán triệt yêu cầu là :HS phải viết đúng
chính tả trước đã, còn phát âm sẽ sửa chữa dần dần và trong khi chưa chữa được phát âm,
vẫn phải viết đúng chuẩn chính tả.

31
Việc sửa lỗi phát âm để giúp HS viết đúng chính tả chỉ là một biện pháp bổ trợ, không thể
chọn làm phương pháp dạy chính tả chủ đạo(1)" ở cấp Tiểu học.

(1) Đình Cao – Giới thiệu một phương pháp dạy chính tả. Văn học và tuổi trẻ, tập 37.

Câu 14 (7) Vì sao học sinh các lớp đầu cấp Tiểu học thường mắc một số loại lỗi
chính tả như sau :

hoa quả viết thành hoa goả

băn khoăn - băn khuăn

ngoằn ngoèo - nguằn ngèo

quét nhà - quyét nhà

: Nguyên nhân mắc lỗi chính tả của HS ở từng loại như sau :

– hoa quả : HS viết "quả" vì không nắm được sự thể hiện bằng chữ viết của âm đệm trong
tiếng Việt. Cụ thể, khi đứng sau phụ âm đầu "cờ" (kí hiệu /K ), âm đệm được viết là "u"
(phụ âm đầu "cờ" được viết là "q").

Trang 33

Trong trường hợp này, bất kể âm chính đứng sau âm đệm là nguyên âm gì, âm đệm vẫn
được viết là "u". Vì vậy, HS phải viết : quả.

- băn khuăn : HS viết "khuăn" vì không nắm được quy tắc : khi đứng trước các nguyên
âm rộng (ví dụ : a, a) hoặc hơi rộng (ví dụ ; e), âm đệm được viết là o (ví dụ : ba, oăn,
ce). Vì vậy, HS phải viết : khoăn.

- nguằn ngèo : Ở chữ "nguồn", nguyên nhân mắc lỗi cũng giống như trường hợp "khuyn"
đã nói ở trên. Còn ở chữ "ngèo", HS vừa không nắm được cấu tạo của "vẫn khó" này, lại
vừa không nắm được sự thể hiện bằng chữ viết của âm đệm, vì vậy đã viết thiếu chữ cái
thể hiện âm đệm (phải viết : ngoèo).

- quyét nhà : HS viết "quyết" vì không nắm được cấu tạo của vẫn trong tiếng này. Phần
vần của tiếng "quét" gồm : âm đêm (viết là "u"), âm chính (viết là "e") và âm cuối (viết là
"t"). Vì vậy, viết "quyết" là thừa chữ cái y.

Tóm lại, qua một số trường hợp mắc lỗi chính tả của HS các lớp đầu cấp Tiếu học nói
trên, GV cần lưu ý hướng dẫn các em nắm được cấu tạo của một số "vần khó” (đa số là

32
vẫn có âm đệm) và nắm được sự thể hiện bằng chữ viết của âm đệm trong tiếng Việt (Về
vấn đề này, GV chỉ cần nói cho HS : đứng sau "q", âm đệm viết là "u" (VD: quả quyết,
quanh quấn,...); đứng trước a, 8, e,... âm đệm viết là "o" (VD: loà xoà, loăn xoăn, loè
loẹt,...); đứng trước y, ê, ơ, â,... âm đệm viết là "u" (VD: tuý luý, hoa huệ, huơ tay, mùa
xuân...).

B – LỚP 2

Câu 15 Tên gọi Luyện từ và câu có gì khác so với tên gọi Từ ngữ, Ngữ pháp trong
SGK Tiếng Việt 2 CCGD?

: Trong SGK Tiếng Việt 2 CCGD, Từ ngữ, Ngữ pháp là hai phân môn độc lập,

có tiết dạy riêng. Trong SGK Tiếng Việt 2 mới, Từ ngữ, Ngữ pháp được "tích hợp" lại
trong một tên chung : Luyện từ và câu và được dạy 1 tiết /tuần. Tên gọi Luyện từ và câu
thể hiện được tính tổng hợp, tính thực hành cao hơn, rõ hơn cách gọi Từ ngữ, Ngữ pháp.
Nó vừa phù hợp với đặc trưng của hoạt động sử dụng ngôn ngữ của người bản ngữ, vừa
đảm bảo được yêu cầu chú trọng

Trang 34

rèn luyện kĩ năng trong dạy – học tiếng Việt ở trường phổ thông. Tên Luyện từ và câu
được thể hiện trong cách xây dựng nội dung bài học trong SGK mới. Cụ thể, nếu như
trong SGK Tiếng Việt 2 CCGD, ở phân môn Từ ngữ – Ngữ pháp, cuối bài học thường có
sự tổng kết kiến thức lí thuyết ở mức độ đơn giản, sơ giản thì trong SGK Tiếng Việt 2
mới, bài Luyện từ và cấp, chỉ bao gồm các bài tập thực hành về từ và câu, khá phong phú,
đa dạng về kiểu loại, không có sự tổng kết về mặt lý thuyết, dù chỉ ở mức độ đơn giản.

Câu 16: Nhiệm vụ rèn luyện về từ ở lớp 2 là gì ? Phân môn Luyện từ và câu trong
SGK Tiếng Việt 2 thực hiện nhiệm vụ ấy thông qua những kiểu loại bài tập cơ bản
nào ?

- Trước hết cần nói rằng nội dung luyện từ và luyện câu trong SGK Tiếng Việt 2 được
tổng hợp, tích hợp lại trong một phân môn, nên rất khó tách bạch các bài tập luyện từ và
các bài tập luyện câu. Nhưng do từ và câu là hai đơn vị ngôn ngữ tương đối độc lập, có
những đặc trưng riêng ; bên cạnh đó, yêu cầu dạy từ và dạy câu ở Tiểu học cũng có
những nét riêng nên ở một chừng mực nào đó, vẫn cần có sự phân biệt hai phạm vi luyện
tập này. Có như vậy, ta mới có điều kiện bàn kĩ về đặc trưng, về mục đích, ý nghĩa, nội
dung, cách dạy của từng loại bài tập.

- Có thể hiểu mục đích, nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ ở Tiểu học nói chung, lớp 2
nói riêng là giúp HS mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm nghĩa của từ
(chính xác hoá vốn từ), luyện tập sử dụng từ (tích cực hoá Vốn từ) và phân loại, phân

33
nhóm các từ dựa trên những đặc điểm chung của chúng (hệ thống hoá vốn từ). Tương
ứng với các nhiệm vụ trên, SGK Tiếng Việt 2 đã thiết kế 4 loại bài tập cơ bản:

a) Loại bài tập giúp HS mở rộng, phát triển vốn từ (mở rộng vốn từ – theo chủ điểm)

VD: Hãy tìm 3 từ nói về tình cảm thương yêu giữa anh chị em.

(Tiếng Việt 2, tập một, tr. 116)

b) Loại bài tập giúp HS nắm nghĩa của từ

VD: Hãy giải nghĩa từng từ dưới đây bằng từ trái nghĩa với nó :

a) Trẻ con

b) Cuối cùng

c) Xuất hiện

d) Bình tĩnh

Trang 35

M:Trẻ con : trái nghĩa với người lớn.

(Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 137)

c) Loại bài tập giúp HS luyện tập sử dụng từ

VD: Đặt câu với một từ vừa tìm được ở bài tập 1.

(Tiếng Việt 2, tập một, tr. 17)

d) Loại bài tập giúp HS luyện tập phân loại, phân nhóm các từ, hệ thống hoá vốn từ

VD:Xếp tên các con vật dưới đây vào nhóm thích hợp

– Thú dữ, nguy hiểm M: hổ

– Thú không nguy hiểm M: thỏ

(hổ, báo, gấu, lợn lòi, chó sói, sư tử, thỏ, ngựa vằn, bò rừng, khỉ, vượn, tê giác, sóc,
chồn, cáo, hươu)

34
(Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 45)

Mỗi loại bài tập trên lại có thể được phân xuất thành những kiểu, dạng bài tập nhỏ hơn,
chi tiết hơn (theo các tầng bậc sau :loại 2 kiểu 2 dạng). Cũng cần nói thêm rằng, sự phân
loại ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối và khó bao quát | hết được các dạng bài tập, các hình
thức bài tập cụ thể.

Câu 17: Thế nào là mở rộng vốn từ (MRVT) theo chủ điểm ? Loại bài tập Mở rộng
vốn từ – theo chủ điểm (trong SGK Tiếng Việt 2) được chia thành những kiểu bài
tập nào ?

:| Chủ điểm ở đây là các chủ điểm học tập, là cái trục để các phân môn như

Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn,... xoay xung quanh. Nói cách khác,
các phân môn trên tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm (trong đó, trọng tâm là các bài
tập đọc) nhằm thực hiện yêu cầu dạy học theo quan điểm tích hợp. Các chủ điểm trong
SGK Tiếng Việt 2 là : Em là học sinh ; Bạn bè ; Trường học , Thầy cô ;Ông bà , Cha mẹ ;
Anh em ; Bạn trong nhà ; Bốn mùa ; Chim chóc ; Muông thú ; Sông biển , Cây cối ; Bác
Hồ ; Nhân dân.

Dưới góc độ dày từ, người ta nhận thấy những từ ngữ cùng chủ điểm (chủ đề) được hiểu
là những từ ngữ cùng liên quan tới việc biểu thị một phạm vi sự vật, hiện tượng trong
thực tại khách quan. Cũng có thể hiểu những từ ngữ này

Trang 36
thuộc cùng một trường nghĩa, cùng một hệ thống liên tưởng. Như vậy, "mở rộng vốn từ –
theo chủ điểm" có nghĩa là hướng dẫn HS mở rộng, phát triểnvốn từ theo các trường
nghĩa, các hệ thống liên tưởng. Cách làm này phù hợpvới đặc trưng về tính hệ thống của
từ vựng, phù hợp với quy luật tích luỹ vốntừ của người bản ngữ.
Trong phân môn Luyện từ và câu ở SGK Tiếng Việt 2, loại bài tập "MRVT-theo chủ
điểm" có vị trí chủ đạo, bao trùm trong nội dung "Luyện tập về từvà chiếm tỉ lệ cao so
với các loại bài tập từ ngữ khác. Dựa vào các phươngtiện làm cơ sở cho việc MRVT, nhất
là dựa vào tính chất của mối quan hegiữa các từ về mặt ngữ nghĩa, về mặt cấu tạo, có thể
chia loại bài tập "MRVTtheo chủ điểm" trong SGK Tiếng Việt 2 thành 3 kiểu chính:
a) Kiểu bài tập MRVT quatranh v tilde e ;
b) Kiểu bài tập MRVT theo quan hệ ngữ nghĩa ;

35
c) Kiểu bài tập MRVT theo quan hệ cấu tạo từ.
Câu 18: Kiểu bài tập Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ được chia thành những dạng bài tập
nào ? Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập Ghép từ cho sẵn với hình vẽ tương ứng có
gìđáng lưu ý ?
Ở kiểu bài tập MRVT qua tranh vẽ , tranh vẽ là phương tiện trực quan, có tác dụng làm
chỗ dựa cho việc tìm từ, MRVT của HS. Căn cứ vào mức độ dễ khó, đơn giản – phức tạp,
có thể chia kiểu bài tập này thành 3 dạng cơ bản sau :
– Dạng bài tập Ghép từ cho sẵn với hình vẽ tương ứng.
– Dạng bài tập Dựa vào tranh, tìm từ tương ứng.
– Dạng bài tập Gọi tên các vật được vẽ ẩn trong tranh (tranh đố).
Dưới đây, sẽ đề cập tới nội dung, yêu cầu của dạng bài tập thứ nhất: Ghép từ cho sẵn với
hình vẽ tương ứng. Trong SGK Tiếng Việt 2, có 4 bài tập thuộcdạng này. Đó là các bài
tập (BT) :
+BT1 : Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc được vẽ dưới đây : (cáctừ cho
sẵn : học sinh, nhà, xe đạp, múa, trường, chạy, hoa hồng, cô giáo).
(Tiếng Việt 2, tập 1, tr.8)

Trang 37
+ BT2 : Chọn cho mỗi con vật dưới đây một từ chỉ đúng đặc điểm của nó :nhanh, chậm,
khỏe, trung thành.
(Tiếng Việt 2, tập một, tr. 142)
+ BT3 : Nói tên các loài chim trong những tranh sau : (các từ cho sẵn : đạibàng, cú mèo,
chim sẻ, sáo sậu, c hat O , chào mào, vẹt).
(Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 35)
+BT4 : Chọn cho mỗi con vật trong tranh vẽ bên một từ chỉ đúng đặc điểmcủa nó : t dot
mo , nhút nhát, dữ tợn, tinh ranh, hiền lành, nhanh nhẹn.
(Tiếng Việt 2, p hai,tr.5)

36
Dạng bài tập này vừa có tác dụng giúp HS nhận biết "nghĩa biểu vật" của từ(từ nào biểu
thị sự vật, hoạt động, tính chất nào), vừa có tác dụng giúp HS mởrộng, phát triển vốn từ.
Đây là hình thức luyện tập về từ ở mức độ đơn giảnnhất. Trong 4 bài tập được dẫn ở trên,
các từ cho sẵn trong BT1 và BT3 làdanh từ và động từ ; còn trong BT2, BT4 là tính từ.
HS dễ thực hiện yêu cầucủa BT1 và BT3 hơn, bởi vì nhận biết sự vật, hoạt động thường
dễ dàng hơnnhận biết đặc điểm, tính chất của sự vật. Cụ thể, ở BT2 và BT4, HS vừa
phảibiết tên loài vật, vừa phải biết được đặc điểm, "tính nết" của từng loài. HS lầnlượt đối
chiếu từng từ cho sẵn với hình ảnh tương ứng, nếu làm đúng có nghĩalà các em đã nắm
được "nghĩa biểu vật" của từ, đồng thời được mở rộng thêmvề vốn từ.
Câu 19: Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập Dựa vào tranh tìm từ tương ứng có gì
đáng lưu ý ?
Trong SGK Tiếng Việt 2, dạng bài tập Dựa vào tranh tìm từ tương ứng có3 bài tập :
– BT1 : Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật, hat a y c hat ol ,...) được vẽ dưới
đây ....
(Tiếng Việt 2, tập một, tr. 26)
– BT2 : Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ chỉmỗi hoạt động.
(Tiếng Việt 2, tập 2, tr.59)

Trang 38
– BT3 : Tìm từ ngữ chỉ nghề nghiệp của những người được vẽ trong các tranhdưới đây.
(Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 129)
Ở dạng bài tập này, từ cần tìm không cho sẵn. HS phải gọi tên sự vật, hiệntượng, hoạt
động... được biểu hiện trong hình vẽ. Do đó, tác dụng giúp HSphát triển, MRVT của
dạng bài tập này cao hơn so với dạng bài tập Ghép từcho sẵn với hình vẽ tương ứng ở
trên. Điều cần lưu ý ở đây là từ cần tìm trong BT1 là các danh từ, ở BT2 là các động từ.
Mà việc gọi tên các hoạt động điều không dễ dàng đối với HS nhỏ. Vì vậy, ở BT2, GV
cần có những gợi dẫnthích hợp, HS mới có thể tìm được các từ ngữ cần tìm.
Trong thực tiễn dạy – học, có thể có tình huống sau đây xảy ra : BT2 yêu cầuHS tìm từ
chỉ hoạt động. Nhưng vì HS lớp 2 chưa có khái niệm đầy đủ về từnên rất có thể bên cạnh

37
các từ : đọc (hình 1) ; viết (hình 2) ; nghe, giảnggiảng giải, chỉ bảo, hướng dẫn (hình 3) ;
nói, trò chuyện, kể chuyện, tranhluận (hình 4), HS đưa ra các cụm từ : đọc sách, xem sách
(hình 1) ; viết bài,làm bài (hình 2) ; dạy con, hướng dẫn con (hình 3)... thì GV vẫn chấp
nhận.Bên cạnh đó, BT3 yêu cầu HS tìm từ ngữ chỉ nghề nghiệp của những ngườiđược vẽ
trong tranh. Nếu căn cứ vào nghĩa của từ nghề nghiệp (chỉ "công việcchuyên làm theo sự
phân công lao động của xã hội" – Từ điển tiếng Việt,Hoàng Phê chủ biên, H., 1994, tr.
654) thì chỉ có những từ ngữ như : làmruộng, dạy học, lái xe, kinh doanh,... mới là những
từ ngữ chỉ nghề nghiệp,chỉ các công việc khác nhau theo phân công lao động xã hội.
Nhưng với đốitượng HS lớp 2 nói riêng (và HS tiểu học nói chung), chỉ cần HS đưa ra
cáctừ ngữ sau đây là có thể chấp nhận được : công nhân, công nhân xây dựng(hình 1);
công an, cảnh sát giao thông (hình 2) ; nông dân, làm ruộng, làmnông nghiệp (hình 3) ;
bác sĩ, thầy thuốc, khám chữa bệnh (hình 4) ; lái xe,công nhân lái xe (hình 5) ; bán hàng,
người bán hàng, kinh doanh, nhà kinhdoanh, mậu dịch viên (hình 6). Tính logic, sự chặt
chẽ có thể chưa đảm bảo,nhưng với HS lớp 2 nói riêng (và HS tiểu học nói chung) không
nên đặt yêucầu cao hơn.
Câu 20: Nội dung, yêu cầu của dạng bài tập Gọi tên các vật được vẽ ẩn trong tranh (tranh
đố) có gì đáng lưu ý

Trang 39
Trong SGK Tiếng Việt 2, dạng bài tập Gọi tên các vật được vẽ ẩn trong tranh có 2 bài
tập:
- BT1 : Tìm các đồ dùng học tập ẩn trong tranh sau. Cho biết mỗi đồ vật hat a y được
dùng để làm gì.
(Tiếng Việt 2, tập rho t,tr.52)
– BT2 : Tìm các đồ vật được vẽ ẩn trong bức tranh sau và cho biết mỗi vậtdùng để làm
gì.
(Tiếng Việt 2, tập một, tr. 90)
Yêu cầu của dạng bài tập này cũng là dựa vào hình ảnh của sự vật được vẽtrong tranh để
tìm từ ngữ tương ứng ; nói cách khác, là gọi tên các sự vật đượcvẽ trong tranh. Điểm
khác biệt giữa dạng bài tập này với dạng bài tập. Dựa vào tranh tìm từ tương ứng ở trên là
: các sự vật được vẽ trong tranh khônghiển hiện, rõ ràng mà ẩn giấu trong tranh, phải

38
quan sát kĩ (kết hợp tưởngtượng) mới nhận biết được. Sự khác biệt này chủ yếu ở phương
diện hình thứcthể hiện, nhằm kích thích sự tìm tòi, gây hứng thú học tập cho HS. Bài tập
cònyêu cầu HS nói rõ công dụng (được dùng làm gì) của từng vật tìm được. Yêucầu này
có tác dụng khắc sâu, củng cố cho HS về "nghĩa biểu vật" của các từtìm được, làm cho
kết quả MRVT mà HS thu được thêm vững chắc.
Câu 21: Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa là thế nào ? Kiểu bài tập Mở rộng vốn từ
theoquan hệ ngữ nghĩa (trong SGK Tiếng Việt 2) được chia thành những dạng nhỏ nào ?
– MRVT theo quan hệ ngữ nghĩa là dựa trên mối quan hệ ngữ nghĩa giữa cáctừ (nói cách
khác, giữa các từ trong ngôn ngữ có mối quan hệ với nhau vềnghĩa như quan hệ đồng
nghĩa, gần nghĩa, quan hệ trái nghĩa,...) để tiến hànhtìm các từ ngữ có quan hệ với nhau
về nghĩa, nhằm mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú hoá vốn từ). Trong dạy từ, kiểu bài
tập MRVT theo quan hệ ngữnghĩa được xác lập dựa vào những căn cứ nói trên.
Ở các bài tập thuộc kiểu này, thường có từ cho sẵn (còn gọi là từ mẫu hoặc từđiểm tựa, từ
kich thich) . Khi làm bài tập, dựa vào các từ kích thích này, HSliên tưởng tìm từ ngữ. Và
trong một khoảng thời gian nhất định, các từ cóquan hệ về nghĩa với từ kích thích sẽ
được gợi ra trong trí óc của HS. Các từấy được tập hợp lại thành một hệ thống liên tưởng
(còn gọi là trường nghĩa,trường ngữ nghĩa).
Trang 40
 Trong SGK Tiếng Việt 2, kiểu bài tập MRVT theo quan hệ ngữ nghĩa chiếm tỉ lệ khá
cao. Dựa vào đặc trưng, tính chất của hoạt động liên tưởng khi tìm từ ngữ, có thể chia
kiểu bài tập này thành các dạng cơ bản sau :
+ Dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm.
+ Dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cho sẵn.
Câu 22
Nội dung và yêu cầu của dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm có gì đáng lưu ý ?
Trong SGK Tiếng Việt 2, theo thống kê, dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm có 17 bài
tập. Các bài tập này được chia thành 2 dạng nhỏ : thứ nhất, các từ ngữ cùng chủ điểm ở
ngoài văn bản ; thứ hai, các từ ngữ cùng chủ điểm nằm trong một văn bản. Dưới đây, ta
lần lượt xem xét nội dung, yêu cầu của từng dạng bài tập ấy.
a) Các từ ngữ cùng chủ điểm ở ngoài văn bản
Dạng bài tập này chiếm vị trí chủ đạo trong các bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm. Một số
ví dụ :
VD1: Tìm các từ :
 Chỉ đồ dùng học tập. M : bút
 Chỉ hoạt động của học sinh. M : đọc

39
 Chỉ tính nết của học sinh. M : chăm chỉ
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 9)
VD2: Kể tên các loài cây mà em biết, theo nhóm :
 Cây lương thực, thực phẩm. M : lúa
 Cây ăn quả. M : cam
 Cây lấy gỗ. M : xoan
 Cây bóng mát. M : bàng
 Cây hoa. M : cúc
(Tiếng việt 2, tập hai, tr. 87)
Các từ cần tìm ở đây thuộc cùng một chủ đề, chủ điểm từ ngữ, nói cách khác, cùng nằm
trong một hệ thống (hệ thống liên tưởng). Vì vậy, dạng bài tập này ngoài tác dụng giúp
HS mở rộng vốn từ còn có tác dụng giúp HS hình thành

Trang 41
phát triển tư duy hệ thống. GV cần dựa vào các ví fuj mẫu trong SGK để hướng dẫn HS
tìm từ. Các từ mẫu (còn gọi là từ điểm tựa) có tác dụng gợi ý, định hướng cho HS trong
việc tìm từ, đồng thời giúp HS hiểu rõ yêu cầu của bài tập.
Với cách làm trên, ở bài tập trong VD1, HS có thể tìm được các từ sau :
 Từ chỉ đồ dùng học tập : bút chì (viết chì), bút mực (viết mực), bút bi, bút dạ, bút vẽ,
bút xoá, thước kẻ, tẩy, cặp sách, bảng con, phấn, sách vở, kéo, đất nặn,…
 Tự chỉ hoạt động của học sinh : học, học bài, viết, tập viêt, nghe, nói, nói, đếm, tính
toán, chạy, nhảy, chơi, ăn, ngồi, ngủ, nhảy dây, đá cầu,…
 Tự chỉ tính nết của học sinh : cần cù, ngoan, nghịch, nghịch ngợm, hiếu động, hồn
nhiên, ngây thơ, lễ độ, lễ phép, thật thà,…
Cũng tương tự, ở bài tập trong VD2, HS có thể tìm được các từ sau :
 Cây lương thực, thực phẩm : ngô, khoai, khoai lang, khoai tây, sắn (củ mì), lạc (đậu
phộng), vừng (mè), đỗ, đỗ xanh, đỗ tương, đỗ đen, ray, rau muống, rau cải, rau cần,…
 Cây ăn quả : quýt, xoài, táo, đào, mận, ổi, na, nhãn, vải, măng cụt, vũ sữa, sầu riêng,

 Cây lấy gỗ: mít, bạch đàn, lim, gụ, chò, pơ-mu,…
Như vậy, các từ ngữ tìm được trong bài tập ở VDI thuộc chủ điểm “Em là học sinh”
(Tuần 1 – 2), còn ở VD2 thuộc chủ điểm “Cây cối” (Tuần 28 - 29).
Thuộc về dạng bài tập Các từ ngữ cùng chủ điểm ở ngoài văn bản nói trên còn có một số
bài tập mà trong đó, không có các từ mẫu. Một số ví dụ :
VD1: Hãy kể tên những việc em đã làm ở nhà giúp cha mẹ.
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 108)
VD2: Hãy tìm 3 từ nói về tình cảm thương yêu giữa anhh chị em.

40
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 116)
Khi hướng dẫn HS làm các bài tập này, GV cần nêu các từ mẫu để HS dựa vào đó tiến
hành tìm từ.
Trang 42
b) Các từ ngữ cũng chủ điểm năm trong một văn bản
Trong SGK Tiếng Việt 2, dạng bài tập này chỉ có 2 bài tập :
 BT1 : Tìm những từ chỉ người trong gia đình, họ hàng ở câu chuyện Sáng kiến của bé
Hà.
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 82)
 BT2 : Tìm các từ ngữ chỉ những việc mà bạn nhỏ trong bài thơ dưới đây muốn làm
giúp ông và nhớ ông làm giúp: “Thỏ thẻ…”
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 91)
HS tìm từ theo yêu cầu của bài tập bằng cách dựa vào nội dung bài văn, bài thơ, dựa vào
mối quan hệ ngữ nghĩa của các từ ngữ cùng chủ điểm – tàng ẩn trong các câu văn, câu
thơ. Ở BT1, HS có thể tìm được những từ ngừ chỉ người trong gia đình, họ hàng, đó là :
bố, ông, bà, con, mẹ, cụ già, cô, chú, con cháu, cháu. Còn ở BT2, HS có thể tìm được các
từ ngữ: xách siêu nước, ôm rạ, dập lửa, thổi khói (những việc nhờ ông làm giúp).
Như vậy, nếu như các từ tìm được ở BT1 nằm trong chủ điểm Gia đình – Họ hàng thì từ
ngữ tìm được ở BT2 thuộc về chủ điểm Đồ dùng và công việc trong nhà.
Câu 23
Nội dung và yêu cầu của cung bài tập Tìm từ cùng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa
với từ cho sẵn có gì đáng lưu ý?
Trước hết, ta làm quen với dạng bài tập này qua một số ví dụ :
VD1 : Tìm một số từ cũng nghĩa, gần nghĩa với từ can đảm.
VD2 : Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, ngoan, nhanh, trắng, cao, khoẻ.
M : tốt – xấu
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 133)

Ở dạng bài tập này bao giờ cũng có từ cho sẵn. Từ cho sẵn có tác dụng làm cơ sở, làm
chỗ dựa cho hoạt động liên tưởng tìm từ của HS. Đối với trường hợp từ cho sẵn có nghĩa
trừu tượng, khó nhận biết, để trợ giúp hoạt động tìm từ của HS, GV có thể giải thích
nghĩa của từ cho sẵn và nêu một số văn cảnh điển hình trong đó có sử dụng từ cho sẵn
ấy. Hoạt động liên tưởng tìm từ của HS sẽ đúng phương hướng, đúng yêu cầu, có hiệu
quả khi HS nắm chắc nghĩa của từ cho sẵn. Ngoài việc hướng dẫn HS nắm được nghĩa
của từ cho sẵn,
Trang 43
GV còn phải hướng dẫn HS nắm được quan hệ đồng nghĩa, quan hệ trái nghĩa giữa các
từ trong ngôn ngữ.
Khi gợi dẫn HS làm bài tập trong VD2 ở trên, GV cần lưu ý khai thác cặp từ mẫu (M : tốt
– xấu) mà SGK nêu ra. Các cặp từ trái nghĩa được dẫn ra làm ví dụ mẫu này có tác dụng
cụ thể hoá yêu cầu của bài tập, giúp HS hiểu rõ công việc phải làm khi giải bài tập này.

41
Ngoài ra, GV cũng nên biết rằng một từ có thể có nhiều từ trái nghĩa. Do đó, nếu HS tìm
ra những từ khác nhau có quan hệ trái nghĩa (ở những mức độ khác nhau) với từ cho sẵn,
thì vẫn có thể chấp nhận được. VD :
tốt >< xấu, xấu xa, xấu bụng, xấu chơi, xấu tính,…
ngoan >< hư, hư hỏng, hư thân, bướng bỉnh, hỗn hào,…
trắng >< đen, đen sì, đen giòn, đen kịt, đen thui,…
cao >< thấp, thâm thấp, thấp tè,…
khỏe >< yếu, yếu ớt, ốm, ốm yếu, ốm đau, ốm o,…
Chú ý : Từ in chữ đậm ở trên là từ trái nghĩa điển hình.
Câu 24
Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ là thế nào ?
Qua một số thí nghiệm về liên tưởng tự do của người bản ngữ, người ta nhận thấy giữa
các từ có cũng kiểu cấu tạo, cùng mô hình cấu tạo cũng nảy sinh một quan hệ liên tưởng.
Như vậy, trong các hệ thống liên tưởng (đã được nói đến ở trên), không thể không thừa
nhận hệ thống liên tưởng giữa các từ có cùng yếu tố cấu tạo, cũng kiểu cấu tạo. Kiểu bài
tập MRVT theo quan hệ cấu tạo từ được xác lập dựa trên những căn cứ nói trên.
Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ có nghĩa là HS dựa vào một yếu tố cấu tạo từ cho
sẵn (Trong SGK Tiếng Việt tiểu học, yếu tố cấu tạo từ là tiếng), tiến hành liên tưởng tìm
những từ có cùng yếu tố cấu tạo từ đó, có cùng kiểu cấu tạo, mô hình cấu tạo. kiểu bài
tập MRVT theo quan hệ cấu tạo từ có tác dụng rất lớn trong việc giúp học sinh phát triển,
mở rộng vốn từ. dưới đây là một số ví dụn về kiểu bài tập này :
VD : Tìm các từ ngữ có tiếng biển M : tàu biển, biển cả.
(Tiếng việt 2, tập hai, tr. 64)
Trang 44
Câu 25
Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ trong
SGK Tiếng Việt 2 có gì đáng lưu ý ?
Trong SGK Tiếng Việt 2, Kiểu bài tập MRVT theo quan hệ cấu tạo từ cũng được sử dụng
ở một mức độ nhất định. Một số ví dụ cụ thể :
VD1 : Tìm các từ :
 Có tiếng học. M : học hành
 Có tiếng tập. M : tập đọc
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 17)
VD2 : Ghép các tiếng sau thành những từ có hai tiếng: yêu, thương, quý, mến, kính.
M : yêu mến, quý mến.
(Tiếng việt 2, tập một, tr. 99)
Một trong những đặc điểm của kiểu bài tập này là các yếu tố cấu tạo từ được nêu trong
bài tập (VD: các yếu tố học, tập ở bài tập trong VD1 ; yên, thương, quý, miến, kính ở
VD2) là những yếu tố có sức sản sinh mạnh, có năng lực cấu tạo từ rất cao (nghĩa là từ
các yếu tố này, có thể tạo ra khá nhiều từ ghép). GV cần nắm được đặc điểm này để

42
hướng dẫn HS tìm từ theo yêu cầu của bài tập. Ngoài ra, GV cũng cần dựa vào, khai thác
các ví dụ mẫu (từ mẫu) cho sẵn được ghi trong SGK để hướng dẫn HS tìm từ. Ở đây, cần
lưu ý là : khi làm bài tập, HS lớp 2 có thể tìm được một số tổ hợp không phải là từ, mà là
cụm từ (VD: học giỏi, học toán ; tập lái xe, tập văn nghệ,…) thì GV vẫn có thể chấp
nhận.
Ở bài tập trong VD1. Tiếng học và tiếng tập có thể đứng trước hoặc đứng sau trong các
từ phép cần tìm. Bên cạnh đó, sẽ được coi là đúng khi tiếng học tiếng tập trong các từ
ghép tìm được có cũng nghĩa với tiếng học, tiếng tập trong các từ mẫu : học hành, tập
đọc. Do đó, các từ có tiếng học, tiếng tập đồng âm nhưng khác nghĩa trong các từ kiểu :
văn học, toán học,… hoặc : tập báo, tập ảnh ; tập san, tập thơ, tập truyện ; tập tễnh, tập
tục,… sẽ không được chấp nhận. Theo cách hiểu này, các từ cần tìm để đáp ứng yêu cầu
của bài tập trong VD1 là :
Trang 45
 Các từ có tiếng học : học tập, học hỏi, học lỏm, học mót, học phí, học kì, học sinh, học
viên ; năm học, dạy học, lớp học,…
 Các từ có tiếng tập : tập viết, tập về, tập làm văn, tập chép, tập thể dục, tập tành ; học
tập, luyện tập, bài tập,…
Bài tập trong VD2 yêu cầu HS tập tạo từ phép (từ ghép đẳng lập) bằng cách ghép hai
tiếng có nghĩa với nhau. GV cần biết: Ghép là phương thức cấu tạo từ mới bằng cách
ghép hai hoặc hơn hai tiếng (đa số là tiếng có nghĩa) lại với nhau. Sản phẩm của phương
thức thép là các từ ghép. Về cách dạy dạng bài tập trên, đối với từng tiếng cho sẵn trong
đề bài, GV hướng dẫn HS lần lượt thử ghép với các tiếng còn lại. Nếu tạo ra từ ghép có ý
nghĩa, quen thuộc, quen dùng thì ghép được. Theo cách làm này, ta có thể tạo ra các từ
ghép gồm 2 tiếng : yêu thương, thương yêu, yêu mến, mến yêu, kính yêu, yêu quý, thương
mến, mến thương, quý mến, kính mến,…
Câu 26
Cần lưu ý những điểm gì về loại bài tập giúp học sinh lớp 2 năm nghĩa của từ ?
Trong phân môn Luyện từ và câu, loại bài tập giúp HS nắm nghĩa của từ, luyện tập về
nghĩa của từ – chiếm tỷ lệ không nhiều so với các loại bài tập từ ngữ khác. Trên đại thể,
loại bài tập này có hai dạng cơ bản sau :
(1) Dạng bài tập “Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu HS xác lập sự tương ứng”
VD1 : Tìm từ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau :
a) Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại được.
b) Dòng nước chảy tự nhiên ở đồi núi.
c) Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền.
(suối, hồ, sông)
(Tiếng việt 2, tập hai, tr. 64)
VD2 : Chọn ý thích hợp ở cột B cho các từ ngữ ở cột A
A B

43
Nghề nghiệp Công việc
Công nhân a) Cây lúa, trồng khoai, nuôi lợn, thả cá,…
Nông dân b) Chỉ đường; giữ trật tự làng xóm, phố phường;
bảo vệ nhân dân,…
Bác sĩ c) Bán sách, bút, vải, gạo, bánh kẹo, đồ chơi, ô tô,…
Công an d) Làm giấy viết, vải mặc, giày dép, bánh kẹo, thuốc
chữa bệnh, ô tô, máy cày,…
Người bán hàng e) Khám chữa bệnh
(Tiếng việt 2, tập hai, tr.138)
Dạng bài tập này có yêu cầu rất đơn giản, cả từ và nghĩa của từ đều cho sẵn; HS chỉ cần
xác lập sự tương ứng giữa từ và nghĩa của từ trong từng trường hợp. Hai ví dụ ở trên là
hai hình thức thể hiện khác nhau của cùng một dạng bài tập. (Hình thức trình bày trong
VD2 trực quan hơn, HS dễ nắm yêu cầu bài tập, dễ thực hiện bài tập.) Ở hai hình thức thể
hiện này, nếu HS ghép, nổi đúng thì có nghĩa là các em đã nắm được nghĩa của các từ cho
sẵn.
(2) Dạng bài tập "Dựa vào từ trái nghĩa để nhận biết nghĩa của từ”
VD: Hãy giải nghĩa từng từ dưới đáy bằng từ trái nghĩa với nó :
a) Trẻ con
b) Cuối cùng
c) Xuất hiện
d) Bình tĩnh
M:Trẻ con : trái nghĩa với người lớn.
(Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 137)
Dựa vào từ trái nghĩa để nhận biết nghĩa của từ, nghĩa là dùng những từ có nghĩa trái
ngược với nghĩa của từ cần giải thích làm phương tiện để đạt mục đích nhận biết nghĩa
của từ cần giải thích. Nếu gọi từ cần giải thích là A, từ trái nghĩa được dẫn ra để đổi sánh
là B thì dạng bài tập này có cấu trúc A >< B. Trong đó, B phải là những từ quen thuộc,
gần gũi với HS và nghĩa của B coi như HS đã biết, đã nắm được. Nếu HS không nắm
được nghĩa của B
(trang 46)
thì việc giải thích nghĩa của từ sẽ rơi vào luấn quẩn và không đạt được mục đích để ra.
Cơ sở lý luận của việc xây dựng, dạng bài tập này là dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa các
từ trong ngôn ngữ (ở đây là quan hệ trái nghĩa).
Ngoài việc giúp HS nhận biết được nghĩa của từ cần giải thích, dạng bài tập trên còn giúp
HS mở tông, phát triển vốn tử. Trong SGK Tiếng Việt 2, dung bài tập này còn có tác
dụng góp phần hình thành khái niệm từ trái nghĩa" cho HS Dựa vào quan hệ trái nghĩa
thưa vào đặc trưng của sự liên tưởng trái ngược GV hướng dẫn HS tìm các từ trái nghĩa
với từ cho sẵn. HS tìm được các từ trái nghĩa tức là các cơn đã hiểu được, nắm được
nghĩa của từ xin giải thích (từ cho sẵn). VD : Ở bài tập trên, GV hướng dẫn HS giải nghĩa
từng từ cho sản như sau:
44
a) Trẻ con: trái nghĩa với người lớn
b) Cuối cùng: trái nghĩa với đầu tiên, bắt đầu, khởi đầu, thoạt đầu, thoạt tiên....
c) Xuất hiện: trái nghĩa với biến mất, tiêu biến, mất tăm, mất tiêu...
d) Bình tĩnh: trái nghĩa với cuống quýt, luống cuống, hốt hoảng, hoảng hốt, hoảng hồn,
hoảng sợ,…
Câu 27: Thế nào là sử dụng từ ? Loại bài tập giúp học sinh lớp 2 luyện tập sử dụng
từ có thể chia thành những kiểu dạng bài thế nào ?
- Sử dụng từ chính là lựa chọn từ ngữ trong vốn từ của mình (hoặc những từ ngữ cho sẵn
trong bài tập) rồi kết hợp các từ ngữ ấy với nhau để tạo thành câu, thành đoạn,… theo
những quy tắc nhất định. Như vậy, ở đây, chủ thể nói năng phải tiến hành hai thao tác:
thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp. Đó là hai thao tác cơ bản, trọng yếu của hoạt động
sử dụng từ ngữ. Cụ thể, để dùng từ được đúng và đạt hiệu quả giao tiếp cao, chủ thể nói
năng cần tiến hành lựa chọn từ, thay thế từ khi thấy chưa phù hợp, thích hợp. Việc lựa
chọn, thay thế ở đây không phải là 1 việc làm tùy tiện, dễ dãi mà phải dựa trên những
nguyên tắc nhất định. Thao tác lựa chọn, thay thế diễn ra rất nhanh chóng trong trí óc của
chủ thể nói năng, tới mức tự động hóa, như 1 hành động vô thức.
(trang 47)

Chỉ khi nào chủ thể nói năng “cảm thấy” có sự tương ứng giữa ý nghĩ và từ ngữ, giữa ý
và lời, thì thao tác lựa chọn, thay thế mới dừng lại. Thường là khi chủ thể nói năng đã ý
thức được 1 cách rõ ràng, thấu đáo, cụ thể về điều mình muốn diễn tả thì cũng sẽ dễ dàng
tìm được từ ngữ thích hợp, thỏa đáng để hiện thực hóa những ý định diễn tả ấy. Sau thao
tác lựa chọn từ ngữ là thao tác kết hợp từ ngữ (cũng có thể hiểu là 2 thao tác này diễn ra
song song đồng thời) để tạo thành các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn (cụm từ, câu và các đơn
vị trên câu). Sự kết hợp của các từ ở đây cũng bị quy định bởi những quy tắc nhất định
của ngôn ngữ. Tóm lại, lựa chọn và kết hợp từ ngữ để tạp ra những sản phẩm lời nói đúng
đắn và biểu cảm – đó là nội dung cơ bản của khái niệm “sử dụng từ”.
Để thực hiện được nhiệm vụ hướng dẫn Hs rèn luyện kĩ năng sử dụng từ, SGK Tiếng Việt
2 đã xây dựng các bài tập sử dụng từ. Các bài tập này có thể được chia nhỏ thành các
kiểu bài tập như: Điền từ, dùng từ đặt câu,…
Câu 28: Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập Điển từ vào chỗ trống trong câu có gì
đáng lưu ý?
• Trong SGK Tiếng Việt 2, kiểu bài tập này chiếm tỉ lệ không cao (khoảng 10% tổng số
các bài tập từ ngữ). Dưới đây là một ví dụ:
VD: Em chọn từ ngữ nào diễn vào chỗ trống để tạo thành câu hoàn chỉnh ?
- Cháu … ông bà
- Con … cha mẹ
- Em … anh chị
(Tiếng Việt 2. tập một tr.99)
Tuy ở mức độ đơn giản nhưng bài tập điện từ thể hiện rõ yêu cầu giúp HS luyện tập sử
dụng từ. Trong kiểu bài tập này, muốn tìm và diễn được từ thích hợp vào chỗ trống, HS

45
phải tiến hành các thao tác lựa chọn và kết hợp từ đẫ chọn với những từ đứng trước, đúng
sau nó trong chuỗi lời nói (tức là điền từ đã chọn ấy vào chỗ trống trong câu). Như vậy,
muốn chọn được từ thích hợp, HS phía nắm được nghĩa của từng từ định chọn, nhất là
phải nắm được sắc thái nghĩa của từng từ trong các từ cũng nghĩa, gần nghĩa có thể xuất
hiện ở một vị trí còn để trống trong chuỗi lời nói. Có nằm dược các sắc thái nghĩa của từ,
HS mới hiểu được từ dịnh lựa chon có tương hợp về nghĩa với các từ đúng trước và đứng
sau nó trong chuỗi tới nói hay không.
(trang 48)
Dưạ vào mức độ dễ - khó, từ cần điền cho sẵn hay không cho sẵn, có thể chia kiểu bài tập
điển từ nói trên thành hai dạng nhỏ sau:
a) Dùng bài tập điền từ, trong đó cho sẵn từ cần điền
VD: Chọn từ trong ngoặc đơm thích hợp với mỗi chỗ trống: (giơ, đuổi chạy, nhe, luồn)
Con mèo, con mèo
… theo con chuột
… vuốt, … nanh
Con chuột … quanh
Luồn hang … hốc.
(Tiếng việt 2, tập một, tr.67)
HS đọc các từ ngữ trong câu hoặc đoạn (chưaa hoàn chỉnh) đã cho để sợ bộ nắm nội dung
các câu này. Sau đó, đọc các từ cho sẵn một lượt, rồi lần lượt thử điển từng từ cho sẵn
vào từng chỗ trống. Nếu tử nào có sự tương hợp về nghĩa, phù hợp về quan hệ ngữ pháp
(khả năng kết hợp) với những từ ngữ trong câu và bằng trực cảm bản ngữ, ta thấy có thể
chấp nhận được kết hợp ấy thì ta lựa chọn từ đó, lựa chọn phương án điền từ đó.
b) Dạng bài tập điện từ trong đó từ cần điều không cho sẵn
VD: Chọn từ chỉ hoạt động thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây
- Cô Tuyết Mai... môn Tiếng Việt
- Cô … bài rất thế hiểu.
- Cô … chúng em chăm học.
(Tiếng Việt 2 tập một, tr. 55)
HS dựa vào chủ điểm từ ngữ đang học, dựa vào nội dung từng câu có chỗ trống (cụ thể,
dựa vào nội dung các từ ngữ đứng trước và sau chỗ trống trong từng câu) để xác lập một
hệ thống liên tưởng, bao gồm các từ cũng nghĩa, gần nghĩa có thể xuất hiện ở vị trí trống
ấy. Sau đó, tiến hành thao tác lựa chọn để tìm từ phù hợp nhất điền vào chỗ trống trong
từng câu. Ví dụ, ở bài tập nêu trên, sau khi làm bài tập theo các bước đã gợi ý, ta có kết
quả như sau :
- Cô Tuyết Mai dạy môn Tiếng Việt.
- Cô giảng bài rất dễ hiểu.
– Có khuyên chúng em chăm học.
(trang 49)

Trang 50

Câu 29

46
(2) Nội dung và yêu cầu của kiểu bài tập Dùng từ đặt câu trong SGK Tiếng Việt lớp 2
đáng lưu ý ?

: Bài tập Dòng thờ đặt câu chủ yếu luyện cho HS biết kết hợp từ ngữ trong câu

Như ta biết, khi các từ kết hợp với nhau để tạo nên câu thì giữa chúng thành các mối quan
hệ ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp. Do đó, muốn "dùng từ đặt câu" được đúng, chủ thể nói
năng phải thiết lập được quan hệ ý ng quan hệ ngữ pháp hợp lí giữa các từ. Như vậy, kiều
bài tập này không chỉ liên quan đến từ ngữ mà còn liên quan tới những vấn đề ngữ pháp
như : đàn ngữ pháp của từ, mô hình câu,... Do đó, kiều bài tập này mang tính chất . vựng
- ngữ pháp. Nhưng ở đây, trọng tâm vẫn là rèn luyện về từ.

SGK Tiếng Việt 2 đã xây dựng một số bài tập Dàng từ đặt câu. Có thể có các bài tập này
thành hai dạng nhỏ : "Bài tập dùng từ đặt câu trong đó - hình cầu cho sẵn" và "Bài tập
dùng từ đặt câu trong đó mô hình cầu không cho sẵn", Dưới đây, ta sẽ đề cập tới nội
dung, yêu cầu của từng bài tập này.

a) Dạng bài tập "Dùng từ đặt câu trong đó mô hình cầu cho sẵn"

VD1: Chọn và xếp các từ ở ba nhóm sau thành câu :

1 2 3

Em, chị em Quét dọn, giặt, Nhà cửa, sách vở,

Linh, cậu bé xếp, rửa bát đũa, quần áo

Ai Làm gì?

.M: Em Quét dọn nhà cửa

VD2: Chọn từ thích hợp rồi đặt câu với từ ấy để tả :

a) Mái tóc của ông (hoặc bà) em : bạc trắng, đen nhánh, hoa râm,...

47
b) Tính tình của bố (hoặc mẹ) em : hiền hậu, vui vẻ, điềm đạm,...

c) Bàn tay của em bé : mũm mĩm, trắng hồng, xinh xắn,...

d) Nụ cười của anh (hoặc chị) em : tươi tắn, rạng rỡ, hiền lành,...

Ai (cái gì, con gì) Làm gì?

.M: Mái tóc ông em bạc trắng.

Tiếng việt 2, tập I, trang 123

Trang 51

Dạng bài tập trên rèn luyện cho HS kĩ năng lựa chọn từ (trong các từ cho sẵn), kết hợp từ
(theo mô hình cầu cho sẵn) để tạo thành câu. Đây là hình thức luyện tập "dùng từ đặt câu"
ở mức độ đơn giản nhất. Bên cạnh tác dụng rèn luyện cho HS về mô hình cầu, về kiểu
cầu (phương diện ngữ pháp), dạng bài tập trên còn có tác dụng nhất định trong việc rèn
luyện cho HS về từ (phương diện từ ngữ). HS chọn từ thích hợp trong các từ cho sản),
"lắp" vào mô hình câu, nhằm tạo ra các cầu cụ thể thuộc một trong hai mô hình câu Ai
làm gì ? và Ai thế nào ?

Ở bài tập trong VD1, GV lưu ý HS: Với các từ ở 3 nhóm đã nêu trong bài tập, HS có thể
tạo nên nhiều câu (chứ không phải chỉ có 4 cầu, tương ứng với 4 từ cho sẵn ở mỗi nhóm).
Theo định hướng nói trên, ở bài tập trong VD1, HS có thể tạo nên được các câu sau :

(1) Em quét dọn nhà cửa.

(2) Em rửa bát đũa.

(3) Em giặt quần áo.

(4) Em xếp sách vở.

Ở vị trí của từ "Em" (chủ ngữ) có thể thay bằng từng từ ngữ : chị em, Linh, cậu bé. Như
vậy, về nguyên tắc, ở bài tập này, HS có thể tạo được 16 câu. Còn ở bài tập trong VD2,

48
GV cũng cần lưu ý HS: với các ngữ liệu, dẫn liệu đã cho trong bài tập, về nguyên tắc, HS
có thể tạo ra rất nhiều câu. Đó là các câu sau :

(1) Mái tóc của ông em bạc trắng.

(2) Mái tóc của ông em vẫn còn) đen nhánh.

(3) Mái tóc của ông em (đã) hoa râm.

(4) Mái tóc của bà em bạc trắng.

(5) Mái tóc của bà em vẫn còn) đen nhánh,

(6) Mái tóc của bà em (đã) hoa râm.

Ở vị trí của chủ ngữ và vị ngữ, có thể thay bằng các từ ngữ đã cho sản trong bài tập, từ đó
tạo nên hàng loạt câu cụ thể.

Ngoài cách diễn đạt trên, nếu HS đưa ra cách diễn đạt khác mà vẫn đúng kiểu câu, đúng
mô hình câu Ai thế nào ? thì GV vẫn có thể chấp nhận. Một số Ví dụ :

Trang 52

- Ông em tóc bạc trắng.

- Mẹ em tính tình hiền hậu.

Cách diễn đạt này, cách sắp xếp từ ngữ này có phần gần gũi, quen thuộc, tự nhiên hơn
cách diễn đạt kiểu "Mái tóc của ông em bạc trắng" đã nói ở trên

b) Dạng bài tập "Dùng từ đặt câu trong đó mô hình cầu không cho sẵn

Trong SGK Tiếng Việt 2, dạng bài tập này có hình thức thể hiện phổ biến Đặt câu với
mỗi từ em tìm được ở bài tập 1.

(Từ mẫu ở bài tập 1: thương yêu, biết ơn) .

So với dạng bài tập a (mô hình cầu cho săn) ở trên, dạng bài tập này được coi là khó hơn.
Bởi vì, ở đây, HS phải tự lựa chọn mô hình cầu, lựa chọn cá ngữ khác (ngoài từ cho sẵn)
để "lấp đầy" mô hình câu ấy, để tạo ra một câu cụ thể. Dựa vào nghĩa của từ cho sẵn
(thường là động từ hoặc tính từ), HS suy nghĩ về nội dung câu cần đặt, lựa chọn cách diễn
đạt, lựa chọn mô hình câu, rổi huy động từ ngữ nhằm hiện thực hoá, cụ thể hoá câu cần
đặt. Theo cách làm này, ở bài tập trên, HS có thể đặt được các câu sau :

49
VD1:Cô giáo em rất thương yêu học sinh.

VD2:Các con phải biết ơn người đã giúp đỡ mình.

GV lưu ý một điều là nội dung câu sẽ đặt cần phù hợp với nội dung của chủ điểm đang
học. Nhưng ở một chừng mực nào đó, vẫn có thể chấp nhận các câu nói về những vấn đề
khác.

Câu 30

(?) Cần lưu ý những điểm gì trong khi dạy loại bài tập giúp học sinh lớp 2 luyện tập

phân loại, phân nhóm các từ, hệ thống hoá vốn từ ?

- Trước hết, ta làm quen với loại bài tập này qua một số ví dụ :

VD1: Xếp tên các loài chim cho trong ngoặc đơn vào nhóm thích hợp:

a) Gọi tên theo hình dáng. M : chim cánh cụt

b) Gọi tên theo tiếng kêu. M: tu hú

c) Gọi tên theo cách kiếm ăn. M : bói cá

(cú mèo, gõ kiến, chim sâu, cuốc, quạ, vàng anh)

Tiếng việt 2, tập 2, trang 27

Trang 53
VD2: Hãy xếp tên các loài cá vẽ dưới đây vào nhóm thích hợp: cá thu, cá mè, cá chép, cá
chim, cá trê, cá chuồn, cá nục, cá quả( cá chuối, cá lóc).
a)Cá nước mặn( cá biển) M: cá nục
b)Cá nước ngọt( cá ở sông, hồ,ao ) M: cá chép
( Tiếng Việt 2, tập 2, tr. 73 )
Loại bài tập này dựa yêu cầu HS dựa vào những đặc điểm của sự vật, hiện tượng được
biểu thị trong từ để phân loại, phân nhóm các từ. mỗi loại, mỗi nhóm từ này là một hệ
thống- hệ thống ngữ nghĩa. Vì vậy loại bài tập này có tác dụng giúp HS rèn luyện tư duy
hệ thống.
GV lưu ý HS muốn phân loại chính xác cần chú ý các tiêu chí phân loại. Ví dụ, ở bài tập
trong VD1, cần chú ý các tiêu chí: hình dáng, tiếng kêu, cách kiếm ăn; ở bài tập trong

50
VD2 cần chú ý 2 tiêu chí: cá nước mặn, cá nước ngọt. Từ đó HS đối chiếu từng từ cho
sẵn với từng tiêu chí đã nêu, để quyết định từ nào thuộc nhóm nào. Theo cách làm này,
các từ trong bài tập nêu trên được phân loại, phân nhóm như sau:
- Bài tập trong VD1:
Gọi tên theo hình dáng Gọi tên theo tiếng kêu Gọi tên theo cách kiếm ăn
Chim cánh cụt, vàng anh, Tu hú, quốc, quạ Bói cá, chim sâu, gõ kiến
cú mèo
- Bài tập trong VD2
Cá nước mặn ( cá biển ) Cá nước ngọt ( cá ở sông, ao , hồ )
Cá nục, cá thu, cá chim, cá chuồn Cá chép, cá mè, cá chê, cá quả ( cá chuối,
cá lóc)

Câu 31
? có gì đáng lưu ý về mục Chú thích và giải thích từ ngữ ( chú giải từ ngữ ) ở cuối
mỗi bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2?
Cấu trúc nội dung một bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2 gồm có 3 phần :
- Văn bản đọc;
- Chú thích và giải nghĩa (Chú giải từ ngữ - kí hiệu : );
- câu hỏi và bài tập( câu hỏi tìm hiểu bài – kí hiệu ? );

Trang 54
Phần Chú giải từ ngữ “nhặt ra” các từ ngữ mới, từ ngữ khó về nghĩa (đối với học sinh lớp
2) trong văn bản đọc. Cũng có một số từ ngữ không phải là từ mới, từ khó mà là từ địa
phương, hoặc cách nói mang tính địa phương, không thông dụng, do đó cũng cần được
chú giải. Mục đích của việc chú giải từ ngữ là giúp HS thông hiểu nội dung từng câu văn,
câu thơ, rộng ra là thông hiểu nội dung toàn bộ văn bản đọc. Cố nhiên, việc lựa chọn
những từ ngữ để chú giải cũng ko dễ dàng và chỉ mang tính tương đối. bởi vì việc trả lời
câu hỏi : “Từ ngữ nào trong bài văn, bài thơ được coi là mới, khó đối với HS lớp 2, cần
được giải thích nghĩa?” là ffieeuf cũng ko dễ dàng. Do đó, GV cần căn cứ vào tình hình
cụ thể của HS lớp dạy để bổ sung những từ ngữ khác cần chú giải, ngoài những từ ngữ
được đề cập trong SGK.
Ở phần giải thích nghĩa các từ, GV cần chú ý: nghĩa từng từ được giải thích, miêu tả ở
đây chủ yếu là nghĩa văn cảnh, nghĩa trong bài, nghĩa gắn với từng câu văn, câu thơ cụ
thể. Do đó, nghĩa này ở một số trường hợp không hoàn toàn trùng với nghĩa khái quát
được nêu trong từ điển tiếng Việt. Ta thử so sánh cách giải nghĩa một số từ của SGK và
của từ điển:
Từ Cách giải nghĩa của SGK Tiếng việt 2 Cách giải nghĩa của từ điển
tiếng Việt
Rung động - Ý nói ( tiếng trống) rung lên làm cho - Tác động đến tình cảm,
HS cảm động. làm nảy sinh cảm xúc.
( Tiếng việt 2, tập 1, tr.51)

51
Bỡ ngỡ - Chưa quen trong buổi đầu. - Ngơ ngác, lúng túng vì
( Tiếng Việt 2, tập 1 trang 51) chưa quen thuộc.

Ngập ngừng - (Nói) ngắt quãng vì ngại - Tỏ ra do dự, vừa muốn lại
( Tiếng Việt 2, tập 1, tr.99) vừa e ngại, không giải
quyết.
Nghĩa trong từ điển mang tính khái quát, tương ứng với rất nhiều trường hợp sử dụng từ,
được giải thích cho đối tượng độc giả rộng rãi. Còn nghĩa trong SGK gắn với một văn
cảnh, một trương hợp sử dụng từ cụ thể, được giải thích cho HS ở một lớp , một độ tuổi
cụ thể ( ở đây là HS lớp 2). Do đó cách diễn đạt, cách miêu tả nghĩa của từ trong SGK
cũng phải ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của HS. Vì những lẽ trên, có chăng sự
khác biệt ít nhiều trong cách giải nghĩa giữa SGK với từ điển cũng là điều dễ hiểu.

Trang 55
Câu 32
? Nội dung dạy từ trong phân môn Tập đọc ở lớp 2 bao gồm những gì ?
Như ta đã biết muốn đọc đúng và đọc hay, đọc diễn cảm tốt HS phải hiểu nội dung từng
câu, hiểu nghĩa của từ ngữ trong câu, trong bài. Nói cách khác, việc HS không hiểu rõ
nghĩa của một số từ ngữ sẽ ảnh hưởng đáng kể tới việc hiểu nội dung toàn bài. Do đó việc
dạy từ, cụ thể là học sinh hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong bài đọc
là một trong những nhiệm vụ của phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung và lopws2 nói
riêng.
Để thực hiện yêu cầu nói trên, công việc của GV khi dạy tiết Tập đọc bao gồm : xác định
những từ ngữ trong bài học cần giải nghĩa cho HS và hướng dẫn cho HS tìm hiểu nghĩa
của từ ngữ. Về những từ ngữ cần giải nghĩa, có 2 loại chính:
(1) Những từ ngữ khó đối với HS, được nêu trong mục chú thích và giải nghĩa ở cuối
mỗi bài tập đọc.
(2) Những từ ngữ bổ sung (bao gồm những từ ngữ có vai trò quan trọng để giúp HS
hiểu nội dung bài văn bài thơ; cảm thụ bài văn bài thơ, những từ ngữ khó đối với
HS lớp dạy mà mục Chú giải trong SGK chưa nói tới,…)
Đối với loại thứ nhất, ở từng bài tập đọc cụ thể, GV nhắc HS đọc trước phần chú giải này
ở nhà. Trên lớp nếu cần thiết , GV cho HS đọc phần chú giải từ ngữ sau khi đọc văn bản.
trong các từ ngữ được chú giải ở SGK nếu có từ nnào HS chưa hiểu rõ , GV có thể giải
thích thêm. Còn đối với loại thứ hai (từ ngữ bổ sung cần giải nghĩa), GV căn cứ vào tình
hình HS lipws dạy để chọn từ ngữ cần giải thich thêm ( giải thích cho cả lớp hoặc cá
nhân). Thời điểm giải thích từ ngữ cho HS trong tiết dạy là thời điểm hướng dẫn hs luyện
đọc, nhất là khi luyện đọc từng câu. Về cách giải nghĩa, ngoài việc dùng cách diễn đạt
ngắn gọn, dễ hiểu, có hình ảnh, phù hợp với trình độ hs,…GV có thể làm mẫu hướng dẫn
HS làm một số việc như: đặt câu trong đó có dùng từ cần tìm hiểu nghĩa; tìm từ cùng
nghĩa, trái nghĩa với từ cần tìm hiểu nghĩa…Ngoài ra, Gv có thể dùng các đồ dùng dạy
học như : vật thật, tranh ảnh, …để giúp HS nắm nghĩa của từ. Đối với các từ các từ có

52
nghĩa bóng, GV cần đặt từ trong câu văn , câu thơ chứa nó để hướng dẫn HS tìm hiểu
nghĩa và dùng cách diễn đạt “ý nói …” để giải thích nghĩa của các từ này.

Trang 56
Câu 33
? xin cho biết tác dụng của việc dạy các cụm từ ứng dụng trong phân môn Tập viết
ở lớp 2 và nội dung giải nghĩa các cụm từ ứng dụng đó.
Mục tiêu của phân môn Tập viết ở lớp 2 được xác định là :
-Rèn kĩ năng viết chữ (chủ yếu là chữ hoa) cho HS.
- Kết hợp dạy kĩ thuật viết chữ với rèn chính tả, mở rộng vốn từ, phát triển tư duy.
-Góp phần rèn luyện những phẩm chất như : cẩn thận, óc thẩm mĩ, tự trọng, tôn trọng mọi
người.
Như vậy trong các mục tiêu nói trên, có một khía cạnh đáng chú ý là : “kết hợp dạy kĩ
thuật viết chữ với …mở rộng vốn từ”. Nội dung “Mở rộng vốn từ” trong phân môn tập
viết được hiểu là những ngữ liệu( từ, cụm từ ) trong SGK, vở tập viết vừa giúp việc tập
viết, vừa có tác dụng cung cấp từ ngữ cho HS, giúp HS mở rộng vốn từ. Trong các ngữ
liệu này, các cụm từ ứng dụng này có vị trí quan trọng, được coi là ngữ liệu chủ yếu trong
mỗi tiết tập viết. các cụm từ ứng dụng này trong SGK và vở tập viết 2 có cấu trúc khá đa
dạng. Có khi là một câu (VD: lá lành đùm lá rách, em yêu trường em), cũng có khi là một
cụm từ cố định ( trong đó chủ yếu là các thành ngữ; VD : thẳng như ruột ngựa, hai sương
một nắng; kề vai sát cánh) hoặc cụm từ tự do (yêu lũy tre làng; đẹp trường đẹp lớp). Bên
cạnh đó có một số trường hợp mang tính “lưỡng khả”- nghĩa là vừa mang đặc điểm của
câu, lại vừa có dáng dấp của cụm từ (ngữ), như : phong cảnh hấp dẫn; quê hương tươi
đẹp; Việt Nam thân yêu;…Do đó, có thể quy ước gọi chung là “cụm từ ứng dụng”.
Khi giải nghĩa các cụm từ ứng dụng này GV cần lưu ý : nghĩa của các cụm từ cố định ,
nhất là các thành ngữ - nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng. Vì vậy khi giải thích cho HS lớp 2,
cần dùng cách diễn đạt mộc mạc, dễ hiểu, phù hợp với trình độ HS. Đối với các thành
ngữ, không nên hoặc hạn chế nêu nghĩa gốc hoặc nghĩa đen, nghĩa từ nguyên; không nên
dùng lối chiết tự để giải nghĩa. Bởi vì những điều này ít nhiều xa lạ với HS và gây khó
hiểu cho các em.
Theo định hướng nói trên, GV có thể giải nghĩa các cụm từ ứng dụng được dạy trong các
tuần (tiết) Tập viết ở Lớp 2 như sau:

Trang 57
Tuần Cụm từ ứng dụng Giải nghĩa
1 Anh em thuận hòa Anh em trong nhà phải yêu thương nhau
2 Ăn chậm nhai kĩ Ăn chậm rãi, nhai kĩ để dạ dạy tiêu hóa thức ăn dễ
dàng
3 Bạn bè sum họp Bạn bè ở khắp nơi trở về tụ học, quay quần.
4 Chia ngọt sẻ bùi Thương yêu, đùm bọc lẫn nhau (sung sướng cùng
hưởng, cực khổ cùng chịu).
5 Dângiàu nước mạnh Nhân dân giàu có, đất nước hùng mạnh ( thể hiện
ước mơ, mong muốn của người dân trong cùng một
53
nước).
6 Đẹp trường đẹp lớp Cùng nhau giử gìn trường lớp sạch đẹp. Đây là trách
nhiệm của mỗi hs
7 Em yêu trường em Tình cảm yêu quý ngôi trường của mỗi hs, biểu hiện
ở ý thức và việc làm góp phần giữ gìn trường lớp
sạch sẽ.
8 Góp sức chung tay Cùng nhau đoàn kết để hoàn thành một công việc
chung
10 Hai sương một nắng Nói về sự vất vả, đức tính chịu khó, chăm chỉ của
gười lao động.
11 Ích nước lợi nhà Nên làm những việc tốt, có ích cho đất nước, gia
đình
12 Kề vai sát cánh Chỉ sự đoàn kết bên nhau để cùng gánh vác một công
việc nào đó.
13 Lá lành đùm lá rách Đùm bọc cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn
hoạn nạn.
14 Miệng nói tay làm Nói đi đôi với làm
15 Nghĩ trước nghĩ sau Suy nghĩ chin chắn trước khi làm một việc gì đó
16 Ong bay bướm lượn Tả cảnh ong bướm bay đi tìm hoa, rất đẹp và yhanh
bình
17 Ơn sâu nghĩa nặng Có tình nghĩa sâu nặng, sâu sắc.
17

Trang 58

Tuần Cụm từ ứng dụng Giải nghĩa


19 Phong cảnh hấp dẫn Phong cảnh, cảnh vật đẹp, làm mọi người muốn đến
thăm, có sức cuốn hút mọi người
20 Quê hương tươi đẹp Ca ngợi vẻ đẹp quê hương
21 Ríu rít chim ca Bầy chim cùng hót rất vui vẻ, nối liền nhau không
dứt
22 Sáo tắm thì mưa Hễ thấy chim sáo tắm thì trời sắp có mưa (một kinh
nghiệm xem thời tiết)
23 Thẳng như ruột ngựa Ý nói thẳng thắn, không ưng điều gì là nói ngay
24 Ươm cây gây rừng Ươm giống cây, cây con để trong rừng, phát triển
rừng
25 Vượt suối băng rừng Vượt qua nhiều đoạn đường khó đi, không quản ngại
khó khăn gian khổ

54
26 Xuôi chèo mát mái Ý nói công việc diễn ra thuận lợi, tốt đẹp, không gặp
trở ngại gì
28 Yêu lũy tre làng Yêu làng xóm, quê hương
29 Ao liền ruộng cả Ý nói giàu có (ở vùng thôn quê)
30 Mắt sáng như sao Mắt to và sáng, rất đẹp
31 Người ta là hoa đất Con người là đáng quý nhất, là tinh túy của trời đất
32 Quân dân một lòng Quân đội và nhân dân đoàn kết, gắn bó với nhau,
giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
33 Việt Nam thân yêu Việt Nam là Tổ quốc thân yêu của chúng ta

Câu 34
Nội dung dạy từ trong phân môn chính tả bao gồm những gì?

Có thể nói nội dung dạy từ được thể hiện ở những mức độ khác nhau trong tất cả các
phân môn thuộc môn tiếng Việt. Trong phân môn Chính tả, nội dung dạy từ chủ yếu được
giới hạn ở việc giúp học sinh nắm nghĩa của từ và mở rộng vốn từ. Những từ ngữ được
lựa chọn với tư cách làm ngữ liệu trong các bài tập

Trang 59

chính tả, nhằm hướng dẫn học sinh luyện viết đúng chính tả - cũng chính là các từ ngữ
mà qua đó, GV giúp HS nắm nghĩa từ và mở rộng vốn từ. Xin nêu một ví dụ:
Điền vào chỗ trống:
a) tr hay ch?
con...ai, cái...ai, ….ồng cây, ...ồng bát
b) at hay ac?
bãi c…, c… con, lười nh.., nhút nh…
(Tiếng Việt 2, tập một, tr.97)
Trong bài tập trên, các từ ngữ: con trai, cái chai; trồng cây, chồng bát; bãi cát, các con,
lười nhác, nhút nhát vừa là ngữ liệu dùng để luyện viết chính tả phân biệt: tr/ch, at/ac, lại
vừa là các từ ngữ mà qua đó, giáo viên giúp học sinh củng cố nghĩa của từ và mở rộng
vốn từ. Điều này đã được đề cập tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1, tr.17, ở
phần mục đích yêu cầu của việc dạy chính tả: “Kết hợp luyện tập chính tả với việc rèn
luyện cách phát âm, củng cố nghĩa từ, …”.
Qua sự phân tích ở trên, ta thấy việc làm các bài tập chính tả có tác dụng giúp học sinh
củng cố, khắc sâu nghĩa của từ. Nhưng ngược lại, có thể nói muốn viết đúng chính tả, học
sinh phải nắm được nghĩa của từ. Về vấn đề này, ta cần biết rằng: chính tả tiếng Việt là
chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế, muốn viết đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ
là rất quan trọng. Nói cách khác, hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp người
học viết đúng chính tả. Ví dụ, nếu giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là /za/ thì
học sinh có thể lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu
học gia đình hoặc da thịt hoặc ra vào thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có
55
thể hiểu rằng chính tả tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng
quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả tiếng Việt mà khi dạy, giáo viên cần
lưu ý.

Câu 35
Qua phân môn Kể chuyện, giáo viên có thể kết hợp dạy từ ngữ cho học sinh như thế
nào?

Điều này được nhắc tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1, tr.14, ở phần mục đích,
yêu cầu: “ Củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển

Trang 60

tư duy hình tượng và tư duy lôgic nâng, cao sự cảm nhận về hiện thực đời sống thông qua
nội dung câu chuyện”. Như vậy, dưới góc độ dạy từ, ta thấy qua phân môn Kể chuyện,
giáo viên chủ yếu giúp học sinh luyện tập sử dụng từ nhằm phát triển hai kỹ năng: nghe
(lĩnh hội văn bản) và nói (tạo lập văn bản). Nghe tức là nghe bạn kể chuyện để nhận xét,
còn nói là kể lại câu chuyện (đã đọc trong giờ Tập đọc) và nhận xét lời kể của bạn. Như
ta biết, khi nghe, học sinh cũng phải nắm được nghĩa của các từ ngữ trong câu, trong văn
bản. Có như vậy, người nghe mới thông hiểu nội dung văn bản, mới nắm được nội dung
câu chuyện. Còn khi nói (kể lại), chủ thể nói năng phải có vốn từ, biết sử dụng từ để tạo
câu, đoạn, văn bản (nói). Qua việc luyện tập sử dụng từ, học sinh được mở rộng, phát
triển vốn từ, củng cố những hiểu biết về nghĩa của từ và về một số phương diện khác.
Tóm lại, qua phân môn Kể chuyện, học sinh được luyện tập khá nhiều về từ ngữ - các từ
ngữ trong trạng thái hoạt động, vận động - để giúp học sinh lĩnh hội và tạo lập văn bản.

Câu 36
Nội dung dạy từ trong phân môn Tập làm văn bao gồm những gì?

Dưới góc độ dạy từ, ta thấy tập làm văn chính là tập sử dụng từ, nhằm củng cố và phát
triển các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho việc học tập và giao tiếp của học sinh.
Nội dung luyện tập sử dụng từ được hiểu bao gồm hai phương diện: thứ nhất, hiểu từ để
lĩnh hội văn bản (nghe/đọc) và thứ hai, dùng từ để tạo lập văn bản (nói/viết). Trong sách
giáo khoa Tiếng Việt 2, các bài tập làm văn thể hiện rõ yêu cầu nói trên. Một số ví dụ:
VD1: Bố đi công tác về, tặng em một gói quà. Mở gói quà ra, em rất ngạc nhiên và thích
thú khi thấy một cái vỏ ốc biển rất to và đẹp.
Em nói như thế nào để thể hiện sự ngạc nhiên và thích thú ấy?
(Tiếng Việt 2 tập 1 trang 146)
VD2: Viết lại những câu trả lời của em mở bài tập 3 trong tiết Tập làm văn tuần trước:
a) Tranh vẽ cảnh gì?
b) Sóng biển như thế nào?

Trang 61

56
c) Trên mặt biển có những gì?
d) Trên bầu trời có những gì?
(Tiếng Việt 2 tập 2 trang 76)
Hai bài tập trên gắn với hai hoạt động tạo lập văn bản (nói/viết). Muốn nói được một câu
để diễn tả sự ngạc nhiên, thích thủ (cũng như muốn viết một số câu trả lời các câu hỏi ở
bài tập 3), trước hết, học sinh phải có từ, phải nắm được các đặc điểm về khả năng kết
hợp của từ, quy tắc dùng từ đặt câu… Giải xong các bài tập này, về phương diện từ ngữ,
học sinh được mở rộng vốn từ, được tích cực hóa vốn từ khá nhiều.

Câu 37
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1, tr.108 có bài tập:
“Tìm các bộ phận câu trả lời cho các câu hỏi: Ai?, Làm gì?
Cây xoà cành ôm cậu bé.”
Xin hỏi:
- Chủ ngữ trong câu trên trả lời cho câu hỏi Ai? hay Cái gì?
- Học sinh lớp 2 chưa học biện pháp tu từ nhân hóa. Vậy, cần giải thích cho học sinh
như thế nào về trường hợp này?

Trong bài tập trên, mục đích được đặt ra là giúp học sinh bước đầu nhận biết hai bộ phận
câu trong câu Ai là gì? Để giúp học sinh có chỗ dựa khi làm bài tập này, sách giáo khoa
Tiếng Việt 2, tập 1, tr.108 đã đưa ra một mô hình câu, kèm theo ví dụ minh họa:

Ai? làm gì?


Chi đến tìm bông cúc màu xanh

Từ đó có thể hiểu rằng: chủ ngữ “Cây” trong câu “Cây xoà cành ôm cậu bé” trả lời cho
câu hỏi Ai? (trong câu Ai làm gì?). Cách hiểu này dựa trên một số cơ sở sau: Thứ nhất,
“Cây” ở đây đã được cách nhân cách hóa, có đặc tính như con người (“Cây” là hình ảnh
của người mẹ); thứ hai, đối với câu hỏi trả lời cho bộ phận câu làm chủ ngữ, sách giáo
khoa Tiếng Việt 2, tập 1, tr.108 mới chỉ đưa ra câu hỏi Ai? (chưa đưa ra câu hỏi Cái gì?
Con gì?). Vì vậy, đối với trường hợp trên, không có cách hiểu và cách trả lời nào khác.

Trang 62

Về băn khoăn của giáo viên khi cho rằng: học sinh lớp 2 chưa được học biện pháp tu từ
nhân hóa, do đó khó tiếp nhận cách giải thích đã nêu ở trên, theo chúng tôi, sự thực
không hoàn toàn như vậy. Tuy chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 chưa bố trí dạy về biện
pháp nhân hóa nhưng trong thực tế, học sinh đã được tiếp xúc với thủ pháp nghệ thuật
quen thuộc này từ khá sớm, qua những bài văn, bài thơ được học, được nghe ở mẫu giáo
và ở lớp 1. Dưới đây là một số ví dụ trích trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1:
- Hay nói ầm ĩ

57
Là con vịt bầu
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện…
(Trần Đăng Khoa )

- Bác thuyền ngủ rất lạ


Chẳng chịu trèo lên giường
Úp mặt xuống cát vàng
Nghiêng tai về phía biển.
(Dương Huy)

- Rùa con đi chợ mùa xuân


Mới đến cổng chợ bước chân sang hè.
(Mai Văn Hai)

Do đó, giáo viên dạy lớp 2 dễ dàng giải thích cho học sinh về biện pháp tu từ nhân hóa
trong câu “Cây xoà cành ôm cậu bé.” nói trên.

C - Lớp 3

Câu 38
Nội dung dạy học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3 gồm có những
gì?

Phân môn Luyện từ và câu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3 có những nội dung cơ bản
sau:

Trang 63

a) Mở rộng vốn từ. Học sinh được mở rộng, phát triển vốn từ theo chủ điểm trong sách
giáo khoa, được hướng dẫn nắm nghĩa của một số từ ngữ cơ bản gắn với chủ điểm, được
luyện tập sử dụng từ ngữ. Trong các từ ngữ được mở rộng có một số từ ngữ địa phương.
b) Làm quen với một số biện pháp tu từ. Cụ thể thông qua các bài tập, sách giáo khoa
cung cấp cho học sinh một số hiểu biết cơ bản, ban đầu về hai biện pháp tu từ quen thuộc:
so sánh và nhân hóa. Ở hai biện pháp tu từ này, giáo viên giúp học sinh nhận diện, nhận
biết từng biện pháp tu từ trong các câu thơ, câu văn, các trường hợp sử dụng cụ thể. Trên
cơ sở đó, GV giúp học sinh bước đầu tập sử dụng từng biện pháp tu từ và việc dùng từ,
đặt câu.
c) Ôn luyện về kiểu câu và các thành phần câu

58
- Về kiểu câu, trên cơ sở những kiến thức đã học ở lớp 2, học sinh luyện tập đặt câu có
mô hình cấu tạo: Ai - là gì? (Danh từ - là danh từ), Ai - làm gì? (Danh từ - động từ), Ai -
thế nào? (Danh từ - tính từ).
- Về thành phần câu, học sinh biết đặt câu hỏi cho các bộ phận câu và mở rộng câu bằng
trạng ngữ của câu, phụ ngữ của cụm từ.
d) Ôn luyện về một số loại dấu câu: Dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than
(đã học ở lớp 2); học thêm về dấu hai chấm.
Các đơn vị kiến thức nói trên không được trình bày thành bài riêng mà lồng trong các bài
tập thực hành.

Câu 39
Tương ứng với các nội dung dạy học nói trên là những kiểu loại bài tập nào được
giới thiệu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3? Có gì cần lưu ý khi hướng dẫn học sinh
làm các kiểu loại bài tập này?

Tương ứng với các nội dung dạy học nói trên, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 đã thiết kế các
kiểu loại bài tập cơ bản sau:
a) Các bài tập về từ, về biện pháp tu từ
- Trong các bài tập về từ, có loại bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ theo chủ điểm;
giúp học sinh làm nghĩa của từ; giúp học sinh luyện tập sử dụng từ; giúp học sinh phân
loại, hệ thống hóa vốn từ.

Trang 64

- Ở các bài tập về biện pháp tu từ, có loại bài tập giúp học sinh nhận biết, nhận diện biện
pháp tu từ trong các câu thơ, câu văn; giúp học sinh tập vận dụng biện pháp tu từ trong
thực tiễn nói, viết.
b) Các bài tập về câu, về dấu câu
- Các bài tập về câu gồm bài tập tìm bộ phận câu trả lời câu hỏi; đặt câu hỏi cho từng bộ
phận câu; đặt câu theo câu mẫu,...
- Các bài tập về dấu câu gồm bài tập điền dấu câu cho sẵn vào chỗ chấm; tìm dấu câu
thích hợp điền vào chỗ trống; tập ngắt câu,…
Điều cần lưu ý ở đây là mỗi kiểu loại bài tập nói trên có mục tiêu riêng, có những đặc
điểm riêng về cấu tạo, về cách dạy. Do đó, giáo viên cần nắm vững những vấn đề này để
tổ chức dạy - học các bài tập trong phân môn Luyện từ và câu nói trên đúng phương
hướng và đạt được hiệu quả cao.

Câu 40
Loại bài tập giúp học sinh mở rộng vốn từ (theo chủ điểm) có những dạng nào?

Loại bài tập mở rộng của vốn từ theo chủ điểm chiếm tỷ lệ cao nhất so với các loại bài
tập từ ngữ khác (khoảng 50%). Các bài tập này giúp học sinh phát triển, mở rộng vốn từ;

59
phong phú hóa và hệ thống hóa vốn từ. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3, loại bài tập
này được thiết kế thành các dạng nhỏ sau:
a) Dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm
VD1: Tìm các từ:
- Chỉ trẻ em M: thiếu niên
- Chỉ tính nết của trẻ em M: ngoan ngoãn
- Chị tình cảm hoặc sự chăm sóc của người lớn đối với trẻ em
M: thương yêu
(Tiếng Việt 3, tập 1, tr.16)
VD2: Em hãy tìm và ghi vào vở những từ ngữ:
- Chỉ những người hoạt động nghệ thuật M: diễn viên
- Chỉ các hoạt động nghệ thuật M: đóng phim
- Chỉ các môn nghệ thuật M: điện ảnh
(Tiếng Việt 3, tập 2, tr.53)

Trang 65
b) Dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm - gắn với văn bản
VD: Dựa vào những bài tập đọc và chính tả đã học ở các tuần 21, 22, em hãy tìm các từ
ngữ:
- Chỉ trí thức M: bác sĩ
- Chỉ hoạt động của trí thức M: nghiên cứu
(Tiếng Việt 3, tập 2, tr.35)
c) Dạng bài tập Tìm từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm
VD1: Tìm các từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ sau:
Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai
(Tiếng Việt 3, tập 1, tr.8)
VD2: Liệt kê những từ chỉ hoạt động, trạng thái trong bài tập làm văn cuối tuần 6 của em.
(Tiếng Việt 3, tập 1, tr.58)
d) Dạng bài tập Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ
VD: Hãy kể tên các môn thể thao bắt đầu bằng những tiếng sau:
- Bóng M: bóng đá
- Chạy M: chạy vượt rào
- Đua M: đua xe đạp
- Nhảy M: nhảy cao
(Tiếng Việt 3, tập 2, tr.93)
e) Dạng bài tập Mở rộng vốn từ qua trò chơi “Giải ô chữ”
VD: Giải ô chữ. Biết rằng các từ ở cột được in màu có nghĩa là Buổi lễ mở đầu năm học
mới.
- Dòng 1: Được học tiếp lên lớp 2 (gồm 2 tiếng, bắt đầu bằng chữ L).

60
- Dòng 2: …
(Tiếng Việt 3, tập 1, tr.50)

Trang 66

Câu 41
Nội dung và yêu cầu của các dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm và Tìm từ ngữ
cùng chủ điểm – gắn với văn bản có gì đáng lưu ý?

a) Dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm chiếm tỷ lệ cao trong sách giáo khoa Tiếng
Việt 3. Các từ cần tìm ở đây thuộc cùng một chủ điểm từ ngữ, nói cách khác là cùng nằm
trong một hệ thống liên tưởng tự do. Tập hợp các từ tìm được, ta có các hệ thống từ ngữ
(hệ thống mở). Đặc điểm này chi phối, quy định cách dạy của giáo viên. Cụ thể, giáo viên
dựa vào các từ mẫu (còn gọi là từ điểm tựa, từ kích thích) cho sẵn trong sách giáo khoa
để gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm từ. Các từ học sinh tìm được có số lượng không xác
định và in dấu ấn của sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân học sinh. Vì vậy, giáo viên cần kích
thích hứng thú tìm từ, kích thích hoạt động liên tưởng tự do (nhưng có định hướng) của
học sinh, khai thác vốn từ ngữ tiềm tàng trong từng học sinh. Trong quá trình giáo viên
hướng dẫn học sinh tìm từ, có thể có hiện tượng: Học sinh nêu các những từ “lạc hệ
thống”, không đúng yêu cầu của bài tập. Giáo viên cần kịp thời phát hiện những từ này và
chỉ ra chỗ chưa phù hợp của từng từ. Ví dụ, bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 24, nêu
yêu cầu: Tìm những từ ngữ “chỉ những người hoạt động nghệ thuật”. Bên cạnh các từ
ngữ đúng mà học sinh tìm được như: diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ múa, nghệ sĩ điện ảnh, nghệ
sĩ xiếc, nhà soạn kịch, biên đạo múa, đạo diễn, nhà quay phim; nhà văn, nhà thơ, họa sĩ,
nhạc sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư,… có thể có những từ “lạc hệ thống” mà học sinh nêu
ra như: đóng phim, quay phim, nặn tượng, biểu diễn nghệ thuật (Các từ ngữ này chỉ “các
hoạt động nghệ thuật” chứ không chỉ “những người hoạt động nghệ thuật”); điện ảnh,
kịch nói, xiếc, ảo thuật,… (chỉ “các môn nghệ thuật”); nhạc cụ, đàn sáo, chiêng, trống…
(chỉ “dụng cụ dùng trong biểu diễn nghệ thuật”)…
b) Ở dạng bài tập Tìm từ ngữ cùng chủ điểm – gắn với văn bản, các từ ngữ cần tìm không
phải là một hệ thống mở, mà là hệ thống có tính chất xác định, với số lượng từ ngữ cụ
thể, rõ ràng. Dựa vào từ mẫu cho sẵn trong sách giáo khoa, học sinh tìm các từ ngữ cùng
loại, cùng nằm trong một trường nghĩa, cùng thuộc một chủ điểm (hoặc một phương diện
của chủ điểm) trong văn bản mà bài tập đã quy định. Ví dụ, bài tập 1, tiết Luyện từ và
câu tuần 22, nêu yêu cầu: Dựa vào những bài tập đọc và chính tả đã học ở tuần 21, 22,
tìm các từ ngữ chỉ trí thức (M: bác sĩ) và hoạt động của trí thức (M: nghiên cứu). Trước
hết, học sinh dựa vào sách giáo khoa để xác định các bài tập đọc, chính tả ở tuần 21, 22.
Sau đó, ở từng văn bản, học sinh tìm các từ ngữ mà bài tập yêu cầu để có thể tổng hợp
kết quả tìm được dưới dạng bảng như sau:

Trang 67

61
Văn bản Từ ngữ tìm được
Chỉ trí thức Chỉ hoạt động của trí thức

Ông tổ nhề thêu tiến sĩ đọc sách, học, quan sát


Lê Quý Đôn tiến sĩ, nhà bác học đọc, viết, sáng tác
- Bàn tay cô giáo thầy giáo, cô giáo, bác sĩ, kĩ dạy học. chữa bệnh, chế
- Người trí thức yêu sư thuốc chữa bệnh, chế tạo
nước máy móc, nghiên cứu khoa
- Bài chính tả tuần 22 học
(SGK, tr.29)
Nhà bác học và bà cụ nhà bác học chế tạo tàu điện, chế tạo xe
điện
Một nhà thông thái nhà thông thái, nhà bác học

Câu 42
Nội dung và yêu cầu của các dạng bài tập Tìm từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái,
đặc điểm; Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ; Mở rộng vốn từ qua trò “Giải ô
chữ” có những điểm gì cần lưu ý?
a) Dạng bài tập Tìm từ chỉ sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm trong các văn bản
(đoạn văn, bài văn; đoạn thơ, bài thơ) có tác dụng giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn
từ theo các loại lớn, tương ứng với 3 từ loại là danh từ, động từ, tính từ. Nói cách khác,
các từ cần tìm ở dạng bài tập này cùng liên quan tới việc biểu thị những phạm trù về sự
vật, về hoạt động, về đặc điểm (của sự vật) trong thực tế khách quan. Dạng bài tập này
nằm trong các bài ôn tập về từ (từ chỉ sự vật; từ chỉ hoạt động, trạng thái; từ chỉ đặc
điểm) mà học sinh đã học ở lớp 2. Giáo viên cần lưu ý giải thích cho học sinh các khái
niệm: sự vật (bao gồm: người, đồ vật, con vật, cây cối…), trạng thái (tình trạng của
người, vật…) đặc điểm (của người, vật - về hình dáng, tính tình, màu sắc…). Trên cơ sở
đó, học sinh tìm các từ ngữ thuộc từng loại nói trên trong văn bản.
Ví dụ, bài tập 1 tiết Luyện từ và câu tuần 1, yêu cầu: Tìm từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ
“Tay em đánh răng. Răng trắng hoa nhài. Tay em chải tóc. Tóc ngời ánh mai”

Trang 68

Học sinh tìm từ ngữ chỉ sự vật trong từng dòng thơ (hoặc từng câu văn, nếu văn bản là
đoạn văn, bài văn) được các từ ngữ sau: tay em, răng, hoa nhài, tóc, ánh mai.
b) Dạng bài tập Mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt
3 chiếm tỷ lệ không nhiều nhưng là mô hình bài tập đáng chú ý. Mở rộng vốn từ theo
quan hệ cấu tạo từ nghĩa là học sinh dựa vào một yếu tố cấu tạo từ (tiếng) cho sẵn, để tạo
ra các từ có cùng kiểu cấu tạo, trong đó có chứa yếu tố cấu tạo từ cho sẵn ấy. Mô hình bài
tập này có tác dụng nhất định trong việc giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ. Về

62
cách dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào từ mẫu cho sẵn trong giáo khoa để tìm
các từ có cùng kiểu cấu tạo, đáp ứng được yêu cầu của bài tập.
Ví dụ, bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 29 yêu cầu: Kể tên các môn thể thao bắt đầu
bằng những tiếng: bóng (M: bóng đá), chạy (M: chạy vượt rào), đua (M: đua xe đạp),
nhảy (M: nhảy cao)
Theo cách làm đã nói ở trên, học sinh có thể tìm được các từ ngữ sau:
- Bóng: Bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng ném, bóng nước, bóng bàn, bóng bầu
dục,...
- Chạy: Chạy vượt rào, chạy việt dã, chạy ma-ra-tông,...
- Đua: Đua xe đạp, đua thuyền, đua ô tô, đua mô tô, đua ngựa, đua voi, đua lạc đà,...
- Nhảy: Nhảy cao, nhảy xa, nhảy sào, nhảy ngựa, nhảy cừu, nhảy cầu, nhảy dù, nhảy ba
bước,...
c) Dạng bài tập Giải ô chữ cũng có mục đích giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ,
nhưng thông qua trò chơi “Giải ô chữ”. Dạng bài tập này học sinh đã được làm quen ở
lớp 2, đã được tiếp xúc trên các từ báo dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Về cấu tạo, bài tập này
thường có hai phần: Phần ô chữ và phần lời gợi ý. Ở phần lời gợi ý, để giúp học sinh có
chỗ dựa trong việc tìm từ ngữ, phần này cung cấp nghĩa của từ (học sinh tìm từ tương
ứng với nghĩa) hoặc lời gợi dẫn rất cụ thể, sát hợp. Học sinh đọc yêu cầu của bài tập, rồi
dựa vào chữ điền mẫu và phần lời gợi ý, tìm từ cần điền ở từng dòng ngang. Hình thức
bài tập này vừa có tính trực quan, lại vừa là một trò chơi học tập, nên dễ cuốn hút học
sinh. Các từ ngữ cần tìm và cần điền vào ô chữ thường cùng nằm trong một chủ điểm,
một trường nghĩa. Do đó, tác dụng giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (theo hệ
thống) của dạng bài tập này cũng rất cao. Ví dụ, qua bài tập giải ô chữ trong tiết

Trang 69

Luyện từ và câu tuần 6, học sinh được mở rộng vốn từ về chủ điểm Trường học, với các
từ ngữ cụ thể sau: lễ khai giảng, lên lớp, sách giáo khoa, thời khóa biểu, cô giáo, giảng
bài, ra chơi, thông minh, học giỏi, lười học,...

Câu 43
Cần lưu ý những điểm gì khi dạy loại bài tập giúp học sinh lớp 3 nắm nghĩa của từ?

Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3, loại bài tập này chiếm tỷ lệ không nhiều và có cấu tạo
đơn giản
VD: Chọn nghĩa thích hợp ở cột b cho các từ ở cột a
A B
Lễ Hoạt động tập thể có cả phần lễ và phần hội.
Hội Cuộc vui tổ chức cho đông người dự theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt.
Lễ hội Các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự kiện
có ý nghĩa.

63
(Tiếng Việt, tập 2, tr.70)

Ở bài tập này, từ và nghĩa của từ đều cho sẵn, học sinh chỉ cần xác lập sự tương ứng giữa
từ và nghĩa của từ trong từng trường hợp. Đây là dạng bài tập có yêu cầu đơn giản nhất,
phù hợp với trình độ của học sinh đầu cấp Tiểu học. Ngoài tác dụng giúp học sinh nắm
nghĩa của từ, dạng bài tập này còn hình thành ở học sinh ý thức về vấn đề nghĩa của từ,
vấn đề sử dụng từ sao cho đúng nghĩa. Học sinh lần lượt thử ghép, nối từng từ với từ
nghĩa cho sẵn. Nếu có sự tương ứng, hợp lý giữa từ và nghĩa của từ thì chấp nhận được.
Sự so sánh, đối chiếu giữa các nghĩa khác nhau của các từ cho sẵn giúp học sinh nhận
biết được các nét nghĩa, các sắc thái nghĩa khác nhau trong nghĩa của từng từ.
Theo cách làm này, đối với bài tập trên, kết quả đạt được như sau:
- Lễ: Các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện có ý nghĩa.
- Hội: Cuộc vui tổ chức cho đông người dựa theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt.
- Lễ hội: Hoạt động tập thể có các phần lễ và phần hội.

Trang 70

Câu 44

Nội dung và cách dạy loại bài tập về sử dụng từ có gì đáng lưu ý ?

Sử dụng từ chính là lựa chọn từ rồi kết hợp các từ ngữ với nhau để tạo thành câu, thành
đoạn, theo những quy tắc nhất định. Trong SGK Tiếng Việt 3, các bài tập giúp HS luyện
tập sử dụng từ có hai dạng cơ bản : điền từ và thay thế từ.

a) Dạng bài tập điền từ vào chỗ trống

VD : Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống : 
– Đồng bào miền núi thường trồng lúa trên những thửa ruộng...

-  Những ngày lễ hội, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường tập trung bên... để múa
hát.

– Để tránh thú dữ, nhiều dân tộc miền núi thường làm... để ở.

– Truyện Hũ bạc của người cha là truyện cổ tích của dân tộc... 
(nhà rông, nhà sàn, Chăm, bậc thang)

(Tiếng Việt 3, tập một tr. 126)

Dạng bài tập điền từ thể hiện yêu cầu luyện tập sử dụng từ ở mức độ đơn giản. Hình thức
bài tập điền từ – trong đó cho sẵn từ cần điền (như bài tập trên) lại càng đơn giản hơn.

64
Bởi vì, ở bài tập này, mô hình câu có sẵn, từ cần lựa chọn cũng có sẵn. Tuy nhiên, hình
thức bài tập này cũng có tác dụng nhất định trong việc giúp HS rèn kĩ năng lựa chọn từ và
kết hợp từ. Về cách dạy, trước hết, GV hướng dẫn HS đọc các câu văn có chỗ trống, để
HS sơ bộ nắm nội dung của từng câu, làm cơ sở cho việc lựa chọn từ cần điền. Sau đó,
GV hướng dẫn HS lần lượt thử điển từng từ ngữ cho sẵn vào từng chỗ trống trong cầu.
Trong các từ thử điền vào chỗ trống, từ nào có sự tương hợp về nghĩa, phù hợp về quan
hệ ngữ pháp với những từ ngữ trong câu thì lựa chọn từ đó, lựa chọn phương án diễn từ
đó.

b) Dạng bài tập thay thế từ

VD : Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn có thể thay thế cho từ quê hương ở đoạn văn sau:

Tây Nguyên là quê hương của tôi. Nơi đây, tôi đã lớn lên trong địu vải thân thương của
má, trong tiếng ngân vang của dòng thác, trong hương thơm ngào ngạt của núi rừng.
(quê quán, quê cha đất tổ, đất nước, giang sơn, nơi chôn rau cắt rốn)
(Tiếng Việt 3, tập một, tr. 89)

Trang 71
Dạng bài tập này giúp HS rèn kĩ năng lựa chọn từ và kết hợp từ. Cụ thể, ở vị trí của từ
quê hương trong văn cảnh cho sẵn, HS phải lựa chọn những từ ngữ đồng nghĩa với từ quê
hương, có thể thay thế được từ quê hương (nghĩa là phải có sự tương hợp về nghĩa, phù
hợp về quan hệ ngữ pháp với những từ ngữ đứng trước và đứng sau trong chuỗi lời nói).
Ngoài ra, sự thay thế đó còn phải phù hợp về âm điệu của câu văn, không làm thay đổi
nội dung câu văn, đoạn văn. Về cách dạy, GV hướng dẫn HS lần lượt thử dùng từng từ
ngữ cho sẵn (trong ngoặc đơn) thay thế cho từ quê hương. Nếu từ ngữ nào có sự tương
hợp như đã nói ở trên thì thay thế được. Theo cách làm này, ở bài tập trên, có các từ ngữ
sau đây có thể thay thế cho từ quê hương: quê quán, quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn.

Câu 45
Các bài tập giúp học sinh phân loại, hệ thống hoá vốn từ có gì đáng lưu ý ?

Trong SGK Tiếng Việt 3 loại bài tập này chiếm tỉ lệ khoảng 10%. Một số ví dụ : 
VD1 : Xếp những từ ngữ sau vào hai nhóm : cây đa, gắn bó, dòng sông, con đò, nhớ
thương, yêu quý, mái đình, thương yêu, ngọn núi, phố phường, bùi ngùi, tự hào.

Nhóm Từ ngữ
1. Chỉ sự vật ở quê hương M : cây đa

2. Chỉ tình cảm đối với quê hương M : gắn bỏ

(Tiếng Việt 3, tập một, tr. 89)


65
VD2: Xếp các từ sau đây vào nhóm thích hợp: đất nước, dựng xây, nước nhà, giữ gìn,
non sông, gìn giữ, kiến thiết, giang sơn.

a) Những từ cùng nghĩa với Tổ quốc.

b) Những từ cùng nghĩa với bảo vệ

c) Những từ cùng nghĩa với xây dựng.

(Tiếng Việt 3, tập hai, tr17)

VD3: Chọn và xếp các từ ngữ sau vào bảng phân loại: 
bố/ ba, mẹ / má, anh cả/ anh hai, quả / trái, hoa / bông, dứa / thơm khóm, sắn/ mì, ngan/
vịt xiêm

Trang 72

Từ dụng ở miền Bắc Từ dụng ở miền Nam

(Tiếng Việt 3, tập một, tr. 107)

Các từ cho sẵn trong từng bài tập trên đều thuộc một chủ điểm (các chủ điểm Quê hương,
Tổ quốc, Bắc – Trung – Nam), cũng có nghĩa là cùng trường nghĩa, cùng hệ thống nói
cách khác là cùng liên quan tới việc biểu thị một phạm vi sự vật, hiện tượng nào đó trong
thực tế khách quan. Vì vậy, phân loại các từ này cũng chính là chia các từ ngữ thành các
trường nghĩa nhỏ hơn, thành các tiểu hệ thống. Sự phân loại này bao giờ cũng phải dựa
trên một hoặc một số tiêu chí nhất định. Tiêu chí ở đây chính là một hoặc một số nét đồng
nhất nào đó về ngữ nghĩa và phạm vi sử dụng. Cụ thể, ở bài tập trong VD1, "chỉ sự vật ở
quê hương" hoặc "chỉ tình cảm đối với quê hương" chính là những nét đồng nhất về
nghĩa của các từ. Cũng tương tự, điểm đồng nhất và nghĩa được sử dụng để phân loại các
từ trong bài tập ở VD2 là : "cùng biểu thị một sự vật, hiện tượng" (đồng nghĩa). Còn ở bài
tập trong VD3, điểm đồng nhất chính là "phạm vi sử dụng từ”.

Loại bài tập giúp HS phân loại từ ngữ nói trên phù hợp với đặc trưng về tính hệ thống của
từ vựng trong ngôn ngữ và có tác dụng rèn luyện phương pháp hệ thống, tư duy hệ thống
cho HS.

Về cách dạy, khi hướng dẫn HS phân loại từ ngữ, GV cần nắm chắc các tiêu chí phân
loại, đồng thời là cần cử, chỗ dựa phân loại. GV hướng dẫn HS sử dụng các tiêu chí này

66
để xử lí, phân loại từng từ trong các từ cho sẵn. Theo cách làm này, ở bài tập trong VD1,
ta được kết quả như sau :

- Các từ ngữ chỉ sự vật ở quê hương: cây đa, dòng sông, con đò, mái đình, ngọn núi, phố
phường

- Các từ ngữ chỉ tình cảm đối với quê hương : gắn bó, nhớ thương, yêu quên
thương yêu, bùi người tự hào,

Cũng tương tự, ở bài tập về từ địa phương trong VD3, ta có kết quả sau: 
– Từ dùng ở miền Bắc: bố, mẹ, anh cả, quả, hoa, dứa, sắn, ngan.

- Từ dùng ở miền Nam: ba, má, anh hai, trái, bông, thơm, khóm, mì, vịt xiêm

Trang 73

Câu 46
? Các bài tập về biện pháp tu từ so sánh gồm những loại nhỏ nào ? Nội dung và yêu
cầu của từng loại bài tập ấy là gì ?

Các bài tập về biện pháp tu từ so sánh gồm hai loại nhỏ : thứ nhất, loại bài tập nhận biết,
nhận diện biện pháp tu từ so sánh; thứ hai, loại bài tập bước đầu tập vận dụng, sử dụng
biện pháp tu từ so sánh vào việc dùng từ, đặt câu.

a) Bài tập nhận biết, biện pháp tu từ so sánh

SGK Tiếng Việt 3 không trực tiếp giới thiệu khái niệm so sánh (với tư cách là một biện
pháp tu từ) cho HS, mà thông qua hàng loạt bài tập, dần dần hình thành ở HS khái niệm
này. Hình thức bài tập thường là nêu ngữ liệu (câu văn, câu thơ ; đoạn văn, đoạn thơ)
trong đó có sử dụng biện pháp tu từ so sánh: yêu cầu HS chỉ ra các hình ảnh so sánh các
vật được so sánh với nhau trong các ngữ liệu ấy. Một số ví dụ:

VD1: Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu dưới đây

-Hai bàn tay em

Như hoa đầu cành

-Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.

(Tiếng Việt 3 tập một, tr. 8)

67
VD2: Tìm các hình ảnh so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây: 
 Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời.

 Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trắng lung linh dát vàng.

(Tiếng Việt 3, tập một tr. 24 – 25)

Muốn hướng dẫn HS làm loại bài tập này đảm bảo được yêu cầu chính xác, trước hết, GV
cần nắm chắc, hiểu kĩ về biện pháp tu từ so sánh.

So sánh là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác loại
nhau nhưng giống nhau ở một điểm nào đó, để hiểu rõ hơn về đối lượng được nói tới.

Trang 74

Cấu trúc đầy đủ của so sánh được thể hiện qua sơ đồ sau :

Mặt tươi như hoa


(1) (2) (3) (4)

Trong đó :

(1) Đối tượng được (bị) so sánh. 


(2) Phương diện so sánh.
(3) Từ biểu thị quan hệ so sánh (như, giống, giống như tựa, tựa như, không khác gì,
bằng, làm).
(4) Đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh.

Các cấu trúc so sánh không đầy đủ : 


– Vắng yếu tố (1). VD: Đẹp như tiên.

– Vắng yếu tố (2). VD: Trẻ em như búp trên cành.


(Hồ Chí Minh)
- Vắng yếu tố (3).
VD: Quả dừa – đàn lợn còn nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.
(Trần Đăng Khoa)

68
Tác dụng của so sánh :

Về nhận thức, qua so sánh, đối tượng nói đến được hiểu rõ hơn (thường dùng trong ngôn
ngữ khoa học).

– Về biểu cảm, hình ảnh so sánh làm tăng thêm tính biểu cảm cho câu văn (thường dùng
trong ngôn ngữ văn chương).

Khi hướng dẫn HS làm bài tập, GV có thể dựa vào mô hình cấu trúc so sánh như đã đề
cập ở phần trên để gợi ý cho HS nhận biết cấu tạo và các thành phần của so sánh trong
các trường hợp sử dụng cụ thể, trong các câu văn, câu thơ.

Trang 75

b) Bài tập bước đầu sử dụng biện pháp tu từ so sánh và việc dùng từ, đặt câu 
Một số ví dụ :
VD1: Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu có hình ảnh so sánh
các sự vật trong tranh:...
(Tiếng Việt 3, tập một, tr. 126)
VD2 : Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống: 
a) Công cha nghĩa mẹ được so sánh như…, như...
b) Trời mưa, đường đất sét trơn như …
c) Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như...
(Tiếng Việt 3, tập một tr 126)

Ở bài tập trong VD1, SGK đã cung cấp sẵn các nội dung so sánh qua các tranh vẽ từng
cặp sự vật có đặc điểm giống nhau (hoặc gần giống nhau) về hình thức. HS chỉ cần xác
định đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh ở từng cặp là gì.
Sau đó, xác lập quan hệ đối lập so sánh giữa hai đối tượng rồi đặt câu có chứa hình ảnh
so sánh ấy. Theo cách này, ta có kết quả sau :

- Cặp 1 : Trăng đêm rằm tròn như quả bóng.


– Cặp 2 : Bé cười tươi như hoa.
- Cặp 3 : Đèn điện sáng như sao trên trời.
– Cặp 4 : Đất nước ta cong cong như hình chữ S.

Nếu như ở bài tập trong VD1, sau khi đã hình thành được ý, HS phải tự tìm cấu trúc câu
thích hợp, tương ứng thì ở bài tập trong VD2, cấu trúc câu đã cho sẵn. Ở đây, các yếu tố
1, 2, 3 trong mô hình cấu trúc của so sánh đã cho sẵn. HS chỉ cần tìm yếu tố 4 trong mô
hình (đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh) để điền vào chỗ trống ấy. Dựa vào các yếu
tố đã cho sẵn, HS có thể tìm được đối tượng so sánh. Cụ thể như sau: 
- Câu (a) : Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước

69
trong nguồn chảy ra

- Câu (b) : Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ.

– Câu (c) : Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như trái núi.
Trang 76

Câu 47
? Các bài tập về biện pháp tu từ nhân hoá gồm những loại nhỏ nào ? Nội dung và
yêu cầu của từng loại bài tập ấy.
Giống như các bài tập về biện pháp tu từ so sánh, các bài tập về biện pháp tu từ nhân
hoá tũng gồm 2 loại nhỏ: bài tập nhận biết biện pháp nhân hoá và bài tập bước đầu sử
dụng biện pháp nhân hoá vào việc đặt câu, viết đoạn văn.
a) Bài tập nhận biết biện pháp tu từ nhân hoá
VD Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi :
ĐỒNG HỒ BÁO THỨC
Bác Kim giờ thận trọng
Nhích từng li, từng li
Anh Kim phút lầm lì
Đi từng bước, từng bước.
Bé Kim giây tinh nghịch
Chạy vút lên trước hàng
Ba kim cùng tới đích
Rung một hồi chuông vang.
- Trong bài thơ trên, những vật nào được nhân hoá ?
- Những vật ấy được nhân hoá bằng cách nào ?
- Em thích hình ảnh nào ? Vì sao ?
(Tiếng Việt 3, tập hai, tr. 44 45)
Trước hết, muốn hướng dẫn HS làm các bài tập thuộc loại trên đảm bảo được yêu cầu
chính xác, GV cần phải nắm chắc, hiểu kĩ về biện pháp tu từ nhân hoá.
Nhân hoá là biện pháp gán cho động vật, thực vật, đồ vật... (không phải người) những
tình cảm, đặc điểm, tính chất của con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở
nên gần gũi, sinh động.
Trên cơ sở đó, GV từng bước hình thành cho HS khái niệm nhân hoá (với tư cách là một
biện pháp tu từ). Cụ thể, ở loại bài tập trên, HS lần lượt trả lời từng câu hỏi liên quan tới
các phương diện khác nhau của phép nhân hoá. Ở từng câu hỏi, GV có thể đặt những câu
hỏi nhỏ, cụ thể hóa yêu cầu của
Trang 77
bài tập để gợi ý HS. Ví dụ, ở câu hỏi (a), có thể gợi ý : những vật nào mang đặc điểm,
tính cách như người ? Ở câu hỏi (b), có thể gợi ý : cách nhân hoá là thế nào ? (muốn gắn
cho các vật được nhân cách hoá những đặc tính như người, phải xưng gọi cho phù hợp

70
(theo cách gọi của người), phải dùng từ ngữ để tả các hoạt động như nói về con người...).
Theo cách làm này, ta được kết quả như sau:
a) Những nhân b) Cách nhân Cách nhân hóa
vật được nhân hóa
hóa
Được gọi như Đươc tả như nói về người
người
Kim giờ Bác Thận trọng, nhích từng li, tùng li
Kim phút Anh Lầm lì, đi từng bước, từng bước
Kim giây Bé Tinh nghịch, chạy vút lên trước hàng
Cả ba kim Cùng tới đích, rung một hồi chuông vang

b) Bài tập sử dụng biện pháp nhân hoá vào việc đặt câu, viết đoạn văn
VD1: Hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 4 đến 5 câu) trong đó có sử dụng phép nhân
hoá để tả bầu trời buổi sớm hoặc một vườn cây.
(Tiếng Việt 3, tập hai, tr. 127)
VD2: Đoạn thơ dưới đây tả những sự vật và con vật nào ? Cách gọi và tả chúng có gì
hay ?
Những chị lúa phất phơ bim tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò áo trắng
Khiêng nắng
Qua sông
Cô gió chăn mây trên đồng
Bác mặt trời đạp xe qua ngọn núi.
(Tiếng Việt 3, tập hai, tr. 61)
Trước hết, phải nói rằng: Sử dụng biện pháp nhân hoá vào việc dùng từ, đặt câu
không thật xa lạ đối với HS tiểu học. Trong các bài tập làm văn (nhất là văn miêu tả),
các em đã ít nhiều sử dụng biện pháp nhân hoá. Do đó, khi làm các bài tập thuộc loại
này, HS không bỡ ngỡ. Ở bài tập trong VD1, cái khó
Trang 78
đối với HS là việc tìm ý và sắp xếp ý cho đoạn văn (thành dàn ý đoạn) rồi chuyển hoá,
phát triển dàn ý đó thành đoạn văn hoàn chỉnh (trong đoạn Văn có sử dụng phép nhân
hoá). Còn ở bài tập trong VD2, theo yêu cầu của bài tập, HS lần lượt trả lời từng câu hỏi
để tìm ra những sự vật, con vật được nhân hoá. Sau đó, HS nêu nhận xét về giá trị, tác
dụng của phép nhân hoá được sử dụng trong đoạn thơ.

Những bài tập ứng dụng như trên nếu được luyện tập nhiều thì kĩ năng sử dụng phép
nhân hoá trong bài tập làm văn viết của HS sẽ được nâng lên, năng lực sử dụng tiếng Việt
nói chung của các em cũng sẽ được phát triển.
D- LỚP 4
Câu 48
? Xung quanh các khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy có gì đáng lưu ý?
71
Ở đây có hai điều cần lưu ý: Thứ nhất, nội dung của các khái niệm trên (từ đơn, từ ghép,
từ láy) gắn với những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu, cho nên cách giới
thuyết nội dung khái niệm, cách định nghĩa khái niệm giữa các tác giả ít nhiều có khác
nhau thứ hai, các khái niệm (đồng thời là các đơn vị kiến thức) trên (từ đơn, từ ghép, từ
láy) được bố trí dạy ở Tiểu học và Trung học có tính chất đồng tâm. Vì vậy, ở Tiểu học,
người ta chỉ nêu nội dung của từng khái niệm trên ở một mức độ nhất định, có tính chất
sơ giản, ban đầu, phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học.
a) Từ đơn
Như đã nói, có một số quan niệm khác nhau trong giới chuyên môn về nội dung của
khái niệm "từ đơn" trong tiếng Việt. Giáo trình đào tạo GV tiểu học ở trường sư phạm
thì giới thuyết: Từ đơn là những từ do một hình vị tạo nên. Đa số từ đơn tiếng Việt là
từ đơn âm (VD: sông, núi, đi, chạy, xấu, đẹp,...). Từ đơn đa âm có thể là từ thuần Việt
(VD: bồ kết, tắc kè, chèo bẻo, ễnh ương,...), cũng có thể là từ vay mượn (VD: mì
chính, xà phòng, mít tinh, căng tin...). SGK Tiếng Việt 4 định nghĩa vể từ đơn như
sau: "Từ chỉ gồm một tiếng là từ đơn". Như vậy, từ đơn theo quan niệm của sách giáo
khoa tiểu học là từ chỉ gồm một tiếng. Từ nhiều tiếng (từ đa âm) không thuộc phạm vi
từ đơn.

Trang 79
b) Từ ghép
Những từ do hai hoặc hơn hai tiếng có nghĩa ghép lại tạo thành, gọi là từ ghép. VD:
quần + áo = quần áo
sách + vở = sách vở
xe + đạp = xe đạp
hoa + hồng = hoa hồng
Như vậy, quan hệ giữa các tiếng trong từ ghép là quan hệ về nghĩa.
SGK Tiếng Việt 4 định nghĩa từ ghép như sau: "Ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó
là các từ ghép". Định nghĩa trên nhấn mạnh phương thức tạo từ ở đây là phương thức
"ghép" (để phân biệt với phương thức tạo từ trong từ láy là phương thức "láy"). Cách
diễn đạt trong định nghĩa trên giúp HS tiểu học dễ lĩnh hội nội dung khái niệm và dễ vận
dụng vào việc nhận biết các từ ghép trong văn bản. Nhưng mặt hạn chế của định nghĩa
trên là đối với những từ ghép chứa tiếng không xác định được nghĩa (VD: tre pheo, dưa
hấu, bếp núc,...), GV rất khó giải thích cho HS.
c) Từ láy
Từ láy là từ do hai hoặc hơn hai tiếng có quan hệ với nhau về âm thanh tạo thành. Trong
từ láy thường có một tiếng có nghĩa và một tiếng láy lại.
VD: lạnh → lạnh lùng, lạnh lẽo...
nhỏ → nhỏ nhắn, nhỏ nhoi, nhỏ nhẻ, nhỏ nhen...
rối → bối rối...
Nếu như các tiếng trong từ ghép có quan hệ về nghĩa thì các tiếng trong từ láy có quan hệ
về âm. Trong từ láy có thể xác định dược tiếng gốc (tiếng có nghĩa) và tiếng láy (láy lại
toàn bộ hoặc bộ phận hình thức âm thanh của tiếng gốc).

72
SGK Tiếng Việt 4 định nghĩa về từ láy : "Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc
cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là các từ láy. " Định nghĩa này chưa nói rõ cơ chế tạo
từ trong từ láy là cơ chế "láy lại toàn bộ hoặc bộ phận hình thức âm thanh của tiếng gốc",
nhưng đã nhấn mạnh các dấu hiệu hình thức của từ láy, giúp HS tiểu học dễ dàng nhận
biết được từ láy trong văn bản.

Trang 80
Câu 49
? Nên giải thích cho học sinh tiểu học những từ dưới đậy là từ đơn hay từ
ghép:
- bù nhìn, bổ kết, bổ hóng, mặc cả,... (từ thuần Việt).
-xà phòng, cà phê, ra đi ô, mít tinh, căng tin,... (từ vay mượn).
Đối chiếu với định nghĩa về từ đơn tiếng Việt trong SGK Tiếng Việt 4, có thể khẳng định
các từ trên không phải là từ đơn, bởi vì mỗi từ đều có hơn 1 tiếng (2 hoặc 3 tiếng). Nhưng
các từ này cũng không phải là từ ghép bình thường, vì các tiếng trong từ không có nghĩa
và quan hệ giữa các tiếng trong mỗi từ không phải là quan hệ về nghĩa. Những từ này
cũng không phải là từ láy, bởi vì quan hệ giữa các tiếng trong mỗi từ không phải là quan
hệ về âm. Vậy có thể xếp chúng vào loại từ nào trong bảng phân loại cấu tạo từ tiếng
Việt, theo cách phân loại của SGK Tiếng Việt 4 ? Để trả lời câu hỏi này, GV có thể nói
với HS như sau Các từ này không phải là từ đơn, không phải từ láy, mà là một loại từ
phức đặc biệt, các em sẽ học sau.
Câu 50
? Có phải trong SGK Tiếng Việt 4 (phân môn Luyện từ và câu), các tác giả phân từ
láy tiếng Việt thành 3 kiểu Từ láy âm đầu; Từ láy vần; Từ láy cả âm đầu và vần mà
không phải là 4 kiểu như ở SGK Tiếng Việt 5 CCGD hay không ? Xin cho biết vì
sao tác giả SGK mới lại phân loại như vậy ?
Trước hết cần nhận thấy sự khác biệt giữa SGK Tiếng Việt 5 CCGD và SGK Tiếng Việt
4 (chương trình Tiểu học mới) khi đề cập đến vấn đề từ láy. SGK Tiếng Việt 5 CCGD
(trong mục Bài học) chủ trương phân loại từ láy tiếng Việt thành các kiểu và các dạng.
Theo đó, trong tiếng Việt có 4 kiểu từ láy:
- Láy tiếng cả tiếng được láy (lặp) lại. VD ngời ngời, xinh xinh,...
- Láy âm bộ phận phụ âm đầu được láy lại. VD khó khăn, đỡ đần,...
- Láy vần bộ phận vần được láy lại. VD bồn chồn, lẩm bẩm,...
Láy cả âm và vần bộ phận phụ âm đầu và bộ phận vần được láy lại. VD: ngoan ngoãn,
dửng dưng,...
Trang 81
Đồng thời, căn cứ vào số lượng tiếng trong từ láy, SGK Tiếng Việt 5 CCGD chia từ láy
tiếng Việt thành 3 dạng : láy đổi, láy ba, láy tư. Trong khi đó, SGK Tiếng Việt 4 mới
không nhắc tới việc phân loại các kiểu từ láy như là một đơn vị kiến thức lí thuyết trong
mục Ghi nhớ, mà chỉ nói "thoáng qua" trong bài tập 3, ở bài Luyện tập về từ ghép và từ
láy (Tiếng Việt 4, tập một, tr. 44). Bài tập này yêu cầu HS xếp các từ láy tìm được trong
đoạn văn vào 3 nhóm:
- Từ láy có hai tiếng giống nhau ở âm đầu. VD : nhút nhát

73
- Từ láy có hai tiếng giống nhau ở vấn. VD : lạt xạt, lao xao
- Từ láy có hai tiếng giống nhau ở cả âm đầu và vån. VD: rào rào
Ở đây, cần lưu ý là : Việc phân từ láy thành 3 nhóm, 3 kiểu chỉ gắn với các từ láy cụ thể
trong đoạn văn ở bài tập này, chưa phải là sư khái quát có tính lí thuyết. Bởi vì các dạng
từ láy ba, láy tư chưa được để cập đến. Do đó, GV cũng không cần thiết phải nói với HS :
trong tiếng Việt có 3 hay 4 kiểu từ láy, như SGK Tiếng Việt 5 CCGD đã trình bày.
Nhìn chung lai, trong tiếng Việt có mấy kiểu từ láy cơ bản sau : từ láy toàn bộ (VD : xa
xa, xanh xanh...), từ láy bộ phận (gồm từ láy âm VD : đẹp đẽ, nhỏ nhắn, sạch sành
sanh,.. và từ láy vần – VD : bối rối, bốn chồn,...). Còn kiểu từ láy cả âm và vần mà SGK
Tiếng Việt 5 CCGD nêu ra, thực chất chỉ là dang biến thể của từ láy toàn bộ (VD : đo đỏ,
nhè nhẹ,...).
Câu 51
(?) Một số từ trong đó có hai tiếng vừa có quan hệ về nghĩa, vừa có quan hệ về âm như:
tươi tốt, đi đứng, buôn bản, mặt mai, hốt hoảng, nhỏ nhẹ,. thì xếp vào từ ghép hay từ
láy ?
(:) Các tiếng trong mỗi từ trên đều có nghĩa từ vựng, quan hệ giữa các tiếng trong từng từ
là quan hệ về nghĩa, cho nên các từ trên là từ ghép (từ ghép hợp nghĩa, còn gọi là từ ghép
có nghĩa tổng hợp). Các từ ghép này có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống từ láy.
Những đặc điểm về hình thức ngữ âm của các từ này không liên quan gì đến bản chất cấu
tạo từ, giá trị cấu tạo từ của chúng.
Trang 82
Câu 52
(?) Những từ sau là từ ghép hay từ láy : bạn bè , cây cối , máy móc , đất đai , chùa
chiền , tuổi tác , gậy gộc , mùa màng , chim chóc , thật thà , ... ?
(:) Lâu nay tồn tại những cách hiểu khác nhau về bản chất cấu tạo từ của các từ này . Có
người cho rằng , nếu nhìn nhận các từ này dưới góc độ lịch đại và nhấn mạnh những đặc
trưng ngữ nghĩa của chúng thì có thể coi đây là những từ ghép ( từ ghép có nghĩa tổng
hợp ) . Nhưng dưới góc độ đồng đại mạnh vào mối quan hệ ngữ âm giữa hai tiếng trong
từng từ , ta có thể coi những từ này là từ láy có nghĩa khái quát .
Tóm lại , trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt , nếu gặp các từ trên hoặc các từ cùng
loại với các từ trên , GV có thể nói với HS : đây là từ láy có nghĩa khái quát .
Câu 53
(?) Nếu gặp các từ như : đem đẹp , tôn tốt , khang khác , thỉnh thích , chênh chếch ,
thoăn thoát , ... thì giải thích cho học sinh tiểu học là từ láy âm ( láy phụ âm đầu )
hay là biến thể của từ láy tiếng ( lấy toàn bộ tiếng ) ?
(:) Có tài liệu cho rằng các từ trên là từ láy tiếng ( còn gọi là từ láy toàn bộ ) , nhưng có
biến đổi phụ âm cuối và thanh điệu ở tiếng đứng trước . Cụ thể , dạng đầy đủ và dạng đã
biến đổi của từng từ là :
đẹp đẹp → đèm đẹp
tốt tốt → tôn tốt
khát khác → khang khác
thích thích → thinh thích
Quy luật biến đổi diễn ra như sau :

74
+ Về phụ âm cuối:
p→m
t → ng
c → ng
ch →nh
Các phụ âm cuối có cùng đặc trưng về bộ phận cấu âm ( VD : môi – môi ;
đầu lưỡi – răng; cuối lưỡi ... ) sẽ hoán vị cho nhau ( VD : p biến đổi thành m; t biến đổi
thành n ... ) .
Trang 83
+ Về thanh điệu : Chuyển từ hai thanh điệu lặp lại nhau ( đẹp đẹp , tốt tốt ... ) sang hai
thanh điệu cùng nhóm : sắc - hỏi - ngang ; huyển - ngã - nặng đèn đẹp , tôn tốt... ) .
Ở Tiểu học , nên có cách nhìn nhận , xử lí các từ nói trên theo cách khác . Cụ thể , đối
chiếu các từ trên với định nghĩa về từ láy và các kiểu từ láy trong SGK tiểu học , ta có thể
yên tâm xếp các từ này vào kiểu từ láy âm ( láy phụ âm đầu ) . Cách xử lí này có tính tới
đặc trưng về tính trực quan trong tư duy của HS tiểu học . Cách xử lí này giúp các em dễ
nhận biết , dễ phân loại các từ lấy nói trên .
Câu 54
(?) Các từ cong queo , cuống quýt , công kênh , cập kênh , cặp kèm , cặn kẽ , cò
kè , ... có phải là từ láy hay không ?
(:) Khi nhận biết , nhận diện từ láy , ta dễ bị hình thức chữ viết của từ " đánh lừa” Ví dụ ,
ta có thể cho rằng những từ trên không phải là từ láy , vì thoạt nhìn trong hình thức ngữ
âm - chữ viết của từ , không có bộ phận nào được láy lại . Sự thực , chúng là những từ láy
âm ( phụ âm đầu " cờ " được lặp lại , lấy lại , được ghi bằng những chữ cái khác nhau -
chữ cái " e " , " k " và " q )
Khi hướng dẫn HS tiểu học nhận biết các từ láy trên , GV có thể diễn giải như sau : Ta
biết phụ âm đầu " cờ " trong tiếng Việt được ghi bằng 3 chữ cái : " e " , " k " , " q " ( có
thể nói cụ thể luật chính tả này ) . Các tiếng trong từng từ nói trên mở đầu bằng " c " , " k
" , " q " , như vậy có thể kết luận : đây là từ láy phụ âm đầu " cờ " ( từ láy âm ) .
Câu 55
(?) Các từ như : bình minh , cần mẫn , chí khí , tham lam bao biện , bảo bối , ban bố , căn
cơ , hoan hỉ , hào hiệp , hào hoa , hào hùng , hào hứng , hữu hạn , hữu hình , ... có phải là
từ láy không ?
(:) Các từ trên thoạt nhìn có hình thức ngữ âm giống từ láy : từ láy âm ( VD : bao biện ,
bảo bối , hoan hỉ , hào hiệp ... ) và từ láy vần ( bình minh , cần mẫn , chí khí , tham lam ...
) . Nhưng sự thực chúng là những từ ghép Hán - Việt có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên
giống từ láy . Các tiếng trong từng từ này đều có nghĩa
VD : ban bố → ban nghĩa là " ban hành " ; bố : " công bố " .
Trang 84
- căn cơ → căn : " gốc rễ " ; cơ : " nền móng " .
- hoan hỉ → hoan : " vui " ; hỉ : " mừng "
Quan hệ giữa các tiếng trong từng từ trên là quan hệ về nghĩa . Các từ này cũng có thể
được " lưỡng phân thành các từ ghép hợp nghĩa ( từ ghép có nghĩ tổng hợp ) , như : ban

75
bố , căn cơ , hoan hỉ , cần mẫn và các từ ghép phân nghĩa ( từ ghép có nghĩa phân loại ) ,
như : bình minh , hữu hạn , hiệu hình ...
Có thể liệt kê khá nhiều các từ ghép Hán - Việt có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống từ
láy , như : bài bản , bộ binh , chuyên chính , chỉ lí , chính chuyên , công cán , gian giao ,
hành hạ , hân hoan , hảo hán , hảo hạng , khắc khổ , khẩn khoản , lai lịch , thành thật .
GV tiểu học cần lưu ý hiện tượng trên để tránh được những nhầm lẫn có thể xảy ra trong
quá trình giảng dạy .
Câu 56
(?) Vì sao lại coi các từ êm ái , êm ả ấm áp , ấm ức , ốm a , ấm , óc sách , inh ỏi , ... là
từ láy ?
(:) Trong tiếng Việt , có một số từ mà các tiếng ( âm tiết ) trong từng từ được biểu hiện
trên chữ viết không có phụ âm đầu . Một số ví dụ
a ) ồn ã , ấm áp , ép uổng , êm ái , im ắng , ế ẩm , êm ả , ít ỏi , oằn oại , oi ả , ôm 0 , yên
ả , ao ước ấm ức , ô ép , ... ( những từ xác định được tiếng gốc ) .
b ) ấp úng , to gr , eo , oái oăm , ốc ác , ỏn ẻn , õng ẹo , ỡm ờ , âm oẹ , ánh ỏi ... (những từ
không xác định được tiếng gốc ) .
Thoạt nhìn và đối chiếu với định nghĩa về từ láy trong SGK Tiếng Việt 4 , tập một , tr
39 , ta có thể nghĩ rằng các từ trên không phải là từ láy . Nhưng nếu quan sát kĩ , ta thấy
các từ trên đều giống nhau về hình thức ngữ âm : ở các tiếng trong từng từ cùng vắng
khuyết phụ âm đầu . Bên cạnh đó , đặc trưng ngữ nghĩa của những từ này cũng gần giống
với đặc trưng ngữ nghĩa nói chung của từ láy . Vì vậy , một số nhà chuyên môn cho rằng
những từ này cũng là từ láy ( trong đó , các từ thuộc nhóm a mang nhiều đặc trưng của từ
láy hơn các từ thuộc nhóm b ) . Về các tiếng ( âm tiết ) được biểu hiện trên chữ viết
không có phụ âm đầu trong các từ trên , giữa các nhà nghiên cứu tiếng Việt hiện có hai ý
kiến . Có ý kiến cho rằng ở vị trí đầu mổi tiếng , tồn tại một phụ âm tắc - thanh hầu
phương thức phát âm phụ âm này là phương thức tắt ; bộ phận tham gia câu
Trang 85
âm là thanh hầu ) , nhưng phụ âm đó không được biểu hiện trên chữ viết ( giống như
trong sấu thành điệu tiếng Việt , có một thanh không dấu gọi là thanh ngang). Ý kiến kia
lại cho rằng ở vị trí này của tiếng ( âm tiết ) , không có phụ âm đầu.
Tóm lại , cả hai cách hiểu đều cho rằng những từ được liệt kê ở trên đểu là từ láy Nếu
phải giải thích cho HS tiểu học , GV có thể nói : Đây là các từ láy Phương là từ láy đặc
biệt ( đặc biệt ở chỗ : nó không giống các từ láy bình thường về hình thức ngữ âm ) .
Câu 57
(?) Bàng cách nào để vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản ( bài văn , bài thơ , .. )
được chính xác ? Khi vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản , ta dựa trên cơ sở nào để
nhận biết một tổ hợp là từ ghép hay kết hợp hai từ đơn ? a ) Muốn xác định , nhận biết
được từ , nói cách khác , muốn vạch ranh giới giữa các từ trong văn bản ( bài văn , bài
thơ ... ) , ta phải dựa vào định nghĩa về từ trong SGK : " Từ có nghĩa và dùng để đặt câu "
hoặc nói cụ thể hơn : " Từ là tiếng ( hoặc các tiếng kết hợp với nhau ) có nghĩa , dùng để
đặt câu " . Từ đó , ta đối chiếu với các tiếng trong một chuỗi lời nói ( văn bản ) , xem
tiếng ( hoặc tập hợp tiếng ) nào mang những đặc trưng cơ bản của từ ( có nghĩa chung ,

76
có chức năng tạo câu ) thì khẳng định đó là từ ( có thể sở một số dọc sau mỗi từ , để vạch
ranh giới giữa các từ trong câu , trong văn bản ) .
b ) Khi vạch ranh giới từ trong văn bản , ta thường gặp những tổ hợp tiềm tàng hai cách
hiểu : là một từ ( từ ghép ) hoặc kết hợp gồm hai từ đơn . Ví dụ , trong các câu sau :
" Chú chuồn chuồn nước tung cánh bay vọt lên . Cái bóng chú nhỏ xíu lướt nhanh trên
mặt hồ . Mặt hổ trải rộng mênh mông và lặng sóng " ...
( Con chuồn chuồn nước – Nguyễn Thế Hội )
Các tổ hợp : chuồn chuồn nước , tung cánh , lướt nhanh , mặt hồ , trải rộng , lặng sóng ...
tiềm tàng hai cách hiểu , như đã nói ở trên . Muốn biết được tổ hợp nào đó là một từ ghép
hay kết hợp hai từ đơn , ta lần lượt xem xét tổ hợp ấy về hai phương diện : kết cấu và
nghĩa .
Cụ thể , về mặt kết cấu , nếu quan hệ giữa các yếu tố trong tổ hợp mà lỏng lẻo, dễ tách
rời , có thể chêm xen một yếu tố khác từ bên ngoài vào mà nghĩa của tổ hợp về cơ bản
không thay đổi ... thì tổ hợp ấy là hai từ đơn . Ngược lại ,
Trang 86
nếu mối quan hệ giữa các yếu tố trong tổ hợp chặt chẽ, khó có thể tách rời, tạo thành một
khối vững chắc, mang tính cố định, ổn định… thì tổ hợp ấy là một từ ghép. Ví dụ, trong
các tổ hợp đã được đề cập tới ở trên, các tổ hợp: chuồn chuồn nước, mặt hồ, lặng sóng
được coi là có quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành; còn trong các tổ hợp: tung
cánh, lướt nhanh, trải rộng, mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành ít nhiều lỏng lẻo, dễ
tách rời. Như vậy, các tổ hợp chuồn chuồn nước, mặt hồ, lặng sóng mang nhiều đặc trưng
của từ ghép (mỗi tổ hợp là một từ ghép), còn các tổ hợp: tung cánh, lướt nhanh, trải rộng
mang nhiều đặc trưng của cụm từ tự do (mỗi tổ hợp gồm hai từ đơn).
Về mặt nghĩa, nếu tổ hợp đó gọi tên, định danh một sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan, biểu đạt một khái niệm (về sự vật, hiện tượng)… thì tổ hợp là một từ ghép.
Ngược lại, nếu tổ hợp ấy gọi tên, định danh hai hay nhiều sự vật, hiện tượng, biểu đạt
nhiều khái niệm (về sự vật, hiện tượng) thì tổ hợp ấy là sự kết hợp của hai hay nhiều từ
đơn. Ví dụ, về mặt nghĩa, các tổ hợp thuộc nhóm thứ nhất (chuồn chuồn nước…) mang
nhiều đặc trưng của từ ghép (mỗi tổ hợp có một nghĩa chung, thống nhất, là tên gọi của
một sự vật, hiện tượng), còn các tổ hợp thuộc nhóm thứ hai (tung cánh…) mang nhiều
đặc trưng của kết hợp hai từ đơn.
Chú ý: Có những tổ hợp mang tính chất trung gian, nghĩa là nó mang đặc điểm của cả hai
loại (từ ghép và cụm từ tự do). Lại có những tổ hợp mang nhiều đặc điểm của loại này,
nghiêng về, thiên về loại này mà mang ít đặc điểm của loại khác. Tùy từng trường hợp cụ
thể, ta có thể kết luận tổ hợp này haowjc tổ hợp kia thiên về từ ghép (một từ) hay thiên về
cụm từ tự do (nhiều từ).
Tóm lại, đối với các tổ hợp có tính “lưỡng khả” (hai khả năng, hai cách hiểu) như đã nói
ở trên, nếu ta xử lí một cách thỏa đáng, có cơ sở khoa học, thì việc xác định, nhận biết từ,
cũng chính là việc vạch ranh giới từ trong văn bản, sẽ diễn ra một cahs thuận lợi, dễ dàng
và kết quả đạt được sẽ chính xác.
Câu 58
Từ và cụm từ khác nhau thế nào?
a) Giới thiệu một số khái niệm

77
- Từ trong sự so sánh với cụm từ phải là từ phức (từ gồm hai tiếng trở lên), chứ không thể
là từ đơn (từ chỉ gồm một tiếng). Từ phức trong sự so sánh với cụm từ phải là từ ghép
(gồm hai tiếng trở lên ghép với nhau, giữa các
Trang 87
tiếng có quan hệ về nghĩa), chứ không thể là từ láy (từ được hình thành bằng cách láy lại,
điệp lại tiếng gốc, giữa các tiếng có quan hệ về âm). Như vậy, khái niệm từ được nói tới ở
đây, được so sánh, phân biệt với cụm từ, chính là các từ ghép.
- Cụm từ là tổ hợp từ do hai từ trở lên kết hợp với nhau. Tùy theo tính chất kết hợp các
yếu tố trọng cụm từ, người ta chia cụm từ thanh hai loại:
+ Cụm từ tự do là cụm từ trong đó quan hệ giữa các yếu tố cấu thành khá lỏng, lẻo, dễ
tách rời (về kết cấu); nghĩa cụm từ bằng tổng số nghĩa của các yếu tố cấu thành (về
nghĩa). Dựa vào từ loại của từ làm trung tâm trong cụm từ, người ta phân cụm từ tự do
thành ba loại nhỏ: cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Một số ví dụ: những học sinh
ấy; mảnh vườn do lớp 5A trông nom (cụm danh từ); đang học bài, đã ăn xong (cụm động
từ); rất đẹp, đẹp vô cùng (cụm tính từ)…
+ Cụm từ cố định là cụm từ được dùng lặp đi lặp lại nhiều lần với một ý nghĩa và một
hình thức nhất định; trong đó quan hệ giữa các yếu tố cấu thành có tính cố định, ổn định,
khó tách rời (về kết cấu); nghĩa của cụm từ không phải là phép cộng đơn thuần nghĩa của
các yếu tố cấu thành, mà có tính chất mới, tính thống nhất, tính hình tượng (về nghĩa).
Cụm từ cố định gồm thành ngữ và quán ngữ. Một số ví dụ: mẹ tròn con vuông, cứng đầu
cứng cổ, nước đổ lá khoai, vui ra phết…
b) Phân biệt từ ghép với cụm từ
- Phân biệt từ ghép với cụm từ tự do
Về kết cấu, từ ghép có tính chất cố định, ổn định, bất biến; còn cụm danh từ tự do không
có tính chất cố định, quan hệ giữa các yếu tố cấu thành lỏng lẻo, dễ tách rời. Về nghĩa, từ
ghép gọi tên một sự vật, hiện tượng, biểu thị một khái niệm; nghĩa của từ ghép có tính
chất mới, không phải là tổng số nghĩa của các yếu tố cấu thành. Trong khi đó, nghĩa của
cụm từ tự do không có tính chất mới, là phép cộng của nghĩa của các yếu tố cấu thành.
Từ ghép là đơn vị từ vựng, mang tính chất có sẵn, dùng chung, có tính tái hieenh, tính xã
hội, được ghi lại trong từ điển. Ngược lại, cụm từ tự do không phải là đơn vị từ vựng,
không có sẵn, chỉ được hình thành khi nhu cầu giao tiếp nảy sinh, không mang tính tái
hiện, chỉ tồn tại nhất thời trong một văn cảnh cụ thể nào đó mang dấu ấn cá nhân và
không được ghi lại trong từ điển. Để có cơ sở so sánh, dưới đây, xin dẫn một số ví dụ:
Trang 88
+ Từ ghép: máy bay, mặt trời, xe đạp, đất nước, nhà cửa, cây cối, ruột thịt, gan dạ,…
+ Cụm từ tự do: những chú gà con đáng yêu ấy; đang viết thư; đẹp tuyệt vời…
- Phân biệt từ ghép với cụm từ cố định
Tưf ghép và cụm từ cố định đều là đơn vị từ vựng, mang tính có sẵn, tính dùng chung,
tính xã hội; có tính cố định về kết cấu, tính thống nhất về nghĩa… Nhưng giữa chúng vẫn
có những điểm khác nhau. Về kết cấu, từ ghép chỉ là đơn vị từ, nhưng cụm từ cố định có
cấu trúc cụm từ, cấu trúc câu (kết cấu chủ - vị). Về ý nghĩa và giá trị biểu đạt, cụm từ cố
định có tính hình tượng (nhất là các thành ngữ), làm cho câu văn thêm bóng bẩy, có sức
gợi tả, gợi cảm cao.

78
Câu 59
Một số từ láy như: đẹp đẽ, xinh xắn, may mắn, lạnh lùng… không có nghĩa “giảm nhẹ”
hoặc “mạnh hơn” so với nghĩa của tiếng gốc. Vậy nghiax của những từ láy này có đặc
trưng như thế nào? Từ láy có đặc trung chung về nghĩa như thế nào?
Đặc trung về nghĩa của từ láy là được hình thành từ nghĩa của tiếng gốc. Nhưng từ láy có
nhiều sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cmar tinh tế khác với tiếng gốc. So với nghĩa của
tiếng gốc, nghĩa của từ láy xác định hơn, gợi tả hơn, có giá trị biểu hiện, biểu cảm cao
hơn. Ví dụ, từ một tiếng gốc “nhỏ”, ta có thể tạo ra một số từ láy với những sắc thái ý
nghĩa, sắc thái biểu cảm rất khác nhau, như:
+ nho nhỏ: hơi nhỏ.
+ nhỏ nhắn: (vóc dáng) nhỏ và cân đối, dễ thương.
+ nhỏ nhặt: nhỏ bé, vụn vặt không đáng chú ý.
+ nhỏ nhen: đối xử hẹp hòi, chú ý đến cả những việc nhỏ nhặt.
+ nhỏ nhoi: nhỏ bé, ít ỏi, mỏng manh và yếu ớt.
Nghĩa của các từ láy: đẹp đẽ, xinh xắn, may mắn, lạnh lùng nói trên cũng có những đặc
trưng như vậy. Các từ láy này có những sắc thái nghĩa riêng so với nghĩa của tiếng gốc
(đẹp, xinh, may, lạnh).
Trang 89
Ở đây có điều cần lưu ý là nghĩa của từ láy rất phong phú, đa dạng, nhiều màu vẻ mà
dạng giảm nhẹ hoặc mạnh hơn (so với nghĩa của tiếng gốc) chỉ là hai dạng cơ bản trong
sự phong phú, đa dạng ấy. Nói cách khác, ngoài hai dạng giảm nhẹ và mạnh hơn (so với
nghĩa của tiếng gốc), nghĩa của từ láy còn có những dạng khác, được hình thành theo
những hướng khác, từ nghĩa của tiếng gốc. Vì vậy, khi dạy về nghĩa của từ láy cho HS,
nếu GV cứ quy nghĩa của tất cả các từ láy vào một trong hai dạng giảm nhẹ hoặc mạnh
hơn (so với nghĩa của tiếng gốc) thì sẽ khó tránh được sự máy móc, cứng nhắc, khiên
cưỡng và hình thành ở HS một nhậc thức không đầy đủ rằng: nghĩa của từ láy chỉ có hai
dạng ấy mà thôi.
Chú ý: Đối với các từ láy không xác định được tiếng gốc (VD: lững thững, thướt tha, nhí
nhảnh, đủng đỉnh, bâng khuâng, thì thào, khúc khích…), đặc trưng chung về nghĩa của
những từ này cũng vẫn là tính chất cụ thể, xác định gợi tả và gợi cảm.
Câu 60:
Có phải từ tượng thanh, từ tượng hình nào cũng là từ láy không?
Phần lớn từ tượng thanh, tượng hình là từ láy (VD: thì thào,the thé, khúc khích, lách
cách, loảng xoảng; lom khom, thướt tha, bệ vệ, đủng đỉnh, chót vót, ngoằn ngoèo,…)
nhưng không phải tất cả từ tượng thanh, tượng hình đều là từ láy. Từ tượng thanh, từ
tượng hình là tư đơn (từ 1 tiếng) có thể dẫn ra khá nhiều. VD:
- Từ tượng thanh:
+ ầm: tiếng động to và rền (Cây đổ ầm một cái).
+ đoàng: tiếng nổ to, đanh và gọn (Đoàng, một tiếng súng nổ dội lại).
+ đùng: tiếng nổ to, đanh và gọn (Pháo nổ đùng).
+ rầm: tiếng động to, rền, làm rung chuyển cả xung quanh (Đổ đánh rầm một cái).
+ cốc: tiếng gõ mõ (Mõ thảm không thua mà cũng cốc).
+ boong: tiếng chuông ngân (Chuông sầu không đánh cũng kêu boong).

79
+ veo: tiếng phát ra của một vật nhỏ bay vút ngang qua bên cạnh (Viên đạn sượt qua tai,
nghe veo một cái).
+ vèo: tiếng một vật lướt qua rất nhanh (Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo).
Trang 90
- Từ tượng hình:
+ eo: thắt nhỏ dần ở quãng giữa (Quả bần eo; Lưng eo; Eo biển).
+ oằn: trạng thái cong xuống vì phải chịu một lực quá lớn (Cành cây trĩu quả oằn xuống).
+ quằn: trạng thái cong xuống do bị đề quá nặng (Thân cây sầu riêng thiếu cái dáng cong,
dáng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn).
+ khoằm: hơi cong và quặp vào (Mũi khoằm; Bẻ khoằm lại).
+ quăn: trạng thái bị cong hay bị cuộn lại không thẳng (Mũi dùi bị quăn; Vở quăn mép;
Tóc quăn).
+ quắp: co, gập vào để ôm, giữ cho chặt (Quắp chặt miếng mồi).
+ quặp: co, gập vào để giữ chặt (Chân quặp chặt cành cây).
Câu 61:
Từ loại là gì? Sự phân loại các từ thành từ đơn, từ ghép, từ láy có phải là từ loại không?
Từ loại là các loại từ phân chia về mặt ngữ pháp. Nói cách khác, phân loại các từ về mặt
ngữ pháp, ta được các từ loại.
Hệ thống từ loại tiếng Việt theo đa số các nhà nghiên cứu, gồm 8 từ loại:
- Các từ loại cơ bản: Danh từ, Động từ, Tính từ.
- Các từ loại không cơ bản: Phụ từ, Quan hệ từ, Tình thái từ.
- Các từ loại trung gian: Số từ, Đại từ (Từ loại trung gian mang cả đặc trưng của từ loại
cơ bản và từ loại không cơ bản).
Từ loại cơ bản có những đặc trưng sau: có nghĩa từ vựng, có khả năng làm thành tố trung
tâm trong cụm từ, có khả năng làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu. Còn các từ loại không cơ
bản có những đặc trưng gần như ngược lại với các đặc trưng nói trên.
Để phân chia từ tiếng Việt thành các từ loại, người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn
sau:
- “Ý nghĩa khái quát” của từ.
- “Khả năng kết hợp” của từ với các từ khác.
- “Khả năng đảm nhiệm các chức vụ cú pháp” của từ trong câu.
Trang 91
VD: Những từ như: sông, núi, sách, vở… có ý nghĩa khái quát chỉ “sự vật”; có khả năng
kết hợp với số từ ở đằng trước nó, kết hợp với các từ chỉ định như: này, kia, ấy, đó…ở
đằng sau nó; có thể đảm nhiệm chức vụ cú pháp ‘chủ ngữ” trong câu. Những từ này được
gọi là từ loại danh từ. do đó, sự phân loại các từ thành đơn từ, từ ghép, từ láy không phải
là từ loại, mà đó là sự phân loại cấu tạo từ. Từ đơn, từ ghép, từ láy là các loại từ xét về
mặt cấu tạo.
Như vậy, sự phân loại các từ thành dộng từ, danh từ, tính từ… và sự phân loại các từ
thành từ đơn, từ ghép, từ láy đều là hoạt động phân loại các từ tiếng việt nhưng xuất phát
từ mục đích phân loại khác nhau, dựa trên những tiêu chuẩn phân loại khác nhau và cuối
cùng, ta có các kết quả phân loại khác nhau. Từ đơn, từ ghép, từ láy là sản phẩm, là kết
quả của phân loại các từ về phương diện cấu tạo.

80
Câu 62
(?) Dựa vào dấu hiệu hình thức nào để phân biệt hai loại tính từ: xanh, đỏ, dài, ngắn, tốt,
xấu … và xanh biếc, gầy nhom, to bự…
(:) Dấu hiệ hình thức cụ thể từ đó có thể dễ dàng phân biệt, nhận biết hai loại tính từ trên
đó là:
(1) Các tính từ như: xanh, đỏ, dài, ngắn, tốt, xấu…có thể kết hợp được với các từ chỉ
mức độ như: rất, hơi, khí, lắm, quá… (VD: rất xanh, hơi đỏ, dài lắm, ngắn quá…)
Như vậy, trong cấu trúc nghĩa của những tính từ như: xanh, đỏ, dài, ngắn, tốt, xấu…
không bao hàm tính mức độ; muốn biểu thị tính mức độ, các tính từ này phải kết hợp với
các từ chỉ mức độ (rất, hơi, quá, lắm…) như đã nói ở trên. Do đó, loại tính từ này có thể
‘gọi tên” là những tính từ không bao hàm tính mức độ (SGK Tiếng việt 4, tập một cho
rằng: Việc thế các từ rất, quá, lắm,… vào trước hoặc sau tính từ thuộc loại này, là một
trong những cách thể hiện mức độ của đặc điểm, tính chất mà tính từ biểu thị. Còn SGK
Tiếng việt 4 CCGD thì gọi loại tính từ này là “tính từ chỉ chất chung không có mức độ” ;
có tác giả gọi là “tính từ thường”).
(2) Bên cạnh đó, các tính từ như xanh biếc, gầy nhom, to bự,… không thể kết hợp
được với các từ chỉ mức độ. Cụ thể, ta không thể nói: rất xanh biếc, hơi gầy nhom, rất to
bự,… Như vậy, trong cấu trúc nghĩa của những tính từ như:
Trang 92
xanh biếc, gầy nhom, to bự… đã bao hàm tính mức độ. (Mức độ ở đây là mức độ
tuyệt đối; yếu tố biểu thị tính mức độ thường đứng sau, đó là các yếu tố “biếc” trong xanh
biếc, " nhom " trong gầy nhom , " bự " trong to bự ... nói trên) Do đó , loại tính từ này có
thể " gọi tên " là những tính từ có bao hàm tính độ , có tác giả gọi là " tính từ chỉ tính chất
có mức độ tuyệt đối " .
Loại tính từ này được sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn ngôn ngữ . Ví dụ hai dòng
thơ sau:
Xanh om cổ thụ xoe tròn tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ ...
đã có tới 3 tính từ thuộc loại này , là : xanh om , tròn xoe , trắng xoá .
Lưu ý: Ngoài hai loại tính từ trên , có một số tính từ mang tính chất " trung gian " , nghĩa
là trong cấu trúc nghĩa của chúng có bao hàm tính mức độ ( giống loại (2) , nhưng chúng
lại có thể kết hợp được với từ chỉ mức độ như : hơi , khí ... ( giống loại (1)) . Đó là các
tính từ như : xanh xanh , biêng biếc . Cụ thể , nghĩa của những tính từ này biểu thị màu
sắc , tính chất ... ở mức độ thấp , nghĩa có tính chất giảm nhẹ . Về khả năng kết hợp , có
thể chấp nhận cách kết hợp kiểu : hơi xanh xanh , hơi biêng biếc ... Thuộc về loại tính từ
này , có thể kể đến các tính từ như : xa xa , xinh xinh , đo đỏ , mằn mặn , thỉnh thích , tôn
tốt , ...
Những hiểu biết về một số tiểu loại tính từ như đã nói ở trên sẽ giúp ích thêm cho GV
trong việc dạy hai bài về từ loại tính từ trong SGK Tiếng Việt 4 ,
Câu 63
(?) Bằng cách nào để xác định từ loại của các từ như : a ) kỉ niệm , ảnh hưởng , ý thức ,
tâm tình và b ) vui , buồn , ... ? Cụ thể , các từ thuộc nhóm a là danh từ hay động từ ? Các
từ thuộc nhóm b là động từ hay tính từ ?

81
(:) (1) Có những từ khi đứng một mình , ở trạng thái cô lập , tách khỏi văn cảnh , ta vẫn
dễ dàng nhận ra giá trị từ loại của chúng . Một số ví dụ :
- máy bay , xe đạp , cây cối , nhà cửa ... là các danh từ .
- đi , chạy , lăn , lê , đọc , viết ... là các động từ .
- xấu , đẹp , nhanh , chậm , to , nhỏ ... là các tính từ .
Một phần do ta dễ nhận biết ý nghĩa khái quát của từng nhóm từ trên , đó là ý nghĩa chỉ
sự vật , ý nghĩa chỉ hoạt động và ý nghĩa chỉ tính chất . Các ý nghĩa
Trang 93
khái quát này là một trong những chỗ dựa quan trọng giúp ta nhận biết giá trị từ loại của
chúng .
( 2 ) Nhưng lại có những từ nếu đứng một mình , tách khỏi văn cảnh thì rất khó xác định
từ loại của chúng . Giá trị từ loại của những từ này mang tính " tiểm tàng " . Đó là các từ
như : kỉ niệm , ảnh hưởng , ý thức , tâm tình ; vui , buồn , ... Muốn nhận biết , xác định
giá trị từ loại của từng từ này , ta phải đặt vào một văn cảnh , vào một trường hợp sử
dụng cụ thể . Văn cảnh có tác dụng hiện thực hoá ý nghĩa của từ , đặc biệt là hiện thực
hoá giá trị từ loại của từ . Nói cách khác , nhìn vào vẫn cảnh , ta có thể nhận ra một từ
nào đó là danh từ hay là động từ , tính từ , số từ , đại từ , phụ từ , quan hệ từ , tình thái từ .
VD :
- Từ " kỉ niệm " được sử dụng trong các văn cảnh :
+ " Ôn lại những kỉ niệm cũ " : " kỉ niệm " là danh từ .
+ " Mình kỉ niệm cậu cái bút này " : " kỉ niệm " là động từ .
- Từ " ảnh hưởng " :
+ " Những ảnh hưởng của khí hậu đối với cây cối . " : " ảnh hưởng " là danh từ .
+ " Sự giáo dục của gia đình ảnh hưởng tốt đến các em " : " ảnh hưởng " là động từ .
- Từ " ý thức " :
+ " Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước ý thức " : " ý thức " là danh từ .
+ " Anh ta ý thức được công việc của anh ta đang làm " : " ý thức " là động từ .
- Từ " tâm tình " :
+ " Hai người bạn đang thổ lộ tâm tình " : " tâm tình " là danh từ .
+ " Hai người bạn tâm tình thủ thỉ với nhau " : " tâm tình " là động từ .
- Từ " vui " :
+ " Vui từ Đồng Tháp , An Khê
Vui lên Việt Bắc , đèo De , núi Hồng " ( Tố Hữu ) : " vui " là động từ .
+ " Mẹ rất vui khi thấy con trưởng thành " : " vui " là tính từ .
- Từ " buồn " :. + " Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn " ( Xuân Diệu ) : " buôn " là
động từ .
+ " Nó rất buồn ":" buồn " là tính từ .
Tóm lại , bằng cách đặt các từ khó xác định từ loại vào trong các văn cảnh cụ thể , ta dễ
dàng nhận ra giá trị từ loại của chúng .
Trang 94
Câu 64
(?) Bằng cách nào để vạch được ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ ( xác định chủ ngữ vị
ngữ ) trong từng câu sau:

82
a) Tiếng suối chảy róc rách .
b) Những con voi về đích trước tiên huơ vòi chào khán giả .
(:) a) Muốn xác định được chủ ngữ , vị ngữ trong câu , trước hết cần hiểu : chủ ngữ , vị
ngữ gắn bó với nhau bằng quan hệ chủ vị . Trong mối quan hệ này , chủ ngữ nêu đối
tượng thông báo , còn vị ngữ chứa đựng nội dung thông báo về đối tượng ấy . Chủ ngữ
trả lời câu hỏi " Ai ", " Cái gì "; vị ngữ trả lời câu hỏi " Làm gì " , " Như thế nào " . Ngoài
quan hệ ngữ pháp, cần hiểu về quan hệ ý nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ, như :
- Chủ ngữ gọi tên sự vật ( người , vật , sự việc ) còn vị ngữ miêu tả hoạt động của sự vật
đó .
- Chủ ngữ nêu sự vật , vị ngữ miêu tả trạng thái của sự vật đó .
-Chủ ngữ nêu sự vật , vị ngữ miêu tả đặc điểm , tính chất của sự vật đó
- Chủ ngữ nêu một đối tượng , vị ngữ biểu hiện điều nhận định về đối tượng đó...
Vấn đề đặt ra cụ thể ở đây là bằng cách nào để vạch được ranh giới giữa chủ ngữ và vị
ngữ . Nói cách khác , bằng cách nào xác định được điểm kết thúc của chủ ngữ và điểm
bắt đầu của vị ngữ , nhất là đối với những trường hợp mà cái ranh giới đó không rõ ràng ,
khó xác định . Đi vào từng trường hợp cụ thể , ta sẽ có cách xác định ranh giới giữa chủ
ngữ , vị ngữ cụ thể , dựa trên những nhận thức khái quát đã nêu ở trên .
b) Ở trường hợp thứ nhất : " Tiếng suối chảy róc rách " , HS thường có hai cách hiểu sau
đây , khi vạch ranh giới giữa chủ ngữ và vị ngữ của câu :
(1) Tiếng suối chảy róc rách .
(2) Tiếng suối chảy // róc rách ,
Dựa vào quan hệ lôgic giữa chủ ngữ và vị ngữ , ta nhận thấy trong cách hiểu ( 1 ) , "
Tiếng suối " là âm thanh thì không thể " chảy " được . Vì vậy, cách hiểu này , đồng thời
là cách xác định chủ ngữ , vị ngữ ở đây là không hợp lí . Do đó , cách hiểu (2) , cho "
Tiếng suối chảy " : chủ ngữ ; " róc rách " : vị ngữ,
Trang 95
là cách hiểu hợp lí , phù hợp về quan hệ lôgic , quan hệ ý nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ
trong câu.
Trường hợp thứ hai : “ Những con voi về đích trước tiên huơ vòi chào khán giá " cũng có
thể dẫn tới hai cách hiểu khác nhau về ranh giới giữa chủ ngữ vị ngữ trong câu
( 1 ) Những con voi vẻ địch trước tiên huơ vời chào khán giả .
( 2 ) Những con voi về đích trước tiên / huơ vòi chào khán giả .
Cách hiểu ( 1 ) không hợp lí , bởi vì đưa vào đặc trưng về cấu tạo của cụm danh từ , ta
nhận thấy tổ hợp những con voi " bao giờ cũng phải có định ngữ đứng sau , nhằm hạn
định , cụ thể hoá ý nghĩa cho danh từ trung tâm ( " con voi " là danh từ trung tâm ) , trả
lời cho câu hỏi " Những con voi nào ? " ; có như thế mới tạo nên được một cụm danh từ
hoàn chỉnh , và cả cụm danh từ này mới đảm nhiệm chức năng làm bộ phận chủ ngữ của
câu . Như vậy , ở đây cụm danh từ " Những con voi về đích trước tiên ” làm bộ phận chủ
ngữ , theo cách hiểu ( 2 ) là hợp lí . Kiểu cấu tạo như đã nói ở trên của cum danh từ tiếng
Việt cũng xuất hiện khá phổ biến trong thực tiễn ngôn ngữ . Ví dụ , các cụm danh từ :
- Những học sinh đạt kết quả cao trong kì thi tốt nghiệp tiểu học ...
- Những ngôi nhà mới được xây dựng
- Những cánh đồng thơm mát ...

83
-Những ngả đường bát ngát ...
- Những dòng sông đỏ nặng phù sa
- Những con chim bông biển trong suốt như thuỷ tinh ..
Ở đây có một vấn đề cần lưu ý là HS rất dễ nhẩm định ngữ sau ( thành tố phụ đứng sau
trong các cụm danh từ trên là vị ngữ của câu . Bởi vì về hình thức và nội dung, các định
ngữ sau này có nhiều nét tương đồng với vị ngữ của câu cũng đứng sau danh từ làm chủ
ngữ , cũng do động từ , tính từ đảm nhiệm , cũng chỉ hoạt động hoặc đặc điểm , trạng thái
... của sự vật nêu trong danh từ làm chủ ngữ ) . GV cần nói rõ để HS nắm được : tuy thoạt
nhìn , giữa định ngữ sau và vị ngữ có những nét giống nhau như vậy , nhưng chúng khác
nhau về cấp bậc , về chức năng , tác dụng Định ngữ là thành tố phụ của danh từ trung tâm
, thuộc bạc cụm từ , còn vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu . Định ngữ có
nhiệm vụ hạn định , cụ thể hoá ý nghĩa cho danh từ trung tâm
Trang 96
Còn vị ngữ nêu nội dung thông báo về đối tượng cho chủ ngữ biểu thị. Vì vậy, trong các
ví dụ trên, các từ ngữ “đạt kết quả cao trong kỳ thi tốt nghiệp tiểu học”; “mới được xây
dựng”; “thơm mát”; “bát ngát”; “đỏ nặng phù sa”; “trong suốt như thuỷ tinh”… chỉ là
định ngữ sau của cụm danh từ. Và như đã nói, cả cụm danh từ mới được coi là chủ ngữ
bộ phận của câu.
Lưu ý: SGK Tiếng Việt tiểu học hiện nay không nhắc tới khái niệm định ngữ, mà dùng
cách diễn đạt “các từ kèm theo danh từ” (trong cụm danh từ). Vì vậy, đối với các “định
ngữ sau” nói trên, GV có thể diễn đạt gọi tên là “các từ đi kèm phía sau danh từ” hoặc
“các từ kèm theo danh từ ở phía sau”… SGK Tiếng Việt tiểu học thì gọi là phụ ngữ của
cụm danh từ.
Câu 65
(?) Trong các câu “Ai là gì ?” sau đây:
- Đây là bạn tôi
- Ba em là giáo viên
- Hà Nội là thủ đô nước Việt Nam
- Thì giờ là vàng ngọc
bộ phận được in đậm (sau từ “là”) là bổ ngữ hay vị ngữ?
(:) Trong các câu “Ai là gì” nêu trên, về giá trị từ loại của từ là lâu nay tồn tại hai cách
hiểu. Cách hiểu thứ nhất cho là là động từ (một loại động từ đặc biệt). Cách hiểu thứ hai
cho từ là là một loại quan hệ từ, được dùng để nối kết giữa chủ ngữ và vị ngữ. Theo cách
hiểu thứ nhất, động từ là dùng trong những câu giới thiệu, nhận xét, đánh giá về người,
vật, hiện tượng. Nói cách khác, động từ là biểu thị quan hệ giữa phần nêu sự vật, sự việc
với phần nêu chính bản thân sự vật, sự việc ấy nhìn ở một khía cạnh khác, hay nêu đặc
trưng hoặc giải thích về sự vật, sự việc ấy. Một số ví dụ:
- Rừng Tây Nguyên là quê hương của nhiều giống thú quý
- Hoa là học sinh giỏi
- Hôm nay là ngày thứ hai
Cũng có khi động từ là biểu thị ý nghĩa tồn tại, VD: Trước nhà là một con sông.

84
Trang 97
Theo cách hiểu trên, các từ ngữ đứng sau động từ “là” (thường là danh từ hoặc cụm danh
từ) đều là bổ ngữ. Như vậy các danh từ và cụm danh từ đứng sau động từ là trong các câu
nêu ở trên phần câu hỏi (“bạn tôi”’ “giáo viên”, “thủ đô nước Việt Nam”’ “vàng ngọc”)
đều là bổ ngữ, chứ không phải là vị ngữ.
Cách hiểu thứ hai cho rằng trong các câu “Ai là gì ?” nêu trên, là là một từ nối, một quan
hệ từ, còn được gọi là hệ từ. Cụ thể, theo quan niệm này, hệ từ là dùng để nối thành phần
chủ ngữ và thành phần vị ngữ của một câu đơn, tương ứng với một phán đoán lôgic. Ví
dụ trong câu “Con người là cái vốn quý nhất” (Câu này có lõi nội dung là một phán
đoán), hệ từ là nối chủ ngữ “con người” với vị ngữ “là cái vốn quý nhất”. Như vậy, theo
quan niệm này, “là” không phải là động từ, không phải là thực từ, mà là một hư từ; còn
danh từ hoặc cụm danh từ đứng sau “là”, không phải bổ ngữ, mà là vị ngữ.
Ở Tiểu học hiện nay, trong loại câu “Ai là gì ?” dùng để giới thiêu, nhận xét, đánh giá về
người, vật, hiện tượng như đã nói ở trên, từ “là” được hiểu là từ nối (quan hệ từ) và các
danh từ, cụm danh từ đứng sau từ “là” được coi là vị ngữ. SGK Tiếng Việt 4, tập 2, tr. 62,
trong mục Ghi nhớ, có viết : “Vị ngữ được nối với chủ ngữ bằng từ là”.
Câu 66:
(?) Về công dụng, dấu chấm phẩy giống và khác dấu phẩy, dấu chấm như thế nào?
(:) a, Dấu chấm phẩy (;) là loại dấu dùng ở bên trong câu, để:
- Ngăn cách các vế trong câu ghép đẳng lập, VD
“Dưới ánh trăng này, dòng thác nước sẽ đổ xuống làm chạy máy phát điện ; ở giữa
biển rộng, cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên những con tàu lớn.”
(Thép Mới)
- Tách các nhóm ý hoặc các ý lớn trong một câu, khi chúng có sự khác biệt nào đó
lớn đối với nhau, VD:
+ “Nó lấy đầu nén đất của tổ nhiều lần cho chắc rồi san bằng ; không thể nhận ra tổ
dế ở chỗ nào nữa.”
(Vũ Tú Nam)
+ “Tóm lại, phải nhìn người và việc dưới con mắt duy vật biện chứng ; vượt lên trên
muôn nghìn sự vật để nhìn xa trông rộng, như con đại bàng bay là là trên
Trang 98
núi rừng trùng điệp để tìm một nơi đỗ tốt ; không nên chìm sâu vào trong những cái
vụn vặt, cục bộ, không nên nao núng trước những khó khăn tạm thời.”
(Trường Chinh)
- Phân cách các ý lớn có quan hệ liệt kê, VD:
“Những cảnh tuyệt đẹp của đất nước hiện ra : cánh đồng với những đàn trâu thung
thăng gặm cỏ ; dòng dông với những đoàn thuyền ngược xuôi.”
(Nguyễn Thế Hội)
* Chú ý: Khi đọc, sau dấu chấm phẩy phải nghỉ hơi một quãng bằng nửa quãng nghỉ sau
dấu chấm (sau dấu chấm phải nghỉ hơi một quãng, bằng khoảng thời gian đọc một chữ).
Khi viết, chữ cái đầu tiên sau dấu chấm phẩy khôgn được viết hoa.

85
b, Dấu chấm phẩy giống và khác dấu phẩy ở chỗ:
- Giống nhau:
+ Là loại dấu dùng ở bên trong câu
+ Dấu chấm phẩy và dấu phẩy đều được dùng để ngăn cách các vế trong câu ghép
đẳng lập
+ Khi đọc, quãng nghỉ hơi sau dấu phẩy và dấu chấm phẩy dài bằng nhau
+ Khi viết, chữ cái đầu tiên sau dấu phẩy và dấu chấm phẩy đều không được viết hoa
- Khác nhau:
Dấu chấm phẩy có một số công dụng khác mà dấu phẩy không có (như tách các nhóm
ý hoặc các ý lớn, phân cách các bộ phận của câu khi các bộ phận này về mặt ngữu
pháp, có thể tồn tại độc lập như một câu…). Ngược lại, dấu phẩy có một số công dụng
khác mà dấu chấm phẩy không có (như ngăn cách trạng ngữ, hô ngữ với nòng cốt câu,
ngăn cách bộ phận chú thích trong câu, ngăn cách các bộ phận song song…).
c, Dấu chấm phẩy giống và khác dấu chấm ở chỗ:
- Giống nhau:
Khi dấu chấm phẩy được dùng để ngăn cách các vế trong câu ghép đẳng lập thì mỗi
vế câu này có thể tách ra thành một câu đơn (trong một số trường hợp
Trang 99
cụ thể). Do đó, ở vị trí của dấu chấm phẩy, có thể dùng dấu chấm (Nhưng người viết vẫn
chưa tách thành câu riêng vì muốn biểu lộ quan hệ ý nghĩa gần gũi giữa các vế trong câu
ghép đẳng lập). Ví dụ, trong câu “Đất nước ta giàu đẹp ; nhân dân ta cần cù.” dấu chấm
phẩy có thể thay thế bằng dấu chấm.
Như vậy, ở đây, dấu chấm phẩy có vai trò, tác dụng gần giống dấu chấm.
- Khác nhau:
+ Dấu chấm phẩy chủ yếu dùng ở bên trong câu, còn dấu chấm đặt ở cuối câu.
+ Dấu chấm phẩy dùng để phân cách các bộ phận của câu, còn dấu chấm dùng để kết
thúc câu.
+ Khi đọc, quãng nghỉ hơi sau dấu chấm phẩy ngắn hơn so với quãng nghỉ hơi sau
dấu chấm.
+ Khi viết, chữ cái đầu tiên sau dấu chấm phẩy không được viết hoa, còn sau dấu
chấm thì phải viết hoa.
Câu 67
(?) Bằng cách nào để phân biệt câu hỏi với câu có từ nghi vấn nhưng không dùng để
hỏi (không phải là câu hỏi) ?
(:) (1) Trước hết, ta làm quen với hai loại câu này:
a) Câu hỏi
- Là loại câu dùng để hỏi những điều chưa biết
- Câu hỏi thường có các từ nghi vấn, bao gồm:
+ Các đại từ nghi vấn, như: ai, nào, gì, thế nào, bao nhiêu,… (VD : Hôm nay ai trực
nhật ?)
86
+ Các từ tình thái, như: à, ừ, hả, hở, hử, chứ, nhỉ,… (VD : Con đi học về à ?)
+ Quan hệ từ hay (VD : Con ăn cơm hay ăn cháo ?)
+ Cặp phụ từ: có… không ; đã… chưa ; có phải… không (VD : Con có đi xem phim
không ?)
- Khi viết, cuối câu có dấu chấm hỏi
b) Câu có từ nghi vấn nhưng không dùng để hỏi (không phải là câu hỏi)
Đó là những câu có dùng từ nghi vấn nhưng mục đích không phải để hỏi điều chưa
biết, mà để khẳng định hay phủ định một điều nào đó ; hoặc để
Trang 100
thúc giục, sai khiến, can ngăn, đe doạ, từ chối một điều gì đó; cũng có thể để bôc lộ một
tình cảm, cảm xúc trước một sự việc. VD:
+ Tôi không biết bạn có thích chơi diều không. (Dùng để phủ định)
+ Hãy cho biết bạn thích trò chơi nào nhất. (Dùng để yêu cầu)
+ Ôi, cảnh vật ở đây mới đẹp làm sao ! (Dùng để bộc lộ cảm xúc)
Lưu ý : Trong ba ví dụ trên, từ in nghiêng là từ nghi vấn, từ in đậm thể hiện mục đích nói,
đồng thời là dấu hiệu giúp ta nhận ra bản chất của câu. Cụ thể, dựa vào các từ in đậm này
và nội dung thông báo của câu ta có thể nhận biết : câu thứ nhất là câu kể (phủ định); câu
thứ hai là câu khiến; câu thứ ba là câu cảm.
(2) Để phân biệt hai loại câu này, GV có thể hướng dẫn HS nêu một số câu hỏi sau
đây, trước một câu cụ thể nào đó:
a) Câu này có dùng để hỏi, nêu điều chưa biết có dùng để giải đáp hay không?
b) Khi viết, cuối câu có dấu chấm hỏi hay không?
c) Về cấu tạo, bên cạnh các từ nghi vấn, trong câu có các từ chỉ sự khẳng định – phủ
định, câu khiến hoặc cảm xúc hay không?
Lưu ý: Trong câu hỏi a và b, nếu trả lời là “Có” thì đó là câu hỏi; trả lời “Không” thì
không phải là câu hỏi. Ở câu c, nếu trả lời “Có” thì không phải là câu hỏi; trả lời
“Không” thì đó là câu hỏi.
- Từ những hiểu biết ở trên, GV có thể vận dụng vào việc hướng dẫn HS làm bài tập
5 trong SGK Tiếng Việt 4, tập môt, tr. 137. Ở bài tập này, các câu b, c, e không
phải là câu hỏi; trong đó, câu b là câu kể (câu kể phủ định), các câu c, e là câu
khiến. Vì vậy, khi viết, ở cuối các câu này, phải đặt dấu chấm, không được đăt dấu
chấm hỏi.
Câu 68
(?) Đề nghị nói rõ hơn về danh từ chỉ hiện tượng, danh từ chỉ khái niệm và danh từ
chỉ đơn vị.
(:) Khi phân loại danh từ Tiếng Việt, trước hết, người ta lưỡng phân thành danh từ chung
và danh từ riêng. Các danh từ chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị là các loại nhỏ
của danh từ chung
Trang 101
a) Danh từ chỉ hiện tượng

87
Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian, thời gian mà con người có thể nhận thấy, nhận
biết được. Có hiện tượng tự nhiên (như : mưa, nắng, sấm, chớp, động đất, sóng thần...) và
hiện tượng xã hội (như : chiến tranh, đói nghèo, áp bức, khởi nghĩa...). Danh từ chỉ hiện
tượng là danh từ biểu thị các hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội nói trên, như : mưa
(cơn mưa, nước mưa...); nắng (nắng hè, nắng chói chang...); sấm (sấm rền, sấm dậy...),
chớp (tia chớp, chớp bể mưa nguồn...); động đất (trận động đất...); chiến tranh (cuộc
chiến tranh, chiến tranh cách mạng...); áp bức (sự áp bức...), khởi nghĩa (cuộc khởi
nghĩa...)...
Lưu ý: Về từ loại, từ mưa có thể là danh từ hoặc động từ. Nếu nói: Trời đang mưa ; Khóc
như mưa... thì mưa là động từ. Ở đây, ta chỉ quan tâm tới trường hợp mưa là danh từ. Bên
cạnh đó, các từ áp bức, khởi nghĩa vốn là động từ. Ở đây, ta chỉ đề cập tới các từ này đã
được "danh hoá", đó là : sự áp bức, cuộc khởi nghĩa.
b) Danh từ chỉ khái niệm
Loại danh từ này còn được gọi là danh từ có ý nghĩa trừu tượng. Đó là các từ không chỉ
các vật thể, các chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể, mà biểu thị các khái niệm trừu
tượng, như : tư tưởng, đạo đức, khả năng, tính nết, thói quen, quan hệ, thái độ, cuộc sống,
cuộc đời, sự nghiệp, thiên nhiên, xã hội, phong tục, chính trị, giai cấp, ý thức, tinh thần,
mục đích, phương châm, chủ trương, điều kiện, sở trường, nguyện vọng, chiến lược, biện
pháp, ý kiến, cảm tưởng, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu, tình bạn... Các khái niệm này chỉ
tồn tại trong nhận thức, trong ý thức của con người, không "vật chất hoá", cụ thể hoá
được. Nói cách khác, các khái niệm này không có hình thù, không cảm nhận trực tiếp
được bằng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, tay sờ, lưỡi nếm... Tóm lại,
các từ biểu thị các khái niệm này đều là danh từ chỉ khái niệm.
c) Danh từ chỉ đơn vị
Hiểu theo nghĩa rộng, danh từ chỉ đơn vị là những từ chỉ đơn vị các sự vật. Căn cứ vào
đặc trưng ngữ nghĩa, vào phạm vi sử dụng, có thể chia danh từ chỉ đơn vị thành các loại
nhỏ sau :
- Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên: Các danh từ này chỉ rõ loại sự vật, nên còn được gọi là
danh từ chỉ loại. Đó là các từ : con, cái, chiếc ; cục, mẩu, miếng , ngôi, tấm, bức ; tờ,
quyến, cây, hạt, giọt, hòn, sợi...
Trang 102
- Danh từ chỉ đơn vị đo lường : Các danh từ này dùng để tính đếm, đo đếm các sự vật,
vật liệu, chất liệu... VD: lạng, cân, yến, tạ, tấn ; mét, thước, tấc; sào, mẫu; lít , sải, gang...
- Danh từ chỉ đơn vị tập thể : Dùng để tính đếm các sự vật tồn tại dưới dạng tập hợp, tổ
hợp. Đó là các từ : bộ, đội, cặp, bọn, tụi, đàn ; dãy, bó,...
- Danh từ chỉ đơn vị thời gian : Các từ như giây, phút, giờ, tuần, tháng, quý, năm , mùa,
vụ, buổi...
- Danh từ chỉ đơn vị hành chính, tổ chức: Đó là các từ xóm, thôn, xã, huyện, tỉnh, nước;
nhóm, tổ, lớp, trường; tiểu đội, trung đội, đại đội ; ban, ngành,…
Các tư liệu nói trên hi vọng sẽ giúp ích phần nào cho GV khi dạy bài Danh từ (Tiếng Việt
4, tập một, tr. 52), nhất là khi tìm các ví dụ minh hoạ cho định nghĩa về danh từ trong
SGK: "Danh từ là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị)".
Câu 69

88
(?) Danh từ chung và danh từ riêng phân biệt với nhau như thế nào ? Một danh từ nếu
không phải là danh từ riêng thì là danh từ chung, có đúng không ?
- Về đại thể, danh từ chung là tên gọi chung của các sự vật cùng loại, nói cách khác, là
tên chung của một loại sự vật (VD: sông, núi, cây, bàn, ghế, công nhân, nông dân, học
sinh, giáo viên...); còn danh từ riêng là tên riêng của một người, một địa điểm, một sự vật
nào đó (VD : Trần Quốc Toản. Nguyễn Văn Trỗi, Hà Nội, Cần Thơ, Điện Biên...). Danh
từ chung chiếm tỉ lệ rất cao trong các từ. Nó mang đầy đủ các đặc điểm về ngữ pháp và
ngữ nghĩa của danh từ. Danh từ chung được phân thành nhiều loại nhỏ như : danh từ tổng
hợp, danh từ chỉ đơn vị, danh từ chỉ vật thể, danh từ chỉ chất liệu, danh từ chỉ các khái
niệm trừu tượng...
- Danh từ riêng chiếm tỉ lệ thấp, có những đặc trưng riêng về ngữ pháp (có khả năng kết
hợp hạn chế với các từ chuyên đi với danh từ, đó là các số từ). Danh từ riêng được phân
thành các loại như : tên người, tên đất, tên của các sự vật khác. Khi viết, danh từ riêng
được viết hoa tất cả các chữ cái đầu trong từng chữ (tiếng). VD: Trần Hưng Đạo, Quang
Trung, Hà Nội, Hải Phòng (bác) Nồi Đồng, (cô) Chổi Rơm, (anh) Cần Cẩu, (ông) Mặt
Trời...
Trang 103
- Khi phân loại danh từ, người ta trước hết phân thành hai loại lớn là danh từ chung và
danh từ riêng. Như vậy, một danh từ nếu không phải là danh từ riêng thì hiển nhiên là
danh từ chung.
Câu 70
(?) SGK Tiếng Việt 4, tập một, tr. 94 nêu định nghĩa về động từ: "Động từ là những từ
chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật". Đề nghị nói rõ hơn về những động từ chỉ trạng thái
của sự vật.
a) Động từ chỉ trạng thái là một loại nhỏ trong động từ. Đặc điểm ngữ pháp
nổi bật nhất của động từ chỉ trạng thái là : nếu như động từ chỉ hoạt động, hành động có
thể kết hợp với từ xong ở phía sau (VD : ăn xong, viết xong, đọc xong,...) thì động từ chỉ
trạng thái không kết hợp với (xong ở phía sau (VD: không nói : còn xong, hết xong,
muốn xong, định xong, ghét xong, kính trọng xong, chán xong, hi vọng xong,...). b) Một
số loại động từ chỉ trạng thái trong tiếng Việt
- Động từ chỉ trạng thái tồn tại (hoặc : trạng thái không tồn tại)
VD:
+ Trong nhà có khách.
+ Còn bạc, còn tiến, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- Động từ chỉ trạng thái biến hoá
VD:
+ Nàng Vọng Phu hoá đá.
+ Người nghệ sĩ biến khối đá vô tri thành một bức tượng có hồn.
+ Cậu ấy trở thành một vận động viên tài ba.
- Động từ chỉ trạng thái tiếp thu :
VD:

89
+ Nó được nhà trường khen.
+ Nó bị bố mắng.
Trang 104
+ Hôm qua nó phải một trận đòn.
+ Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang (Xuân Diệu)
- Động từ chỉ trạng thái so sánh :
VD:
+ Tuổi tôi bằng tuổi anh.
+ Tôi thua anh ba điểm.
+ Con hơn cha, nhà có phúc. (Tục ngữ)
c) Một số lưu ý:
(1) Một số “nội động từ” sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng thái: nằm, ngồi, ngủ,
thức, nghỉ ngơi, ốm, nghĩ ngợi, suy nghĩ , đi, đứng, lăn, lê, bộ. toài , vui, buồn, hồi hộp,
băn khoăn, lo lắng...
Các từ này có một số đặc điểm sau:
- Một số từ vừa được coi là động từ chỉ hành động, lại vừa được coi là động từ chỉ trạng
thái.
- Một số từ khi chuyển nghĩa thì được coi là động từ chỉ trạng thái (trạng thái tồn tại).
VD:
+ Bác đã đi rồi sao Bác ơi. (Tố Hữu)
+ Trời đứng gió.
+ Quan điểm đó đứng được.
+ Anh ấy đứng tuổi rồi.
- Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của tính từ (kết hợp được với từ chỉ mức độ rất). (2)
Các "ngoại động từ" sau đây cũng được coi là động từ chỉ trạng thái (trạng thái tâm lí) :
yêu bạn, ghét kẻ thù, kính trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ, chán món ăn này, thèm
món ốc luộc, hiểu hoàn cảnh của anh ấy...
Các từ này mang một số đặc điểm ngữ pháp của tính từ (kết hợp được với từ rất), có tính
chất trung gian giữa động từ và tính từ.
(3) Có một số động từ chỉ hành động được sử dụng như một động từ chỉ trạng thái (trạng
thái tồn tại). VD:
- Trên tường treo một bức tranh.
- Ngoài sân, dưới gốc đào buộc một con ngựa lạ.
Trang 105
(4) Động từ chỉ trạng thái mang một số đặc điểm về ngữ pháp và ngữ nghĩa giống như
tính từ. Vì vậy, chúng có thể làm vị ngữ trong câu kể Ai thế nào ?
Tóm lại, động từ chỉ trạng thái là tiểu loại có vị trí quan trọng trong việc giúp GV và HS
phân biệt hai loại câu kể : Ai làm gì ? và Ai thế nào ? trong chương trình, SGK môn
Tiếng Việt ở Tiểu học.
Câu 71
(?) Khi tìm động từ trong câu Tôi đang đi trên phố, có học sinh xác định là đi, có học sinh
xác định là đang đi. Giáo viên nên xử lý tình huống trên như thế nào ?

90
- Muốn xác định từ loại của từ, trước hết, GV hướng dẫn HS tiến hành vạch ranh giới
giữa các từ trong câu. Đối với câu Tôi đang đi trên phố, ta có thể dễ dàng vạch ranh giới
giữa các từ như sau :Tôi / đang / đi / trên / phố. Sau đó, GV hướng dẫn HS xác định từ
loại từng từ. Dựa vào ý nghĩa khái quát và đặc điểm ngữ pháp của từ, ta có thể xác định
trong câu trên:
Tôi là đại từ (đại từ xưng hô, ngôi 1, số ít).
đang là phụ từ (bổ sung ý nghĩa về thời gian cho động từ đi).
đi là động từ (chỉ hoạt động di chuyển, dời chỗ).
trên là quan hệ từ (chỉ vị trí, nơi chốn).
phố là danh từ (chỉ nơi chốn, địa điểm).
Như vậy, tổ hợp đang đi là hai từ, là một cụm từ, không thể coi là một động từ. Và hiển
nhiên, động từ trong câu này, ta dễ dàng nhận ra, đó là từ đi.
Câu 72
(?) Nên giải thích như thế nào để học sinh phân biệt được từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính
chất,từ chỉ trạng thái ? Từ béo phì nên gọi là từ chỉ đặc điểm hay từ chỉ tính chất ? Các từ
vui, buồn,... nên hiểu là trạng thái hay đặc điểm, tính chất ?
a) Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái
- Từ chỉ đặc điểm
Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một sự vật nào đó (có thể là người, con vật, đồ
vật, cây cối...). Đặc điểm của một vật chủ yếu là đặc điểm bên ngoài (ngoại hình) mà ta
có thể nhận biết được trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe,
Trang 106
tay sờ, mũi ngửi... Đó là các nét riêng, vẻ riêng về màu sắc, hình khối . dáng, âm thanh,...
của sự vật. Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên trong mà qua quan sát, suy
luận, khái quát... ta mới có thể nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính tình, tâm lí,
tính cách của một người; độ bền, giá trị của một đồ vật,...
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã nêu ở trên. Một
số ví dụ :
+ Từ chỉ đặc điểm bên ngoài : cao, thấp, gầy, béo, rộng, hẹp, nông, sâu, da, ngắn, tròn,
méo, thẳng, cong, vuông , xanh, đỏ, tím, vàng, đen, trắng tay biếc, đỏ au, tím ngắt, đen sì,
trắng phau ; bạc trắng, đen nhánh, hoa rô. trắng hồng, xanh tốt ; mũm mĩm, phổng phao,
gây guộc, cao ngắng, lênh khênh, dong dỏng, lè tè...
+ Từ chỉ đặc điểm bên trong : tốt, ngoan, hiền, hư, chăm chỉ, chịu khó, siên, năng, cần cù,
lười biếng, khiêm tốn, kiêu căng, hợm hĩnh ; bến, bền vững,...
- Từ chỉ tính chất
Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả những hiện tượng
xã hội, những hiện tượng trong đời sống...), nhưng thiên về những đặc điểm bên trong, ta
không quan sát trực tiếp được, mà phải qua quá trình quan sát, suy luận, phân tích, tổng
hợp mới có thể nhận biết được. Do đó, từ chỉ tính chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm
bên trong ấy của sự vật, hiện tượng. Một số ví dụ : tốt, xấu, ngoan, hư, giỏi, kém, nguy
hiểm, an toàn, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ, trục trặc, hiệu quả, thiết thực...
Lưu ý: Đối với HS tiểu học, khi phân biệt (một cách tương đối) từ chỉ đặc điểm và từ chỉ
tính chất, GV có thể tạm thời cho rằng : từ chỉ đặc điểm thiên về nêu các đặc điểm bên

91
ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng.
Một "quy ước" mang tính sư phạm như vậy được coi là hợp lí và giúp HS tránh được
những thắc mắc không cần thiết trong quá trình học tập.
-Từ chỉ trạng thái
Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong mọi thời gian,
không gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại có sự vật, hiện tượng trong
thực tế khách quan.

Trang 107
Một số ví dụ :
+ Người bệnh đã hôn mê.
+ Đồng hồ chết.
+ Trời đang đứng gió.
+ Cảnh vật trưa hè ở đây yên tĩnh, cây cối im lìm, không gian vắng lặng, không một tiếng
động nhỏ,
+ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao. (Nguyễn Khuyến)
+ Mặt trời toả ánh nắng rực rỡ.
+ Ngôi sao sáng nhất trời cao băng rổi.
Lưu ý : Về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ hoặc mang đặc
điểm của cả động từ và tính từ.
b) Dựa vào những điều đã trình bày ở trên, ta có thể khẳng định : từ béo phì là từ chỉ đặc
điểm, các từ vui, buồn là từ chỉ trạng thái (trạng thái tâm lí, tình cảm).
Câu 73
? SGK Tiếng Việt 4, tập một, tr. 111 định nghĩa tính từ như sau : "Tính từ là những
từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái...". Đề nghị nói
rõ hơn nội dung của định nghĩa này.
a) Trước hết, định nghĩa trên có thể diễn đạt lại như sau cho rõ ý, để tránh hiểu sai, tránh
sự bắt bẻ: "Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, của hoạt động,
của trạng thái,...". Trong cách diễn đạt lại" này tuy có rõ ý, tường minh, tránh được sự mơ
hổ, nhưng chữ "của" lặp lại nhiều lần, do đó người ta lược bỏ hai chữ "của" ở phía sau.
Để đơn giản, dễ hiểu, tránh sự thắc mắc có thể có, định nghĩa trên cũng có thể được điều
chỉnh theo các cách sau:
Cách 1: Thay chữ "hoặc" bằng "dấu phẩy" (vì đặc điểm và tính chất đội khi rất khó phân
biệt).
Cách 2 : Thay chữ "miêu tả" bằng "chỉ" (vì không phải tính từ nào cũng "miêu tả"), lược
bỏ các chữ "đặc điểm hoặc" (vì "tính chất" đã bao hàm

Trang 108
"đặc điểm"), thêm chữ "của" vào trước chữ "hoạt động". Ta sẽ có một định nghĩa như sau
: "Tính từ là những từ chỉ tính chất của sự vật, của hoạt động, trạng thái".
b) Trong định nghĩa về tính từ ở SGK, có ba khía cạnh nội dung sau đây Cấn lưu ý:

92
- Thứ nhất, "miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật", VD : to, nhỏ, lớn, bé, dài, ngăn,
rộng, hẹp, nông, sâu, gần, xa, giỏi, kém, thông minh, ngu dốt, sâu sắc, nông cạn,...
- Thứ hai, miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của hoạt động", VD : học giỏi hát hay, chạy
nhanh, đi chậm, nói khẽ, cười to, đi đứng khoan thai, lao động tích cực, chiến đấu dũng
cảm, hoan nghênh nhiệt liệt, suy nghĩ sâu sắc,...
Thứ ba, "miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của trạng thái", VD : nằm nghiêng, nằm ngửa,
ngủ ngon, hiểu sâu, hôn mê sâu, yêu vội, ghét cay ghét đắng, buồn tê tái, sướng tê mê,
nghĩ ngợi triền miên, hi vọng tràn trề,...
Câu 74
? Các câu Bạn Lan học rất giỏi ; Con chim hót rất hay ; Mẹ tôi nấu ăn rất ngon ; Bạn
Hải học đánh đàn ; Bố tôi say sưa kể chuyện nên xếp vào kiểu câu nào trong 2 kiểu
câu học sinh đã học (Ai làm gì ?, Ai thế nào ?) ?
Các câu trên thể hiện sự giao nhau, khó tách bạch giữa hai loại câu kể : Ai làm gì ? và Ai
thế nào ?, đồng thời cũng cho ta thấy sự phân biệt hai loại câu nêu trên cũng chỉ có ý
nghĩa tương đối. Nói cách khác, sự phân loại có tính chất lí thuyết này khó tránh được sự
khiên cưỡng và không phản ánh đầy đủ các hiệp tượng ngôn ngữ phong phú, đa dạng
trong thực tiễn giao tiếp bản ngữ.
Căn cứ vào đặc điểm về nội dung, về cấu trúc của cậu, ta có thể tạm xếp các câu nêu trên
thành ba loại :
(1) Các câu : Bạn Lan học rất giỏi ; Con chim hót rất hay ; Mẹ tôi nấu ăn rất ngon.
(2) Câu : Bạn Hải học đánh đàn.
(3) Câu : Bố tôi say sưa kể chuyện.

Trang 109
Dưới đây, ta lần lượt xem xét đặc điểm về cấu trúc và ý nghĩa của ba loại câu trên để đi
tới kết luận từng câu thuộc kiểu nào trong ba kiểu câu đã học.
- Trước hết, ở nhóm (1), các câu đều có vị ngữ là cụm động từ, gồm động từ trung tâm
(học; hót; nấu ăn) và thành tố phụ sau là cụm tính từ chỉ tính chất của hoạt động ( rất
giỏi; rất hay; rất ngon). Cụm động từ này thoạt nhìn, ta có thể cho rằng nó trả lời câu hỏi
Làm gì ? (trong câu Ai làm gì ?). Nhưng nếu xem xét kĩ, ta thấy cụm động từ này, dường
như ý nghĩa hành động, hoạt động của động từ trung tâm bị mờ đi, thay vào đó là ý nghĩa
chỉ "đặc trưng, tính chất của sự vật nêu trong chủ ngữ" mà cả cụm động từ biểu thị, lại
nổi lên. Do đó, có thể hiểu cụm động từ này trả lời cho câu hỏi Thế nào ? (trong câu Ai
thế nào ?). Cụ thể, ở từng câu trong nhóm (1), có thể diễn giải như sau :
+ "Bạn Lan" có đặc điểm là "học rất giỏi". ".
+ "Con chim" có đặc điểm là "hót rất hay".
+ "Mẹ tôi" có đặc điểm là "nấu ăn rất ngon".
Từ đó, có thể đặt câu hỏi: "Bạn Lan (Con chim, Mẹ tôi) thế nào ?

93
- Trong (2), ở câu "Bạn Hải học đánh đàn", ta dễ dàng nhận thấy cụm động từ làm vị ngữ
"học đánh đàn" trả lời cho câu hỏi Làm gì ?. Do đó, câu này thuộc kiểu câu Ai làm gì ?
- Trong (3), đối với câu "Bố tôi say sưa kể chuyện", tình hình có phức tạp hơn. Câu này
tiềm tàng hai cách hiểu về cấu trúc và ý nghĩa. Thứ nhất, nếu hiểu trong cụm từ làm vị
ngữ, "say sưa" là động từ (hoặc tính từ) trung tâm thì vị ngữ trong câu này trả lời câu hỏi
Thế nào ? và câu trên thuộc kiểu câu Ai thế nào ? Bởi vì cụm từ làm vị ngữ trong câu này
biểu thị trạng thái hoạt động ("say sưa kể chuyện") của chủ thể nêu trong chủ ngữ ("Bố
tôi"). Ở cách hiểu thứ hai, nếu hiểu trong cụm từ làm vị ngữ, "kể chuyện" là động từ
trung tâm, "say sưa" là thành tố phụ đứng trước, thì vị ngữ trong câu này trả lời cho câu
hỏi Làm gì ? và câu trên thuộc kiểu câu Ai làm gì ?.
Tóm lại, các câu được đề cập trong câu hỏi trên liên quan tới một điều bạn khoăn, thắc
mắc, đồng thời là một trong những khó khăn mà GV - HS tiểu học gặp phải trong thực
tiễn dạy – học, đó là sự phân biệt hai kiểu câu Ai làm gì ? và Ai thế nào ?, trong đó, trọng
tâm là phân biệt cụm từ làm vị ngữ trong câu (trả lời cho câu hỏi Làm gì ? hay Thế
nào ?). Hi vọng rằng phần trao đổi, giải đáp nêu trên sẽ góp phần giúp GV HS tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc ấy.

Trang 110
Câu 75
? Có cách nào giúp học sinh phân biệt nhanh hai kiểu câu Ai làm gì ? và Ai thế
nào ?
Trong câu hỏi 74 ở trên, vấn đề này đã được đề cập đến. Nhưng ở đây, sẽ nói rõ biện
pháp mà GV có thể sử dụng để giúp HS phân biệt nhanh hai kiểu câu này.
- Trước hết, GV hướng dẫn HS xác định vị ngữ (bộ phận vị ngữ) của câu, Vị ngữ ở đây
thường là cụm từ (cụm động từ hoặc cụm tính từ).
- Sau đó, GV hỏi HS : Vị ngữ trong câu trả lời câu hỏi Làm gì ? hay câu hỏi Thế nào ?
Muốn trả lời chính xác câu hỏi này, GV hướng dẫn HS tìm hiểu. Nếu vị ngữ biểu thị
hành động, hoạt động của chủ thể (nêu trong chủ ngữ) thì nó trả lời câu hỏi Làm gì ?, còn
nếu vị ngữ biểu thị đặc điểm, tính chất, trang thái của chủ thể (nêu trong chủ ngữ) thì nó
trả lời câu hỏi Thế nào ?
Lưu ý: GV hướng dẫn HS chủ yếu xem xét phương diện ý nghĩa của vị ngũ còn phương
diện cấu tạo của vị ngữ (là cụm động từ hay cụm tính từ) đôi khi không quan trọng lắm.
Thực tiễn ngôn ngữ khá phong phú, vì vậy, sự phân biệt các câu cụ thể không phải bao
giờ cũng đơn giản, dễ dàng, bởi tính chất giao nhau về cấu trúc và ý nghĩa giữa các kiểu
câu. Sự phân biệt hai kiểu câu Ai làm gì ? và Ai thế nào ? cũng như vậy. Nhưng với cách
làm, các bước tiến hành như trên, GV có thể giúp HS phân biệt nhanh và có hiệu quả hai
kiểu câu này.
E – LỚP 5
Câu 76
? Nội dung của phân môn Luyện từ và câu trong SGK Tiếng Việt 5 có gì đáng chú
ý?

94
Về nội dung, nói một cách khái quát, phân môn Luyện từ và câu trong Tiếng Việt 5 cung
cấp cho HS một số kiến thức sơ giản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt và giúp HS rèn kĩ
năng sử dụng tiếng Việt (dùng từ đặt câu, liền kề câu,...).

Trang 111
a, Ở nội dung dạy học về từ ngữ, SGK cung cấp cho HS những kiến thức giản về từ đồng
nghĩa (tuần 1, 2, 3), từ trái nghĩa (tuần 4), từ đồng âm (tuần 5, 6), từ nhiều nghĩa (tuần 7,
8). Trong các bài Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ, HS được mở rộng, phát triển vốn từ
theo các chủ điểm trong SGK, được hướng dẫn nắm nghĩa của một số từ ngữ cơ bản gắn
với chủ điểm, được luyện tập sử dụng từ ngữ. Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá
theo các chủ điểm sau : Tổ quốc (tuần 2), Nhân dân (tuần 3) ; Hoà bình (tuần 5), Hữu
nghị - Hợp tác (tuần 6) ; Thiên nhiên (tuần 8, 9) ; Bảo vệ môi trường (tuần 12, 13); Hạnh
phúc (tuần 15); Công dân (tuần 20, 21); Trật tự - An ninh (tuần 23, 24); Truyền thống
(tuần 26, 27); Nam và nữ (tuần 30, 31); Trẻ em (tuần 33) ; Quyền và bổn phận (tuần 34).
Tương ứng với các nội dung dạy học về từ nói trên, SGK Tiếng Việt 5 đã thiết kế các kiểu
loại bài tập cơ bản sau :
- Các bài tập củng cố và vận dụng kiến thức lí thuyết về từ
Ở loại bài tập này, có các bài tập giúp HS nhận biết, nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ,
đồng thời là các khái niệm lí thuyết vừa học : từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa – trong các văn cảnh cụ thể (câu văn, câu thơ ; đoạn văn, đoạn thơ...). Bên
cạnh đó, có các bài tập giúp HS vận dụng các hiểu biết lí thuyết nói trên vào thực tiễn
nói, viết (VD: Đặt câu với các từ đồng nghĩa ; Đặt câu để phân biệt một cặp từ trái nghĩa ;
Đặt câu với một cặp từ đồng âm ; Đặt câu để phân biệt các nghĩa của từ nhiều nghĩa ;
Chọn từ thích hợp trong các từ đồng nghĩa để điền vào chỗ trống trong đoạn văn; Viết
đoạn văn có sử dụng các từ đồng nghĩa,...).
- Các bài tập rèn luyện về từ
Trong bài tập rèn luyện về từ, có loại bài tập giúp HS mở rộng vốn từ theo chủ điểm ;
giúp HS nắm nghĩa của từ ; giúp HS luyện tập sử dụng từ ; giúp HS phân loại, hệ thống
hoá vốn từ (về cơ bản, giống như các kiểu loại bài tập mở rộng vốn từ đã được giới thiệu
trong SGK Tiếng Việt các lớp 2, 3, 4).
b) Ở nội dung dạy học về ngữ pháp, SGK cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về
một số từ loại (đại từ, quan hệ từ), về câu ghép, về một số phép liên kết câu (phép lặp,
phép thay thế, phép nối), trong đó trọng tâm là vấn đề câu ghép.
Tương ứng với các nội dung dạy học về ngữ pháp nói trên, SGK đã thiết kế một số kiểu
loại bài tập nhằm giúp HS củng cố kiến thức lí thuyết vừa học và vận dụng vào thực tiễn
nói, viết (VD: Tìm quan hệ từ trong mỗi câu sau và

95
Trang 112
nêu rõ tác dụng của chúng ; Đặt câu với mối quan hệ từ : và, nhưng, của; Viết đoạn văn
tả ngoại hình một người bạn của em, trong đoạn văn có ít nhất một câu ghép,...).
Một cái nhìn khái quát, tổng thể về nội dung giảng dạy trong phân môn Luyện từ và câu
là cần thiết đối với GV, trước khi đi vào các bài dạy, tiết dạy cụ thể
Câu 77
(?) Có thể dựa vào những dấu hiệu nào để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ?
Để có cơ sở phân biệt, trước hết, ta nhắc lại hai khái niệm từ đồng âm và từ từ nhiều
nghĩa. Từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, nhưng nghĩa
hoàn toàn khác nhau (âm giống nhau, nghĩa khác hẳn nhau). Do đó, các từ đồng âm
không bị chi phối bởi các quy luật ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Hiện tượng đồng âm là hiện
tượng mang tính phổ quát, xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ví dụ, hình thức
ngữ âm đá trong hai văn cảnh dưới đây là những từ đồng âm :
- Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
(Bà Huyện Thanh Quan)
- Trăng tròn như quả bóng
Bạn nào đá lên trời.
(Trần Đăng Khoa)
Một ví dụ khác, hai từ đường trong những dòng thơ dưới đây của Tố Hữu cũng là hai từ
đồng âm:
- Đường ta rộng thênh thang tám thước
- Em ạ, Cu-ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biến đổi nương.
Từ nhiều nghĩa (còn gọi là từ đa nghĩa) là một từ nhưng có nhiều nghĩa ; nói cách khác,
một hình thức ngữ âm nhưng có khả năng gọi tên nhiều sự vậu hiện tượng, biểu thị nhiều
khái niệm. Điều đáng lưu ý ở đây là, trong một gia đoạn lịch sử nhất định, các nghĩa khác
nhau của một từ nhiều nghĩa có mô liên hệ chặt chẽ với nhau và không thoát li nghĩa
chính. Ví dụ, từ ăn, thể Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), có các nghĩa sau :

Trang 113
(1) Tự cho vào cơ thể thức nuôi sống. Ăn cơm.
(2) Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới. Ăn Tết.
(3) Tiếp nhận. Tàu đang ăn hàng.
(4) Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng.
(5) Phải chịu lấy. Ăn đòn. Ăn đạn.
(6) Hấp thu. Da ăn nắng. Cá không ăn muối.
(7) Huỷ hoại, Sơn ăn mặt.
(8) Lan ra. Rễ tre ăn ra tới ruộng,
Ngoài các nghĩa trên, cũng có thể nhắc tới một số nghĩa khác của từ ăn :
(9) Hợp với nhau, tạo nên một cái gì hài hoà. Ăn ảnh.
(10) Thuộc về. Đám đất này mn về xã bên.

96
(11) Có thể đổi ngang giá. Một đô-la ăn mấy đồng Việt Nam ?
(12) Khớp với nhau. Phanh rất ăn. Mộng rất ăn.
Dưới đây là một số nhận xét:
- Trong các nghĩa nêu trên của từăn, nghĩa 1 được coi là nghĩa chính, nghĩa gốc. Các
nghĩa còn lại là nghĩa chuyển.
- Trong các nghĩa chuyển từ 2 đến 8, có thể nhận biết, xác lập được mối quan hệ về nghĩa
giữa các nghĩa chuyển với nghĩa chính (ở các mức độ khác nhau) - nghĩa là có thể giải
thích được từng nghĩa chuyển được hình thành từ nét nghĩa nào trong cấu trúc nghĩa của
từ ăn mang nghĩa chính (Có thể là nét nghĩa thường trực hoặc nét nghĩa tiềm tàng).
- Nhưng đối với các nghĩa chuyển từ 9 đến 12, rất khó nhận biết, xác lập mối liên hệ về
nghĩa giữa các nghĩa này với nghĩa chính của từ ăn. Mối quan hệ này, nếu có thì đã rất
mờ, rất xa. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà có nhà chuyên môn cho rằng, nên coi các
từ ăn đang được đề cập đến (trong các trường hợp sử dụng từ 9 đến 12) là những từ đồng
âm với từ ăn mang nghĩa chính ; nhất là trường hợp sử dụng từ ăn trong các tổ hợp phanh
rất ăn, mộng rất ăn. Nói cách khác, từ ăn trong tổ hợp ăn cơm và từ ăn trong các tổ hợp
phanh rất ăn, mộng rất ăn giống nhau về hình thức ngữ âm - chữ viết, nhưng khác hẳn
nhau về nghĩa. Về một phương diện nào đó, có thể coi đây là những từ đồng âm.

Trang 114
Tóm lại, các từ đồng âm không có quan hệ gì với nhau về nghĩa. Trong khi đó, các nghĩa
của từ nhiều nghĩa lại có mối liên hệ mật thiết với nhau và bị chi phối bởi các quy luật
ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Trong các trường hợp sử dụng khác nhau của một từ, một khi ta
không xác định được mối quan hệ về nghĩa thì nên coi đó là các từ đồng âm.
Như vậy, dấu hiệu "mối quan hệ về nghĩa" giữa các từ có cùng hình thức ngữ âm – là dấu
hiệu để nhận biết, đồng thời là căn cứ chủ yếu dùng để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa.
Câu 78
(?) Các "từ chuyển loại" (VD: cày ruộng bằng cày ; lấy cưa để cưa gỗ ; mua muối
về muối dưa ; bước từng bước chậm rãi...) có phải là từ đồng âm hay không ? Sự
khác biệt giữa hiện tượng chuyển loại của từ và hiện tượng đồng âm thể hiện ở
những điểm nào ?.
(: )Hiện tượng chuyển loại (còn gọi là chuyển hoá từ loại) của từ là hiện tượng một từ nào
đó có khả năng đảm nhiệm vai trò của hai, ba từ loại khác nhau, Ngoài các ví dụ đã nêu
trong câu hỏi ở trên, ta có thể nêu một số ví dụ khác:
- Mượn chiếc cáng cứu thương để cáng người đi bệnh viện.
(Từ cáng thứ nhất là danh từ, từ cáng thứ hai là động từ)
- Ôn lại những kỉ niệm (kỉ niệm là danh từ)
Mình kỉ niệm cậu cái bút này (kỉ niệm là động từ)...
Như vậy, văn cảnh có tác dụng hiện thực hoá giá trị từ loại của từ. Nói cách khác, dựa
vào văn cảnh, ta có thể nhận biết được một từ nào đó, trong một trường hợp, một hoàn
cảnh sử dụng cụ thể, là danh từ hay động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, tình
thái từ.

97
Vấn đề đặt ra ở đây là trong các văn cảnh được dẫn ở phần đầu bài viết, danh từ cáng và
động từ cáng, danh từ kỉ niệm và động từ kỉ niệm có cùng hình thức ngữ âm như nhau. Vì
vậy, về một phương diện nào đó, các từ này (từ chuyên loại) cũng giống các từ đồng âm
(về hình thức ngữ âm của từ). Nhưng sự thực, hai loại từ này hoàn toàn khác nhau. Như
đã biết, trong các từ đồng âm, sự trùng hợp về ngữ âm - chữ viết giữa các từ chỉ là ngẫu
nhiên, nghĩa của các từ này hoàn toàn khác nhau, giữa chúng không có quan hệ ngữ nghề
Trong khi đó, các từ chuyển loại có mối quan hệ với nhau về nghĩa. Cụ thể

Trang 115
trong các ví dụ đã nêu, có thể nhận biết được mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ :
- Lấy cưa (1) để cưa (2) gỗ : cưa(1) chỉ "công cụ" ; cưa(2) chỉ "hoạt động sử dụng công
cụ".
- Mua muối(1) về muối(2) dưa : muối(1) chỉ "tinh thể trắng, vị mặn, dùng để ăn": muối
(2) chỉ "hoạt động cho muối vào thịt cá, rau quả để giữ được lâu hoặc làm thức ăn chua".
- Bước(1) từng bước(2) chậm rãi: bước(1) chỉ hoạt động đặt chân tới một chỗ khác để
di chuyển thân thể tới đó" ; bước(2) chỉ khoảng cách giữa hai chân khi bước".
- Ôn lại những kỉ niệm cũ : danh từ kỉ niệm chỉ "cái hiện lại trong trí óc về những sự việc
đáng ghi nhớ đã qua"; Mình kỉ niệm cậu cái bút này : động từ kỉ niệm chỉ "cho, tặng để
làm kỉ niệm"...
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể khẳng định "từ chuyển loại" và "từ đồng âm" không phải
là một. Hai loại từ này có sự khác nhau rõ nét : giữa các từ chuyển loại” có thể xác lập
được mối quan hệ về nghĩa, còn các "từ đồng âm" không có quan hệ gì với nhau về
nghĩa.
Từ đó, ta có thể đi tới một kết luận khác : hiện tượng chuyển loại và hiện tượng đồng âm
cũng khác nhau. Trong hiện tượng chuyển loại, ở một mức độ nào đó, có thể xác lập
được cơ chế chuyển loại (chuyển hoá từ loại) của từ. Cụ thể, theo các nhà chuyên môn,
trong một số trường hợp, có thể xác định được hướng chuyển loại, xác lập được sơ đồ
chuyển hoá từ loại của từ. Một số ví dụ :
(1) - cày => cày ruộng
- cưa => cưa gỗ. Danh từ chuyển thành động từ.
- muối => muối dưa
(2)- chạy =>chạy thóc vào kho
- đi => đi con tốt (trên bàn cờ) Nội động từ chuyển thành ngoại động từ.
- cười » Nó cười anh đấy.
(3)- một cái chai nhỏ => một chai nước
- một cái thùng đựng gạo => một thùng gạo 1 Danh từ chỉ vật thể chuyển
- một cái tủ sách – một tủ sách thành danh từ chỉ đơn vị
- một cái thuyền – một thuyền cá

Trang 116

98
Trong khi đó, ở hiện tượng đồng âm, và vấn đề trên không được đặt , nghĩa là không xác
lập được cơ chế hoạt động, mà sự trùng nhau về hình thức ngữ âm của từ, như đã nói, chỉ
là ngẫu nhiên.
Ngoài phương diện nói trên, giữa hiện tượng chuyển loại và hiện tượng đồng âm còn
khác nhau ở chỗ : Theo một số nhà chuyên môn, chuyển loại được coi là một trong những
phương thức cấu tạo từ, có khả năng tạo từ mới trên cơ sở từ đã có, bằng cách giữ nguyên
vỏ ngữ âm của từ cũ, tạo ra một nghĩa mới có quan hệ nhất định với nghĩa của từ cũ. Nói
cách khác, sự chuyển loại có khả năng sản sinh. Trong khi đó, hiện tượng đồng âm tuy
có liên quan đến nhiều từ trong ngôn ngữ (các từ đồng âm) nhưng không phải là một
phương thức cấu tạo từ.
Cuối cùng, cũng cần nói tới một sự khác biệt nữa : Nếu như hiện tượng chuyển loại chủ
yếu xảy ra trong phạm vi hai từ loại (xem các ví dụ đã dẫn ở trên thì hiện tượng đồng âm
có thể xảy ra trong phạm vi một từ loại hoặc hai, ba từ loại)
VD:
- Tôi lồng chăn (lồng là động từ).
- Con ngựa lồng lên (lồng là động từ).
- Chim sổ lồng (lồng là danh từ).
Tóm lại, từ những điều đã trao đổi ở trên, một kết luận nhỏ mang tính nghiệp vụ có thể
được rút ra : Khi day bài "Từ đồng âm" trong SGK Tiếng Việt 5, GV lưu ý không dẫn các
ví dụ thuộc hiện tượng chuyển loại. Bên cạnh đó, nếu nảy sinh tình huống HS hỏi các từ
kiểu "Lấy cưa về cưa gỗ" có phải là từ đồng âm hay không, thì GV cần giải thích một
cách đơn giản, dễ hiểu) để các em nắm được trường hợp trên không phải là từ đồng âm.
Câu 79
(?) Về vấn đề từ đồng nghĩa, vì sao SGK Tiếng Việt 5 cũ tách thành hai bài : Từ
cùng nghĩa và Từ gần nghĩa, nhưng SGK Tiếng Việt 5 mới lại gộp thành một bài Từ
đồng nghĩa:
(: )SGK Tiếng Việt 5 cũ (sách CCGD, sử dụng từ năm 1985 đến năm 2006) đã tách hai
tiểu loại từ đồng nghĩa thành hai bài dạy riêng (Từ cùng nghĩa và Từ gần nghĩa). Từ cùng
nghĩa tương ứng với tiểu loại Từ đồng nghia hoàn

Trang 117
toàn, còn Từ gần nghĩa tương ứng với tiểu loại Từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Theo
quan niệm của các soạn giả SGK cũ, mỗi tiểu loại trên có những đặc trưng riêng về nghĩa
(mức độ đồng nghĩa), về đặc điểm sử dụng trong thực tiễn giao tiếp. Vì vậy, việc bố trí
mỗi tiểu loại vào một bài dạy, giúp GV và HS nhận biết kĩ hơn, đầy đủ hơn về đặc điểm
của từng tiểu loại từ đồng nghĩa – là một cách làm, cách thiết kế nội dung SGK có tính
hợp lí nhất định. Tuy nhiên, tìm hiểu nội dung và các ví dụ về hai tiểu loại từ đồng nghĩa
này, người ta nhận thấy có một số điểm còn khiên cưỡng, chưa thoả đáng. Cụ thể, bài Từ
đồng nghĩa (Tiếng Việt 5, tập hai, tr. 79, CCGD) dẫn các ví dụ như : chết, qua đời, mất,
hi sinh... ; cho, biếu, tặng, Người đọc dễ dàng nhận thấy sự khiên cưỡng ở đây, vì các từ
trên tuy đồng nhất về nghĩa biểu niệm, nhưng lại phân hoá, khác nhau về nghĩa biểu thái,

99
nhất là về phạm vi, hoàn cảnh sử dụng. Các từ này không thể dùng như nhau và có thể
thay thế nhau như SGK đã nêu ra. Đến bài Từ gần nghĩa (Tiếng Việt 5, tập hai, tr. 84,
CCGD), SGK lại dẫn các ví dụ : đất nước, non sông, Tổ quốc, giang sơn ; dũng cảm, anh
dũng , vui vẻ, phấn khởi,... Người đọc nhận thấy về một phương diện nào đó, các từ này
lại có dáng dấp của từ cùng nghĩa. Như vậy, việc miêu tả nội dung và dẫn các ví dụ minh
hoạ hai bài này ở SGK cũ còn khiên cưỡng, chưa giúp người đọc thấy rõ ranh giới của
hai tiểu loại từ đồng nghĩa và từ đó, dễ gây thắc mắc ở GV và HS.
SGK Tiếng Việt 5 mới (sử dụng từ năm 2006) đã gộp hai bài Từ cùng nghĩa, Từ gần
nghĩa trong SGK cũ thành một bài dạy, với tên gọi Từ đồng nghĩa. Cách bố trí, thiết kế
nội dung này một mặt giúp GV và HS có cái nhìn bao quát, tổng hợp về vấn đề từ đồng
nghĩa trong tiếng Việt, mặt khác thể hiện được yêu cầu hạn chế lí thuyết, tăng cường thực
hành, không đi vào miêu tả, phân loại các hiện tượng ngôn ngữ như cách làm của các nhà
chuyên môn thuộc các chuyên ngành hẹp, hoặc như cách viết trong các giáo trình đại học,
cao đẳng... nặng tính hàn lâm, lí thuyết ; đồng thời có thể hạn chế được sự khiên cưỡng,
không thoả đáng như đã phân tích ở trên. Cố nhiên, SGK Tiếng Việt 5 mới khó tránh
được ít nhiều sự khiên cưỡng khi tiếp tục phân từ đồng nghĩa tiếng Việt thành hai loại : từ
đồng nghĩa hoàn toàn và từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Về vấn đề này, theo chúng tôi,
cách làm hợp lí hơn cả là khi dạy cho HS tiểu học, không nên phân từ đồng nghĩa thành
các tiểu loại.

Trang 118
Ở đây, có thể sử dụng định nghĩa : Từ đồng nghĩa là những từ khi âm thanh nhưng có
chung ít nhất một nét nghĩa, và mức độ đồng hìn thấy nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số lượng
net nghia chung giữa nhiều hay ít. Như vậy, một mặt không phân từ đồng nghĩa thành các
mặt khác nói rõ, nhấn mạnh mức độ đồng nghĩa giữa các từ – đó giải quyết được coi là
hợp lí, tránh được sự khiên cưỡng, khi đề can để từ đồng nghĩa trong SGK phổ thông nói
chung, SGK tiểu học nói rriêng.
Câu 80
(?) Bằng cách nào để hướng dẫn học sinh tiểu học nhận ra một từ có nhiều nghĩa ?
(:) Có thể hướng dẫn HS tiểu học nhận biết một từ nhiều nghĩa theo cách sau.
- Trước hết, tìm từ có 1 nghĩa : Từ nào là tên gọi của 1 sự vật, hiện tượng thì từ ấy chỉ có
1 nghĩa. VD: xe đạp : chỉ loại xe người đi, có 2 hoặc 3 bánh dùng sức người đạp cho quay
bánh.
Đó là nghĩa duy nhất của từ xe đạp. Vậy, có thể nói, từ xe đạp là từ chỉ có 1 nghĩa.
- Trên cơ sở đó, tìm từ nhiều nghĩa : Một từ (một hình thức ngữ âm - chữ viết) nhưng có
thể gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng, biểu đạt nhiều khái niệm trong thực tế khách quan,
thì được gọi là từ nhiều nghĩa. VD : từ chạy (động từ) có thể có các nghĩa sau đây:

100
(1) (Người, động vật) di chuyển thân thể bằng những bước nhanh (Vận động viên thì
chạy 400m vượt rào. Ngựa chạy đường dài).
(2) (Người) di chuyển nhanh đến nơi khác, không kể bằng cách gì. (Bọn địch thua chạy
dài. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại – Tục ngữ).
(3) (Vật) di chuyển nhanh đến nơi khác trên một bề mặt (Tàu chạy trên đường sắt. Ca nô
chạy trên sông).
(4) (Máy móc) hoạt động, làm việc (Máy chạy suốt cả ngày. Đồng hồ chạy chậm).
(5) Nhanh chóng tránh trước đi điều gì không hay (Chay giặc. Chạy thóc vào kho. Chạy
con mã).

Trang 119
(6) Tìm kiếm cái đang cần (Chạy thầy chạy thuốc. Chạy ăn từng bữa).
(6) Nằm trải ra thành dải dài và hẹp (Con đường chạy qua làng. Dãy núi chạy từ đông
sang tây).
(7) Làm nổi lên thành đường dài để trang trí (Chạy một đường viền quanh cổ áo).
Như vậy, hình thức ngữ âm “chạy” (từ “chạy”) có khả năng gọi tên nhiều sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan, biểu đạt nhiều khái niệm khác nhau. Từ đó, ta có thể
nói: “chạy” là một từ có nhiều nghĩa.
Trở lại vấn đề mà câu hỏi đề cập tới, muốn hướng dẫn HS tiểu học (ở đây là HS lớp 5)
nhận biết từ nhiều nghĩa, GV có thể đặt một số câu hỏi gợi . VD:
- Từ chạy có thể xuất hiện trong các cụm từ, các câu hỏi nào?
- Trong từng cụm từ, câu nói ấy, từ chạy có ý nghĩa là gì? (hoặc: biểu thị hoạt động gì?)
- Như vậy, từ chạy có một nghĩa hay nhiều nghĩa? (hoặc: Từ chạy là từ một nghĩa hay
nhiều nghĩa?)
Câu 81
? Từ trái nghĩa có những loại nhỏ nào?
: Có một số cách phân loại từ trái nghĩa. Tương ứng với mỗi cách phân loại, ta có một kết
quả phân loại.
a) Dựa vào từ loại của từ trái nghĩa, ta có thể chia ra:
- Các từ trái nghĩa là tính từ
Loại này chiếm tỉ lệ cao trong các từ trái nghĩa. VD: cao - thấp, dài - ngắn, nông - sâu,
rộng - hẹp, tròn - méo, xấu - tốt, đục - trong, rách - lành, ít - nhiều, trẻ - già, lớn - nhỏ,
dày - mỏng, béo - gầy, gần - xa, mạnh - yếu, chặt - lỏng, nặng - nhẹ, đúng - sai, nhanh -
chậm, sớm - muộn, nóng - lạnh, đầy - vơi, thừa - thiếu, giàu - nghèo, đậm - nhạt, lợi - hại,
cứng - mềm, may - rủi, thiện - ác, khó - dễ, sang - hèn, quen - lạ, tiến bộ - lạc hậu...

101
Trang 120
- Các từ trái nghĩa là danh từ, động từ
Loại này chiếm tỉ lệ thấp trong các từ trái nghĩa tiếng Việt. VD:
+ Danh từ: bạn - thù, ngày - đêm, chủ - khách, nước - lửa, tư sản - vô sản, địa chủ - nông
dân, chiến tranh - hòa bình, cá thể - tập thể, địa ngục - thiên đường, ánh sáng- bóng tối,...
+ Động từ: nâng - hạ, tiến - lùi, cho- nhận, vay - trả, bán- mua, ẩn - hiện, cười - khóc, hỏi
- đáp, đi - về, buồn - vui, đón - tiễn, đóng - mở, tặng - đoạt, chìm - nổi, sống - chết, đoàn
kết - chia rẽ, phân tán - tập trung,...
b) Dựa vào đặc trưng của các cặp từ trái nghĩa, người ta chia các từ trái nghĩa thành hai
loại:
- Trái nghĩa loại trừ lẫn nhau
Những từ này biểu thị sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất không thể cùng tồn tại.
VD: sống - chết, mua - bán, tự do - nô lệ, chính nghĩa - phi nghĩa, vắng mặt - có mặt,..
- Trái nghĩa không loại trừ nhau
VD: vui - buồn, xa o- gần, no - đói, già - trẻ, xanh - chín,...
c) Dựa vào phạm vi sử dụng, mức độ ổn định của các từ trái nghĩa, người ta chia từ trái
nghĩa thành hai loại:
- Trái nghĩa từ vựng
Các từ trái nghĩa từ vựng chiếm tỉ lệ cao, có tính ổn định, cố định, bất biến, dùng chung.
Nói đến từ trái nghĩa trong ngôn ngữ là nói tới trái nghĩa từ vựng. VD: cao - thấp, ngắn -
dài, to - nhỏ,...
- Trái nghĩa tu từ
Các từ trái nghĩa này chỉ tồn tại trong những văn cảnh cụ thể. Nó có tính chất lâm thời,
tính chất cá nhân, ít tính cố định, ổn định. Vì vậy, nó không thể được đề cập tới trong từ
điển từ trái nghĩa. VD:
voi - chuột (đầu voi đuôi chuột)
rồng - tôm (rồng đến nhà tôm)
châu chấu - voi (châu chấu đá voi)
Tóm lại, ở Tiểu học, HS không học về các tiểu loại từ trái nghĩa, nhưng GV cần biết để
có cơ sở dạy tốt các bài “Từ trái nghĩa” và “Luyện tập về từ trái nghĩa” trong SGK Tiếng
việt 5.
Trang 121
Câu 82
? Nghĩa gốc và nghĩa chuyển được phân biệt rõ với nhau như thế nào? Nghĩa của từ
đi trong đi học, đi chợ là nghĩa gốc hay nghĩa chuyển?
: a) Phân biệt “nghĩa gốc” với “nghĩa chuyển”
- Nghĩa gốc: Là nghĩa đầu tiên của tu từ, là sự vật, hiện tượng đầu tiên mà từ biểu thị.
Nghĩa gốc thường là nghĩa cơ bản, làm nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ.
- Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối liên hệ mật thiết với
nghĩa gốc. Trong từ điển, khi miêu tả nghĩa của từ nhiều nghĩa, người ta nêu nghĩa gốc
trước, sau đó mới tới các nghĩa chuyển.
Ví dụ, từ “hai” có ít nhất 2 nghĩa sau:

102
(1) Cơ quan ở hai bên đầu người hoặc động vật, dùng để nghe (VD: Điều tai nghe mắt
thấy”
(2) Bộ phận của một số vật, có hình dáng chìa ra giống như cái tai (VD: tai ấm, tai cối
xay,...)
Như vậy, nghĩa (1) của từ tai là là nghĩa gốc, nghĩa (2) là nghĩa chuyển.
b) Từ nghĩa từ đã nói ở trên, ta vận dụng vào việc nhận biết các nghĩa khác nhau của từ
“đi”. Cụ thể, muốn biết nghĩa của từ đi trong đi học, đi chợ là nghĩa gốc hay nghĩa
chuyển, ta hãy bắt đầu bằng việc miêu tả nghĩa gốc của từ đi.
Đi: “Hoạt động tự di chuyển, dời chỗ bằng chân (của người, động vật), với cách thức, tốc
độ bình thường” (VD: Cháu bé đi chưa vững). Từ đó, ta nhận thấy: đi trong đi học, đi chợ
có nghĩa: “(Người) tự di chuyển đến nơi khác, không kể bằng cách gì”. Nghĩa này của từ
đi không hoàn toàn giống nghĩa gốc. Nó biểu thị một khái niệm ít nhiều có khác so với
khái niệm được biểu thị trong nghĩa gốc, nhưng vẫn có mối liên hệ với nghĩa gốc. Vì vậy,
nên coi nghĩa này của từ đi là nghĩa chuyển. (Hoặc có thể coi đây là hiện tượng “chuyển
dần” từ nghĩa gốc sang nghĩa chuyển).
Lưu ý: Về mặt cấu tạo, các tổ hợp từ đi học, đi chợ được hiểu là mang tính chất trung
gian giữa từ ghép và cụm từ tự do. Về mặt nghĩa, nghĩa của từ

Trang 122
đi trong đi học, đi chợ ít nhiều đã bị mờ, không mang tính xác định như khi từ đi được sử
dụng với nghĩa gốc.
Câu 83
? Đề nghị nói rõ hơn về biện pháp chơi chữ bằng từ đồng âm.
: Trước hết cần hiểu chơi chữ là gì? Chơi chữ là biện pháp tu từ thực hiện bằng cách vận
dụng âm thanh, từ ngữ nhằm tạo ra cách hiểu bất ngờ, thú vị.
Chơi chữ bằng từ đồng âm (hoặc : dùng từ đồng âm để chơi chữ) là dựa vào từ đồng âm
để tạo ra những câu nói có nhiều nghĩa, gây bất ngờ thú vị. Biện pháp nghệ thuật này
được sử dụng khá phổ biến trong văn học. Nó có sự tác dụng kích thích sự liên tưởng của
người đọc. Qua đó, người đọc sẽ nhận biết, phát hiện được những hàm ý, ngụ ý, ẩn ý mà
người viết sử dụng trong các câu văn, câu thơ. Có thể lấy ví dụ trong bài ca dao trào
phúng quen thuộc:
Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Thầy bói xem quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn.
Ta dễ dàng nhận ra lợi trong dòng thứ hai là tính từ, chỉ “lợi ích” (trái với hại, thiệt hại),
còn lợi trong dòng thứ tư là danh từ (vừa hàm ý là tính từ), chỉ “bộ phận trong khoang
miệng gần liền với răng”. Như vậy, ta có hai từ lợi đồng âm với nhau. Tương quan ngữ
âm và ngữ nghĩa nói trên đã tạo ra sự hài hước, sự dí dỏm, thể hiện sự thông minh của tác
giả dân gian khi sử dụng biện pháp chơi chữ đồng âm.

103
Một số ví dụ quen thuộc khác, trong bài thơ Khóc Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương cũng sử
dụng thành công biện pháp chơi chữ đồng âm:
Chàng Cóc ơi, Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Trong bài thơ này, các từ chàng, cóc, bén, nòng nọc, chuộc, vừa là tên gọi của các con vật
thuộc họ ếch nhái (chẫu chàng, cóc, nhái bén, nòng nọc,

Trang 123
chẫu chuộc) lại vừa mang một nghĩa khác. Nhờ đó, tác giả đã tạo ra một bài thơ độc đáo
về nghệ thuật chơi chữ.
Tóm lại, biện pháp chơi chữ bằng từ đồng âm thể hiện một trong những giá trị của từ
đồng âm trong tiếng Việt, thể hiện khả năng vận dụng ngôn ngữ một cách tài tình của các
nhà văn, nhà thơ và các tác giả dân gian.
Câu 84
? Đại từ trong tiếng Việt gồm có những tiểu loại nào?
: a) Trước hết, cần nhắc lại khái niệm đại từ. Đại từ là từ dùng để xưng hô hoặc để thay
thế (thay thế danh từ, động từ, tính từ, số từ, hoặc cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính
từ) nhằm tránh sự lặp lại giữa các từ ngữ ấy. Khi thay thế cho các từ thuộc từ loại nào thì
đại từ mang đặc điểm ngữ pháp của từ loại ấy.
b) Căn cứ vào mục đích sử dụng, có thể phân đại từ tiếng Việt thành các loại từ nhỏ sau:
- Đại từ xưng hô
Là từ được nói dùng để tự chỉ mình hay chỉ người khác khi giao tiếp.
VD: tôi, chúng tôi; mày, chúng mày; nó chúng nó,..
- Đại từ thay thế
Dùng để thay thế cho động từ, tính từ (cụm động từ, tính từ) nhằm tránh sự lặp lại từ ngữ.
VD:
+ Tôi rất thích thơ. Em gái tôi cũng vậy.
+ Ba nó rất mê bóng đá. Nó cũng thế.
+ Công việc dạo này còn khó khăn không? Công việc vẫn thế.
Vậy, thế là các đại từ thay thế.
- Đại từ chỉ định
Dùng để trỏ người, sự vật trong không gian, thời gian. VD: đây, đầy, đó kia, này, nọ, ấy,
nay, nãy, nấy, bây, bấy, bây giờ, bấy giờ,...
Các từ này thường dùng đứng sau danh từ: ngôi nhà này, ngày ấy, tối nay...

Trang 124
- Đại từ nghi vấn
Dùng để hỏi về người, sự vật: về đặc điểm, tính chất; về không gian, thời gian, số lượng...
VD: + ai? (hỏi về người).
+ gì? cái gi? (hỏi về sự vật)

104
+ đâu? (hỏi về không gian, nơi chốn)
+ bao, bao nhiêu, mấy? (hỏi về số lượng)
+ sao, nào, thế nào? (hỏi về đặc điểm, tính chất)
- Đại từ phiếm chỉ
Phiếm chỉ có nghĩa là chỉ chung, không cụ thể, xác định. Đại từ phiếm chỉ dùng để chỉ
chung mọi người, mọi sự vật, nơi chốn, không gian, đặc điểm, tính chất, số lượng... mà
không nhằm mục đích chỉ một đối tượng cụ thể nào. VD:
+ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai. (ca dao)
+ Ở đâu tre cũng xanh tươi (Nguyễn Duy)
+ Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. (Hồ Chí Minh)
+ Gặp ai tôi cũng chào, việc gì tôi cũng làm, đi đâu tôi cũng đi, bao giờ tôi cũng sẵn sàng.
Giữa đại từ nghi vấn (dùng để chào hỏi) và đại từ phiếm chỉ (dùng để chỉ chung về đối
tượng) tuy khác nhau về mục đích sử dụng nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Hai loại đại từ này dùng chung vật liệu, ngữ liệu (cùng dùng các từ như ai, gì,
đâu, nào, bao giờ...). Vì cùng chung chất liệu nên có người gộp đại từ nghi vấn và đại từ
phiếm chỉ làm một loại (Một loại đại từ có hai công dụng: dùng để hỏi và dùng để phiếm
chỉ).
Câu 85
? Đề nghị nói rõ hơn về đại từ xưng hô trong tiếng Việt. Những trường hợp như anh
ấy, cô ấy, ông ta, bà ta... có phải là đại từ xưng hô hay không?
: SGK Tiếng Việt 5, tập một có một bài dạy riêng về đại từ xưng hô. Vì vậy, để giúp GV
dạy tốt bài này, dưới đây, xin cung cấp thêm một số tư liệu về đại từ xưng hô trong tiếng
Việt.
Trang 125
- Đại từ xưng hô là đại từ mà người nói tự xưng (ngôi thứ nhất), người nói nói với người
đối thoại (ngôi thứ hai) hoặc nói về người khác hay sự vật khác (ngôi thứ ba). Đại từ
xưng hô gồm có số ít và số nhiều dưới đây là bảng phân loại đại từ xưng hô:
Số Ít Nhiều

Ngôi
1 tôi, tao, tớ, mình chúng tôi, chúng tao,…
2 mày, mi,… chúng mày, chúng mi,…
3 nó, hắn, y, thị chúng nó, họ,…
- Một số danh từ chỉ quan hệ quen thân thuộc như ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, chú, bác,
cô, dì, cậu, mợ,… cũng được dùng để xưng hô như lại từ. Lúc này, chúng có giá trị lâm
thời làm đại từ xưng hô. Điều cần lưu ý ở đây là giá trị lâm thời làm đại từ xưng hô của
các danh từ này phải gắn với một tình huống giao tiếp cụ thể, gắn với một văn cảnh. Tách
khỏi tình huống ấy, văn cảnh ấy, giá trị lâm thời làm đại từ xưng hô của các danh từ
không còn nữa. VD:
+ Nếu nói: “Nhà em có 5 người, gồm ông, bà, bố, mẹ và em” thì các từ ông, bà, bố, mẹ
là danh từ.
105
Nhưng nếu nói: “Anh bảo mà em chẳng nghe”. “Ông dậy cháu học đàn nhé” thì các từ
anh, em, ông, cháu được coi là đại từ xưng hô.
+ Các từ chú, bác, cháu…. là danh từ. Nhưng nếu nói: “Bác đi đâu đấy?”. “Cháu chào
chú ạ” thì các từ chú, bác, cháu được coi là đại từ xưng hô.
- Đại từ xưng hô trong tiếng Việt ngoài việc chỉ ngôi còn thể hiện mối quan hệ giữa
người nói và người nghe và người được nhắc tới khi thể hiện thái độ cảm xúc của người
nói. VD:
+ Các đại từ xưng hô trong đoạn thơ của Tố Hữu dưới đây thể hiện rõ sự phẫn nộ, lòng
căm thù bọn giặc xâm lược của bà má Hậu Giang:
Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó !
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao !
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng.”

Trang 126
+ Cách xưng hô của nhân vật chị Dậu trong câu nói sau đây cũng thể hiện thái độ phẫn nộ
của chị:
“Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem.”
-Trở lại với bảng phân loại đại từ xưng hô ta thấy, ở các ô trong bảng này, có thể bổ sung
các danh từ lâm thời làm đại từ xưng hô. Do đó, các tổ hợp như anh ấy, cô ấy, ông ta, bà
ta,… có thể bổ sung vào ô “ngôi thứ ba”, “số ít” (như các đại từ: nó, hắn, y, thị,…). Như
ta biết, các tổ hợp này vốn không phải là đại từ xưng hô, nhưng có thể lâm thời làm đại từ
xưng hô.
Câu 86
? Đề nghị cho biết mức độ kiến thức cần dạy về đại từ cho HS lớp 5.
: Đại từ là từ loại có số lượng từ không nhiều nhưng có vị trí, vai trò quan trọng, nhất là
vai trò trong việc liên kết câu. Các kiến thức cơ bản về từ loại, đại từ khá phong phú,
nhưng ở Tiểu học nói chung, lớp 5 nói riêng, chương trình chỉ quy định dạy cho HS
những kiến thức sơ giản, ban đầu về đại từ. Cụ thể, ở lớp 5, học sinh cần nắm được khái
niệm đại từ (là từ dùng để xưng hô hoặc để thay thế) và bước đầu biết sử dụng đại từ thay
thế cho danh từ cụm danh từ bị dùng lặp lại trong câu, trong đoạn. Bên cạnh đó, trong các
tiểu loại đại từ, HS cần nắm được tiểu loại đại từ xưng hô , nhận biết được đại từ xưng hô
trong câu văn, đoạn văn bước đầu biết sử dụng đại từ xưng hô thích hợp trong một câu,
một đoạn văn. Trong việc dùng đại từ xưng hô, người Việt Nam rất chú ý đến việc bày tỏ
thái độ, tình cảm của mình đối với người khác. Vì vậy, bài học về đại từ xưng hô cũng
lưu ý HS khi xưng hô, cần chú ý chọn từ cho thích hợp thể hiện đúng mối quan hệ giữa
mình với người nghe và người được nhắc tới. Đó là mức độ kiến thức cần dạy và một số
điều cần lưu ý khi dạy về loại đại từ cho HS lớp 5.
Câu 87
? Quan hệ từ có những tiểu loại nào? SGK Tiếng Việt 5 có dạy phân loại quan hệ từ
hay không ?

106
: a)Trước hết, xin nhắc lại khái niệm quan hệ từ (còn gọi là từ quan hệ, từ nối, kết từ,…).
Quan hệ từ là những từ biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ, các cụm từ, giữa các bộ
phận của câu hoặc giữa các câu với nhau. VD:

Trang 127
-Nối từ với từ: Sách của tôi; sống và chiến đấu…..
- Nối các cụm từ với cụm từ: (Anh) không xuống thuyền mà đi bộ dọc bờ sông.
- Nối các bộ phận của câu: Bức thư do tôi viết. Anh đi hay tôi đi?
- Nối các câu với nhau: Lúc có bạn thì chuyện trò tíu tít, có khi đuổi nhau suốt dọc
đường. Nhưng khi đi một mình, tôi thích…. Nhìn lên các vòm cây…
(Văn Long)
b) Căn cứ vào loại quan hệ ngữ pháp mà biểu thị, có thể chia quan hệ từ thành hai loại:
Quan hệ từ bình đẳng
Dùng để kết nối các yếu tố có quan hệ đẳng lập. VD: và, với, còn, rồi, nhưng, mà song,
chứ, hay, hoặc….
Quan hệ từ phụ thuộc
Dùng để kết nối các yếu tố có quan hệ chính phụ. VD: của, bằng, rằng, với, vì, do, tại,
bởi, nên, cho….
Một số quan hệ từ phụ thuộc vào khả năng kết hợp với quan hệ từ khác tạo thành cặp
quan hệ từ sóng đôi. VD: nếu….thì ; hễ (giá)….thì ; vì (do, bởi, tại)….nên…. ; tuy…
nhưng….; mặc dù…nhưng…. ; không những… mà….
SGK Tiếng Việt 5 không trực tiếp đề cập đến vấn đề phân loại quan hệ từ. Nhưng qua
cách trình bày các đơn vị kiến thức trong mục ghi nhớ , qua cách nêu yêu cầu trong các
bài tập, các tác giả biên soạn SGK cũng đã gián tiếp nói tới các tiểu loại quan hệ từ.
Những hiểu biết về các kiểu loại quan hệ từ sẽ có tác dụng nhất định đối với GV khi dạy
các bài về quan hệ từ trong SGK.
Câu 88
? Ngoài việc dùng các quan hệ từ để liên kết câu, như rồi, nhưng, song,… người ta
còn dùng các từ ngữ khác như tuy vậy, thậm chí, chính vì thế,… Nên hiểu đó là loại
từ gì?
: Khi liên kết các câu trong văn bản, một trong những trong những phương tiện liên kết
được sử dụng phổ biến là các từ ngữ có tác dụng kết nối như vì vậy, do đó, tuy nhiên,
ngoài ra, mặt khác,… Về cấu tạo, các từ ngữ này được các nhà chuyên môn gọi bằng
một số thuật ngữ như cụm từ, từ ngữ, tổ hợp kết từ,… Dưới đây là một số ví dụ về các tổ
hợp này:

Trang 128
Vì thế, vì vậy, vì chưng ; chính vì thế, chính vì vậy; do vậy; bởi lẽ; bằng thế; bởi vậy; bởi
chưng; tuy nhiên; tuy rằng;tuy vậy; tuy thế;nhưng mà; vậy thì; nếu vậy thì; thế thì; nếu
thế thì; thầm trí; cuối cùng; ngoài ra; mặt khác; trái lại; đồng thời; nói cách khác; tóm lại;
tựu trung lại,….

107
Theo chúng tôi, ở từng tổ hợp nói trên, về kết cấu, câu quan hệ giữa các thành tố (yếu tố
hợp thành) khá chặt chẽ, khó tách rời. Các tổ hợp này mang tính cố định, ổn định, bất
biến, cả tổ hợp là một khối vững chắc, giống như các từ (từ ghép). Nếu gọi các tổ hợp
này là cụm từ thì nên hiểu đó là các cụm từ cố định (chứ không phải là cụm từ tự do). Về
nghĩa (nghĩa ngữ pháp và cả nghĩa từ vựng ), các tổ hợp này cũng thể hiện tính thống
nhất về nghĩa như các từ ghép.
Như vậy, bên cạnh các quan hệ từ, tiếng Việt còn có các tổ hợp cố định có chức năng,
công dụng về cơ bản như các quan hệ từ. Khác chăng chỉ ở chỗ các tổ hợp này chủ yếu
được sử dụng để liên kết, nối kết các câu trong đoạn, các đoạn trong văn bản. Có thể gọi
các tổ hợp này là các từ ngữ có tác dụng kết nối hoặc tổ hoặc kết từ.
Câu 89
? Quan niệm và cách định nghĩa về câu ghép trong SGK Tiếng Việt 5 có gì đáng chú
ý?
: Trước hết, ta cần nhắc lại quan niệm và các định nghĩa về câu ghép trong SGK Tiếng
Việt 5.
SGK Tiếng Việt 5 nhấn mạnh câu ghép là do nhiều cụm chủ ngữ- vị ngữ bình đẳng với
nhau tạo thành. Ở đây có hai khía cạnh cần lưu ý: thứ nhất, “nhiều” được hiểu là “hai trở
lên”, “cụm chủ ngữ- vị ngữ” còn gọi là “kết cấu chủ- vị” ; thứ hai, cách nói “bình đẳng
với nhau” cần được hiểu rằng: các cụm chủ - vị này có tính độc lập tương đối so với
nhau, không có cụm chủ - vị nào làm thành phần cho cụm chủ - vị nào. Bên cạnh đó, chữ
“bình đẳng” ở đây không nên hiểu là quan hệ bình đẳng, có vai trò ngang nhau về mặt
ngữ pháp của các vế câu trong câu ghép đẳng lập. (Tuy nhiên, cũng cần nói rằng, cách
diễn đạt SGK Tiếng Việt 5 nêu trên dễ gây hiểu lầm ở GV)
SGK Tiếng Việt 5 nhấn mạnh vai trò quan trọng của đơn vị vế câu trong câu ghép (Tuy
nhiên, thuật ngữ vế câu được nêu ra trong định nghĩa câu ghép-

Trang 129
có phần hơi đột ngột. Lẽ ra ở trước đó, cần có “lời dẫn”, VD: câu ghép được cấu tạo
bằng hai cụm chủ - vị trở lên; các cụm chủ - vị có tính độc lập tập tương đối so với nhau;
mỗi cụm chủ - vị trong câu ghép được gọi là một vế câu).
SGK Tiếng Việt 5 không chủ trương phân loại câu ghép thành các loại nhỏ như phân
thành câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ (dựa vào quan hệ ngữ pháp được sử
dụng trong câu ghép); hoặc phân thành câu ghép có quan hệ liệt kê, quan hệ lựa chọn,
quan hệ từ hô ứng… (dựa vào mối quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu); hoặc phân thành
câu ghép lỏng, câu ghép chặt (dựa vào tính chất của mỗi mối quan hệ giữa các vế câu)….
Theo quan điểm “động”, SGK Tiếng Việt 5 nhấn mạnh sự sinh thành của các câu ghép,
hướng dẫn HS cách nối các vế câu ghép bằng các phương tiện ngôn ngữ, chứ không miêu
tả cấu trúc tĩnh của câu ghép như một số loại sách ngữ pháp thường làm.
Cách thiết kế nội dung dạy - học phần câu ghép của SGK Tiếng Việt 5 cho ta cái nhìn
“động” về câu ghép, đồng thời giúp HS hoạt động nhiều hơn góp phần thể hiện sự thay
đổi tích cực về nội dung và phương pháp dạy - học các môn học ở Tiểu học.
Câu 90

108
? Nên giải thích cho học sinh về các câu ghép dưới đây được nối bằng cách nào (theo
2 cách đã học trong bài Cách nối các vế câu ghép - Tiếng Việt 5, tập 2, tr12):
: a)Con phải mặc ấm, nếu trời rét.
b)Tuy đồng chí không muốn làm mất trật tự, nhưng tôi có quyền nhường chỗ và
đổi chỗ cho đồng chí.
Trong bài Cách nối các vế câu ghép - Tiếng Việt 5, tập 2, tr12 có nêu hai cách nối các vế
câu ghép: thứ nhất, nối bằng những từ có tác dụng nối (chủ yếu là quan hệ từ) và thứ hai
đối trực tiếp (không dùng từ nối ) ; trong trường hợp thứ hai này, giữa các vế câu cần có
dấu phẩy, dấu chấm phẩy hoặc dấu hai chấm.
Đối chiếu với nội dung lý thuyết nêu trên, ta dễ dàng nhận ra hai câu ghép được đề cập
trong câu hỏi thuộc loại thứ nhất, tức là các vế câu trong câu ghép được nối với nhau
bằng những từ có tác dụng nối (ở đây là quan hệ từ).

Trang 130
Cụ thể, ở câu rất thứ nhất, quan hệ từ được sử dụng ở đây là từ nếu; còn ở câu ghép thứ
hai quan hệ từ tuy… nhưng… Điều ta thấy băn khoăn ở đây chính là cả hai câu ghép này,
giữa hai vế câu, có sự xuất hiện của dấu phẩy. Do đó, có thể có người cho rằng hai câu
ghép này sử dụng cách nối thứ hai (nối trực tiếp). Sự thực không phải như vậy. Hai dấu
phẩy có mặt trong câu không làm thay đổi bản chất về cấu trúc của hai câu này. Cụ thể,
câu ghép thứ nhất có hiện tượng đảo vị trí của vế câu. Trật tự thuận của câu này là là
“Nếu trời rét thì con phải mặc ấm”. Nhưng do đảo vị trí của vế câu (nhằm nhấn mạnh vào
nội dung nêu trong vế chính), nên một quan hệ từ bị lược bỏ (từ thì) và dấu phẩy được bổ
sung vào giữa hai vế câu. Còn ở câu thứ hai, dấu phẩy nằm giữa hai vế có tác dụng tách ý
và nhấn mạnh, khẳng định điều mà chủ phải muốn nói ( Mặc dù dấu phẩy đặt giữa quan
hệ từ tuy… nhưng… là hơi “phá cách”)
Tóm lại, như đã nói ở trên, dấu phẩy trong hai câu ghép này không làm thay đổi bản chất
về cấu tạo của câu. Do đó, dấu phẩy này có thể lược bỏ. Hai câu ghép nêu trên vẫn thuộc
loại thứ nhất, trong đó các vế câu được nối trong nối với nhau bằng cách từ có tác dụng
nối.
Lưu ý: Dấu phẩy trở nên quan trọng, có ý nghĩa, đối với các câu ghép được nối theo cách
thứ hai - nói trực tiếp. Ở loại này, người ta không dùng từ nối để nối các vế câu ghép, mà
các vế câu được nối trực tiếp với nhau. Các dấu phẩy, dấu chấm phẩy hoặc dấu hai chấm
đặt giữa các vế câu, có tác dụng phân cách các vế câu, đánh dấu ranh giới giữa các vế
câu. Ngoài ra các ví dụ trong SGK, có thể dẫn câu ghép sau đây để minh họa: “Pháp
chạy, Nhật hàng, Vua Bảo Đại thoái vị”. ( Hồ Chí Minh )
Câu 91
? Phép liên kết câu trong bài bằng cách lặp từ ngữ có điểm gì khác với cách dùng
điệp từ, điệp ngữ trong câu văn, đoạn văn ?
Phép liên kết là biện pháp thực hiện sự liên kết câu trong văn bản bằng cách phương tiện
ngôn ngữ. Phép lặp (lặp từ ngữ) là một trong các phép trong câu tiếng Việt. Đó là hiện
tượng, là biện pháp dung nhiều lần trong một văn bản một từ hay một cụm từ nào đó
nhằm mục đích liên kết và giúp cho việc trình bày nội dung được chính xác, rõ ràng.

109
Trang 131
VD: “Trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Trước sập và hai bên bày bàn ghế.”
- Điệp từ, điệp ngữ không thuộc phép liên kết mà thuộc phép tu từ, biện pháp tu từ.
Biện pháp tu từ là cách phối hợp sử dụng khéo léo các phương tiện ngôn ngữ để
tạo ra hiệu quả diễn đạt cao, có tác dụng gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh hoặc khắc
sâu một ý, một nội dung nào đó. Điệp từ, điệp ngữ là lặp lại một cách có ý thức
những từ ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những
xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe. Nói cách khác, đó là cách sử dụng
nhiều lần một từ ngữ nào đó một cách có chủ ý, nhằm làm nổi rõ nội dung cần
khẳng định
VD: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
( Hồ Chí Minh)
- Như vậy, sự khác biệt của hai hiện tượng ngôn ngữ nói trên thể hiện kahs rõ. Nếu
như ở phép lặp từ ngữ, mục đích chủ yếu là liên kết câu thì ở biện pháp dùng điệp
từ, điệp ngữ, mục đích chủ yêu là làm tăng hiệu quả diễn đạt cho lời nói. Cố nhiên,
cũng cần nói thêm rằng, đôi hi điệp từ, điệp ngữ cũng có tác dụng liên kết câu,
nhưng đó không phải là mục đích chủ yếu của biện pháp tu từ này.
- Ở đây, cũng không nên lẫn lộn phép lặp từ ngữ với tư cách là phép liên kết câu với
lỗi lặp từ ngữ. Lỗi lặp là sự lặp lại từ ngữ một cách không cần thiết, làm cho câu
văn, đoạn văn lủng củng, bộc lộ sự nghèo nàn về vốn từ, về cách diễn đạt của
người viết. Đó là loại lỗi xuất hiện khá phổ biến mà ta cần tránh, cần có ý thức
khắc phục
Câu 92
Thành ngữ và tục ngữ được phân biệt với nhau như thế nào?
- Đây là vấn đề khá phức tạp, nan giải và hầu như rất khó tìm câu trả lời thỏa đáng.
Do đặc điểm của tiếng Việt và do sự vận động, chuyển hóa của các hiện tượng
ngôn ngữ nên có thể nói ranh giới của thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt không phải
bao giờ cũng rõ ràng rành mạch
- Thành ngữ là cụm từ cố định có tính hình tượng cao. Ngĩa của thành ngữ không
phải là phép cộng đơn thuần nghĩa cụ thể của từng yếu tố hợp thành, mà có tính
thống nhất, tính hoàn chỉnh, tính khái quát, tính hình tượng. (VD:

Trang 132
- Thành ngữ “Chuột sa chĩnh gạo” có nghĩa là : rất may mắn, được ở vào nơi vô
cùng thuận lợi.)

110
Thành ngữ có tác dụng làm cho câu văn thêm bóng bẩy, giàu hình tượng, có tính
biểu cảm cao, có hiệu quả tác động lớn đối với người đọc, người nghe.
- Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, được sử dụng ổn định trong lời nói, có cấu
trúc vững chắc, có vần điệu, phản ánh sự đúc kết tri thức đời sống, kinh nghiệm
thực tiễn, đạo đức và lối sống… của một dân tộc, một cộng đồng. VD: Ăn vóc học
hay. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Đời cha ăn mặn đời con khát nước.
Không thầy đố mày làm nên.
- Về sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, có thể nói: về cấu trúc và về nghĩa, nếu
như thành ngữ tương đương với đơn vị từ ( từ ghép) thì tục ngữ tương đương với
đơn vị ( từ ghép) thì tục ngữ tương đương với đơn vị câu trong ngôn ngữ. Thành
ngữ biểu thị khái niệm thì tục ngữ biểu thị phán đoán loogic. Cụ thể, các thành
ngữ “Mẹ tròn con vuông”, “Chuột sa chính gạo” tương đương với các khái niệm
“xuôi thuận, suôn sẻ” ; “may mắn”. Còn tục ngữ “Tay làm hàm nhai, tay quay
miệng trễ” có mỗi vế tương đương về một phán đoạn loogic, cả câu tục ngữ tương
đương với một suy lý logic, nói về một vấn đề trong đời sống, đó là “ Có làm thì
mới có ăn”. Tục ngữ tương ứng với một phạm vi hiện thực được bao quát rộng lớn
hơn so với thành ngữ
Một số phác thảo nói trên về sự phân biệt thành ngữ với tục ngữ chỉ có ý nghĩa gợi
ý để GV tham khảo và cùng quan tâm nghiên cứu. Bởi vì vấn đề này cũng sẽ giúp ích
cho GV trong quá trình đứng lớp hoặc chỉ đạo việc dạy học bộ môn Tiếng Việt ở
trường tiểu học
Câu 93.
Câu đặc biệt và câu rút gọn khác nhau như thế nào về cấu tạo và tác động?
Sự khác biệt giữa câu đặc biệt và câu rút gọn được thể hiện qua bảng so sánh dưới đây:

Trang 133
Câu đặc biệt Câu rút gọn
Về cấu -Câu đặc biệt (còn được gọi là câu - Câu rút gọn ( còn được gọi là câu
tạo đơn đặc biệt) là câu có cấu tạo đặc đơn rút gọn; câu tỉnh lược ; câu lược
biệt, nghĩa là không có cấu tạo theo bớt thành phần…) là loại câu lược bỏ
kiểu gồm hai bộ phận chính ( chủ chủ ngữ hay vị ngữ hoặc lược cả chủ
ngữ và vị ngữ) như bình bình ngữ lẫn vị ngữ. Nói cách khác, khi
thường. Nói cách khác, câu đặc biệt trò chuyện trực tiếp hoặc khi văn
chỉ có một bộ phận làm nòng cốt, cảnh cho phép, người nói (viết) có
không phân biệt được đó là chủ ngữ thể lược bỏ một hoặc hai bộ phậ
hay vị ngữ. chính của câu. Nhưng câu ấy vẫn
VD: + Cháy nhà! được hiểu đúng nhưu khi có đủ các
+ Báo động! bộ phận chính. Bộ phận câu được
-Câu đặc biệt thường do một từ hoặc giữ lại gọi là câu rút gọn.
cụm từ ( cụm từ chính phụ hoặc đẳng VD:

111
lập) tạo nên + Hưng ơi, bạn Đạt đâu?
-Để hiểu được câu đặc biệt, ta không - Về quê rồi
cần hoặc không thể thêm vào câu + Hưng rất thích nghe ca nhạc
một bộ phận nào khác. Tự bản thân quốc tê. Cả thành nữa
mình, câu đặc biệt là một đơn vị có -câu rút gọn luôn gắn với một hoàn
tính chỉnh thể và thực hiện được cảnh nói năng cụ thể, gắn với một
chức năng của một đơn vị thông báo văn cảnh cụ thể. Nhờ hoàn cảnh nói
-Căn cứ vào nòng cốt câu đặc biệt là rằng, dựa vào văn cảnh, người ta có
danh từ ( cụm danh từ) hay động từ ( thể khôi phục được một cách chính
cụm động từ), tính từ (cụm tính từ) xác các bộ phận câu đã bị lược bỏ.
… người ta chia câu đặc biệt thành 2 * Chú ý: Ccos thể lược bỏ bât kì bộ
loại: câu đơn đặc biệt – danh từ và phận nào trong câu (lược bỏ chủ ngữ
câu đơn đặc biệt – động từ, tính từ hoặc vị ngữ hay cả chủ ngữ lần vị
ngữ), thậm chí chỉ cần giữ lại một hư
từ vốn đóng vai trò thành tố phụ
trong cụm từ. VD:
+ Cậu đã đến gặp thầy giáo chưa?
- Đã
( Từ đã vốn chỉ là phụ từ làm bổ ngữ
trước cho động từ đến, ở đây được
dùng như một câu rút gọn).

Về tác Câu đặc biệt đuợc dùng trong những Trang 134
động hoàn cảnh đặc biệt. Cụ thể, dùng để: Câu rút gọn được dùng khi trò
-Diễn tả một lời gọi, một mệnh lệch. chuyện, hỏi – đấp trực tiếp. Sử dụng
VD: câu rút gọn, việc trao đổi ý kiến giữa
+ Mẹ! Mẹ ơi! hai bên ( người nói và người nghe)
+ Xung phong sẽ diễn ra ngắn gọn, nhanh chóng.
-Bộc lộ tình cảm, cảm xúc. VD: Bởi vì câu rút gọn chỉ lưu giữ lại từ
+ Hỡi ôi! Súng giặc đất rền… ngữ chứa đựng thông tin mới mà
+ Ôi, Vui quá! người nghe cần biết.
-Xác định thời gian, nơi chốn. VD: -Trong văn viết, câu rút gọn có tác
+ Mùa thu năm 1946 dụng nhấn mạnh bổ sung, giải
+ Thác Y-a-li ! Một thắng cảnh ! thích….
-Liệt kê sự vật, hiện tượng, hoạt
động, trạng thái…VD:
+ Đám người nhốn nháo lên.
Tiếng reo. Tiếng vỗ tay

112
+ Chửi. kêu. Đấm. Thụi. Bịch
( Nguyễn Công Hoan)
Câu 94
Từ thuần Việt và từ hán Việt khác nhau như thế nào?
a) - Từ thuần Việt là từ có gốc vốn là của tiếng Việt. Các từ chie các bộ phận trên cơ
thể người ( ví dụ: mắt, mũi, miệng, chân, tay,…) các từ chỉ số lượng (Ví dụ: một,
hai, ba…) trong tiếng Việt hầu hết là từ thuần Việt
- Từ hán Việt là từ gốc được sử dụng trong tiếng Việt. Nói cách khác, từ Hán Việt
là những từ tiếng Việt vay mượn của tiếng Hán, nhằm làm phong phú vốn từ của
tiếng Việt. Các từ này đã được Việt hóa về cách đọc, cách viết, tuân thủ theo các
nguyên tắc của tiếng Việt. Một số ví dụ: đàm thoại, trực quan, thể diện, lâm sản,
hải sản, hải đảo, cổ thụ, trực thăng, đại lộ, huyền thoại, an dưỡng, duyên hải,
nhân tạo, phu nhân, tiểu thư,

Trang 135
b) Phân biệt từ thuần Việt và từ Hán Việt
Ngoài những đặc điểm riêng nói trên, từ thuần Việt và từ Hán Việt còn khác nhau ở một
số điểm sau:
- Từ thuần Việt có tính chất giản dị, dân dã, dễ hiểu; còn từ Hán Việt có tính chất
trang trọng, cổ kính, bác học, có những từ ít nhiều khó hiểu
- Về phạm vi sử dụng, từ thuần Việt chủ yếu được sử dụng trong khẩu ngữ sinh
hoạt, trong lời ăn tiếng nói thường ngày; còn từ Hán Việt chủ yếu được sử dụng
trong sách vở, trong các văn bản. Trong văn học, nếu như văn chương bình dân
(văn học dân gian, truyền mạng) chủ yếu sử dụng từ thuần Việt thì văn chương bác
học lại chủ yếu sử dụng từ Hán Việt.
- Từ đơn thuần Việt (Ví dụ: đi, chạy, xấu, đẹp, sông, núi…) có thể sử dụng độc lập,
còn từ đơn trong tiếng hán ( ví dụ: quốc, gia, quân, thần, phụ, tử,..) ít được dùng
đọc lập, mà phải kết hợp với một từ đơn ( yếu tố gốc Hán) khác, tạo thành từ ghép
và từ ghép ấu mới được dùng độc lập (VD: Quốc gia, tổ quốc, quốc kì,…)
Lưu ý: Có những từ gốc Hán đã được việt hóa ở mức độ cao, khiến ta không nhận ra
được xuất xứ gốc Hán của nó, thậm chí có thể lầm tưởng đó là từ thuần Việt, Một số
VD:
+ Từ đơn: Sách, bút, đầu, đảng, lí, tình,….
+ Từ ghép: kỉ luật, bảo vệ, luyện tập, kính trọng, ôn tập, tiến độ, gia đình,

Trang 136

113
Phần ba: GIẢI ĐÁP VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
A - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Câu 95
Để giảng dạy tốt môn Tiếng Việt theo Chương trình Giáo dục phổ thông- cấp Tiểu
họ, (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ - BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), giáo viên cần nắm vững những yêu cầu cơ bản về
kiến thức; kĩ năng đối với học sinh từng lớp như thế nào?
Trong văn bản Chương trình Giáo dục phổ thông - cấp Tiểu học (ban hành kèm theo
Quyết định số 16 / 2006 / QĐ - BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo) , môn Tiếng Việt được xác định rõ Mục tiêu , Nội dung (Kế hoạch dạy học , Nội
dung dạy học từng lớp) và Chuẩn kiến thức , kĩ năng. Chuẩn kiến thức , kĩ năng trong văn
bản Chương trình nói trên được sự thể hoá ở các chủ đề của môn học theo từng lớp , ở
các lĩnh vực học tập cho từng lớp và cho cả cấp học.
Để tạo điều kiện giúp GV và cán bộ chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp
dạy học theo SGK Tiếng Việt cấp Tiểu học trong bộ tài liệu Phương pháp dạy học các
môn học ở Tiểu học - Lớp 1, 2, 3, 4, 5 Tập hai (NXB Giáo dục , 2007), Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã xác định những yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt
đối với HS từng lớp như sau :
Lớp Kiến thức Kĩ năng
1 - Nhận biết được các chữ cái , tổ hợp - Đọc đúng và rõ ràng bài văn đơn a
chữ cái , dấu thanh ; biết các bộ phận giản (khoảng 30 tiếng/phút), hiểu nghĩa
của tiếng (âm đầu , vần , thanh) ;biết các từ ngữ thông thường và nội dung
quy tắc viết chính tả các chữ c/k , thông báo của câu văn , đoạn văn .
Trang 137
g/gh , ng/ngh . - Viết đúng chữ viết thường, chép
- Biết một số từ ngữ chỉ sự vật, hoạt đúng chính tả đoạn văn (khoảng 30 chữ
động, tính chất thông thường; từ xưng / 15 phút) .
hô thường dùng trong giao tiếp ở gia - Nghe hiểu lời giảng và lời hướng dẫn
đình và trường học ... của giáo viên.
- Nhận biết được dấu chấm, dấu chấm - Nói rõ ràng, trả lời được câu hỏi đơn
hỏi, dấu phẩy trong bài đọc; nắm được giản.
các nghi thức lời nói đơn giản: chào
hỏi, chia tay trong gia đình, trường
học.

114
2 - Nắm được bảng chữ cái , ghi nhớ các - Đọc đúng và rành mạch bài văn ngắn
quy tắc chính tả (viết hoa chữ đầu câu, (khoảng 50 – 60 tiếng/phút ), nhận biết
viết hoa tên riêng Việt Nam). được ý chính của đoạn văn.
- Biết các từ ngữ chỉ một số sự vật , - Viết đúng và đều nét các chữ thường ,
hoạt động, tính chất thông thường; một chữ hoa; viết đúng bài chính tả (khoảng
số thành ngữ, tục ngữ dễ hiểu, bước 50 chữ 15 phút); viết được đoạn văn
đầu nhận biết các từ có quan hệ đồng kể, tả đơn giản (4 5 câu) dựa theo gợi ý
nghĩa, trái nghĩa; nhận biết câu kể, câu cho trước .
hỏi; bước đầu biết dùng một số dấu - Nghe hiểu yêu cầu, đề nghị của người
câu (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu đối thoại trong một số tình huống giao
chấm than, dấu phẩy) . tiếp thông thường, lời hiểu nội dung
- Nhận biết đoạn văn và ý chính của mẩu chuyện đã nghe.
đoạn văn; biết một số nghi thức lời nói - Nói thành câu, trả lời đúng vào câu
trong giao tiếp và cách tạo lập một số hỏi; kể được một đoạn của cậu chuyện
văn bản thông thường. đã đọc.
3 - Nắm vững mẫu chữ cái viết hoa; biết - Đọc đúng và rành mạch bài văn,
Trang 138
cách viết hoa tên riêng Việt Nam, tên (khoảng 70 – 80 tiếng phút), nắm được
riêng nước ngoài (phiên âm). ý chính của bài.
- Biết thêm các từ ngữ (gồm cả thành - Viết đúng và khá nhanh các chữ
ngữ, tục ngữ dễ hiểu) về lao động thường, chữ hoa, viết đúng bài chính tả
thường sản xuất, văn hoá, xã hội, bảo (khoảng 60-70 chữ/15 phút); biết viết
vệ Tổ quốc, ... thư ngắn theo mẫu, kể lại câu chuyện
- Nhận biết được các từ chỉ sự vật, hoạt theo tranh, kể lại công việc đã làm (7-
động, đặc điểm, tính chất; nắm vững 10 câu).
mô hình phổ biến của câu trần thuật - Nghe hiểu ý chính lời nói của người
đơn và đặt câu theo những mô hình đối thoại; thuật lại được câu chuyện đã
này; biết cách dùng dấu chấm, dấu nghe .
chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy, - Nói đúng và rõ ý, biết hỏi và nêu ý
dấu hai chấm. kiến cá nhân; kể được một đoạn truyện
- Bước đầu nhận biết biện pháp so đã đọc, đã nghe hoặc việc đã làm.
sánh, nhân hoá trong bài học và trong
lời nói.
- Biết cấu tạo ba phần của bài văn;

115
bước đầu nhận biết đoạn văn, ý chính
của đoạn văn và cấu tạo của một số
loại văn bản thông thường .
4 - Nắm được một số từ, thành ngữ, tục - Đọc rành mạch, lưu loát bài văn
ngữ theo chủ điểm. Nắm được nghĩa (khoảng 90 tiếng/phút), bước đầu đọc
của một số yếu tố Hán Việt, một số có biểu cảm đoạn văn, đoạn thơ; hiểu
thành ngữ, tục ngữ thông dụng. nội dung và ý nghĩa của bài đọc.
- Nhận biết được cấu tạo ba phần của - Viết được đoạn văn và bài văn kể |
tiếng (âm đầu, vần, thanh); nhận biết chuyện, miêu tả ngắn; viết đúng bài
được sự khác biệt về cấu tạo của từ chính tả (khoảng 80 – 90 chữ 15 phút).
Trang 139
đơn và từ phức, từ ghép và từ láy. - Nghe hiểu ý chính lời nói của người
- Hiểu thế nào là danh từ, động từ, tính đối thoại; nghe hiểu và kể lại được câu
từ; hiểu thế nào là câu, câu đơn, các chuyện đã nghe, đã đọc .
thành phần chính của câu đơn (chủ - Nói đúng và rõ ý kiến khi phát biểu,
ngữ, vị ngữ) , thành phần phụ trạng bước đầu nói thành đoạn để thông báo
ngữ; hiểu thế nào là câu kể, câu hỏi, tin tức, sự việc đã biết.
câu cảm, câu khiến.
- Nắm được kết cấu ba phần của bài
văn kể chuyện, miêu tả: mở bài, thân
bài, kết bài, bước đầu hiểu thế nào là
nhân vật, cốt truyện trong tác phẩm tự
sự.

5 - Nắm được một số từ, thành ngữ , tục - Đọc rành mạch, lưu loát bài văn, bài
ngữ theo chủ điểm. Nắm được bài thơ (khoảng 120 tiếng / phút); đọc có
nghĩa của một số yếu tố Hán Việt, một biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu
số thành ngữ, tục ngữ thông dụng. nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
- Biết vận dụng kiến thức đã học về - Viết đúng bài chính tả ( khoảng 100
các biện pháp tu từ so sánh và nhân chữ / 15 phút ); viết được đoạn văn, bài
hoá vào việc hiểu văn bản văn học và văn tả cảnh, tả người theo nội dung
thực hành nói, viết . chương trình quy định; bước đầu biết
- Nắm được cách sử dụng đại từ, quan ghi chép đơn giản khi nghe ý kiến hoặc
hệ từ; nắm được cấu tạo của câu ghép nghe kể chuyện.

116
và biết cách đặt câu ghép; hệ thống hoá - Nghe hiểu ý chính lời nói của người
kiến thức về câu và dấu câu đã học. đối thoại; nghe hiểu và kể lại đúng nội
- Biết cách đặt đầu để cho văn bản , dung câu chuyện đã học .
cách liên kết các câu và đoạn văn trong - Nói đúng và rõ ý kiến khi phát biểu,
văn bản; nắm được cách làm bài văn tả thảo luận, nói thành đoạn để thông báo
người, tả cảnh; bước đầu hiểu thế nào tin tức, sự việc; nói được thành đoan
là nhân vật, lời thoại trong kịch . khi miêu tả hay kể lại câu chuyện đã
đọc, đã nghe, đã chứng kiến .

Trang 140
* Ghi chú :
- Môn Tiếng Việt ở các lớp 1, 2, 3 không có bài học riêng về kiến thức (chỉ trình bày các
kiến thức HS cần làm quen và nhận biết thông qua các bài thực hành) .
- Một số kiến thức sơ giản về tiếng Việt , tập làm văn , văn học được trình bày thành bài
học riêng ở các lớp 4, 5 cũng chỉ nhằm mục đích cung cấp cho HS. những hiểu biết ban
đầu để thực hành rèn luyện các kĩ năng sử dụng tăng Việt (đọc , viết , nghe , nói) là chủ
yếu .

Câu 96
Chương trình , sách giáo khoa cấp Tiểu học được triển khai thực hiện trên toàn
quốc. Làm thế nào để việc dạy học môn Tiếng Việt phù hợp với đối tượng học sinh
có khả khăn trong học tập?
Để việc triển khai Chương trình , sách giáo khoa cấp Tiểu học đạt được những | hiệu quả
thiết thực trên toàn quốc , Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành một số văn bản chỉ đạo cụ
thể , trong đó có Công văn số 896/BGDĐT - GDTH ngày 13/2/2006 về việc Hướng dẫn
điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học.
Theo tinh thần Công văn nói trên , với các lớp có đối tượng HS gặp khó khăn trong học
tập, việc dạy học cần căn cứ vào trình độ tiếng Việt và khả năng tiếp thu của HS, được
phép giảm bớt một số nội dung và yêu cầu cụ thể của bài học trong SGK Tiếng Việt
nhằm tập trung rèn luyện tốt hai kĩ năng cơ bản: đọc - viết. VD:
- Lớp 1: Dạy phần Học vần, GV cần giúp HS nắm chắc các âm – vần được dạy trong
SGK Tiếng Việt 1, có kĩ năng đọc – viết được các tiếng chứa âm – vấn - thanh đã học.

117
Dạy phần Luyện tập tổng hợp, GV cần tập trung rèn luyện kĩ năng đọc đúng và rõ ràng ,
kĩ năng viết đúng chính tả theo yêu cầu để ra ở lớp 1. Các kĩ năng nghe - nói được quan
tâm rèn luyện trên cơ sở HS đạt vững chắc về các kĩ năng đọc - viết.
- Lớp 2, lớp 3: GV chú trọng dạy tốt hai kĩ năng đọc - viết ở các phân môn Tập đọc,
Chính tả, Tập viết, Tập làm văn ; giúp HS đọc thông - viết thạo "theo yêu cầu để ra ở
từng lớp”. Mức độ rèn luyện về các kĩ năng nghe - nói trong phân môn Kể chuyện và một
số kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu được giảm nhẹ, thể hiện trong việc thực
hiện một cách linh hoạt nội dung một số bài tập trong SGK Tiếng Việt 2, SGK Tiếng
Việt 3, ưu tiên thời gian cho việc dạy học hai kĩ năng đọc - viết.
141

- Lớp 4, lớp 5: Tập trung đạt những yêu cầu tối thiểu về kiến thức và kĩ năng (đọc, viết,
nghe, nói), trong đó hai kĩ năng
trọngđể HS có điều kiện thuận lợi khi học lên các lớp trên. Để rèn tốt các kĩ năng cơ
bản, GV có thể giảm yêu cầu của một số câu hỏi hoặc bài tập cùng dạng trong bài dạy
cụ thể thuộc các phân môn Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm
văn.
GV cần căn cứ vào những hướng dẫn cụ thể (văn bản đính kèm Công Văn số
896BGDĐT – GDTH) để thực hiện việc điều chỉnh một số nội dung học tập sao cho
hợp lí, phù hợp với đối tượng HS có khó khăn trong học tập môn Tiếng Việt.
Câu 97.
Để thực hiện yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, làm cho giờ dạy môn Tiếng
Việt nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả thiết thực, giáo viên cần chú ý những điểm gì ?
Để thực hiện yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học (PPDH), làm cho giờdạy môn
Tiếng Việt nhẹ nhàng và đem lại hiệu quả thiết thực, GV cần chú ý một số điểm cơ
bản dưới đây.
- Nắm vững các quan điểm day giao tiếp, dạy học tích hợp, tích cực hoá hoạt động
học tập của HS để thực hiện tốt yêu cầu dạy các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết,
nghe, nói), làm cho nội dung học tập của HS thêm phong phú, tự nhiên và hấp dẫn.
- Sử dụng PPDH phát huy tính tích cực chủ động của HS, chú trọng các phương pháp
đặc trưng của môn học như : phương pháp thực hành giao tiếp (đọc, viết, nghe, nói
trong các tình huống giao tiếp cụ thể), phương pháp đóng vai, phương pháp rèn luyện
theo mẫu, phương pháp phân tích ngôn ngữ,... Đương nhiên, những PPDH khác như :
diễn giảng, thảo luận, đặt và giải quyết vấn đề, sử dụng phương tiện trực quan,... vẫn
được dùng để dạy tiếng Việt theo cách phối hợp một cách hợp lí với các phương pháp
đã nêu.
- Ở từng phân môn cụ thể, về cơ bản, GV thực hiện PPDH theo những gợi ý nêu
trong SGK Tiếng Việt của từng lớp (phần Hướng dẫn chung). Để quản triệt những
yêu cầu đổi mới PPDH, làm cho giờ dạy môn Tiếng Việt nhẹ nhàng và đem lại hiệu

118
quả thiết thực, GV cần thực hiện tốt những yêu cầu chủ yếu trong mỗi phân môn dưới
đây.
Trang 142
* Dạy Học vần (lớp 1)
+ Tạo điều kiện cho HS thực hành rèn luyện các kĩ năng đọc – viết và thông qua thực
hành mà nắm vững các âm – vần - thanh đã học; biết những chữ ghi tiếng chứa âm –
vần – thanh đã học.
+ Tăng cường sử dụng các biện pháp trực quan sinh động phù hợp tâm sinh lýHS lớp
1, tổ chức các trò chơi học tập để kích thích HS tích cực rèn kĩ năng sử dụng tiếng
Việt (đọc, viết, nghe, nói).
* Dạy Tập đọc
+ Chú trọng hướng dẫn HS luyện đọc và sử dụng các biện pháp, hình chức tổ chức
dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của HS trong hoạt động rèn kĩ năng
đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm): đọc cá nhân, đọc đồng thanh (theo nhóm, bàn, tổ,
lớp), đọc theo vai ; đọc thầm để tìm hiểu nội dung bài, tham gia các trò chơi luyện
đọc,... nhằm phát triển kĩ năng đọc cho HS.
+ Thực hiện quy trình giảng dạy một cách linh hoạt nhằm đạt được mục đích yêu cầu
bài dạy và phù hợp đối tượng HS cụ thể ; hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa của từ ngữ
trong bài và nội dung bài đọc theo mức độ yêu cầu đề ra (dựa theo hệ thống câu hỏi,
bài tập trong SGK); ghi bảng những nội dung cần thiết, có tác dụng trực quan dạy học
trong tiến trình giảng dạy, đồng thời giúp HS biết ghi vở, tận dụng tranh minh hoạ
trong SGK và sử dụng thiết bị dạy học (TBDH) một cách thiết thực, tránh thiên về
hình thức.
* Dạy Kể chuyện
+ GV sử dụng các biện pháp dạy học thích hợp (làm mẫu, dẫn dắt - gợi mở bằng tranh
ảnh, dàn ý hoặc câu hỏi,...) nhằm khích lệ HS mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào
hoạt động rèn kĩ năng nói (tập kể chuyện) theo yêu cầu của bài tập trong SGK và thực
hiện việc điều chỉnh nội dung học tập cho phù hợp đối tượng HS từng vùng miền.
+ Quan tâm chuẩn bị và tổ chức tốt các hình thức luyện tập gây hứng thú với HS tiểu
học (VD: phân vai dựng lại câu chuyện, tập đóng hoạt cảnh các học sinh lớp 2, 3 ; tập
đóng kịch ở các lớp 4, 5...). Chú ý tạo mọi cơ hội cho HS được thực hành luyện tập kể
chuyện trên lớp, trong nhóm – tổ hoặc theo từng cặp nhằm tăng cường hoạt động giao
tiếp và rèn kĩ năng ngôn ngữ cho HS
Trang 143
* Dạy chinh tả
+ GV thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các biện pháp dạy học phân môn nhằm rèn cho
HS kĩ năng viết đúng chính tả và trình bày bài sạch đẹp , hướng dẫn chuẩn bị và thực
hành bài viết chính tả ; chấm – chữa bài ; hướng dẫn HS làm bài tập về chính tả theo
yêu cầu chung (bắt buộc) và yêu cầu cụ thể (do GV lựa chọn) sao cho phù hợp với đối
tượng HS địa phương.
+ Chuẩn bị các điều kiện và phương tiện thích hợp để tổ chức HS tham gia tích cực
vào các hoạt động thực hành luyện tập như : bảng lớp, bảng phụ (hoặc giấy khổ rộng),

119
bảng nhóm, bảng con, vở nháp, TBDH đơn giản (phục vụ trò chơi thực hành về bài
tập chính tả)...
* Dạy Tập viết (các lớp 1, 2, 3)
+ Ngoài việc nắm vững nội dung và PPDH phân môn, GV cần phải có kĩ năng viết
chữ đúng mẫu (theo mẫu chữ viết ban hành tại Quyết định số 31/2002 QĐ-BGDĐT
ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), có nhiều biện pháp đẩy
mạnh phong trào "Giữ vở sach - Rèn chữ đẹp" nhằm phát huy kết quả dạy học Tập
viết ở các lớp 1, 2, 3 và nâng cao chất lượng viết chữ của HS tiểu học nói chung.
+ GV hướng dẫn HS học tiết Tập viết chủ yếu qua các hoạt động thực hành luyện tập
(củng cố các chữ viết thường, viết hoa, tăng cường luyện viết ứng dụng và trình bày
đoạn viết), tránh thiên về giảng giải lí thuyết ; có ý thức sử dụng và hướng dẫn HS sử
dụng thường xuyên, có hiệu quả các phương tiện - TBDH (bìa chữ mẫu, bảng lớp,
bảng con, vở Tập viết,...); kết hợp tổ chức các trò chơi, cuộc thi ngắn về chữ viết
nhằm khuyến khích HS luyện viết chữ đẹp một cách thường xuyên.
* Dạy Luyện từ và câu (các lớp 2, 3, 4, 5)
+ GV cần nắm vững nội dung và mức độ yêu cầu của từng bài tập để hướng dẫn HS
thực hành cho sát hợp, củng cố và phát triển những kiến thức – kĩ năng theo yêu cầu
đề ra cho mỗi lớp ; có nhiều biện pháp, hình thức tổ chức nhằm phát huy tính tích cực
học tập của HS như : hướng dẫn làm mẫu, trao đổi - nhận xét, thực hành luyện tập
trên bảng lớp – bảng con - bảng nhóm, | làm bài tập theo nhóm, làm cá nhân trong vở
nháp hoặc vở ghi bài...
Trang 144
+ Chú ý hướng dẫn HS sử dụng SGK, sưu tầm hoặc tự làm nhữngTBDH đơn giản
nhằm giúp HS nắm vững kiến thức và tích cực tham gia vào các hoạt động thực hành
luyện tập về các kĩ năng giải nghĩa từ ; mở rộng vố. đặt câu trong hoạt động giao tiếp.
* Dạy Tập làm văn
+ GV chú trọng rèn luyện cho HS các kĩ năng nói, viết, nghe theoyêu cầu của bài tập
nêu trong SGK và hướng dẫn điều chỉnh nội dung học tập cho HS từng lớp ; có biện
pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy tính chủ động, sang tạo của HS trong hoạt
động thực hành luyện tập : làm bài miệng, làm bài nhóm, làm cá nhân trên bảng lớp,
bảng phụ, bảng nhóm hoặc vở ghi bài,...
+ Tận dụng SGK (kênh hình, kênh chữ) để hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu của bài
tập ; động viên HS mạnh dạn tham gia đóng vai thực hành luyện nói theo bài tập tình
huống một cách tự giác và hứng thú.
Câu 98
Xin giới thiệu một số thiết bị dạy học có tác dụng hỗ trợ tích cực cho việc giảng dạy
môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
Cùng với tiến độ thay sách ở Tiểu học, từ năm 2002 đến năm 2006, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã lần lượt Công bố Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu từ lớp 1 đến lớp 5.
Tại Danh mục này, TBDH môn Tiếng Việt còn chưa nhiều về số lượng và chủng loại.
Cụ thể như sau :
1. Bộ chữ Học vần thực hành (dành cho HS lớp 1);
2. Bộ chữ Học vần biểu diễn (dành cho GV dạy lớp 1);

120
3. Mẫu chữ viết trong trường tiểu học ;
4. Bộ chữ dạy tập viết (dùng cho các lớp 1, 2, 3);
5. Bộ chữ viết mẫu tên riêng (dùng cho lớp 3);
6. Bộ tranh dạy Kể chuyện 4 ;
7. Bộ tranh dạy Tập làm văn 4 ;
8. Bộ tranh dạy Kể chuyện 5.
Trang 145
Trong số các TBDH đơn giản nói trên, Bộ chữ Học vần thực hành là TBDH vừa đảm
bảo được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học vừa có tác dụng hỗ trợ tích cực cho
việc giảng dạy môn Tiếng Việt ở lớp 1. Đây là bộ đồ dùng dành cho từng cá nhân học
tập trên cơ sở phối hợp nhiều giác quan và hoạt động (mắt nhìn, tai nghe, tay làm,
miệng đọc,...), giúp HS dễ dàng tự học, tự tìm ra kiến thức và trau dồi các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt. Trong danh mục TBDH dùng chung cho nhiều môn học, Bộ Giáo
dục và Đào tạo còn cung cấp thêm Bảng nhóm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho HS
thực hành luyện tập theo nhóm, góp phần đổi mới PPDH ở Tiểu học.
Ngoài các TBDH được Bộ cung cấp, một số TBDH khác cũng được các đơn vị nhiên
cứu và sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của GV trong giảng dạy môn Tiếng Việt, VD :
Bộ tranh ảnh dạy Âm vần 1, Bộ ảnh dạy Luyện nói 1, Bộ tranh dạy Kể chuyện 1, Bộ
tranh dạy Tiếng Việt 2 (Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn), Bộ tranh dạy Kể
chuyện 3, Thiết bị Dạy viết chữ hoa, Học viết chữ hoa,...)
Gần đây, Bộ đã từng bước cung cấp một số TBDH hiện đại (video, đầu máy, băng -
đĩa ghi âm, ghi hình) phục vụ yêu cầu đổi mới PPDH và bồi dưỡng GV. Một số
trường tiểu học cũng tự trang bị được TBDH hiện đại có tác dụng đổi mới PPDH và
hỗ trợ tích cực cho việc giảng dạy môn Tiếng Việt, VD:
- Máy chiếu qua đầu (Over head) : Chiếu nội dung được viết (in) sẵn trên giấy trong,
phục vụ yêu cầu trực quan trong giảng dạy môn Tiếng Việt, như: hướng dẫn HS luyện
đọc (phân môn Tập đọc) từ ngữ, câu, đoạn, bài văn - bài thơ ; hướng dẫn HS nhận biết
yêu cầu, thực hành luyện tập và chữa bài đã làm ở các phân môn Chính tả, Tập viết,
Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn (GV có thể giao bài tập in sẵn trên giấy
trong hoặc giao giấy trong và bút dạ cho một vài HS làm rồi kiểm tra kết quả, hướng
dẫn chữa bài trên lớp,...); hướng dẫn HS học tập thông qua các tư liệu minh hoạ (kênh
chữ, kênh hình), được viết, vẽ hay photocopy sẵn trên giấy trong,...
- Máy chiếu đa phương tiện (Multi media projector) : Chiếu "Giáo án điện tử" hoặc
minh hoạ những hình ảnh, đoạn phim đã được chuẩn bị (băng, đĩa CD, VCD,...), thực
hiện chương trình được cài đặt phần mềm trên máy

Trang 146
Tính về môn Tiếng Việt, có tác dụng trực quan tích cực trong hoạt động dạy học và kích
thích hứng thú học tập của HS.
- Mây chiếu vật thể (video – Digital presenter): có thể chiếu hình ảnh động và hình ảnh
tĩnh đối với các loại vật thể khác nhau (vật thể, mô hình, tài liệu, phim ảnh , phim tấm,
hoạt động của vật mẫu,..); chiếu phóng to trên màn hình các vật thể cỡ nhỏ để phục vụ
cho việc dạy học môn Tiếng việt (tranh ảnh in màu trong SGK hoặc tranh ảnh do Gv sưu

121
tầm, bài thực hành của HS, trang vở có chữ viết đẹp, sơ đồ, biểu bảng, vật mẫu, giấy
trong đã viết sẵn nội dung tác dụng hướng dẫn HS học tập trên lớp một cách sinh động,
hứng thú.
Sau 5 năm thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở cấp (2002 - 2006), Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện việc rà soát để ti bổ sung, điều chỉnh và ổn định Danh
mục TBDH tối thiếu dành cho . tiểu học trong những năm học tới.
Câu 99: Tranh ảnh trong SGK Tiếng Việt ở tiểu học có những vai trò, tác dụng gì? Cần
sử dụng tranh ảnh trong SGK như thế nào cho hợp lí và hiệu quả?
Kênh hình nói chung, tranh ảnh nói riêng trong SGK Tiếng Việt ở Tiểu học ngoài tác
dụng làm cho cuốn sách thêm sinh động, hấp dẫn (kích thích HS trì giác bằng mắt) còn
có vai trò trực tiếp hoặc không trực tiếp thể hiện nội dung học tập. Tranh ảnh trực tiếp thể
hiện nội dung học tập là một bộ phận của bài học, là điều kiện không thể thiếu khi yêu
cầu HS luyện tập. VD: tranh ảnh dùng để gợi ý nội dung luyện nói theo chủ đề (Học vần),
để xác định nội dung đoạn truyện yêu cầu HS phải kể lại hoặc sắp xếp lại các tranh theo
đúng trình tự của truyện rồi kể lại (Kể chuyện), để yêu cầu HS thực hiện một bài tập về từ
và câu (Luyện từ và câu), để quan sát và trả lời câu hỏi kèm theo (Tập là văn),... Sử dụng
tranh ảnh loại này, GV cần yêu cầu HS quan sát kĩ (hoà gợi ý, hướng dẫn HS quan sát,
suy nghĩ) và thực hiện nhiệm vụ đề ra (4) kênh chữ).
Tranh ảnh không trực tiếp thể hiện nội dung học tập thường chỉ mang chất minh hoạ, hỗ
trợ cho bài học (nội dung học tập đã được thể hiện chu bằng kênh chữ, HS có thể thực
hiện được yêu cầu luyện tập khi không
Trang 147
có kênh hình). VD: tranh ảnh dùng để minh họa nghĩa của từ khoá, nội dung của câu - bài
ứng dụng (Học vần), minh họa nội dung bài Tập đọc, để gợi ý cho một số bài tập trong
các phân môn Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn…Sử dụng tranh ảnh loại này, GV
cần xác định đúng vai trò "minh hoạ và tác dụng "hỗ trợ (dùng đúng thời điểm, khai thác
đúng nội dung cần thiết với thời gian hợp lí nhằm tạo điều kiện cho HS đạt được mục
đích, yêu cầu của bài học), tránh dừng quá lâu để khai thác lan man về tranh ảnh minh
hoạ, xa rời mục đích, yêu cầu chủ yếu của bài học. Nếu tranh ảnh chỉ có tác dụng “trang
trí" hoặc "tham khảo", không gắn với nội dung bài học, không rõ tác dụng minh hoạ thì
GV có thể không sử dụng và khai thác trong tiết học (VD: cánh trong bài Chính tả Con
chó nhà hàng xóm –Tiếng Việt 2, tập một, tr. 151, ảnh trong bài Tập đọc Kì diệu rừng
xanh -Tiếng Việt 5, tập một, tr. 75,...).
Câu 100:Xin cho biết những quy định về Kiểm tra định kì môn Tiếng Việt ở Tiểu học và
yêu cầu kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan và tự luận. Giáo viên căn cứ vào
kếtquả kiểm tra định kì để lựa chọn học sinh khá, giỏi có được không ?
Văn bản Quy định Đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định
số 30/2005/QĐ-BGDĐT ngày 30/09/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã
quy định như sau:
- Môn Tiếng Việt ở Tiểu học là môn học được đánh giá bằng điểm số (cho điểm từ 1 đến
10, không cho điểm 0 và điểm thập phân ở các lần kiểm tra).
- Mỗi năm học, HS có 4 lần kiểm tra định kì (KTĐK) về môn Tiếng Việt : |Giữa học kì I
(GKI), cuối học kì I (CKI), giữa học kì II (GKII) và cuối học kì II (CKII).

122
- Mỗi lần KTĐK môn Tiếng Việt có 2 bài kiểm tra : Đọc, Viết, Điểm của 2 bài kiểm tra
này được quy về 1 điểm chung là trung bình cộng điểm của 2 bài (làm tròn 0,5 thành 1).
Các văn bản và tài liệu chỉ đạo chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về KTĐK đã
hướng dẫn cụ thể về thời điểm kiểm tra, đề bài và cách kiểm tra, đánh giá đối với môn
Tiếng Việt. Dưới đây, xin lưu ý một số điểm sau:
Trang 148
(1). Để đảm bảo yêu cầu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn theo Chuẩn kiến thức, kĩ
năng quy định cho từng lớp ở Tiểu , kèm theo Quyết định số 16/ 2006/QĐ-BGDĐT ngày
05 tháng của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), mỗi lần KTĐK, HS phải thực hiện 2
bài kiểm tra với 4 phần:
- Bài kiểm tra Đọc (gồm : Đọc thành tiếng - ĐTT, Đọc thầm và là (hình thức trắc nghiệm
khách quan) - ĐT&LBT)
- Bài kiểm tra Viết (gồm : Chính tả - CT, Tập làm văn – TLV).
(2). Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về KTĐK môn TG, bài kiểm tra Đọc
được tính 10 điểm (tỉ lệ điềm ĐTT /điểm ĐT&LRT đối theo các khối lớp, căn cứ vào
trình độ đọc ngày càng phát triển ở HS)
- Lớp 1: Thực hiện theo hướng dẫn cụ thể cho mỗi giai đoạn Học vần tập tổng hợp.
- Lớp 2, lớp 3 :6 điểm ĐTT/ 4 điểm ĐT&LBT (4 câu trắc nghiệm, mỗi 1 điểm). - Lớp 4,
5:5 điểm ĐTT/ 5 điểm ĐT&LBT (Lớp 4 : 8 câu trắc nghiên 6 câu 0,5 điểm, 2 câu 1,0
điểm; Lớp 5: 10 câu trắc nghiệm, mỗi câu 0,5 điểm).
Bài kiểm tra Viết được tính 10 điểm (tỉ lệ 5 điểm CT/ 5 điểm TLV ở các lớp 1 2, 3, 4, 5 ;
riêng ở lớp 1, HS chỉ kiểm tra CT và thực hiện theo hướng dẫn cụ thể cho mỗi giai đoạn
Học vần, Luyện tập tổng hợp).
(3). Điểm từng phần của bài kiểm tra (ĐTT, ĐT&LBT, CT, TLV) có thể cho đến 0,25;
điểm chung của bài kiểm tra Đọc hoặc Viết có thể cho đến 0,5 điểm. HS chỉ được làm
tròn điểm số 1 lần duy nhất khi cộng trung bình điểm của 2 bài kiểm tra Đọc – Viết để
thành điểm KTĐK môn Tiếng Việt (nếu lẻ 0,5 thì được làm tròn thành 1 để thành điểm
số nguyên, không cho điểm 0 và điểm thập phân ở các lần kiểm tra – theo Quy định Đánh
giá và xếp loại học sinh tiểu học).
(4). Điểm KTĐK là kết quả học tập của HS ở từng giai đoạn (GKI,CKI, GKII, CKII), do
đó chỉ là một căn cứ để phân loại, lựa chọn HS khá, 8lo một giai đoạn nhất định. Muốn
xem xét đầy đủ và chính xác trình độ của về từng môn học, GV cần dựa vào việc đánh
giá và xếp loại học lục " (HLM) học kì I (KI), học kì II (KII) và cả năm (N), quy định đối
với các học được đánh giá bằng điểm số như sau :
Trang 149
- Điểm HLM.KI là trung bình cộng của điểm KTĐK.GKI và điểm KTĐK.CKI ; điểm
HLM.KII là trung bình cộng của điểm KTĐK.GKII và điểm KTĐK.CKII ; điểm HLM.N
là trung bình cộng của điểm KTĐKKI và điểm KTĐK.KII. (Chú ý: điểm HLM có thể là
số thập phân.)
HLM (KI, KII, N) được xếp theo 4 loại: Giỏi (điểm HLM đạt từ 9 đến 10); Khá (điểm
HLM đạt từ 7 đến dưới 9) ; Trung bình (điểm HLM đạt từ 5 đến dưới 7) ; Yếu (điểm
HLM đạt dưới 5).

123
Câu 101:Trong văn bản Chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (ban hành kèm
theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo), tại mục V (Đánh giá kết quả giáo dục tiểu học), điểm 2.0 có ghi: "Kết hợp giữa
hình thức trắc nghiệm khách quan, tự luận và các hình thức đánh giá khác".Xin giới thiệu
sơ bộ một số loại trắc nghiệm khách quan có thể vận dụng vào việc thiết kế bài kiểm tra
đánh giá môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
Hình thức trắc nghiệm khách quan (gọi tắt là trắc nghiệm - TrN) được sử dụng trong đánh
giá kết quả giáo dục còn được gọi là trắc nghiệm giáo dục. Có nhiều hình thức đặt câu hỏi
TN khác nhau, do đó cũng có nhiều loại TrN giáo dục khác nhau : TrN đúng – sai , TrN
nhiều lựa chọn ; TrN đối chiếu cặp đôi ; TIN điện thế ; TIN sắp xếp thứ tự, TN trả lời
ngắn.
Các loại TN nói trên đều có thể vận dụng vào việc thiết kế bài kiểm tra đánh giá môn
Tiếng Việt ở Tiểu học. Tuy nhiên, cần thấy rõ những mặt mạnh và yếu của mỗi loại để sử
dụng cho thích hợp và có hiệu quả nhất.
- Loại TrN đúng – sai chỉ gồm 2 lựa chọn (đúng hoặc sai), do vậy nó đơn giản và có khả
năng áp dụng rộng rãi (HS chỉ cần xác nhận kết quả là Đ hoặc S). Tuy nhiên, loại TN này
ít có khả năng phân biệt HS giỏi và HS kém. Hơn nữa, còn có thể xảy ra trường hợp hiểu
lầm câu hỏi hoặc có nhiều cách giải thích khác nhau dẫn đến những bất đồng ý kiến về
câu trả lời được cho là đúng.
- Loại TrN nhiều lựa chọn có thể được sử dụng rộng rãi ở nhiều trường hợp, khả năng
phân biệt HS giỏi và HS kém tỏ ra đắc dụng hơn. Có điều, loại TIN này tương đối khó
soạn, vì mỗi câu hỏi phải kèm theo một số câu trả lời, các câu trả lời đều phải hấp dẫn
ngang nhau, nhưng trong đó chỉ có một câu
Trang 150
trả lời đúng. Thông thường, TrN nhiều lựa chọn có nhiều hi vọng cậy cao hơn loại TIN
đúng – sai gấp 2 lần.
- Loại TrN điện thể thường có một hay nhiều chỗ trống (khuyết) văn hay đoạn lời, đòi
hỏi HS phải điền (1ấp) những yếu tố phù hợp đầy đủ và đúng, hoặc có một hay nhiều yếu
tố cần thay thế trong c đoạn lời, đòi hỏi HS phải thế (thay) bằng những yếu tố phù hợp,
sao cu và đủ. Đây là loại TN khá gần gũi với HS tiểu học hiện nay, được trong các bài tập
điện từ, bài tập về chính tả (âm – vấn – tiếng), bài, đồng nghĩa, trái nghĩa,... Nó có tác
dụng phân loại trình độ HS khá, thiết kế, do vậy thường được GV sử dụng trong dạy học.
Tuy vậy, cũ lưu ý về cách "đặt" chỗ trống (hoặc "chọn" từ ngữ cần thay thế), xác địu cầu
lựa chọn yếu tố điện thế sao cho phù hợp trình độ HS và đòi hỏ chương trình mỗi lớp ;
cần tính toán "độ khó" của bài TN và khả năn giá khách quan (dùng máy hoặc người
chấm).
- Loại TN đối chiếu cặp đôi có 2 cột, mỗi cột gồm một số yếu tố đó. (tiếng, từ, câu,...) đòi
hỏi HS phải lựa chọn - ghép nối một yếu tố bên này một yếu tố bên kia, sao cho thành
một cặp tương thích. Loại TIN này cũng khá quen thuộc với HS tiểu học, được sử dụng ở
bài tập trong các phân môn Học vần, Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,... Tuỳ theo mức
độ yêu cầu (khó – bình thường - dễ), có thể soạn bài TN đòi hỏi ghép nối 1 hay nhiều
cặp, ghép nối có lựa chọn (thử) ở 1 cột hay cả 2 cột... Khi thiết kế bài TrN loại này, cần

124
tính toán đến các khả năng kết hợp để sao cho chỉ có một kết quả đúng (xác định "cặp
đôi" chính xác).
- Loại TN sắp xếp thứ tự yêu cầu HS sắp xếp các yếu tố cho sẵn theo một trật tự đúng và
hợp lí nhất. TrN loại này được HS tiểu học làm quen qua các bài tập (hoặc trò chơi học
tập) ở các phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn, Tập đọc, Kể chuyện. VD: Sắp xếp
các từ ngữ thành câu, xếp các câu thành đoạn, xếp các đoạn thành bài, sắp xếp các chi tiết
(hoặc tranh minh hoạ) theo trình tự diễn biến của câu chuyện,... Tuỳ theo "độ khó" của
bài TN, có thể yêu cầu HS sắp xếp ít hay nhiều yếu tố, nhận biết mối quan hệ giữa các
yêu dễ hay khó (qua nội dung và dấu hiệu liên kết), chỉ nhớ lại nội dung văn bản để sắp
xếp thứ tự hay phải suy nghĩ, phán đoán để xác lập một trật tự hợp lý. Khi thiết kế bài TN
loại này, cần đưa ra số lượng yếu tố vừa phải, tính toán đến "dấu hiệu nhận biết để sắp
xếp" phù hợp đối tượng HS và xác lập một

TRANG 151
trật tự duy nhất đúng (tránh trường hợp có thể SP xếp theo thứ tự khác màvẫn hợp lí).
- Loại TrN trả lời ngắn tuy có hạn chế tính khách quan nhưng lại ít, nhiều đo nghiệm
được tính sáng tạo của Hs qua nội dung trả lời ngắn,và cách trình bày, diễn đạt câu trả lời,
Khi cần thiết cũng có thể dùng loại TrN này với điều kiện : tính toán kĩ về nội dung và độ
dài của câu hỏi; đự đoán khả năng trả lời của HS để đánh giá chocông bằng, chính xác.
Vấn đề đặt ra : Nên sử dụng nhiều loại câu hỏi (tức những câu hỏi theo nhiều loại TrN
khác nhau) hay chỉ dùng một loại câu hỏi trong 1 bài trắc nghiệm đánh giá trình độ học
tập của HS tiểu học?
Có nhiều ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này. Người chủ trương cần dùng nhiều loại
câu hỏi khác nhau cho rằng như vậy sẽ làm tăng thêm giá trị của bài TrN, cho ải TTN đỡ
nhàm chán. Ngược lại, có người cho rằng chỉ loại TrN nhiên lựa ch 1 1TN thích hợp nhất
cho toàn bài TrN, ví dụ như loại TrN nhiều lựa chọn. Thật ra, không có một quy luật nào
cả. Nhưng cần nhớ một điều là : không nên làm rối trí HS bằng nhiều hình thức câu hỏi
phức tạp, nhất là những loại câu hỏi không quen thuộc với HS tiểu học. Mục đích của
chúng ta là khảo sát học lực của HS và tìm cách giúp cho các em biểu lộ khả năng một
cách dễ dàng và trung thực, chứ không phải khảo sát "tài" làm trắc nghiệm của chúng.
Tốt nhất là kết hợp được hài hoà cả yêu cầu cần đánh giá và khả năng, thói quen, hứng
thú làm một số loại câu hỏi — bài tập nào đó, hoặc sử dụng loại câu hỏi nhiều lựa chọn vì
phạm vi áp dụng của loại này rất rộng rãi, và chỉ sử dụng thêm các hình thức khác khi
nào ta nhận thấy hình thức đó thích hợp và có hiệu quả cao hơn, đỡ nhàm chán cho HS.
Câu 102
Để đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm và tính thực tiễn của bài trắc nghiệm khách
quan, cần lưu ý những điểm gì về kĩ thuật soạn thảo trắc nghiệm ?
(q) Về kĩ thuật soạn thdo trắc nghiệm, có mấy vấn đề dưới đây cần được lưu ý
quan tâm.

125
(1) Nội dung giải đáp ở câu này có tham khảo tài liệu vẻ Trác nghiệm giá dục của
GŠ. Trần Trọng Thuỷ.
TRANG 152
1. Vấn đề số lượng các câu hỏi trong bài trắc nghiệm
- Cần tính 2 yếu tố quy định số câu hỏi của bài TN:
+ Thời gian dành cho cuộc khảo sát
+ Sự chính xác của điểm điểm số đo kiến thức hay học lực mà ta muốn khảo sát( Thông
thường câu hỏi cùng 1 loại TN được cho với số điểm bằng nhau, số lượng câu hỏi trắc
nghiệm dùng đề đo kiến thức hay học lực được quy định bởi mục đích và phạm vi khảo
sát
- Số câu hỏi trả lời được trong 1 phút tuỳ thuộc vào loại câu hỏi sử dụng. và
sự phức tạp của quá trình tư duy cần thiết để trả lời được câu hỏi ấy, Vào tụ
quán và năng lực của từng Hs... Vì vậy, khó xác định một cách chính Xác h
câu hỏi hợp lí cần đặt vào bài TrN. Tùy nhiên, có thể dựa vào những cạn n
sau để tính thời gian cho HS thực hiện 1 câu : rốc độ đọc của HS (ở từng lọ:
từng giai đoạn cụ thể) ; mức độ yếu câu cân thực hiện của câu hỏi (bao ọ ên
cả về "độ khó", về khả năng suy nghĩ và thực hiện của HS).
- Ngoài ra, sự chính xác của điểm số cũng là yêu tô chỉ phổi Sô lượng câu hỏi
trong một bài TrN. Cần nhận thức rõ : một bài TTN về một môn nào đó, dù có
đến 100 câu hay hơn thế, cũng chỉ là một zmảu trong muôn ngàn mẫu khác có
thể rút ra từ một quần thể vô tận những câu hỏi có thể đặt ra để khảo Sất vệ
khả năng học môn học ấy. Vì vậy, vấn đề quan trọng đối với người Soạn TrN
là : làm sao cho mẫu mà mình sử dụng đại diện được đúng đắn cho toàn bộ
quần thể các câu hỏi thích hợp với bài TrN đang soạn. Do đó, mẫu câu hỏi
của ta càng lớn, tức là càng nhiều câu hỏi đại diện bao nhiêu thì điểm số về
bài TrN càng do lường chính xác khả năng mà ta muốn khảo sát bấy nhiêu.
2. Văn đề độ khó của bài trắc nghiệm
Bài TrN tốt bao gồm những câu có đó khó trung bình hoặc vừa phải.
a) Độ khó của mỗi câu bởi :
Độ khó của mỗi câu hỏi được tính bằng tỉ số HS trả lời đúng câu hỏi ấy trên
toàn thể số HS tham dự : P = R : n(R là số HS làm đúng, n là số HS tham dự).
Câu TrN có độ khó vừa phải là câu có độ khó 50% (50% đúng, 50% sai).
Tuy nhiên, cần căn cứ vào loại câu hỏi TrN. Nếu là câu hỏi thuộc loại Đúng - S4
thì tỉ lệ may rủi đương nhiên là 50%, VÌ vậy, cần phải lưu ý đến một yếu tố
khác là : rỉ l¿ may rủi mong đợi (tỉ lệ MRMĐ). Tỉ lệ này thay đổi tuỳ theo số
TRANG 153
lựa chọn TỰ ÔN Gà nội: Nếu câu T.N gộm 2u, chọn thì tỉ lệ MRMĐ lì
50%. Nhh vậy là s9 khó vừa Phải của cạu TrN này phải là trung tình cộng
giữa tỉ lý MRINI và một trăm phản tạm cực : (100 + 50) : 2 = 75 (%). Nói
cách khác, câu HỘI tộc loại Đáng — su cá đo khó vụ, phải, nếu 75% HS trả
lời đúng.
với cách tính ấy và với u lệ MRMĐ của Câu hỏi gồm 5 lựa chọn là
100 : 5 = 20 %), thì độ khó vừa phải của câu ấy sẽ la : (100+20):2= 60 (%)

126
nghĩa là, độ khó của câu hỏi 5 lựa chon được gọi là vừa phải nếu 60% HS trả
lời đúng câu hỏi này, Riêng với câu hỏi thuộc loại "trả lời tự do" thì độ khó
vừa phải là 50%, nghĩa là 50% HS trả lời đúng câu hỏi ấy.
Khi tiến hành lựa chọn câu TrN căn cứ theo độ khó của nó, trước tiên ta phải
gạt đi những câu nào mà tất cả HS đều không trả lời được (vì như thế là quá
khó), hoặc tất cả HS đều làm được (vì như thế là quá dễ). Những câu ấy vô
dụng vì không giúp gì cho sự phân biệt HS giỏi với HS kém. Một bài TrN có
hiệu lực và đáng tin cậy thường bao gồm những câu hỏi có độ khó xấp xỉ hay
bằng độ khó vừa phải.
b) Độ khó của cả bài TrN :
Độ khó của cả bài TrN được tính như sau :
- Cách thứ nhất : Đối chiếu điểm số trung bình (TP) của bài TrN với điểm số
TP lí tưởng. Điểm số TB lí tưởng là TB cộng của điểm số tối đa có thể có
được và điểm MRMĐ. Điểm MRMĐ bằng số câu hỏi của bài TrN chia cho số
lựa chọn của mỗi câu. Như vậy, với một bài TrN 50 câu hỏi, mỗi câu có 5 lựa
chọn, thì điểm MRMĐ là 50 : 5 = 10, và TB lí tưởng sẽ là : (10 + 50) : 2 = 30.
Nếu TB thực sự của bài TrN ấy trên hoặc dưới 30 quá xa thì bài TrN ấy có thể
quá dễ hoặc quá khó.

Sở đĩ lấy điểm TB để xác định mức độ khó hay dễ của bài TrN là vì điểm TB
bị chi phối hoàn toàn bởi độ khó TB của các câu hỏi tạo thành bài TrN ấy.

- Cách thứ hai : Quan sát sự phân phối điểm số của bài TrN ấy. Nếu Tổ của
bài TrN nằm xấp xỉ hoặc ngay Ở trung điểm của tâm hạn (tức hiệu số giữa
điểm cao nhất và điểm thấp nhất) và nếu không có điểm 0 hoặc điểm tối đa
(hoàn toàn) thì ta có thể chắc chắn rằng bài TrN thích hợp cho nhóm HŠ mà
ta khảo sát.
TRANG 154
VD: Với 1 bài TrN 80 câu hỏi, tả có điểm TP là 42 và tâm hạn
lý viên thấp nhất) đến 75 điểm (cao nhất) các dữ kiện ấy cho ta biết rằng:
bài TrN có độ khó vừa phải cho HS lớp ấy. Mặt khác nếu cùng bài TrN
HS lớp khác làm, điểm TB là 69 và tầm hạn là từ 50 đến 90 , thì như vậy bài
TrN quá dễ đối với HS lớp này. Ngược lại, nếu ta có TB là 15 và tầm
han là từ 0 đến 40 thì ta có thể tin rằng bài TrN này là quá khó đối với chúng
3 Vấn để mục tiêu khảo sát trong bài trắc nghiệm
Trước khi soạn thảo bài TTN, tâ cần phải biết rõ những điều ta SẼ phải khảo
sát và những mục tiêu nào ta đòi hỏi HS phải đạt được. Muốn VẬY, ta phải
phác hoạ sản một dàn bài TrN, trong đó có dự trù những phần thuộc về " nội dung của
môn hay bài học và những mục tiêu giảng dạy mà ta mong mỏi lu phải đạt được. Có như
vậy mới tránh được khuynh hướng đặt nặng tâm quan trọng vào một phần nào đó của
chương trình giảng dạy mà xem nhẹ các phần khác, hay chỉ chú ý đến những tiểu tiết mà
quên các phạm trù cơ bản.

127
Nội dung bài khảo sát gồm những tiết mục hay đề mục đã được giảng dạy . Mục tiêu
giảng dạy là những thành quả xác định rõ rệt và có thể đo lường được mà HS phải đạt tới
và biểu lộ qua hành vi có liên quan đến các lĩnh vực tri thức, kĩ năng và kĩ xảo tương ứng.
Có nhiều cách phân loại mục tiêu giảng dạy, song theo BenJamin Bloom và
các cộng sự, các mục tiêu giảng dạy được phân tích căn cứ vào 6 chức năng
trí tuệ cơ bản, từ thấp lên cao :
- Kiến thức (Nhận biết) : được xem như là sự nhận lại, ghi nhớ và nhớ lại
thông tin.
- Thóng hiểu : được xem là loại trì thức cho phép giao tiếp và sử dụng các
thông tin đã có.
- Vận dụng : được xem là kĩ năng vận dụng thông tin (quy tắc, phương pháp,
khái niệm chung) vào tình huống mới mà không có sự gợi ý.
- Phân tích : được xem là loại tri thức cho phép chia thông tin thành các bộ
phận và thiết lập sự phụ thuộc lẫn nhau g1ữa chúng.
- Tổng hợp : được xem là loại tri thức cho phép cải biến thông tin từ nhữ§
nguôn khác nhau và trên cơ sở đó tạo nên mẫu mới.
- Đánh giá: cho phép phán đoán về giá trị của một tự tưởng, phương pháp
tài liệu nào đó.
TRANG 155
Ở cấp Tiểu học, tiêu chí đề kiểm tra định kì tập trung đánh giá ở 3 mức độ: theo tỉ lệ như
sau: Nhận biết 50 – Thông hiểu30% — Vận dụng 20% (theo tài liệu Đề kiểm tra học kì
cấp Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008),
Câu 103
Trong công văn số 896/ BGDĐT- GDTH ngày 13/2/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nội dung mục tiêu II, điểm 1.b về “ Đổi mới phương pháp giảng dạy cho GV” có yêu cầu
"sở Giáo dục Và Đào tạo chỉ đạo đổi mới cách saonj GA để giáo viên có thời gian tập
trung vào công tác giáo dục”. Xin cho biết rõ hơn về những định hướng đổi mới trong
cách soạn giáo án nói chung và minh họa GA cụ thể môn TV"
Giáo án là Bài soạn của giáo viên để lên lớp giảng dạy" (Từ điển tiếng Việt - Hoàng Phê
là chủ biên, NXB Khoa học xã hội, H.,1988). Cũng có thể hiểu giáo
án là "phương án để dạy học”, là "bản kế hoạch cụ thể của GV nhằm thực
hiện mục đích, yêu câu đề ra cho một bài học xác đính"
Nội dung văn bản 896 nói trên đã thể hiện rõ định hướng đổi mới vẻ cách
soạn giáo án các môn học ở Tiểu học hiện nay. Đó là : trong quá trình soạn
giáo án lên lớp, GV cần nắm vững yêu cầu vẻ kiến thức, kĩ năng cơ bản được
quy định tại Chương trình giáo dục phổ thông ~ cấp Tiểu học (Phân thứ ba :
Chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ đốt với học sinh tiểu học) ;
giáo án cần ngắn gọn nhưng có nhiều thông tin (có thể chỉ khoảng một trang
giấy A4) và thể hiện rõ các phần cơ bản sau :
Phần I : Nêu mục tiêu của bài học, gắn với yêu cầu cần đạt được về kiến
thức, kĩ năng, thái độ được quy định tại Chương trình Tiểu học do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành.

128
Phần 2 : Nêu những yêu cầu cần chuẩn bị về thiết bị, đồ dùng dạy và học của
GV và HS ; dự kiến hình thức tổ chức hoạt động học tập đảm bảo phù hợp với
từng nhóm đối tượng HS.

Phần 3 : Xác định nôi dụng, phương pháp giảng dạy đối với GV, yêu cầu cần
đạt đối với từng đối tượng HS, kể cả Hồ cá biệt (nếu có).
Theo định hướng trên, giáo án là "sản phẩm” mang đậm tính cá nhân, để cho cá nhân sử
dụng, và người soạn (GV) thường phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh dạy học, phải
nắm được khả năng học tập của từng HS trong lớp để xác định nội dung cụ thể của bài
học tron§ SGK, cách (biện pháp) hướng dẫn cho từng nhóm đối tượng HS. Việc xác định
nội dung dạy học của GV phải đảm
Trang 156

bảo tính hệ thống và đáp ứng yêu cầu: dạy nội dung bài học mới dựa trên kiến thức, kĩ
năng của HS đạt được ở bài học trước và đảm bảo vừa đủ để tiếp thu bài học tiếp sau,
từng bước đạt được yêu cầu cơ bản nêu trong Chương trình Tiểu học.
Trong mục III (Tổ chức thực hiện), văn bản 896 cũng đã nhấn mạnh yêu cầu chỉ đạo:
"Giáo viên tự chịu trách nhiệm trong việc giảng dạy ở mỗi tiết học. Điều cốt yếu là HS
phải học được và được học. Tuyệt đối không để HS yếu kém đứng bên lề mỗi giờ dạy của
lớp học. GV và cán bộ quản lí nhà trường cần khắc phục bệnh “thành tích và hình thức"
Cán bộ quản lí tạo điều kiện cho GV làm tốt nhiệm vụ dạy học trên lớp. Như vậy, vấn đề
đổi mới cách soạn giáo án của GV cần được các cán bộ quản lí nhận thức và có biện pháp
quản lí, chỉ đạo đúng (tránh “áp đặt” cách soạn giáo án cho GV, khắc phục bệnh "hình
thức" trong kiểm tra giáo án, tôn trọng cách soạn giáo án của những GV có tinh thần
trách nhiệm trong giảng dạy...).
Dưới đây, xin giới thiệu giáo án tiết Kể chuyện lớp 4 (Tuần 31, Tiếng Việt 4, tập hai) có
điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp đối tượng HS và thực tế của địa phương (HS
chưa có điều kiện đi du lịch hoặc cắm trại)
KỂ CHUYÊN ĐƯỢC CHỨNG KIẾN HOẶC THAM GIA
I - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. HS chọn và kể lại được câu chuyện nói về một lần đi thăm họ hàng hoặc đi chơi cùng
người thân trong gia đình (để bài điều chỉnh so với SGK); biết sắp xếp các sự việc theo
trình tự hợp lí, lời kể rõ ràng, tự nhiên và nêu được ý nghĩa câu chuyện.
2. Biết nghe, ghi nhớ và nhận xét lời kể của bạn.
II- THIẾT BỊ DẠY HỌC
Bảng phụ ghi gợi ýkể chuyện/Tổ chức HS kể chuyện theo cặp, kể trước lớp.
III- CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Hoạtđộng 1: Kiểm tra bài cũ
Một HS kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc nói về du lịch hay thám hiểm (Tuần 30)/GV
nhận xét cho điểm.
Trang 157
Hoạt động 2: Giới thiệu bài mới
Nêu tên bài và mục đích, yêu cầu của tiết học (mục I). Ghi bảng :

129
Để bài : Kể chuyện về một lần đi thăm họ hàng hoặc đi chơi cùng người thân trong gia
đình.
Hoạt động 3 : Hướng dẫn HS kể chuyện
- Một HS đọc để bài (bảng lớp).
(?) Em hiểu đi thăm họ hàng là có thể đi thăm những ai ở xa ? (Ông, bà, cô, bác, chú,
thím...).
(?) Em được đi chơi cùng người thân trong gia đình vào những dịp nào ? (Đi chợ xa, đi lễ
hội, tham dự các cuộc vui chơi do địa phương tổ chức,...). (GV gạch dưới các từ ngữ cần
lưu ý trong để bài - in nghiêng)
Hướng dẫn HS xác định câu chuyện sẽ kể.3–4 em (TB/ Yếu) nêu nội dung (đi thăm ai/ đi
chơi ở đâu)/ Nhận xét, uốn nắn, giúp HS xác định đúng yêu cầu.
– GV treo bảng phụ, yêu cầu 1 - 2 em (Yếu/ Kém) đọc gợi ý kể chuyện:
Gợi ý kể chuyện
(1) Giới thiệu cuộc đi thăm (đi chơi) : Đi đến đâu? Vào dịp nào ? Đi cùng với ai?
(2) Kể lại diễn biến cuộc đi thăm ( đi chơi):
+ Chuẩn bị cho cuộc đi như thế nào? Bắt đầu lên đường đi thăm (đi chơi) ra sao?
+ Trên đường đi, em thấy những gì (nhìn, nghe, cảm nhận,...)? Điều gì mới mẻ, hấp dẫn
ở dọcđường làmem thích thú (về phong cảnh, con người,...)?
+ Ở nơi đến thăm (chơi), em thấy có những sự việc gì nổi bật cần kể lại cụ thể?
(3) Kết thúc cuộc đi thăm (đi chơi)em ra về vào lúc nào? Ấn tượng sâu sắc của em về
cuộc đi thăm (đi chơi) đó ra sao?
- Một HS khá/ giỏi kể trước lớp (dựa vào gợi ý)/ Nhận xét,góp ý, rút kinh nghiệm về cách
kể (trình tự hợp lý- nêu được chi tiết, sự việc mới mẻ, hấp dẫn).
- Hướng dẫn HS kể chuyện theo cặp (khoảng 10 phút).
- HS thi kể chuyện trước lớp (3-4 em)/ Nhận xét, góp ý (về nội dung, cách kể), bình chọn
HS kể tốt, cho điểm.
Trang 158
Hoạt động 4 : Củng cố, dặn dò
- Nhận xét tiết học; khuyến khích HS về nhà kế chuyển cho người thân (có thể viết lại
câu chuyện, đưaGV góp ý riêng).
- Chuẩn bị : Kể chuyện Khát vọng sống (xem tranh gợi ý trong SGK, tr. 136).
Câu 104
(?) Giáo viên cần lưu ý những điểm gì khi lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập môn
Tiếng Việt ở Tiểu học?
[:] Trò chơi học tập (TCHT) là môột trong những hình thức dạy học có tác dụng kích
thích hứng thú học tập của HS, làm cho giờ dạy trở nên nhẹ nhàng mà vẫn đạt được mục
đích, yêu cầu của bài học đề ra. Tuy nhiên, việc lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập nhất
Tiếng Việt ở Tiểu họccần được GV cân nhắc, tính toán và chuẩn bị kĩ để đạt hiệu quả tốt,
tránh khuynh hướng “lạm dụng” hoặc mang tính hình thức.
Việc lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập môn Tiếng Việt ở Tiểu học cần đảmbảo những
yêu cầu sau :
- Nội dung trò chơi phải gắn với bài học, phải phục vụ cho những yêu cầu cần đạt về kiến
thức, kĩ năng và thái độ sau mỗi tiết dạy.

130
- Hình thức tổ chức trò chơi cần gọn nhẹ, cách tiến hành tương đối đơn giảnđể tất cả HS
đều có thể tham gia. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công bằng khi đánh giá,“luật chơi”(quy
định về cách chơi) cũng cần phải rõ ràng, chặt chẽ.
- Trò chơi cần đem lại những tác dụng lành mạnh, thiết thực đối với HS: kích thích hứng
thú học tập; rèn tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư
tưởng, tình cảm tốt đẹp,...
- GV chuẩn bị đầy đủ phương tiện, điều kiện trước khi tiến hành tổ chức trò chơi; hướng
dẫn cách chơi (“luật chơi”) đầy đủ và rõ ràng.
Căn cứ vào nội dung dạy học cụ thể trong SGK Tiếng Việt ở từng lớp, gV có thể lưa
chọn và tổ chức TCHT sao cho phù hợp đối tượng HS, gắn với đặc trưng của từng phân
môn và phục vụ tốt cho bài dạy. VD:

Trang 159
- Học vần:Dùng bộ chữ Học vẫn thực hành (HS), Bộ chữ Học vần biểu diễn (GV) hoặc
TBDH đơn giản để tổ chức cho HS chơi bài ghép tiếng (mang âm, vần, thanh đã học), thử
tài chia nhóm (tiếng có điểm giống nhau về âm hoặc vần, thanh), "gửi thư” cho bạn, hái
hoa vần – tìm đọc tiếng,...
- Tập đọc: Thi đọc tiếp sức (theo nhóm, tổ), đọc “truyền điện” thi tìm nhanh – đọc đúng
(nhìn một từ – đọc cả câu, hoặc nhìn một câu – đọc cả đoạn), nghe đọc đoạn – đoán tên
bài, thì đọc truyện theo vai, "thả thơ", đặt câu hỏi về bài đọc...
- Chính tả : Tổ chức trò chơi về chính tả âm – vần (điền vào chỗ trống, tìm chữ ghi tiếng
có âm – vần thanh dễ lẫn....).
- Tập viết : Thi viết bảng – rèn chữ đẹp, lắp ghép các nét cơ bản thành chữ ghi âm đã
học...
- Kể chuyện : Thi sắp xếp các tranh theo đúng trình tự trong hệ thống tranhliên hoàn
(theo nội dung truyện do GV kể), thi kể chuyên nối tiếp, bắt lỗi kể sai, thi tài kể hay...
- Luyện từ và câu : Tổ chức các trò chơi tìm và mở rộng vốn từ (tìm từ cùng - chủ đề, tìm
từ đồng nghĩa – trái nghĩa, tin từ đông an, giải nghĩa từ điển từ nhanh, phân loại từ ngữ
theo nhóm, ghép từ thành câu, đặt câu theo mẫu, hỏi - đáp nhanh...
- Tập làm văn: Chọn lời nói đúng, thi nói (viết) tiếp sức, sắp xếp câu thành đoạn, sắp xếp
đoạn thành bài,...

B - GIẢNG DẠY CÁC PHÂN MÔN


I-DẠY HỌC VẦN (LỚP 1)
Câu 105
(?) Khi dạy bài Âm và chữ ghi âm mới hoặc bài vầnmới ở lớp , GV cần sử dụng Bộ chữ
Học vần thực hành và Bộ chữ Học vần biểu diễn như thế nào để phát huy tính tíchcực
học tập của học sinh?Xin giới thiệu bài soạn cụ thể làm ví dụ minh họa.

Trang 160

131
[:] Bộ chữ Học vần thực hành (HVTH) và Bộ chữ Học vần biểu diễn (HVBD) là những
TBDH tối thiểu được trang bị cho lớp 1 ngay từ năm đầu tiên thay sách theo Chương
trình Tiểu học mới.
Bộ chữ HVTH dành cho từng cá nhân học tập trên cơ sở phối hợp nhiều giác quan và
hoạt động (mắt nhìn, tai nghe, tay làm, miệng đọc,...) giúp HS dễ dàng tự học, tự "Tìm và
kiến thức" và trau dồi các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Do vậy, GV cần quan tâm hướng
dẫn HS sử dụng Bộ chữ HVTH một cách triệt để, phát huy tính tích cực trong quá trình
học tập; khai thác hết khả năng tiềm tàng của TBDH, làm cho giờ học Tiếng Việt ở lớp 1
thêm sinh động, nhẹ nhàng và hiệu quả.
Bộ chữHVBD chủ yếu dành ho GV thao tác trong quá trình hướng dẫn HS học tập theo
tinh thần đổi mới phương pháp dạy học nói trên. Đây là TBDH mang tính trực quan, có
tác dụng mình hoa nội dung dạy học, góp phần củng cố và rèn luyện kĩ năng đọc cho HS.
Chính vì vậy, GV cần sử dụng đúng phương pháp, xác định đúng mức độ và thời điểm
minh hoạ : tránh khuynh hướng “lạm dụng” TBDH hoặc sử dụng TBDH chỉ mang tính
minh hoạ và “áp đặt" như trước đây.
Để minh hoạ cụ thể cách sử dụng các Bộ chữ Học vần (HS - GV) trong giờ dạy Âm và
chữ ghi âm mới, Vần mới ở lớp 1 theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS, xin
giới thiệu hai bài soạn dưới đây.
Bài 15
DẠY ÂM VÀ CHỮ GHI ÂM MỚI
t th
(2 tiết)
I- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- HS đọc và viết được: t, th, tổ, thỏ.
- Đọc đượ: to, tơ, ta, tho, thơ, tha, ti vi, thợ mỏ,; bố thả cá mè, bé thả cá cờ.
- Phát triển lời nói theo nội dug: ổ, tổ.
II- ĐỒ DÙNG DẠY HỌc
- HS: Bộ chữ HVTH; bảng con. Vở Tập viết 1, tập 1
160
              
Trang 161 
- GV: Bộ chữ HVBD, tranh ảnh minh họa từ ứng dụng và nội dung luyện 
nói theo chủ để ổ, tổ (nếu có), 2 bìa chữ cái viết thường (t, h) trong Bộ chữ dạy tập viết
(TBDH tối thiểu do Bộ GD&ĐT cung cấp). 
III - HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC 
Tiết 1 
1. Kiểm tra bài cũ (7 phút) 
- HS lần lượt đọc bảng chữ ghép sẵn (GV sử dụng bộ HVBD) theo 3 dòng 
(mỗi dòng 3 em đọc, tiếp theo 1 em đọc lại toàn bộ) ; sau đó, GV hướng dẫn từng cặp HS
lên kiểm tra nhau (1 em chỉ bảng 5 từ bất kì – không theo thứ tự, 1 em đọc, sau đó đổi
vai). VD: 
+d, da, de, dê, do, dô, dơ
+ đ, đa, đe, đê, đo, đô, đơ 

132
+ dì na đi đò, bé và mẹ đi bộ. 
- GV đọc cho HS viết bảng :d, dê, đ, đò – (ở lớp có điều kiện thuận lợi, có 
thể cho HS viết thêm: da đỏ, đi bộ). 
2. Giới thiệu bài mới (1 phút) 
- GV gợi ý HS nhận biết 2 hình ảnh (tổ chim, con thỏ) vẽ trong tranh ở SGK. 
- Giới thiệu : Học bài hôm nay, các em sẽ đọc - viết được các từ chỉ sự vật vẽ trong tranh.
(GV ghi bảng : Bài 15 - t th.) 
3. Dạy âm và chữ ghi âm 
a) Day âm và chữ ghi âm (10 phút) 
a.1. Hướng dẫn phát âm và nhận diện chữ ghi âm 
- GV gắn lên bảng quân chữ t (HVBD), giới thiệu và hướng dẫn HS phát âm: 
t (lưỡi đặt sát chân răng hàm trên nổi bật xuống cho hơi thoát ra). HS phát âm nhiều lượt
(cá nhân, tập thể) : t
- HS tìm nhanh quân chữ t (HVTH) gắn vào thanh cài, giơ lên và đọc thành tiếng (t) ; GV
hướng dẫn HS nhận xét : Chữ in t khác chữ in l đã học ở điểm nào ? (Có gạch ngang phía
trên). HS nhìn quân chữ, phát âm 3 lần (t). 
              Trang 162 
a2 Hướng dẫn HS tự ghép tiếng khoá 
- GV yêu cầu HS tìm quân chữ t (HVTH) gắn vào thanh cài, lây quần chữ ô gắn kế tiếp
(bên phải), thêm dấu hỏi trên ô, tự đánh vần và đọc tiếng ghép được tờ ô tô hỏi tổ tổ 
- GV dùng quân chữ (HVBD) gắn lên bảng : tổ (dưới t); gợi ý HS nhận biết 
t (đứng trước), ô (đứng sau), thêm dấu hỏi, đánh vần : tờ ô tô hỏi tổ – đọc trơn: tổ HS (cá
nhân, tập thể đánh vần và đọc tiếng khoá (tờ ô tô hỏi tổ tô). 
a3. Hướng dẫn nghĩa từ khoá 
- GV gắn thêm chữ tổ (từ khoá) ở dưới tiếng khoá, cho HS (cá nhân, tập thể 
nhìn bảng và đọc trơn (tổ). 
- GV gợi ý HS nhận biết nghĩa từ ngữ qua tranh (SGK): tổ chính là ngôi nhà của gia đình
nhà chim. Có thể liên hệ:Vì sao con người không nên phá tổ chim ? 
* Tổ chức trò chơi (2 - 3 HS lên bảng thi chỉ nhanh và đúng theo lời đọc của GV : t, tổ)
hoặc thể dục chống mệt mỏi, hát tập thể (nghỉ giữa tiết học 2 phút). 
b) Dạy âm và chữ ghi âm th (8 phút) 
b.1. Hướng dẫn phát âm và nhận diện chữ ghi âm 
- GV gắn lên bảng quân chữ th (HVBD), giới thiệu và hướng dẫn HS phát âm đúng :th
(gần giống cách phát âm âm t nhưng lưỡi uốn sát vòm miệng hơn, bật hơi nhẹ hơn). HS
phát âm nhiều lượt (cá nhân, tập thể) : th. 
- HS tìm nhanh quân chữ th (HVTH) gắn vào thanh cài, giơ lên và đọc thành tiếng (th);
GV hướng dẫn HS nhận xét : Chữ th và chữ t có gì giống và khác nhau ? (Giống nhau :
đều có chữ cái t ; khác nhau : chữ th có thêm h sau t). 
HS nhìn quân chữ, phát âm 3 lần (th). 
b.2. Hướng dẫn HS tự ghép tiếng khoá 
-GV yêu cầu HS tìm quân chữ th (HVTH) gắn vào thanh cài, lấy quân chữ gắn o kế tiếp
(bên phải), thêm dấu hỏi trên o, tự đánh vần và đọc tiếng ghép được : thờ o tho hỏi thỏ
/thỏ. 

133
- GV dùng quân chữ (HVBD) gắn lên bảng : thỏ (dưới th ; gợi ý HS nhận biết: 
th (đứng trước), o (đứng sau), thêm dấu hỏi trên o, đánh vần thờ o tho hỏi thỏ đọc trơn :
thỏ. HS (cá nhân, tập thể) đánh vần và dọc tiếng khoá (thờ o tho hỏi thỏ/thỏ). 
             Trang 163 
b.3. Hướng dẫn nghĩa từ khoá 
- GV gắn thêm chữ thỏ (từ khoá) ở dưới tiếng khoá, cho HS (cá nhân, tập 
thể) nhìn bảng và đọc trơn (thỏ). 
- GV gợi ý HS nhận biết nghĩa từ qua hình vẽ (SGK) : thỏ là con vật có đôi 
tai dài, đuôi ngắn, thường ăn cỏ, thích cà rốt,... Có thể liên hệ: Thỏ là loài vật có ích hay
có hại ? 
c) Hướng dẫn viết chữ (10 phút) 
- GV gắn lên bảng bìa chữ mẫu t, gợi ý HS nhận xét : 
+ Chữ t cỡ vừa cao mấy li ? (3 li) 
+ Chữ : gồm có mấy nét ? (3 nét : nét hất, nét móc ngược (phải), nét thẳng  ngang (ngắn)
- GV viết mẫu chữ t (cỡ vừa) trên bảng, kết hợp mô tả cách viết :
Nét 1: Đặt bút trên đường kẻ 2, viết nét hất đến đường kẻ 3 thì dừng lại.
Nét 2: Từ điểm dừng bút của nét 1, rê bút lên tới đường kẻ 4 Tổi chuyển hướng ngược
lại viết nét móc ngược (phải), dừng bút ở đường kẻ 2.
Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, lịa bút lên đường kẻ 3 viết nét thẳng ngang ngắn
trùng với đường kẻ li vở. 
- HS viết bảng con (có thể viết 2 – 3 lần). GV nhận xét, uốn nắn. 
- GV viết bảng chữ mẫu th, gợi ý HS nhận xét cách viết : viết chữ t, nối sang h để tạo
thành th. 
HS viết bảng con (2 – 3 lần). GV nhận xét, uốn nắn. 
- GV hướng dẫn HS viết chữ tổ (ô viết gần nhưng không sít quá, thêm dấu 
hỏi trên ô để thành chữ tổ) ; chữ thỏ (viết th rồi nối với o, ghi dấu hỏi trên o để thành chữ
thỏ). HS viết bảng con từng chữ (tổ, thỏ); GV nhận xét, uốn nắn. 
* Tổ chức trò chơi cuối tiết 1 (thi viết hoặc thi ghép nhanh các chữ tổ – thỏ, đọc nhanh
trước lớp...), kết hợp thể dục giữa giờ, hát tập thể (nghỉ chuyển tiết : 5 phút). 

Tiết 2 
4. Luyện tập 
a ) Luyện đọc (18 phút) 
a1, Đọc lại chữ ghi âm, tiếng, từ khoá 
- GV chỉ các chữ mới học (đã gắn trên bảng) cho HS đọc cá nhân, đọc đồng 
thanh (1 - 2 lượt). 
- 2 - 3 HS lần lượt lên bảng đọc chữ do GV chỉ (không theo thứ tự). 
            Trang 164 
a.2. Đọc từ ứng dụng 
- GV gắn các bìa chữ lên bảng theo 3 dòng từ ứng dụng (SGK), hướng dẫn HS tự đánh
vần rồi đọc trơn từng tiếng (VD: tờ - o - to/to): to, tơ, ta - tho thơ, tha - ti vi, thợ mỏ. 
- GV hướng dẫn từng cặp HS tự giúp nhau đọc các từ ứng dụng trong SGK 

134
(1 em chỉ ngón tay vào từng chữ, 1 em đọc ; sau đó đổi lại). GV có thể  kiểm tra kết quả
tự học bằng cách mời 1 - 2 cặp HS lên bảng chỉ và đọc theo cách trên. 
a.3. Đọc câu ứng dụng 
- GV viết bảng (hoặc dùng bộ HVBD ghép chữ) : bố thả cá mè, bé thả cá cờ , chỉ từng
chữ cho HS đọc rời từng từ, không nhất thiết đúng thứ tự
(VD: thả, cá mè, cá cờ, bố, bé), sau đó đọc cả câu. 
- 2 - 3 HS lần lượt lên bảng đọc câu ứng dụng : cả lớp nhìn bảng (hoặc SGK) đọc đồng
thanh 1- 2 lượt. 
a.4. Đọc bài trong SGK 
- GV đọc mẫu (âm – tiếng - từ mới ; từ ứng dụng ; nội dung luyện viết ; câu ứng dụng). 
- HS đọc bài trong SGK theo cách đã hướng dẫn (cá nhân, tập thể). 
* HS nghỉ giữa tiết học – Hát tập thể hoặc thể dục chống mệt mỏi (2 phút). 
b) Luyện viết (8 phút) 
- GV hướng dẫn HS luyện viết trong vở Tập viết 1, tập một : 
+GV tô lại chữ t, chữ th trên bảng (kết hợp mô tả cách viết) ; nhắc HS lưu ý: viết rõ nét
thẳng ngang ngắn ở chữ t ; viết t nối sang h để thành th, khoảng cách t và h vừa phải. 
+ Yêu cầu HS viết 2 dòng t, th theo mẫu ở Bài 15 (vở Tập viết 1, tập một) : mỗi dòng viết
5 - 6 chữ cái. 
+ GV viết mẫu chữ tổ (lưu ý dấu mũ trên ô, dấu hỏi) ; thỏ (lưu ý ghi dấu hỏi trên o). 
+ Yêu cầu HS viết tiếp 2 dòng tổ, thỏ theo mẫu ở Bài 15 (có thể viết tại lớp mỗi dòng 3
chữ, còn lại về nhà viết cho đủ). 
- GV chấm tại lớp một số bài viết của HS, nhận xét chung. 
           Trang 165 
c) Luyện nghe- nói(8’)
- GV hướng dẫn HS, đọc chữ :ổ, tổ quan sát tranh trong SGK (hoặc tranh phóng to, nếu
có), đọc chữ : ổ, tổ
- Gợi ý HS luyện nói theo câu hỏi (trả lời thành câu): 
+ Gà mái nằm trong ổ để làm gì ? (VD: Gà mái nằm trong ổ để ấp trứng.) 
+ Những quả trứng được gà mẹ ấp sẽ thế nào ? (VD: Những quả trứng được 
gà mẹ ấp sẽ nở thành những chú gà con xinh xắn.) 
+ Những con gì đang nằm trong tổ ? (VD: Những con chim non đang nằm 
trong tổ.) 
+ Tổ chim giống như ngôi nhà của ai ? (VD: Tổ chim giống như ngôi nhà 
của em.) 
+ Nếu ổ hay tổ bị phá hoại thì các con vật sẽ thế nào ? (VD: Nếu ở hay tổ bị 
phá hoại thì các con vật sẽ không còn chỗ ở,...) 
Chú ý : GV yêu cầu HS lắng nghe, nhận xét hay bổ sung câu trả lời của bạn (có thể nói
lại cho tốt hơn để rèn kĩ năng nghe – nói. 
5. Củng cố, dặn dò (2 phút) 
- GV cho HS nhắc lại : Hai chữ mới học là những chữ gì ? (t, th) Tập viết hai từ mới
nào ? (tổ, thỏ) Luyện nói theo tranh về nội dung gì ? (ổ, tổ) 

135
* Hoặc :GV tổ chức HS sử dụng bộ HVTH tham gia trò chơi thi ghép nhanh và đúng
nhiều tiếng - từ chứa âm mới học (t, th) - mỗi lần thi ghép khoảng 30 giây (hoặc đếm từ 1
đến 20). 
- Dặn HS luyện tập : đọc bài trong SGK, viết các chữ t, th, tổ, thỏ, dùng bộ HVTH ghép
được nhiều tiếng - từ chứa âm mới học ; nhìn tranh, luyện nói như hướng dẫn ở lớp. 
Bài 42 
DẠY VẦN MỚI
ưu ươu
(2 tiết) 
I- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 
- HS đọc và viết được : ưu, ươu, trái lựu, hươu sao. 

Trang 166
- Đọc được : từ ngữ ứng dụng có tiếng mang vần ưu , vần ươu ; bài ứng dụng trong
SGK ( Buổi trưa ... ở đấy rồi ) .
- Phát triển lời nói theo chủ đề : Hổ , báo , gấu , hươu , nai , voi ,
II- ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
- HS : Bộ chữ HVTH ; bảng con , vở Tập viết 1 , tập một .
- GV : Bộ chữ HVBD ; vật thất ( trái lựu , bầu rượu ) , tranh minh họa từ ứng dụng
( bướu cổ ) , bằng giấy chép sẵn bài ứng dụng , tranh luyện nói theo chủ đề Hổ , báo , gấu
, hươu , nai , voi ( nếu có ) .
III - HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Tiết 1
1. Kiểm tra bài cũ ( 7 phút )
- HS đọc từng bìa chữ ( theo bộ HVBD ) : iêu , yêu , diều sáo , yêu quý , buổi chiều , hiểu
bài , yêu cầu , già yếu .
* Hoặc , GV lần lượt đọc cho HS dùng bộ HVTH ghép trên thanh cài : iêu, yêu , diều
sáo , yêu quý , hiểu bài , già yếu . ( Mỗi lần ghép xong , HS giơ lên để GV kiểm tra , sau
đó đọc thành tiếng trước khi ghép lần khác . )
- HS viết bảng ( theo GV đọc ) : diều sáo , yêu quý . ( Chú ý : Nếu đọc cho HS viết vần ,
GV cần chỉ định rõ : vần iêu mở đầu bằng i ngắn ; vần yêu mở đầu bằng y dài . )
- 2 - 3 HS đọc bài ứng dụng trong SGK ( tr . 85 ) 2. Giới thiệu bài mới ( 1 phút )
GV : Bài hôm nay , các em sẽ học thêm 2 vần mới đều có u ở cuối .
( Ghi bảng : Bài 42 – ưu ươu)
3. Dạy vần
a ) Vân ưu ( 10 phút )
a.1 . Hướng dẫn HS tự nhận biết vần mới
- GV yêu cầu HS dùng bộ HVTH tự ghép trên thanh cài : ư trước , u sau ( ưu)

136
- Hỏi : Vần này có âm nào đứng trước ? ( u ) Âm nào đứng sau ? ( u ) Đánh vần thế nào ?
( ư u ưu) Đọc trơn thế nào ? ( ưu )
Trang 167
- GV dùng bộ HVBD ghép vần ưu trên bảng yêu cầu HS cá nhân , tập thể đánh vần vấn
và đọc vấn (Ư u ưu/ ưu) sau đó nhẵn bảng đọc trơn nhanh : ưu
a.2 . Hướng dẫn HS tự nhận biết tiếng khoá
-GV yêu cầu HS tự ghép trên thanh cài : 1 trước , ưu sau , dấu nặng dưới tư ( lưu ) .
- Hỏi : Tiếng này có âm gì đứng đầu ? ( 1 ) Có vần gì mới học ? ( thi ) Có dấu thanh gì ? (
dấu nặng ) Đánh vần tiếng này thế nào ? ( lờ tu lau nặng lại ) Đọc trơn thế nào ? ( lựu )
- GV dùng bộ HVBD ghép tiếng khoá lưu trên bảng , yêu cầu HS ( cá nhân , tập thể đánh
vần và đọc tiếng khoá ghi trên bảng ( lờ ưu lưu nặng lựu/ lựu ) ; sau đó nhìn bảng , đọc
trơn nhanh : lưu .
a.3 . Hướng dẫn HS tự ghép từ khoá
-GV đọc cho HS tự ghép trên thanh cài ( chú ý giúp đỡ HS yếu ) : trái lựu . GV gắn từ
khoá trái lựu ( HVBD ) trên bảng , yêu cầu HS tự nhẩm vấn và đọc trơn từng tiếng ( cá
nhân , tập thể ) : trái lựu . ( GV củng cố đọc tiếng trái , nếu cần ) . - GV chỉ bảng cho HS
cá nhân , tập thể ) đọc trơn nhanh : ưu - lưu trái lựu .
- GV cho HS quan sát vật thật ( trái lựu ) hoặc quan sát tranh minh hoạ ở SGK , kết hợp
giới thiệu : trái ( quả ) lưu chín màu đỏ hồng , bên trong chứa nhiều hạt nhỏ , ăn ngọt
mát .
* Tổ chức trò chơi " Chỉ nhanh và đúng vần , tiếng " , hoặc thể dục chống mệt mỏi , kết
hợp nghỉ giữa tiết học ( 2 phút ) .
b ) Vẫn ươu ( 6 phút )
b.1 . Hướng dẫn HS tự nhận biết vần mới
- GV yêu cầu HS tự ghép chữ trên thanh cài : từ trước rồi đến ở , cuối cùng là u cou ) .
- Hỏi : Vần này được cấu tạo thế nào ? ( ươ đứng trước , u đứng sau ) Đánh vần thế nào ?
( tươ 4 ương ) Đọc trơn thế nào ? ( ươu ) GV lưu ý khi HS đánh vần vần : phát âm ươ
( nguyên âm đôi ) cần nối liền từ từ sang ơ , sau đó đến ( ug - u - uou ) .
- GV dùng bộ HVBD ghép vần ươu trên bảng , yêu cầu HS ( cá nhân , tập thể ) đánh vần
vần và đọc vần ( ươ u ươu/ươu); sau đó nhìn bảng , đọc trơn nhanh : ươu
Trang 168

- So sánh Vần ươu và vần ưu có gì giống và khác nhau. ( giống đều có âm u đứng cuối;
khác nhau vần ươu có ươ đứng đầu, còn vần ưu có ư đứng đầu; có thể chấp nhận HS nêu
điểm khác nhau vần ươu có thêm ơ ở giữa. HS phát âm sợ sánh lại 2 vần
b.2 . Hướng dẫn HS tự nhận biết tiếng khoá
-GV yêu cầu HS tự ghép trên thanh cài : h trước , ươu sau ( hươu ) ,

137
- Hỏi : Tiếng này có âm gì đứng đầu ? ( 1 ) Có vẫn gì mới học ? (ươu Đánh vần tiếng này
thế nào ? ( hờ ươu hươu ) Đọc trơn thế nào ? (hươu )
-GV dùng bộ HVBD ghép tiếng khoá hươu trên bảng , yêu cầu HS ( cá nhân , | tập thể
đánh vần và đọc tiếng khoá ghi trên bảng ( hờ tươu Hươu hươu ) ; Sau đó nhìn bảng , đọc
trơn nhanh : hươu .
b.3 . Hướng dẫn HS tự ghép từ khoá
-GV đọc cho HS tự ghép trên thanh cài ( chú ý giúp đỡ HS yếu ) : hươu sao .
- GV gắn từ khoá hươu sao ( HVBD ) trên bảng , yêu cầu HS tự nhẩm vấn và đọc trơn
từng tiếng ( cá nhân , tập thể ) : hươu sao . ( GV củng cố đọc tiếng sao , nếu cần ) .
-GV chỉ bằng cho HS cá nhân , tập thể ) đọc trơn nhanh : ươu – hươu – hươu sao .
- HS quan sát tranh minh hoạ hươu sao ở SGK ; GV nói thêm : hươu sao là con thú ăn
cỏ , sống hiền lành , có hình dáng đẹp , thường sống ở trong rừng .
c ) Hướng dẫn viết chữ ( 12 phút )
- GV viết mẫu ( kết hợp chỉ dẫn cách viết ) và cho HS tập viết ( 2 – 3 lần ) vào bảng con
từng vần : tàu ( 2 con chữ cao bằng nhau , nối nét ư– u , nhớ ghi dấu phụ ở Ư ) ,ươu nối
nét ư- ơ- u ghi dấu phụ ở ư, ơ)
- GV viết mẫu ( kết hợp chỉ dẫn cách viết ) và cho HS tập viết ( 1 - 2 lần ) vào bảng con
từng chữ ghi tiếng : lậu ( con chữ I cỡ vừa cao 5 li , dấu nặng dưới ư) , hươu ( con chữ h
cỡ vừa cao 5 li , ghi dấu phụ ở ư, ơ)
- Có thể cho 2 - 3 HS lên bảng viết từng từ ngữ : trái lựu , hươu sao .
* Tổ chức trò chơi cuối tiết 1 ( HS dùng bộ HVTH thi ghép nhanh và đúng vấn
– tiếng mới học , hoặc thi viết nhanh và đúng vần – tiếng trên bảng theo GV đọc ) , kết
hợp nghỉ chuyển tiết ( 5 phút ) .
Trang 169
Tiết 2
4. Luyện tập
a ) Luyện đọc ( 18 phút )
1 Đọc vần – tiếng - từ khoá
2- 3 HS lần lượt lên bảng đọc vấn , tiếng , từ đã học ở tiết 1 ( chú ý phát âm rõ ) .
-GV chỉ vần , tiếng , từ trên bảng cho HS đọc ( cá nhân , nhóm – tổ ) .
a.2 , Đọc từ ngữ ứng dụng
- GV gắn bìa chữ ( HVBD ) và hướng dẫn HS nhận biết vần mới (ưu,ươu ) trong từ ngữ
ứng dụng .
* Hoặc : HS dùng bộ HVTH ghép trên thanh cài các tiếng trong từ ngữ ứng dụng có
chứa vần mới theo yêu cầu của GV ( VD : Tìm các tiếng trong từ ngữ ứng dụng có vần
lưu
- HS ghép được 2 tiếng : cừu , mưa ) .

138
- Hướng dẫn HS đánh vần và đọc tiếng chứa vần mới ( cừu , màu , rượu , bướu ) .
- Hướng dẫn HS đọc trơn từng từ ứng dụng : chú cừu , mưu trí , bầu rượu , bướu cổ .
( GV có thể kết hợp giúp HS hiểu nghĩa các từ bầu rượu , bướu cổ bằng vật thật , tranh
minh hoạ hoặc lời miêu tả ngắn gọn ) .
a.3 . Đọc bài ứng dụng
- GV ghi bảng ( hoặc dán bằng giấy chép sẵn bài ứng dụng ) , hướng dẫn HS đọc một số
từ ngữ rời : Cừu , hươu , Buổi trưa , chạy theo , bờ suối , thấy , ở đấy .
- HS ( cá nhân , nhóm – tổ ) đọc từng câu rồi đọc cả bài ứng dụng trong SGK ( hoặc bằng
giấy trên bảng ) , kết hợp quan sát tranh minh hoạ để hiểu nội dung bài ứng dụng .
4.4 . Đọc bài trong SGK
GV hướng dẫn HS đọc ( cá nhân , tập thể , trong SGK : vần , tiếng , từ khoá ; từ ngữ ứng
dụng nội dung luyện viết ; bài ứng dụng .
* Tổ chức trò chơi ( thi đọc đúng và nhanh trên bảng , hoặc dùng bộ HVTH thi ghép
nhanh các tiếng – từ mang vần mới học ) , kết hợp nghỉ giữa tiết học ( 2 phút ) .
Trang 170
b ) Luyện viết ( 8 phút )
-GV hướng dẫn HS luyện viết trong vở Tập viết , tập một ( viết 3 lần Vần ưu; 3 lần vần
ươu, 1 lần từ trái lựu , 1 lần từ hươu sao ) ; dặn HS tự viết tiếp phần còn lại . Lưu ý khi
viết chữ trái ( ghi dấu sắc trên a ) .
- GV chấm một số bài viết và nhận xét chung .
c ) Luyện nghe - nói ( 8 phút )
- GV hướng dẫn HS quan sát tranh ( SGK ) , đọc tên bài luyện nói : Hổ , báo , gấu ,
hươu, nai , voi .
- HS tập nói theo câu hỏi gợi ý trả lời đầy đủ , thành câu ) :
+ Tranh vẽ những con vật nào ? ( VD : Tranh vẽ các con vật : hổ , báo , gấu , hươu , nai ,
voi ) .
+ Trong các con vật đó , em biết con vật nào rất hiền ? Con vật nào trông rất 2
+ Con vật nào to khoẻ nhất ? Nó có thể làm được những việc gì giúp người ?
+ Đố biết con vật nào rất thích ăn mật ong ? Em thấy hình dáng nó thế nào ?
+ Các con vật trong tranh thường sống ở đâu ? ...
- GV có thể hướng dẫn HS nhận xét chung : Các con vật vẽ trong tranh được gọi là thú
rừng hay thú nuôi ? dữ tợn
5. Củng cố , dặn dò ( 2 phút )
- GV cho HS đọc bài trên bảng và trong SGK .
* Hoặc : GV tổ chức HS tham gia thi " Tìm nhanh tiếng mang vần mới học ( ghi trên
bảng ) ; dùng bộ HVTH thi tìm và ghép nhanh tiếng - từ mang vẫn mới học ngoài SGK .

139
- Dặn HS học bài : Đọc SGK , dùng bộ HVTH ghép các từ ngữ có tiếng mang vần mới
học , luyện viết trên bảng con , vở Tập viết 1 ; nhìn tranh , luyện nói như hướng dẫn ở lớp
.
Câu 106
Đề nghị giới thiệu một bài soạn về hai tiết Ôn tập vần đã học nhằm giúp giáo viên
phân bổ thời gian một cách hợp lí và đảm bảo yêu cầu cơ bản của bài học theo SGK
Tiếng Việt 1 .

Trang 171
Dưới đây, xin giới thiệu một bài soạn( có phân bố thời gian cụ thể cho từng hoạt động
dạy học) về hai tiết Ôn tập vần đã học trong SGK Tiếng Việt 1, tập 1
Bài 43
Ôn tập
( 2 tiết)
I. Mục đích , yêu cầu
- HS đọc , viết được một cách chắc chắn các vần đã học có kết thúc bằng u hoặc o .
- Đọc đúng từ ngữ , bài ứng dụng trong SGK ( Nhà Sáo Sậu ở sau dãy núi .... nhiều
châu chấu , cào cào ).
- Nghe hiểu và dựa vào tranh để kể lại được từng đoạn của câu chuyện Sói và Cừu .
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
- HS bộ chữ HVTH, bảng con, vở Tập viết 1,tập 1
- GV :bộ chữ HVBD ;bảng ôn tập kể sẵn,có gắn các bìa chữ ở hai cột ( trên cùng, bên
trái ) theo sgk (tr.88);tranh cá sấu ,tranh luyện tập kết chuyện Sói và Cừu (nếu có)
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TIẾT 1
1. Kiểm tra bài cũ(6 phút)
- Đọc các bìa chữ (hvbd): trái lựu hươu sao,chú cừu , mưu trí , bầu rượu, bướu cổ;
đọc bài ứng dụng trong sgk (tr.87)
* Hoặc , hs nghe gv đọc , dùng bộ chữ hvth gép trên thanh cài: ưu ,ươu trái lựu ,, hươu
sao,chú cừu , mưu trí bầu rượu (tương tự cách kiểm tra bài cũ bài 42)
-Viết bảng(theo gv đọc) : ươu, ưu,trái lựu, hươu sao .
2.Giới thiệu bài ôn tập
- Gv:bài hôm nay ôn lại các vần đã học có u hoạc học o ở cuối/ ( ghi vào bảng sơ đồ vần
kể sẵn theo sgk : a-u ; a-o. Gợi ý hs ghép được hai vần để ghi vào ô trống:au,ao.)
Trang 172
- Hs mở sách giáo khoa , quan sát tranh giữa 2 sơ đồ,nêu từ có tiếng chứ vần cần ôn
:tranh vẽ cây gì ? (cây cau ) tiếng nào có vần sẽ ôn tập ? (cau )
3. Ôn tập
a, Lập bảng ôn vần (10 phút )
-Gv hướng dẫn hs ghép vần theo bảng ôn (trên bảng lớp ) :

140
+ Hs đọc các âm chính ở cột dọc : a, e, â, ê, i, iê, yê, ươ.
+ Hs đọc hai âm cuối ở cột ngang :u,o.
+HS nhìn ô vần mẫu (au),dùng bộ HVTH ghép tiếp các vần kết hợp được ở cột đọc thứ
nhất (mỗi lần có thể yêu cầu HS ghép 2-3 vần trên thanh cài) : âu,êu,iu,ưu,iêu,yêu,ươu.
(gv kiểm tra kết quat ghép vần của học sinh và ghi vào bảng ôn từng vần hs ghép đc
+ Hs ghép tiếp vần ở cột dọc thứ hai : eo.(gv ghi vào bảng ôn )
-Gv chỉ từng vần trong bảng ôn (theo thứ tự và ko theo thứ tự ) cho hs đọc cá nhân và
đồng thanh . (đọc 2-3 lượt tăng dần tốc độ.)
*Tổ chức trò chơi, kết hợp nghỉ giữa tiết học (2 phút):
Gv có thể tổ chức hs chơi trò “Thi chỉ nhanh và đúng vần” (3-4 hs cầm que chỉ ,đứng
trước bảng ôn vần khoảng 1m ; nghe gv đọc vần bất kì trong bảng ôn hs chỉ đúng và
nhanh nhất sẽ được 2 điểm – chỉ đúng 5 vần , được 10 điểm; gv cho 2-3 tốp hs lần lượt
chơi , sau đó chọn những hs đạt điểm giỏi để tuyên dương )
b, Ghép tiếng , luyện đọc ( theo bảng ôn tập ) ( 12 phút )
-GV hướng dẫn hs dùng bộ HVTH , lần lượt tự tìm tiếng chứa vần ôn tập ( theo thứ tự
trong bảng ôn ) để ghép vào thanh cài . Sau đó kiểm tra kết quả , gv cho hs luyện đọc các
tiếng tìm được rồi chọn 2-3 tiếng có nghĩa để ghi lên bảng ( cạnh bảng ôn ) .
VD : tìm tiếng có vần au . (Hs ghép được : cau hoặc rau , lau , màu , cháu – có trong sgk ;
đau , sáu ...- không có trong sgk GV có thẻ chọn từ cau để ghi bảng )
- GV chỉ bảng cho hs đọc ( cá nhân , đồng thanh ) toàn bộ các chữ đã ghi bảng ( 10 từ ) –
( đọc 2-3 lượt , tốc độ tăng dần )
Trang 173
c. Đọc từ ngữ ứng dụng (6 phút)
- GV đọc những từ ngữ ứng dụng trong SGK cho HS ghép trên thanh cài (HVTH) để
kiểm tra kĩ năng ghép tiếng : ghi bảng lớp 3 từ ngữ ứng dụng (ao bèo, cá sấu, kì diệu)
cho HS luyện đọc cá nhân nhiều lượt.
Hoặc : GV hướng dẫn HS đọc bìa chữ(HVBĐ) ghi từ ngữ ứng dụng gắn lên bảng : ao
bèo,cá sấu, kì diệu. (Đánh vần và đọc tiếng có vần ôn tập : ao,sấu,bèo,diệu ; sau đó đọc
trơn từng từ ngữ).
- GV chỉ bằng cho HS đọc đồng thanh từng từ ngữ ( theo thứ tự và không theo thứ
tự ); có thể kết hợp chú giải từ cá sấu hoặc cho xem tranh ảnh minh họa (nếu có).
*) Tổ chức trò chơi cuối tiết 1,kết hợp nghỉ chuyển tiết (5 phút)
GV có thể tổ chức cho HS chơi trò “ thi chỉ nhanh và đúng tiếng-từ” theo cách đã hướng
dẫn chơi giữa tiết 1, hoặc dùng bộ HVTH ghép nhanh được nhiều tiếng – từ có vần ôn tập
( thi theo nhóm – tổ).
Tiết 2
d. Đọc bài ứng dụng(6 phút)

141
- GV ghi bảng một vài từ ngữ có trong bài ứng dụng và hướng dẫn HS luyện đọc (cá
nhân, đồng thanh) : Sáo Sậu, sau dãy núi, ưa khô ráo, nhiều châu chấu, cào cào.
- HS đọc bài ứng dụng trong SGK. (Đọc cá nhân, đọc theo cặp để kiểm tra nhau; sau đó
chỉ từng chữ và đọc đồng thanh theo lệnh của GV).
- GV hướng dẫn HS đọc toàn bài trong SGK ( gồm : 2 sơ đồ vần, bảng ghép vần, từ ngữ
ứng dụng, từ luyện viết, bài ứng dụng).
e. Luyện viết(12 phút)
- GV viết mẫu trên bảng (theo cỡ chữ vừa) và hướng dẫn HS cách viết (chú ý kĩ thuật viết
liền mạch) : cá sấu ( các con chữ cao bằng nhau, ghi dấu sắc trên a, ă ), kì diệu (con chữ k
cao gấp hai lần rưỡi con chữ i , ghi dấu huyền trên i;con chữ d cao gấp đôi con chữ i , các
con chữ i, ê, u cao bằng nhau và viết liền mạch, ghi dấu nặng dưới ê). Có thể cho HS xem
tranh (ảnh) về cá sấu (nếu có ) – loài bò sát lớn, mõm dài, đuôi khỏe, thường sống ở các
sông lớn, tính dữ tợn.
Trang 174
- GV đọc cho HS nghe(kết hợp nhìn bảng lớp) viết vào bảng con từng từ ngữ ứng dụng
nói trên(có thể viết 2 lần,tăng dần tốc độ).
- HS viết vào vở Tập viết 1 (cá sấu,kì diệu) theo hướng dẫn của giáo viên (mỗi dòng viết
theo mẫu 2 lần).
+ HS nghỉ giữa tiết học – Hát tập thể hoặc tập thể dục chống mệt mỏi(2 phút).
4. Kể chuyện ( 16 phút )
- HS mở SGK ,đọc tên câu chuyện : Sói và Cừu
- GV gợi mở: câu chuyện nói về hai nhân vật Sói và Cừu nhưu thế nào,giúp em biết thêm
được những điều gì bổ ích, các em hãy chú ý và lắng nghe.
-GV kể chuyện(có kết hợp tranh minh họa phóng to, nếu có).
Sói và Cừu
Có một con Cừu đang gặm cỏ trên cánh đồng. Mải ăn, Cừu đi mãi,ra tận giữa bãi,chẳng
thấy bóng dáng một người quen nào.
Một con Chó Sói đói đang lồng lộn đi tìm thức ăn ,bỗng gặp Cừu. Nó chắc mầm được
một bữa ngon lành. Nó tiến lại và nói:
- Này Cừu, hôm nay mày tận số rồi. Trước khi chết mày có mong ước gì không ?
Cừu nhanh trí trả lời:
- Tôi nghe nói,Sói là bậc anh hùng. Trước khi ăn, Sói bao giờ cũng hát. Vậy cớ sao ăn
thịt tôi mà anh lại không hát lên ?

142
Sói nghĩ con mồi này không thể chạy thoát được .Nó liền hắng giọng rồi cất tiếng sủa
lên thật to.
Tận cuối bãi, người chăn cừu bỗng nghe thấy tiếng gào của Chó Sói. Anh liền chạy
nhanh đến. Sói vẫn đang ngửa mặt lên ,rống ông ổng. Người chăn cừu liền giáng cho nó
một gậy. Cừu thoát nạn.
GV hướng dẫn HS quan sát từng tranh trong SGK, tập kể theo các câu hỏi gợi ý( nói
thành các câu liền mạch):
Tranh 1: Cừu mải ăn cỏ, đi mãi ra tận đâu ? Chó Sói đang đói bỗng gặp Cừu nó nghĩ như
thế nào? Sói nói với Cừu điều gì ?
(HS trả lười từng ý và tập kể lại cả đoạn theo tranh, VD : Cừu mải ăn cỏ,đi mãi ra tận
giữa cánh đồng,Chó Sói đang đói bỗng gặp Cừu , nó nghĩ rằng sẽ được một bữa ngon
lành , Sói nói với cừu :” Này Cừu , hôm nay mày tận số rồi . Trước khi chết, mày có
mong ước gì không ? ")
Trang 175
Tranh 2 : Cừu nói với Sói rằng trước khi ăn Sói nên làm gì ? Sói nghĩ gì và đã làm theo
lời cừu ra sao ?
(HS trả lười và kể theo tranh ,VD : Cừu nói với Sói rằng trước khi ăn, Sói nên hát. Sói
nghĩ Cừu không thể thoát được nên đã hằng giọng lên và cất tiếng sủa thật to.)
Tranh 3 : Tận cuối bãi , người chăn cừu nghe thấy gì ? Anh chạy nhanh đến và thấy thế
nào ? Người chăn cừu đã làm gì ?
( HS trả lời và kể theo tranh, VD : Tận cuối bãi, người chăn cừu nghe thấy tiếng gào của
Chó Sói. Anh chạy nhanh đến và thấy Sói vẫn đang ngửa mặt lên, rống ông ổng. Người
chăn cừu liền giáng cho Sói một gậy. )
Tranh 4 : Cuối cùng, Cừu có thoát nạn không? Theo em, nhờ có đức tính gì mà cừu đã
thoát khỏi bàn tay của Chó Sói ?
(HS trả lời và kể theo tranh, VD : Cuối cùng,Cừu đã thoát chết, Nhờ bình tĩnh và nhanh
trí nên Cừu đã thoát khỏi bàn tay của Chó Sói. )
- Nếu có điều kiện GV khuyến khích 1 – 2 HS ( khá, giỏi ) xung phong kể lại toàn bộ câu
chuyện dựa theo tranh vẽ .
5. Củng cố dặn dò( 2 phút )
- 3 – 4 HS lần lượt xung phong lên chỉ bằng ( vần – tiếng – từ ), đọc lại nội dung bài ôn
(mỗi em đọc một pjaafm), GV nhận xét chung về tiết ôn tập vần đã học.
- Dặc HS học bài theo SGK ( luyện đọc, viết được các vần – tiếng – từ đã ôn tập) ; tập kể
lại câu chuyên Sói và Cừu.
Câu 107

143
? Khi dạy các bàu học vần trong SGK Tiếng Việt 1, một số vần khó phát âm đối với học
sinh (ví dụ : uôi,ươi,ươu,... oay,oăn,oach,uân,uynh,uyên,uyêt,...) cần được giáo viên
hướng dẫn như thế nào để đạt kết quả mong muốn ?
: Một số vần khó phát âm đối với HS thường thuộc các nhóm vần có nguyên âm đôi(iê ,
uô .ươ) haowjc vần có đủ 3 bộ phận ( âm đệm, âm chính, âm cuối)
 
Trang 176
Do chưa quen điều khiển bộ máy phát âm hoặc ảnh hưởng cách phát âm ở địa phương,
HS còn lúng túng khi phát âm các vần nói trên. Để giúp HS phát âm đúng, GV cần nắm
vững cách phát âm, chỉ rõ các bộ phận tham gia vào việc phát âm (bộ phận hoạt động :
dây thanh, lưỡi, lưỡi gà, ngac mềm, môi, xiường hàm dưới 6 bộ phận tĩnh : ngac cứng,
lợi, răng, xương vòm miệng) đồng thời yêu cầu HS quan sát kĩ cách phát âm của GV đối
với từng vần. GV cũng có thể kết hợp sử dụng linh hoạt một số biện pháp dưới đây để
giúp HS khắc phục khó khăn khi phát âm :
- Yêu cầu HS phát âm đúng nguyên âm đôi (liên hơi) trước khi đánh vần vần và đọc vần
(VD:iê/ iê u iêu - iêu ; uô/ uô mờ uôm – uôm,...).
-Mô tả hoạt động của bộ máy phát âm cụ thể, rõ ràng, trong đó lưu ý thao tác quan trọng
để HS làm đúng (VD : phát âm các vần oay, oăn, oách, uân, uâng, uynh, uych, uyên,
uyệt,... cần lưu ý đặc điểm "tròn môi" và độ mở của miệng).
- Hướng dẫn đánh vần theo cách khác (nếu thuận lợi về mặt phát âm đối với HS), VD: o
ay bay, o ăn oăn, o en oen,... u ân uân, u âng nâng,...
- Đọc cho HS nghe và phát âm đúng các tiếng - từ mang vẫn khó (VD: đọc trơn tươi
cười, loay hoay, huỳnh huỵch, quyết tâm,...), sau đó quay lại đánh vần và đọc vần khó
(ươi ươi – ươi, o a y oay - oay,...); cuối cùng đánh vần lại và đọc trơn tiếng (tờ ươi tươi –
tươi, cờ ươi cươi huyền cười – cười,..).

Câu 108
?) Một số vấn khó không dạy ở phần Học vần nhưng vẫn xuất hiện trong bài Tập
đọc (phần Luyện tập tổng hợp) cần được giáo viên giải quyết như thế nào ?
: Trong cuốn Hỏi và đáp về sách Tiếng Việt 1, tr. 58 (Nguyễn Trí chủ biên, NXB Giáo
dục, 2002) các tác giả SGK cho biết : Có khoảng 19 vẫn không đưa vào sách này vì ít
dùng, khả năng sản sinh rất kém hoặc sản sinh quá đặc biệt. Đó là các vấn nằm ở phần
biên của hệ thống. Chúng sẽ được lưu ý khi lần đầu xuất hiện trong các phần sau của sách
Tiếng Việt. Đó là các vấn : yêng, yêt, oong, ooc, oao, oeo, oen, oam, oăm, oet, oăc, uây,
oach, uây, uyu uâng, uênh, uyt, uêch.
Gặp trường hợp một số vấn khó hoặc ít dùng không dạy ở phần Học vấn nhưng vẫn xuất
hiện trong bài Tập đọc (phần Luyện tập tổng hợp), GV giải quyết như sau:
Trang 177
- Khi hướng dẫn HS luyện đọc tiếng - từ ở tiết 1, kết hợp giúp các em nắm được cấu tạo
vân, cách đánh vần và đọc tiếng chứa vần khó (có thể tập viết chữ ghi tiếng có vần khó
trên bảng con, bảng lớp để ghi nhớ). VD: vần yêng có yê đứng đầu, ng đứng sau, đánh
vần : yê ngờ yêng, đọc là : yêng (tập viết vân vêng, lưu ý HS viết y/i dài đầu vần) ; đánh
144
vần và đọc vần uâng : u â (ớ) ngờ uâng/ uâng, đánh vần và đọc tiếng khuâng : khờ uâng
khuâng/ khuâng, đọc từ : bâng khuâng (Tập đọc Lăng Bác, Tiếng Việt 1,tập hai, tr 160)
- Cũng có thể dùng các biện pháp đối chiếu - - so sánh – liên tưởng từ các vấn đã học để
tìm hiểu cách đọc vần khó hoặc ít dùng, sau đó cho HS luyện viết chữ ghi tiếng - từ để
ghi nhớ. VD: vần oong khác vẫn ong (đã học) ở âm o thêm vào đầu vần, có thể đánh vần
và đọc như sau : o ong oong / oong miệng mở, tròn môi, âm phát ra từ vòm họng – khác
phát âm vần ong miệng ngậm lại, âm tắc trong vòm miệng) ; đánh vần và đọc tiếng
xoong : xờ oong xoong /xoong ; đọc từ : cải xoong (có thể luyện viết bảng).
Câu 109
? Phần Luyện nghe - nói theo chủ đề trong bài học âm – vẫn cần đạt được những
yêu cầu gì Khi gặp một số chủ đề chưa thật phù hợp với thực tế địa phương (VD :
Bài 20, Bài 22, Bài 30, Bài 34, Bài 54, Bài 40,...), giáo viên cần hướng dẫn học sinh
luyện nói như thế nào ?
: Phần Luyện nghe - nói theo chủ đề trong bài học âm vẫn cần đạt được những yêu cầu
về Chuẩn kiến thức, kĩ năng ở lớp 1 (quy định tại văn bản Chương trình giáo dục phổ
thông - cấp Tiểu học do Bộ GD&ĐT ban hành) : Nghe – hiểu đúng câu hỏi đơn giản, lời
kể, lời hướng dẫn, lời yêu cầu của người đối thoại. Nói rõ ràng, đủ nghe. Có thái độ lịch
sự, mạnh dạn, tự nhiên khi nói. Biết trả lời đúng vào nội dung câu hỏi. Nói thành câu.
Bước đầu biết đặt câu hỏi đơn giản. Biết giới thiệu một vài câu về mình, về người thân
hoặc về một vài đồ vật quen thuộc.
Dựa vào chủ đề gợi ý qua tranh ảnh trong SGK Tiếng Việt 1, tập một ( bài học âm- vần),
GV hướng dẫn HS luyện nghe - nói một cách khá linh hoạt (từ 5 đến 8 phút), theo những
nội dung gần gũi với cuộc sống thực tế của các em. Để tạo thuận lợi cho việc luyện nghe
– nói theo chủ để xác định (ghi trong SGK), GV cần chuẩn bị một số câu hỏi gợi ý để HS
trả lời, diễn đạt thành câu, phát triển lời nói một cách tự nhiên , yêu cầu HS lắng nghe và
kết hợp

Trang 178
nhận xét câu trả lời của bạn (có thể nói lại cho tốt hơn) để rèn kĩ năng nghe.
Ví dụ : Luyện nghe nói về chủ đề bờ hồ | Bài 10 (ô ơ), SGK Tiếng Việt 1 tập một, GV có
thể gợi ý HS trả lời các câu hỏi sau :
- Tranh vẽ cảnh bờ hồ có đẹp không ?
- Bờ hồ có hàng cây màu gì ? Dưới bóng cây có mấy người ngồi nghỉ trên ghế ? Ven bờ
hồ có mấy bạn nhỏ dắt tay nhau đi chơi ?Nhùn quần áo của các bạn, em biết lúc ấy trời
lạnh hay nóng ? Đó là cảnh mùa nào ?...
- Nơi em ở có hồ nước không ? Hổ nước đem lại lợi ích gì cho con người ?...
Khi gặp một số chủ đề chưa thật phù hợp với thực tế địa phương, GV cần hướng dẫn HS
nghe - nói một cách linh hoạt, khai thác những nội dung gân gũi với trẻ và ít nhiều liên
quan đến chủ đề (không nhất thiết phải có tranh minh hoạ ở SGK), VD:
-Bài 20 : Luyện nghe nói về chủ đề âm thanh của một số sự vật (ù ù, vo vo, vù vù, ro ro,
tu tu), trước hết cần khai thác hiểu biết của HS về các sự và vẽ trong tranh (Em biết sự
vật nào vẽ trong tranh ? Khi chuyển động, sự vật đó phát ra âm thanh như thế nào ? - HS
có thể đọc các từ đã cho trong SGK để đoán nhận tên gọi âm thanh). Xét thấy HS có khả

145
năng hình dung được sự vật xa lạ (vẽ trong tranh), GV có thể giới thiệu sự vật đó, gợi ý
bằng câu hỏi và cung cấp từ ngữ để HS tập trả lời thành câu. GV cũng có thể mở rộng,
liên hệ đến sự vật khác không vẽ trong tranh nhưng gần gũi với cuộc sống của các em
(Gió thổi vào rặng tre nghe thế nào ? Tiếng sáo diều trên cao nghe ra sao ? Tiếng mổ trâu
thế nào ? Tiếng mưa rơi trên mái nhà ra sao ? Em biết tiếng kêu của những con vật
nào ?...).
- Bài 22 : Luyện nghe - nói về chủ đề Chợ, phố, thị xã, GV căn cứ thực tế gần gũi với HS
địa phương để hướng dẫn luyện nói (về nhà cửa hay đường phố, đường làng, chợ quê,
cửa hàng, siêu thị,...), miễn sao gắn với chủ đề mở rộng : cảnh vật nơi HS đang ở.
-Bài 30 : Luyện nghe - nói về chủ đề Giữa trưa, GV có thể khai thác nội dung theo tranh
vẽ ở SGK hoặc gắn với thực tế ở địa phương (cảnh vật, hoạt động của con người và loài
vật vào buổi trưa hè mà HS đã biết).
-Bài 34: Luyện nghe - nói về chủ đề Đồi núi, GV có thể dùng tranh trong SGK (hoặc
tranh ảnh sưu tầm về cảnh đồi núi) để giới thiệu và mở rộng hiệu biết cho HS (nếu chưa
biết về đồi núi) trước khi nêu câu hỏi cho HS trả lời,

Trang 179
nêu nhận xét về sự vật được vẽ trong tranh. (Cách dạy này được vận dụng tương tự đối
với một số bài khác, như : Bài 50 – Luyện nghe - nói về chủ đề Chuồn chuồn, châu chấu,
cào cào ; Bài 54 - Luyện nghe - nói về chủ đề Rừng, thung lũng, suối, đèo,...).
-Bài 40 : Luyện nghe -nói về chủ đề Ai chịu khó ?, tranh vẽ có hình ảnh minh hoa có thể
chưa rõ ý chủ đề (chó đuổi gà) song GV chỉ cần dựa vào hình ảnh về người và con vật để
đặt câu hỏi gợi ý HS nói về khía cạnh "chịu khó" (không khai thác nội dung xa chủ đề),
như : Bác nông dân chịu khó làm gì ? Con trâu làm việc thế nào ? Con chim đang chịu
khó làm gì trên cành ? Chú mèo chịu khó làm gì để giúp ích cho người ? Con chó chịu
khó trong nhà giúp ai ? Con gà chăm chỉ đi kiếm mồi có được gọi là con gà chịu khó
không?...

II – DẠY TẬP ĐỌC


Câu 110
?Để nâng cao hiệu quả dạy kĩ năng đọc cho học sinh, giáo viên cần lưu ý những
điểm gì về biện pháp và hình thức tổ chức dạy học trong giờ Tập đọc ?
: Phân môn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu là dạy kĩ năng đọc. Căn cứ Chuẩn
kiến thức, kĩ năng đã xác định trong Chương trình giáo dục phổ thông - cấp Tiểu học,
việc dạy kĩ năng đọc cho HS phải chú trọng ở cả hai hình thức : đọc thành tiếng (đọc
trơn), đọc thầm (đọc hiểu). Để nâng cao hiệu quả dạy kĩ năng đọc cho HS trong giờ Tập
đọc, GV cần lưu ý một số điểm về biện pháp và hình thức tổ chức dạy học dưới đây.
(1) Luyện đọc thành tiếng (đọc trơn)
Luyện đọc thành tiếng là cơ hội để GV trực tiếp dạy kĩ năng đọc cho từng HS. Tuy nhiên,
việc dạy học chỉ đạt hiệu quả tốt và phù hợp với từng đối tượng HS khi GV "biết nghe
HS đọc" để từ đó lựa chọn nội dung và biện pháp dạy học thích hợp.
VD:

146
- Đối với HS đọc kém do trình độ chưa đạt "Chuẩn" ở lớp dưới, GV cần kiên trì giúp đỡ
và phụ đạo thêm (không bỏ qua" nhưng cũng không "nôn nóng" đòi hỏi ráo riết phải đọc
đúng ngay tại lớp);

Trang 180
- Đối với HS đọc chưa chính xác do cấu tạo bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, GV cần
luyện tập riêng bằng phương pháp "đặc biệt" và giúp đỡ thêm ngoài giờ học
- Đối với học sinh đọc chưa đạt yêu cầu do thiếu ý thức (chưa tập trung cao vào việc đọc)
hoặc ảnh hưởng thói quen (ê a, liến thoắng, ...) GV cần chỉ rõ hạn chế và tìm cách giúp
HS khắc phục.
Nghe một HS đọc, GV còn cần biết cách gợi ý để HS tự nhận biết và sửa lỗi (phát âm
chưa chính xác, đọc thừa - thiếu tiếng, đọc sai từ ngữ do ngắt hơi chưa đúng) hoặc "định
hướng" cho HS khác nhận xét rõ chỗ "đươc" chỗ "chưa được" của bạn để học sinh vừa
đọc vừa rút kinh nghiệm và đọc tốt hơn (VD: Bạn đã đọc đúng và rành mạch chưa? ở câu
thứ hai của đoạn văn, bạn đã biết nhấn giọng những từ ngữ nào? Theo em bạn đã đọc
đoạn văn với giọng vui hay buồn ? Bạn phát âm còn sai lẫn từ nào? Nghe bạn đọc em
thấy chỗ nào ngắt nghỉ hơi chưa đúng,..?) tránh đưa ra những câu hỏi yêu cầu HS nêu
nhận xét chung chung, không " dạy" được điều gì về cách đọc (VD em nhận xét bạn đọc
thế nào ?/ Bạn đọc tốt ạ)
Đôi khi GV yêu cầu HS (lớp 1,2) tự đọc thầm (để tìm hiểu nội dung bài, tập chuyển dần
sang hình thức đọc thầm), hoặc cả lớp đọc đồng thanh vừa phải (để tập phát âm đúng
tiếng, đọc đúng từ - câu, tập ngắt nhịp câu thơ, luyện đọc thuộc lòng, ...) Tuy khó kiểm
soát hoạt động đọc của từng HS song cũng có tác dụng gây hứng thú, thay đổi không khí
học tập và tạo điều kiện cho HS yếu, kém hào hứng tham gia vào việc luyện đọc.
Các hình thức tổ chức dạy học cũng cần được giáo viên vận dụng một cách linh hoạt,
kích thích hứng thú đọc của HS : đọc cá nhân (đọc nhẩm, đọc theo cặp hay theo nhóm
hoặc trước lớp, đọc nối tiếp, đọc phân vai, tham gia trò chơi, luyện đọc thành tiếng ,...)
đọc đồng thanh ( theo bàn, nhóm tổ, tổ lớp)
(2) Luyện đọc thầm (đọc hiểu)
Dựa vào yêu cầu đề ra ở mỗi lớp ( thể hiện qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài Tập đọc)
GV lựa chọn biện pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp để luyện kỹ năng đọc
thầm cho HS. Điều quan trọng là GV phải kiểm tra, đánh giá được kết quả hoạt động đọc
thầm của HS từ đó xác định cách dạy đạt hiệu quả tốt nhất. Do vậy khi yêu cầu HS đọc
thầm (câu-đoạn-bài) GV phải giao kèm nhiệm vụ cụ thể nhằm định hướng "đọc hiểu"
(đọc câu, đoạn văn hay khổ thơ nào? Đọc để biết, hiểu, nhớ điều gì? ) VD: đọc thầm để
cho biết bài văn, thơ nói về ai ( hoặc nhân vật nào)? Đọc thầm và tìm ý chính của đoạn

Trang 181
văn (hoặc đặt tên khác cho bài thơ) Đọc thầm đoạn văn, thơ và tìm những từ ngữ chỉ màu
sắc (hoặc hoạt động) tránh tình trạng yêu cầu HS đọc thầm xong mới nêu câu hỏi.
Có đoạn văn (thơ) cần cho học sinh đọc thầm 3 - 3 lượt với tốc độ nhanh dần và từng
bước thực hiện các yêu cầu từ dễ đến khó, nhằm rèn luyện kỹ năng đọc hiểu. Cần khắc

147
phục tình trạng HS đọc thầm một cách hình thức GV không nắm được kết quả đọc hiểu
của học sinh để xử lý trong quá trình dạy học
Đọc thầm gắn với yêu cầu trả lời câu hỏi tìm hiểu bài ( rèn luyện kỹ năng đọc hiểu), do
vậy hình thức tổ chức học tập cũng gắn với yêu cầu phát triển tư duy và ngôn ngữ : đọc
cá nhân (suy nghĩ, tiwj trả lời câu hỏi hoặc trao đổi theo cặp, theo nhóm hay trước lớp,
tham gia trò chơi luyện đọc thầm,..)

Câu 111:
? Thực hiện văn bản 896/BGDĐT-GDTH ngày 13/2/2006 của BGDĐT về hướng dẫn
điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học, GV có thể vận dụng linh hoạt một
số điểm về ND và PP dạy tập đọc ở lớp 2,3 như thế nào.
Để giờ học nhẹ nhàng đem lại hiệu quả thiết thực, đáp ứng khả năng học tập của các đối
tượng HS khác nhau (nhất là đối với đối tượng HS còn khó khăn trong học tập) thực hiện
yêu cầu chỉ đạo nêu trong văn bản 896 GV có thể vận dụng linh hoạt một số điểm về ND
và PP dạy tập đọc ở lớp 2,3 như sau:
1. Hướng dẫn HS luyện đọc
- Đọc từng câu: HS nối tiếp nhau đọc từng câu (hoặc 2- 3 câu hay cả một khổ thơ với các
học sinh có trình độ khá vững) đọc 1-2 vòng đối với bài tập đọc chyện kể, đọc 2-3 vòng
với bài Tập đọc ngắn. GV theo dõi HS để sửa lỗi phát âm , kết hợp luyện đọc đúng từ
ngữ. Để thực hiện tốt HĐ nói trên GV cần nhận thức đủ mục đích của viết đọc từng câu
trong quy trình hướng dẫn HS luyện đọc ở GĐ dầu cấp Tiểu hoc đó là:
Trang 182
+ Chia nhỏ VB (ở cấp độ đơn vị giao tiếp nhỏ nhất của lời nói là câu) cho nhiều HS được
tham gia tích cực vào quá trình luyện tập, qua đó bộc lộ năng lực đọc, dù chỉ một câu
cũng cảm nhận được sơ bộ cảm nhận được ưu điểm hay hạn chế về kỹ năng đọc của HS
để từ đó có biện pháp động viên giúp đỡ kịp thời. NHững " thông tin ngược" từ phía HS
qua việc đọc câu còn là cơ sở để GV lựa chọn nội dung dạy học thiết thực tránh những áp
đặt mang tính chủ quan (VD từ ngữ ít HS đọc sai thì cần sửa cho từng cá nhân, nếu nhiều
HS đọc sai thì hướng dẫn sửa chung cho cả lớp, Tất cả HS đều đọc đúng thì không nhất
thiết phải đưa ra một số từ để luyện phát âm
+ HS được đọc và nghe bạn đọc từng câu nhờ đó mà nhận thức được một cách không tự
giác đơn vị nhỏ nhất của lời nói( câu) là diễn đạt trong ý. Kết hợp với các kiến thức được
cung cấp qua các bài tập luyện từ và câu HS dễ dàng tiếp nhận và thực hành cách viết câu
đúng ngữ pháp TV
Có thể ví bước học sinh đọc từng câu là bước cày vỡ tạo cơ hội cho nhiều em hứng thú
với văn bản là chủ yếu (HS nhỏ rất thích đọc thành tiếng để luyện phát âm) chưa đặt ra yc
đọc hiểu. Hoạt động đọc từng câu trong quy trình hướng dẫn HS luyện đọc ở lớp 2,3 xuất
phát từ các căn cứ khoa học, sư phạm và tâm lý trẻ em,
- Đọc từng đoạn trước lớp: HS nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài (nên đọc 2-3 vòng
với bài tập đọc chuyện kể, 3 vòng với bài tập đọc ngắn) GV theo dõi HS đọc để hướng
dẫn cách ngắt nghỉ, dẫn chuyện với lời nhân vật, hướng dẫn HS tìm hiểu những từ khó
trong SGK., từ ngữ quen thuộc ở địa phương

148
Ở các lớp 2,3 việc luyện tập đọc từng đoạn văn trong bài vẫn tập trung đạt yêu cầu rõ
ràng, rành mạch là chủ yếu, chưa đòi hỏi phải diễn cảm. Yêu cầu giải nghĩa từ ngữ cũng
cần được tiến hành một cách đơn giản, nhẹ nhàng, phù hợp với trình độ HS (hiểu nghĩa
trong văn cảnh cụ thể) tránh việc giải nghĩa từ quá kỹ mất thời gian,không đúng đặc trưng
của môn tập đọc
Trang 183
- Đọc từng đoạn trong nhóm hoặc theo từng cặp: GV yêu cầu cả lớp phải thực hành luyện
đọc theo từng cặp hoặc nhóm nhỏ 3-4 em dựa vào cách đọc đã được hướng dẫn trên lớp.
HS cần nối tiếp nhau đọc và dựa vào nội dung SGK để nhận xét, góp ý cho bạn về cách
đọc. GV cần tạo cho HS cách đọc vừa phải để không ảnh hưởng đến nhóm khác, có kỹ
năng nghe và theo dõi SGK để nhận xét kết quả đọc của bạn
- Đọc đồng thanh (một hoặc hai hoặc cả bài ngắn): có văn bản hay chuyện kể chỉ đọc
đồng thanh 1 đoạn, có văn bản miêu tả được đọc đồng thanh 2-3 đoạn hoặc cả bài, có bài
thơ được đọc đồng thanh 2-3 lượt toàn bài nhằm hỗ trợ HS học thuộc lòng. Để phát huy
tác dụng của hình thức đọc đồng thanh GV cần rèn cho HS cách đọc nhịp nhàng, không
quá to kết hợp với nghe các bạn đọc để điều chỉnh giọng đọc
2. Hướng dẫn HS tìm hiểu bài
GV hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu của các câu hỏi, bài tập trong SGK. Để giúp HS
định hướng hoạt động đọc hiểu, GV nêu roc các câu hỏi và nêu nhiệm vụ cụ thể cho HS
trước khi đọc ( đọc câu, đọc đoạn hay khổ thơ nào; đọc để biết, hiểu, nhớ điều gi... ) Sau
khi HS đọc thầm (hặc kết hợp theo dõi SGK theo một bạn đọc thành tiếng) GV yêu cầu
các em trả lời trao đổi ngay trước lớp để nêu ý kiến trong nhóm rồi cử đại diện phát biểu
(tùy đặc điểm, mức độ, yêu cầu của câu hỏi, bài tập trong SGK ) Cuối cùng GV chốt lại
những ý chính để HS nắm chắc (có thể yêu cầu HS yếu, kém nhắc lại ) Câu hỏi bài tập
trong SGK có thể được GV tách thành các ý nhỏ
- Đối với câu hỏi 3 trong bài Ngôi trường mới ( tuần 6 tiếng việt 2): dưới mái trường mới
bạn học sinh cảm thấy có những gì mới ? GV có thể yêu cầu HS đọc thầm đoạn 3 trao đổi
nhóm và nêu kết quả (đối với lớp có điều kiện thuận lợi) hoặc tách thành các ý nhỏ để HS
dễ hiểu dễ trả lời: dưới mái trường mới bạn học sinh cảm thấy tiếng trông có gì mới ?
( rung động kéo dài) Tiếng cô giáo thế nào? ( trang nghiêm mà ấm áp) Tiếng đọc bài của
bạn ra sao? ( vang vang đến lạ ) Nhìn ác bạn và cả đến chiếc thước kẻ chiếc bút chì, bạn
thấy thế nòa ? (ai cũng thân thương, chiếc thước kẻ chiếc bút chì cũng đáng yêu hơn) .
Sau đó GV chốt lại ý trả lời đầy đủ cho câu hỏi trong SGK

Trang 184
- Đối với câu hỏi 4 (câu hỏi suy luận) trong bài Có công mài sắt, có ngày nên kim (Tuần
1, Tiếng Việt 2): Câu chuyện này khuyên em điều gì? GV có thể dựa vào nội dung trả lời
trong SGV Tiếng Việt 2 để nêu 2 phương án trả lời theo kiểu trắc nghiệm cho HS lựa
chọn phương án đúng: Câu chuyện khuyên em điều gì? Em hãy chọn câu trả lời đúng: a)
Câu cho em chăm chỉ học tập. b) Câu chuyện khuyên em chịu khó mài sắt thành kim.
Hoặc: Câu chuyện này khuyên em chăm chỉ học tập hay khuyên em chịu khó mài sắt
thành kim?

149
- Đối với câu hỏi 4 trong bài Giọng quê hương (Tuần 10, Tiếng Việt 3). Những chi tiết
nào nói lên tình cảm tha thiết của các nhân vật đối với quê hương? GV có thể yêu cầu HS
đọc thầm, trao đổi nhóm và nêu kết quả (đối với lớp có điều kiện thuận lợi), hoặc cho HS
đọc lại đoạn cuối bài và dẫn dắt bằng các câu hỏi: Khi nghe anh thanh niên nhắc đến
người mẹ, người trẻ tuổi có thái độ thế nào? Thuyên và Đồng có thái độ ra sao? Những
chi tiết đó cho em thấy các nhân vật có tình cảm gì đối với quê hương?
- Đối với câu hỏi 4 (câu hỏi suy luận) trong bài Mưa (Tuần 34, Tiếng Việt 3): Hình ảnh
bác ếch gợi cho em nghĩ đến ai? GV có thể dựa vào nội dung trả lời trong SGV Tiếng
Việt 3 để nêu 3 phương án trả lời theo kiểu trắc nghiệm cho HS lựa chọn phương án
đúng: Hình ảnh bác ếch gợi cho em nghĩ đến ai? Em hãy chọn câu trả lời đúng: a) Em
nghĩ đến cô chú công nhân. b) Em nghĩ đến các chú bộ đội. c) Em nghĩ đến cô bác nông
dân. Hoặc: Hình ảnh bác ếch gợi cho em nghĩ đến ai? Nghĩ đến cô chú công nhân hay các
chú bộ đội, hay cô bác nông dân ? (Câu hỏi đầu dùng để dẫn dắt, câu hỏi sau dành cho
HS trả lời miệng.)
3. Hướng dẫn HS luyện đọc lại
Dựa vào trình độ đọc của đa số HS trong lớp và đặc điểm của bài Tập đọc, GV lựa chọn
mức độ và hình thức luyện đọc sao cho phù hợp: luyện tập và thi đọc tốt một, hai đoạn
hoặc cả bài; đọc truyện theo vai; tổ chức trò chơi học tập có tác dụng luyện đọc... Ở
những lớp có nhiều HS khá, giỏi, GV có thể bước đầu hướng dẫn HS đọc diễn cảm,
nhưng ở lớp có nhiều HS đọc chưa đạt thì chỉ cần luyện đọc đúng (hoặc, nếu GV đã dành
nhiều thời gian luyện đọc đúng cho HS ở phần luyện đọc đầu tiết học thì không cần luyện
đọc lại). Riêng đối với các bài học thuộc lòng, cho dù đã luyện đọc kĩ, GV vẫn cần bố trí
thời gian để HS được học thuộc bài trên lớp với yêu cầu tối thiểu cần đạt được ở từng bài.
Trang 185
Câu 112:
Thực hiện văn bản 896/ BGDĐT-GDTH của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên có
thể vận dụng linh hoạt một số điểm về nội dung và phương pháp dạy Tập đọc ở các
lớp 4, 5 như thế nào ?
Thực hiện yêu cầu chỉ đạo nêu trong công văn 896/ BGDĐT- GDTH của Bộ Giáo dục và
Đào tạo nhằm đáp ứng khả năng học tập của các đối tượng HS khác nhau, tương tự như ở
các lớp 2, 3, GV có thể vận dụng linh hoạt một số điểm về nội dung và phương pháp dạy
Tập đọc ở các lớp 4, 5 theo gợi ý sau:
1. Hướng dẫn HS luyện đọc
- Trên cơ sở kĩ năng đọc của HS đã "đạt chuẩn" ở lớp 3, GV cần phát huy khả năng tự
học của HS, mạnh dạn giao những việc mà các em có thể làm được (VD: đọc toàn bài
trước lớp). GV chỉ đọc mẫu khi cần thiết hoặc đối với lớp có nhiều HS học yếu.
- Khi HS luyện đọc nối tiếp từng đoạn, GV giúp các em thực hiện tốt yêu cầu cơ bản: đọc
đúng, rõ ràng, rành mạch; tiến tới đọc lưu loát, đọc có biểu cảm đoạn văn, bài thơ (cuối
tiết học). Để đạt được yêu cầu này, cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để HS được góp
ý, rút kinh nghiệm; kết hợp hình thức đọc theo nhóm, theo cặp để mỗi em đều được đọc
nhiều lần và được giúp đỡ nhau luyện đọc trong tiết học. GV cũng có thể sử dụng biện
pháp đọc đồng thanh một cách hợp lí để tạo không khí, lôi cuốn HS học yếu hoặc còn rụt
rè tham gia vào hoạt động đọc. Việc hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa từ ngữ được chú giải

150
trong SGK nên xen kẽ trong quá trình HS đọc nối tiếp từng đoạn, sao cho nhẹ nhàng, tự
nhiên, tránh lẫn với cách dạy ở tiết Luyện từ và câu.
- Đầu năm học lớp 4, nếu trình độ đọc của HS còn hạn chế, GV có thể kéo dài thời gian
luyện đọc trước khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài. Bước Luyện đọc diễn cảm (Luyện đọc
lại) có thể giảm yêu cầu (chỉ luyện đọc một đoạn hoặc một vài câu), hạn chế đọc phân vai
nếu khả năng đọc của HS còn chưa chắc chắn. Trái lại, đối với các vùng thuận lợi, GV có
thể dành khá nhiều thời gian cho HS Luyện đọc diễn cảm (Luyện đọc lại) để phát triển
năng lực đọc của HS các lớp cuối cấp.
2. Hướng dẫn HS tìm hiểu bài
Trang 186
GV chú ý giải nghĩa thêm những từ khó, từ chưa gần gũi với HS địa phương; Tận dụng
tranh minh họa, TBDH tự làm hoặc sưu tầm được trong việc giải nghĩa từ hoặc giải nghĩa
từ trong câu văn cụ thể để HS dễ cảm nhận. GV nên ghi bảng các từ ngữ cần giải nghĩa,
ghi ý chính thể hiện nội dung bài đọc để HS dễ theo dõi và tập ghi vào vở. Một số câu hỏi
trong phần hướng dẫn tìm hiểu bài, đối với HS học yếu, kém, GV có thể tách thành các
câu hỏi nhỏ hoặc gợi ý, dẫn dắt bằng câu hỏi phụ, hoặc nêu các phương án trả lời cho HS
lựa chọn (vận dụng hình thức trắc nghiệm), không nhất thiết phải yêu cầu HS trao đổi
hoặc tự tìm hiểu để trả lời. VD:
- Dạy bài Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (Tuần 2, Tiếng Việt 4, tập 1) đối với câu hỏi 4, để tạo
điều kiện thuận lợi cho HS lựa chọn một danh hiệu phù hợp nhất tặng cho Dế Mèn (trong
số các danh hiệu đã cho: võ sĩ, tráng sĩ, chiến sĩ, hiệp sĩ, dũng sĩ, anh hùng), GV cần chú
giải ngắn gọn về nghĩa của từng danh hiệu và chấp nhận danh hiệu do HS lựa chọn (vì
mỗi danh hiệu nhận những phẩm chất đáng ca ngợi ở Dế Mèn). Song, muốn khẳng định
hiệu thích hợp nhất đối với Dế Mèn trong truyện Dế Mèn bênh vực kẻ yếu là danh hiệu
hiệp sĩ, GV không nhất thiết phải yêu cầu HS trao đổi, thảo luận mất nhiều thời gian mà
chỉ cần gợi ý bằng câu hỏi dẫn dắt cụ thể: Với những hành động mạnh mẽ, kiên quyết và
hào hiệp nhằm chống lại áp bức, bất công và che chở, bênh vực, giúp đỡ người yếu, Dế
Mèn được tặng danh hiệu nào là thích hợp nhất? (Hiệp sĩ)
- Đối với câu hỏi 2 trong bài Cái gì quý nhất? (Tuần 9, Tiếng Việt 5, tập một): Mỗi bạn
đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình?, GV có thể tách thành 3 ý nhỏ để HS
dễ trả lời: Hùng đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình (quý nhất là lúa gạo)?
Quý đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình (quý nhất phải là vàng)? Nam
đưa ra lí lẽ như thế nào để bảo vệ ý kiến của mình (quý nhất là thì giờ)?
- Trước khi trả lời câu hỏi 2 trong bài Chuyện một khu vườn nhỏ (Tuần 11, Tiếng Việt 5,
tập một): Mỗi loài cây trên ban công nhà bé Thu có những đặc điểm gì nổi bật?, GV yêu
cầu HS đọc thầm đoạn 2 (có thể kết hợp cho 1 HS đọc thành tiếng) và trả lời câu hỏi phụ:
Ban công nhà bé Thu trồng những cây gì ? Sau khi HS nêu được tên 4 loài cây (cây
quỳnh, cây hoa ti gôn, cây hoa giấy, cây đa Ấn Độ), GV cho các em đọc thầm lại đoạn 2
để trả lời toàn bộ câu hỏi như trên hoặc tách thành từng ý cho nhiều HS được trả lời (nếu
có điểm nổi bật của từng loài cây).
Trang 187
- Để giúp HS dễ trả lời câu hỏi 3 trong bài Tác phẩm của Si-le và tên phát xít (Tuần 6,
Tiếng Việt 5, tập một): Em hiểu thái độ của ông cụ đối với người Đức và tiếng Đức như

151
thế nào?, GV có thể gợi ý HS bằng 2 câu hỏi phụ: Không đáp lời tên sĩ quan phát xít
bằng tiếng Đức, có phải ông cụ ghét tiếng Đức không? Ông cụ có căm ghét người Đức
không? Hoặc HS trả lời theo cách lựa chọn đơn giản: Ông cụ ghét người Đức và tiếng
Đức hay chỉ ghét những tên phát xít Đức độc ác?...
3. Hướng dẫn HS luyện đọc diễn cảm (đói với văn bản nghệ thuật) - Luyện đọc lại (đối
với các văn bản khác)
GV cần căn cứ vào trình độ đọc của HS để hướng dẫn đọc diễn cảm (đối với văn bản
nghệ thuật) hoặc luyện đọc lại (đối với các văn bản khác). Cách hướng dẫn thiết thực và
phù hợp nhất đối với cấp Tiểu học là thông qua trực quan giọng đọc của HS (yêu cầu HS
đọc trước lớp, gợi ý HS nhận xét và tự rút ra cách đọc hay, có sự hỗ trợ của GV); tránh
thiên về việc hướng dẫn HS tìm hiểu kĩ thuật đọc (VD: ngắt nghỉ hơi, cao giọng, thấp
giọng, nhấn giọng,...) một cách khô khan, "áp đặt", thiếu hứng thú. Để quán triệt yêu cầu
"học qua hành", việc hướng dẫn HS đọc diễn cảm thường được tiến hành theo các bước
như sau:
- HS đọc nối tiếp từng đoạn trong bài để tìm hiểu sơ bộ về cách đọc diễn cảm; GV gợi ý
nhận xét - phát hiện - điều chỉnh, giúp HS tự tìm ra cách đọc phù hợp nhất đối với từng
đoạn.
- HS được hướng dẫn kĩ một đoạn (do GV chọn) để có kĩ năng đọc tốt nhất ; GV có thể
đọc mẫu thật diễn cảm để HS học tập.
- HS luyện đọc theo cặp (thực hành luyện tập) đoạn văn (thơ) do GV đã hướng dẫn, nhằm
đạt kết quả tốt.
- HS thi đọc diễn cảm trước lớp (hoặc tham gia trò chơi học tập có tác dụng luyện đọc
diễn cảm); GV hướng dẫn rút kinh nghiệm, học tập cách đọc hay, biểu dương HS đọc
tốt...
Khác với Luyện đọc lại ở các lớp 2, 3, Luyện đọc diễn cảm (đối với văn bản nghệ thuật) -
Luyện đọc lại (đối với các văn bản khác) ở các lớp 4, 5 là yêu cầu bắt buộc nhằm đáp ứng
Chuẩn kiến thức, kĩ năng để ra cho các lớp cuối cấp. Đối với lớp có nhiều HS học yếu,
kém, GV có thể tập trung ngay vào luyện đọc diễn cảm một đoạn trong bài; đối với bài có
yêu cầu học thuộc lòng,
Trang 188
GV hướng dẫn HS kết hợp luyện đọc diễn cảm và học thuộc 1- 2 đoạn của bài, sau đó thi
đọc thuộc và diễn cảm ngay trên lớp (HS về nhà học thuộc các đoạn còn lại theo yêu cầu
của bài).
Câu 113
Vì sao "học thuộc lòng" không được coi là một phân môn? Cần hướng dẫn HS học
thuộc lòng trong giờ Tập đọc như thế nào để đạt hiệu quả tốt?
- Học thuộc lòng (HTL) không được coi là một phân môn vì đó chỉ là một yêu cầu kết
hợp trong giờ Tập đọc ở Tiểu học. Thực hiện yêu cầu học thuốc đoạn (bài) mới tập đọc,
HS vừa được củng cố về kĩ năng đọc vừa được rèn luyện về trí nhớ nhằm lưu giữ kết quả
đọc và phục vụ cho cuộc sống. Ở bài Tập đọc có yêu cầu HTL, GV cần chú ý cho HS
luyện đọc kĩ hơn (đọc cá nhân, đọc đồng thanh, đọc theo cặp, theo nhóm,...). Khi hướng
dẫn HTL ở các lớp 2, 3, GV có thể chọn một trong hai cách sau:

152
(1) Yêu cầu HS đọc nhẩm đoạn (bài) HTL trong SGK (đọc nhiều lần cho thuộc); sau đó,
HS nhìn vào một số từ ngữ ("điểm tựa") đứng đầu mỗi câu do GV ghi bảng (hoặc dùng
máy chiếu lên bảng) để đọc thuộc toàn bộ câu, đoạn (bài) theo hình thức cá nhân hoặc
đồng thanh nhịp nhàng, vừa phải (tránh đọc quá to hoặc đọc ê a, kéo dài). GV xoá dần
"điểm tựa" để HS có khả năng đọc thuộc được cả đoạn hoặc toàn bài; tổ chức thi đọc
thuộc lòng hoặc tham gia trò chơi học tập có tác dụng HTL trên lớp.
(2) Yêu cầu HS đọc (cá nhân, đồng thanh) toàn bộ đoạn (bài) HTL chép sẵn trên bảng
phụ (hoặc dùng máy chiếu lên bảng); sau đó, GV xoá dần bảng (2 – 3 lượt) cho đến hết
bài, yêu cầu HS từng bước đọc thuộc đoạn (bài) cần HTL trên lớp; tổ chức cuộc thi hoặc
trò chơi luyện HTL một cách nhẹ nhàng, gây hứng thú cho HS.
Đối với các lớp 4, 5, HS đã có trình độ đọc khá hơn, khả năng tự học cao hơn, GV cần
yêu cầu HS tự HTL và kiểm tra nhau theo từng cặp (một em đọc thuộc lòng, một em nhìn
SGK để kiểm tra và góp ý cho bạn, sau đó đổi lại); sau đó, GV tổ chức cho HS thi (hoặc
tham gia trò chơi) đọc thuộc và diện cảm đoạn (bài) HTL trên lớp. Ở lớp có nhiều HS học
yếu, kém, GV cũng chỉ nên hướng dẫn HTL theo cách (1) nói trên để đỡ mất thời gian.
Nếu trong trình hướng dẫn, GV giúp HS kết hợp được "ghi nhớ nội dung" (ý từng khổ
thơ, đoạn văn) và “ghi nhớ máy móc" thì hiệu quả ghi nhớ của các cụ đoạn (bài) đã học
sẽ còn cao hơn rất nhiều.
Trang 189
Câu 114
Trong giờ Tập đọc, GV cần sử dụng biện pháp đọc mẫu như thế nào để đạt được
hiệu quả tốt?
Đọc mẫu là một biện pháp dạy học theo phương pháp trực quan, thường đem lại hiệu quả
tốt trong giảng dạy Tập đọc ở Tiểu học. Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp đọc mẫu
trong giờ Tập đọc cũng cần phải linh hoạt, dựa trên cơ sở nắm vững mục đích và tác dụng
của nó.
1. Đọc toàn bài: nhằm mục đích giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế học tập
cho HS (chú ý, tập trung làm việc với văn bản) đồng thời có tác dụng định hướng về nội
dung và cách đọc. Căn cứ vào trình độ đọc của HS, GV có thể vận dụng một cách linh
hoạt như sau:
- Ở lớp 1, để yêu cầu HS tập trung rèn luyện các thao tác đọc "giải mã” kí hiệu chữ viết),
tránh nghe – nhớ nội dung mà "đọc vẹt", GV thường đọc mẫu sau khi hướng dẫn HS đọc
đúng từ ngữ, câu, đoạn trong bài Tập đọc (phần Luyện tập tổng hợp).
- Ở các lớp 2, 3, HS đã có kĩ năng đọc trơn khá chắc chắn (ít bị ảnh hưởng bởi nghe –
nhớ nội dung), GV có thể đọc mẫu 1 hoặc 2 lần (đầu - giữa hoặc cuối tiết dạy) tuỳ theo
độ dài bài đọc và mục đích để ra (VD: dùng phương pháp trực quan để dạy đọc).
- Ở các lớp 4, 5, kĩ năng đọc của HS đã tương đối tốt, GV nên giao cho HS khá, giỏi đọc
toàn bài ngay khi bắt đầu luyện đọc (củng cố yêu cầu đạt được ở lớp 3); chỉ đọc mẫu toàn
bài sau khi HS đã luyện đọc đúng và rõ ràng, tạo hứng thú để HS tìm hiểu bài và luyện
đọc diễn cảm (có thể đọc toàn bài lần thứ hai trước khi củng cố, dặn dò, kết thúc tiết học).
Riêng đối với một số vùng có hoàn cảnh khó khăn, do yêu cầu tiếp tục củng cố kĩ năng
đọc đúng cho HS (do trình độ đọc còn nhiều hạn chế), GV có thể phải đọc mẫu toàn bài
để dễ hướng dẫn HS luyện đọc. Tuy nhiên, GV cần nhận thức đó là cách dạy tạm thời

153
theo "kiểu lớp 3" và từng bước cần nâng dần chất lượng đọc của HS để có thể dạy theo
yêu cầu của quy trình giảng dạy tập đọc của các lớp 4, 5.
2. Đọc câu, đoạn: nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc "tạo tình huống" để HS nhận xét, giải
thích, tự tìm ra cách đọc đúng, đọc hay. Chính vì vậy, kể cả khi hướng dẫn HS luyện đọc
đúng và luyện đọc diễn cảm, đôi khi GV cung cần
Trang 190
đọc mẫu câu, đoạn để HS học đọc qua sự cảm nhận bằng tai. Kết hợp biện pháp đọc mẫu
với biện pháp gợi mở, “nêu vấn đề”, GV còn kích thích được tư duy sáng tạo và tích cực
hoá hoạt động học tập của HS trong quá trình luyện đọc, VD: GV đọc và gợi ý để HS suy
nghĩ, tự phát hiện: Ngắt hơi ở những chỗ nào? Nhấn mạnh (cao giọng) ở những từ ngữ
nào? Vì sao cần đọc như vậy? Đọc với giọng nhanh hay chậm/vui hay buồn, bộc lộ tình
cảm gì?...
3. Đọc từ, cụm từ :nhằm sửa phát âm sai (nếu có), điều chỉnh cách đọc cho đúng khi cần
thiết, góp phần nâng cao ý thức viết đúng chính tả cho HS (kết hợp đọc – nghe và nhìn
chữ viết trên bảng). Thông thường, khi hướng dẫn HS luyện đọc (đọc đúng, rõ ràng, rành
mạch), nếu phát hiện HS đọc chưa chính xác các tiếng, từ do ảnh hưởng cách phát âm của
địa phương (lẫn lột cặp âm đầu, vần, thanh), đọc chưa đúng các cụm từ (ngắt hơi chưa
hợp lí),…GV thường gợi ý cho HS tự sửa (hoặc nhờ bạn bè sửa giúp), đồng thời được
GV hướng dẫn cụ thể, được nghe GV đọc mẫu thật chính xác để học, đọc một cách trực
quan và sinh động (nhất là với đối tượng HS yếu, kém).
Câu 115:
Câu hỏi: Đọc đồng thanh có tác dụng gì? Có nên cho HS đọc đồng thanh trong giờ Tập
đọc ở các lớp 4,5 hay không?
Trả lời:
Đọc đồng thanh nhẹ nhàng tuy khó kiểm soát được hoạt động đọc của từng HS nhưng có
nhiều tác dụng: luyện phát âm (đọc đúng tiếng, từ), tập ngắt hơi trong câu, đọc đúng nhịp
thơ, luyện đọc thuộc lòng, gây hứng thú, thay đổi không khí học tập và tạo điều kiện cho
cả lớp (hoặc cả nhóm) được đọc.
Đọc đồng thanh rất cần thiết với HS các lớp đầu cấp Tiểu học (lớp 1,2,3). Với các lớp 4,5
(cuối cấp), đọc đồng thanh chỉ áp dụng khi cần hướng dẫn HS đọc nhẹ nhàng, đọc rõ
nhịp điệu câu thơ, câu văn hoặc đọc theo nhịp điệu chung của cả lớp để dễ nhớ, mau
thuộc các khổ thơ, đoạn văn cần học thuộc tại lớp. GV nên khuyến khích HS các lớp 4,5
phát huy khả năng tự học thuộc bằng cách đọc cá nhân để bộc lộ cảm xúc riêng, tránh
những hạn chế thường gặp của đọc đồng thanh như: đọc ê a theo các bạn, không có cảm
xúc, không chú ý đến nội dung đọc, hoặc đọc quá to, làm ảnh hưởng đến lớp bên cạnh
Trang 191
Câu 116:
Câu hỏi: Khi học sinh đọc sai tiếng, từ, câu, GV cần sửa lỗi đọc cho các em như thế nào?
Trả lời: HS đọc sai tiếng, từ, câu thường do các nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân về sinh lí: mắt kém, hoặc không đủ ánh sáng nên nhìn không rõ
chữ, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết,...
- Nguyên nhân về tâm lí: chưa tập trung vào hoạt động học, hoặc đọc vội vàng,
hấp tấp, ảnh hưởng thói quen phát âm ở địa phương,...

154
- Nguyên nhân về kiến thức, kĩ năng: chưa nắm vững cấu tạo tiếng, hoặc chưa
thành thạo về đánh vần, đọc trơn, “trường nhìn” còn hạn chế,...
Khi HS đọc sai, GV cần phân loại lỗi đọc, đoán biết được nguyên nhân để có cách sửa
thích hợp nhằm đảm bảo tính khoa học. VD: nếu HS đọc sai tiếng, GV cần yêu cầu đọc
lại và gợi ý sửa lỗi phát âm (có thể phải mô tả hoạt động của các cơ quan phát âm và phát
âm mẫu để HS làm theo), chỉ cần HS nhận biết được cách phát âm và có ý thức phát âm
đúng, chưa đòi hỏi phải sửa ngay được lỗi đã mắc, nếu HS đọc sai từ (đọc tách rời các
tiếng trong từ phức), GV cần giúp HS nhận biết được nghĩa của từ để có cách đọc đúng,
nếu HS đọc sai câu (ngắt nghỉ hơi không đúng chỗ, đọc sai ngữ điệu,...) GV cần gợi ý để
HS nhận ra chỗ sai, tự tìm ra được cách học phù hợp.
Khi phát hiện lỗi đọc của HS, GV cũng cần có cách ứng xử mang tính sư phạm như:
không đột ngột “cắt ngang” lúc HS đang đọc để yêu cầu sửa cách phát âm, không “riết
róng” đòi hỏi HS phải sửa ngay được lỗi đọc (nếu chưa sửa được trên lớp, HS có thể về
nhà luyện thêm) ; cần động viên kịp thời những cố gắng dù rất nhỏ của HS, tránh chê
trách làm cho HS bi quan, xấu hổ,...
Câu 117:
Câu hỏi: Chia đoạn để học sinh luyện đọc có cần thống nhất với các đoạn theo bố cục
của văn bản hay không? GV cần hướng dẫn học sinh luyện đọc từng đoạn nối tiếp ở các
lớp 2, 3 và các lớp 4, 5 như thế nào cho hợp lí?
Trả lời:
Việc chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị chia tạm thời) không phải bao giờ cũng
thống nhất với cách chia đoạn theo bố cục văn bản. Văn bản tập đọc có thể chia thành
nhiều đoạn văn ngắn nhằm tạo điều kiện cho nhiều học sinh tham
Trang 192
gia vào hoạt động đọc, bộc lộ năng lực đọc, GV có thể tham khảo SGV hoặc căn cứ vào
trình độ đọc của HS trong lớp để chia văn bản thành các đoạn sao cho mỗi đoạn không
quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về số chữ, việc tách đoạn cũng không quá chi li, gây
khó khăn cho trẻ khi theo dõi và đọc nối tiếp (VD: ngắt đoạn văn dài thành nhiều đoạn
đọc ngắn).
Trước khi tiến hành luyện đọc từng đoạn nối tiếp, GV cần giúp HS nhận biết các đoạn để
thực hiện đúng (có thể đánh daaus bằng bút chì). Dựa vào số đoạn, GV chỉ định được số
HS tham gia đọc nối tiếp ở mỗi vòng. HS có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn
sàng đọc tiếp nối. Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp nên thực hiện qua 3 vòng với mục
đích hướng dẫn ở các lớp như sau:
- Đối với các lớp 2,3:
• Vòng 1: GV kết hợp hướng dẫn HS nắm nghĩa của từ ngữ được chú giải trong SGK (có
thể thực hiện sau khi đọc từng đoạn để HS dễ hiểu nghĩa từ trong văn cảnh, hoặc sau khi
đọc hết bài).
• Vòng 2: GV có thể rút ra câu, đoạn khó đọc trong bài để hướng dẫn HS lưu ý đọc cho
đúng và rành mạch (về ngắt nghỉ hơi hoặc ngắt nhịp thơ, về ngữ điệu câu,...)
• Vòng 3: GV nghe và đánh giá kết quả đọc của HS sau khi đã hướng dẫn ở hai vòng
trước, động viên sự tiến bộ, tiếp tục hướng dẫn hoặc nhắc nhở thêm về kĩ năng đọc.
- Đối với các lớp 4,5:

155
• Vòng 1: GV nghe và phát hiện những hạn chế và cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu
câu, giúp đỡ từng cá nhân hoặc nhắc nhở chung cả lớp (đạt yêu cầu cơ bản: đọc đúng và
rành mạch)
• Vòng 2: GV kết hợp hướng dẫn HS nắm nghĩa của từ ngữ được chú giải trong SGK (có
thể xen kẽ trong quá trình đọc từng đoạn nối tiếp hoặc sau khi đọc hết bài). Ở vòng 2, nếu
còn HS đọc sai, GV tiếp tục hướng dẫn, nhắc nhở để HS rút kinh nghiệm.
• Vòng 3: GV nghe và đánh giá kết quả đọc của HS, động viên sự cố gắng , tiến bộ, tiếp
tục nhắc nhở hoặc hướng dẫn thêm về kĩ năng đọc để HS có khả năng đọc diễn cảm.
Trang 193
Câu 118:
Câu hỏi: Xin cho biết yêu cầu về đọc diễn cảm và một số biện pháp, hình thức tổ chức
dạy học diễn cảm trong giờ Tập đọc ở các lớp 4,5
Trả lời:
Hết lớp 4, HS cần đạt được yêu cầu bước đầu đọc có biểu cảm đoạn văn, đoạn thơ. Hết
lớp 5, HS cần đạt được yêu cầu đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn. Như vậy, so với
yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm ở lớp 4, HS lớp 5 cần được thực hành luyện tập đọc diễn
cảm nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu cuối cấp Tiểu học, chuẩn bị cho việc đọc ở cấp THCS.
Kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật được luyện tập sau khi HS đã đật được
những yêu cầu tối thiểu về trình độ đọc (đọc đúng, rõ ràng, raanhf mạch,..) sau khi HS đã
tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Muốn đọc diễn cảm một văn bản,
phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện được tình cảm,
thái độ đặc điểm của nhân vật hoặc tình cảm, tahis độ của tác giả đối với nhân vật và nội
dung miêu tả trong văn bản. Dạy HS đọc diễn cảm, GV cần thông qua thực hành luyện
đọc để hướng dẫn các em từng bước đạt được các yêu cầu theo mức độ từ thấp đến cao
như:
1. Biết đọc nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong từng câu (từ ngữ gợi tả, gợi cảm, từ
ngữ “chìa khóa” làm nổi bật ý chính,...)
2. Biết thể hiện ngữ điệu (sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ,...) phù hợp
với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến).
3. Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhận vật.
4. Biết đọc hân biệt lời nhân vật phù hợp với lứa tuổi, với tính cách của từng nhân vật
(người già, trẻ em, kẻ xấu,...)
5. Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hoặc thái độ, cảm
xúc của tác giả (vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ,..)
Ngoài những điểm chung thống nhất về cách đọc, mỗi cá nhân còn có những nét sáng tạo
và cảm thụ riêng. Do vậy, cách tốt nhất là GV tổ chức cho HS luyện đọc, tự “bộc lộ”
(trên cơ sở đọc mẫu của GV và kết quả của việc tìm hiểu bài), qua đó chỉ dẫn, điều chỉnh
về cách đọc sao cho diễn cảm, tránh sa đà tìm hiểu, phân tích quá sâu và chi tiết về cách
đọc (xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng,...), coi nhẹ thực hành luyện đọc và
hoạt động đọc tự nhiên. Dạy đọc diễn cảm thiên về “lí thuyết”, không bắt nguồn từ sự
hiểu biết sâu sắc và xúc cảm về bài đọc nhiều khi còn phản tác dụng, làm cho
Trang 194

156
trẻ vì quá tập trung chú ý đến những dấu ngắt hơi, nhấn giọng đã xác định mà đọc rất
gượng gạo, mất tự nhiên.
GV có thể hướng dẫn HS luyện đọc diễn cảm thông qua một số biện pháp và hình thức tổ
chức sau:
1. Sau khi HS đã hiểu bài đọc, GV yêu cầu HS lần lượt đọc thật tốt từng đoạn để “thăm
dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của HS.
2. Qua kết quả đọc của HS, GV gợi ý để HS phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế và tìm
ra cách đọc hợp lí ( VD, GV hỏi: Đoạn văn vừa rồi được đọc với giọng vui hay buồn? Để
nêu bật tính cách của nhân vật, bạn đã chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Lời nói của
nhân vật cần được đọc với giọng ra sao?,…)
3. GV đọc mẫu minh họa, gợi ý hoặc tạo “tình huống” cho HS nhận xét, giải thích, tìm ra
cách đọc, VD:
- GV đọc diễn cảm khổ thơ cuối bài Tre Việt Nam (Tiếng Việt 4 – tập I):
Mai sau / Mai sau / Mai sau/ Đất xanh tre / Mãi xanh màu / tre xanh //, gợi ý HS phát
hiện cách đọc, Ngắt nhịp (nghỉ hơi) sau những từ ngữ nào, nhấn giọng hay kéo dài giọng
ở những từ ngữ nào?
- GV đọc diễn cảm khổ thơ đầu bài Ê-mi-li, con… (Tiếng Việt 5, tập một), hỏi: Vì sao cô,
thầy đọc hai câu hỏi của bé Ê-mi-li : - Đi đâu cha ? – Xem gì cha ? với giọng nhẹ nhàng,
tình cảm, không cao giọng ở các từ dùng để hỏi?
4. Tạo điều kiện cho từng HS được thực hành luyện đọc diễn cảm toàn bài (theo cặp, theo
nhóm ) để các em rút kinh nghiệm, tổ chức cho HS thi đọc diễn cảm trước lớp để các em
học tập lẫn nhau và được cô (thầy) động viên, uốn nắn.
Câu 119:
Câu hỏi: Để hướng dẫn học sinh tập đọc văn bản kịch trong SGK Tiếng Việt 4, Tiếng
việt 5 đạt kết quả tốt, giáo viên cần lưu ý những điểm gì?
Trả lời :
Để hướng dẫn HS tập đọc tốt văn bản kịch trong SGK Tiếng Việt 4 ( Ở Vương quốc
Tương lai), SGK Tiếng Việt 5 (Lòng dân, Người công dân số Một ), GV cần lưu ý một số
điểm sau đây:
1. Giúp HS năm được đặc điểm trình bày của văn bản kịch
- Văn bản kịch thường mở đầu bằng một số lời giới thiệu ngắn gọn về nhân vật, cảnh trí,
thời gian,… diễn ra sự việc nêu trong màn kịch.
Trang 195
- Văn bản kịch gồm những lời đối thoại, có giới thiệu tên nhân vật trước lời của mỗi nhân
vật.
- Lời nhân vật trong văn bản kịch có xen kẽ các từ ngữ chú thích về thái độ, hành động
của nhân vật, sự thay đổi cảnh trí, sự vật,…
2. Phân biệt các hình thức thể hiện văn bản kịch
a. Đọc kịch
Việc đọc thầm hoặc đọc thành tiếng văn bản kịch đều nhằm mục đích “giải mã” văn bản,
giúp người đọc hiểu và cảm nhận nội dung, ý nghĩa vở kịch, màn kịch. Như vậy thì đọc
kịch nói chung cũng giống như đọc các văn bản khác. Tuy nhiên, do đặc trưng cấu tạo
văn bản kịch, khi hướng dẫn Hs luyện đọc diễn cảm, GV cần lưu ý những điểm sau:

157
- Đọc lời giới thiệu về nhân vật, cảnh trí, thời gian,… với giọng khách quan.
- Đọc ngắt giọng đủ để phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật.
- Đọc đúng ngữ điệu các kiểu câu (kể, hỏi, cảm, khiến) trong lời nói của nhân vật.
- Thay đổi giọng đọc linh hoạt, phù hợp với tính cách của từng nhân vật và diễn tả được
tình huống xảy ra trong vở kịch ( căng thẳng, hồi hộp, sảng khoái,…)
- Đọc phân biệt rõ lời nói của nhân vật và lời chú thích về thái độ, hành động,… của
nhân vật. VD:
Em bé thứ ba: - (Từ trong đám đông đi ra) // Mình mang đến một thứ ánh sáng mà chưa
ai biết cả // (Em bé toả ra một thứ ánh sáng lạ thường).// Thật là kì lạ phải không ?
Em bé thứ tư: - (Kéo tay Tin-tin) // Cậu lại đây xem cái máy của mình, nó biết bay trên
không như một con chim.
( Ở Vương quốc Tương Lai – Tiếng Việt 4, tập một, tr.71)
Cai : - Để coi. (Quay sang lính) // Trói nó lại cho tao // (chỉ dì Năm). Cứ trói đi. Tao ra
lịnh mà // (lính trói dì Năm lại).
An : - (Ôm dì Năm, khóc oà) // Má ơi má!
( Lòng dân – Tiếng Việt 5, tập một tr.25)
Khi đọc, cần hạ giọng các từ ngữ trong ngoặc đơn và nghỉ hơi (//) để phân biệt lời chú
thích với lời của nhân vật kịch.
Trang 196
b, Thoại kịch
Đây là hình thức đọc có nhiều điểm giống kiểu “đọc phân vai” mà HS đã được luyện tập
từ lớp dưới. Lúc này, mỗi vai (nhân vật) trong vở kịch chỉ đọc “lời nhân vật” sao cho
đúng ngữ điệu, phù hợp với tính cách nhân vật và tình huống diễn ra trong vở kịch.
Những phần còn lại (lời mở đầu, giới thiệu,…) sẽ do người “dẫn chuyện” đọc. Tên nhân
vật đã được xác định trước nên không cần đọc. Những lời chú thích về thái độ, hành
động,… của nhân vật có thể được người dẫn chuyện đọc thuyết minh hoặc được chính
nhân vật kịch diễn tả bằng thái độ, hành động cụ thể (kết hợp với lời thoại).
c, Diễn kịch
Đây là bước thể hiện văn bản kịch sinh động trên sân khấu, đòi hỏi nhiều yếu tố khá phức
tạp như: bài trí sân khấu, hóa trang, diễn xuất của các nhân vật trong vở kịch, phối hợp
âm thanh và ánh sáng phụ trợ,… Ở những nơi có điều kiện thuận lợi, sau khi học văn bản
kịch, GV có thể giúp HS dàn dựng hoạt cảnh, tập diễn kịch trong các buổi sinh hoạt ngoại
khóa để hoạt động tập thể của các em thêm phong phú, bổ ích và lí thú.
Câu 120
Câu hỏi: Giáo viên có nhất thiết phải ghi vào bảng phụ những đoạn văn (thơ) cần luyện
đọc đúng ở các lớp 2,3 và luyện đọc diễn cảm ở các lớp 4,5 hay không?
Trả lời
Bảng phụ hoặc bảng lớp đều là những TBDH có tác dụng trực quan, giúp GV dễ dàng
hướng dẫn HS tiếp thu bài mới hoặc thực hành luyện tập đạt hiệu quả mong muốn. Trong
quá trình dạy học môn Tiếng Việt ở các lớp tiểu học, GV thường sử dụng bảng phụ chép
sẵn những nội dung cần thiết để tránh mất thời gian ghi bảng trên lớp ( VD: câu văn,
đoạn văn cần luyện đọc đúng, đọc hay, bài tập về chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn,

158
…). Tuy nhiên, GV cũng chỉ nên sử dụng bảng phụ khi thật sự cần thiết để hạn chế
“giảng giải” về cách đọc và giảm nhẹ sự chuẩn bị trước khi lên lớp.
Dạy Tập đọc ở các lớp 2,3 GV có thể chép sẵn trên bảng phụ đoạn văn, đoạn thơ ngắn để
hướng dẫn HS ngắt nghỉ hơi đúng sau cụm từ, vế câu hoặc đọc đúng nhịp thơ,… Đối với
các lớp 4,5 sau khi đã đọc đúng, hiểu đúng bài văn, bài thơ, HS được luyện đọc diễn cảm
trên cơ sở bộ lộ sự cảm nhận riêng. Để giữ được về hồn nhiên, trong sáng thể hiện qua
giọng đọc, không làm cho trẻ
Trang 197
bị “ức chế” hoặc phụ thuộc quá nhiều về kĩ thuật đọc, cách tốt nhất là GV gợi ý, nhận xét,
góp ý hoặc hướng dẫn cụ thể về đọc diễn cảm thông qua cách đọc của từng em, tạo điều
kiện cho HS cả lớp cùng rút kinh nghiệm và đọc tốt. Chỉ khi thật cần thiết, GV mới dùng
bảng phụ đã chép sẵn đoạn văn (thơ) có tác dụng hướng dẫn bằng trực quan một số điểm
về kĩ thuật đọc (nhấn giọng, cao giọng, thấp giọng, kéo dài giọng,…). Hiện nay, nhiều
GV có sáng kiến dùng chất liệu giấy khổ lớn (phủ nilong lên trên nền chữ in hoặc viết
sẵn) làm bảng phụ sử dụng được nhiều lần, song việc chép sẵn đoạn văn (thơ) luyện đọc
trên lớp vẫn cần được giáo viên cân nhắc kĩ để tránh gây nặng nề, khiên cưỡng trong dạy
học Tập đọc ở Tiều học.
Câu 121
Câu hỏi: Đề nghị phân biệt việc giải nghĩa từ trong bước luyện đọc và giải nghĩa từ trong
bước tìm hiểu bài. GV đưa các từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa vào bước tìm
hiểu bài để hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ có được không?
Trả lời
Việc giải nghĩa từ ngữ trong tiết Tập đọc giúp HS hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc (khác
với việc học từ ngữ trong tiết Luyện từ và câu). Do vậy, khi tiếp xúc với văn bản trong
bước luyện đọc, HS đã được tìm hiểu nghĩa một số từ ngữ khó (được chú giải trong
SGK), từ ngữ phổ thông mà HS địa phương chưa quen (nhất là HS vùng dân tộc thiểu số
biết ít tiếng Việt), từ ngữ đóng vai trò quan trọng để hiểu nội dung bài đọc. Yêu cầu này
được thực hiện một cách nhẹ nhàng, kết hợp với luyện đọc để vừa giúp cho HS đọc tốt
hơn vừa chuẩn bị cho bước tìm hiểu bài được thuận lợi.
Khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài tập đọc dựa theo các câu hỏi, bài tập trong SGK Tiếng
Việt tiểu học, GV cần giúp các em nắm được ý chính, hiểu nội dung bài (đối với các lớp
2,3), bước đầu phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản văn
chương (đối với các lớp 4,5). Để khỏi lãng phí thời gian và làm cho giờ Tập đọc trở thành
giờ học từ ngữ một cách nặng nề, việc giải nghĩa các từ ngữ đã nói ở trên không cần phải
thực hiện nữa. Khi gặp từ ngữ có tính nghệ thuật hoặc từ ngữ nêu bật ý chính, nếu cần
thiết, GV có thể yêu cầu HS giải nghĩa từ ngữ đó để các em hiểu sâu hơn nội dung câu
hỏi và bài tập trong SGK. Đây cũng chính là điểm phân biệt giữa yêu cầu giải nghĩa từ
ngữ trong bước tìm hiểu bài và bước luyện đọc trong tiết
Trang 198
Câu 122
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài Tập Đọc ở các lớp 4, 5, giáo viên có bắt
buộc phải tóm tắt và ghi ý chính của từng đoạn lên bảng hay không?

159
Trong giờ Tập đọc ở Tiểu học, HS được rèn luyện về kỹ năng đọc - hiểu qua hoạt động
tìm hiều bài đọc. Đối với các lớp 4, 5, mức độ cần đạt về kĩ năng đọc - hiểu (Chuẩn kiến
thức, kỹ năng) được ghi trong Chương trình giáo dục phổ thông - cấp Tiểu học (ban hành
kèm theo Quyết định số 16/2006 / QĐ - BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo) như sau:
Lớp 4
- Nhận biết dàn ý của bài đọc; hiểu nội dung chính của từng đoạn trong bài, nội dung của
cả bài.
- Biết phát hiện một số từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có nghĩa trong bài văn, bài thơ được học;
biết nhận xét về nhân vật trong các trong văn bản tự sự.
Lớp 5
- Nhận biết dàn ý và đại ý văn bản.
- Nhận biết ý chính của từng đoạn trong văn bản.
- Phát hiện các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có nghĩa trong bài văn, bài thơ, trích đoạn kịch
được học. Biết phát biểu ý kiến cá nhân về cái đẹp của văn bản đã học.
- Biết tóm tắt văn bản tự sự.
Để đạt được các mức độ nêu trên vào cuối năm học, HS phải được GV hường dẫn rèn
luyện qua nhiều giờ Tập đọc với một hệ thống văn bản thuộc các loại hình nghệ thuật,
báo chí, khoa học đã được tuyển chọn và đưa vào SGK Tiếng Việt (46 bài văn xuôi, 17
bài thơ), SGK Tiếng Việt 5 (40 bài văn xuôi, 2 vở kịch (trích), 18 bài thơ). Dựa vào câu
hỏi, bài tập trong SGK.
Trang 199
Hs tìm hiểu bài đọc để rèn kĩ năng đọc - hiểu và từng bước thực hiện những yêu cầu đề ra
. Căn cứ vào nội dung cụ thể , mỗi bài Tập đọc có thể đặt ra những yêu cầu khác nhau
nhưng đều hướng vào thực hiện các mức độ đã nêu về kĩ năng đọc - hiểu . VD :
- Bài Người ăn xin ( Tiếng Việt 4 , tập một , tr.31 ) :
+ Câu hỏi 1 : Hình ảnh ông lão ăn xin đáng thương như thế nào? ( Yêu cầu HS phát hiện
các từ ngữ có ý nghĩa)
¬+ Câu hỏi 2 : Hành động và lời nói ân cận của cậu bé chứng tỏ tình cảm của cậu đối với
ông lão ăn xin như thế nào? ( Yêu cầu HS nhận xét về nhân vật trong văn bản tự sự)
- Bài Nếu chúng mình có phép lạ ( Tiếng Việt 4 , tập một , tr.7 )
+ Câu hỏi 2 : Mối khổ thơ nổi lên một điều ước của các bạn nhỏ . Những điều ước ấy là
gì ? ( Yêu cầu HS nhận biết dàn ý của bài đọc , hiểu nội dung chính của từng khổ thơ
trong bài . )
- Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa ( Tiếng Việt 5 , tập một , tr.11 )
+ Câu hỏi 2 : Hãy chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm
giác gì ? ( Yêu cầu HS phát hiện từ ngữ có ý nghĩa)
+ Câu hỏi 3: Những chi tiết nào về thời tiết và con người đã làm cho bức tranh làng quê
thêm đẹp và sinh động ? ( Yêu cầu HS phát hiện các chi tiết có ý nghĩa . )
- Bài Lòng dân ( Tiếng Việt 5 , tập một , tr.31 ) :
+ Câu hỏi 2 : Những chi tiết nào cho thấy di Năm từng xử rất thông minh? ( Yêu cầu HS
phát hiện các chi tiết có ý nghĩa trong đoạn kịch . )

160
+ Câu hỏi 3: Vì sao vở kịch được đặt tên là Lòng dân ? ( Yêu cầu HS phát biểu ý kiến cá
nhân về cái đẹp của văn bản . )
Như vậy , mức độ yêu cầu cần đạt về kĩ năng đọc – hiểu đối với HS lớp 4, lớp 5 mới đặt
ra ở mức độ ban đầu, chuẩn bị cho việc học tiếp các lớp trên . Do đó, trong quá trình
hướng dẫn HS tìm hiểu bài Tập đọc ở các lớp 4 , 5 ,GV không nhất thiết phải tóm tắt và
ghi ý chính của mỗi đoạn lên bảng , vì không phải bài Tập đọc nào cũng yêu cầu HS nhận
biết dàn ý của bài đọc, nội dung chính của từng đoạn .
Trang 200
Câu 123
Tìm đại lý của bài Tập đọc có phải là yêu cầu bắt buộc hay không ? Nếu học sinh nêu đại
ý , giáo viên có cần ghi lên bảng không ?
Nội dung giải đáp ở câu hỏi 122 đã cho thấy: Yêu cầu hướng dẫn HS tìm | hiểu bài trong
giờ Tập đọc được xác định và giới hạn trong hệ thống câu hỏi, bài tập trong SGK Tiếng
Việt ( GV không nên tuỳ tiện thêm bớt câu hỏi khai thác bài đọc , nhất là những câu hỏi
vượt quá mức độ yêu cầu cần đạt đối với HS từng lớp ) ; chỉ một số bài Tập đọc có yêu
cầu HS tìm đại lý hoặc nội dung chính, ý nghĩa của bài ( không bắt buộc tìm đại lý ở tất
cả các bài Tập đọc ). Trong SGV Tiếng Việt ở từng lớp, phần Mục đích, yêu cầu ( mục 1)
thường xác định mức độ cần đạt đối với HS về đọc - hiểu văn bản qua là diễn đạt : Hiểu
nội dung truyện ... Hiểu ý nghĩa của bài thơ ... Hiểu nội dung ý nghĩa truyện ... Nắm được
nội dung chính ... Hiểu nội dung bài ... Cảm nhận được vẻ đẹ . Ở một số bài Tập đọc ,
dựa vào nội dung Các hoạt động dạy học ( mục III ) , GV có thể yêu cầu HS nêu nội dung
chính (đại ý , ý chính ) hoặc ý nghĩa của bài đọc sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu bài (hoặc
trong bước Củng cố cuối tiết học ). Sau khi chốt lại nội dung chính ( đại ý , ý chính ) hay
ý nghĩa của bài đọc, GV có thể giúp HS ghi nhớ theo nhiều cách: ghi bảng ( nếu ngắn gọn
) hoặc đưa bảng phụ viết sẵn, trình chiếu bằng máy, yêu cầu HS nhắc lại, đọc cho HS ghi
vào vở, ... Đối với các lớp 4, 5, GV cần có ý thức hướng dẫn HS biết cách tự ghi chép nội
dung theo từng bước từ dễ đến khó ( nhìn - chép , nghe - chép , nhớ - viết ) , tạo điều kiện
để HS làm quen với cách học và ghi bài ở các lớp trên lớp.
Câu 124
Dạy Tập đọc ở các lớp 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , giáo viên có cần ghi bảng các từ ngữ được chủ giải
trong SGK Tiếng Việt và từ ngữ được giải nghĩa thêm ( không chú giải trong sách giáo
khoa ) hay không ?
Cấu trúc bài học Tập đọc trong SGK Tiếng Việt từ lớp 2 đến lớp 5 thường có phần Chú
thích và giải nghĩa từ ngữ khó , từ ngữ mới xuất hiện trong bài mà HS cần hiểu nghĩa để
nắm được nội dung bài đọc . Việc hướng dẫn HS tìm hiểu nghĩa của từ ngữ được chú giải
trong SGK và một số từ ngữ khác trong bài mà HS địa phương chưa hiểu ( nếu có ) được
tiến hành trong quá trình
Trang 201
luyện đọc từng đoạn nối tiếp ( bước Luyện đọc ) . Những từ ngữ này được GV hướng dân
giải nghĩa một cách đơn giản, gắn với văn cảnh cụ thể và phù hợp với trình độ HS từng
lớp ( không giống cách này giải nghĩa từ ngữ trong giờ Luyện từ và câu ). VD :
- HS đọc xong đoạn 1 của bài Có công mài sắt , có ngày nên kim ( Tiếng Việt 2 , tập một
, tr. 4 ) , GV hỏi : Ngáp ngắn , ngáp dài ý nói ngáp dài hay ngáp ít ? Vì sao cậu bé làm

161
như vây ? ( vì buốn ngủ , mệt hoặc chán ) , Máy chữ đấu , cậu là viết nắn nót là viết như
thế nào ? ( viết cẩn thận ) - SGK giải nghĩa là nắn nót là gì? ... ( Lưu ý : Nếu đoạn văn có
nhiều từ ngữ cần giải nghĩa thì GV phân bổ vào các lần đọc đoạn để hướng dẫn sao cho
hợp lý , tránh nặng nề.)
- HS đọc xong khổ thơ đầu của bài Mẹ ốm ( Tiếng Việt 4 , tập một , tr.9 ) , GV có thể
yêu cầu : Dựa vào chú giải nghĩa từ trong SGK , em hãy mô tả cho các bạn biết cơi trầu
là đồ dùng thế nào? ( đồ dùng để đựng trầu cau , đáy nông , thường làm bằng gỗ hoặc
đồng )
Việc tìm hiểu nghĩa của từ ngữ trong bước Luyện đọc được tiến hành một cách nhẹ
nhàng , tự nhiên , giúp HS hiểu sơ bộ nội dung bài đọc ( trước khi tìm hiểu bài theo câu
hỏi , bài tập trong SGK ) . Do vậy , GV không cần phải ghi bảng các từ ngữ được chú
giải trong SGK , từ ngữ được giải nghĩa thêm trong khi luyện đọc . Chỉ khi hướng dẫn
HS tìm hiểu bài , nếu nội dung trả lời xuất hiện từ ngữ đã được chú giải nhưng lại là từ
ngữ nổi bật cần nhấn mạnh thì GV mới ghi bảng để HS theo dõi , ghi nhớ ( có thể yêu
cầu HS nêu lại nghĩa từ ngữ để củng cố ) .
Câu 125
Nội dung và cách trình bày bảng lớp trong giờ Tập đọc ở Tiểu học có những điểm gì cần
lưu ý ?
- Bảng lớp là TBDH mang tính trực quan , có tác dụng tích cực trong quá trình dạy học ở
Tiểu học , GV sử dụng bảng lớp để hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ học tập , giúp các
em phối hợp nhiều giác quan ( tai nghe , mắt nhìn ) để nhận thức bài học có hiệu quả . Ở
các lớp cấp Tiểu học , môn Tiếng Việt nhằm mục tiêu hình thành và phát triển ở HS các
kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( đọc , viết , nghe , nói ) là chủ yếu , yêu cầu ghi bảng không
nặng về kiến thức,
Trang 202
không đòi hỏi tính hệ thống chặt chẽ . Do vậy , nội dung và các lĩnh bảng lớp trong giờ
Tập đọc ở Tiểu học có những điểm cần lưu ý sau:
1. Nội dung ghi bảng phải ngắn ngọn, chính xác , có tác dụng hướng dẫn HS học tập tích
cực
- Đối với lớp 1, GV ghi bàng một số từ ngữ cái luyện đọc đúng là chủ yếu ( nếu có bảng
phụ chép sẵn toàn bộ bài đọc hoặc trình chiếu bài đọc trên máy thì chỉ cần gạch dưới các
từ ngữ cần luyện đọc )
- Đối với các lớp 2 , 3 , GV ghi bảng theo nội dung luyện tập ở từng buớc Luyện đọc : Từ
ngữ cấn luyện đọc ( câu , đoạn cần luyện đọc nên ghi vào bàn phụ hoặc trình chiếu trên
máy ) - Tìm hiểu bài : Từ ngữ , hình ảnh chi tiết bật , ý chính (của bài ) cần nhớ.
- Đối với các lớp 4 , 5 , GV ghi bảng tương tự như ở các lớp 2 , 3 ; riêng phần Luyện đọc
có thể tách 2 yêu cầu : Đọc đúng - Đọc hay ( đọc diễn cảm ) ; phần Tìm hiểu bài cũng chỉ
ghi các từ ngữ , hình ảnh , chi tiết nổi bật , ý chính ( của đoạn ) cần nhớ , còn nội dung
chính ( đại ý , ý nghĩa của bài thì GV nên ghi vào bảng phụ ( hoặc trình chiếu trên máy ) .
* Ghi chú : Ở các lớp 4 , 5 , dưới tên bài Tập đọc , GV ghi tên tác giả ( nếu có ) không
ghi nguồn trích dẫn văn bản .
2. Cách trình bày bảng phải rõ ràng ( chữ viết đúng mẫu , dễ đọc ) , hợp lí ( ki hợp nhịp
nhàng với tiến trình dạy học ) , có tác dụng kích thích hứng thú học tập của HS

162
Nội dung cần ghi bảng màu ở mục 1 nói trên có thể được trình bày theo 2 cột ( Luyện đọc
- Tìm hiểu bài ) hoặc 1 cột (lần lượt từng nội dung ) , dựa vào cách dạy của GV đối với
bài Tập đọc cụ thể ( theo lối " bổ dọc " hoặc " cắt ngang’’). Trong quá trình dạy học , nếu
có bài tập hay nội dung cần minh hoạ tạm thời thì GV ghi ở góc bảng , khi sử dụng xong
sẽ xoá đi.
Tóm lại , việc ghi bảng lớp trong giờ Tập đọc cần được GV thực hiện một cách nhẹ
nhàng , tự nhiên , hiệu quả trong quá trình dạy học . GV cũng không nhà thiết phải trình
bày sẵn " khung" tiêu mục trên bảng lớp trước khi dạy học (VD: Luyện đọc/ Từ ngữ ,
Câu - đoạn; Tìm hiểu bài /Từ ngữ , hình ảnh , chi tiết, nội dung chính ) .
Trang 203
Câu 126
Xin cho biết yêu cầu ghi chép vào vở đối với học sinh khi đọc bài Tập đọc?
Phân môn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ chủ yếu là đèn kĩ năng đọc ( đọc thành tiếng ,
đọc thầm ). Trong giờ Tập đọc , qua việc hướng dẫn HS luyện đọc và tìm hiểu bài , GV
còn giúp HS có cơ hội rèn kĩ năng nghe - nói ( nghe GV và các bạn đọc , nghe GV hướng
dẫn học bài hoặc nghe các bạn trả lời câu hỏi , nói trước lớp hoặc trao đổi với bạn về nội
dung bài đọc ... ) , mở rộng và hiểu biết, bối đường tư tưởng , tình cảm , nhân cách cho
các em . HS học Tập đọc chính là học các kĩ năng để học tập và giao tiếp trong môi
trường hoạt động của lứa tuổi như mục tiêu môn học đã xác định. Kiến thức hay tư
tưởng, tình cảm, nhân cách của HS chỉ được hình thành và phát triển khi việc dạy học kĩ
năng đọc có hiệu quả . Xét như vậy thì ở cấp Tiểu học , yêu cầu rèn kĩ năng đọc qua thực
hành luyện tập trong giờ Tập đọc là yêu cầu quan trọng nhất, yêu cầu ghi chép bài học
vào vở chỉ là yêu cầu kết hợp , giúp HS bước đầu có ý thức ghi nhớ nội dung bài học và
làm quen với cách học ở các lớp trên ( THCS ) .
Căn cứ mức độ đạt được về kĩ năng viết ( ghi chép ) của HS từ lớp 2 đến lớp 5. GV
hướng dẫn các em về nội dung và cách ghi vở trong giờ Tập đọc sao cho hợp lí, tránh ảnh
hưởng nhiều đến thời gian ’’học đọc " trên lớp. Cụ thể như sau:
- Lớp 2, lớp 3: Ghi tên bài Tập đọc dưới tên phân môn ( không kể phần ghi Thứ ... , ngày
, tháng , năm ... chung cho cả buổi học ). VD (lớp 2, tuần 2 )
Tập đọc
PHẦN THƯỞNG
* Lưu ý : Đối với một số bài Tập đọc ở lớp 3 có ý chính ( hoặc yêu cầu học thuộc lòng )
cần được HS ghi nhớ, GV có thể đọc chậm hoặc ghi bảng nội dung đó để HS viết vào vở
vào cuối tiết học .
-Lớp 4 Lớp 5: Ghi tên phân môn ( Tập đọc ) , tên bài Tập đọc , tên tác giả ( nếu có ) , nội
dung chính ( đại ý , ý nghĩa của bài đọc , yêu cầu học thuộc lòng ( nếu có ) , VD ( lớp 4 ,
tuần 2 ) :
Trang 204
Tập đọc
TRUYỆN CỔ NƯỚC MÌNH
Lâm Thị Mỹ Dạ
- Ý nghĩa: Ca ngợi kho tàng truyện cổ của đất nước. Đó là những câu chuyện vừa nhân
hậu, vừa thông minh, chứa đựng kinh nghiệm sống quý báu của cha ông.

163
- Học thuộc bài thơ.
* Lưu ý: Để giúp học sinh lớp 5 (cuối cấp Tiểu học) làm quen với cách học ở cấp THCS
(kết hợp ghi bài trong quá trình luyện tập và nghe GV hướng dẫn), trong giờ Tập đọc ở
học kì II, GV có thể giúp HS từng bước biết cách ghi vào vở một cách ngắn gọn nội dung
cần thiết đã được GV ghi bảng hoặc chốt lại, nhấn mạnh. VD (lớp 5, tuần 22):
Tập đọc
CAO BẰNG
Trúc Thông
1. Luyện đọc
- Đọc diễn cảm: giọng nhẹ nhàng, tình cảm, thể hiện long yêu mến đất đai và người dân
Cao Bằng.
- Học thuộc bài thơ.
2. Tìm hiểu bài
- Từ ngữ: lành như hạt gạo, hiền như suối trong
- Nội dung: ca ngợi Cao Bằng – mảnh đất có địa thế đặcbiệt, có những người dân mến
khách, đôn hậu đang giữ gìn biên cương của Tổ quốc.
Câu 127:
? Dạy bài tập đọc theo lối “bổ dọc” hay lối “cắt ngang” là dạy như thế nào? Đề nghị minh
họa một ví dụ cụ thể về bài dạy Tập đọc theo lối “cắt ngang”.
Dạy bài Tập đọc theo lối “bổ dọc” là dựa vào “chiều dọc” của văn bản để dạy HS thực
hành luyện tập từng buowcstheo các mức độ của kĩ năng đọc từ thấp đến cao (Luyện đọc
đúng – Tìm hiểu bài – Luyện đọc hay/ đọc diễn cảm). Dạy theo lối “cắt ngang” là dựa
vào bố cục của văn bản, “cắt ngang” từng đoạn để dạy HS thực hành luyện tập kết hợp
các mức độ của kĩ năng đọc từ thấp đến cao như đã nêu trên. Cách dạy theo lối “cắt
ngang” thường được tiến
Trang 205
hành thuận lợi đối với một số bài có bố cục rõ ràng, có câu hỏi tìm hiểu bài trong SGK
tương ứng với mỗi đoạn. Cách dạy này cũng tạo điều kiện để GV thay đổi “quy trình”
thong thường, phổ biến (lối “bổ dọc”), góp phần kích thích hứng thú học tập của HS, đặc
biệt ở các lớp 4, 5 (lớp có yêu cầu luyện đọc diễn cảm).
Dưới đây xin giới thiệu nội dung dạy học bài Đất cà Mau (Tiếng việt 5,tập một,tr. 89) để
minh họa cách dạy bài Tập đọc theo lối “cắt ngang” (phần Dạy bài mới)
1.Giới thiệu bài (1 phút)
GV giới thiệu bài (kết hợp chỉ bản đồ, giới thiệu tranh ảnh): Trên bản đồ Việt Nam hình
chữ S, Cà Mau là mũi đất nhô ra ở phía tây nam tận cùng của Tổ quốc. Khí hậu ở đây
khắc nghiệt nên cây cỏ, con người cũng có những điểm khác biệt. Bài Đất Cà Mau của
nhà văn Mai văn Tạo sẽ cho các em biết về điều đó.
2. Hướng dẫn luyện đọc và tìm hiểu bài (32 phút)
* Việc 1: GV mời 1 HS khá, giỏi đọc toàn bài (hoặc GV đọc diễn cảm bài văn đối với lớp
có nhiều HS học yếu), xác định 3 đoạn của bài – (khoảng 2 phút).
* Việc 2: GV hướng dẫn HS luyện đọc, tìm hiểu nội dung và đọc diễn cảm theo từng
đoạn bài – (khoảng 12 phút cho đoạn 1 và đoạn 3, khoảng 10 phút cho đoạn 2)
a, Đoạn 1 (từ đầu đến nổi cơn dông)

164
- Cho 3, 4 HS đọc đoạn 1, GVnghe, nhận xét, sửa chữa (nếu HS đọc chưa đúng, chưa rõ
ràng); kết hợp yêu cầu HS nêu nghĩa từ đọc chú giải trong SGK – phũ (phũ phàng).
- GV yêu cầu HS đọc thầm đoạn 1 để trả lời câu hỏi: Mưa ở Cà Mau có gì khác thường? (
Mưa ở Cà Mau là mưa dông: rất đột ngột, dữ dội nhưng chóng tạnh – chú ý các từ ngữ,
chi tiết: sớm nắng chiều mưa; đang nắng đó, mưa đổ ngay xuống đó; mưa hối hả; mưa rất
phũ, một hồi rồi tạnh hẳn; trong mưa thường nổi cơn dông)
(Hỏi tiếp): Từ nội dung trên, em có thể đặt tên cho đoạn 1 là gì? (Mưa ở Cà Mau, hoặc:
Cà Mau – đất mưa dông…)
Trang 206
- Cho 3 – 4 HS đọc lại đoạn 1: GV hướng dẫn hS đọc diễn cảm: xác định đúng giọng đọc
(hơi nhanh, mạnh), nhấn giọng những từ ngữ tả sự khác thường của mưa ở Cà Mau (theo
nội dung trả lời câu hỏi 1).
b, Đoạn 2 (từ Cà Mau đất xốp đến bằng thân cây đước)
- Cho 3 – 4 HS đọc đoạn 2, GV nghe, nhận xét, sử chữa, kết hợp yêu cầu HS nếu nghĩa
các từ phập phều, cơn thịnh nộ, hằng hà sa số được chủ giải trong SGK.
- GV yêu cầu HS đọc lướt đoạn 2 trước khi trả lời mỗi câu hỏi:
+ Cây cối trên đất Cà Mau mọc ra sao? (Cây cối mọc thành chòm, thành rặng; rễ dài,cắm
sâu vào long đất để chống chọi với thời tiết khắc nghiệt; đước mọc san sát, nhiều vô kể).
+ Người Cà Mau dựng nhà như thế nào? ( Nhà cửa dựng dọc những bờ kênh, dưới những
hàng đước xanh rì; Từ nhà nọ sang nhà kia phải leo trên cầu bằng thân cây đước).
(Hỏi tiếp): Đoạn này có thể đặt tên thế nào ? (Cây cối và nhà cửa ở Cà Mau hoặc: Đất,
cây cối và nhà cửa ở Cà Mau, sức sống mãnh liệt của cây cối trên Đất Cà Mau…)
- Cho 4 – 5 HS đọc lại đoạn 2, GV hướng dẫn HS đọc diễn cảm: nhấn mạnh các từ ngữ
miêu tả khí hậu khắc nghiệt ở Cà Mau, sức sống mãnh liệt của cây cối ở đát Cà Mau (nẻ
chân chim; rạn nứt; phập phều;lắm gió, dông; cơn thịnh nộ…chòm; rặng; san sát; thẳng
đuột; hằng hà sa số…)
c, Đoạn 3 (còn lại)
- Cho 3 – 4 HS đọc doạn 3. GV lưu ý HS ngắt hơi đúng ở các câu dài; kết hợp hỏi thêm
để HS hiểu: những từ ngữ trong ngoặc kép (“sấu cản mũi thuyền”, “hổ rình xem hát”) ý
nói Cà Mau ngày xưa là vùng đất thế nào? (Vùng đất hoang sơ, đầy nguy hiểm, khó
khăn…)
- GV yêu cầu HS đọc thầm lại đoạn 3, trao đổi theo cặp để trả lời câu hỏi: Người dân Cà
Mau có tính cách như thế nào? (Người dân Cà mau thông minh, giàu nghị lực, thích kể,
thích nghe những câu chuyện kì lạ về sức mạnh và trí thông minh của con người; luôn
nung đúc, lưu truyền tinh thần thượng võ của cha ông).
(Hỏi tiếp): Em đặt tên cho đoạn 3 thế nào để nêu bật được ý chính? (Tính cách người Cà
Mau hoặc Người Cà Mau kiên cường, Người Cà Mau vững vàng trước mọi thử thách…)
- Cho 3 – 4 HS đọc lại đoạn 3, GV hướng dẫn HS đọc diễn cảm: giọng đọc thể hiện niềm
tự hào, khâm phục; nhấn mạnh các từ ngữ nói về tính cách của người Cà Mau (thông
minh, giàu nghị lực, huyền thoại, thượng võ, nung đúc, lưu truyền, khai phá…)
* Việc 3: GV đọc diễn cảm toàn bài (hoặc mời 3 HS đọc tốt nối tiếp nhau đọc 3 đoạn của
bài). Sau đó, yêu cầu HS luyện đọc diễn cảm toàn bài theo cặp (khoảng 5 phút)

165
* Việc 4: GV cho 2 – 3 HS xung phong thi đọc diễn cảm toàn bài (hoặc đoạn 2). Cả lớp
bình chọn HS đọc hay nhất để GV cho điểm tốt (khoảng 3 phút).
3. Củng cố, dặn dò (3 phút)
- GV gợi dẫn bằng câu hỏi để HS cảm nhận ý nghĩa của bài văn: Qua bài tập đọc, em
thấy thiên nhiên ở Cà Mau như thế nào? Điều kiện thiên nhiên như vậy đã góp phần hun
đúc nên tính cách gì của người Cà Mau? Sau đó, GV chốt lại ý nghĩa: Sự khắc nghiệt của
thiên nhiên Cà Mau góp phàn hun đúc nên tính cách kiên cường của người Cà Mau (cho
HS ghi vào vở để ghi nhớ)
- GV nhận xét tiết học. Yêu cầu học sinh về nhà tiếp tục luyện đọc diễn cảm bài văn,
chuẩn bị cho tuần Ôn tập giữa học kì I (tiết1 – Ôn luyện tập đọc và học thuộc lòng từ tuần
1 đến tuần 9)
Tham khảo
(Nội dung ghi bảng khi dạy bài Đất Cà Mau theo lối “cắt ngang”)
Thứ…., ngày… tháng… năm
Tập đọc
ĐẤT CÀ MAU
Đoạn 1: Mưa ở Cà Mau
- Mưa hối hả, rất phũ, một hồi rồi tạnh hẳn, trong mưa có dông…
- Đọc hơi nhanh, mạnh
Đoạn 2: Cây cối và nhà cửa ở Cà Mau
- Cây : mọc thành chòm, thành rặng, rễ dài…
Nhà cửa: dọc bờ kênh, dưới hàng đước…
- Nhấn giọng: nẻ chân chim, rạn nứt, phập phều, lắm gió…
Trang 208
Đoạn 3: Tính cách người Cà Mau
- Thông minh, giàu nghị lưc, thượng võ…
- Giọng đọc tự hào
Ý nghĩa: sự khắc nghiệt của thiên nhiên Cà Mau góp phần hun đúc nên tính cách kiên
cường của người Cà Mau.
* Ghi chú
- GV ghi ý chính của từng đoạn sau khi hướng dẫn HS đọc tên đoạn.
- GV có thể ghi bảng lớp hoặc bảng phụ, trình chiếu trên máy hoặc đọc cho HS ghi vở ý
nghĩa bài văn.
Câu 128:
? Việc tổ chức HS làm việc theo cặp, theo nhóm trong giờ Tập đọc cần được thực hiện
như thế nào để dạt hiệu quả tốt.
Hình thức tổ chức làm việc theo cặp, theo nhóm thường có tác dụng tích cực hóa hoạt
động học tập của HS, tạo cơ hội cho từng cá nhân được tham gia vào các hoạt động luyện
đọc, tìm hiểu bài trong giờ Tập đọc. Việc tổ chức cho HS làm việc theo cặp, theo nhóm
phải đem lại hiệu quả thiết thực, tránh hình thức. GV cần thực hiện tốt một số yêu cầu
sau:
- Xác định sự cần thiết phải tổ chức cho HS làm việc theo cặp (hoặc nhóm) tính toán thời
gian làm việc của HS và số lần tổ chức sao cho hợp lí, thiết thực (tránh tình trạng cho HS

166
làm việc trong thời gian quá ngắn hoặc tổ chức quá nhiều lần học nhóm trong một tiết
dạy nhưng lại ít hiệu quả.)
- Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ cụ thể của HS khi làm việc theo cặp hoặc theo nhóm
(luyện đọc cá nhân, đọc diễn cảm cho bạn nghe và nghe bạn đọc để cùng chia sẻ kinh
nghiệm đọc, trao đổi – thảo luận để tìm hiểu bài, bày tỏ ý kiến về vấn đề do GV nêu ra…)

- Hình thành thói quen tự giác làm việc và ý thức kỉ luật cho HS (luyện đọc tích cực, đọc
thành tiếng với mức độ vừa phải, không làm ảnh hưởng đến các nhóm khác, thái độ trao
đổi nhẹ nhàng, lịch sự và tôn trọng ý kiến của bạn…)

(Trang 209)
- Thường xuyên giám sát, động viên hoặc giúp đỡ HS (nhất là những HS học yếu) trong
quá trình học; đánh giá đúng kết quả luyện tập của HS để có biện pháp tiếp theo cho phù
hợp.
Thực tế cho thấy: HS tiểu học nói chung rất thích làm việc theo cặp hoặc theo nhóm
trong giờ Tập đọc. Song GV cần căn cứ vào mục đích, yêu cầu của tiết dạy và đối tượng
HS cụ thể để tổ chức cho các em làm việc theo cặp (hoặc nhóm) một cách hợp lí thì mới
có tác dụng thiết thực và đem lại hiệu quả tốt.

Câu 129
? SGK Tiếng Việt 4 có văn bản đọc khá dài được dạy trong 2 tiết (VD: Bốn anh tài,
Tiếng Việt 4, tập hai, tr.4 và tr. 13) nhưng không xếp gần nhau xen một bài Tập đọc
khác vào giữa? Giáo viên có thể điều chỉnh cho học sinh được học 2 tiết gần nhau
trong cùng một tuần học được không?
: SGK Tiếng Việt 4 (hai tập) có 5 văn bản truyện khá dài, mỗi văn bản được dạy trong 2
tiết (Dế Mèn bênh vực kẻ yếu, Chú đất nung, Rất nhiều mặt trăng, Bốn anh tài, Vương
quốc vắng nụ cười). Hai văn bản Chú đất nung (Tuần 14) và Rất nhiều mặt trăng (Tuần
17) đều được sắp xếp dạy trong cùng một tuần học (2 tiết Tập đọc). Ba văn bản truyện
còn lại đều dạy 2 tiết nhưng ở 2 tuần khác nhau vì có thể xen tiết Tập đọc văn bản thơ
(học thuộc lòng) vào giữa. Cụ thể:
- Tuần 1: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu – Mẹ ốm (thơ/Tuần 2: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (tiếp
theo) – Truyện cổ nước mình (thơ).
- Tuần 19: Bốn anh tài – Chuyện cổ tích về loài người (thơ/Tuần 20: Bốn anh tài (tiếp
theo) – Trống đồng Đông Sơn (văn xuôi).
- Tuần 32: Vương quốc vắng nụ cười – Ngắm trăng. Không đề (2 bài thơ ngắn)/Tuần 33:
Vương quốc vắng nụ cười (tiếp theo) – Con chim chiền chiện (thơ).
Để giúp GV và cán bộ quản lí giáo dục các cấp thực hiện tốt kế hoạch dạy học ở Tiểu
học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã an hành văn bản số 9832/BGDĐT–GDTH ngày
01/9/2006 về việc Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1,2,3,4,5, trong đó
ghi rõ: Khi triển khai chương trình và sách giáo khoa, không bắt buộc giáo viên thực
hiện chương trình một cách máy móc, hình thức (như dạy đúng tuần, đúng tiết, đúng thời
lượng của mỗi tiết),

167
(Trang 210)
quan trọng là phân phối nội dung chương trình hợp lí, phù hợp với đối tượng học sinh
sao cho cuối năm học tất cả học sinh trong lớp đạt được yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ
năng được quy định tại Chương trình Giáo dục phổ thông được ban hành theo Quyết
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT.
Trong ba văn bản truyện dạy 2 tiết nói trên, GV chỉ nên điều chỉnh cho HS được học 2
tiết truyện đọc Bốn anh tài ở Tuần 19. Tuần 20 học 2 tiết Tập đọc: Chuyện cổ tích về
loài người (thơ), Trống đồng Đông Sơn (văn xuôi). Hai văn bản còn lại cần thực hiện như
cách sắp xếp trong SGK, vì điều chỉnh lại sẽ không đảm bảo tính hợp lí và chưa phù hợp
với đối tượng HS: một tuần học 2 tiết Tập đọc truyện, mỗi tuần học 2 tiết Tập đọc thơ
(đều yêu cầu HS học thuộc lòng).

Câu 130
? Đối với các lớp 4,5 vùng dân tộc thiểu số có nhiều học sinh còn hạn chế về kĩ năng
đọc, giáo viên chỉ tập trung vào bước Hướng dẫn luyện đọc, lướt qua các bước Tìm
hiểu bài và Đọc diễn cảm trong giờ Tập Đọc có được không?
: Tại văn bản 896/BGDĐT-GDTH (ngày 13/2/2006), Bộ Giáo dục và Đao tạo đã nêu rõ
yêu cầu chỉ đạo: GV tự chịu trách nhiệm trong việc giảng dạy ở mỗi tiết học. Điều cốt
yếu là HS phả học được và được học. Như vậy đối với lớp 4,5 vùng dân tộc thiểu số có
nhiều HS còn hạn chế về kĩ năng đọc, nếu GV chỉ áp dụng máy móc quy trình dạy học
Tập đọc mà không quan tâm đến đối tượng HS thì không thể thực hiện được yêu cầu “HS
phải học được và được học”. Vì thế, GV tập trung vào bước Hướng dẫn luyện đọc để
giúp HS đạt được yêu cầu cơ bản về kĩ năng đọc đề ra cho mỗi lớp trong từng giai đoạn
là việc làm cần thiết. Từ đó HS mới có điều kiện để thực hiện hiệu quả các bước Tìm
hiểu bài và Đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc. Do phải dành nhiều thời gian vào việc rèn
đọc, GV có thể giảm nhẹ yêu cầu tìm hiểu bài và đọc trên. Tuy nhiên, GV cũng cần nâng
cao tinh thần trách nhiệm, có kế hoạch giúp đỡ cụ thể (trong và ngoài lớp học) đối với HS
còn yếu về kĩ năng đọc để cả lớp từng bước đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ
năng của môn Tiếng Việt ở từng lớp vào cuối năm học.
(Trang 211)
III. DẠY KỂ CHUYỆN
Câu 131
? Xin cho biết nội dung, yêu cầu của các loại bài tập về phân môn Kể chuyện trong
SGK Tiếng Viết 2, Tiếng Việt 3.
: Phân môn Kể chuyện ở lớp 2, lớp 3 có điểm chung là đều lấy nội dung bài Tập đọc
truyện kể đầu tuần để dạy HS tập kể chuyện. Các bài tập của phân môn Kể chuyện trong
SGK Tiếng Việt ở các lớp 2,3 đều nhằm rèn cho HS về hai kĩ năng nghe – nói chủ yếu.
Để rèn kĩ năng này, SGK có nhiều kiểu, loại bài tập với những mức độ yêu cầu khác
nhau.
Xét về mặt hình thức, các bài tập kể chuyện có thể khái quát thành 2 loại:

168
1. Loại bài tập Kể chuyện dựa vào tranh minh hoạ liên hoàn in trong SGK, Tiếng Việt lóp
2,3 (mỗi tranh đáp ứng với nội dung một đoạn truyện – bài Tập đọc đầu tuần).
Loại bài tập này có các kiểu bài tập với mức độ yêu cầu từ dễ đến khó: Kể chuyện theo
tranh và câu hỏi gợi ý – Kể theo tranh không có câu hỏi gợi ý – Sắp xếp lại các tranh đã
bị đảo lộn thứ tự cho đúng nội dung câu chuyện rồi kể lại.
2. Loại bài tập Kể chuyện dựa theo gợi ý bằng lời (không có tranh minh họa trong SGK
Tiếng Việt lớp 2,3).
Loại bài tập này cũng có các kiểu bài tập theo mức độ yêu cầu từ dễ đến khó: Kể theo hệ
thống cơ hội ý - Kể theo ý tóm tắt của từng đoạn (dàn ý) Tự tóm tắt nội dung mỗi đoạn
của câu chuyện bằng một cụm từ hoặc một câu rồi kể lại từng đoạn.
Xét về yêu cầu rèn luyện kỹ năng nói (trình bày, diễn đạt) các bài tập Kể chuyện cũng đặt
ra các mức độ từ thấp đến cao đối với HS khi kể chuyện:
- Mức 1: Kể lại một đoạn chuyện gần như lặp lại nguyên văn (văn bản đã Tập đọc)
VD (HS kể lời của Nai Nhỏ nói về bạn mình trong câu chuyện Bạn Của Nai Nhỏ - SGK
Tiếng Việt 2, tập một): Một lần khác chúng con đang đi dọc bờ sông để tìm nước uống
thì nhìn thấy Lão hổ hung dữ đang rình sau bụi cây. Bạn của con đã nhanh trí kéo con
chạy như bay.
- Mức 2: Kể lại một đoạn chuyện bằng lời của mình (không lặp lại nguyên văn có thể
dùng từ - đặt câu - diễn đạt theo cách khác).
(Trang 212)
VD (yêu cầu như trên): Lần khác, con cùng bạn đang đi dọc theo bờ sông để tìm nước
uống, chợt nhìn thấy một lão Hổ dữ tợn đang rình sau bụi cây. Bạn con rất nhanh trí, vội
kéo con chạy như bay.
- Mức 3: Tưởng tượng thêm chi tiết không có trong truyện để kể lại sao cho hợp lí.
VD (yêu cầu như trên): Lần khác, con đang cùng bạn đi dọc bờ sông để tìm nước uống
thì chợt thấy một lão Hổ nép mình sau bụi cây đang phóng đôi mắt dữ tợn về phía chúng
con. Bạn con đã nhanh trí kéo con chạy như bay, thoát khỏi nanh vuốt độc ác của lão Hổ.
Hầu hết các bài tập Kể chuyện nhằm rèn cho HS kĩ năng độc thoại, xong cũng có một số
bài tập bước đầu rèn kĩ năng đối thoại (kể lại câu chuyện theo các vai) giúp học sinh làm
quen với hình thức “diễn kịch”, “dựng hoạt cảnh”, kích thích hứng thú học tập và trau dồi
năng khiếu kể chuyện cho các em.

Câu 132
? Ngoài việc sử dụng các tranh phóng to từ sách giáo khoa để dạy bài tập kể chuyện
theo tranh minh họa liên hoàn, một số giáo viên còn dùng tranh minh họa để dạy
bài tập kể chuyện theo gợi ý bằng lời trong sách giáo khoa. Việc sử dụng tranh để
dạy hai loại bài tập nói trên có giống nhau không? Đề nghị minh họa bằng ví dụ cụ
thể.
: Trẻ em nói chung thường thích xem truyện tranh vì tranh minh họa đẹp và sinh động
vừa khơi dậy những cảm xúc thẩm mĩ vừa giúp trẻ dễ hình dung câu chuyện và kích thích
trí tưởng tượng thơ ngây. Tuy nhiên, để hướng dẫn học sinh thực hiện đúng yêu cầu của
từng loại bài tập kể chuyện trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, Tiếng Việt 3, GV cần cân
nhắc kĩ và sử dụng tranh minh họa cho phù hợp, đúng mục đích và phương pháp.

169
Có thể phân biệt: tranh minh họa phóng to từ SGK dùng để dạy bài tập kể chuyện theo
tranh minh họa liên hoàn đóng vai trò là nội dung học tập; còn tranh minh họa không có
trong SGK, nếu dùng để dạy bài tập kể chuyện theo gợi ý bằng lời thì chỉ đóng vai trò là
phương tiện hỗ trợ (bổ sung), giúp cho việc thực hiện nội dung bài tập dễ dàng hơn (nhất
là đối với HS ở các vùng khó khăn).
Do vậy, việc sử dụng tranh minh họa đối với hai loại bài tập nói trên hoàn toàn khác nhau
về mục đích và ý đồ sư phạm So sánh cách dạy qua hai ví dụ cụ thể dưới đây:

(Trang 213)
VD1: Ở Tuần 11, bài tập 1 trong giờ Kể chuyện có yêu cầu: Dựa vào tranh, kể lại từng
đoạn câu chuyện Bà cháu (SGK Tiếng Việt 2, tập một, tr. 87).
GV có thể hướng dẫn HS thực hiện bài tập này theo các bước:
- Đọc yêu cầu của bài tập, quan sát kĩ từng tranh minh họa trong SGK để nhớ lại nội
dung từng đoạn câu chuyện đã học ở bài Tập đọc.
- Tập kể lại từng đoạn của câu chuyện (dựa vào tranh minh họa ở SGK) theo một trong
hai cách sau:
+ Cách 1 (đối với lớp có nhiều học sinh khá, giỏi):
* GV hướng dẫn HS kể đoạn 1 theo tranh 1 trước lớp (có thể gợi ý bằng câu hỏi: Ngày
xưa, ở làng kia, có hai em bé ở với bà ra sao? Một hôm, có cô tiên đi qua cho một hạt
đào và dặn hai em thế nào?).
* Mời 1 – 2 HS khá, giỏi kể lại đoạn 1
* Tổ chức cho HS luyện tập kể chuyện theo nhóm (mỗi em kể 1 đoạn nối tiếp nhau, kể
nhiều lượt để từng em thay đổi đoạn kể).
* HS kể từng đoạn câu chuyện trước lớp (theo từng nhóm hoặc đại diện các nhóm).
+ Cách 2 (đối với lớp có nhiều HS trung bình, yếu – kém):
(Đoạn 1) – Ngày xưa, ở làng kia, có hai em bé ở với bà ra sao? Một hôm, có cô tiên đi
qua cho một hạt đào và dặn hai em thế nào?
(Đoạn 2) – Khi bà mất, hai anh em đã làm việc gì? Vừa gieo xuống đất, hạt đào đã đem
lại điều bất ngờ ra sao?
(Đoạn 3) – Dẫu có nhiều vàng bạc, châu báu, hai anh em vẫn cảm thấy thiếu điều gì?
Cuộc sống của hai anh em ra sao?
(Đoạn 4) – Khi cô tiên lại hiện lên, hai anh em đã xin cô điều gì? Cô tiên nói thế nào?
Hai anh em trả lời cô ra sao? Khi cô phất chiếc quạt mầu nhiệm, điều gì đã xảy ra?
Cảnh gặp gỡ giữa ba bà cháu cảm động như thế nào?
* Tổ chức cho HS luyện tập kể chuyện theo nhóm (mỗi em kể 1 đoạn nối tiếp nhau, kể
nhiều lượt để từng em thay đổi đoạn kể). Chú ý: GV dùng câu hỏi gợi ý như trên để giúp
HS trong nhóm kể chuyện, nếu các em lúng túng.

(Trang 214)
* HS kể từng đoạn câu chuyện trước lớp (theo từng nhóm nhóm). Chú ý: Nếu HS lúng
túng, GV vẫn có thể dùng cá HS kể cho đủ ý.

170
VD2: Ở Tuần 21, bài tập 1 trong giờ Kể chuyện (SGK Tiếng việt 2, tập 2 ,tr. 25) có yêu
cầu:
Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện Chim sơn ca và bông cúc
trắng :
a) Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của sơn ca và bông cúc
- Bông cúc đẹp như thế nào ?
- Sơn ca làm gì và nói gì ?
- Bông cúc vui như thế nào ?
b) Đoạn 2: Sơn ca bị cầm tù.
- Chuyện gì xảy ra vào sáng hôm sau ?
- Bông cúc muốn làm gì ?
c) Đoạn 3 :Trong tù.
- Chuyện gì xảy ra với bông cúc ?
- Sơn ca và bông cúc thương nhau như thế nào ?
d) Đoạn 4: Sự ân hận muộn màng.
- Thấy sơn ca chết, các cậu bé đã làm gì ?
- Các cậu bé có gì đáng trách ?
GV có thể hướng dẫn HS thực hiện bài tập này theo các bước :
– Đọc kĩ yêu cầu và gợi ý của bài tập (gồm dàn ý và câu hỏi), nhớ lại nội dung từng đoạn
câu chuyện đã học ở bài Tập đọc.
- Tập kể từng đoạn câu chuyện theo một trong hai cách dưới đây:
+ Cách 1 (đối với lớp có nhiều HS khá, giỏi):
* GV hướng dẫn HS kể đoạn 1 trước lớp, theo dàn ý và câu hỏi (có thể kết hợp nhìn tranh
minh hoạ đoạn 1 câu chuyện Chim sơn ca và bông Cúc trắng Tranh Kể chuyện 2 –
TBDH bổ sung).
(1) Bộ tranh Tiếng Việt 2 (Phân môn Kể chuyện), Công ty Cổ phần Bản đồ Và tranh ảnh
giáo dục (NXB Giáo dục) xuất bản.

171
(Trang 215)
* Tổ chức HS luyện tập kể chuyện theo nhóm dựa theo dàn ý và câu hỏi (nếu nội dung thì
có thể kết hợp nhìn tranh minh họa 4 đoạn của câu chuyện Chim sơn ca và bông cúc
trắng) – mỗi em kể 1 đoạn nối tiếp nhau, kể nhiều lượt để từng em thay đổi đoạn kể.
* HS kể từng đoạn câu chuyện trước lớp theo từng nhóm hoặc đại diện các nhóm. Chú ý :
HS vừa tự nhớ lại nội dung vừa có thể dựa vào tranh vẽ để kể từng đoạn của câu chuyện
một cách hứng thú, tự tin ; những HS khác vừa nghe bạn kể vừa nhìn tranh để tự kiểm
tra, nhận xét lời kể của bạn, nếu HS – lúng túng, GV cũng có thể dùng câu hỏi hoặc tranh
minh họa để gợi ý HS kể từng đoạn câu chuyện đạt kết quả tốt.
+ Cách 2 (đối với lớp có nhiều HS trung bình, yếu - kém) :
* GV hướng dẫn HS kể một lượt từng đoạn câu chuyện trước lớp theo dàn ý và câu hỏi,
kết hợp nhìn từng tranh minh hoạ Kể chuyện 2 (TBDH bổ sung).
* Tổ chức HS luyện tập kể chuyện theo nhóm (mỗi em kể 1 đoạn nối tiếp nhau, kể nhiều
lượt đế từng em thay đổi đoạn kể). Chú ý: GV nhắc các em đưa vào câu hỏi gợi ý, kết
hợp nhìn tranh minh hoa treo trên bảng để kể từng đoạn câu chuyện cho đủ ý.
* HS kể từng đoạn câu chuyện trước lớp (theo từng nhóm hoặc đại diện các nhóm). Chú
ý : Nếu HS lúng túng, GV vẫn có thể nêu câu hỏi gợi ý và chỉ dẫn trên tranh minh hoạ để
giúp HS kể chuyện đạt kết quả tốt.
Câu 133
Vì sao SGK Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5 không tin nội dung câu chuyện do giáo viên
kể trên lớp kèm theo các tranh minh hoạ để học sinh dễ kể lại ? Để giảng dạy có
hiệu quả kiểu bài Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy (cô) kể trên lớp, giáo viên
cần lưu ý những điểm gì ?
- Phân môn Kể chuyện ở Tiểu học nói chung có nhiệm vụ rèn các kĩ năng nghe - nói. Để
thực hiện nhiệm vụ này, HS lớp 1 đã được luyện tập kể chuyện theo kiểu bài : nghe GV
kể trên lớp một câu chuyện ngắn gọn, đơn giản, dễ hiệu (văn bản truyện in trong SGV
Tiếng Việt 1), sau đó dựa theo tranh minh hoạ liên hoàn trong SGK Tiếng Việt 1 để kể lại
từng đoạn của câu chuyện. Đến lớp 2, lớp 3, HS được luyện tập kể lại câu chuyện đã học
trong giờ tập đọc (văn bản truyện), tập trung rèn kĩ năng nói (kể lại từng đoạn câu chuyện

(Trang 216)
có nội dung khá phong phú) ; kĩ năng nghe được rèn luyện thi trao đổi, nhận xét sau khi
nghe bạn kể chuyện trên lớp (riêng ở lớp 3, một số giờ Tập làm văn, HS còn được rèn kĩ
năng nghe qua kiểu bài tập : nghe GV kể một mẩu chuyện ngắn, dựa vào câu hỏi gợi ý và
tranh minh họa để kể lại mẩu chuyện đó).

172
Phân môn Kể chuyện ở các lớp 4, 5 tiếp tục củng cố và phát triển các - đã được rèn luyện
từ các lớp dưới đồng thời mở rộng yêu cầu với 3.. tập: Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe
thầy (cô) kể trên lớp, Kể chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ ;Kể chuyện được chứng kiến
hay gia. Kiểu bài tập thứ nhất ngoài mục đích chung là rèn kĩ năng nói. mục đích rèn kĩ
năng nghe cho HS. Do vậy, bài tập Kể chuyện trong SG Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5 chỉ có
các tranh minh hoạ liên hoàn (kèm theo không kèm theo gợi ý dưới tranh) nhằm giúp HS
nhớ nội dung từng đoạn chuyện đã nghe GV kể trên lớp và kể lại câu chuyện cho sinh
động. Câu chuyện do GV kể trên lớp chỉ được in trong SGV, không in trong SGK vì nếu
in văn bản truyện trong SGK cho HS đọc rồi lại nghe GV kể trên lớp và dựa theo các
tranh minh hoạ để kể lại câu chuyện thì mức độ yêu cầu rèn các kỹ năng nghe - nói ở các
lớp 4, 5 sẽ thấp hơn các lớp dưới.
Để giảng dạy có hiệu quả kiểu bài Nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe thấy (cô) kể trên
lớp, GV cần thực hiện quy trình dạy học một cách linh hoạt và lưu ý một số điểm sau :
- Chú ý khai thác tranh minh hoạ (tranh trong SGK và tranh phóng to được cung cấp
theo Danh mục TBDH môn Tiếng Việt lớp 4, lớp 5), sử dụng lời kể rõ ràng, ngắn gọn
giúp HS nhớ nội dung và kể lại được từng đoạn của câu chuyện, tiến tới một số HS kể
được toàn bộ câu chuyện.
– Dạy một số tiết kể chuyện có văn bản khá dài, truyện có một số tình tiết khó nhớ (VD:
Những chú bé không chết, Khát vọng sống,... - Kể chuyện lớp 4; Lý Tự Trọng, Tiếng vĩ
cầm ở Mỹ Lai,... - Kể chuyện lớp 5), nếu trình độ tiếng Việt của HS còn hạn chế (HS
vùng khó khăn), GV không nhất thế phải kể đúng nguyên văn truyện trong SGV mà có
thể kể ngắn gọn, diễn đạt dễ hiểu và rõ các chi tiết chính trong cốt truyện. Có thể ghi lên
bảng tên " vật, một số chi tiết chính trong truyện, sơ đồ đơn giản về mối quan hệ các nhân
vật trong truyện, sử dụng tranh minh họa hỗ trợ,... để HS nhớ nội dung, diễn biến của câu
chuyện.

(Trang 217)
- Hướng dẫn HS thực hiện bài tập dựa vào nội dung câu chuyện đã nghe để sắp xếp tranh
theo trình tự hợp lí trước khi kể (VD: Con vịt xấu xí – Kể chuyện lớp 4 ) GV cần chỉ dẫn
rõ nội dung từng tranh minh họa sau khi kể lại câu chuyện nhằm giúp HS dễ dàng sắp
xếp tranh theo đúng thứ tự.
Đối với bài tập yêu cầu HS thuyết minh nội dung tranh bằng một hoặc hai Câu trước khi
kể (VD: Búp bê của ai, Bác đánh cá và gã hung thần,... - Kể chuyện lớp 4; Lý Tự Trọng -
Kể chuyện lớp 5), nếu HS lúng túng, không thuyết minh được, GV có thể đặt câu hỏi
hoặc nêu một vài từ ngữ gợi ý, giúp các em có điểm tựa để tập thuyết minh tranh.
Nếu HS có khả năng nhớ nội dung câu chuyện nhưng gặp khó khăn trong việc dùng lời
để kể lại, GV cần kể mẫu chậm rãi từng đoạn ngắn (có nhấn mạnh các câu nếu chi tiết
chính trong truyện) để HS dễ dàng nhớ lại và tập kể theo. Trước tiên, GV hướng dẫn HS
ghi nhớ nội dung và tập kể từng đoạn, sau đó tuỳ trình độ HS mà yêu cầu các em tập kể
một số đoạn hoặc kể toàn bộ Câu chuyện. Chỉ với đối tượng HS khá, giỏi, GV mới đặt
vấn đề sử dụng ngữ điêu phù hợp và các phương tiện phụ trợ phi ngôn ngữ hoặc kể
chuyện theo lối chuyển vai, phân vai vì đây là yêu cầu tương đối khó đối với khá nhiều
HS tiểu học.

173
- Một số truyện rất hay, có ý nghĩa sâu sắc nhưng do khả năng nhận thức còn hạn chế, HS
chưa đủ sức tự cảm nhận (VD: Những chú bé không chết, Khát vọng sống,... - Kể chuyện
lớp 4 ; Người đi săn và con nai – Kể chuyện lớp 5), GV nên gợi ý bằng câu hỏi để các em
tìm ra ý nghĩa của câu chuyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Nếu HS lúng túng, GV có
thể sử dụng hình thức bài tập trắc nghiệm đưa ra một số phương án để các em lựa chọn ý
đúng.
Câu 134
Đối với bài Kể chuyện yêu cầu học sinh thực hiện 4 bài tập (VD : Con vịt xấu xí –
Tuần 22, Tiếng Việt 4, tập hai, tr. 37), giáo viên cần hướng dẫn như thế nào để đảm
bảo thời gian dạy trong một tiết ?
Kiều bài Nghe – kể lại câu chuyện vừa nghe thầy (cô) kế trên lớp trong phân môn Kể
chuyện ở các lớp 4, 5 thường có 2 hoặc 3 bài tập (kể từng đoạn hoặc nêu ý nghĩa của từng
tranh, kể lại toàn bộ câu chuyện, trao đổi về ý nghĩa của câu chuyện). Riêng bài Kể
chuyện Con vịt xấu xí (Tiếng Việt 4, tập hai)

(Trang 218)
có thêm bài tập Sắp xếp lại thứ tự các tranh cho đúng cốt truyện kể (tổng số 4 bài tập).
Tuy nhiên, các bài tập này liên quan chặt nên GV có thể thực hiện "tích hợp" và xác định
mức độ yêu cầu của từng bài tập một cách hợp lí để đảm bảo thời gian dạy học trong một
tiết (khoảng 40 phút) hoặc kéo dài thời lượng của tiết dạy, nếu thấy cần thiết (theo văn
bản số 9832/ BGDĐT-GDTH ngày 01/9/2006 của Bộ GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực
hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5).
Dưới đây là phương án gợi ý (tóm tắt) thực hiện bài dạy Kể chuyện trong thời gian một
tiết học.
A - KIỂM TRA BÀI CŨ (5 phút)
GV kiểm tra 1 HS kể câu chuyện về một người có khả năng hoặc có sức đặc biệt mà em
biết (Bài Kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia đã học tuần trước).
B – DẠY BÀI MỚI (35 phút)
1. Giới thiệu bài (1 phút)
2. GV kể chuyện (khoảng 5 phút /2 lần kể)
3. Hướng dẫn HS thực hiện các yêu cầu của bài tập (khoảng 20 phút)
Bài tập 1: Sắp xếp lại thứ tự các tranh minh hoạ câu chuyện theo trình tự đúng (khoảng 4
phút)
* Lưu ý :GV chỉ dẫn rõ nội dung từng tranh minh hoạ (hoặc giúp HS nêu đúng nội dung
từng tranh) sau khi kể lại câu chuyện nhằm giúp HS dễ dàng sắp xếp tranh theo đúng thứ
tự.

174
Bài tập 2 + Bài tập 3 : Kể từng đoạn và toàn bộ câu chuyện (khoảng 20 phút).
* Lưu ý:
- Trước hết, GV yêu cầu 4 HS kể nối tiếp 4 đoạn theo 4 tranh (đã sắp xếp lại) để các bạn
góp ý, nhận xét và ghi nhớ câu chuyện ; sau đó HS lập kể theo nhóm 4 (mỗi HS kể 1
đoạn) hoặc kể theo cặp (mỗi HS kể 2 đoạn) trong khoảng 5 phút.
- Một, hai nhóm (cặp) HS thi kể nối tiếp nhau trước lớp (mỗi em kể 1 đoạn theo 1 tranh
hoặc 2 đoạn theo 2 tranh). GV hướng dẫn HS nhận xét, góp ý
- Thi kể lại toàn bộ câu chuyện (2 HS).
(Trang 219)
Bài tập 4 : Trao đổi về ý nghĩa của câu chuyện (3 phút)
* Lưu ý:GV có thể nêu câu hỏi gợi ý:Qua câu chuyện này, nhà văn An-đéc-xen
muốn khuyên em điều gì ? Sau khi HS nêu ý kiến, GV chốt lại ý nghĩa của
câu chuyện (SGV).
4. Củng cố, dặn dò (2 phút)
* Lưu ý : GV có thể kết hợp ở Bài tập 4 (nêu ý nghĩa của câu chuyện); cho HS bình chọn
các bạn kể chuyện hay để cho điểm tốt , nhận xét tiết học và dặn dò HS chuẩn bị bài sau.
Câu 135
Học sinh ở các vùng khó khăn t có điều kiện tự đọc và tìm truyện đúng chủ điểm theo yêu
cầu của bài Kể chuyện đã nghe đã đọc. Giáo viên làm thế nào để giảng dạy có hiệu quả
kiểu bài này trong SGK Tiếng Việt lớp 4, lớp 5 ? Kiểu bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc
(theo chủ điểm học tập trong SGK Tiếng Việt các lớp 4, 5 có yêu cầu cơ bản là : HS tự
sưu tầm trong sách báo hoặc trong đời sống hằng ngày (nghe người thân hoặc ai đó kể)
một câu chuyện có nội dung hướng vào đề bài cho trước ; đọc (nghe) kĩ câu chuyện để
nhớ và kể lại trước lớp cho thầy (cô) và các bạn nghe. Vì vậy, ngoài mục đích rèn kĩ năng
nói, kiểu bài tập này còn có tác dụng kích thích HS ham đọc sách, rèn kĩ năng đọc và kĩ
năng nghe – nhớ cho các em. Ở các vùng khó khăn hoặc đối với lớp có nhiều HS học
yếu, để giảng dạy có hiệu quả kiểu bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc, GV cần lưu ý một số
điểm sau :
1. Giúp các em chuẩn bị (trước một tuần) câu chuyện sẽ kể theo một trong những cách
sau:
- Chỉ dẫn, gợi ý cụ thể để HS tìm đọc và lựa chọn truyện có trong sách báo tại tủ sách thư
viện nhà trường (VD:Truyện đọc lớp 4, Truyện đọc lớp 5, Những câu chuyện bổ ích và lí
thú (hai tập)... NXB Giáo dục). Trường hợp HS có sách nhưng không biết tự chọn truyện

175
phù hợp với chủ điểm, GV có thể chỉ rõ tên truyện để các em tìm đọc. Đọc cho HS nghe
một số truyện do GV sưu tầm (tư liệu dạy học theo yêucầu của bài Kể chuyện hoặc cung
cấp văn bản truyện cho HS mượn đọc và lựa chọn.
(Trang 220)
Tạo điều kiện cho HS đọc lại truyện đã học trong SGK Tiếng Việt ở lớp dưới phù hợp
với đề bài kể chuyện (đối với HS còn hạn chế về năng lực kể chuyện).
2. Trong quá trình dạy học bài Kể chuyện đã nghe, đã đọc, nếu HS nhớ nội dung nhưng
không biết cách kể chuyện, GV có thể hướng dẫn các em nhớ và kể lại câu chuyện qua hệ
thống câu hỏi gợi mở.
VD: - Em sẽ kể chuyện gì cho thầy (cô) và các bạn nghe ?
- Câu chuyện nói về điều gì ?
- Em đọc câu chuyện này ở đâu, khi nào ? (hoặc : Em nghe ai kể câu chuyện này, nghe ở
đâu, khi nào ?...)
Vì sao em muốn kể câu chuyện đó ?
- Câu chuyện bắt đầu như thế nào, diễn biến và kết thúc ra sao ?
Em thích nhân vật nào và không thích nhân vật nào trong câu chuyện đó ? Vì sao ?
- Sau khi đọc (nghe) câu chuyện, em có suy nghĩ gì ? (hoặc : Em rút ra bài học gì ? /Câu
chuyện có ý nghĩa gì ?)
Trên cơ sở những câu trả lời, HS tập kể từng phần, sau đó kể toàn bộ câu chuyện và trao
đổi về bài học (ý nghĩa) của câu chuyện. Với học sinh khá, có thể hướng dẫn các em sử
dụng giọng kể, vẻ mặt, điệu bộ phù hợp. Đối với HS yếu, kém, có thể giảm bớt yêu cầu,
chỉ cần nhớ và kể tóm tắt được nội dung chính của câu chuyện.
3. GV đánh giá kết quả HS kể chuyện dựa trên những tiêu chí cụ thể và sử dụng các câu
hỏi gợi ý.
VD:
- Câu chuyện bạn kể có nội dung phù hợp với yêu cầu của đề hay không ?
- Em thích nhất chi tiết nào hoặc nhân vật nào trong câu chuyện đó ? Vì sao?
- Cách kể chuyện của bạn có hay không ? Vì sao ?
- Trong các câu chuyện đã nghe, em thích câu chuyện nào nhất ? Vì sao?
- Qua câu chuyện bạn kể, em có suy nghĩ gì ? (hoặc : Câu chuyện có ý nghĩa gì ? Câu
chuyện cho ta lời khuyên gì ?...)

176
(Trang 221)
Câu 136
? Không ít học sinh ở các lớp 4, 5 còn lúng túng khi thực hiện bài Kể chuyện được chứng
kiến hoặc tham gia. Giáo viên cần lưu ý những điểm gì khi dạy học kiểu bài này
?Quy trình dạy bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia ở các lớp 4, 5 nói chung
được hướng dẫn như sau :
(1) Kiểm tra bài cũ
(2) Dạy bài mới
* GV giới thiệu yêu cầu kể chuyện của tiết học.
(a) HS tìm những ví dụ phù hợp với yêu cầu của đề bài (theo gợi ý trong SGK)
(b) HS tập kể chuyện
- Một HS kể trước lớp (GV hướng dẫn HS rút kinh nghiệm và học cách kể).
- Kể trong nhóm.
- Thi kể trước lớp.
(c) HS trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa câu chuyện. Nói về nhân vật chính, về ý
nghĩa câu chuyện.
(d) Củng cố, dặn dò
Tuy nhiên, khi dạy học kiểu bài này, để tạo điều kiện cho HS học tập đượcthuận lợi, GV
cần vận dụng quy trình một cách linh hoạt và lưu ý một số điểm sau :
- Gợi ý cụ thể để HS chuẩn bị trước một tuần) và nhớ lại những câu chuyện đã được
chứng kiến, tham gia ở địa phương hoặc gắn với vốn sống của các em (về nhân vật, sự
việc, tình tiết, diễn biến,...); hướng dẫn HS vận dụng các kĩ
năng đã được luyện tập trong giờ Tập làm văn để sắp xếp các ý, nhớ lại các chi tiết và kể
lại một cách đầy đủ những diễn biến chính của câu chuyện.
- Trong quá trình HS kể lại từng phần của câu chuyện, GV cần trợ giúp để HS có thể diễn
đạt (dùng từ, đặt câu) rõ các ý theo một trình tự nhất định. Đối với HS học yếu, vốn tiếng
Việt còn hạn chế, GV chủ động giúp HS lựa chọn nội dung, hình thành dàn ý sơ lược để
tập kể từng đoạn theo yêu cầu từ đơn
(Trang 222)

177
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó (tương tự dạy Tập làm văn nói); chấp nhận cách dùng
từ ngữ của HS còn chưa hay nhưng diễn đạt gần đúng ý muốn nói.
- GV hướng dẫn HS kể chuyện bằng các câu hỏi gợi ý. VD:
+ Em kể chuyện mình tham gia hay chứng kiến ?
+ Câu chuyện đó nói về điều gì ?
+ Chuyện xảy ra khi nào, ở đâu ?
+ Câu chuyện có sự việc gì xảy ra ?
+ Sự việc diễn biến thế nào và kết thúc ra sao ?
+ Em có suy nghĩ gì về câu chuyện đó ?
Việc đánh giá kết quả kể chuyện của HS được thực hiện tương tự như ở kiểu bài Kể
chuyện đã nghe, đã đọc nói trên (Giải đáp câu hỏi 135).
Câu 137
7) Khi dạy kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia ở các lớp 4, 5, nếu có để
bài chưa phù hợp với đối tượng học sinh (nhất là học sinh dân tộc, học sinh vùng khó
khăn,...), giáo viên giải quyết thế nào ?
|: Khi dạy kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia ở các lớp 4, 5, nếu đề bài
trong SGK có yêu cầu mà thực tế địa phương chưa đáp ứng được, khó thực hiện, xét thấy
cần thiết, GV trao đổi trong nhóm chuyên môn để điều chỉnh nội dung, giúp HS có thể
thực hiện được yêu cầu luyện tập về các kĩ năng nghe - nói. VD:
- Lớp 4 : Đề bài Kể chuyện tuần 31 (Kể chuyện về một cuộc du lịch hoặc cắm trại mà em
được tham gia) có thể điều chỉnh là : Kể chuyện về một lần đi thăm họ hàng hoặc đi chơi
cùng người thân trong gia đình. (Tham khảo giáo án ở phần giải đáp câu hỏi 103). Tuy
nhiên, cách tốt nhất là GV tổ chức cho HS một cuộc "du lịch" (dạo chơi) hoặc cắm trại ở
địa phương để các em được "chứng kiến hoặc tham gia" và kể lại.
– Lớp 5 : Tiết Kể chuyện Tuần 6 có 2 đề bài để HS chọn kể : (1) Kể lại một câu chuyện
em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện tình hữu nghị giữa nhân dân ta với
nhân dân các nước ;
(2) Nói về một nước mà em được biết qua truyền hình, phim ảnh,... Đối với HS ở các
vùng dân tộc thiểu số còn
(Trang 223)
nhiều khó khăn, GV có thể điều chỉnh để bài thứ nhất theo một trong hai cách dưới đây
để HS "được học và học được":

178
+ Sửa lại nội dung kể : Kể về câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể
hiện tình đoàn kết thân ái giữa các dân tộc anh em.
+ Sửa lại kiểu bài : Kể lại một câu chuyện em đã nghe, đã đọc nói về tình hữu nghị giữa
nhân dân ta với nhân dân các nước. (HS có thể chọn kể câu chuyện đã học ở lớp 3: Gặp
gỡ ở Lúc-xăm-bua, hoặc câu chuyện được nghe người khác kể phù hợp nội dung trên.)
Một số đề bài khác, GV cần dựa vào SGK để gợi ý, nêu ví dụ cụ thể và gần gũi với HS
địa phương, giúp các em lựa chọn và kể lại được dễ dàng
VD: Kể một câu chuyện liên quan đến đồ chơi của em hoặc của các bạn xung quanh
(Tiếng Việt 4, tập một, tr. 158). GV gợi ý HS kể theo nhiều hướng biên quan" khác nhau,
như tặng đồ chơi cho em, cho bạn nghèo, cho HS vùng khó khăn, đồ chơi bị hỏng nhưng
đã tự sửa được, đã nhờ anh chị sửa giúp, đã bị mất nhưng vẫn tiếc vì có nhiều kỉ niệm với
nó,...
– (Chọn một trong các đề bài):
1. Kể một việc làm của những công dân nhỏ thể hiện ý thức bảo vệ các công trình công
cộng, các di tích lịch sử - văn hoá
2. Kể một việc làm thể hiện ý thức chấp hành Luật Giao thông đường bộ.
3. Kể một việc làm thể hiện lòng biết ơn các thương binh, liệt sĩ (Tiếng Việt 5, tập hai, tr.
29). GV gợi ý, nêu ví cụ thể về công trình công cộng, di tích văn hoá ở địa phương ; nêu
việc làm thể hiện lòng biết ơn các thương binh, liệt sĩ mà HS đã tham gia hoặc chứng
kiến,...lịch sử
Câu 138
Ở các lớp 4, 5, khi dạy kiểu bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, nếu có học
sinh không chọn được câu chuyện để kể lại hoặc kể được câu chuyện đúng chủ điểm
nhưng lại là câu chuyện không được chứng kiến hoặc tham gia thi giáo viên ứng xử thế
nào ?
Đối với mỗi tình huống nêu trên, GV cần tìm hiểu để nắm được nguyên nhân cụ thể, từ
đó có cách ứng xử phù hợp. Tình huống HS không chọn được câu chuyện để kể lại : Có
thể do nguyên nhân chủ quan (chưa chuẩn bị bài, hoặc không 1 yêu cầu của đề bài nên
không biết chọn câu chuyện, không được chứng kiến hoặc tham gia câu chuyện
(Trang 224)
theo đề bài yêu cầu,...), nguyên nhân khách quan (nội dung đề bài có điểm chưa phù hợp
với HS địa phương). Dù nguyên nhân nào, GV cũng phải tìm cách khắc phục, giúp HS
được rèn các kĩ năng nghe - nói trong giờ Kể chuyện. VD: GV hướng dẫn, gợi ý, giúp HS
hiểu đề bài, tự chọn được câu chuyện đúng yêu cầu để kể lại; hoặc điều chỉnh lại đề bài
một cách hợp lí để HS cả lớp có điều kiện thực hiện bài Kể chuyện được thuận lợi.

179
- Tình huống HS kể được câu chuyện đúng chủ điểm nhưng lại là câu chuyện không được
chứng kiến hoặc tham gia: Có thể do HS chưa nắm vững yêu cầu của đề bài, không phân
biệt được câu chuyện đã nghe, đã đọc (do người khác chứng kiến hoặc tham gia rồi kể
lại) và câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia (do bản thân đã chứng kiến hoặc tham
gia - có quan sát, suy nghĩ, cảm nhận - từ đó kể lại câu chuyện đã diễn ra trong thực tế).
Sau khi HS kể chuyện, nếu phát hiện câu chuyện lẫn lộn về kiểu bài (đã nghe, đã đọc),
GV cần nhận xét đúng ưu điểm của HS (VD: câu chuyện đúng chủ điểm, kể chuyện hấp
dẫn,...) đồng thời chỉ rõ khyết điểm (không đúng yêu cầu về kiểu bài Kể chuyện), sau đó
gợi ý, phân tích để HS nhận biết và rút kinh nghiệm cho lần sau, không nên cho điểm
kém. Tình huống nói trên cũng giúp GV rút ra được bài học: cần hướng dẫn chu đáo để
HS chuẩn bị bài đúng yêu cầu trước khi kể chuyện trên lớp.
IV - DẠY CHÍNH TẢ
Câu 139
? Một số bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2, Tiếng Việt 3 đã được điều chỉnh
thành bài đọc thêm nhưng vẫn dạy học sinh viết chính tả. Giáo viên dạy các bài
Chính tả đó như thế nào?
: Từ năm học 2006 - 2007, thực hiện Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày
05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Chương trình Giáo
dục phổ thông cấp Tiểu học, kế hoạch giáo dục tiểu học (KHGD) đã được điều chỉnh lại,
trong đó số tiết học môn Tiếng Việt ở các lớp 1, 2, 3 có giảm đi 1 tiết (lớp 1: 10 tiết/tuần,
lớp 2: 9 tiết/tuần, lớp 3: 8 tiết/tuần) so với KHGD trước đây. Để hướng dẫn thực hiện
chương trinhg các môn học lớp 1, 2, 3, Bộ GD&ĐT đã có công văn số 9832/BGDĐT-
GDTH ngày 01/9/2006 nêu rõ một số văn bản Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 2,

(Trang 225)
Tiếng Việt 3 chuyển sang đọc thêm ở 4 tuần ôn tập (GKI, CKI, GKII, CKII). Đây là các
văn bản Tập đọc ngắn (dạy 1 tiết), ít liên quan hoặc ảnh hưởng đến nội dung bài Tập làm
văn cùng tuần trong SGK, được lựa chọn để chuyển thành các bài đọc thêm trong tuần ôn
tập.
Khi dạy bài Chính tả (tập chép, nghe - viết) có nội dung là đoạn văn (thơ) mà HS chưa
đọc Tập đọc, GV cần hướng dẫn HS tập chép, nghe - viết như đối với bài Chính tả có văn
bản mới (văn bản HS chưa học Tập đọc, chỉ xuất hiện ở bài Chính tả trong SGK, VD:
Ông và cháu, Tiếng Việt 2, tập một, tr. 84,... Chị em, Tiếng Việt 3, tập một, tr. 27,...). Cụ
thể:
- GV yêu cầu HS đọc kĩ (đọc thành tiếng, đọc thầm; đọc cá nhân, đọc đồng thanh) đoạn
văn (thơ) trong SGK sẽ viết chính tả.

180
- Sau khi HS đọc đoạn văn (thơ) trong SGK, GV hướng dẫn các em trả lời 2 - 3 câu hỏi
về nội dung chính, cách trình bày, về hiện tượng chính tả cần lưu ý (chữ viết hoa, chữ ghi
tiếng mang vần khó hoặc dễ lẫn, dấu câu,...). Lưu ý: Đối với lớp có nhiều HS yếu, GV có
thể không yêu cầu HS trả lời câu hỏi về nội dung bài.
- Đọc cho HS viết bảng con, bảng lớp một số chữ ghi tiếng - từ mang vần khó hoặc dễ
lẫn.
- Hướng dẫn HS viết chính tả (tập chép, nghe - viết), chấm - chữa bài chính tả và hướng
dẫn HS làm bài tập chính tả tương tự như các tiết Chính tả khác.
Câu 140
? SGK Tiếng Việt 2, Tiếng Việt 3 có số bài chính tả khá dài. Nếu học sinh viết chậm,
không đủ thời gian thực hiện yêu cầu luyện tập về chính tả, giáo viên giảm độ dài
bài viết hoặc bớt bài tập có được không?
: Thực hiện yêu cầu chỉ đạo của Bộ nêu tại công văn 896/BGDĐT-GDTH ngày
13/2/2006 (V/v Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học) và công văn
9832/BGDĐT-GDTH ngày 01/9/2006 (V/v Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn
học lớp 1, 2, 3, 4, 5), đối với một số bài Chính tả khá dài ở các lớp 2, 3 xét thấy khó thực
hiện đầy đủ trong một tiết học, GV hoàn toàn được phép điều chỉnh nội dung bài học
hoặc kéo dài thêm thời gian dạy học theo tinh thần tự chịu trách nhiệm trong việc giảng
dạy ở mỗi tiết học. Đáng lưu ý là: phương án do GV chọn phải là phương án hợp lí, sát
thực tế và đạt hiểu quả tốt đối với HS lớp dạy.

(Trang 226)
VD: Bài Chính tả lớp 3, Tuần 20 (SGK Tiếng Việt 3, tập hai, tr. 19 - 20) có nội dung như
sau:
1. Nghe - viết: Trên đường mòn Hồ Chí Minh (từ đầu đến Những khuôn mặt đỏ bừng. -
bài viết gồm 84 chữ kể cả đầu bài).
(2). Điền vào chỗ trống:
a) s hay x?
- sáng ...uốt - xao ...uyến
- sóng ...ánh - xanh ...ao
b) uôt hay uôc?
- gầy g..̩. - chải ch..́.

181
- nhem nh..́. - n..̩. nà
3. Đặt câu với mỗi từ đã được hoàn chỉnh ở bài tập (2).
GV có thể lựa chọn một trong các phương án dạy học được điểu chỉnh dưới đây:
- Kéo dài thêm thời gian (không quá 10 phút) để HS có thể hoàn thành được đầy đủ yêu
cầu của bài học, nếu HS có điểu kiện tiếp thu được.
- Chọn cho HS làm tại lớp một phần bài tập (2).a (phương ngữ Bắc Bộ) hoặc bài tập (2).b
(phương ngữ Nam Bộ và Nam Trung Bộ): Điền s hay x (uôt hay uôc) vào chỗ trống ở 2
hay 3 từ; làm miệng tại lớp bài tập 3 (mỗi HS chọn 1 hoặc 2 từ đã hoàn chỉnh để đặt câu).
* Hoặc: Chọn cho HS làm tại lớp bài tập (2).a hoặc bài tập (2).b; có thể bớt bài tập 3 (đặt
câu), nếu lớp có nhiều HS học yếu.
- Ở các vùng khó khăn, để đảm bảo yêu cầu cơ bản của bài Chính tả, GV tập trung hướng
dẫn HS viết đúng (từ khó viết hoặc dễ viết lẫn), sau đó cho các em nghe - viết (tập chép)
toàn bài nhằm rèn kĩ năng viết chính tả thật tột; nếu còn thời gian, GV chọn phần a hoặc
b trong bài tập (2) để HS thực hiện dưới hình thức trò chơi học tập (thi điền nhanh s/x
hoặc uôt/uôc vào chỗ trống).
Việc điều chỉnh nội dung dạy học bằng cách giảm độ dài bài viết chỉ là phương án "bất
đắc dĩ", vì việc cắt bỏ dù chỉ 1 - 2 câu cũng dễ ảnh hưởng đến tính hoàn chỉnh tương đối
của nội dung bài chính tả, làm cho đoạn văn "cụt ý", HS khó hiểu và khó viết đúng.

(Trang 227)
Câu 141
? Bài Chính tả ở SGK Tiếng Việt 2, tập hai thường có nhiều bài tập, trong đso có
bài tập yêu cầu HS dựa vào tranh vẽ để viết tên các vật nhưng các em khó nhận ra
sự vật trong tranh (VD: Bài tập (2), Tuần 19 - Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 11). GV nên
dạy những bài đó như thế nào?
: Ngoài yêu cầu chủ yếu là Tập chép (nhìn - viết) hoặc Nghe - viết, bài Chính tả trong
SGK Tiếng Việt 2, tập hai thường có 2 bài tập lựa chọn về chính tả âm - vần (Số thứ tự
của bài tập được ghi trong ngoặc đơn), mỗi bài tâp lại gồm 2 nội dung luyện tập (a,b)
dành cho các địa phương phía Bắc và phía Nam nói chung (SGK không có điều kiện soạn
các bài tập dành riêng cho từng vùng phương ngữ cụ thể). Các bài tập nói trên còn được
gọi là dạng bài tập "mở", cho phép GV vận dụng một cách linh hoạt: chọn dạy một trong
hai nội dung (a hoặc b) ở mỗi bài tập có tác dụng khắc phục lỗi chính tả thường mắc đối
với HS trong lớp, hoặc thống nhất trong tổ chuyên môn để dạy bài tập chính tả khác do
GV tự soạn nhằm sửa lỗi chính tả của HS ở một vùng phương ngữ nhất định (đặc biệt đối
với Hs dân tộc thiểu số). Như vậy, nếu chọn theo phương án nêu trong SGK, GV chỉ cần

182
hướng dẫn HS luyện tập 2 nội dung phù hợp ở cả 2 bài tập lực chọn; riêng đối với lớp có
nhiều HS học yếu, viết chính tả chậm, theo tinh thần chỉ đạo của Bộ (công văn
896/BGDĐT-GDTH ngày 13/2/2006), GV còn được phép giảm bớt nội dung luyện tập để
đảm bảo thời lượng học tập vừa phải, tránh nặng nề.
VD: SGK Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 53
*Phương án 1
Bài tập (2). Điền vào chỗ trống:
A) s hay x?
- ...ay sưa, ...ay lúa - ...ông lên, dòng ...ông
b) ut hay uc?
- ch..́. mừng, chăm ch..́. - l.̩.. lội, l.̩.. lọi
(Hs luyện tập theo nội dung a hoặc b; với mỗi nội dung, HS điền 2 trong số 4 chỗ trống ở
4 từ ngữ đã cho.)
Bài tập (3). a) Tên nhiều con vật thường bắt đầu bằng s: soi, sẻ, sứa,...
Em hãy tìm thêm các tên khác.

(Trang 228)
b) Tìm tiếng có vần uc hoặc vần ut, có nghĩa như sau:
- Co lại
- Dùng xẻng lấy đất, đá, cát,...
- Chọi bằng sừng hoặc đầu.
(HS luyện tập theo nội dung a hoặc b; riêng nội dung b, HS tìm 2 trong số 3 tiếng có
nghĩa đã cho.)
*Phương án 2
HS chỉ thực hiện 1 trong 2 bài tập nêu trên: nội dung a hoặc b trong bài tập (2), hoặc nội
dung a hoặc b trong bài tập (3).
Đối với bài tập yêu cầu HS dựa vào tranh vẽ để viết tên các vật nhưng HS khó nhận ra sự
vật trong tranh (VD: Bài tập (2), Tuần 19 - Tiếng Việt 2, tập hai, tr. 11), GV chọn một
nội dung luyện tập (a hoặc b) và hướng dẫn HS theo một trong những cách sau:

183
- Gợi ý thêm bằng lời mô tả để HS dễ nhận ra sự vật, VD:
+ (Miền Bắc)/ Tranh 2 (quả na): quả có nhiều mắt, thịt quả trắng, mềm, ngọt, hạt màu
đen, tranh 3 (cuộn len): cuộn sợi thường dùng để đan, dệt áo mặc cho ấm vào mùa đông.
+ (Miền Nam)/Tranh 6 (khúc gỗ): khúc cây thường dùng để dựng nhà hoặc xẻ ra để làm
bàn ghế hay đồ vật khác,...; tranh 8 (con muỗi): con vật nhỏ có cánh mỏng, có vòi,
thường châm vào da thịt của người để hút máu,...
- Sự vật nào Hs đã biết thì tự nêu tên gọi và viết ra; sự vật nào xa lạ với HS địa phương,
GV nêu tên gọi và yêu cầu HS phát âm lại cho chính xác, sau đó tự viết tên sự vật đó
đúng thứ tự ghi dưới tranh vẽ.
- Chuyển thành bài tập điền vào chỗ trống, VD:
A) l hay n?
chiếc ...á, quả ...a, cuộn ...en, cái ...ón
b) Dấu hỏi hay dấu ngã?
cái tu, khúc gô, cửa sô, con muôi.

(Trang 229)
Câu 142
? Nếu HS không có VBT in sẵn thì GV hướng dẫn các em làm BT chính tả theo cách
nào để thực hiện tốt yêu cầu đề ra?
VBT in sẵn có ưu điểm nổi bật là tạo ĐK cho HS điền nhanh kết quả vào chỗ trống khi
các em làm BT về chính tả. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng: HS khó viết chữ rõ
ràng, sạch đẹp trên VBT in sẵn không có dòng kẻ li (thậm chí chữ viết còn nhòe xấu do
giấy in kém chất lượng). Chính vì vậy, khi yêu cầu HS luyện tập trên lớp, nếu khoogn có
VBT in sẵn, GV vẫn có thể hướng dẫn các em thực hiện tốt yêu cầu theo những cách sau:
- Sử dụng bảng con hoặc vở nháp để ghi kết quả (chữ ghi phụ âm đầu, vần, tiếng
cần điền vào chỗ trống hoặc chữ ghi tiếng, từ có chứa các âm, vần, dấu thanh mà
HS dễ viết sai,…). VD:
(1) Điền chữ:
a) tr hay ch?
Thi …ạy …anh bóng

(TV1, tập 2, tr.69)

184
 GV hướng dẫn HS ghi kết quả theo đúng thứ tự (sau đó dùng từ ngữ hoàn
chỉnh): chạy – tranh.
(2) Điền vào chỗ trống:
a) R, d hay gi?
...a dẻ, cụ …à, …a vào, cặp …a

(TV2, tập 1, tr.33)
 GV hướng dẫn HS ghi kết quả theo đúng thứ tự (sau đó đọc từng từ ngữ hoàn
chỉnh)
1. da 3. già
2. ra 4. da

185
(Trang 230)
(3) Tìm tiếng có vần oam thích hợp với chỗ trống
a) Sóng vỗ … oạp
b) Mèo …. miếng thịt
c) Đừng nhai nhồm …
(TV3, tập 1, tr.45)
 GV hướng dẫn HS ghi kết quả (sau đó đọc từng câu hoàn chỉnh):
a) oàm (hoặc oàm oạp)
b) ngoạm
c) nhoàm (hoặc nhồm nhoàm)
(4) Tìm các từ:
a) Có tiếng mở đầu bằng r, d hoặc gi, có nghĩa như sau:
- Có giá thấp hơn mức bình thường
- Người nổi tiếng
- Đồ dùng để nằm ngủ, thường làm bằng gỗ, tre, có khung, trên mặt trải
chiếu hoặc đệm.
- …
(TV4, tập 1, tr.78)
 GV hướng dẫn GV ghi kết quả theo thứ tự (sau đó nhắc lại nghĩa của từ):
- Rẻ
- Danh nhân
- Giường
(5) Tìm tiếng có chứa ia hoặc iê thích hijow với mỗi chỗ trống trong cá thành ngữ
dưới đây:
a) Đông như…
b) Gan như cóc…
c) Ngọt như … lùi

186
(Trang 231)
 GV hướng dẫn HS ghi kết quả ( sau đó đọc từng thành ngữ hoàn chỉnh):
a) Kiến
b) Tía
c) Mía
- Sử dụng bảng lớp, bảng nhóm, đồ dùng dạy học đơn giản để tổ chức HS làm BT
theo cặp, theo nhóm hoặc tham gia trò chơi học tập đối với một số bài tập chính tả
thích hợp. VD:
+ Tìm trong bài thơ Mẹ:
a) Những tiếng bắt đầu bằng r, bằng gi.
b) Những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã
(TV2, tập 1, tr.102)
+ Tìm những tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau:
a) – trung, chung
- Trai, chai
- Trống, chống

(TV3, tập 1, tr.61)
Điều cần lưu ý là: cách hướng dẫn HS làm BT về chính tả phải đảm bảo yêu cầu
phát huy tích cực, kiểm tra, đánh giá được kết quả đối với từng cá nhân, góp phần
khắc phục những lỗi chính tả thường mắc của HS trong lớp

Câu 143
? Đề nghị giới thiệu một trò chơi về chính tả nhằm phục vụ cho yêu cầu luyện tập
chính tả âm – vần theo SGK TV ở TH.
SGK TV ở TH có nhiều kiểu BT chính tả âm – vần. để giúp HS thực hành luyện tập vừa
nhẹ nhàng, hứng thú vừa đạt hiệu quả tốt, GV có thể tổ chức cho HS tham gia các trò
chơi học tập mang ND cần luyện tập chính tả (Tham khảo sách đã dẫn ở Câu 104: Vui
học TV (hai tập), Trò chơi học tập TV2, trò chơi học tập TV3)

187
(Trang 232)
Dưới đây, xin giới thiệu một trò chơi học tập về chính tả để GV tham khảo, vận dụng (có
thể thay đổi “vật liệu” để luyện tập về những ND khác)
PHÂN BIỆT CẶP ÂM ĐẦU DỄ LẪN
I – CHUẨN BỊ
Cắt 25 mảnh bìa bằng nhau làm quân bài (kích thước khoảng 2cm x 4cm, hoặc lớn
hơn tùy ý); mỗi mảnh bìa ghi 1 cặp chữ ghi tiếng cần phân biệt về chính tả.
VD:
 Phân biệt cặp âm đầu l – n:
Có thể ghi 25 quân bài có nội dung như sau:
la – na lá – ná lạc – nạc lan – nan lên - nên
lỗ - nỗ lỗi – nỗi lở - nở làng – nàng lặng – nặng
lẻ - nẻ lẻo – nẻo lịch – nịch líu – níu lổ - nổ
lục – nục lung – nung lút – nút lương – nương lòng - nòng
lồng – nồng lửa – nửa lát – nát lon – non lo – no
Minh họa quân bài:

la - na lá - ná lạc – nạc lan - nan


II - CÁCH TIẾN HÀNH
- Chơi từ 2 – 5 HS; có thể trao đổi, đánh giá kết quả trong nhóm để từng HS tự ghi
điểm, hoặc thêm 1 HS làm trọng tài và ghi điểm cho từng bạn.
- Tráo lẫn lộn 25 quân bài, xếp thành tập và úp mặt có chữ xuống mặt bàn; đặt tập
bài giữa nhóm chơi.
- Lần lượt từng HS sẽ được lật quân bài đầu tiên ở mỗi lượt chơi (có thể “oản tù tỉ”
để chọn HS lật quần bài ở lần chơi đầu tiên). Sau khi lật 1 quân bài (từ trên xuống
dưới), HS phải đọc lên 1 cặp từ ngữ nhằm xác định rõ nghĩa của 2 tiếng ghi trên
quân bài đó (phân biệt đúng về chính tả cặp chữ ghi trên phiếu).

188
(Trang 233)
VD:
HS1 lật quân bài thứ nhất ghi 2 tiếng la – na có thể đọc: la cà (hoặc: la hét, la đà, lê la,
con la, cành bổng cành la….) – nết na (hoặc: na ná, nôm na, quả na, nu na nun nống…);
nếu đúng từ ngữ thì được 10 điểm, đúng 1 từ ngữ chỉ được 5 điểm và tiếp tục đến lượt
HS2 (bên cạnh phía tay phải HS1) lại lật tieeso quân bài thứ 2. Nếu HS1 đọc sai cả 2 từ
ngữ hoặc sau khi các bạn khác đếm từ 1 đến 5 vẫn chưa đọc được từ ngữ nào đúng thì sẽ
không được tính điểm và quân bài thứ nhất được chuyển sang cho HS2 đọc từ ngữ tìm
được. lúc này có 2 khả năng xảy ra:
(1) HS2 đọc đúng cả cặp từ ngữ ở quân bài thứ nhất thì được 10 điểm (hoặc đúng 1 từ
ngữ - 5 điểm) và được quyền lật tiếp quân bài thứ 2 của mình để đọc tiếp, nếu lại đọc
đúng cả cặp từ ngữ ở quân bài thứ 2 thì được thêm 10 điểm (hoặc đúng 1 từ ngữ - 5
điểm), sau đó mới chuyển sang bạn bên cạnh (HS3) lật quân bài thứ 3.
(2) HS2 đọc sai (hoặc đếm từ 1 đến 5 vẫn chưa đọc được) thì vừa không được điểm ở
quân bài thứ nhất vừa mất quyền lật quân bài thứ 2. Quân bài thứ nhất (có 2 người chưa
tìm được từ ngữ đúng) được chuyển tiếp sang HS3 thực hiện theo quy định trên (giống
như HS2),...
- Lần lượt chơi quay vòng cho đến hết các quân bài (hoặc chỉ chơi 10 – 15 – 20
quân bài, tùy thời gian cho phép). Kết thúc mỗi lượt chơi, tính tổng số điểm của từng HS
và đánh giá kết quả: Nhất, Nhì, Ba,…
III – THAM KHẢO
1. Theo cách chơi tượng tự nói trên, HS có thể làm các bộ quân bài phân biệt chính tả
về các cặp âm đầu dễ lẫn dưới đây:
 Phân biệt s – x
sa – xa, sách – xách, sao – xao, sáo – xáo, sát – xát, say – xay, sắc – xắc, sâu
– xâu, sinh – xinh, sổ - xổ, sôi – xôi, sông – xông, sơ – xơ, súc – xúc, sướng
– xướng, sung – xung, sử - xử, sen – xen, sét – xét, suất – xuất, sương –
xương, sấu – xấu, sắn – xắn, sứ - xứ, súng – xúng.
 Phân biệt tr – ch
trả - chả, trải – chải, trái – chái, trạm – chạm, trán – chán, trang – chang,
tranh – chanh, tránh – chánh, trao – chao, trăm – chăm, trật – chật,
TRANG 234
trâu - châu, tre - che, trẻ – chẻ, trèo - chèo, trí - chí, trình - chình, tro - cho, trò - chò,
trọn - chọn , trông - chông, trợ - chợ, trung - chung, trương - chương, trường -
chường.
*Phân biệt d – gi
da - gia, dã - giã, dải - giải, dãi - giãi, dám - giám, dàn - giàn, dang - giang, danh -
gianh, dành - giành, dày - giày, dắt – giắt, dần – giần, dấu – giấu, dây - giây, dẻ – giẻ,

189
dì - gì, dò - giò, dong – giong, dỗ – giỗ, dội - giội, dở - giở, dục - giục, dữ - giữ, dương
- giương, dường - giường.
2. HS có thể dựa vào Từ điển chính tả để tìm các từ ngữ phục vụ cho trò chơi nói trên .
Dưới đây , xin cung cấp một số ví dụ cho nội dung phân biệt chính tả cặp âm đầu d - gi
theo 25 cặp chữ ghi tiếng nêu ở mục 1 trên .
(1). da (da thịt, da trời, da cam, da dẻ, da diết, - gia (gia đình, quốc gia, gia giáo, gia
quyến, gia sản, gia súc, gia truyền, gia hạn, gia giảm, chuyên gia,…)
(2). dã (trắng dã, thôn dã, dân dã, dã man, dã tâm, dã thú, con dã tràng, ... ) - giã (giã gạo,
giã ơn, giã từ, giã biệt, giục giã, ...)
(3). dải (dải áo, dải lụa, dải đất ven sông, dải mây trắng, ...) - giải (giảng giải, giải nghĩa,
giải đáp, giải thích, giải trí, giải buồn, giải khuây, giải phóng, giải phẫu, giải toả, giải
thưởng, con giải, mồm loa mép giải,...)
(4). dãi (dễ dãi, nước dãi, yếm dãi, dãi nắng dầm mưa,...) - giãi (giãi bày, giải tỏ, ...)
(5). dám (dám nghĩ, dám làm, không dám, chẳng dám, ... ) - giám (giám đốc, giám sát,
giám thị, giám khảo, giám mục,...)
(6). dàn (dàn xếp, dàn hoà, dàn đều, dàn bài, dàn cảnh, dàn nhạc, ...) - giàn (giàn mướp,
giàn hoa, giàn giáo, giàn thun, giàn tên lửa, giàn giụa, ...)
(7). dang (dang tay, dang cánh bay, dở dang, dẻo dang, ...) - giang (giang sơn, giang hồ,
nông giang, đò giang, giỏi giang, ...)
(8). danh (danh hiệu, danh nghĩa, danh tiếng, danh ca, danh lam thắng cảnh, danh nhân,
danh y, danh sách , giả danh , xứng danh, ...) - gianh (nhà gianh, cỏ gianh (tranh) , mái
gianh,...)
(9). dành (dành dụm, dỗ dành, để dành, dành cho bé, cây dành dành, ...) - giành (giành
lấy, tranh giành, giành độc lập, giành giải nhất, cái giành dựng dát, ...)

TRANG 235
(10). dày (dày dặn, dày mỏng , mặt dạn mày dày, bánh dày, độ dày, ...) - giày (giày dép,
giày vò, giày xéo, với giày,…) .
(11) dắt ( dìu dắt, dắt díu, chăn dắt , dắt trâu ,...) – giắt (giắt răng, giắt tiền vào người,
giắt con dao lên mái nhà, ... )
(12). dần ( dần dà, dần dần, ngấm dần, lâu dần, ân dân , đau như dân) – giần (cái giần
gạo, giần sàng, giần giật cánh tay,...)
(13). dấu (dấu vết, dấu chân, dấu hỏi, dấu ngã, đóng dấu, dấu son lịch sử, yêu dấu, làm
dấu, …) - giấu (che giấu, giấu giếm, giấu kín, giấu đầu hở đuôi,...)
(14). dây (dây thừng, dây điện, dây chuyền, nhảy dây, dây dợ, dây dưa, …) - giây (giây
phút, giây lát, gà giây, ... )

190
(15). dẻ (da dẻ, mảnh dẻ, hạt dẻ, dung dang dung dẻ,...) - giẻ (giẻ rách, giẻ lau, chim giẻ
cùi,...)
(16). dì (chú bác cô dì, dì ghẻ, con dì con già,...) - gì (làm gì, cái gì, hỏi gì, hèn gì,... )
(17). dò (dặn dò, do la, dò xét, hỏi dò tung tích, đi là dò,... ) - giò (chân giò, treo giò, bánh
giò, giò chả, ...)
(18). dong (lá dong , thong dong, dong dỏng, dong rơm rạ, ...) - giong (giong ruổi, giong
trâu về, cờ giong trống mở, ...)
(19). dỗ (dỗ dành, dụ dỗ, cám dỗ, dỗ trẻ con, ...) – giỗ ( giỗ tết, ngày giỗ, giỗ ông nội,...)
(20). dội (vang dội, dữ dội, âm thanh dội lại, ...) – giội (giội nước, giội bom, giội lửa,...)
(21). dở (dở hay, dở dang, bỏ dở, lỡ dở, dở người, sống dở chết dở, ...) - giở (giở sách,
giở chứng, giở quẻ, giở trò, giở giọng,...)
(22). dục (giáo dục, đức dục, thể dục, trí dục, mĩ dục, dưỡng dục, hình bầu dục, ... ) -
giục (thúc giục, giục giã, xúi giục, giục đi cho nhanh, ...)
(23). dữ (dữ dội, dữ tợn, hung dữ, thú dữ, giận dữ, điều dữ, đẹp dữ lắm,...) - giữ (giữ gìn,
giữ ý, giữ của, giữ tiếng, giữ kẽ, giữ khư khư, giam giữ, cất giữ, ...)

TRANG 236
(24). dương (du dương , dương cầm, dương lịch, âm dương, diễu võ dương oai, cây
dương liễu , con sơn dương, dương dương tự đắc,...) - giương (gương cao, giương cờ,
giương mắt, giường vây, giường ô , giường buồm, ... )
(25) , dường (duờng như, dường nào, dường bao, đường ấy ,...) - giường (cái giường,
giường bệnh, giường thờ, giường mối, ...)
3. Tương tự cách chơi nói trên, GV có thể thay đổi "vật liệu" và hướng dẫn HS luyện tập
phân biệt cặp âm cuối hoặc cặp dấu thanh dễ lẫn.
Câu 144
(?) Xin cho biết quy định về tính lỗi chính tả khi chấm bài của học sinh. Khi cho
điểm toàn bài chính tả, giáo viên chỉ trừ điểm về lỗi chính tả hay trừ điểm cả lỗi
chính tả và trình bày bài (chữ viết xấu, không đúng mẫu, ...) ?
Chính tả (cách viết chữ được coi là chuẩn ) tiếng Việt có yêu cầu cơ bản là việc đúng
chữ ghi từng tiếng một. Về nguyên tắc, tất cả những chữ viết sai quy ước (chuẩn) đối với
từng tiếng (bao gồm luật chính tả, quy tắc viết hoa, quy định về hình dạng chữ cái, ...)
đều bị coi là "mắc lỗi" về chính tả. Tuy nhiên, quá trình dạy HS tiểu học viết đúng chính
tả tiếng Việt phải trải qua từng bước theo nội dung chương trình và yêu cầu về kiến thức,
kĩ năng ở từng lớp (văn bản Chương trình GDPT cấp Tiểu học - Bộ GD & ĐT, 2006).
VD:

191
Lớp 1 - Dạy viết chữ cái kiểu chữ thường, tổ hợp chữ cái , dấu thanh và quy tắc viết
chính tả các chữ c/ k , g ,gh , ng/ ngh để HS viết đúng bài chính tả khoảng 30 chữ trong
15 phút, không mắc quá 5 lỗi, theo hình thức nhìn - viết (tập chép); trình bày bài chính tả
đúng mẫu.
Lớp 2 - Dạy viết chữ hoa, quy tắc viết hoa chữ đầu câu và viết hoa tên riêng Việt Nam,
viết đúng một số chữ ghi vấn khó ( uynh , uyu , oay , oăm , ...) , một số cặp từ dễ lẫn âm
đầu (l/n, s/x, d/gi/r, ...) , vần (an/ ang , ac/ at , iu/ iêu ưu/ ươu , ..), thanh (hỏi/ ngã, ngã/
nặng , ... ) do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương để HS viết được bài chính tả
khoảng 50 chữ trong 15 phút , không mắc quá 5 lỗi, theo các hình thức nhìn – viết, nghe
– viết trình bày bài chính là sạch sẽ, đúng quy định.

TRANG 237
Lớp 4 – Dạy quy tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài; viết đúng
một số chữ (từ ngữ) để lẫn do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương để HS viết được
bài chính là khoảng 80 - 90 chữ trong 15 phút, không mắc quá 5 lỗi, theo các hình thức
nghe - viết, nhớ - viết, trình bày bài chính là sạch sẽ, đúng quy định.

Do vậy , việc tính lỗi trong bài viết chính tả của HS tiểu học vừa phải căn cứ vào nguyên
tắc nêu trên vừa phải chú ý đến nội dung, yêu cầu dạy học ở từng lớp và đảm bảo tính sư
phạm (tạo điều kiện cho HS khắc phục lỗi đã mắc để viết đúng). Cụ thể:
- Viết sai mối chữ ghi tiếng (sai – lẫn phụ âm đầu hoặc vần , thanh) hoặc không viết hoa
mỗi chữ ghi tên riêng bị tính là 1 lỗi (VD : quả na viết thành quả la , cái bàn viết thành
cái bàng , ăn cỗ viết thành ăn cổ, ... bạn Hà viết thành bạn hà ,...). Nhưng khi vận dụng,
GV cần lưu ý:
+ Những chữ viết sai giống nhau hoàn toàn chỉ tính là 1 lỗi; chữ viết sai do HS chưa được
học thì không tính lỗi (VD: HS lớp 1 chưa viết đúng chữ hoa; HS lớp 2 viết chưa đúng
tên riêng nước ngoài ; HS lớp 4 chưa viết đúng tên danh hiệu, giải thưởng , huân huy
chương , kỉ niệm chương, ...)
+ Ở một số địa phương , do ảnh hưởng thói quen phát âm lẫn lộn (phụ âm đầu , vần,
thanh) nên HS viết sai lẫn quá nhiều, trong quá trình dạy học trên lớp, GV có thể chỉ tính
lỗi theo từng loại HS thường mắc (VD: các chữ cùng sai lẫn về 1 / n , d / gi , ... hoặc an /
ang , ac /at ,... hoặc dấu hỏi/ dấu ngã,... chỉ tính 1 lỗi) đồng thời có biện pháp tập trung
sửa loại lỗi HS thường mắc để giảm lỗi trong bài viết chính tả của các em khi thực hiện
đúng nguyên tắc tiêu trên .
- Khi cho điểm toàn bài chính tả, GV trừ điểm về lỗi chính tả theo cách đã nêu. Riêng lỗi
về trình bày (chữ viết không rõ ràng , sai về độ cao, khoảng cách, kiểu chữ hoặc trình bày

192
bản , không đúng mẫu, ...) , GV cần xem xét toàn bài để trừ điểm một lần (nhiều nhất là
20 % tổng số điểm cho bài chính tả).
Mục đích chủ yếu của việc dạy Chính tả ở Tiểu học là thông qua thực hành luyện tập và
cung cấp những kiến thức cơ bản về chính tả , giúp HS trau dồi kĩ hàng và hình thành ý
thức viết đúng chính tả tiếng Việt. Vì vậy, việc tính lỗi chính tả ngoài mục đích đánh giá
kết quả bài viết còn có tác dụng giúp GV phát hiện, uốn nắn, hướng dẫn HS biết cách viết
đúng. Đó cũng là ý nghĩa tích cực của việc dạy Chính tả ở trường tiểu học hiện nay.

TRANG 238
Câu 145
(?) Giáo viên cần lưu ý những điểm gì về việc chấm, chữa bài chính tả cho học sinh
tiểu học?
Việc chấm, chữa bài chính tả cho HS, ngoài yêu cầu về chuyên môn còn đòi hỏi lương
tâm và trách nhiệm cao của mỗi GV.
Theo quy trình dạy học, sau khi hướng dẫn HS tự chữa lỗi chính tả và đánh giá kết quả,
GV tiến hành chấm nhanh tại lớp khoảng 1/4 số HS trong lớp (8 - 10 bài) để nắm được
ưu, khuyết điểm chung, từ đó biểu dương hoặc uốn nắn kịp thời, giúp HS rút kinh nghiệm
về bài viết chính tả. Những bài còn lại tốt nhất là GV thu về nhà chấm tiếp (HS tiểu học
luôn mong muốn thầy, cô giáo đánh giá, cho điểm về kết quả học tập đã đạt được) . Nếu
không có điều kiện chấm toàn bộ bài viết , GV cần có kế hoạch chấm luân phiên và cho
điểm (hoặc phát hiện lỗi cho HS tự chữa đối với bài viết chưa đạt yêu cầu) . Nhiều GV
tận tuỵ với nghề, chấm xong mỗi bài chính tả của HS còn thống kê các loại lỗi đã mắc để
có kế hoạch rèn sửa về chính tả cho các em.
GV chấm, chữa bài cho HS trong vở nhất thiết phải dùng bút mực (bi, chì) màu đỏ và lưu
ý mấy điểm sau:
- Gạch dưới những chữ viết sai chính tả (có thể ghi ra lề vở kí hiệu thống nhất với HS:
Ct ), không chữa ngay hộ HS.
- Có thể phê lời nhận xét ngắn gọn. VD: Bài viết đúng, chữ đẹp; Cần viết hoa đầu câu;
Chú ý viết đúng g/ gh. Viết lùi vào 2 ô , ... (Nếu thấy cần thiết, GV yêu cầu HS viết lại
cho đúng những chữ đã mắc lỗi để ghi nhớ – mỗi chữ 1 hoặc 2 dòng).
- Cho điểm bài viết chính tả hoặc chỉ đánh giá chung : Tốt, Khá, ... Còn yếu, cần cố gắng
hơn!... Nếu HS viết chính tả trên lớp còn mắc quá nhiều lỗi, GV không nên cho ngay
điểm kém mà tạo điều kiện để HS viết lần 2, sau đó chấm lại để lấy kết quả tốt hơn.
- Ngoài điểm về chính tả (thang điểm 10, không cho điểm 0), GV có thể tách riêng điểm
về chữ viết để động viên hoặc nhắc nhở HS Giữ vở sạch - Rèn chữ đẹp.

TRANG 239

193
Câu 146
(?) Học sinh viết sai chính tả thường do những nguyên nhân nào? Để giúp học sinh
viết đúng chính tả tiếng Việt, giáo viên cần quan tâm thực hiện những biện pháp gì
trong giảng dạy?
Ngoài một số nguyên nhân về sinh lý có ảnh hưởng đến kết quả viết chính tả (mắt kém
không nhìn rõ chữ khi tập chép, tai nghe không rõ khi viết chính tả nghe – viết, ... ), HS
viết sai chính tả còn do những nguyên nhân về kiến thức và kĩ năng , như: quên mật chữ
ghi âm, tiếng - từ không nhớ quy tắc chính tả ; không nắm được nghĩa từ ; nghe – hiểu
nội dung còn hạn chế; ... Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy , để giúp HS viết đúng
chính tả tiếng Việt , GV cần quan tâm đến một số biện pháp sau:
- Kết hợp phát âm và tri giác chữ viết (ghi nhớ mối liên hệ giữa âm thanh ngôn ngữ và kí
hiệu chữ viết) ; tạo điều kiện cho HS được quan sát chữ viết, tự phân tích tiếng (theo cấu
tạo 3 bộ phận phụ âm đầu, vần, thanh) , được luyện thao tác viết để ghi nhớ mặt chữ lâu
hơn (nhất là HS các lớp đầu cấp). Theo định hướng dạy học tích hợp, ngay cả khi hướng
dẫn HS đọc đúng trong giờ Tập đọc, GV cũng giúp các em được luyện đọc và tri giác chữ
viết để tránh viết sai .
- Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa từ mà chúng biểu hiện. Muốn vậy,
GV cần đặt từ đó trong ngữ cảnh để HS dễ hiểu (VD: Em để dành cho bé Lan chiếc kẹo.
Em không giành lấy phần hơn cho mình.) Về mặt này, ngoài các bài tập về chính tả âm –
vần, một số giờ học thuộc các phân môn Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn ... cũng
cần được GV quan tâm hướng dẫn để HS nắm được nghĩa của từ ngữ và hình thức chữ
viết từ ngữ đó nhằm góp phần trau dồi kĩ năng viết đúng chính tả.
- Kết hợp nghe - hiểu và viết đúng: Trước khi viết một từ do GV đọc, HS có thể nêu
nghĩa của nó bằng cách mô tả sơ lược hoặc đặt câu với từ đó,... Ở lớp có nhiều HS viết
chính tả còn hạn chế, để giúp các em nghe – hiểu và chủ động viết đúng (tránh mắc lỗi do
quên lẫn hoặc nghe không rõ) , đôi khi GV còn có thể nhắc nhở, gợi ý trước về chữ khó
viết theo cách “liên tưởng" hoặc “so sánh" ) ngay trong khi đọc cho HS luyện viết chính
tả. VD: trăng khuyết (khuyết trong khuyết điểm) ; đi làm nương (nương khác lương trong
từ lương thực ) ; gia đình (tránh lẫn với chữ da trong từ da thịt) ; dây chuyền

TRANG 240

(Nhớ viết chữ chuyền trong từ trong dây chuyền cho đúng tránh nhầm lẫn với truyền
trong truyền hình)…
HS viết sai chính tả (mắc lỗi) cò do cả nguyên nhân khách quan từ phía GV (chưa phát
âm rõ ràng khi đọc cho học sinh viết chính tả, chưa có biện pháp khắc phục lỗi sai thường
mắc của HS do ảnh hưởng cách phát âm địa phương…) Do đó, GV cần thực hiện tốt các
biện pháp dạy học chính tả đã hướng dẫn như: viết bài Tập chép trên bảng rõ ràng, chính
xác, đúng mẫu chữ, đủ cho HS nhìn – chép; phát âm đúng, rõ ràng, đủ cho HS nghe – viết

194
chính xác; chọn được các chữ dễ viết sai lẫn đối với HS lớp dạy để luyện viết đúng trước
khi HS viết bài chính tả; chấm, chữa bài chính tả chu đáo,có tác dụng tích cực; hướng dẫn
HS luyện tập có hiệu quả ( làm bài tập chính tả âm – vần) nhằm khắc phục lỗi chính tả
chung và lỗi chính tả thường mắc đối với HS địa phương.
V-DẠY TẬP VIẾT (LỚP 1, 2, 3)
Câu 147
? Trong dạy học Tập viết ,giáo viên hướng dẫn học sinh viết trên vở có dòng 4 li (5
dòng kẻ ngang)hay vở có dòng 5 li (6 dòng kẻ ngang)? Nếu học sinh dùng vở có dòng
5 li để luyện viết thì sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn gì?
: Tương tự SGK Tiếng Việt ,vở Tập viết 1, 2, 3 do NXB Giáo dục xuất bản được coi là
tài liệu dạy học chính thức dùng trong trường tiểu học được Bộ trưởng Bộ giáo dục và
Đào tạo phê duyệt và ban hành.Trang vở Tập viết được trình bày theo các ô vuông (1cm²)
có các dòng kẻ ngang (tương tự “vở ô li”, dùng phổ biến từ trước đến nay). Mỗi dòng viết
gồm 5 dòng kẻ ngang (còn lại là dòng kẻ, đường kẻ), chia dòng viết thành 4 li (mỗi li –
khoảng cách giữa hai dòng kẻ - 0,25cm). Do vậy, GV hướng dẫn HS viết trên vở có dòng
kẻ 4 li là đúng với quy định dạy học Tập viết ở trường tiếu học hiện nay.
Mẫu chữ viết trong trường tiểu học có độ cao tính theo đơn vị (bằng chiều cao chữ cái ghi
nguyên âm), tương ứng với li tổng vở Tập viết như sau: chữ viết theo cỡ nhỏ thì chiều
cao chữ cái ghi nguyên âm là 1 li (1 đơn vị), chữ viết theo cỡ vừa thì chiều cao chữ cái
nguyên âm là 2 li (1 đơn vị) – từ đó có thể hiểu mẫu chữ cái trong bảng mẫu chữ do Bộ
giáo dục và Đào tạo ban

TRANG 241
hành được trình bày theo cỡ vừa (chiều cao chữ cái ghi nguyên am là 2 li -1 đơn vị, chữ
cái viết thường có chiều cao lớn nhất là 5 li -2,5 đơn vị ;hầu hết chữ cái viết hoa có chiều
cao 5 li, riêng hai chữ cái viết hoa G,Y có chiều cao lớn nhất là 8 li).
Ở giai đoạn Học vần lớp 1, HS tập viết chữ cái thường thoe chữ cỡ vừa (có chiều cao lớn
nhất là 5 li ). Do vậy, một số GV cho HS dùng vở có dòng kẻ 5 li sản xuất ngoài thị
trường để luyện viết. Dùng vở loại này có thuận lợi cơ bản là: HS lớp 1 viết từng dòng
chữ (cao nhất 5 li) kế tiếp nhau, không phải cách một dòng như trong vở Tập viết 1.
Song, cả GV và HS sẽ gặp những khó khăn vfa hạn chế sau:
-Bắt đầu từ giai đoạn Luyện viết tổng hợp ở lớp 1 cho đến hết lớp 3, HS được học tập viết
chủ yếu theo chữ cỡ nhỏ (chữ viết thường cao nhất là 2,5 li), việc mô tả, hướng dẫn viết
chữ của GV trên lớp (căn cứ vào vở Tập viết do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ) sẽ
không phù hợp với vở tập viết 5 li.
-Khi viết trên trang vở có dòng kẻ 5 li ,do ảnh hưởng độ cao của dòng viết (6 dòng kẻ
ngang) và độ rộng của ô vuông (hơn 1cm²),HS có xu hướng viết chữ to hơn (nét cong kín
thường có chiều ngang quá rộng ), dáng chữ không đẹp ;khoảng cách giữa 2 dòng chữ

195
quá xa, trang vở viết được ít dòng ,”lãng phí giấy” và tạo cảm giác “trống trải” khi nhìn
toàn bộ văn bản.
-Bài thi viết chữ đẹp ở Tiểu học từ cấp trường đến cấp Bộ thường căn cứ vào tài liệu dạy
học chính thức (vở Tập viết 1, 2, 3 –NXB Giáo dục) ,trình bày theo dòng 4 li. Nếu HS
quen luyện viết trên vở có dòng 5 li thì sẽ dễ lúng túng, khó viết chữ và trình bày bài viết
đẹp.
Câu 148
? Cách dạy học sinh tập viết trong tiết học vần và trong tiết Tập viết ở lớp 1 có
những điểm gì khác nhau?
: Ở lớp 1, yêu cầu dạy học Tập viết được tiến hành trong cả bài dạy Học vần và tiết Tập
viết. Phần hướng dẫn HS tập viết chữ ghi âm,vần, tiếng – từ trong bài dạy Học vần được
thực hiện qua 2 bước: viết trên bảng con(sau khi học đọc chữ ghi âm,vần, tiếng –từ mới )
và viết trong vở Tập viết 1 ( sau khi luyện đọc từ ngữ, câu ứng dụng ). Tiết Tập viết trong
tuần chủ yếu dành cho HS thực hành luyện viết ứng dụng từ ngữ đã học trong bài Học
vần hoặc tô chữ

TRANG 242
Viết hoa, luyện viết củng cố vần, từ ngữ ứng dụng ở phần Luyện tập tổng hợp, Quy trình
dạy học Tập viết trong tiết Học vần và trong tiết Tập viết ở lớp 1 có thể tóm lược như
sau:
1. Dạy tập viết trong tiết Học vần
a) Hướng dẫn HS viết trên bảng con
-Giới thiệu mẫu chữ viết (theo bìa chữ mẫu trong Bộ chữ Dạy Tập viết - TBDH tối
thiểu do Bộ Giáo Dục và Đào tạo cung cấp): GV chỉ vào chữ mẫu, nêu rõ đặc điểm, cấu
tạo, cách viết .
-GV viết mẫu (trên bảng phụ hoặc bảng lớp).
- Hướng dẫn HS viết chữ ghi âm (vần) vào bảng con.
- Hướng dẫn HS viết chữ ghi tiếng – từ mới.
b) Hướng dẫn HS viết trong vở Tập viết 1.
2. Dạy tập viết trong tiết Tập viết
(A) Kiểm tra bài cũ
HS lần lượt viết bảng (bảng lớp, bảng con) 2 từ ngữ đã tập viết ở tiết trước.
(B) Dạy bài mới
(1) Dạy bài mới
(2). Hướng dẫn HS viết trên bảng con

196
Gv chọn 3-4 chữ ghi tiếng (trong từ ngữ cần tập viết ) cần hướng dẫn về độ cao, cách nối
nét ,đặt dấu phụ, dấu thanh,… rồi lần lượt thực hiện các thao tác đối với từng chữ: Chỉ
dẫn ngắn gọn về cách viết trên chữ mẫu (cỡ vừa ) ở bảng phụ (hoặc bảng lớp ); Viết mẫu
trên bảng phụ (hoặc bảng lớp ), kết hợp lưu ý các chỗ khó viết hoặc dễ viết sai; Yêu cầu
HS viết vào bảng con (1 hoặc 2 lần).
*Chú ý: Riêng tiết Tập viết ử phần Luyện tập tổng hợp, GV kết hợp hướng dẫn HS tập
viết củng cố vần và tiếng mang vần đó.

TRANG 243
(3) Hướng dẫn HS viết trong vở Tập viết
* Chú ý: Ở tiết Tập viết trong phần Luyện tập tổng hợp ,sau khi HS đọc lại nội dung
trong vở Tập viết 1, tập hai, GV hướng dẫn HS tập tô chữ viết hoa theo bìa chữ mẫu gắn
trên bảng (chỉ cần giúp HS nắm được điểm đặt bút và quy định tô từng nét theo mũi tên
chỉ dẫn trên mẫu chữ, không yêu cầu mô tả đặc điểm, cấu tạo và quy trình viết chữ như
dạy tập viết ở lớp 2).
(4). Chấm, chữ bài .
(5). Củng cố, dặn dò .
Như vậy, khi dạy HS tập viết trong tiết Học vần GV cần chú ý hướng dẫn kĩ về đặc điểm,
cấu tạo, cách viết (đối với chữ ghi âm mới học ) .Khi day HS tập viết trong tiết Tập viết,
GV chỉ củng cố lại cách viết đã hướng dẫn trong tiết Học vần nếu thấy cần thiết ,dành
thời gian cho HS luyện viết ứng dụng (tập trung rèn kĩ thuật viết chữ; nối nét, để khoảng
cách hợp lí giữa các chữ cái trong chữ ghi tiếng và khoảng cách giữa hia chữ ghi
tiếng…).
Câu 149
? Đề nghị phân biệt hai khái niệm chữ và chữ cái. Giáo viên cần sử dụng các thuật
ngữ này trong dạy học Tập viết như thế nào cho phù hợp ?
: 1.Chữ dùng để ghi tiếng; mỗi tiếng được viết thành một chữ. VD: Câu Chữ viết cũng là
một biểu hiện của nết người gồm 10 tiếng, ghi bằng 10 chữ.
Giữa các chữ thường có khoảng cách bằng một chữ cái hoặc gach nối. VD:dân tộc, Ba-
na. Các chữ cái ghép lại thành chữ để ghi tiếng phải viết (in) sát nhau với khoảng cách
đều đặn, hợp lí, đảm bảo sự liên kết trong một “khối” chữ trông đpẹ mắt.
Chữ cái dùng để ghi các nguyên âm và phụ âm.VD: Tiếng học có âm đầu là hờ , âm
chính o và âm cuối cờ (thanh nặng) – được ghi bằng 3 chữ cái h (hát), o (o), c(xê) ,không
kể dấu thanh nặng. Xem xét cách dùng chữ cái để ghi âm ,ta thấy:
-Thường thì một chữ cái được dùng để ghi 1 âm (VD: a,e,o,u,b,d,h…). Nhưng nhiều khi
phải ghéo 2-3 chữ cái lại thành một kí hiệu để ghi một âm (VD: th, tr, ngh, kh,…) .Sở dĩ

197
phải làm như vậy là vì số âm trong tiếng Việt thì nhiều mà số chữ cái lại ít ,không đủ để
ghi mỗi âm bằng một chữ cái riêng.

TRANG 244
- Thường thì một âm chỉ có một cách ghi (Vd: âm bờ được ghi bằng chữ cái b,âm khờ
được ghi bằng nhóm chữ cái kh ,âm ô được ghi bằng chữ cáu ô,…).Nhưng do một vài
nguyên nhân lịch sử, nhiều khi một âm lại được ghi bằng 2-3 cách khác nữa.VD: Âm ngờ
được ghi bằng ngh khi nó đứng trước các nguyên âm i,ê,e,iê(nghĩ, nghề, nghe, nghiêng)
và bằng ng khi đứng trước các nguyên âm khác.
Chữ cái có kiểu in máy (gọi tắt là chữ in ), có kiểu viết tay (gọi tắt là chữ viết); mỗi kiểu
lại có hai dạng là chữ cáu thường và chữ cái hoa (xem Bảng chữ cái dạy cho HS lớp 2
trong SGK Tiếng Việt 2, tập một). SGK Tiếng Việt 3 ,tập một vừa củng cố 29 chữ cái
trong Bảng chữ cái đã học ở lớp 2 vừa mở rộng thêm 10 nhóm chữ cái ghi âm với cách
đọc như sau : ch (xê hát), gh ( giê hát ), gi ( giê i), kh ( ca hát), ng (en-nờ giê/ en giê) ,ngh
( en-nờ giê hát/en giê hát), nh ( en-nờ hát /en hát), ph ( pê hát ),th ( tê hát), tr ( tê e-rờ).
2. Trong trường tiểu học ,khi dạy tập viết ở các lớp 1,2,3,GV thường sử dụng những thuật
ngữ chữ, chữ cái một cách kinh hoạt để hướng dẫn HS như sau:
- Ở lớp 1,HS chỉ được học tên âm để sử dụng trong quá trình học đọc (chưa học
tên chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt ).Vì vậy, khi dạy tập viết ,GV dùng tên âm để
hướng dẫn HS. VD: Chữ (chữ cái ) bờ (b) được viết một nét; chữ hờ (h) được viết hai
nét; chữ mờ(m) được viết ba nét ,…
Từ tuần đầu của lớp 2, HS đã được học Bảng chữ cái tiếng Việt (được củng cố và
mở rộng ở lớp 3), GV cần sử dụng tên chữ để hướng dẫn trong quá trình dạy học tập
viết .VD: Học viết chữ bé (b),chữ xê(c)…;viết chữ A hoa (hoặc chữ hoa A),chữ hoa
B(bê)….
-Để việc diễn đạt được dễ dàng, đỡ khó khăn cho HS trong quá trình nhận thức,
GV thường dùng thuật ngữ chữ (chữ viết thường, viết hoa) để gọi chung cho các trường
hợp: chữ cái (a/A,b/B,…), nhóm chữ cái dùng để ghi âm (ch, tr, nh, th…), chữ ghi tiếng
(bé, bánh,…) .Chỉ khi cần phân biệt trong chữ viết cụ thể, GV mới nói rõ thêm. VD: Chữ
chờ( hoặc chữ ghi âm chờ) gồm 2 chữ cái (hoặc con chữ) ghép lại, chữ cái (con chữ) cờ
đứng trước ,chữ cái (con chữ) hờ đứng sau (ch) – ( đối với lớp 1); chữ Bạn gồm 3 chữ cái
(con chữ) ghép lại, có chữ hoa bê (B) đứng đầu,…; chữ hoa xê hát (Ch) gồm 2 chữ cái
(con chữ) ghép lại, chữ cái (con chữ) xê hoa đứng trước, chữ cái.

TRANG 245
(con chữ) hát đứng sau – (đối với các lớp 2,3). Hoặc, ở bài Tập viết tuần 10, lớp 3 : Chữ
hoa giê (G) được viết liền với i thành chữ giê i (Gi)…; cần viết đúng chữ hoa giê (G)
trong chữ Gió,… hoặc: Trấn Vũ là tên riêng, phải viết hoa cả hai chữ cái đứng đầu: tê (T)
và vê (V).

198
* Chú ý: Việc sử dụng thuật ngữ chữ để hướng dẫn HS tập viết chỉ mang tính tương đối,
song cũng có ranh giới nhất định; không nên lẫn lộn chữ với từ phức hoặc tên riêng (có 2
tiếng trở lên). VD không nên nói Các em hãy viết 1 chữ Trấn Vũ, mà nên nói Các em
hãy viết 1 lần tên riêng (hoặc chữ ghi tên riêng) Trấn Vũ
Câu 150
? Để hướng dẫn HS viết chữ trong giờ Tập viết, giáo viên dùng các thuật ngữ rê bút và lia
bút như thế nào cho chính xác?
: Rê bút là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết trước
hoặc tạo ra vệt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. (Từ rê được hiểu theo nghĩa di
chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt, do vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có
khoảng cách).
Lia bút là chuyển dịch đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt bút khác, không chạm
vào mặt giấy. (Từ lia xuất phát từ nghĩa ném hoặc đưa ngang thật nhanh, VD: lia mảnh
sành, lia đèn pin soi khắm một lượt,…; vì vậy, khi lia bút, ta phải nhấc đầu bút lên để đưa
nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy)
Trong quá trình hướng dẫn HS về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ thuật nối chữ, viết
liền mạch, GV cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ trên cho chính xác
+ VD1: (hướng dẫn viết chữ m lớp 1):
*Nét 1: Đặt bút giữa ĐK2 và ĐK3, viết nét móc xuôi (trái) (chạm Đk3) ; dùng bút ở ĐK1
*Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên gần ĐK2 để viết tiếp nét móc xuôi thứ hai có
độ rộng nhiều hơn độ rộng của nét 1; dừng bút ở ĐK1.
*Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần ĐK2 để viết tiếp nét móc hai đầu (độ
rộng bằng nét 2); dừng bút ở ĐK2.

TRANG 246
+ VD2 (hướng dẫn viết chữ Q ở lớp 2)
*Nét 1: Đặt bút trên ĐK6, đưa bút sang trái viết nét cong kín, phần cuối lượn vào trong
bụng chữ; đến ĐK4 thì lượn lên một chút rồi dừng bút (như chữ hoa 0)
*Nét 2: Từ điêm dừng bút của nét 1, lia bút xuống dần ĐK2 (trong chữ O) viết nét lượn
ngang từ trong lòng chữ ra ngoài; dừng bút trên ĐK2.
Câu 151
? Dạy Tập viết ở lớp 1, từ tuần 25 (Luyện tập tông hợp) giáo viên cần hướng dẫn HS tập
tô chữ viết hoa và luyện viết củng cố chữ ghi vần – tiếng như thế nào?
: Từ tuần 25 (phần Luyện tập tổng hợp), tiết Tập viết ở lớp 1 vừa nhằm mục đích luyện
viết củng cố một số cặp vần dễ lẫn và từ ngữ có tiếng mang vần đó vừa giúp HS làm quen
với chữ cái viết hoa qua hình thức tập tô. Căn cứ công văn số 9832/BGDĐT – GDTH

199
ngày 1/9/2006 của BGD và ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học
ở lớp 1 (môn Tiếng Việt), GV xác định nội dung dạy học theo vở Tập viết 1, tập hai
(NXB Giáo dục, 2006) như sau:
- Tập tô các chữ cái viết hoa được xác định tại văn bản Hướng dẫn thực hiện chương
trình nêu trên (chỉ yêu cầu HS thực hiện trên lớp ½ số dòng tập tô từ 2 bài gộp lại trong
vở Tập viết 1)
- Tập viết cặp vần dễ lẫn và từ ngữ có tiếng mang vần đó ở 2 bài trong vở Tập viết 1 (chỉ
yêu cầu HS thực hiện trên lớp ½ số chữ cần viết trên các dòng)
VD: Tập viết tuần 25 – Tập tô chữ hoa: A, Á, Â, B
- Tập tô: 1 dòng chữ A (3 chữ cái), 1 dòng chữ Ă (3 chữ cái), 1 dòng chữ Â (5 chữ cái), 1
dòng chữ B (5 chữ cái)
- Tập viết: 1 dòng vần ai (viết 3 lần), 1 dòng mái trường (viết 1 lần), 1 dòng vần ay (viết
3 lần), 1 dòng điều hay (viết 1 lần); 1 dòng vần ao (viết 3 lần), 1 dòng sao sáng (viết 1
lần), 1 dòng vẫn au (viết 3 lần0, 1 dòng mai sau (viết 1 lần). Đối với lớp có nhiều HS viết
kém, GV có thể chỉ chọn một cặp vần HS dễ quên, lẫn và từ ngữ có tiếng mang vần đó để
yêu cầu các em luyện viết: 1 dòng vần ai (viết 6 lần), 1 dòng mái trường (viết 1 lần), 1
dòng vần ay (viết 6 lần), 1 dòng điều hay (viết 1 lần)/ hoặc: 1 dòng vần ao (viết 6 lần)

TRANG 247
1 dòng sao sáng (viết 1 lần), 1 dòng vần au (viết 6 lần), 1 dòng mai sau (viết 1 lần)
Quy trình dạy học tiết Tập viết từ tuần 25 ở lớp 1 được tổ chức như sau:
A. KIỂM TRA BÀI CŨ
GV yêu cầu HS lần lượt viết bảng (bảng lớp, bảng con) 2 từ ngữ đã tập viết ở tiết trước;
sau đó, nhận xét kết quả, cho điểm HS viết bảng và rút kinh nghiệm chung
B. DẠY BÀI MỚI
1. Giới thiệu bài
GV nêu ND, yêu cầu của tiết học và ghi tên bài lên bảng lớp (chỉ cần ghi: Tập viết tuần,
…)
2. Hướng dẫn HS tô chữ hoa
- GV yêu cầu HS đọc, quan sát chữ cái viết hoa (cỡ vừa), dựa vào chỉ dẫn số nét trên bìa
chữ mẫu để cho biết chữ cái viết hoa đó gồm mấy nét.
- GV hướng dẫn ngắn gọn về cách tô trên chữ mẫu (đặt bút từ điểm nào, lần lượt tô theo
chấm mở như thế nào,…)/ (Chỉ cần giúp HS nắm được điểm đặt bút và quy trình tô từng
nét theo mũi tên chỉ dẫn trên mẫu chữ, không yêu cầu HS mô tả đặc điểm, cấu tạo và quy
trình viết chữ như dạy Tập viết ở lớp 2)
- HS tô chữ trong vở Tập viết 1, tập hai.
200
* Chú ý: GV hướng dẫn cách tô rồi cho HS tập tô lần lượt đối với từng chữ cái viết hoa,
hoặc hướng dẫn cách tô 2 -3 chữ cái viết hoa gần giống nhau rồi cho HS tô lần lượt từng
chữ cái.
3. Hướng dẫn HS viết vần, từ ngữ ứng dụng
- GV yêu cầu tập viết (vần, từ ngữ)/ HS đọc lại nội dung tập viết trong vở Tập viết 1, tập
hai.
- Gv nhắc nhở HS một vài điểm cần lưu ý khi viết (về độ cao, về nối nét hoặc để khoảng
cách, về cách ghi dấu phụ, dấu thanh,…); có thể viết mẫu vần, từ ngữ ứng dụng trên bảng
lớp để hướng dẫn cách viết liền mạch, nếu cần thiết.

TRANG 248
- HS tập viết trong vở tập viết 1 theo yêu cầu của GV (chú ý nhắc nhở, uốn nắn HS về tư
thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở, xê dịch khi viết,…)
* Chú ý: GV có thể yêu cầu HS tập viết vần và chữ ghi tiếng mang vần đó vào bảng con
trước khi tập viết vào vở. Ở 5 tuần cuối lớp 1, GV cho HS tập viết vần, từ ngữ ứng dụng
trong vở Tập viết 1 theo chữ cỡ nhỏ và giảm bớt số dòng viết theo chữ cỡ vừa.
4. Chấm, chữa bài
GV chấm 5 -7 bài, sau đó nêu nhận xét để cả lớp rút kinh nghiệm (lưu ý nhắc nhở HS
sửa các lỗi đã mắc)
5. Củng cố, dặn dò
- GV nhận xét chung về tiết học, khen ngợi những HS viết đẹp
- Dặn HS tiếp tục luyện viết trong vở Tập viết 1 (phần còn lại)
Câu 152
? Xin cho viết dụng ý thiết kế trang vở Tập viết ở các lớp 2,3. GV hướng dẫn học sinh
viết các dòng chữ viết nghiêng vào lúc nào và cần lưu ý điều gì?
1. Nội dung bài Tập viết trong SGK Tiếng việt 2 được cụ thể hoá thành yêu cầu luyện tập
trong vở Tập viết 2. Trong cả năm học, HS sẽ được học viết toàn bộ bảng chữ cái viết
hoa do BGD và ĐT ban hành (Bao gồm 29 chữ cái viết hoa theo kiểu 1 và 5 chữ cái viết
hoa theo kiểu 2), cụ thể:
- 26 chữ cái viết hoa (kiểu 1 và kiểu 2) được dạy trong 26 tuần (mỗi tuần 1 tiết, mỗi tiết
dạy 1 chữ cái viết hoa theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt)
- 8 chữ cái viết hoa (kiểu 1) được dạy trong 4 tuần (mỗi tuần 1 tiết, mỗi tiết dạy 2 chữ cái
viết hoa có hình dạng gần giống nhau: Ă – Â, E – Ê, Ô – Ơ, U – Ư).
- Cuối năm học, (Tuần 34) có 1 tiết ôn cách viết các chữ hoa kiểu 2. Riêng 4 tuần Ôn tập
và Kiểm tra định kì (các tuần 9, 18, 27, 35), SGK không ấn định nội dung tiết dạy Tập

201
viết trên lớp nhưng vở Tập viết 2 vẫn biên soạn nội dung ôn luyện ở nhà để HS có cơ hội
rèn kĩ năng viết chữ.
Nội dung mỗi bài Tập viết trên lớp được thiết kế trên 2 trang vở có chữ viết mẫu trên
dòng kẻ li và được trình bày như sau:

TRANG 249
Trang lẻ
* Tập viết ở lớp:
+ 1 dòng chữ cái viết hoa cỡ vừa;
+ 2 dòng chữ cái viết hoa cỡ nhỏ;
+ 1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ vừa;
+1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ nhỏ;
+ 3 dòng viết ứng dụng (cụm từ có chữ viết hoa) cỡ nhỏ.
* Tập viết nghiêng (tự chọn), thường gồm 3 dòng luyện viết nghiêng theo chữ mẫu.
Trang chẵn
Luyện viết ở nhà.
*Tập viết nghiêng (tự chọn)
Chú ý: Sau chữ viết, trên mỗi dòng đều có điểm đặt bút (dấu chấm) với dụng ý: giúp HS
xác định rõ số lần viết theo mẫu; tạo điều kiện thuận lợi cho HS viết đúng hình dạng, quy
trình chữ viết; bảo đảm khoảng cách đều nhau giữa các chữ, tặng thêm tính thẩm mĩ của
trang vở tập viết (HS không phải viết dở dang một từ hoặc một câu trên 1 dòng kẻ).
2. Chương trình Tập viết ở lớp 3 yêu cầu ôn luyện các chữ viết hoa và viết thường đã học
ở các lớp 1,2. Do vậy, nội dung bài Tập viết tròn SGK Tiếng việt 3 được cụ thể hoá thành
các yêu cầu luyện tập trong vở Tập viết 3 như sau:
- Ôn tập, củng cố cách viết chữ cái viết hoa (hoặc tổ hợp chữ ghi âm đầu có chữ cái viết
hoa, VD: Ch, Gi,Gh,…) luyện viết ứng dụng các tên riêng, các câu tục ngữ, ca dao, thơ,
…có số chữ dài hơn ở lớp; luyện cách trình bày bài (câu thơ, đoạn văn) – (30 bài, dạy
trong 30 tuần, mỗi tuần 1 tiết)
- Cuối năm học (Tuần 34) có 1 tiết ôn cách viết một số chữ hoa kiểu 2. Riêng 4 tuần Ôn
tập và Kiểm tra đinh kì (các tuần 9, 18, 27, 35), tương tự như ở lớp 2, SGK không ấn định
nội dung tiết dạy Tập viết trên lớp nhưng vở Tập viết 3 vẫn biên soạn nội dung ôn luyện
ở nhà để HS có cơ hội rèn luyện kĩ năng viết chữ và trình bày bài.

TRANG 250

202
Nội dung mỗi bài tập viết ở lớp 3 được trình bày bài trên hai trang vở có chữ viết mẫu (cỡ
nhỏ) trên dòng kẻ ô ly. Cấu trúc cụ thể như sau:
Trang lẻ
* Tập viết ở lớp:
+ 2 dòng chữ viết hoa cỡ nhỏ (bao gồm một dòng ôn lại chữ cái viết hoa hoặc tổ hợp chữ
ghi âm đầu có chữ cái viết hoa đã học ở lớp 2- yêu cầu trọng tâm, một dòng củng cố thêm
1- 2 chữ cái viết hoa hoặc tổ hợp chữ ghi âm đầu có chữ cái viết hoa xuất hiện trong tên
riêng hoặc câu ứng dụng- yêu cầu kết hợp)
+2 dòng viết ứng dụng tên riêng theo cỡ nhỏ
+ 4 phần viết ứng dụng câu (tục ngữ ca dao thơ) theo cỡ nhỏ
tập viết nghiêng (tự chọn), thường gồm ba dòng, tập trung vào luyện viết tên riêng
Trang chuẩn
* Luyện viết ở nhà
gồm các chữ viết hoa, tên riêng và một số từ ngữ trong câu ứng dụng cần đặc biệt lưu ý
luyện tập về kỹ thuật nối nét (viết liền mạch); luyện viết lại câu ứng dụng đã học trên lớp.
* tập viết nghiêng (tự chọn)
chú ý
+ sau chữ viết mẫu, trên mỗi dòng đều có điểm đặt bút (dấu chấm) với những dụng ý như
đã nêu đối với tập viết 2
+ 4 tuần ôn tập được soạn cho học sinh luyện viết ở nhà (hoặc lớp học 2 buổi/ngày) gồm
những đoạn thơ, đoạn văn hoặc bài hát ngắn, giúp học sinh trao dồi kỹ năng viết chữ và
trình bày bài sạch đẹp
3. quy định về dạy học và học viết chữ ở trường tiểu học (công văn số 5150/TH ngày 17
tháng 6 năm 2002 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã nêu rõ:
- Trong trường tiểu học học sinh học viết chữ viết thường, chữ số và chữ viết hoa theo
kiểu chữ viết đứng, nét đều là chủ yếu. ở những nơi có điều kiện thuận lợi giáo viên có
thể dạy hoặc giới thiệu thêm cách viết chữ thường chữ viết hoa theo kiểu chữ viết
nghiêng, nét thanh nét đậm.
TRANG 251
- Việc dạy chữ viết hoa được tiến hành theo một quá trình từ nhận diện,, tập tô, tập viết
nét cơ bản đến viết từng chữ cái, từ viết đúng Đến viết thành thạo, viết đẹp
Để tạo điều kiện cho học sinh luyện viết theo kiểu chữ viết nghiêng, trang vở tập viết ở
các lớp 2, 3 có một số dòng tập viết chữ nghiêng với yêu cầu tự chọn. giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh viết trên lớp (nếu còn thời gian) hoặc khuyến khích học sinh về nhà
tập viết thêm để rèn chữ đẹp. ngoài những điểm đã hướng dẫn học sinh viết theo kiểu chữ
viết đứng, giáo viên cần lưu ý học sinh khi viết theo kiểu viết nghiêng như sau: cần để vở
203
hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15
độ. Khi viết, độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90
độ. như vậy dù viết theo kiểu Chữ đứng hay chữ nghiêng nét chữ luôn thẳng đứng trước
mặt (chỉ khác nhau về cách để vở)
Câu 15,
? giáo viên cần lưu ý những yêu cầu gì trong việc chấm bài và đánh giá kết quả bài tập
viết của học sinh lớp 2 lớp 3?
: giáo viên cần Căn cứ vào mục đích yêu cầu đặt ra cho từng bài học theo chương trình
quy định để chấm bài tập viết của học sinh lớp 2 lớp 3. qua việc chấm bài điều quan trọng
là giáo viên giúp học sinh tự nhận thức được ưu điểm để phát huy, thấy rõ những thiếu
sót để khắc phục sửa chữa, kịp thời động viên được những cố gắng nỗ lực của từng học
sinhkhi viết chữ. Cách chấm bài tập viết của học sinh lớp 2, 3 về cơ bản có nhiều điểm
giống nhau như chấm bài chính tả. Điểm khác ở chỗ sau khi gạch dưới những chữ học
sinh viết sai và không đúng mẫu, gv có thể viết mẫu chữ đó ra lề vở cho học sinh đối
chiếu, so sánh, tự rút ra chỗ chưa được để khắc phục, tuyệt đối không gạch đè lên chữ
viết của học sinh. Bên cạnh việc ghi điểm giáo viên cũng cần ghi lời giải thích ngắn gọn
thể hiện sự biểu dương góp ý, yêu cầu về chữ viết
Thang điểm để đánh giá kết quả bài tập viết ở các lớp 2, 3 vẫn là thang điểm 10, không
cho điểm 0. trên đại thể, điểm số phân bổ cho các yêu cầu cụ thể (theo nội dung tập viết
trong vở tập viết 2, tập viết 3) như sau:
Lớp 2
- viết đúng, đủ và rõ ràng các chữ hoa (cỡ vừa và cỡ nhỏ): 3 điểm

TRANG 252
- viết đúng, đủ và rõ ràng các chữ ghi tiếng ứng dụng (cỡ vừa và cỡ nhỏ): 3 điểm
-viết đúng, đủ và rõ ràng cụm từ ứng dụng (cỡ nhỏ) 3 điểm
- Bài viết sạch sẽ: 1 điểm
lớp 3
- viết đúng, đủ và rõ ràng các chữ hoa theo cỡ nhỏ: 3 điểm
- viết đúng, đủ và rõ ràng các dòng tên riêng theo cỡ nhỏ: 3 điểm
- viết đúng đủ và rõ ràng câu ứng dụng theo cỡ nhỏ: 3 điểm
- bài viết sạch sẽ: 1 điểm
VI – DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Câu 154

204
? tiết Luyện từ và câu tuần 12 (sách giáo khoa Tiếng Việt 2 tập 1) có 4 bài tập với 4
dạng khác nhau (ghép từ, điền từ, nhìn tranh nói thành câu, đặt dấu phẩy trong
câu). Làm thế nào để thực hiện đầy đủ các yêu cầu trong một tiết dạy?
: tiết Luyện từ và câu ở lớp 2 thường có 3 và 4 bài tập. Các bài tập luyện từ và câu được
thiết kế với nhiều dạng khác nhau nhưng đều nhằm mục đích chủ yếu là giúp học sinh mở
rộng, phát triển vốn từ, nắm nghĩa của từ, phân loại vốn từ, Luyện tập sử dụng từ, làm
quen với 3 kiểu câu trần thuật đơn( Ai là gì? ai làm gì? Ai thế nào) và một số thành phần
trong câu, tập dùng một số dấu câu (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu phẩy,..) các tiết luyện
từ và câu lớp 2 được dạy theo phương pháp thực hành luyện tập, tạo điều kiện cho học
sinh được làm việc nhẹ nhàng mà hiệu quả. nội dung, yêu cầu và cách thực hiện từng bài
tập luyện từ và câu trong từng tiết dạy đã được chỉ rõ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2.
GV cần căn cứ vào điều kiện dạy học và trình độ học sinh để vận dụng sách giáo khoa
một cách linh hoạt.
Với tiết dạy Luyện từ và câu Tuần 12 ( lớp 2) nói trên, tuy có 4 bài tập nhưng nội dung,
yêu cầu vẫn thực hiện được trong một tiết dạy vì phù hợp với trình độ HS lớp 2 nói
chung. Cụ thể:

TRANG 253
- Bài tâp 1: Ghép các tiếng sau thành những từ có hai tiếng: yêu, thương, quý, mến, kính.
M: yêu mến, quý mến.
GV hướng dẫn HS cách ghép nhanh theo sơ đồ kết hợp tiếng đã gợi ý trong SGK TV2,
tập 1 (tr 227), hoặc ghép nối theo hàng ngang như sau:

Hs sử dụng bảng nhóm để thực hiện bài tập này theo nhóm, hoặc làm cá nhân trên vở
nháp, sau đó đọc kết quả trước lớp (làm miệng) để GV chữa bài, ghi các từ ghép được lên
bảng ( yêu thương, thương yêu, yêu mến, mến yêu, yêu kính, kính yêu, yêu quý, quý yêu,
thương mến, mến thơung, quý mến, kính mến). Bài tập này có thể tiến hành trong khoảng
12phut.
- Bài tập 2: Em chọn từ ngữ nào điền vào chỗ trống để tạo thành câu hoàn chỉnh?
a) Cháu… ông bà
b) Con … cha mẹ
c) Em … anh chị

205
gv hướng dẫn HS sử dụng các từ chỉ tình cảm gia đình vưaà tìm đươc ở bài 1 để điền vào
chỗ trống, đọc cả câu văn đã điền từ trước lớp (làmmiệng); nếu có tình huống hs dùng từ
chưa chính xác thì gv uốn nắn (vd : cháu yêu mến ông bà). HS có thể thực hiện bài này
trong khoảng 5p.
- bài tập 3: Nhìn tranh, nói 2-3 câu hoạt động của mẹ và con. (tranh vẽ trong sgk tv 2,
tập1, tr.100)
GV yêu cầu HS qsat tranh (SGK), trả lời một số câu hỏi gợi ý để thành các câu nói về
hoạt động của mẹ và con (vd: Người mẹ đang làm gì? Bạn gái đang làm gì? Em bé đang
làm gì? Thái độ của từng người trongtranh nhu thế nào? Vẻ mặt của mọi người ra sao?...)
Tuỳ trình độ của HS lớpdạy, gv có thể nêu cau hỏi cho hs tự quan sát tranh rồi trả lời (nói
thành 2- 3 câu), hoặc gợi ý cho từng HS tập nói theo câu hỏi GV nêu ra. Bài tập này có
thể tiến hành trong thời gian khoảng 10p.

TRANG 254
- Bài tập 4: có thể đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong mỗi câu sau:
a) Chăn màn quần áo được xếp gọn gàng
b) Giương tủ bàn ghế được kê ngay ngắn
c) Giày dép mũ nón được để đúng chỗ
GV cần lưu ý HS hiểu yêu cầu: đặt 1 dấu phẩy vào trong câu, hướng dẫn hs làm câu a
trên bảng: đọc câu văn và ngắt hơi cho đúng, đặt dấu phẩy vào chỗ đã ngắt hơi trong câu
và ccó thể thử đặt vào vị trí khác xem có được không. dựa vào cách làm đã hướng dẫn,
học sinh thực hiện tiếp hai câu còn lại tùy theo điều kiện thực tế làm vào bảng nhóm hoặc
phiếu bài tập chép sẵn câu trong sách giáo khoa rồi chữa bài trên lớp hoặc dự kiến vị trí
dấu phẩy đặt vào chỗ nào trong câu rồi đọc câu đó trước lớp để giáo viên ghi bảng nhận
xét. Bài tập này có thể tiến hành trong thời gian khoảng 8 phút.
Như vậy nếu giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu và biết cách làm hợp lý, 4
bài tập như trên vẫn thực hiện được đầy đủ trong tiết dạy Luyện từ và câu lớp 2
câu 155
? Dạy bài từ chỉ hoạt động, trạng thái - dấu phẩy (tuần 8 tiếng Việt 2 tập 1 trang
67) GV có phải phân biệt cho học sinh rõ về từ chỉ hoạt động và từ chỉ trạng thái
hay không?
: ở cấp tiểu học nhiệm vụ dạy học môn tiếng Việt Nói chung, dạy phân môn luyện từ và
câu nói riêng luôn chú trọng thực hành, luyện tập hơn là lý luận. Đặc biệt với các lớp 2, 3
đầu cấp tiểu học nội dung tiết Luyện từ và câu chỉ là thực hành luyện tập để mở rộng và
hệ thống hóa vốn từ, nắm chắc nghĩa của từ, biết dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu
vào giao tiếp đạt hiệu quả cao. học sinh chỉ cần vận dụng những hiểu biết mang tính cảm
nhận (chưa mang tính lý thuyết) về tiếng Việt để thực hành, luyện tập theo yêu cầu của
bài học.
206
tiết Luyện từ và câu tuần 8 (tiếng Việt 2 tập 1) nói trên có 3 bài tập nhằm thực hiện các
yêu cầu: giúp học sinh nhận biết được từ chỉ hoạt động, trạng thái của loài vật sự vật
trong câu (bài tập 1); biết chọn từ chỉ hoạt động thích hợp điền vào chỗ trống trong bài
đồng dao (bài tập 2); biết dùng dấu phẩy để ngăn cách các từ cùng làm một chức vụ trong
câu (bài tập 3)

TRANG 255
Yêu cầu của bài tập 1 nêu trong sách giáo khoa là Tìm các từ chỉ hoạt động trạng thái của
loài vật và sự vật trong những câu sau:
A) Con trâu ăn cỏ
b) đàn bà uống nước dưới sông
c) mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ
Khi giải bài tập này với đối tượng học sinh bình thường giáo viên gợi ý các em nêu từ
ngữ chỉ tên các con vật (con trâu, đàn bò), tên sự vật (mặt trời), sau đó hướng dẫn học
sinh tìm đúng các từ chỉ hoạt động của loài vật (trâu: ăn, bò: uống), từ chỉ trạng thái của
sự vật (mặt trời: tỏa). việc phân biệt cũng cũng chỉ dừng ở mức độ đó, giúp học sinh cảm
nhận được từ chỉ hoạt động thường dùng cho loài vật, nói về sự vật thường dùng từ chỉ
trạng thái. GV không cần sa đà vào việc giảng giải để phân biệt từ chỉ hoạt động khác từ
chỉ trạng thái ở chỗ nào hoặc thế nào là từ chỉ hoạt động thế nào là từ chỉ trạng thái.
Với đối tượng học sinh gặp nhiều khó khăn trong học tập giáo viên chỉ cần gợi ý các Em
nêu từ ngữ chỉ tên các con vật (con trâu, đàn bò), tên sự vật (mặt trời) sau đó nêu tiếp các
từ chỉ hoạt động, trạng thái (không tách hai loại) của cả các con vật và sự vật nêu trên
(ăn, uống, tỏa) trường hợp học sinh nêu cả cụm từ ví dụ “ăn cỏ”, “uống nước”, “tỏa ánh
nắng rực rỡ”, GV cũng có thể chấp nhận hoặc nói cho học sinh biết: các từ chỉ hoạt động,
trạng thái ở 3 câu trên chỉ cần nêu là ăn, uống, tỏa.
Thực hiện tiếp Bài tập 2 (chọn từ trong ngoặc đơn thích hợp với mỗi chỗ trống) học sinh
sẽ được củng cố thêm về một số từ chỉ hoạt động của con mèo trong bài đồng dao, luyện
tập kỹ năng lựa chọn từ phù hợp với văn cảnh giao tiếp.
Câu 156
? sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tv3 có một số bài tập yêu cầu học sinh đặt dấu chấm
dấu phẩy trong khi các em chưa học về câu và các bộ phận trong câu. Làm thế nào
để hướng dẫn học sinh thực hiện các bài tập loại này?
: trong số các dấu câu dạy ở lớp 2 và lớp 3 (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu
phẩy, dấu hai chấm) dấu chấm, dấu phẩy được xác định là trọng tâm có nhiều bài tập ở
các dạng khác nhau với yêu cầu từ dễ đến khó.

TRANG 256

207
Tuy nhiên, giống như những nội dung khác của phân môn Luyện từ và câu, các dấu câu
dạy cho HS ở lớp 2, lớp 3 thông qua các bài tập thực hành (chưa dạy lý thuyết về câu và
các bộ phận trong câu). Vì vậy, khi dạy cách dùng dấu chấm, dấu phẩy, GV phải khai
thác sự cảm nhận và sử dụng tiếng Việt của HS, giúp các em vận dụng những hiểu biết
ban đầu về các kiểu câu (Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?) để thực hiện yêu cầu của bài
tập.
- Khi hướng dẫn HS làm bài tập đặt dấu chấm, căn cứ vào yêu cầu cụ thể, GV nhắc HS
chú ý:
+ Nếu đặt dấu chấm (ngắt câu) ở chỗ nào thì thử xem câu đó đã nói trọn ý chưa (người
nghe có hiểu đúng và đủ ý không);
+ Nếu bài tập yêu cầu lựa chọn một trong hai dấu (chấm/ chấm hỏi, chấm/ chấm than,
chấm/ phẩy) thì có thể dùng phép thử đề loại trừ, VD: không đặt dấu chấm hỏi được (vì
không phải là câu hỏi) thì phải đặt dấu chấm (cuối câu kể),...;
+ Xác định rõ yêu câu phải ngắt đoạn văn thành mấy câu và dựa vào dấu hiệu về hình
thức (nếu có chữ viết hoa), hoặc dựa vào cấu tạo của kiểu câu đã học (Ai là gì? Ai làm
gì? Ai thế nào?) để ngắt câu (đặt dấu chấm).
VD1: Ngắt đoạn sau thành 4 câu rồi viết lại cho đúng chính tả:
Trời mưa to Hòa quên mang áo mưa Lan rủ bạn đi chung áo mưa với mình đôi bạn vui
vẻ ra về.
(Tiếng Việt 2, tập một, tr.35)
(Sau khi HS ngắt được 2 câu đầu, dựa vào ý đã trọn vẹn và dấu hiệu “chữ viết hoa” đầu
câu. GV hướng dẫn các em lựa chọn vị trí đặt dấu chấm tiếp theo để ngăn cách hai câu
còn lại, sao cho mỗi câu đều “nói trọn ý”.)
VD2: Chép đoạn văn dưới đây vào vở sau khi đã đặt dấu chấm vào chỗ thích hợp và viết
hoa những chữ đầu câu:
Ông tôi vốn là thợ gò hàn vào loại giỏi có lần, chính mắt tôi đã thấy ông tán đinh đồng
chiếc búa trong tay ông hoa lên, nhát nghiêng, nhát thẳng, nhanh đến mức tôi chỉ cảm
thấy trước mặt ông phất phơ những sợi tơ mỏng ông là niềm tự hào của cả gia đình tôi.
(Tiếng Việt 3, tập một, tr.25)

TRANG 257
(GV hướng dẫn HS xác định câu và đặt dấu chấm trên cơ sở trả lời các câu hỏi dựa theo
cấu tạo kiểu câu đã học: Ông tôi là gì? Có lần, chính mắt tôi đã thấy ông làm gì? Chiếc
búa trong tay ông thế nào? Ai là niềm tự hào của cả gia đình tôi ?)
Khi hướng dẫn HS làm bài tập đặt dấu phẩy, căn cứ vào yêu cầu cụ thể, GV nhắc HS chú
ý:

208
+ Đọc câu văn và ngắt hơi cho đúng, đặt dấy phất vào chỗ đã ngắt hơi trong câu và có thế
thử đặt vào vị trí khác xem có được không.
VD: Mỗi bản nhạc! mỗi bức tranh! Mỗi câu chuyện! Mỗi vở kịch! Mỗi cuốn phim,... đề
là một tác phẩm nghệ thuật.
(Trích bài tập 2, Tiếng Việt 3, tập hai, tr.54)
+ Nếu bài tập yêu cầu lựa chọn dấu chấm hoặc dấu phẩy thì cũng có thể dùng phép “thử”
để loại trừ (đặt dấu chấm xem câu này đã trọn ý chưa, nếu chưa thì phải đặt dấu phẩy).
VD: Điền dấy chấm hay dấu phẩu vào ô trống?
Chiều qua □ Lan nhận được thư bố □ Trong thư, bố dặn dò hai chị em Lan rất nhiều
điều. Nhưng Lan nhớ nhất lời bố dặn riêng em ở cuối thư: “Con nhớ chăm bón cho cây
cam ở đầu vườn để khi bố về □ bố con mình có cam ngọt ăn nhé!”
(Tiếng Việt 2, tập hai, tr.87)
(Ở ô trống thứ nhất, nếu điền dấu chấm thì câu chưa trọn ý, vì vậy phải diền dấu phẩy;
điền dấu chấm ở ô trống thứ hai được vì câu đã trọn ý; tương tự như ô trống thứ nhất, ô
trống thứ ba phải điền dấu phẩy mới đúng.)
Đối với một số bài tập ở lớp 3, GV có thể yêu cầu HS xác định bộ phận câu trả lời câu
hỏi Ở đâu? (Khi nào?, Như thế nào?, Vì sao?, Để làm gì?, Bằng gì?) rồi đặt dấu phẩy
sau bộ phận ấy. VD: Muốn đặt dấu phẩy vào câu “Ở nhà em thường giúp bà xâu kim”,
GV đặt câu hỏi “Em thường giúp bà xâu kim ở đâu?”, sau đó đặt dấu phẩy sau bộ phận
“Ở nhà”. Hoặc, đối với câu “Mỗi bản nhạc mỗi bức tranh mỗi câu chuyện mỗi vở kịch
mỗi cuốn phim,... đều là một tác phẩm nghệ thuật”, GV có thể đặt câu hỏi “Mỗi cái gì
đều là một tác phẩm nghệ thuật?” để xác định những từ ngữ cùng giữ chức vụ như nhau
trong câu (thành phần đồng chức) rồi đặt dấu phẩy để đánh dấu ranh giới giữa các từ ngữ
ấy.

TRANG 258
Dạy loại bài Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ ở các lớp 4, 5 cho đối tượng học sinh
học yếu hoặc còn hạn chế về tiếng Việt, giáo viên cần vận dụng các biện pháp dạy
học như thế nào? Xin nêu ví dụ cụ thể để minh họa.
Dạy loại bài Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ cho đối tượng HS học yếu, HS còn hạn chế
về tiếng Việt, GV cần vận dụng các biện pháp dạy học một cách linh hoạt nhằm “dễ hóa”
yêu cầu của bài tập, dẫn dắt các em từng bước đạt yêu cầu chung. Dưới đây là một vài
gợi ý cụ thể:
- GV giúp HS hiểu rõ tên chủ điểm trước khi mở rộng vốn từ. VD: Để mở rộng vốn từ
ngữ về Ý chí – Nghị lực (Tiếng Việt 4, tập một, Tuần 13), cần giúp HS hiểu được ý nghĩa
từ ý chí (khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình,
khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đó) – nghị lực (sức mạnh tinh thần tạo cho con
người sự kiên quyết trong hành động, không lùi bước trước khó khăn). Từ đó, HS có cơ
209
sở để tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho ( quyết tâm, kiên trì, kiên định, kiên
tâm,...).
- Nếu trình độ HS trong lớp còn hạn chế về tiếng Việt, GV có thể chỉ yêu cầu các em tìm
được một vài từ thông dụng theo gợi ý trong SGK (tùy thuộc khả năng và vốn sống của
HS) hoặc GV chủ động dẫn dặt, gợi ý, giải nghĩa các từ ngữ bằng nhiều hình thức khác
nhau để bổ sung vốn tiếng Việt và giúp các em dễ thực hiện yêu cầu của bài tập (hạn chế
tổ chức HS tự làm bài hoặc trao đổi nhóm vì các em còn hạn chế về tiếng Việt).
- Xác định yêu cầu cần đạt sao cho thiết thực (đảm bảo tính “vừa sức” đối với HS), lựa
chọn nội dung và cách dạy phù hợp, tạo điều kiện cho tất cả HS đều được tham gia thực
hành theo năng lực của mình (dù còn hạn chế về kết quả), từng bước vươn lên đạt chuẩn
kiến thức, kĩ năng đã quy định.
VD1: 3 bài tập của tiết Mở rộng vốn từ: Ý chí – Nghị lực (Tiếng Việt 4, tập một, Tuần
13) có thể được dạy theo phương án dưới đây.
Bài tập 1: Tìm các từ:
a) Nói lên ý chí, nghị lực của con người.
M: quyết chí

TRANG 259
b) Nêu lên những thử thách đối với ý chí, nghị lực của con người.
M: khó khăn
Nếu HS còn hạn chế về vốn tiếng Việt, chưa thể tự tìm được các từ ngữ theo yêu cầu nêu
trong bài tập, GV có thể điều chính các dạy: gợi ý HS tìm các từ đồng nghĩa với các từ
quyết chí (quyết tâm, quyết thắng, quyết chiến,...), đồng nghĩa với từ kiên cường (kiên
trung, kiên quyết, kiên trì, kiên định,...) ; ghi bảng các từ tìm được, sau đó khái quát: đó
là các từ nói lên ý chí, nghị lực của con người. Cách làm này cũng có thể áp dụng với một
số bài tập 1.b (đồng nghĩa với từ khó khăn: gian khó, gian khổ, gian nan, gian lao, gian
truân,...).
Bài tập 2: Đặt câu với một từ em vừa tìm được ở bài tập 1:
a) Từ thuộc nhóm a.
b) Từ thuộc nhóm b.
Trước hết, GV cần cho HS chọn, nêu từ theo đúng yêu cầu (từ tìm được ở bài tập 1), sau
đó tập đặt câu (viết vào vở nháp) rồi đọc lên để nhận xét, sửa chữa (nếu cần); lưu ý HS
chọn các từ quen thuộc và hiểu được nghãi để đặt câu cho đúng.
Bài tập 3: Viết một đoạn văn ngắn nói về một người do có ý chí, nghị lực nên đã vượt
qua nhiều thử thách, đạt được thành công.

210
Cách tốt nhất là GV nêu một vài câu hỏi gợi ý, tạo chỗ dựa cho HS dễ viết đonạ văn theo
yêu cầu cho trước. VD: Em biết ai là người có ý chí và nghị lực trong cuộc sống (bạn bè
em hoặc những người lớn tuổi mà em biết)? Người đó đã gặp khó khăn gì? Người đó đã
suy nghĩ thế nào, đã lầm gì để vượt qua khó khăn đó? Em có nhận xét gì về người ấy?...
Nếu không có điều kiện viết về những người đã biết trong cuộc sống, HS có thể kể lại câu
chuyện đã học trong SGK nhằm đạt được yêu cầu luyện tập sử dụng từ ngữ theo chủ
điểm bài học.
VD2: Trong bài Mở rộng vốn từ: Hữu nghị - Hợp tác (Tiếng Việt 5, tập một, Tuần 6),
bài tập 2 có yêu cầu như sau:
Xếp các từ có tiếng hợp cho dưới đây thành hai nhóm a và b:
hợp tình, hợp tác, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp nhất, hợp pháp, hợp lực, hợp lí, thích
hợp

TRANG 260
a) Hợp có nghĩa là "gộp lại" (thành lớn hơn).
M: hợp tác
b) Hợp có nghĩa là "đúng với yêu cầu, đòi hỏi… nào đó".
M: thích hợp
Trong số các từ đã cho, GV cần giúp HS hiểu nghĩa từ hợp pháp (đúng với pháp luật) để
các em có thể xắp sếp đúng vào nhóm b. Khi HS tập giải nghĩa từ, GV cũng chấp nhận
nhiều cách diễn đạt khác nhau (đôi khi còn vụng về, "ngây ngô"), miễn sao thể hiện được
sự cảm nhận đúng, biết xếp đúng "nhóm" và dùng từ không sai lạc về ý nghĩa. Từ đó, GV
uốn nắm để các em biết giải nghĩa từ cho chính xác.

Câu 158
Giáo viên cần lưu ý những điểm gì khi dạy loại bài Cung cấp kiến thức mới và Thực
hành luyện tập ở các lớp 4, 5 cho đối tượng học sinh học yếu hoặc còn hạn chế về
Tiếng Việt ?
Dạy loại bài Cung cấp kiến thức mới và Thực hành luyện tập cho đối tượng HS học yếu,
HS còn hạn chế về Tiếng Việt, GV cần lưu ý một số điểm sau:
- Khi hướng dẫn mục 1 (Nhận xét), GV cần chủ động dẫn dắt, gợi ý cho HS trao đổi
chung ở lớp để từ đó rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức một cách nhanh gọn
(trách phân tích ngữ liệu quá kĩ, mất nhiều thời gian).
- Trong quá trình luyện tập (mục III), GV có thể nhắc lại một số kiến thức liên quan để
HS dễ thực hiện bài tập; tổ chức HS làm bài theo hình thức trao đổi nhóm (trên cơ sở vận
dụng kiến thức đã học) kết hợp tự học và giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ được

211
giao. GV cũng cần chú ý hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu của bài tập, làm thử trên lớp
một phần hoặc một bài cụ thể trước khi yêu cầu HS làm vào bảng nhóm hoặc vở ghi bài,
vở nháp,… Sau đó, GV tổ chức đánh giá kết quả làm bài của HS để củng cố, uốn nắn kịp
thời.
- Đối với một số tiết học có nhiều bài tập (không đủ thời gian thực hiện kĩ trong một tiết)
hoặc bài tập có yêu cầu cao hơn so với trình độ HS (đối tượng học yếu, còn hạn chế về
Tiếng Việt), GV có thể giảm nhẹ hoặc gợi ý cụ thể để HS có khả năng thực hiện được
yêu cầu cơ bản, chấp nhận được ở mức độ tối thiểu.
Trang 261
VD1: Trong bài Câu kể Ai làm gì? (Tiếng Việt 4, tập một, Tuần 17), bài tập 2(mục III)
yêu cầu Tìm chủ ngữ và vị ngữ trong mỗi câu vừa tìm được ở bài tập 1.
Với đối tượng HS học yếu, xét thấy không đủ thời gian thực hiện yêu cầu tìm chủ ngữ và
vị ngữ trong cả 3 câu đã tìm được, GV có thể cho HS làm theo nhóm, mỗi nhóm thực
hiện yêu cầu trên đối với 1 hoặc 2 câu (giảm bớt yêu cầu thực hiện bài tập).
VD2: Trong bài Quan hệ từ (Tiếng Việt 5, tập một, Tuần 11), bài tập 3 yêu Đặt câu với
mối quan hệ từ: và, nhưng, của. GV có thể yêu cầu đặt 3 câu (mỗi câu có 1 quan hệ tư
cho trước) bằng hình thức viết hoặc nói, hoặc chỉ yêu cầu mỗi HS chọn 2 (hoặc 1) trong 3
quan hệ từ cho trước để đặt câu rồi chữa chung ở lớp, …
Việc giảm bớt bài tập đồng dạng như trên nhằm giải quyết khó khăn về thời gian, làm cho
giờ học bớt nặng nề và đảm bảo hiệu quả dạy học thiết thực đối với những lớp có nhiều
HS học yếu, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu tại công văn 896/
BGDĐT-GDTH ngày 13/2/2006.
Câu 159
(?) Hai bài Mở rộng vốn từ cùng chủ điểm trong các SGK Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5
thường không dạy ở 2 tiết kế tiếp nhau. Khi dạy bài thứ hai ở tuần sau, giáo viên có
nhất thiết phải kiểm tra bài thứ nhất ở tuần trước hay không?
(:) Ở các lớp 4, 5, phân môn Luyện từ và câu được dạy 2 tiết /tuần. SGK Tiếng Việt 4,
Tiếng Việt 5 thường bố trí hai tiết Mở rộng vốn từ trong hai tuần liền nhau, có xen kẽ bài
dạy về câu (hoặc từ loại, văn bản, ...) ở giữa.
Để tạo điều kiện học tập thuận lợi cho HS, đối với các bài học cùng phân môn, GV
thường "kiểm tra bài cũ" theo nội dung của bài kế trước, không kiểm tra bài đã học cách
đó 1 tiết. Có như vậy, chu trình “kiểm tra bài cũ" mới được ổn định, tránh tình trạng bị
phá vỡ và xáo trộn. Vì thế, khi dạy bài Mở rộng vốn từ ở tuần sau, GV không nhất thiết
phải kiểm tra bài Mở rộng vốn từ cùng chủ điểm ở tuần trước (cách bài mới 1 tiết).
Tuy nhiên, ở một số tiết dạy, GV cũng có thể “kiểm tra bài cũ" với hai mục đích như
sau :

212
(1) Mục đích chủ yếu : Kiểm tra nội dung bài kế trước nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức,
kĩ năng đã học, nâng cao ý thức học tập cho HS ; thực hiện đúng chu trình thông thường
của việc ‘kiểm tra bài cũ".

Trang 262
(2) Mục đích thứ yếu: Kiểm tra nội dung đã học trước đó một vài tiết nhưng có liên quan
đến bài mới nhằm "dẫn dắt", "gân kết với những kiến. năng sắp học.
Nếu xác định như vậy, sau khi kiểm tra bài học kế trước, GV vẫn có thể lựa chọn nội
dung thích hợp của bài Mở rộng vốn từ đã học ở tuần trước để kiểm tra ngắn gọn ở tiết
Mở rộng vốn từ cùng chủ điểm ở tuần sau. Đây cũng là cách "vào bài" vừa nhẹ nhàng, tự
nhiên vừa đảm bảo tính hệ thống. Để hiện việc "kiểm tra bài cũ" theo cách này đạt hiệu
quả tốt, cuối tiết học kể trước, GV cần dặn dò HS ôn cả nội dung bài học sẽ kiểm tra lại ở
tiết sau.
Câu 160
(?) Khi hướng dẫn thực hiện bài tập 1, tiết Luyện từ và câu Tuần 13 (Mở rộng vốn
từ: Ý chí – Nghị lực, SGK Tiếng Việt 4, tập một, tr. 127), giáo viên có cần yêu cầu học
sinh tìm các từ theo từng nhóm nhỏ (Ý chỉ Nghị lực) hay không? Có nên yêu cầu học
sinh giải nghĩa và đặt câu với các từ tìm được hay không?
: Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu Tuần 13 (Mở rộng vốn từ: chí – Nghị lực. SGK Tiếng
Việt 4, tập một, tr. 127) có nội dung như sau:
Tìm các từ:
a) Nói lên ý chí, nghị lực của con người.
M: quyết chí
b) Nêu lên những thử thách đối với ý chí, nghị lực của con người.
M: khó khăn
Đây là bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm Có chí thì nên dạy ở các tuần 11, 12, 13.
Qua các bài tập 1-2 của tiết Luyện từ và câu Tuần 12 (Mở rộng vốn từ: Ý chí - Nghị lực,
SGK Tiếng Việt 4, tập một, tr. 118), HS đã được tìm hiểu nghĩa của hai từ có nhiều điểm
gần gũi và liên quan với nhau (Chí có nghĩa là ý muốn bền bỉ theo đuổi một mục đích tốt
đẹp. M: ý chí - BT1; Nghị lực: sức mạnh tinh thần làm cho con người kiên quyết trong
hành động, không lùi bước trước mọi khó khăn – B12). Do vậy, bài tập 1 nêu trên chỉ yêu
cầu HS tìm các từ "Nói lên ý chí, nghị lực của con người,"... không đòi hỏi tách riêng
“các từ nói lên ý chí - các từ nói lên nghị lực" vì đây là yêu cầu vượt quá khả năng của
HS lớp 4. (Xét về nghĩa, các từ nói lên ý chí cũng đã

213
Trang 263
thể hiện rõ nghị lực của con người và ngước lại, VD: quyết chí, quyết tâm, bền gan, bền
chí, bền long, kiên nhẫn, kiên trì, kiên nghị, kiên tâm, kiên cường, kiên quyết, vững tâm,
vững đạt, vững long, …)
Bài tập 1 nêu trên cũng chỉ yêu cầu: “Tìm các từ” chưa đòi hỏi HS phải giải và đặt câu
với các từ tìm được. (Vì việc giải nghĩa các từ này là yêu cầu khó đối với các em, việc đặt
câu chí đặt ra với mức độ có giới hạn ở bài tập 2 kế tiếp: Đặt câu với một từ em vừa tìm
được ở bài tập1 ...) GV cần tìm hiểu và nắm vững mục đích, yêu cầu của từng bài tập
trong SGK Tiếng Việt tiểu học (có đối chiếu với Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học được
xác định trong chương trình GDPT cấp Tiểu học do Bộ GD&ĐT ban hành), từ đó xác
định đúng mức độ nội dung cần thực hiện, tránh tình trạng "nâng cao, mở rộng’ vượt quá
khả năng, trình độ của đa số HS lớp dạy.
Câu 161
(?) Trong bài Từ trái nghĩa (Luyện từ và câu, Tuần 4, SGK Tiếng Việt 5, tập một, tr,
38), bài tập 1 ở mục Nhận xét có yêu cầu: So sánh nghĩa của các từ in đậm (trong
đoạn văn): phi nghĩa - chính nghĩa. Nếu học sinh không hiểu nghĩa của hai từ trên
để so sánh thì giáo viên giải quyết như thế nào? Có thể thay thế bằng bài tập với
ngữ liệu khác được không?
: Thực tế dạy học cho thấy: một vài kiến thức trong SGK Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5 có thể
còn khó hiểu đối với HS lớp 4, lớp 5 ở các vùng khó khăn. Trong nhiều trường hợp, GV
có thể giải quyết bằng các biện pháp dạy học linh hoạt nhằm "dễ hoá" nội dung học tập
cho phù hợp với đối tượng HS lớp dạy. Đối với bài tập 1 nêu trên, GV có thể chọn một
trong hai phương án dạy học gợi ý dưới đây.
(1) Dựa vào nội dung đoạn văn có hai từ phi nghĩa, chính nghĩa để đặt câu hỏi dẫn dắt,
gợi mở HS nhận biết, so sánh nghĩa từ. VD:
- Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của quân đội Pháp có được những người tốt ủng
hộ không? (Không)
-Đó là cuộc chiến tranh có mục đích thế nào? (Mục đích xấu xa, xâm lược nước khác, ...)
-Từ đó em hiểu cuộc chiến tranh có tính chất phi nghĩa là cuộc chiến tranh thế nào?
(Cuộc chiến tranh có mục đích xấu xa, không được mọi người ủng hộ.)

Trang 264

214
* GV chốt lại: phi nghĩa là trái với đạo đức tốt đẹp, không hợp với lez phải (trái với đạo
lí).
- Chiến đấu vì chính nghĩa là chiến đấu vì mục đích gì? (Vì lẽ phải, chống lại cái xấu,
bảo vệ đạo đức tốt đẹp, ...)
* GV chốt lại: chính nghĩa là đúng với đạo đức tốt đẹp, hợp với lẽ phải (đúng với đạo lí).
- Nghĩa của từ phi nghĩa và từ chính nghĩa giống nhau hay trái ngược nhau (Trái
ngược nhau)
* GV chốt lại : Hai từ có nghĩa trái ngược nhau đó là những từ trái nghĩa
(2) Yêu cầu HS đọc kĩ đoạn văn có hai từ phi nghĩa, chính nghĩa. Sau đó, giảng giải và
dẫn dắt để HS hiểu và so sánh nghĩa từ. VD:
* GV giảng: Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của quân đội thực dân Pháp là cuộc
chiến tranh có mục đích xấu xa, không được những người tốt (có lương tri) ủng hộ. Đó là
cuộc chiến tranh phi nghĩa.
-Vậy, em hiểu từ phi nghĩa có nghĩa là đúng với đạo đức tốt đẹp, hợp với lẽ phải hay trái
với đạo đức tốt đẹp, không hợp với lẽ phải? (Trái với đạo đức tốt đẹp, không hợp với lẽ
phải.)
* GV chốt lại: Những điều đó còn gọi là trái với đạo lí.
* GV dẫn dắt và hỏi: Phan Lăng rất tự hào cùng con trai đi thăm Việt Nam, về lại nơi ông
đã từng chiến đấu vì chính nghĩa. Điều đó cho em biết Phan Lãng đã chiến đấu vì mục
đích như thế nào? (Vì mục đích tốt đẹp, phù hợp với đạo đức và lẽ phải.).
* GV chốt lại: Từ đó ta thấy chính nghĩa là đúng với đạo đức tốt đẹp, hợp với lẽ phải
(còn gọi là đúng với đạo lí).
- Nghĩa của từ phi nghĩa và từ chính nghĩa giống nhau hay trái ngược nhau? (Trái
ngược nhau)
TK
* GV chốt lại: Hai từ có nghĩa trái ngược nhau đó là những từ trái nghĩa.
Về mặt nguyên tắc, nội dung dạy học trong SGK đã được Hội đồng Quốc gia thẩm định,
được Bộ trưởng phê duyệt và ban hành, do vậy không thể tuỳ tiện thay đổi. Việc thay thế
bài tập có nội dung khác so với SGK dễ gây trở ngại, cho HS trong quá trình học tập, khó
đảm bảo những yêu cầu sư phạm của bài

Trang 265
học môn Tiếng Việt (phù hợp chủ điểm, thể hiện tính tích hợp, ...). Do đó, khi SGK chưa
được chỉnh lí về nội dung, cách giải quyết tích cực của GV đối những bài tập chưa thật sự

215
phù hợp với trình độ HS lớp dạy là vận dụng văn bản Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và
học cho học sinh tiểu học của GD&ĐT (công văn 896/ BGDĐT-GDTH ngày 13/2/2006),
tìm ra cách hướng dẫn thích hợp để HS thực hiện được mục đích, yêu cầu đặt ra đối với
với bài học và đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng theo chương trình quy định.
Câu 162
(?) Dạy bài Mở rộng vốn từ ở các lớp 4, 5, giáo viên có phải cung cấp cho học sinh
đầy đủ các từ ngữ nêu trong SGV Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5 hay không?
: Các bài Mở rộng vốn từ theo chủ điểm ở lớp 4, lớp 5 thường xuất hiện hai kiểu bài tập:
- Mở rộng vốn từ theo cấu tạo từ. VD: Trong từ Tổ quốc, tiếng quốc có nghĩa là nước.
Em hãy tìm thêm những từ chứa tiếng quốc (Bài tập 3, Mở rộng vốn từ: Tổ quốc, Tiếng
Việt 5, tập một, tr. 18).
- Mở rộng vốn từ theo trường liên tưởng từ vựng. VD: Tìm thêm từ ngữ chỉ các đồ chơi
hoặc trò chơi khác. (Bài tập 2, Mở rộng vốn từ: Đồ chơi - Trò chơi, Tiếng Việt 4, tập
một, tr. 148)
Tập hợp các từ cần tìm ở bài tập theo hai kiểu nói trên là một hệ thống mở" (số lượng từ
HS tìm được có thể không xác định và mang dấu ấn của sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân).
Dựa vào yêu cầu của bài tập (có thể kèm mẫu gợi ý trong SGK), HS thường làm việc
theo cặp (nhóm) hoặc thi tìm được nhiều từ đáp ứng yêu cầu đã cho.
Để giúp GV có cơ sở để nhận xét, đánh giá các từ do HS tìm được hoặc bổ sung một số
từ cần thiết mà HS chưa tìm ra, SGV Tiếng Việt 4, Tiếng Việt 5 thường đưa ra Lời giải
(không yêu cầu GV nêu đầy đủ các từ) hay Ví dụ, hoặc cung cấp Tư liệu dành riêng cho
GV tham khảo với số lượng từ khá phong phú, đa dạng. Dựa vào kết quả tìm từ của HS,
GV cần sử dụng nguồn tư liệu nêu trong SGV sao cho hợp lí, VD: dùng làm căn cứ để
xác định các từ do HS nêu ra đã đúng yêu cầu của bài tập hay chưa, lựa chọn một số từ
ngữ thông dụng và cần thiết để cung cấp thêm cho HS (nếu HS chưa nêu ra được Các từ
ngữ đó và số lượng từ ngữ tìm được quá ít) ; không nhất thiết phải nêu đầy đủ các từ ngữ
đã gợi ý trong SGV.

Trang 266
Câu 163:
Khi dạy về 3 kiểu câu Ai làm gì ? Ai thế nào ? Ai là gì ? ở lớp 4, giáo viên gọi hai bộ
phận câu là “ bộ phận chủ ngữ”, “bộ phận vị ngữ”, hay “chủ ngữ”, “vị ngữ” ?
Ba kiểu câu Ai làm gì ? Ai thế nào ? Ai là gì ? là ba kiểu câu kể cơ bản đều gồm hai bộ
phận : chủ ngữ - vị ngữ.Ba kiểu câu này được dạy trong SGK Tiếng Việt 4 với cấu tạo
chủ ngữ(CN), vị ngữ (VN) như sau:
Kiểu câu Chủ ngữ Vị ngữ
Ai làm gì ? - Thường là do danh từ hoặc cụm - Do động từ hoặc cụm động
danh từ tạo thành. từ tạo thành.

216
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.7) (Tiếng Việt 4, tập 1, tr.171)
Ai thế nào ? - Thường là do danh từ hoặc cụm - Do tính từ, động từ (hoặc
danh từ tạo thành. cụm tính từ, cụm động từ)tạo
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.36) thành.
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.30)
Ai là gì ? - Thường là do danh từ hoặc cụm - Được nối với chủ ngữ bằng
danh từ tạo thành. từ là .
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.69) - Thường do danh từ ( hoặc
cụm danh từ )tạo thành.
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.62)

Trong giảng dạy, khi hướng dẫn HS nhận biết cấu tạo của mỗi kiểu câu nói trên ta nói:
“câu kể…. gồm hai bộ phận: chủ ngữ và vị ngữ”.
VD: Câu kể Ai thế nào ? gồm hai bộ phận:
1. Chủ ngữ trả lời cho câu hỏi: Ai (cái gì, con gì)?
2. Vị ngữ trả lời cho câu hỏi: Thế nào ?
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.24)
Khi hướng dẫn HS xác định từng bộ phận của câu(CN, VN) hoặc nhận biết cấu tạo ngữ
pháp của bộ phận câu, ta chỉ cần gọi là chủ ngữ, vị ngữ (không cần dùng từ “bộ phận”.
VD : Xác định chủ ngữ của các câu vừa tìm được.
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.24)

Trang 267
Xác định vị ngữ của các câu trên.
Vị ngữ của các câu trên do những từ ngữ nào tạo thành
(Tiếng Việt 4, tập 2, tr.30)

VII - DẠY TẬP LÀM VĂN


Câu 164
Mức độ cần đạt về kiến thức và kỹ năng đối với phân môn Tập làm văn ở các lớp 1,
2, 3, 4, 5 được xác định như thế nào ?
Mức độ cần đạt về kiến thức, kỹ năng môn Tiếng Việt đối với HS từng lớp đã được quy
định rõ trong văn bản Chương trình giáo dục phổ thông - cấp Tiểu học ( Phàn thứ 2,
môn Tiếng Việt, mục III - Chuẩn kiến thức, kỹ năng).Căn cứ văn bản trên, dựa vào
nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn các kỹ năng cơ bản(nói, viết) của phân môn Tập làm
văn, có thể xác định những mức độ cần đạt đối với HS về phân môn Tập làm văn từ lớp
2 đến lớp 5 theo bảng dưới đây.
Lớp Mức độ cần đạt
2 - Kiến thức : Nhận biết đoạn văn, ý chính của đoạn văn ; biết cách tạo

217
lập một số loại văn bản thông thường (danh sách học sinh, tờ khai lý
lịch, thông báo, nội quy, bưu thiếp,….) ; biết một số nghi thức lời nói
(chào hỏi, chia tay, cám ơn, xin lỗi, yêu cầu, đề nghị, tự giới thiệu,…).
- Kỹ năng : Biết viết đoạn văn kể, tả đơn giản có độ dài khoảng 3 - 5
câu bằng cách trả lời câu hỏi ; biết điền vào bản khai lý lịch, giấy mời
in sẵn ; viết danh sách tổ, thời gian biểu, tin nhắn, bưu thiếp(theo mẫu).
Biết giới thiệu vài nét về bản thân và những người xung quanh.
3 - Kiến thức : Biết cấu tạo ba phần của bài văn ;bước đầu nhận biết
đoạn văn và ý chính của đoạn văn ; bước đầu nhận biết cấu tạo của một
số loại văn bản thông thường(bức thư, lá đơn, báo cáo đơn giản về
công việc).
- Kỹ năng : Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu ; biết viết thư ngắn để
báo tin tức hoặc hỏi thăm người thân ; viết được đoạn văn kể, tả đơn
giản(6 - 8 câu) theo gợi ý.Ghi lại được một vài ý trong bản tin ngắn
đã nghe.

Trang 268

Nói được đoạn văn đơn giản về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng
tranh hoặc câu hỏi ; bước đầu biết phát biểu ý kiến trong cuộc họp ;
biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của tổ,của lớp.
4 - Kiến thức : Nhận biết các phần của bài văn kể chuyện, miêu tả : mở
bài, thân bài, kết bài ; biết cách lập giàn ý cho bài văn kể chuyện,
miêu tả ; biết cách viết đơn, thư (theo mẫu).
- Kỹ năng : Biết tìm ý cho đoạn văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, cây
cối, con vật) ; viết được đoạn văn theo giàn ý đã lập ; biết dùng từ, đặt
câu, sử dụng dấu câu.
Biết lập giàn ý cho bài văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, cây cối, con
vật) ; bước đầu viết được bài văn theo giàn ý đã lập có độ dài khoảng
150 - 200 chữ.Viết được các văn bản thông thường : thư, đơn, báo cáo
ngắn, điện báo, …..Biết tóm tắt đoạn tin, mẩu tin, câu chuyện đơn
giản.
Biết giới thiệu ngắn gọn về lịch sử, về hoạt động, về nhân vật tiêu biểu
ở địa phương.
5 - Kiến thức : Bước đầu nhận diện và sử dụng một số biện pháp liên kết
câu trong nói và viết ; biết cách làm bài văn tả cảnh, tả người.
- Kỹ năng : Biết tìm ý cho đoạn văn và viết đoạn văn kể chuyện, miêu

218
tả ; biết dụng một số biện pháp liên kết câu trong đoạn.
Biết lập giàn ý cho bài văn tả cảnh, tả người ; biết viết bài văn kể
chuyện hoặc miêu tả có độ dài khoảng 200 chữ ; biết viết một số văn
bản thông thường : đơn,biên bản, báo cáo ngắn, chương trình hoạt
động.
Biết giải thích để làm rõ vấn đề khi trao đổi với bạn bè, thầy cô ;
bước đầu biết nêu lý lẽ để bày tỏ sự khẳng định hoặc phủ định. Biết
giới thiệu thành đoạn hoặc bài ngắn về lịch sử, văn hóa, về các nhân
vật tiêu biểu,… của địa phương.

Câu 165:
Khá nhiều tiết Tập làm văn ở lớp 2 yêu cầu học sinh thực hiện 3 hoặc 4 bài tập,
trong đó có cả bài tập luyện nói và bài tập luyện viết ( Ví dụ : Tập làm văn Tuần 3,
Tập làm văn Tuần 4). Giáo viên cần hướng dẫn như thế nào để học sinh để học
sinh đạt được yêu cầu cơ bản của bài dạy ?

Trang 269

Một số tiết Tập làm văn (TLV) ở lớp 2 tuy có 3 hoặc 4 bài tập nhưng chỉ đòi hỏi HS thực
hiện những yêu cầu rất đơn giản nhằm đáp ứng chuẩn kiến thức, kĩ năng theo chương
trình quy định. Điều cần lưu ý đối với GV khi hướng dẫn HS thực hiện những bài tập nói
trên là: vận dụng các biện pháp dạy học một cách linh hoạt; xác định rõ mức độ yêu cầu
cơ bản càn đạt( không vượt quá yêu cầu quy định); căn cứ trình độ HS lớp dạy để lựa
chọn phương án dạy học thích hợp ( VD: có thể giảm bớt “bài tập đồng dạng” để làm cho
tiết dạy nhẹ nhàng, hiệu quả đối với HS ở các vùng khó khăn).
Dưới đây, xin gợi ý sơ lược cách dạy hai bài TLV đã nêu trong câu hỏi.
1.Bài TLV Tuần 3( SGK Tiếng Việt 2, tập một, tr.30)
Ba bài tập trong tiết dạy nhằm giúp HS: Bước đầu biết cách “sắp xếp câu trong bài”( bài
tập 1 và bài tập 2); tập lập bảng danh sách một nhóm từ 3 đến 5 HS trong tổ học tập (bài
tập 3).
-Bài tập 1 ( Sắp xếp lại thứ tự 4 tranh trong SGK về câu chuyện Gọi bạn và kể lại câu
chuyện đó.)
+GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài tập ( có thể đọc lại bài thơ Gọi bạn để nhớ
lại diễn biến câu truyện, kết hợp gợi ý bằng câu hỏi ( nếu cần), VD:
*Tranh 1 vẽ hai bạn nào sống với nhau trong rừng? ( Bê Vàng, Dê Trắng)
*Tranh 2 vẽ bạn nào đang gọi Bê? ( Dê Trắng)/ Vì sao Dê Trắng phải gọi bạn? ( Vì Bê
Vàng đi tìm cỏ bị lạc đường về.)

219
*Tranh 3 vẽ Bê Vàng đang lang thang đi đâu? ( Đi tìm cỏ)
* Tranh 4 vẽ cảnh suối và cây cỏ trong rừng thế nào? (Suối cạn, cây cỏ xơ xác, khô héo.)
*Gợi ý HS sắp xếp lai thứu tự các tranh ( trước, sau): Tranh thứ mấy là tranh mở đầu
câu chuyện? (Tranh thứ nhất)/ Sự việc hạn hán xảy ra được vẽ trong tranh nào?( Tranh
thứu tư)/ Tranh thứ mấy vẽ sự việc tiếp theo ( Bê Vàng đi tìm cỏ)? (Tranh thứ ba)/ Tranh
nào được xếp cuối cùng? (Tranh thứu hai). GV chốt lại thứ tự đúng của các tranh: 1-4-3-
2.(Nếu có 4 tranh rời, GV cho HS sắp xếp lại các tranh cho đúng thứ tự trước khi kể lại
câu truyện.)

Trang 270

+ Hướng dẫn HS dựa vào tranh (thứ tự đúng) kể lại câu chuyện Gọi bạn. (Kể trước lớp,
hoặc tập kể theo nhóm rồi thi kể trước lớp đối với HS có điều kiện học tập thuận lợi.)
- Bài tập 2 ( Sắp xếp lại 4 câu trong truyện Kiến và Chim Gáy cho đúng thứu tự.)
+ GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài tập ( đọc kĩ 4 câu để hiểu thứ tự sự việc
xảy ra trước, sau cho đúng).
+ Yêu cầu HS ghi vào vở nháp ( hoặc bảng con) thứ tự đúng của từng câu trong truyện.
Có thể gợi ý: Theo em, sự việc nói ở câu a hay sự việc nói ở câu b xảy ra trước tiên ?
( Câu b)/ Tiếp theo là sự việc nói ở câu nào? (Câu d)/ Sự việc nói ở câu nào cho thấy
Kiến được cứu ? (Câu a)/ Kết thúc câu chuyện được nói ở câu nào? ( Câu c). GV chốt lại
thứ tự đúng của các câu : b -d-a-c; yêu cầu HS đọc nối tiếp các câu theo thứ tự đúng để
tạo thành câu chuyện. ( Nếu có băng giấy ghi từng câu, GV cho HS sắp xếp lại 4 băng
cho đúng thứ tự trước khi đọc thành câu chuyện.)
- Bài tập 3 ( Lập danh sách một nhóm từ 3 đến 5 bạn trong tổ học tập, theo mẫu cho
trước.)
+ GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài tập. Sau đó, yêu cầu HS mở bài Tập đọc
Danh sách học sinh tổ 1, lớp 2A ( SGK, tr.25), đọc và nhận xét: Tên học sinh trong dánh
sách được xếp theo thứ tự nào? (Thứ tự Bảng chữ cái: a,b,c,...) GV chốt lại : Khi lập
danh sách, cần xếp tên các bạn trong tổ theo thứu tự Bảng chữ các đã học.
+ Hướng dẫn HS kẻ bảng Danh sách vào vở, VD: cột Số thứ tự để 1 ô li; cột Họ và tên 6
ô li; cột Nam, nữ (có thể viết 2 dòng) 2 ô li; cột Ngày sinh 3 ô li;cột Nơi ở khoảng 4 ô li –
ghi ngắn gọn, nếu thiếu có thể viết 2-3 dòng
+ Nhắc HS chọn 3(hoặc 4-5) tên bạn trong tổ , ghi ra giấy nháp để xếp cho đúng thứ tự
Bảng chữ cái khi ghi vào Danh sách.
+ HS đọc Danh sách đã lập để các bạn và GV nhận xét , góp ý( nếu chưa đúng yêu cầu).
Lưu ý: GV có thể hướng dẫn thựuc hiện bài tập 1 trong khoảng 12 phút, bài tập 2 khoảng
8 phút, bài tập 3 khoảng 15 phút.

220
Trang 271
2. Bài TLV Tuần 4 (SGK Tiếng Việt 2, tập một, tr.38)
Bốn bài tập trong tiết dạy nhằm giúp HS: Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp với tình
huống giao tiếp; nói được 3 – 4 câu về nội dung mỗi tranh (SGK) trong đó có dùng lời
cảm ơn hoặc xin lỗi thích hợp; viết được những câu đã nói về một trong hai bức tranh
trong SGK.
- Bài tập 1 (Nói lời cảm ơn theo tình huống cho trước)
+ Phương án 1: GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài tập, làm mẫu theo tình
huống a; yêu cầu HS trao đổi theo cặp về hai tình huống b,c (nói lời cảm ơn phù hợp),
sau đó nêu kết quả trước lớp. (Lưu ý HS dùng lời cảm ơn lịch sự, hợp với tình huống và
đúng quan hệ với người đối thoại, VD: lễ phép, kính trọng đối với cô giáo, thân ái với em
nhỏ).
+ Phương án 2: GV chỉ hướng dẫn HS nói lời cảm ơn theo hai tình huống (a,b), bớt tình
huống c (bài tập đồng dạng) đối với HS ở các vùng khó khăn.
- Bài tập 2 (Nói lời xin lỗi theo tình huống cho trước)
Cách hướng dân tương tự như bài tập 1 (chọn 1 trong 2 phương án phù hợp với trình
độ HS lớp dạy).
- Bài tập 3 (Nói 3 – 4 câu về nội dung mỗi bức tranh trong SGK, trong đó có dùng
lời cảm ơn hoặc xin lỗi thích hợp).
+ Sau khi hướng dẫn xác định yêu cầu của bài tập, GV gợi ý HS quan sát từng tranh,
tập nói 3 – 4 câu trước lớp; có thể sử dụng câu hỏi gợi ý, VD:
 Tranh 1: Bạn gái được ai cho một con gấu bông (mẹ hay cô, bác …)? Bạn đưa hai
tay làm gì? Bạn nói thế nào? (VD: Mẹ mua cho Hà một con gấu bông. Hà giơ hai
tay nhận gấu bông và nói: “Con cảm ơn mẹ ạ!”)
 Tranh 2: Bạn trai làm vỡ vật gì? Bạn khoanh tay và nhìn mẹ để làm gì? Bạn nói
với mẹ thế nào? (VD: Bạn trai làm vỡ lọ hoa trên bàn. Bạn khoanh tay đứng trước
mẹ để xin lỗi. Bạn nói: “Con xin lỗi mẹ ạ!”)
+ HS nói theo từng tranh trong nhóm (hoặc theo cặp), sau đó trình bày trước lớp để
nhận xét.
- Bài tập 4 (Viết lại những câu đã nói về một trong hai bức tranh ở bài tập 3).
GV hướng dẫn HS chọn 1 trong 2 tranh để viết 3 – 4 câu đã nói ở bài tập 3 vào vở; đọc
kết quả để nhận xét (lưu ý lời cảm ơn hoặc xin lỗi phù hợp).
Trang 272

221
Lưu ý: GV có thể hướng dẫn thực hiện bài tập 1 trong khoảng 5 phút, bài tập 2 khoảng 5
phút, bài tập 3 khoảng 13 phút, bài tập 4 khoảng 12 phút.
Câu 166
? Đối với những học sinh chưa từng nhìn thấy biển, giáo viên cần hướng dẫn
các em thực hiện yêu cầu Quan sát tranh và trả lời câu hỏi về cảnh biển (bài tập 3,
Tập làm văn Tuần 25, SGK Tiếng Việt 2, tập hai) và Viết lại những câu trả lời về
cảnh biển (bài tập 2, Tập làm văn Tuần 26, SGK Tiếng Việt 2, tập hai) như thế nào?
Bên cạnh việc phản ánh những sự vật, con người và cuộc sống gần gũi, quen biết với
HS, các bài học trong SGK Tiếng Việt còn dẫn dắt các em đến với bao điều mới lạ, giúp
: em mở mang về trí tuệ, phong phú về tâm hồn. Tiếp xúc với những điều chưa quen
các
biết, HS có thể gặp một số khó khăn nhất định song vẫn có khả năng tiếp nhận được nếu
GV: có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp.
Những HS chưa từng nhìn thấy biển khi thực hiện yêu cầu Quan sát tranh và trả lời câu
hỏi về cảnh biển (bài tập 3, TLV Tuần 25, Tiếng Việt 2, tập hai) có thể gặp khó khăn,
như: chưa biết tranh vẽ cảnh gì, chưa biết tên gọi một số sự vật vẽ trong tranh (sóng biển,
mặt biển, cánh buồm, chim hải âu,…). Do vậy, GV cần hiểu được những khó khăn của
HS để tìm cách giúp các em khắc phục trong quá trình quan sát tranh và trả lời câu hỏi.
Dưới đây là một số gợi ý về cách hướng dẫn HS thực hiện bài tập nói trên.
- Sau khi quan sát tranh, nếu HS không trả lời được câu hỏi a trong SGK (Tranh vẽ
cảnh gì?), GV cần giới thiệu: đây là tranh vẽ cảnh biển (vùng nước mặn rộng lớn
mênh mông trên trái đất). Sau đó, yêu cầu HS quan sát hình ảnh mặt trời trong tranh
để trả lời tiếp: Tranh vẽ cảnh biển vào lúc nào? (Tranh vẽ cảnh biển vào buổi sáng/
buổi sớm mai/ lúc mặt trời đang lên,…)
- GV giới thiệu hình ảnh sóng biển trong tranh (nếu HS chưa biết), mô tả trực quan
(bằng động tác) sự chuyển động của sóng biển để giúp HS trả lời câu hỏi b: Sóng
biển như thế nào? (Sóng biển nhấp nhô/ Sóng biển nhấp nhô trên mặt biển xanh,…)
- GV giới thiệu về cánh buồm, chim hải âu vẽ trong tranh (nếu HS chưa biết); có thể
nói thêm: nhờ cánh buồm (bằng vải), con thuyền có thể đi rất nhanh trên biển/ Chim
hải âu thường bay kiếm ăn trên biển, là người bạn rất gần gũi
Trang 273
với người đi biển. Sau đó, hướng dẫn HS trả lời câu hỏi c: Trên mặt biển có những
gì? (Những cánh buồm đang lướt sóng, những con chim hải âu đang bay lượn,…)
- Hướng dẫn HS trả lời tiếp câu d: Trên bầu trời có những gì? (Mặt trời đang lên,
mấy đám mây bồng bềnh trôi, từng đàn hải aai sải cánh bay xa,…)
Dựa vào kết quả thực hiện bài tập 3 trong tiết TLV Tuần 25 (Quan sát tranh và trả lời
câu hỏi về cảnh biển), GV hướng dẫn HS Viết lại những câu trả lời về cảnh biển ở bài
tập 3 trong tiết TLV tuần trước (bài tập 2, TLV Tuần 26) với yêu cầu cơ bản: Dựa vào 4
câu hỏi gợi ý, viết liền mạch các câu hỏi để tạo thành đoạn văn ngắn tả cảnh biển; câu
văn gọn và rõ ý.

222
Câu 167:
? Tiếp Tập làm văn lớp 3, Tuần 6 (SGK Tiếng Việt 3, tập một, tr.52) có hai bài
tập:
1. Kể lại buổi đầu em đi học
2. Viết lại những điều em vừa kể thành một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7 câu).
Để giúp học sinh lớp 3 thực hiện được yêu cầu của hai bài tập nói trên, giáo viên
cần lưu ý những điểm gì về phương pháp dạy học.
Tiết TLV Tuần 6 (lớp 3) có nội dung phục vụ cho chủ điểm đang học: Tới trường.
:
Trước khi học tiết TLV này, HS đã được tập đọc bài Nhớ lại buổi đầu đi học của nhà văn
: Tịnh. Qua thực hiện hai bài tập trong tiết TLV, HS cần đạt được yêu cầu nêu trong
Thanh
SGV Tiếng Việt 3, tập một, tr.138: Kể lại hồn nhiên, chân thật buổi đầu đi học của mình
(rèn kĩ năng nói); viết lại được những điểu vừa kể thành một đoạn văn ngắn (từ 5 đến 7
câu), diễn đạt rõ ràng (rèn kĩ năng viết).
Để giúp HS thực hiện tốt yêu cầu của tiết TLV nói trên, vào cuối tiết học trước, GV cần
nhắc HS về nhà đọc kĩ lại bài tập đọc Nhớ lại buổi đầu đi học. Quá trình hướng dẫn trên
lớp, GV cần lưu ý một số điểm về phương pháp dạy học như sau:
- Bài tập 1 (Rèn kĩ năng nói)
+ Sau khi HS xác định yêu cầu của bài tập, Gv cần chỉ dẫn: Kể lại buổi đầu em đi học,
em có thể nói về buổi đầu tiên đến trường tập trung để vào học
Trang 274
lớp 1 (ngày tựu trường hay ngày khai giảng, hoặc buổi đầu được cắp sách đến lớp –
không nhất thiết phải là ngày tựu trường hay ngày khai giảng).
+ Bám sát văn bản Chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định, GV cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi
gợi ý (có thể ghi bảng lớp hoặc chuẩn bị bảng phụ). VD:
a) Em đến trường đi học lần đầu vào buổi sáng hay buổi chiều?
b) Hôm ấy, em đi học một mình hay có ai đưa đi?
c) Trên đường tới trường, em nhìn thấy những cảnh gì?
d) Buổi đầu đi học, điều gì làm cho em thấy lạ lùng, bỡ ngỡ?
e) Lúc đó, em mong muốn điều gì?
+ GV yêu cầu một HS (khá, giỏi) kể trước lớp để nhận xét, góp ý và hướng dẫn thêm về
kĩ năng nói (nếu cần), sau đó tổ chức HS kể cho nhau nghe theo từng cặp rồi thi kể trước
lớp (2 - 3 em). Để giúp HS luyện tập tốt, GV có thể sử dụng biện pháp gợi mở, dẫn dắt
nhằm giúp các em nói được những câu văn cụ thể, sinh động. VD:
 HS trả lời câu a: Em đến trường đi học lần đầu vào buổi sáng.
 GV hỏi thêm: Đó là buổi sáng mùa nào? Tiết trời lúc đó ra sao?
 Từ đó, GV giúp HS có thể nói được một câu hoàn chỉnh: Em đến trường đi học
lần đầu vào một buổi sáng mùa thu mát mẻ.
- Bài tập 2 (Rèn kĩ năng viết)

223
+ Sau khi HS xác định yêu cầu của bài tập, GV cần nhắc nhở: Dựa vào từng câu hỏi để
viết thành câu trả lời rõ ràng, đủ ý; có thể viết từ 5 đến 7 câu (hoặc nhiều hơn 7 câu) để
thành đoan văn ngắn với lời kể chân thực, giản dị; chữ viết rõ ràng, sạch sẽ, đúng chính
tả. (Chú ý: GV không yêu cầu HS viết thành bài văn có bố cục hoàn chỉnh ba phần: mở
bài, thân bài, kết bài).
+ Tùy điều kiện và trình độ của HS lớp dạy, GV có thể yêu cầu các em viết vào vở nháp
rồi đọc trước lớp để nhận xét, rút kinh nghiệm chung (sau đó về nhà hoàn chỉnh và viết
vào vở để GV chấm điểm vào tiết học sau), hoặc cho HS viết đoạn văn vào vở để GV
chấm ngay tại lớp (một số bài), sau đó chọn đọc 4 – 5 đoạn văn trước lớp để rút kinh
nghiệm chung.
Lưu ý: GV có thể hướng dẫn thực hiện bài tập 1 trong khoảng 20 phút, bài tập 2 khoảng
15 phút.
Trang 275
+ Căn cứ vào yêu cầu cần đạt, GV đánh giá kết quả luyện tập của HS một cách đúng mức
nhằm động viên, khuyến khích sự cố gắng của từng em. VD:
 Dựa vào các câu hỏi nêu trên, HS viết được đoạn văn như sau có thể đánh giá ở
mức trung bình khá:
Em đến trường đi học lần đầu vào một buổi sáng. Hôm ấy, mẹ đưa em đi học rất sớm.
Trên đường tới trường, em nhìn thấy nhiều bạn cũng được bố mẹ đưa tới lớp nhưng cũng
có bạn đi học một mình. Buổi đầu đi học, nhìn các anh chị lớn tuổi chơi đùa và các bạn
chưa quen biết, em cảm thấy thật lạ lùng, bỡ ngỡ. Lúc đó, em mong muốn được quen biết
mọi người và được vui đùa cùng các bạn.
 Dựa vào các câu hỏi nêu trên, HS viết được đoạn văn như sau có thể đánh giá ở
mức giỏi:
Nhớ lại buổi đầu tiên đi học, lòng em lại bồi hồi, náo nức. Buổi sáng hôm ấy, mẹ em bận
đi công tác nên bố đưa em tới trường. Tới cửa trường, bố dừng lại mua cho em một quả
bóng bay và lá cờ đổ sao vàng rất đẹp. Bố đưa em vào tận sân trường, đến chỗ cô giáo
đang tập trung các bạn học sinh lớp một. Lúc đầu em còn bỡ ngỡ nhưng khi nhìn thấy
mấy bạn cùng phố đã quen biết, em mừng quá chạy lại chuyện trò tíu tít. Buổi lễ khai
giảng năm học mới hôm ấy thật vui vẻ. Những quả bóng xanh đỏ thi nhau bay vút lên trời
cao như mang theo cả niềm vui buổi đầu đi học của chúng em.
Câu 168
? Làm thế nào để hướng dẫn học sinh lớp 3 thực hiện tốt yêu cầu của hai tiết
Tập làm văn về Tập tố chức cuộc họp (Tuần 5 và Tuần 7) ?
: Tập tố chức một cuộc họp tổ là cơ hội giúp HS lớp 3 rèn kĩ năng theo Chuẩn quy
định: bước đầu biết phát biểu ý kiễn trong cuộc họp. SGK Tiếng Việt 3, tập một rèn kĩ
: nói trên cho HS theo cách tích hợp như sau:
năng
- Dạy bài Tập đọc Cuộc họp chữ viết (Tuần 5) để HS hình dung cụ thể một cuộc
họp, nhận biết được cuộc họp lớp thường diễn biến theo trình tự: a) Nêu mục đích

224
cuộc họp; b) Nêu tình hình của lớp; c) Nêu nguyên nhân dẫn đến tình hình đó; d)
Nêu cách giải quyết; e) Giao việc cho mọi người.
(Câu hỏi 3, SGK Tiếng Việt 3, tập một, tr.45).

Trang 276

Dạy tiết TLV ở Tuần 5 với yêu cầu thực hành luyện tập bước đầu: Dự cuộc họp mà em
đã biết, hãy cùng các bạn tổ chức một cược họp tổ. (Sgk gợi ý 4 nội dung gần gũi với
việc học tập ở trường, lớp để HS lựa chọn: Giúp đỡ nhau học tập; chuẩn bị các tiết mục
văn nghệ thực móng ngủy 20 – 11; Trang trí lớp học; Giữ vệ sinh chung )
- Dạy tiết TLV ở Tuần 7 với yêu cầu luyện tập củng cố thêm về kĩ năng phát biểu ý kiến
trong cuộc họp: Hãy cùng các bạn trong đó mình tổ chức một cuộc họp. (SGK gợi ý về
nội dung cuộc họp: trao đổi về trách nhiệm của HS trong cộng đồng. VD: Tôn trọng luật
đi đường; Bảo vệ của công; Giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn. )
Để hướng dẫn HS thực hiện tốt yêu cầu của hai tiết TLV Tuần 5 và Tuần 7, GV cần lưu ý
một số điểm sau:
TLV Tuần 5
(1) Trước khi học tiết TLV Tuần 5, GV yêu cầu HS dọc kĩ lại bài Tập đọc đã học Cuộc
hợp của chữ viết (chú ý ghi nhớ diễn biến của cuộc họp nếu trong bài tập 3),
(2) Sau khi xác định yêu cầu đề bài, GV cần hướng dẫn HS
- Xác định rõ nội dung cuộc họp bàn về vấn đề gì (dựa theo gợi ý trong SGK hoặc tự nghĩ
ra vấn đề khác liên quan đến việc học tập, VD : Giúp bạn học bài ở nhà khi bạn bị ốm
không đi học được,...)
- Nắm vững trình tự tổ chức cuộc họp (như diễn biến đã biết trong Cuộc họp của chữ
viết)./ (GV có thể ghi bảng phụ hoặc bảng lớp trình tự 5 bước tổ chức cuộc họp để HS đễ
theo dõi và thực hiện).
(3) Căn cứ nội dung cuộc họp đã được các tổ xác định (do tổ trưởng báo cáo), GV chọn
cách hướng dẫn HS thực hành luyện tập (họp tổ) cho phù hợp :
- Nếu các tổ chọn nội dung khác nhau, GV đến từng tổ để gợi ý cho tổ trưởng mời các
bạn phát biểu ý kiến xung quanh vấn đề nêu ra và tìm cách giải quyết như thế nào. VD:
+ Để giải quyết vấn đề giúp đỡ nhau học tập, ý kiến phát biểu có thể nêu ra tình hình học
tập của tổ trong thời gian qua (kết quả ra sao, nguyên nhân nào dẫn đến kết quả đó); bàn
cách khắc phục tình hình yếu kém hoặc nâng cao

225
Trang 277
kết quả hơn nữa (cần thực hiện những biện pháp giúp đỡ nhau học tập như thế nào...)

+Để chuẩn bị các tiết mục văn nghệ chúc mừng ngày 20 – 11, ý kiến phát hiểu có thể đề
xuất những tiết mục cụ thể (hát, múa, biểu diễn nhạc cụ, tiểu phẩm...); chỉ ra những người
tham gia những tiết mục đó và bàn cách chuẩn bị (luyện tập vào lúc nào, cả tổ góp ý cho
tiết mục sẽ biểu diễn ra sao, cần chuẩn bị những gì để phục vụ tốt cho việc biểu diễn tiết
mục đó,..)
+ Để trang trí lớp học, ý kiến phát biểu có thể để xuất những nội dung mà cả có có thể
làm được (tìm vật gì để trang trí, đặt nó ở vị trí nào, tác dụng của vật đó đối với lớp học
sẽ ra sao,..) ; bàn cách để thực hiện việc trang trí đó (làm vào lúc nào, cần chuẩn bị những
gì,…)
+ Để bàn việc giữ vệ sinh chung, ý kiến phát biểu có thể nêu ra tình hình giữ gìn vệ sinh
của tố (lớp, trường) trong thời gian qua (có những điểm nào tốt, điểm nào chưa tốt,
nguyên nhân do đâu,…, ) ; nêu ra những biện pháp cụ thể để khắc phục điểm chưa tốt
hoặc phát huy những điểm tới nhằm giữ gìn vệ sinh chung (yêu cầu từng bạn trong tổ
phải làm gì, cán kiểm tra, nhắc nhớ các bạn ra sao, ai làm việc đó...)
– Nếu các tố chỉ tập trung chọn 1 – 2 nội dung. GV có thể gợi ý trước lớp để tổ trưởng
biết cách mời các bạn trong tổ phát biểu ý kiến xung quanh vấn đề nêu ra và tìm cách giải
quyết như thế nào (theo những gợi ý trên).
- Gợi ý tổ trưởng cách kết luận vấn đề đã bàn bạc trong tổ và giao việc cho mọi người
(làm việc gì, đạt kết quả thế nào,…). VD Để chuẩn bị các tiết mục văn nghệ chào mừng
ngày 20 – 11, cả tổ sẽ hát tốp ca bài hát Mừng thầy cô, bạn Minh Hoà sẽ đơn ca bài Bụi
phấn, bạn Long Thành độc tấu đàn ooc-gan bài Bài ca người giáo viên nhân dân. Các tiết
mục cá nhân cần luyện tập ở nhà cho thật tốt, tiếp mục tốp ca của tổ sẽ tập 30 phút sau
buổi học hàng ngày. Cả tổ cần có mặt đông đủ sau buổi học chiều thứ sáu tuần tới để
duyệt lại lân cuối trước khi biểu diễn. Mỗi bạn cần tự chuẩn bị đồng phục sạch đẹp để
mặc khi biểu diễn, bạn Quân và bạn Hoàng đang cùng giúp bạn Long Thành kê đàn ooc –
gan lên sân khấu…

(4) Theo dõi, gợi ý, giúp đỡ các tổ làm việc đúng yêu cầu ( khuyến khích học sinh mạnh
dạn phát biểu trong tổ); tổ chức học sinh quan sat 2-3 tổ thi tổ chức
Trang 278
Cuộc họp để nhận xét, rút kinh nghiệm chung (Chú ý : lớn có nhiều HS yếu, kém, GV
nềa hang dẫn và cụ thể cho 1 tổ “làm mẫu” trước để các tổ học tập cách tổ chức và làm
theo cho đúng yêu cầu.)
226
TLV Tuần 7
(1) Sau khi xác định yêu cầu đề bài, GV cần hướng dẫn HS:
- Xác định nội dung cuộc họp bàn về vấn đề gì (dựa theo gợi ý trong SGK hoặc tự nghĩ ra
văn đề khác nói về trách nhiệm của HS trong cộng đồng. VD: Giữ gìn môi trường xanh -
sạch- đẹp,..)
-Nhớ lại cách tổ chức cuộc họp đi thu, hình ở tiết ILV Tuan 5 và hình dung theo từng vai
để chuẩn bị :
+ Nếu đóng vai tổ trưởng (điều hành cuộc họp), em sẽ làm những việc gì? (Nêu rõ nội
dung cuộc hợp – bàn về vấn đề gì; mời các bạn phát biểu ý kiến xung quanh vấn đề nêu
ra và tìm cách giải quyết ; kết luận những ý đúng và giao việc cho mọi người thực hiện.)
+ Nếu đóng vai tố viên (tham gia cuộc họp), em sẽ phát biểu những ý kiến và vấn đề đưa
ra bàn bạc trong tổ ra sao ? VD:
* Vấn đề Tôn trọng luật đi đường: Trách nhiệm của HS là phải tuân theo những quy định
đã học về Luật giao thông, như: đi bộ trên hè đường, nơi không có hè đường phải đi sát lề
đường bên phải : muốn qua đường ở thành phố, thị xã..... phải đi đúng vạch sơn dành cho
người đi bộ khi có đèn an toàn (đèn xanh) hoặc phải quan sát xe cộ trên đường ở nông
thôn khi đi qua...
* Vấn đề Bảo vệ của công: Tinh thần bảo vệ của công (ở trường học, nơi công cộng)của
các bạn trong tổ em ra sao (có những điểm gì điểm gia hạn chế hoặc thiếu sót)? Để nâng
cao ý thức bảo vệ của công, cá nhân em và các bạn trong tổ cần làm gì? Theo em, nên có
những biện pháp nào để bảo vệ và giữ gìn tài sản chung của nhà trường của địa phương
(nêu rõ sự việc và biện pháp cụ thể)?...
* Vấn đề Giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn: Nơi em ở có người nào đang gặp hoàn
cảnh khó khăn? Hoàn cảnh cụ thể của người đó ra sao? Em có thể giúp người đó được
việc gì ? Em đề nghị cả tổ cùng bàn cách giúp đỡ

Trang 279
người dó thế nào (cả tổ nên thực hiện việc gì, từng người sẽ làm gì, chuẩn bị ra sao, kế
hoạch có thể thế nào)?
(2) Theo dõi, gợi ý giúp đỡ các tổ làm việc theo cách đã hướng dẫn ở tiết TLV Tuần 5.

Câu 169
? Yêu cầu của hai tiết Tập làm văn Tuần 23 ( kể về lễ hội), và Tuần 26 (Kể về một
ngày hội) trong SGK Tiếng Việt 3, tập hai có khác nhau? Để hướng dẫn học sinh
thực hiện được những yêu cầu đó, giáo viên cần lưu ý những điểm gì?

227
:Tiết TLV Tuần 25 yêu cầu HS rèn kĩ năng nói: Dựa vào kết quả quan sát một trong hai
bức ảnh lễ hội (chơi đu và đua thuyền) trong SGK. HS tả lại đúng và rõ quang cảnh và
hoạt động của những người tham gia lễ hội.
Tiểu TLV Tuần 26 yêu cầu HS ren cả hai kỹ năng nói và viết: Dựa vào hệ thống câu hỏi
gợi ý trong SGK. HS kể lại được rõ ràng, tự nhiên, giúp người nghe hình dung được
quang cảnh và hoạt động của một ngày hội mà em biết : sau đó viết lại những điều vừa kể
thành đoạn văn (khoảng 5 câu) đúng và rõ ý.
Như vậy, sau khi học một số bài Tập đọc về chủ điểm Lễ hội trong SGK (Hội vật, Hội
đua voi ở Tây Nguyên, Ngày hội năm xanh), HS được thực hành rèn kĩ năng nói thông
qua việc quan sát bức ảnh về lễ hội ở Tuần 25 (tiếp tục phát triển kĩ năng quan sát tranh
và trả lời câu hỏi được dạy từ lớp 2) ; chuẩn bị kể ngắn theo câu hỏi gợi ý về một ngày
hội mà em biết ở Tuần 26.
Để hướng dẫn HS thực hiện được yêu cầu của mỗi tiết TLV nói trên, GV của lưu ý một
số điểm sau về biện pháp dạy học :
TLV Tuần 25
Dựa vào khả năng nhận biết hai bức ảnh lễ hội in trong SGK để gợi ý HS quan sát, nói
thành câu tả ngắn về quang cảnh và hoạt động của những người tham gia lễ hội (trường
hợp HS chưa biết rõ sự vật, chi tiết trong anh, GV cần giới thiệu để các em hình dung
được). Một số câu hỏi gợi ý ở có thể dùng để hướng dẫn HS nói trước lớp như sau:

Trang 280

*Ảnh 1 (bên trái) :


a) Đây là cảnh lễ hội thường diễn ra ở đâu, vào thời gian nào ? (Đây là cảnh lễ hội
thường diễn ra ở nông thôn, vào đầu mùa xuân – vì có băng chữ trước cửa đình: Chúc
mừng năm mới.)
b) Quang cảnh lễ hội như thế nào (cảnh vật, con người và hoạt động) ? (Quang cảnh lễ
hội thật tưng bừng, đong vui – thể hiện qua những hình ảnh : lá cờ ngũ sắc đang bay
trước gió , người đứng xem chơi đu và đi lại trên sân đình rất đông đúc...)
c) Hoạt động nổi bật trong bức ảnh là gì ? (Hai thanh niên đang chơi đu: tay nắm chắc
giông tre, chân đứng vững trên đu, ra sức nhún đẩy để đưa đu lên cao, xuống thấp...)
d) Theo em, những người đang theo dõi hoạy động đó có thái độ như thế nào ? (Chiêm
ngưỡng, thán phực những người chơi đu trên cao,...)
* Ảnh 2 (bên phải):

228
a) Đây là cảnh lễ hội gì, diễn ra ở đâu ? (Đây là cảnh lễ hội đua thuyền, diễn ra trên
sông.)
b) Hoạt động trên mặt sông có gì nổi bật ? (Trên mặt sông, những chiếc thuyền đua đang
lao đi vun vút. Mọi người trên thuyền đang gắng sức, đều tay chèo lái để đưa thuyền về
nhanh tới đích...)
c) Màu sắc, quang cảnh bên bờ sông ra sao ? (Bên những rặng cây xanh ven bờ, người
đứng xem cổ vũ thật đông vui. Chùm bóng lớn nhiều màu sắc rực rỡ neo ở gần bờ càng
làm cho không khí lễ hội thêm tưng bừng, náo nức.)
Chú ý : Nếu có ảnh lễ hội gần gũi với HS địa phương (tương tự hai bức tranh ảnh trong
SGK), GV cũng có thể cho HS lựa chọn để tả lại quang cảnh và hoạt động của những
người tham gia lễ hội đó để rèn kĩ năng nosi được thuận lợi.
TLV Tuần 26
Dựa vào thực tế địa phương để hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu luyện tập: Kể về một
ngày hội mà em biết. GV cần gợi ý HS rõ :
-Có thể kể về ngày hội hoặc lễ hội (vì trong lễ hội có cả phần hội).

Trang 281
- Có thể kể về ngày hội ( lễ hội ) đã diễn ra ở địa phương ( GV nêu ví dụ cụ thể ) hoặc
diễn ra ở nơi khác mà em có dịp chứng kiến, hoặc kể về một ngày hội ( lễ hội ) em được
thấy khi xem ti vi, xem phim,…
- Có thể dựa vào casv câu hỏi gợi ý (SGK) để trả lời thành câu rồi nối các câu thành đoạn
văn kể chuyện ngắn gọn.
Sauk hi HS lựa chọn được một ngày hội và tập kể lại (nói) theo câu hỏi gợi ý, GV giúp
các em thực hiện bài tập 2 ( viết lại những điều em vừa kể về những trò vui trong ngày
hội – theo gợi ý chủ yếu ở câu hỏi e – thành một đoạn văn khoảng 5 câu ). GV yêu cầu
HS đọc đoạn văn để nhận xét, hướng dẫn thêm, giúp các em viết thành đoạn văn liền
mạch, đúng và đủ ý ( không đòi hỏi viết thành bài văn có đủ 3 phần như các lớp 4,5 ).
Câu 170
? Tiết Tập làm văn Tuần 28 ở lớp 3 có hai bài tập rèn luyện về hai kĩ năng khác
nhau : Kể lại một trận thi đấu thể thao – Viết lại một tin thể thao trên báo, đài. Để
hướng dẫn học sinh thực hiện được yêu cầu của tiết Tập làm văn này, giáo viên cần
lưu ý những điểm gì ?
: Tiết Tập làm văn nói trên trong SGK Tiếng Việt 3, tập hai, tr’88 giúp HS luyện tập theo
Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt ở lớp 3, thuộc chương trình môn Tiếng Việt cấp Tiểu
học ( xem nội dung giải đáp câu hỏi 164 ) : Nói được một đoạn đơn giản về người, vật
229
xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi ( Bài tập 1 : Kể lại một trận thi đấu thể
thao – theo gợi ý bằng câu hỏi trong SGK); Ghi lại được một vài ý trong bản tin ngắn đã
nghe ( Bài tập 2 : Hãy viết lại một tin thể thao em mới đọc được trên báo hoặc nghe được,
xem được trong các buổi phát thanh, truyền hình ).
Để đạt được yêu cầu của tiết Tập làm văn này, GV cần lưu ý một số điểm sau :
1. Hướng dẫn HS chuẩn bị chu đáo trước khi học tiết Tập làm văn :
= Đối với bài tập 1 : Cần gợi ý cho HS hiểu đúng yêu cầu nên trong sgk để chuẩn bị tốt
trước khi học. Cụ thể :
+ Nhớ lại những trận thi đấu thể thao đã được xem ở sân vận động ( sân trường, sân đình,
sân cỏ,…) hoặc xem trên ti vi, đọc sách báo, nghe người khác kể,…; chọn trong số đó
một trận thi đấu để kể lại

Trang 282
( Cần hiểu trận “thi đấu thể thao “ theo nghĩa đơn giản, gần gũi với lứa tuổi HS; có thể là
trận đấu tranh giải hoặc chỉ để giao lưu, vui chơi,… nhằm nâng cao thể lực con người,
theo một số quy tắc nhất định ).
+ Dựa theo gợi ý trong SGK ( có thể thay đổi trật tự các ý, thêm bớt nội dung miễn sao
cho hợp lí ). Hãy suy nghĩ và tìm ý để chuẩn bị tập kể ( nói ) trên lớp.
a) Đó là môn thể thao nào ? ( vd : bóng chuyền, bóng đá, bóng bàn,…)
b) Em tham gia hay chỉ xem trận đấu ? ( vd : em là cầu thủ trong đội bóng đá của lớp,
hoặc : em tham gia trong nhóm cổ động viên cho một bạn cùng lớp thi đấu bóng bàn,…)
c) Buổi thi đấu được tổ chức ở đâu ? ( vd : tổ chức ở nhà văn hóa quận hoặc tổ chức ở sân
vận động, ngay tại sân trường,…) Tổ chức khi nào ? ( vd: vào dịp kỉ niệm thành lập đoàn
26-3,… )
d) Em cùng xem với những ai ? ( vd : cùng xem với các bạn trong trường, với các bạn
cùng lớp,…)
e) Buổi thi đấu diễn ra như thế nào ? ( vd : diễn ra rất sôi nổi, mở đầu… sau đó… hết hiệp
1…sang hiệp 2…)
g) Kết quả thi đấu ra sao ? ( vd : đội bóng lớp 5A thắng đội bóng lớp 5B với tỉ số 3-2,….)
* Chú ý : GV cần căn cứ vào thực tế của địa phương để nêu ra các ví dụ cụ thể, dễ hiểu
đối với HS lớp dạy, giúp các em dễ dàng lựa chọn “ trận thi đấu thể thao “.

230
- Đối với bài tập 2 : Cần dặn dò HS đọc SGK và chuẩn bị bài theo yêu cầu của GV. Cụ
thể :
+ Xem lại bài tập đọc Tin thể thao (SGK, tr.86) để học cách viết tin.
+ Chọn một tin thể thao theo yêu cầu của đề bài : Tin mới đọc trên báo ( có thể
photocopy trang tin hoặc mang tờ báo đó đến lớp , nếu có điều kiện ), hoặc tin nghe
được, xem được các buổi phát thanh, truyền hình ( có thể ghi tóm tắt lại để nhớ nội dung
chính ). Cần chú ý : tin tức về thể thao được chọn phải chính xác ( nói về ai, sự kiện gì, ở
đâu… ) phải đúng với

Trang 283
Nguồn tin đã tiếp nhận ( qua sách báo nào, từ buồi phát thanh hoặc chương trình ti vi
nào…).
* Chú ý : Đối với các vùng khó khăn, nơi HS còn hạn chế về tiếp nhận thông tin, GV có
thể sưu tầm trước một vài tin trên sach báo cho HS đọc hoặc kể cho các em nghe một số
tin để các em biết , tạo điều kiện thuận lợi cho HS lựa chọn và chuẩn bị tiết TLV trên lớp.
2. Tổ chức, hướng dẫn làm bài tập phù hợp với trình độ HS
- Đối với các vùng HS có điều kiện chuẩn bị tốt, có khả năng thực hành thuận lợi, GV
tham khảo SGV Tiếng việt 3, tập 2, tr.176 để tổ chức và hướng dẫn HS thực hiện từng
bài tập với thời gian phân bố như sau : khoảng 20 phút đối với bài tập 1, khoảng 15 phút
đối với bài tập 2 ( HS có thể viết một tin thể thao chỉ bằng 1 câu hoặc 2-3 câu ngắn gọn,
tránh viết dài ).
- Đối với các vùng HS còn gặp nhiều khó khăn trong học tập, bên cạnh việc giúp HS
chuẩn bị chu đáo cho tiết học, GV còn phải vận dụng các hình thức tổ chức và phương
pháp dạy hoc một cách linh hoạt. Vd :
+ Dùng câu hỏi gợi ý ( chép sẵn trên bảng ), giúp đỡ 1-2 em kể trước lớp để sau đó HS
biết cách kể cho nhau nghe từng cặp ( bài tập 1 )
+ Gợi ý cách viết tin cụ thể đối với 1 HS trước khi yêu cầu cả lớp luyện tập. Khi HS viết
xong, cần cho nhiều em đọc mẩu tin để các bạn góp ý và GV hướng dẫn thêm ( bài tập
2 ). Hoặc : giao mỗi nhóm một bản tin ngắn ( do GV chuẩn bị trước), hướng dẫn HS trao
đổi và làm miệng trước khi viết mẩu tin vào bảng nhóm, sau đó từng nhóm lần lượt đọc
kết quả trước lớp để nhận xét, rút kinh nghiệm về cách viết tin theo yêu cầu của bài tập 2.
Câu 171

231
? Tiết TLV tuần 30 ở lớp 3 có yêu cầu : Với một bức thư ngắn ( khoảng 10 câu ) cho
một bạn nước ngoài đẻ làm quen và bày tỏ than áo. Nếu HS chưa hề gặp người bạn
nước ngoài thì GV hướng dẫn các em viết như thế nào ?
: Trước Tuần 30, HS lớp 3 đã được làm quen với kĩ năng viết thư ở mức độ đơn giản qua
hai tiết TLV Tuần 10 ( Viết một bức thư ngắn cho người thân ) và Tuần 13 ( Viết một
bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam hoặc miền Trung, miền Bắc để làm quen vag hẹn
bạn cùng thi đua, học tốt ).

Trang 284
Tiếp tục luyện tập về kĩ năng này, HS viết thư theo yêu cầu nêu trên nhằm hướng vào chủ
điểm đang học : Ngôi nhà chung (dạy ở các tuần 30,31,32). Theo gợi ý trong SGK về lý
do viết thư, nội dung bức thư, ta dễ dàng nhận thấy đè bài chỉ đặt ra “tình huống” để HS
luyện tập kĩ năng viết thư ngắn là chủ yếu ( tương tự đề bài luyện tập ở tuần 13 ), không
đòi hỏi HS phải quen biết, gặp gỡ người nhận thư. Do vậy, HS chỉ cần nêu rõ người bạn
đó ở nước nào, không nhất thiết phải nêu rõ tên bạn ( nếu dựa vào tên riêng nước ngoài
đã học trong bài Tập đọc để nêu tên bạn thì càng tốt ).
Để giúp HS chưa hề gặp người bạn nước ngoài viết được bức thư ngắn theo yêu cầu trên,
căn cứ vào trình độ HS lớp dạy, GV có thể lựa chọn một trong hai phương án dưới đây.
_ Phương án 1 : Thực hiện theo đề bài trong SGK nhưng có gợi ý, dẫn dắt cụ thể về
cách viết thư
+ Sauk hi xác định yêu cầu đề bài, GV hướng dẫn HS xác định lí do viết thư cho bạn
(SGK) và giải thích thêm về cách xác định đối tượng nhận thư : chỉ cần nêu rõ người bạn
đó ở nước nào ( vd : Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Anh, Pháp,…) không nhất thiết phải
nêu rõ tên bạn ( nếu dựa vào tên riêng nước ngoài đã học trong bài Tập đọc để nêu tên
bạn thì càng tốt. phải nêu rõ tên bạn ( nếu dựa vào tên riêng nước ngoài đã học trong bài
Tập đọc để nêu tên bạn thì càng tốt. Vd : Mô-ni-ca, Giét-xi-ca trong bài Gặp gỡ ở Lúc-
xăm-bua).
+ HƯớng dẫn HS nhớ lại cách viết thư đã học ở học kì I (Tuần 10, tuần 13) và dựa vào
gợi ý trong SGK ( mục 2 ) để trả lời câu hỏi ( sau đó GV chốt lại để HS nắm được cách
viết ) :
* Dòng đầu thư viết thế nào ? ( ngày, tháng , năm )
* Em xưng hô với bạn nhận thư ra sao ? ( vd: Bạn Mô-ni-ca thân mến ! hoặc Bạn X yêu
quý!...)
* Về nội dung, em sẽ viết những gì ? ( vd : Trước hết, em tự giới thiệu về mình : họ tên,
lớp, trường, ở nước nào; sau đó có thể nói lí do viết thư cho bạn và làm quen với bạn qua

232
những lời hỏi thăm về sức khỏe, tình hình học tập và sinh hoạt hằng ngày để bày tỏ tình
cảm thân mật, bộc lộ ý nghĩ chân thành về tình hữu nghị giữa thiếu nhi các dân tộc trên
thế giới; nói lời chúc. Lời hứa hẹn,….)

Trang 285
* Cuối thư, em viết những gì ? ( Lời chào, chữ kí, tên của người viết thư ).
* Hướng dẫn HS thực hành : Viết thư vào giấy rời ( hoặc viết vào vở nháp để sau đó chép
lại sạch sẽ vào giấy rời); đọc và góp ý thư theo cặp; đọc trước lớp để nhận xét, góp ý.
_ Phương án 2 : Điều chỉnh đề bài, có gợi ý và dẫn dắt cụ thể về cách viết thư
+ Với đối tượng HS có điều kiện học tập còn nhiều khó khăn, GV có thể điều chỉnh đề
bài như sau : Viết một bức thư ngắn ( khoảng 10 câu ) cho một bạn học sinh nói trong Bài
tập đọc Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua để làm quen và bày tỏ ý nghĩa của ems au khi học bài tập
đọc đó.
+ Gợi ý, dẫn dắt cụ thể về cách viết thư ( không dùng gợi ý 1 trong SGK) :
* Em chọn bạn HS nào trong bài tập đọc nào để viết thư ? ( vd: Mô-ni-ca, Giét-xi-ca).
* Dòng đầu thư viết thế nào ? ( Nơi viết, ngày, tháng, năm )
* Em xưng hô với bạn nhận thư ra sao ? ( vd : Bạn Mô-ni-ca thân mến ! )
* Mở đầu nội dung lá thư, em tự giới thiệu về mình như thế nào ? ( vd : Tôi tên là…,
đang học lớp…,trường… ở nước Việt Nam )
* Em có thể nói lý do viết thư cho bạn là gì ? ( vd: Sauk hi học bài Tập đọc Gặp gỡ ở
Lúc-xăm-bua trong SGK Tiếng Việt 3, tôi biết các bạn rất yêu quý đất nước Việt Nam
của chúng tôi ).
* Em làm quen với bạn qua những lời hỏi thăm vì điều gì ? ( vd : tình hình sức khỏe, sinh
hoạt hằng ngày, học tập,…)
* Em muốn bày tỏ suy nghĩ gì sau khi học bài Gặp gỡ ở Lúc-xăm-bua? ( vd : Các bạn ở
Lúc-xăm-bua xa xôi nhưng rất quan tâm đến thiếu nhi Việt Nam; có tình cảm thân ái,
hữu nghị với Việt Nam, thể hiện tignh hữu nghị đẹp đẽ giữa thiếu nhi các dân tộc trên thế
giới,…)
* Em chúc bạn điều gì ? ( vd : Luôn vui vẻ, học giỏi,…). Em mong muốn, hứa hẹn điều
gì ? ( vd : Mong có dịp đến thăm đất nước xinh đẹp của bạn; hứa sẽ học tập, rèn luyện
thật tốt để lớn lên xây dựng đất nước Việt Nam, xây dựng ngôi nhà chung Trái Đất )

233
Trang 286
* Cuối thư, em viết những gì ? (Lời chào, chữ kí, tên của người viết thư).
+ Hướng dẫn HS thực hành như gợi ý ở Phương án 1.
Câu 172
(?) Để hướng dẫn học sinh luyện tập phát triển câu chuyện theo trình tự không gian
ở lớp 4 (Tập làm văn Tuần 8 và Tuần 9), giáo viên cần lưu ý những điểm gì ?
: Sau khi được luyện tập phát triển câu chuyện theo trình tự thời gian qua hai tiết Tập làm
văn Tuần 7 (tiết 2), Tuần 8 (tiết 1), HS được luyện tập phát triển câu chuyện theo trình tự
không gian ở hai tiết Tập làm văn Tuần 8 (tiết 2) và Tuần 9 (tiết 1). Đây là hai cách phát
triển câu chuyện khá phổ biến mà HS cần được làm quen khi học về văn kể chuyện. Để
hướng dẫn HS luyện tập và nắm được cách phát triển câu chuyện theo trình tự không
gian ở hai tiết Tập làm văn nói trên, GV cần lưu ý một số điểm dưới đây.
1. Tập làm văn Tuần 8 (tiết 2)
- Tiết này có 3 bài tập quan hệ chặt chẽ với nhau : Bài tập 1 giúp HS nắm chắc nội dung
câu chuyện và chuẩn bị" cho bài tập 2 ; bài tập 3 giúp HS so sánh cách kể chuyện ở hai
bài tập trước để từ đó nhận biết cách kể chuyện theo một trình tự mới - trình tự không
gian.
- Để giúp HS thực hiện được yêu cầu của bài tập 1 (dựa theo nội dung trích đoạn kịch ở
Vương quốc Tương Lai – bài Tập đọc Tuần 7 để kể lại câu chuyện ấy theo trình tự thời
gian), GV cần dặn các em xem lại (ở nhà) trích đoạn kịch và ghi nhớ nội dung. Khi
hướng dẫn HS kể lại câu chuyện trên theo trình tự thời gian, GV có thể dùng các câu hỏi
gợi ý, dẫn dắt để các em nhớ cốt truyện (nhất là đối với HS học yếu). VD:
a) Tin-tin và Mi-tin đến thăm công xưởng xanh, thấy một em bé mang một cỗ máy có
đôi cánh xanh, Tin-tin ngạc nhiên hỏi em bé điều gì ? Em bé trả lời ra sao ?
b) Nghe câu trả lời của em bé, Mi-tin tò mò hỏi lại em bé thế nào ? Em bé trả
lời ra sao ?
c) Khi biết Tin-tin muốn xem vật lạ, một em bé thứ hai xuất hiện và cho hai để khoe với
bạn vật gì ? Rồi em bé thứ năm cũng khoe với hai bạn vật gì ?bạn xem vật gì ? Em bé thứ
ba mang đến thứ gì ? Em bé thứ tự kéo tay Tin-tin để khoe với bạn vật gì? Rồi em bé thứ
năm cũng khoe với hai bạn vật gì?

Trang 287
d) Hai bạn đến thăm khu vườn kì diệu, thấy em bé mang một chùm quả trên

234
đầu gậy và nói gì ? Tin-tin khen thế nào ? Em bé mang quả đáp lại ra sao ?
e) Hai bạn còn thấy một em bé thứ hai mang một sọt quả to như quả dưa đi đến và khoe
thế nào ? Mi-tin hỏi lại ra sao ? Em bé đó giải thích thế nào ?
g) Một em bé thứ ba đáy xe quả to như bí đỏ đến và khoe thế nào ? Tin-tin nhiên nói gì ?
Em bé đẩy xe quả giải thích với hai bạn ra sao ?
- GV hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài tập 2 : Em cần kể lại câu chuyện theo
hướng nào ? (Tin-tín và Mi-tin trong câu chuyện Ở Vương quốc Tương Lai không cùng
nhau lần lượt đến thăm Công xưởng xanh và khu vườn kì diệu mà cùng lúc, mỗi người
tới thăm một nơi, VD :Tin-tin đi thăm công xưởng xanh, Mi-tin đi thăm khu vườn kì
diệu). Sau đó, GV chốt lại yêu cầu trước khi giúp HS tập kể : Như vậy, em sẽ phải lần
lượt kể về chuyện đi thăm của từng người (Tin-tin trước, Mi-tin sau, hoặc ngược lại)
nhưng câu đầu của đoạn kể thứ hai cần nói rõ ý sau :Trong khi Tin-tin (hoặc Mi-tin) đang
ở công xưởng xanh thì Mi-tin (hoặc Tin-tin) cũng có mặt ở khu vườn kì diệu.
- Để giúp HS thực hiện bài tập 3 (nhận xét cách kể chuyện ở bài tập 2 khác
cách kể chuyện ở bài tập 1 theo 2 ý nêu trong SGK), GV nên dẫn dắt, gợi mở
thể đối với từng ý. VD:
a) Về trình tự sắp xếp các sự việc, đoạn Trong công xưởng xanh và đoạn
Trong khu vườn kì diệu kể theo cách ở bài tập 2 có nhất thiết phải theo một
trình tự trước, sau cố định hay kể đoạn nào trước cũng được ? (Kể đoạn nào
trước cũng được). Vì sao như vậy ? (Vì cùng một lúc, hai bạn đi đến thăm hai
nơi – sự việc diễn ra cùng một lúc ở hai không gian khác nhau, kể sự việc nào
trước cũng được). GV nói thêm : Kể theo cách ở bài tập 1 là kể theo trình tự
thời gian (hai bạn đi thăm công xưởng xanh rồi đến khu vườn kì diệu) – các sự
việc được sắp xếp theo trình tự : sự việc xảy ra trước thì kể trước, sự việc xảy
ra sau thì kể sau.
b) Về những từ ngữ nối hai đoạn, nếu kể theo cách ở bài tập 1, ta cần nói "Rời
Công xưởng xanh, Tin-tin và Mi-tin đi đến khu vườn kì diệu" (phù hợp với từ
ngữ mở đầu đoạn 1 là Đầu tiên...). Nếu kể theo cách ở bài tập 2, ta phải nói
thế nào ? (VD: Trong khi Tin-tin/ Mi-tin đang ở công xưởng xanh thì Mi-tin/
Tin-tin cũng có mặt ở khu vườn kì diệu phù hợp với từ ngữ mở đầu đoạn 1 là

Trang 288
Mi-tin/ Tin-tin đến thăm công xưởng xanh…). GV nhấn mạnh những từ ngữ

235
nối đoạn 2 với đoạn 1 cần cho thấy các sự việc kể ở 2 đoạn diễn ra lúc, ở hai không gian
khác nhau (Trong khi... thì...) - đây là cách kể theo trình tự không gian.
2. Tập làm văn Tuần 9 (tiết 1)
- Tiết này có 2 bài tập giúp HS thực hành kể chuyện theo trình tự không gian
đã học ở tiết Tập làm văn trước : Bài tập 1 yêu cầu HS đọc trích đoạn kịch Yết Kiêu để
nắm chắc nội dung và chuẩn bị" cho việc kể lại câu chuyện theo trình tự không gian.
- Tương tự tiết Tập làm văn trên, GV cũng nên dùng các câu hỏi gợi ý giúp
HS tìm hiểu và nắm vững nội dung từng cảnh (bài tập 1). VD:
+ Cảnh 1 nói về sự việc gì ? (Giặc Nguyên xâm lược nước Đại Việt ta, Yết Kiêu nói
chuyện với cha)
+ Yết Kiêu là nhân vật như thế nào ? (Yêu đất nước, quyết tâm ra đi giết giặc
để giữ gìn đất nước)
+ Cha Yết Kiêu là nhân vật ra sao ? (Sống cô đơn, tàn tật, già yếu nhưng vẫn
động viên con đi đánh giặc – thể hiện lòng yêu nước nồng nàn)
+ Cảnh 2 nói về sự việc gì ? (Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua
Trần Nhân Tông)
+ Nhà vua là nhân vật như thế nào ? (Yêu quý, ngưỡng mộ tài năng và lòng
dũng cảm của Yết Kiêu - một người dân thường nước Đại Việt)
+ Đứng trước nhà vua, Yết Kiêu có thái độ ra sao ? (Tự tin vào khả năng bơi
lặn tài giỏi của mình, tự hào vì đã được cha ông truyền dạy cho tài năng phi
thường đó)
Sau khi HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập 2, GV nêu câu hỏi và hướng dẫn
cách kể chuyện:
+ So sánh gợi ý chia đoạn để kể lại câu chuyện Yết Kiêu với nội dung 2 cảnh
của đoạn kịch (ghi ở bảng phụ), em thấy có điểm gì khác nhau ?

Trang 289
Nội dung 2 cảnh của đoạn kịch Gợi ý chia đoạn để kể lại câu chuyện

236
a) Giặc Nguyên xâm lược nước Đại - Đoạn 1:Giặc Nguyên xâm lược nước ta.
Việt ta. Yết Kiêu nói chuyện với cha - Đoạn 2: Yết Kiêu đến kinh đô Thăng
b) Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long Long, yết kiến vua Trần Nhân Tông.
yết kiến vua Trần Nhân Tông - Đoạn 3 : Cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ
con, nhớ câu chuyện giữa hai cha con trước
lúc Yết Kiêu lên đường.

* GV chốt lại : Nội dung 2 cảnh của đoạn kịch nói về những sự việc diễn ra theo trình tự
thời gian. Gợi ý chia đoạn để kể lại câu chuyện Yết Kiêu dựa theo trình tự không gian :
Giặc Nguyên xâm lược nước ta, Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần
Nhân Tông./Cùng lúc Yết Kiêu đến kinh độ, cha của Yết Kiêu ở quê nhà nhớ con, nhớ
câu chuyện giữa hai cha con trước lúc Yết Kiêu lên đường.
+ Cách trình bày câu chuyện Yết Kiêu có điểm gì cần lưu ý ? (Nên chuyển
lời đối thoại trong lịch thành lời kể và lời dẫn gián tiếp. Chỉ giữ lại những lời
đối thoại quan trọng và diễn đạt lại theo cách của em, VD:Yết Kiêu nghẹn
ngào nói :"Cha ơi, nước mắt thì nhà tan...")
- GV tổ chức cho HS kể theo cặp (theo nhóm), sau đó thi kể trước lớp để nhận xét, rút
kinh nghiệm về cách kể chuyện theo trình tự không gian.
Câu 173
?Khi dạy bài Luyện tập giới thiệu địa phương (Tiếng Việt 4, tập một, tr.160), nếu có học
sinh chưa được biết về lễ hội thi giáo viên hướng dẫn như thế nào ?
: Trong SGK Tiếng Việt 4, bài Tập làm văn Tuần 16 (tiết 1) yêu cầu HS
Luyện tập giới thiệu địa phương với 2 bài tập như sau :
1. Đọc lại bài Kéo co và cho biết bài ấy giới thiệu trò chơi của những địa
phương nào. Thuật lại các trò chơi đã được giới thiệu.
2. Hãy giới thiệu một trò chơi hoặc một lễ hội ở quê em. (Chú ý :Trong phần
mở bài, cần giới thiệu quê em ở đâu, có trò chơi hoặc lễ hội gì thú vị)

Trang 290
*SGK còn có 6 tranh minh hoạ 6 trò chơi, lễ hội thường tổ chức ở nhiều địa

237
phương : thả chim bồ câu, đu bay, ném còn ; hội cồng chiêng, hội hát quan
họ, hội bơi trải.
Đối với bài tập 1, sau khi đọc lại bài Kéo co (Tập đọc Tuần 16), HS dễ dàng
thấy được bài ấy giới thiệu trò chơi của hai địa phương nào (chỉ cần chú ý các
câu : Hội làng Hữu Trấp thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thường tổ chức
thi kéo co giữa nam và nữ... Làng Tích Sơn thuộc thị xã Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc lại có tục thi kéo co giữa trai tráng hai giáp trong làng). Dựa vào
nội dung bài đã học, các em tập thuật lại các trò chơi được giới thiệu, nêu rõ
nét khác nhau về trò chơi kéo co ở hai vùng khác nhau (làng Hữu Trấp thi kéo
co giữa nam và nữ còn làng Tích Sơn lại thi kéo co giữa trai tráng hai giáp
trong làng). Đây là bài tập thực hành theo mẫu", giúp HS biết giới thiệu
một trò chơi hoặc một lễ hội ở quê em theo yêu cầu của bài tập 2.
Đối với bài tập 2, để giúp HS luyện tập giới thiệu địa phương, GV cần hướng
cụ thể mấy điểm sau:
- Xác định yêu cầu : Giới thiệu một trò chơi hoặc lễ hội ở quê em. (Nên hiểu
quê em với phạm vi rộng, là nơi em sinh ra, lớn lên hoặc một nơi khác trên
đất nước.)
- Có thể dựa vào các câu hỏi gợi ý sau để giới thiệu về trò chơi (hoặc lễ hội):
+ (Mở đầu):Quê em ở đâu ? Nơi đó có trò chơi (lễ hội) gì làm em thích thú,
muốn giới thiệu cho các bạn biết.
+ Giới thiệu về trò chơi/ lễ hội) :Trò chơi (lễ hội) thường diễn ra ở vị trí nào ? Hình thức
tổ chức trò chơi (lễ hội) ra sao ? Trò chơi (lễ hội) được diễn ra như thế nào ? Có những
nét gì độc đáo, thú vị làm em và mọi người
thích thú ?...
Như vậy, nếu HS chưa được biết về lễ hội thì có thể giới thiệu về trò chơi, nếu
HS chưa biết về lễ hội hoặc trò chơi ở nơi em đang sống thì có thể giới thiệu
trò chơi (lễ hội) ở nơi em đã đến, đã biết,... Dựa vào thực tế địa phương, GV
cần gợi ý một số trò chơi, lễ hội cụ thể để HS lựa chọn và giới thiệu, đảm bảo
yêu cầu luyện tập kĩ năng giới thiệu (nói) về hoạt động vui chơi theo chủ
điểm đang học.

Trang 291 Câu 174

238
Tiết Tập làm văn Luyện tập quan sát cây cối ở lớp 4 (Tuần 22) vừa có bài tập yêu
cầu học sinh đọc 3 bài văn và thực hiện 5 nhận xét vừa có bài tập thực hành quan
sát, tìm ý để miêu tả một cây cụ thể. Giáo viên làm thế nào để hướng dẫn học sinh
thực hiện đầy đủ các yêu cầu nói trên trong một tiết dạy?
Tiết Tập làm văn Luyện tập quan sát cây cối nói trên có 2 bài tập:
- Bài tập 1 yêu cầu HS dựa vào 5 câu hỏi gợi ý để nhận xét 3 bài văn tả câycối mới học
(Sầu riêng, Bãi ngô, Cây gạo) đồng thời vận dụng những kiếnthức đã biết về quan sát đổ
vật, về cấu tạo bài văn miêu tả cây cối để tự rút ranhững kiến thức cần thiết về quan sát
cây cối
– Bài tập 2 yêu cầu HS vận dụng những kiến thức đã biết ở bài tập 1 vào việc thực hành
quan sát, ghi lại kết quả quan sát về một cây mà HS yêu thích.
Có thể phân bổ thời gian trong một tiết dạy như sau : bài tập 1 khoảng 20 phút, bài tập 2
khoảng 15 phút. Tuy nhiên, để hướng dẫn HS thực hiện đầyđủ các yêu cầu ở cả hai bài
tập nói trên, GV còn phải vận dụng các biện phápvà hình thức tổ chức dạy học một cách
linh hoạt. Dưới đây là một số điểm cầnđược GV lưu ý:
1. Nhắc nhở HS chuẩn bị trước cho tiết học
– Đọc lại 3 bài văn tả cây cối mới học (Sầu riêng, Bãi ngô, Cây gạo).
– Chọn một cây trong khu vực trường (hoặc nơi ở) để quan sát và ghi lại nhữnggì đã quan
sát được. (GV có thể gợi ý một số cây phổ biến ở địa phương.)
2. Lựa chọn cách hướng dẫn bài tập 1 phù hợp với đối tượng HS, vừa nhanh gọn
vừa có hiệu quả.
- Sau khi HS đọc SGK và nêu yêu cầu của bài tập, GV cần gợi ý HS nhắc lạinhững kiến
thức đã học để ghi tóm tắt lên bảng :
+ Trong bài văn tả cây cối, thân bài có thể tả theo trình tự nào ? (Tả từng bộ phận của
cây hoặc tả từng thời kì phát triển của cây.)
+ Để miêu tả sự vật, ta có thể quan sát bằng những giác quan nào? (Thị giác – mắt,
khứu giác – mũi, vị giác – lưỡi, thính giác – tai)
Trang 292
- Yêu cầu HS đọc thầm nhanh từng bài văn, ghi kết quả nhận xét theo câu hỏi a (trình tự)
và câu hỏi b (giác quan) vào vở nháp (nếu làm việc cá nhân) hoặc bảng nhóm (nếu làm
việc theo nhóm), sau đó nêu kết quả trước lớp. Chú ý: HS có thể ghi ngắn gọn: Bài 1:
Quan sát từng bộ phận, Bài 2 : Quan sát từngthời kì phát triển,...
– Giúp HS tự xác định những hình ảnh so sánh, nhân hoá (hoặc một hình ảnh so sánh,
nhân hoá) mà em thích ; sau đó trao đổi theo cặp (hoặc nhóm) rồi nêu kết quả trước lớp
(nói rõ tác dụng của hình ảnh so sánh, nhân hoá đó)
Câu hỏi c.
- Hướng dẫn HS trao đổi, nêu ý kiến trước lớp về hai câu hỏi d, e để GV chốt lại (không
yêu cầu HS phải nêu đầy đủ ngay các ý ở câu hỏi e) :
(d) Hai bài Sầu riêng, Bãi ngô miêu tả một loài cây, bài Cây gạo miêu tả một cái cây cụ
thể.
(e) Điểm giống và khác nhau giữa hai cách miêu tả một loài cây và một cái cây:

239
* Giống : Đều phải quan sát kĩ và sử dụng mọi giác quan ; tả các bộ phận của cây ; tả
khung cảnh xung quanh cây ; dùng các biện pháp so sánh, nhân hoá để khắc hoạ sinh
động, chính xác các đặc điểm của cây ; bộc lộ tình cảm của người miêu tả.
* Khác : Tả cả loài cây cần chú ý đến các đặc điểm phân biệt loài cây này vớicác loài cây
khác. Tả một cái cây cụ thể phải chú ý đến đặc điểm riêng của cây đó - điểm giúp ta
nhận ra sự khác biệt với các cây cùng loài.
3. Hướng dẫn HS ghi kết quả quan sát cây cối theo một trình tự hợp lí,trao đổi và
rút kinh nghiệm trên lớp
– Nhắc HS ghi chép và kiểm tra kết quả QS theo gợi ý (a,b,c) trong SGK.
Chú ý : HS có thể quan sát cây ăn quả quen thuộc đã lập dàn ý ở tiết học trước hoặc chọn
một cây khác, ghi chép cần ngắn gọn, đúng yêu cầu. VD:
+ Tả cây bưởi (từng bộ phận) :
* Gốc : to như cột nhà, xù xì, thẳng từ dưới đến quá đầu người,...
* Cành : cành chính to như cánh tay người lớn; các cành nhỏ như chiếc đũa cả, như chiếc
đũa con,…

Trang 293
* Lá : hơi mỏng và xanh mướt khi còn non, hơi dày và chuyển màu xanhthẫm khi già (sờ
vào thấy hơi ram ráp),…
* Hoa : nở vào mùa xuân, cánh hoa dày, trắng muốt, hương thơm ngào ngạt ;ong rộn ràng
về hút nhụy,...
+ Tả cây nhãn (từng thời kì phát triển) :
* Cuối xuân, chuẩn bị ra hoa : cây nhãn trổ lá non, lúc đầu xanh nhạt, trongsuốt ; sau
chuyển dần sang màu xanh non (chạm tay vào thấy mát rượi),...
* Khi ra hoa : hoa trổ từng chùm, nhỏ li ti, màu vàng nhạt, thơm thoangthoảng ; chùm
hoa mọc ra từ đầu các nhánh,... những cánh ong bận rộnđi về,...
* Khi kết quả : lúc đầu còn bé xíu như hạt kê, to dần bằng hòn bi ve ; quảchín từng chùm
trĩu trịt,...
- HS nêu kết quả quan sát để nhận xét, rút kinh nghiệm về quan sát cây cối (đúng thực tế,
trình tự quan sát hợp lí, dùng nhiều giác quan được đặc điểm của một cây cụ thể khác với
cây cùng loài).
Câu 175
Để hướng dẫn học sinh thực hiện tốt hai tiết Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây
cốiở lớp 4 (Tuần 22, Tuần 23), giáo viên cần lưu ý những điểm gì ?
Hai tiết Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối trong SGK Tiếng Việt 4, tập hai đều
gồm 2 bài tập có yêu cầu tương tự như nhau :
– Bài tập 1 : Nhận xét cách quan sát và miêu tả các bộ phận của cây cối (lá, thân, gốc –
Tuần 22 ; hoa, quả – Tuần 23) ở một số đoạn văn mẫu.
- Bài tập 2 : Viết đoạn văn : tả lá, thân hoặc gốc của một cây mà emyêu thích (Tuần 22) ;
tả một loài hoa hoặc một thứ quả mà em yêu thích (Tuần 23).
Đây là cách dạy kĩ năng làm văn phù hợp với đối tượng HS tiểu học : thôngqua việc
"khảo sát" mẫu có tính trực quan cụ thể về cách tả, giúp HS tự rút ranhững hiểu biết cần

240
thiết và thực hành vận dụng viết đoạn văn miêu tả. Để hướng dẫn học sinh thực hiện hai
tiết Tập làm văn nói trên, GV cần lưu ý mộtsố điểm dưới đây.

Trang 294
1. Xác định rõ các đoạn văn cần nhận xét trong bài tập 1 ở mỗi tiết học
– Tuần 22: Lá bàng (Tả lá cây), Cây sồi (Tả thân cây và gốc cây).
– Tuần 23 : Hoa sầu đâu (Tả hoa), Quả cà chua (Tả quả).
* Chú ý : Các đoạn văn Bàng thay lá, Cây tre (Tuần 22), Hoa mai vàng,Trái vải tiến vua
(Tuần 23) dành cho HS đọc thêm ở nhà, hoặc đọc tham khảotrong tiết dạy (nếu có thời
gian) đối với lớp có nhiều HS khá, giỏi.
2. Gợi ý rõ yêu cầu nhận xét đối với bài tập 1 ở mỗi tiết học
Để giúp HS dễ nhận xét về cách tả trong mỗi đoạn, GV cần "định hướng"bằng một vài
câu hỏi gợi ý. VD:
Tuần 22
– Đoạn Lá bàng :
+ Tác giả tả lá bàng theo trình tự nào ? (Chú ý các từ ngữ nói về bốn mùa: Mùa xuân,
sang hè, mùa thu, cuối đông – mùa đông.)
+ Tác giả tập trung tả vẻ đẹp gì của lá bàng qua từng mùa ? (Vẻ đẹp về màusắc của lá :
mùa xuân màu xanh "như ngọn lửa xanh", mùa hè - màu ngọc bích, mùa thu – màu lục,
mùa đông – đỏ như đồng.)
+ Tả vẻ đẹp của lá bàng, tác giả có những liên tưởng so sánh gì bất ngờ, thú vị ? (Lá
bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh, lá bàng mùa đông đượcphủ lớp dầu mỏng
giống như chất sơn mài.)
– Đoạn Cây sồi già :
+ Tác giả tả cây sồi vào thời điểm trước và sau tháng sáu với những nét gì nổi bật ?
(Trước tháng sáu : ... vỏ cây nứt nẻ đầy vết sẹo. Sau tháng sáu : vòm lá xum xuê xanh tốt
thẫm màu, khẽ đung đưa trong nắng chiều,...)
+ Tả cây sồi ở cả hai thời điểm, tác giả đã dùng những hình ảnh so sánh,nhân hoá sinh
động như thế nào ? (So sánh : nó như một con quái vật giànua, cau có và khinh khỉnh
đứng giữa đám bạch dương tươi cười. Nhân hoá :cánh tay to xù xì, ngón tay quêu
quào,... vẻ ngờ vực, buồn rầu ; say sưa,ngây ngất, khẽ đung đưa trong nắng chiều)

Trang 295
Tuần 23
- Đoạn Hoa sầu đâu :
+ Vì sao tác giả tả cả chùm mà không tả từng bông hoa sầu đâu ? (Vì hoa sầuđâu nhỏ,
mọc thành chùm, có vẻ đẹp của cả chùm.)
+Tác giả tả mùi thơm đặc biệt của hoa sầu đâu như thế nào ? (Mùi thơm mátmẻ hơn cả
hương cau, dịu dàng hơn cả mùi thơm hoa mộc ; mùi thơm huyềndiệu đó hoà với các

241
hương vị khác của đồng quê : mùi đất ruộng, mùi đậu già,mùi mạ non, khoai sắn, rau
cần.)
+ Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện tình cảm của tác giả khi miêu tả hoa sầu đâu ?
(Hoa nở như cười ; bao nhiêu thứ đó, bấy nhiêu thương yêu, khiếnngười ta cảm thấy như
ngây ngất, như say say một thứ men gì.)
- Đoạn Quả cà chua :
+ Tác giả tả quả cà chua theo trình tự nào ? (Tả từ khi hoa rụng để kết tráiđến khi quả
còn xanh, rồi khi quả chín – theo từng thời kỳ phát triển.)
+ Tác giả tả quả cà chua với những từ ngữ và hình ảnh so sánh, nhân hoá nào đáng chú
ý ? (Từ ngữ : quả nõn, xum xuê, chi chít. So sánh : quả lớn quả bé vui mắt như đàn gà mẹ
đông con, mỗi quả chín là một mặt trời nhỏ hiền dịu. Nhân hoá : quả leo nghịch ngợm
lên ngọn ; cà chua thắp đèn lồng trong lùm cây.)
3. Giúp HS vận dụng những hiểu biết về cách tả ở bài tập 1 để viết đoạnvăn tả một
bộ phận của cây
- Sau khi thực hiện bài tập 1 ở mỗi tiết học, GV cần chốt lại một vài điểm lưuý về cách tả
các bộ phận của cây, VD: Cần chọn được một số nét đặc sắc của mỗi bộ phận ; lần lượt
đưa ra nhận xét về các hình ảnh đã quan sát được ; diễntả chúng bằng từ ngữ sinh động,
bằng biện pháp so sánh, nhân hoá thích hợp ;lời diễn đạt cần kết hợp miêu tả và bộc lộ
cảm xúc của người viết.
- Gợi ý (nhất là đối với HS học yếu) về cách viết đoạn văn :
+ Xác định rõ đối tượng miêu tả : một bộ phận (lá, thân hoặc gốc) của cây mà em yêu
thích (Tuần 22) ; một loài hoa hoặc một thứ quả mà em yêu thích (Tuần 23).
Trang 296
+ Có thể dựa vào các câu hỏi để tìm ý, VD:
• Lá cây có gì nổi bật (về hình dáng, màu sắc, đặc điểm) ? Từng mùa (từng thời điểm), lá
có gì thay đổi ? Thay đổi ra sao ?...
• Thân (gốc) cây to bằng chừng nào ? Trông giống cái gì ? Thân (gốc) cây có những đặc
điểm gì nổi bật ?…
• Hoa nở từng bông hay thành chùm ? Bông (chùm) hoa tô (nhỏ) bằng chừng nào ? Cánh
hoa (chùm hoa) có hình dáng, màu sắc, hương thơm ra
sao ? Hoa gợi cho em cảm xúc gì ?
• Quả to chừng nào ? Quả đó có gì đáng chú ý qua từng thời kì phát triển ? Nhìn bề
ngoài, quả có đặc điểm gì nổi bật ? Khi chín, quả có màu sắc, hương thơm, mùi vị ra
sao ? (Hoặc : Ruột quả thế nào ? Múi (ruột) to haynhỏ ? Màu sắc, hương thơm, mùi vị ra
sao ?,...)
Yêu cầu HS viết đoạn văn ngắn (khoảng 5 câu), sau đó đọc theo cặp, đọc trước lớp để
góp rút kinh nghiệm chung (theo những yêu cầu về miêu tả các bộ phận của cây).

Câu 176
? Bài Tập làm văn Tuần 24 (Tiếng Việt 4, tập hai, tr. 61) về Luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả cây cối có yêu cầu học sinh viết hoàn chỉnh 4 đoạn văn tả cây
chuối tiêu (bài tập 2). Nếu học sinh chưa được quan sát cây chuối tiêu thì giáo viên
dạy như thế nào ?

242
: Trường hợp HS chưa được quan sát cây chuối tiêu, GV có thể tìm cách khắc phục khó
khăn về vốn sống và giúp các em học bài Tập làm văn nói trên bằng một vài biện pháp
như sau :
1. Sưu tầm tranh (ảnh) về cây chuối tiêu, nải (buồng) chuối tiêu cho HS quan sát. (GV kết
hợp giới thiệu một vài nét về cây chuối tiêu để HS biết.)
2. Yêu cầu HS đọc kĩ bài tập 1 và nắm vững dàn ý bài văn tả cây chuối tiêu (chú ý trình
tự :Giới thiệu... Tả bao quát... Tả các bộ phận... Nêu lợi ích).
3. Hướng dẫn cách bổ sung ý cho từng đoạn văn chưa hoàn chỉnh (bài tập 2) thông qua
các câu hỏi gợi ý. VD:
Trang 297
Đoạn 1: GV dẫn dắt, gợi ý : Nếu bạn Hồng Nhung chỉ viết câu văn như vậy thì đã giới
thiệu rõ được cây chuối tiêu trồng ở nơi nào hay chưa ? (Chưa) Muốn cho người đọc biết
rõ cây chuối tiêu đó trồng ở "góc vườn” thể nào, em cần viết thêm cầu gì trước đó ? (VD:
Vườn của bà nội em ở quê trồng rất nhiều cây ăn quả nhưng nhiều nhất vẫn là cây chuối.)
- Đoạn 2:GV gợi ý: Sau khi tả bao quát cây chuối và thân cây khi nhìn từ xa, em có thể tả
tiếp về thân cây khi đến gần thế nào ? (VD : Đến gần, em thấy thân cây chuối me to như
cái cột nhà. Vỏ cây màu xanh nhạt xen lẫn màu nâu xỉn, sờ vào thấy man mát.)
- Đoạn 3 : GV gợi ý : Nên viết thêm vào phần sau một hai câu tả bộ phận nào đem lại lợi
ích chủ yếu của cây chuối ? (Viết thêm một hai câu tả buồng chuối, quả chuối. VD :
Buồng chuối đang chắc quả. Những quả chuối cong cong xếp đều đặn ở từng nải, nải nọ
chồng lên nải kia, càng về phía dưới càng nhỏ đi.)
- Đoạn 4: GV gợi ý :Trước câu đã có, em nên viết thêm 1 – 2 câu nói về lợi Ích сụ thể của
cây chuối như thế nào ? (VD: Những quả chuối tiêu chín vàng ăn vừa ngọt vừa bổ. Bà em
bảo : lá chuối dùng để gói giò, gói bánh, hoa chuối dùng làm nộm rất ngon, thân cây băm
nhỏ làm thức ăn cho lợn.)

Câu 177
?) Không ít học sinh còn lúng túng khi viết mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng cho bài
văn kể chuyện hoặc miêu tả. Giáo viên làm cách nào để hướng dẫn các em viết được mở
bài, kết bài theo cách nêu trên ?
:| Ngay từ lớp 4, khi học mở bài, kết bài trong bài văn kể chuyện (Tuần 11, Tuần 12), HS
đã được giới thiệu về hai cách mở bài trực tiếp, gián tiếp) và hai cách kết bài (mở rộng,
không mở rộng). Tiếp tục học về văn miêu tả (đồ vật, cây cối, con vật), HS lại được luyện
tập xây dựng mở bài, kết bài theo các cách nói trên. Ở cả hai loại văn kể chuyện và miêu
tả được dạy trong SGK Tiếng Việt 4, kiến thức về hai cách mở bài (kết bài) được giới
thiệu sơ lược như sau :
Trang 298
Mở bài (MB): - Kể ngay vào sự việc mở đầu câu
- MB trực tiếp chuyện.
Giới thiệu ngay đồ vật (cây cối, con vật)
định tả.
-Nói chuyện khác để dẫn vào câu chuyện
- MB gián tiếp định kể.

243
Nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào
giới thiệu đô vật (cây cối, con vật) định
tả.

Kết bài (KB): -Nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về
-KB mở rộng câu chuyện.
Nêu nhận xét, cảm nghĩ về đồ vật (cây
cối, con vật) được tả và liên hệ, mở rộng
ra những vấn đề khác.
– KB không mở rộng -Chỉ cho biết kết thúc của câu chuyện,
không bình luận gì thêm.
Kết thúc tự nhiên hoặc nêu ngắn gọn về ý
nghĩ, tình cảm đối với đồ vật (cây cối,
con vật) được tả.

Mở bài gián tiếp thường lôi cuốn sự chú ý đối với người đọc và tạo nên tính hấp dẫn cho
bài văn. Để viết được mở bài gián tiếp, HS không chỉ nắm vững được yêu cầu nêu trên
mà còn phải luyện tập nhiều lần. Vì vậy, trong quá trình hướng dẫn HS luyện tập cách
mở bài gián tiếp, GV cần giúp các em nhận biết mấy điểm cơ bản sau:
- Mở bài gián tiếp không nói ngay vào câu chuyện hoặc đối tượng miêu tả mà phải nói
"chuyện khác" gần gũi, liên quan rồi mới dẫn vào câu chuyện định kể hoặc đối tượng
miêu tả. Do đó, về mặt hình thức, mở bài gián tiếp thường phải viết từ 2 câu trở lên,
nhưng cũng không viết quá dài.
- Nói chuyện khác" là nói từ "xa" nhưng nội dung phải gần gũi, có liên quan đến câu
chuyện định kể hoặc đối tượng miêu tả. "Chuyện khác" có thể đa dạng, phong phú (tuỳ
thuộc khả năng sáng tạo của người viết) nhưng phải tạo được mối liên hệ với nội dung, ý
nghĩa câu chuyện hoặc đối tượng miêu tả. VD:
+ Nói về bài học người cậy tài giỏi mà chủ quan thì vẫn chẳng làm nên việc và người sức
kém nhưng quyết tâm, nhẫn nại thì vẫn thành công để dẫn vào câu chuyện Rùa và thỏ.
(Tiếng Việt 4, tập một, tr. 113)
Trang 299
+ Nói về sự việc giúp ba sắp xếp lại cái tủ ở trong buồng để giới thiệu hoàn cảnh xuất
hiện cái cặp định miêu tả. (Tiếng Việt 4, tập hai, tr. 10)
- Nói về cảnh vật (chung) mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc, từ
đó giới thiệu cây hoa hồng nhung cụ thể do ông em trồng. (Tiếng Việt 4, tập hai, tr. 75)
+ Nói về cảnh vật (chung) mùa xuân trăm hoa đua nở, ngàn lá khoe sức sống mơn mởn,
từ đó gợi mở mùa xuân cũng là mùa công múa (tả chim công múa). (Tiếng Việt 4, tập
hai, tr. 141)
Kết bài mở rộng thường gọi suy nghĩ hoặc khơi dậy cảm xúc cho người đọc. Do vậy, nó
không chỉ làm nhiệm vụ "đóng lại" nội dung bài mà còn để lại "dư âm" và tiếp tục "mở

244
ra" những điều liên quan thú vị đối với người đọc. Hướng dẫn HS luyện tập cách kết bài
mở rộng, GV cần lưu ý các em những điểm sau:
- Đối với bài văn kể chuyện, cần nêu rõ ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận (bàn bạc, đánh
giá, nhận xét về nội dung câu chuyện đã kể. VD:
+ Nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về sự lơ là, chủ quan, hợm hĩnh của
Thỏ để kết bài kể chuyện Rùa và Thỏ. (Các đoạn b, c, d, e trong bài tập 1, Tiếng Việt 4,
tập một, tr. 122.)
+ Nhận xét, đánh giá về phẩm chất tốt đẹp của An-đrây-ca (giàu tình yêu thương, có ý
thức trách nhiệm cao, nghiêm khắc với bản thân) để kết bài kể chuyện Nỗi dằn vặt của
An-đrây-ca (bài tập 3, Tiếng Việt 4, tập một, tr. 123), như sau :
* Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca thể hiện phẩm chất đáng quý của em. Đó là tình cảm yêu
thương, ý thức trách nhiệm với người thân và sự nghiêm khắc với mọi lỗi lầm dù rất nhỏ.
Hoặc :
* An-đrây-ca tự dằn vặt, tự cho mình có lỗi vì em rất thương ông. Tấm lòng trung thực,
sự nghiêm khắc với bản thân của An-đrây-ca chính là những biểu hiện cao đẹp của tinh
thần trách nhiệm đáng quý.
- Đối với bài văn miêu tả, sau khi nêu nhận xét, cảm nghĩ về đồ vật (cây cối, con vật,...)
được tả, có thể liên hệ, mở rộng ra những vấn đề khác một cách hợp lí, gợi hứng thú cho
người đọc. VD:

Trang 300

+ Từ lời dặn của mẹ về cách giữ gìn cái nón, liên hệ với việc làm của mình phù
hợp với lời mẹ dặn để kết bài mở rộng cho bài miêu tả Cái nón. (Bài tập 1 Tiếng
Việt 4, tập hai, tr. 12)

+ Nêu nhận xét và liên hệ chim công là những nghệ sĩ múa của rừng xanh để kết
bài mở rộng cho bài văn tả Chim công múa. (Bài tập 1, Tiếng Việt 4, tập hai, tr.
142)

GV cũng có thể hướng dẫn HS nêu lợi ích của đồ vật (cây cối), sự gắn bó với
con vật (đồ vật, cây cối), hoặc liên tưởng đến một kỉ niệm, bộc lộ một ước mơ.
gợi ra một tương lai đẹp đẽ,... để kết bài mở rộng cho bài văn miêu tả. Đoạn kết
bài nêu được cảm nghĩ chân thành của người viết, liên hệ hay mở rộng một cách
tự nhiên sẽ làm cho người đọc có ấn tượng sâu sắc về đối tượng miêu tả, để lại

245
"dư âm" tốt đẹp cuối bài văn
Câu 178

Chương trình Tập làm văn lớp 4 có 3 tiết dạy về kĩ năng tóm tắt tin tức ở
các tuần 24, 25, 29. Giáo viên cần lưu ý những điểm gì khi hướng dẫn học
sinh luyện tập ở 3 tiết nói trên ? 

Trong SGK Tiếng Việt 4, tập hai, kĩ năng tóm tắt tin tức được dạy ở 3 bài, với

mức độ yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng cụ thể như sau :

- Bài Tóm tắt tin tức (Tuần 24, tiết 2, tr. 63): HS hiểu thế nào là tóm tắt tin tức,
cách tóm tắt tin tức (mục Ghi nhớ, SGK), từ đó thực hành tóm tắt một bản tin để
bước đầu nắm được cách tóm tắt tin tức (BT1, BT2, mục Luyện tập).

- Bài Luyện tập tóm tắt tin tức (Tuần 25, tiết 1, tr. 72) : HS biết tóm tắt một tin
cho trước bằng một hoặc hai câu (BT1, BT2); bước đầu tự viết được một tin
ngắn (4, 5 câu) về hoạt động học tập, sinh hoạt (hoặc tin hoạt động ở địa
phương), tóm tắt được tin đã viết bằng 1-2 câu (BT3).

- Bài Luyện tập tóm tắt tin tức (Tuần 29, tiết 1, tr. 109): HS biết tóm tắt một tủn
đã cho bằng một hoặc hai câu và đặt tên cho bản tin đã tóm tắt (BT1, BT2);
bước đầu biết tự tìm tin trên báo thiếu nhi và tóm tắt tin bằng một vài câu (BT3).

Như vậy, căn cứ mức độ yêu cầu cần đạt từ thấp đến cao (trong phạm vi nhận
thức của lứa tuổi HS lớp 4), GV cần lưu ý hướng dẫn HS luyện tập qua từng tiết
dạy như sau :

Trang 301

(1) Tuần 24 (tiết 2)

- Phần Nhận xét : Dựa vào gợi ý thực hiện BT1 nêu trong SGK, GV giúp HS hệ

246
lại những kiến thức đã học trong bài Tập đọc Vẽ về cuộc sống an toàn để các
định những sự việc chính nêu ở mỗi đoạn và tóm tắt mỗi đoạn bằng một hoặc
hai câu (yêu cầu b, BT1). VD:

 + Đoạn 1 (1 câu) : Sự việc chính được nêu ngay ở câu văn ; có thể lược bớt một
vài từ để nói gọn lại (tóm tắt) : UNICEF, báo Thiếu niên Tiền phong vừa tổng
kết cuộc thi vẽ Em muốn sống an toàn.

 + Đoạn 2 (2 câu) : GV có thể sử dụng lại câu hỏi 2 trong bài Tập đọc để giúp
HS tìm ra sự việc chính (Thiếu nhi hưởng ứng cuộc thi như thế nào ?), sau đó
tóm tắt bằng một câu :Trong 4 tháng có 50 000 bức tranh của thiếu nhi gửi đến. 

+ Đoạn 3 (1 câu): GV dùng câu hỏi gợi ý HS nêu sự việc chính (Tranh vẽ cho
thấy kiến thức của thiếu nhi về an toàn như thế nào ?), từ đó tóm tắt thành câu :
Tranh vẽ cho thấy kiến thức của thiếu nhi về an toàn rất phong phú.

+ Đoạn 4 (2 câu): GV dùng câu hỏi 4 (có điều chỉnh) trong bài Tập đọc để gợi ý
HS tìm ra sự việc chính nêu ở câu cuối bài (Nhận xét nào cho thấy sự đánh giá
rất cao khả năng thẩm mĩ của các em ?), từ đó tóm tắt lại :Tranh dự thi có ngôn
ngữ hội họa sáng tạo đến bất ngờ.

Sau khi HS đã tóm tắt từng đoạn, GV hướng dẫn các em tập hợp 4 câu thành
đoạn tóm tắt toàn bộ bản tin (HS khá, giỏi có thể tóm tắt gọn lại thành 3 câu -
gộp ý ở 2 câu cuối thành 1 câu).

- Phần Luyện tập : Dựa vào cách tóm tắt từng đoạn như trên, GV hướng dẫn HS
thực hành tóm tắt bản tin Vịnh Hạ Long được tái công nhận là di sản thiên
nhiên thế giới (BT1). Cụ thể:

+ Lược bớt từ ngữ trong câu để nêu sự việc chính ở đoạn 1: Ngày 17/11/1994,

247
vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

+ Dùng câu hỏi gợi ý để xác định sự việc chính nêu ở câu đầu đoạn 2: UNESCO
lại công nhận vịnh Hạ Long là di sản về địa chất, địa mạo vào ngày nào? (Ngày
29/11/2000, UNESCO lại công nhận vịnh Hạ Long là di sản về địa chất, địa
mạo.)

Trang 302

+ Dùng câu hỏi gợi ý để xác định sự việc chính ở đoạn 3: Chiều 11/12/2000,
quyết định trên được công bố ở đâu ? (Chiều 11/12/2000, quyết định trên được
công bố ở Hà Nội.) *

+ Gợi ý tiếp bằng câu hỏi để HS tóm tắt đoạn 4: Sự kiện này cho thấy điều gì ?.
(Sự kiện này cho thấy Việt Nam rất quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị của các
di sản thiên nhiên.)

Sau khi tóm tắt bản tin ở BT1 bằng 4 câu (hoặc 3 câu đầu), GV hướng dẫn HS
trình bày gọn lại thành phần tóm tắt in đậm (theo từng dòng, tương tự như ở bài
báo Về về cuộc sống an toàn) để hoàn thành yêu cầu của BT2.

(2) Tuần 25 (tiết 1)

- Hướng dẫn thực hiện BT1, BT2 bằng cách yêu cầu HS đọc và tự tóm tắt (HS
khá, giỏi) một trong hai tin đã cho ; hoặc dùng câu hỏi gợi ý để HS xác định sự
việc chính nêu ở từng tin theo cách luyện tập ở Tuần 24. VD:

+ Tin a : Liên đội Trường Tiểu học Lê Văn Tám ở An Sơn, Tam Kì, Quảng Nam
đã có hoạt động gì nổi bật ? (Hoặc :Tin (a) cho biết Liên đội trường nào, ở đâu
vừa trao 10 suất học bổng, 12 phần quà cho các bạn HS nghèo học giỏi và các
bạn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ?)

+ Tin b : Tin (b) cho biết một số hoạt động bổ ích và li thủ của ai ?

248
- Hướng dẫn thực hiện BT3 bằng cách gợi ý HS xác định một hoạt động cụ thể,
gắn với thực tế nhà trường (hoặc địa phương) để viết đoạn tin ngắn (3 – 4 câu),
sau đó tập tóm tắt (nói gọn lại) sự việc chính nêu ở tin ấy bằng 1 - 2 câu (GV có
thể đặt câu hỏi gợi ý tóm tắt cho HS yếu, kém).

(3) Tuần 29 (tiết 1)

- Hướng dẫn thực hiện BTL (chọn 1 trong 2 tin để tóm tắt) tương tự theo cách
trên ; có thể dùng câu hỏi gợi ý:

+ Tin a : Tại Vát-te-rát, Thụy Điển có một khách sạn kì lạ như thế nào ? Giá
một phòng nghỉ ở đó là bao nhiêu tiền ? (Hoặc : Để thoả mãn ý thích của những
người muốn nghỉ ngơi ở chỗ lạ tại Vát-te-rát, Thụy Điển có một khách sạn kì lạ
như thế nào ?)

Trang 303

+ Tin b: Để đáp ứng nhu cầu của những người yêu quý súc vật, một phụ nữ ở
Pháp đã làm gì ? (Hoặc :Tin b muốn thông báo một sự việc gì rất kì lạ ?)

- Hướng dẫn HS tự đặt tên cho bản tin đã chọn để tóm tắt (BT2) bằng một vài từ
ngắn gọn, gây chú ý cho người đọc.

- Hướng dẫn thực hiện BT3 (đọc và tóm tắt một tin trên báo), GV cần nhắc nhở
HS chuẩn bị trước ở nhà : đọc báo (Nhi đồng, Thiếu niên Tiền phong), chọn tin
để tóm tắt. Đối với các vùng khó khăn, GV có thể cung cấp một số tin trên báo
(do GV chuẩn bị trước) để HS chọn đọc và tập tóm tắt một tin trên lớp.

Câu 179

Khi dạy các bài Điền vào giấy tờ in sẵn (Tuần 30, 33, 34 - SGK Tiếng Việt 4,
tập hai ), nếu học sinh không có điều kiện được trang bị mẫu in sẵn (Phiếu
khai báo tạm trú, tạm vắng ; Thư chuyển tiền ; Điện chuyển tiền đi ; Giấy
đặt mua báo chí trong nước), giáo viên hướng dẫn các em luyện tập như thế
nào ?

249
- Việc dạy cho HS lớp 4 kĩ năng điền vào giấy tờ in sẵn giúp các em làm quen
với loại văn bản khá gần gũi và cần thiết cho cuộc sống. Yêu cầu cơ bản của các
tiết dạy nói trên là : HS hiểu được loại giấy tờ giới thiệu trong bài (Phiếu khai
báo tạm trú, tạm vắng ; Thư chuyển tiền ; Điện chuyển tiền đi ; Giấy đặt mua
báo chí trong nước) dùng để làm gì ; biết điền đúng nội dung vào những chỗ
trống trong mẫu in sẵn (yêu cầu tối thiểu là biết ghi những nội dung cần thiết,
quan trọng). Do vậy, nếu HS có mẫu in sắn (photocopy) để thực hành luyện tập
trên lớp thì tiết học sẽ rất nhẹ nhàng và đạt hiệu quả tốt.

Trường hợp HS không có điều kiện được trang bị mẫu in sẵn, để thực hiện
những yêu cầu cơ bản, tối thiểu của bài học, GV có thể hướng dẫn các em luyện
tập bằng cách : Chép sẵn bản mẫu in trong SGK lên bảng lớp (hoặc bảng phụ,
giấy khổ rộng) để hướng dẫn HS làm bài miệng là chủ yếu, chỉ viết vào vở (hoặc
giấy nháp) một số nội dung cơ bản, cần thiết. Dưới đây là một vài gợi ý hướng
dẫn HS luyện tập theo cách đó.

(1) Tuan 30 (tiet 2)

- GV hướng dẫn HS lần lượt theo dõi từng mục trong mẫu in sản ở SGK và trên
bảng lớp (bảng phụ, giấy khổ rộng), nêu những thông tin cần điền

Trang 304

vào từng chỗ trống (HS làm miệng). VD : Phần trên cùng, ở góc trái cần ghi địa
chỉ của người họ hàng (nơi mẹ con em đến chơi), góc phải cần ghi nho và tên
chủ hộ (tên chủ nhà). Em hãy nêu những nội dung về điền vào là chỗ trống này.

- Sau khi làm miệng, yêu cầu HS chép vào vở (hoặc giấy nháp) phần kê khai liên
quan đến gia đình (các mục 1-2, 3). Nếu có điều kiện, có thể cho HS luyện tập
theo cặp, nói cho nhau nghe nội dung cần điền vào vào Phiếu khai báo tạm trú,
tạm vắng.

Chú ý : GV có thể dặn HS hỏi người thân trong gia đình một số thông tin cần ghi
trên phiếu trước khi thực hành trên lớp. Cũng không đòi hỏi HS phải ghi (nói)

250
thật chính xác một vài thông tin về chủ hộ (địa chỉ, họ và tên), về mẹ (ngày sinh,
CMND số...), về điểm khai báo tạm trú, tạm vắng,…

(2) Tuần 33 (tiết 2)

- Cách hướng dẫn BT1 tương tự như ở Tuần 30. Có thể dùng câu hỏi gợi ý HS
nhận xét trước khi thực hành (làm miệng) như sau :

+ Mặt trước mẫu thư phải ghi những gì ? (Ngày, tháng, năm gửi thư : Họ tên,
địa chỉ người gửi tiền ; Số tiền gửi : Họ tên người nhận.)

+ Có gì cần lưu ý khi ghi họ tên, địa chỉ người gửi tiền ? (Ghi họ tên mẹ em và
địa chỉ của gia đình em.)

+ Số tiền gửi viết bằng số hay bằng chữ ? (Viết toàn bằng chữ, không viết bằng
số.)

+ Họ tên người nhận là ai ? (Bà em)

+ Phần này phải viết mấy lần, viết ở những chỗ nào ? (Phần này phải viết 2 lần,
viết vào cả bên phải và bên trái trang giấy.)

+ Nếu cần sửa chữa điều đã viết, em viết ở đâu ? (Viết vào ô dành cho việc sửa
chữa ở phía cuối trang)

+ Mặt sau mẫu thư, phía bên phải em ghi những gì ? (Thay mẹ viết thư cho
người nhận tiền (bà em) - viết vào Phần dành riêng để viết thư, Sau đó đưa mẹ
kí tên.)

+ Tất cả những mục còn lại có phải ghi không ? (Không phải ghi vì tất cả những
mục khác, nhân viên bưu điện và bà em, người làm chứng (khi nhận tiền) sẽ
viết.)

Trang 305

251
- Có thể yêu cầu HS chép vào vở (hoặc giấy nháp) một số thông tin cơ bản mặt trước Thư
chuyển tiền (Họ tên và địa chỉ người gửi; Số tiền gửi; Người nhận/ Họ và tên, địa chỉ
người nhận), mặt sau Thư chuyển tiền(Phần dành riêng để viết thư.) HS viết xong có thể
đọc và trao đổi với bạn(theo cặp).
(3) Tuần 34 (tiết 2)
- Cách hướng dẫn BT1, BT2 tương tự như ở Tuần 33. GV có thể dùng câu hỏi gợi ý để
giúp HS nhận biết cách điển nội dung cần thiết ở từng BT. VD:
+ Điện chuyển tiền đi (BT1): Bắt đầu viết từ phần nào ? Phần đó phải viết những gì ?
Cần lưu ý điều gì khi viết họ tên người gửi ? Địa chỉ cần chuyển đi thì ghi là địa chỉ
nào ? Số tiền gửi viết bằng số, bằng chữ ra sao ? Người nhận cần ghi thế nào ? Địa chỉ
của người nhận là địa chỉ nào ? Ghi tin gìkèm theo ? Nếu cần sửa chữa điều đã viết thì
ghi ở đâu ?
+ Giấy đặt mua báo chí trong nước (BT2):Tên độc giả đặt mua báo là ai ?Người mua
báo ở địa chỉ nào ? Tên tờ báo cần đặt mua là gì ? Thời hạn đặt mua báo bắt đầu từ khi
nào và kết thúc vào thời gian nào ? Số lượng 1 kì dành cho loại báo này là mấy tờ ? Giá
tiền 1 tháng hoặc 3 tháng dành cho loại báo này là bao nhiêu ? Tổng số tiền phải trả là
bao nhiêu ? (GV có thể chuẩn bị một vài loại báo để giới thiệu cho HS biết, yêu cầu các
em "đặt mua" 1 hoặc 2 -3 loại báo, tuỳ điều kiện dạy học cụ thể).
- Yêu cầu HS chép vào vở (hoặc giấy nháp) một số thông tin cơ bản của bức điện chuyển
tiền (Họ tên người gửi ; Số tiền gửi ; Họ tên người nhận , Địa chỉ : Tin tức kèm theo).
Riêng mẫu Giấy đặt mua báo chí trong nước, HS chỉ cần tập ghi 1 loại báo chí (Thời hạn
; Số lượng 1 kì ; Giá tiền 1 tháng 5 Thành tiền).
Yêu cầu chủ yếu đối với HS khi thực hành bài tập Điền vào giấy tờ in sẵn là biết cách
điền đúng nội dung cần thiết vào chỗ trống. Do vậy, khi các em nếu một vài thông tin
mang tính "ước lệ", "giả định", không hoàn toàn chính xác như trong thực tế, GV cũng
chấp nhận, chỉ uốn nắn khi thấy thật cần thiết.
Trang 306
Câu 180

252
Bài Luyện tập tả cảnh (Tuần 7 - Tiếng Việt 5, tập một, tr. 70, 71, 72) khá dài và có
đến 3 bài tập. Xin chỉ dẫn về cách dạy bài này sao cho phù hợp với các đối tượng
học sinh.
Tiết Luyện tập tả cảnh nói trên nhằm giúp HS hiểu quan hệ về nội dung giữa các câu
trong một đoạn, biết cách viết câu mở đoạn. Bài học có độ dài gần 3 trang SGK (kể cả
tranh minh hoạ), gồm 3 bài tập : BT1 yêu cầu HS khảo sát văn bản Vịnh Hạ Long (432
chữ) để rút ra một số nhận xét về đoạn văn và câu mở đoạn ; BT2 yêu cầu HS lựa chọn
câu mở đoạn thích hợp cho mỗi đoạn ở phần thân bài của bài văn tả cảnh Tây Nguyên
(BT có ngữ liệu khoảng 250 chữ) ; BT3 yêu cầu HS viết câu mở đoạn cho 1 trong 2 đoạn
văn ở BT2. Xét về độ dài thì bài học có số lượng chữ khá lớn nhưng xét về "độ khó" thì
cả 3 BT đều không vượt quá khả năng tiếp nhận của HS bình thường ở lớp 5 (đã được rèn
luyện về kĩ năng đọc thầm, đọc lướt). Để giảng dạy có hiệu quả với các đối tượng HS
khác nhau, GV cần chú ý một số điểm về cách dạy và phân bổ thời gian thực hiện từng
bài tập như sau:
- Bài tập 1 (khoảng 10 phút)
+ Sau khi hướng dẫn HS nêu yêu cầu của BT (Đọc bài Vịnh Hạ Long và trả lời những
câu hỏi gì ?), GV có thể cho 2 em nối tiếp nhau đọc thành tiếng, các em khác đọc thầm
để chuẩn bị trả lời câu hỏi.
+ Tổ chức HS trả lời từng câu hỏi (SGK) theo cặp (đối với lớp có nhiều HS khá, giỏi),
hoặc trả lời từng câu hỏi trên lớp theo gợi ý của GV. VD:
(a) Mở bài là câu văn nào ? Thân bài gồm những đoạn nào ? Kết bài là câu văn nào ?

(b) Phần than bài gồm mấy đoạn ? Dựa vào câu in đậm đầu đoạn văn (1, 2, 3), em biết
được doạn đó miêu tả những gì?

(c) Câu in đậm có vai trò gì đối với đoạn văn (nêu ý cụ thể hay ý bao trùm toàn đoạn)?
Xét trong toàn bài, những câu văn đó có tác dụng gì? (Hoặc: Nếu không có câu in đậm,
ta có thể biết được sự chuyển đoạn và sự nối kết các đoạn với nhau không?)/ GV nhắc
HS lưu ý từ ngữ trước hết là câu mở đoạn đầu phần thân bài, các từ ngữ chẳng
những...mà còn, tuy…nhưng trong 2 câu mở đoạn ở các đoạn tiếp theo.

253
Trang 307
- Bài tập 2 (khoảng 10 phút)
Sau khi xác định yêu cầu của BT, GV tổ chức HS đọc thầm, thảo luận nhóm để tìm câu
mở đoạn thích hợp (đối với lớp có nhiều HS khá, giỏi), hoặc gợi ý HS chọn câu mở đoạn
theo một trong hai cách sau :
+ Đọc và tìm hiểu xem ý từng đoạn nói gì, từ đó chọn câu mở đoạn (a, b, c) có từ ngữ nói
đúng ý đó. (Chú ý các từ ngữ núi non điệp trùng ở câu a, núi cao chất ngất... rừng cây
đại ngàn ở mở đoạn b, cánh rừng hoang sơ ở mở đoạn c - Đoạn 1 ; các từ ngữ miền đất
của những dòng sông cuồn cuộn, những dòng suối nên thơ ở mở đoạn a, miền đất âm
vang tiếng cồng chiêng từ ngàn đời ở mở đoạn b, những thảo nguyên rực rỡ, muôn màu
sắc ở mở đoạn c - Đoạn 2).
+ Đọc từng câu mở đoạn (a, b, c) để biết được ý khái quát muốn giới thiệu trong câu (chú
ý các từ ngữ in nghiêng nói trên), sau đó đọc đoạn văn để biết nội dung và chọn câu mở
đoạn có ý khái quát đúng nội dung đó (dùng "phép thử" để chọn đúng mở đoạn b cho
Đoạn 1, chọn đúng mở đoạn c cho Đoạn 2).
- Bài tập 3 (khoảng 15 phút)
Để hướng dẫn HS viết được câu mở đoạn cho một trong hai đoạn văn ở BT2 theo ý của
riêng em, GV cần xác định rõ mức độ yêu cầu cần đạt đối với từng loại đối tượng để giúp
đỡ (có thể gợi ý hoặc "làm mẫu" trước khi HS yếu, kém tự viết, sau đó yêu cầu HS đọc
trước lớp để nhận xét, góp ý):
+ HS khá, giỏi viết được câu mở đoạn có phần sáng tạo, không rập khuôn hoặc "phỏng
theo" câu mở đoạn đã xác định ở BT2. VD: Nói đến Tây Nguyên, ta thường nghĩ đến
những cánh rừng đại ngàn và những ngọn núi cao hùng vĩ (Đoạn 1); Tây Nguyên không
chỉ có núi non kì vĩ mà còn có những thảo nguyên rực rỡ trong nắng, đẹp như những tấm
thảm lụa muôn màu khoe sắc (Đoạn 2).
+ HS yếu, kém viết được câu mở đoạn có ý tương tự câu mở đoạn đã xác định BT2, chỉ
cần thay đổi cách diễn đạt theo ý của riêng em. VD:Tây Nguyên là nơi có những ngọn núi
cao chất ngất và những rừng cây đại ngàn (Đoạn 1); Nhưng Tây Nguyên đầu chỉ có rừng

254
rậm và núi cao. Tây Nguyên còn có những thảo nguyên rực rỡ trong nắng xuân, như
những tấm thảm lụa muôn màu sắc (Đoạn 2).
Trang 308
Câu 181
Khi học sinh luyện tập tả một người trong gia đình (SGK Tiếng Việt 5, tập một ),
giáo viên có nên yêu cầu các em mang ảnh chụp người được tả đến lớp để làm bài
hay không ?
:Miêu tả là dùng lời văn có hình ảnh, làm hiện ra ("vẽ ra") trước mắt người đọc (nghe)
bức tranh cụ thể, sinh động về một đối tượng đã làm ta chú ý và có cảm xúc. Bài văn
miêu tả hấp dẫn thường có tính chân thực. Muốn vậy, HS phải quan sát trực tiếp đối
tượng bằng nhiều giác quan, chọn được những từ ngữ thích hợp để miêu tả đúng đối
tượng, bộc lộ được ý nghĩ và tình cảm của người viết.
Ảnh chụp người được tả chỉ là hình ảnh "tĩnh", chỉ tái hiện được một phần ngoại hình của
đối tượng miêu tả, không thể hiện được tính tình, hoạt động của người đó. Quan sát ảnh
chụp để miêu tả có thể tìm được một số từ ngữ tả ngoại hình (tầm vóc, cách ăn mặc,
khuôn mặt, mái tóc, cặp mắt, hàm răng, nụ cười,...) song những từ ngữ đó cũng thường
khô khan, thiếu cảm xúc của người viết. Do vậy, không thể dùng ảnh thay cho việc quan
sát "người thật việc thật" để tìm ra những nét miêu tả sinh động, giàu cảm xúc về ngoại
hình, tính tình, hoạt động của người được tả. Hơn nữa, yêu cầu HS phải mang ảnh chụp
người thân đến lớp vừa khó thực hiện (không phải em nào cũng có ảnh chụp người trong
gia đình) vừa dễ nảy sinh một số tình huống ảnh hưởng đến quá trình luyện tập (HS thích
thú bàn luận về bức ảnh của bạn, thiếu tập trung làm bài,...). Những điều nói trên cũng
cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa yêu cầu dạy văn tả người với yêu cầu dạy "quan sát
tranh và trả lời câu hỏi" hay "tả sự vật qua tranh ảnh", "tưởng tượng và tả lại hình ảnh
một nhân vật trong câu chuyện",...
Câu 182
Để hướng dẫn học sinh thực hiện tốt yêu cầu của 2 tiết Luyện tập thuyết trình, tranh
luận (Tuần 9, SGK Tiếng Việt 5, tập một, giáo viên cần lưu ý những điểm gì ?

255
Hai tiết Luyện tập thuyết trình, tranh luận ở Tuần 9 nhằm giúp HS lớp 5 (lớp cuối cấp
Tiểu học) thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định trong Chương trình môn học :
Biết giải thích để làm rõ vấn đề khi trao đổi ý kiến với bạn bè, thầy cô , bước đầu biết
nêu lí lẽ để bày tỏ sự khẳng định hoặc
Trang 309
phủ định. Kĩ năng thuyết trình, tranh luận được dạy trong bài học ở SGK thông qua
những vấn đề đơn giản, gần gũi với lứa tuổi. Yêu cầu cụ thể trong mỗi tiết dạy như sau :
– Tiết thứ nhất : Thông qua nhận xét bài Tập đọc đã học (Cái gì quý nhất ?), các em hiểu
được : muốn tranh luận hay thuyết trình về một vấn đề, cần nêu được những lí lẽ và dẫn
chứng cụ thể, có sức thuyết phục (BT1). Dựa vào ý kiến của một nhân vật trong bài
(Hùng, Quý hoặc Nam), HS bước đầu luyện tập về tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí
lẽ và dẫn chứng để lời tranh luận thêm sức thuyết phục (BT2). Sau đó, các em trao đổi,
rút ra những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc thuyết trình, tranh luận đạt kết quả tốt
(BT3).
Tiết thứ hai : HS tiếp tục được luyện tập mở rộng lí lẽ và dẫn chứng trong thuyết trình,
tranh luận qua các bài tập có yêu cầu cao dần hơn tiết thứ nhất (BT1 có chỗ dựa để HS
mở rộng lí lẽ và dẫn chứng, BT2 đòi hỏi HS tự tìm lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục
người khác về một vấn để được xác định).
Để hướng dẫn HS thực hiện tốt yêu cầu của 2 tiết nói trên, GV cần lưu ý một số điểm cơ
bản dưới đây.
(1) Tiết thứ nhất
- BT1: Tổ chức HS tự đọc lại bài Cái gì quý nhất ?, trao đổi nhóm (cặp) theo những câu
hỏi gợi ý trong SGK. Sau khi HS trình bày kết quả trước lớp, GV chốt lại : Khi thuyết
trình, tranh luận về một vấn đề nào đó, ta phải có ý kiến riêng, biết nêu lí lẽ để bảo vệ ý
kiến một cách có lí, có tình, thể hiện sự tôn trọng người đối thoại.
- BT2 : Hướng dẫn HS tìm hiểu ví dụ (M) trong SGK để nắm được thế nào là mở rộng
thêm lí lẽ và dẫn chứng, VD: Quý nhất là lúa gạo + Lúa gạo quý như vàng + (Mở rộng
dẫn chứng) Trong bài Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa gọi hạt gạo là "hạt vàng
làng ta" + (Mở rộng lí lẽ) Lúa gạo nuôi sống con người, ai cũng phải ăn mới sống được.
Sau đó, yêu cầu 1 nhóm HS (khá, giỏi) đóng vai 3 nhân vật (Hùng, Quý, Nam) tranh luận
thử để các bạn nhận xét, GV hướng dẫn cụ thể, giúp từng nhóm thực hành luyện tập và
thi trình bày trước lớp.
- Đối với BT3a : Có thể chọn 1 trong 2 cách tổ chức thực hiện sau :GV ghi số thứ tự 1, 2,
3, 4 trước mỗi câu văn (ở bảng phụ), hướng dẫn HS ghi kết quả lựa chọn câu trả lời đúng,
sau đó sắp xếp theo số thứ tự (không cần chép lại
Trang 310
nội dung); hoặc GV phát phiếu (bảng nhóm) cho các nhóm để HS trao đổi, thảo luận và
gạch dưới những câu trả lời đúng rồi đánh số thứ tự 1, 2, 3, 3. Đại diện các nhóm trình
bày kết quả. GV hướng dẫn nhận xét và chốt lại lời giải đúng. (Chú ý giải thích cho HS
hiểu: Phải nói theo ý kiến của số đông không phải là điều kiện của thuyết trình, tranh
luận; khi tranh luận, chưa chắc ý kiến của số đông là đúng; người tham gia thuyết trình,

256
tranh luận cần có bản lĩnh, có suy nghĩ riêng, biết đưa lí lẽ và dẫn chứng để bảo vệ ý kiến,
thuyết phục mọi người).
(2) Tiết thứ hai
- BT1: Để giúp HS biết mở rộng lí lẽ và dẫn chứng khi tham gia thuyết trình, tranh luận
cùng các bạn. GV cần:
+ Nêu vấn đề: Muốn mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết trình, tranh luận, trước hết ta
cần nắm chắc vấn đề cần thuyết trình, tranh luận, nắm được ý kiến của từng nhân vật
trong câu chuyện. Sau đó gợi ý HS nắm vững nội dung bằng các câu hỏi. VD: Truyện có
những nhân vật nào? Vấn đề tranh luận là gì? Ý kiến của từng nhân vật như thế nào?
(Hoặc hỏi tách từng ý để từng HS trả lời: Ý kiến của Đất thế nào? Ý kiến của Nước ra
sao?...).
+ Hướng dẫn 1 HS (khá, giỏi) đóng vai nhân vật Đất, thử mở rộng, phát triển lí lẽ và dẫn
chứng để thuyết trình, tranh luận với các bạn nhằm bảo vệ ý kiến của mình. (Lưu ý: Khi
tranh luận, cần nhập vai nhân vật và xưng tôi để thuyết trình ý kiến của mình; có thể so
sánh sự cần thiết của chất màu đối với cây như thức ăn đối với người, có thể liên tưởng
nếu cây tách khỏi đất, không có chất màu thì cây sẽ ra sao,...)
+ Hướng dẫn HS luyện tập theo nhóm 4: Nhận vai (Đất hoặc Nước, Ánh Sáng, Không
Khí), suy nghĩ và ghi vào vở nháp những lí lẽ và dẫn chứng đã được mở rộng để thuyết
trình, tranh luận với các nhân vật khác trong nhóm. Sau đó, yêu cầu 2 nhóm xung phong
trình bày kết quả thuyết trình, tranh luận (theo 4 vai), cả lớp nhận xét, góp ý (Lí lẽ và dẫn
chứng của mỗi bạn đã được mở rộng hay chưa? Nhóm nào thuyết trình , tranh luận sôi
nổi, tự nhiên, hấp dẫn? Bạn nào mở rộng lí lẽ và dẫn chứng có sức thuyết phục nhất?...).
Cuối cùng, GV đưa bảng phụ ghi nội dung Lí lẽ, dẫn chứng mở rộng để HS đọc tham
khảo (theo SGV Tiếng Việt 5, tập một).

Trang 311
- BT2: Có thể hướng dẫn HS nắm vững yêu cầu và thực hiện như sau:
+ Dùng câu hỏi gợi ý HS chuẩn bị ý kiến, VD: Dựa trên bài ca dao, em cần trình bày ý
kiến thuyết phục mọi người về vấn đề gì? Trong bài ca dao, đèn và trăng tự đánh giá
mình thế nào? Đèn và trăng tự đánh giá mình như vậy đã đúng chưa? Vì sao? Theo em,
nếu chỉ có đèn mà không có trăng thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Nếu chỉ có trăng mà không có
đèn thì chuyện gì sẽ xảy ra? Vì sao nói cả trăng và đèn đều cần thiết cho cuộc sống?
+ Hướng dẫn 1 HS (khá, giỏi) trình bày ý kiến thuyết phục các bạn trong lớp thấy rõ sự
cần thiết của cả trăng và đèn. Sau đó, yêu cầu HS lần lượt tập trình bày ý kiến thuyết trình
theo cặp; 2- 3 nhóm cử đại diện trình bày rước lớp để các bạn đánh giá, bình xét người
thuyết trình giỏi.
Câu 183
(?) Dạy bài Tập làm văn Làm biên bản một vụ việc (Tuần 16, SGK Tiếng Việt 5, tập
một); giáo viên cần hướng dẫn thực hiện bài tập 2 (lập biên bản về việc cụ Ún trốn
viện) như thế nào cho phù hợp với các đối tượng học sinh?

257
[:] Tiết Tập làm văn Làm biên bản một vụ việc (Tuần 16) gồm hai BT: BT1 yêu cầu HS
đọc Biên bản về việc Mèo Vằn ăn hối lộ của nhà Chuột, dựa vào kiến thức đã học về biên
bản cuộc họp (Biên bản đại hội chi đội), chỉ ra những điểm giống và khác về nội dung và
cách trình bày ở hai biên bản; BT2 yêu cầu HS dựa theo nội dung bài Tập đọc mới học
Thầy cúng đi bệnh viện, thực hành lập biên bản về việc cụ Ún trốn viện (theo gợi ý cụ thể
trong SGK).
Thực hiện BT1, HS đã nắm được tác dụng của biên bản (ghi lại diễn biến để làm bằng
chứng), thấy rõ điểm giống và khác nhau giữa biên bản một vụ việc và biên bản cuộc
họp: Phần mở đầu (Quốc hiệu, tiêu ngữ, tên biên bản) và Phần kết thúc (tên, chữ kí của
người có trách nhiệm) có nội dung và cách trình bày tương tự như nhau. Phần chính đều
ghi thời gian, địa điểm, thành phần có mặt, diễn biến sự việc, nhưng nội dung của biên
bản cuộc họp thì có báo cáo, phát biểu,... còn biên bản mộ vụ việc thì ghi lời khai của
những người có mặt (làm chứng).
Như vậy, yêu cầu chung của BT2 là HS biết lập biên bản về một vụ việc, nhưng mức độ
yêu cầu tối thiểu cần đạt được là: dựa vào gợi ý trong SGK, HS nêu được nội dung chính
của biên bản về sự việc cụ Ún trốn viện. Để đạt

Trang 312
được yêu cầu của BT2 đồng thời đảm bảo thời gian dạy học trên lớp, căn cứ vào đối
tượng HS lớp dạy, GV có thể chọn một trong hai cách sau để hướng dẫn HS làm bài:
- Cách 1 (đối với lớp có nhiều học sinh khá, giỏi): HS xác định yêu cầu của BT; tự tìm
hiểu nội dung gợi ý trong SGK, nêu ý kiến (những điểm chưa rõ) cần được GV giải đáp;
trình bày miệng (1- 2 HS) phần Nội dung chính trước lớp để nhận xét, rút kinh nghiệm;
sau đó HS làm bài vào vở (kết hợp viết trên bảng nhóm, giấy khổ rộng,...), trình bày biên
bản trước lớp để nhận xét, đánh giá.
- Cách 2 (đối với lớp có nhiều HS trung bình, yếu, kém): GV hướng dẫn HS dựa vào gợi
ý trong SGK (a, b, c) để thực hành lập biên bản (làm miệng) theo từng phần, sau đó chỉ
viết vào vở phần Nội dung chính (b) theo gợi ý bằng câu hỏi cụ thể do GV đưa ra (tên của
bác sĩ, y tá do HS tự đặt hoặc được GV gợi ý). VD:
+ Bệnh nhân Ún đang chờ điều trị bệnh gì?
+ Bác sĩ nào đã phát hiện bệnh nhân Ún vắng mặt? Phát hiện lúc mấy giờ?
+ Các bác sĩ và y tá đã tìm bệnh nhân ở những chỗ nào mà không hấy? Họ cho rằng cụ
Ún trốn viện vì lí do gì?
+ Đề nghị cách giải quyết sự việc trên như thế nào? (VD: Đề nghị bệnh viện cử người
tìm bệnh nhân Ún đưa ngay về bệnh viện mổ sỏi thân kẻo nguy hiểm đến tính mạng).
Nếu có điều kiện, GV hướng dẫn HS về nhà trình bày sạch sẽ vào vở toàn bộ biên bản đã
làm theo yêu cầu của BT2.
Câu 184
(?) Xin cho biết nội dung, yêu cầu dạy học các bài Lập chương trình hoạt động SGK
Tiếng Việt 5, tập hai. Nếu học sinh chưa có điều kiện tham gia các hoạt động nêu ở
đề bài trong sách giáo khoa thì giáo viên giải quyết thế nào?
[:] Nội dung, yêu cầu dạy học các tiết Lập chương trình hoạt động (CTHĐ) trong SGK
Tiếng Việt 5, tập hai được xác định như sau:

258
- Tiết thứ nhất (Tuần 20): Thông qua việc hướng dẫn HS đọc và tìm hiểu văn bản Một
buổi sinh hoạt tập thể (nhằm mục đích gì, việc phân công chuẩn bị cho buổi sinh hoạt ra
sao, chương trình cụ thể diễn ra thế nào), GV giúp các em biết thực hành lập CTHĐ của
lớp để tổ chức buổi liên hoan văn nghệ chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11 theo
3 phần: Mục đích, Phân công chuẩn bị, Chương trình cụ thể.
Trang 313
chuẩn bị cho buổi sinh hoạt ra sao, chương trình cụ thể diễn ra như thế nào), GV giúp các
em biết thực hành lập CTHĐ của lớp để tổ chức buổi liên hoan văn nghệ chào mừng
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 theo 3 phần: Mục đích, Phân công chuẩn bị, Chương
trình cụ thể.
- Tiết thứ hai (Tuần 21) : Theo gợi ý của đề bài trong SGK, HS tự xách định một hoạt
động tập thể do lớp hay nhà trường dự kiến tổ chức để lập CTHĐ theo 3 phần đã học.
Đây là dạng đề bài mở, vì vậy HS có thể lập CTHĐ cho 1 trong 5 hoặt động mà SGK đã
nêu hoặc lập CTHĐ cho một hoạt động khác mà trường mình dự kiến tổ chức, VD: một
buổi cắm trại hoặc tham quan, dã ngoại: một buổi tham gia làm kế hoạch nhỏ hoặc giúp
đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ,…
- Tiết thứ ba (Tuần 23) : HS tiếp tục luyện tập về lập CTHĐ cho một hoạt động góp
phần giữ gìn trật tự, an ninh theo gợi ý của đề bài trong SGK. Sau khi tìm hiểu yêu cầu
của đề bài và tự luawjc chọn 1 trong 5 hoạt động gợi ý, HS phải hình dung mình đóng vai
trò là liên đội trưởng (hoặc liên đội phó) để lập CTHĐ cụ thể cho hoạt động đã chọn.
CTHĐ cần đầy đủ nội dung theo 3 phần như dàn ý đã nêu trong SGK (Mục đích, Phân
công chuẩn bị, Chương trình cụ thể ).
Trường hợp cả 5 hoạt động nêu trong đề bài tiết thứ ba đều khó thực hiện ở địa phương,
GV có thể điều chỉnh nội dung gợi ý sao cho phù hợp với trình độ học sinh nhưng cố
gắng hướng vào chủ điểm đang học (Vì cuộc sống thanh bình), VD: Thi vẽ tranh hoặc
sáng tác thơ, truyện về đề tài Trẻ Em hôm nay, thế giới ngày mai: Tham gia đọc hoặc kể
chuyện cảnh giác cho bà con thôn xóM: Tổ chức hoạt động Đền ơn đáp nghĩa nhân ngày
27 tháng 7 (chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ hoặc thăm đài tưởng niệm anh hùng dân tộc ở địa
phương, giúp đỡ gia đình thương binh),…
Câu 185
Dạy các tiết Tập viết đoạn đối thoại trong SGK Tiếng Việt 5 như thế nào cho phù hợp đối
tượng học sinh lớp 5?
Ở các phần 25, 26, 29 sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 2 có các tiết Tập viết đoạn đối
thoại thông qua hình thức chuyển đoạn văn thành màn kịch. Thực hiện

Trang 314
yêu cầu luyện tập trong các tiết học nói trên, học sinh vừa được phát triển về vị trí tưởng
tượng vừa được rèn luyện kỹ năng viết lời đối thoại trong kịch, kết hợp luyện đọc phân
vai hoặc diễn thử vàng màn kịch. Nội dung, yêu cầu của các bài tập trong 3 tiết học được
thiết kế từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Tuy nhiên, để giảng dạy cho phù hợp
đối tượng học sinh lớp 5, giáo viên cần chú ý một số điểm sau:

259
- Yêu cầu học sinh đọc kỹ, nắm vững nội dung đoạn truyện cần chuyển thành màn kịch
(BT1).
- Hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập 2 theo các bước:
+ Xác định yêu cầu của bài tập (viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch).
+ Đọc tên màn kịch và gợi ý về nhân vật, cảnh trí, thời gian.
+ Tìm hiểu kỹ những gợi ý về lời đối thoại trong màn kịch (có thể liên hệ với nội dung
đoạn truyện đã nêu ở bài tập 1)
+ Đọc đoạn đối thoại cho trước ở phần đầu màn kịch.
+ Dựa vào nội dung đoạn chuyện đã cho (BT1) và gợi ý về các lời đối thoại (BT2), thử
hình dung cụ thể về lời nói của từng nhân vật và trao đổi trong nhóm để viết tiếp đoạn đối
thoại cho trước, hoàn chỉnh màn kịch (lời nói của nhân vật nào cần thể hiện đúng tính
cách của nhân vật đó); có thể ghi thêm lời giải thích về thái độ, hành động của nhân vật
đó trong ngoặc đơn nếu thấy cần thiết.
- Quá trình hướng dẫn viết lời thoại, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi ý để làm chỗ
dựa cho học sinh diễn đạt (nhất là đối với học sinh yếu, kém).
VD: Dạy tiết Tập viết đoạn đối thoại ở Tuần 26 (SGK Tiếng Việt 5, tập 2), giáo viên
hướng dẫn học sinh dựa vào Phần I của truyện Một vụ đắm tàu (BT1) và hỏi ý về lời đối
thoại trong màn kịch Giu-li-ét-te (BT2) để hình dung và viết một lời đối thoại theo câu
hỏi gợi ý sau:
+ Đáp lại lời khen và câu hỏi của Ma-ri-ô, Giu-li-ét-te có thể trả lời bạn và hỏi lại điều gì
để làm quen với bạn? (Không, mình đi một mình, Mình về , Xa nhà đã lâu, nay sắp được
gặp bố mẹ, mình vui quá! Thế còn cậu, cậu đi với ai?)
+ Ma-ri-ô trả lời về bạn về chuyến đi của mình như thế nào? (Mình cũng đi một mình.
Mình về quê.)
Trang 315
+ Giu-li-ét- ta có thể đáp lời vợ như thế nào? (Thế à! Chắc bố mẹ cậu cũng đang mong
cậu lắm đấy.) Giu-li-ét- ta sẽ nói tiếp điều gì để rủ bạn xuống khoang tàu vì trời đêm đã
lạnh (Thôi, trời lạnh rồi, chúng mình xuống khoang tàu đi.) Nếu muốn giải thích hành
động sau đó của hai bạn, em sẽ viết vào trong ngoặc đơn như thế nào? (Cả hai cùng số
khoang tàu.)
+ Ma-ri-ô chào tạm biệt bạn như thế nào? (Tạm biệt Giu-li-ét- ta nhé!) Lúc này, theo nội
dung câu chuyện, em cần giải thích trong ngoặc đơn về sự kiện gì bất ngờ xảy ra? (Sóng
lớn, Tàu chao nghiêng. Ma-ri-ô ngã dúi, đập đầu xuống sàn tàu.)
+ Trước sự kiện đó, Giu-li-ét- ta có hành động và lời nói ra sao?(Kêu to và chạy lại, nói:
Ôi! Ma-ri-ô ! Cậu có làm sao không?) Giáo viên lưu ý học sinh trả lời giải thích Kêu to
và chạy lại trong ngoặc đơn.
+ Giu-li-ét- ta trả lời bạn thân sao? (Không sao đâu!) Giáo viên gợi ý Học sinh có thể
giải thích thái độ đối của Ma-ri-ô (ghi trong ngoặc đơn, trước lời nói) : Gượng ngồi dậy,
nén đau.
+ Giu-li-ét- ta nhìn thấy máu trên đầu bạn và nói gì? (Trời ơi! chán cậu bị chảy máu
đây này!) Sau khi gỡ chiếc khăn đỏ trên mái tóc mình, nhẹ nhàng bang cho bạn Giu-li-
ét-ta nói với bạn như thế nào? (Chắc cậu đau lắm. Để mình dìu cậu xuống khang tàu.)
Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi giải thích trong ngoặc đơn trước từng câu hỏi của Giu-

260
li-ét- ta cho phù hợp: (Nhìn thấy máu trên đầu bạn)/ (Gỡ chiếc khăn đỏ trên mái tóc
mình, nhẹ nhàng băng cho bạn)
Câu 186
Trong dạy học Tập làm văn ở các lớp 4, 5 giáo viên có thể sử dụng bài văn mẫu hay
không? Nếu có thì nên sử dụng như thế nào?
Trước hết, không nên gọi bài văn đưa ra cho học sinh học tập, rút kinh nghiệm làm bài
văn mẫu vì dễ gây cho các em hiểu lầm đó là sản phẩm “mẫu mực”, cần làm đúng như
thế. Thật ra, một bài văn được viết theo yêu cầu nhất định chính là thành quả của một quá
trình sản sinh ngôn bản trong tiếng cá nhưng rõ nét, là “đứa con tinh thần” của người
viết. Vì vậy, không thể bắt buộc các bài văn viết về cùng một đề bài phải hoàn toàn giống
nhau. Dạy học sinh viết bài Tập làm văn, khó nhất là 6 viên phải gợi mở, dẫn dắt các em
“hiểu đề” nhìn trúng “đích” và tìm được lối đi thích hợp cho bản thân sao cho hiệu quả.
Muốn viết

Trang 316

(nói) được bài văn hay, ngoài vốn sống và hiểu biết về kiến thức, kĩ năng HS còn phải có
cảm xúc và hứng thú. Nếu GV yêu cầu HS nghe (đọc) "bài văn mẫu" để rồi ghi nhớ và
"bắt chước" làm theo thì việc dạy học Tập làm văn sẽ không còn ý nghĩa và tác dụng tích
cực.

Đặc điểm nổi bật về nhận thức của HS tiểu học là tư duy cụ thể. Do đó, trong dạy học nói
chung và dạy Tập làm văn nói riêng, GV cần đưa ra những ví dụ để HS hình dung, hiểu
rõ cách làm, song phải luôn lưu ý khuyến khích các em mạnh dạn diễn tả chân thực
những ý nghĩ, tình cảm của mình, tránh sao chép, rập khuôn cứng nhắc. Để minh hoạ,
dẫn chứng cho cách làm bài hoặc rút kinh nghiệm sau khi làm bài (trong giờ trả bài), GV
có thể chọn những bài văn hay, bài văn có nhiều ưu điểm đưa ra cho HS tham khảo. Tốt
nhất là sử dụng các bài văn của chính HS trong lớp (hoặc HS những năm trước), một số
đoạn văn của các nhà văn mang cách cảm, cách nghĩ, cách viết hồn nhiên của lứa tuổi các
em ; tránh sử dụng các bài văn mẫu" khô khan, nặng về lí trí, mang cách cảm, cách nghĩ
của người lớn, không phù hợp với lứa tuổi HS tiểu học. Việc sử dụng bài văn tham khảo
cũng cần được tính toán, cân nhắc kĩ về nhiều mặt : dùng vào lúc nào, dùng cả bài hay
một vài đoạn, dùng để giúp HS học tập hay rút kinh nghiệm về điều gì (nội dung, cách bố
cục, trình bày, diễn đạt,...); tránh sử dụng bài văn tham khảo một cách tuỳ tiện, lạm dụng,
khiến HS tiếp thu một cách thụ động, không đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học trong trường tiểu học hiện nay.

261
Câu 187

Xin cho biết đoạn văn, bài văn của học sinh tiểu học có những biểu hiện như thế nào
thì được coi là sáng tạo?

Nhìn đại thể, tính sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ
thuộc vào "cái" và "cách" đã có. Dạy học nói chung, dạy Tập làm văn nói riêng đều phải
chú trọng khuyến khích HS bộc lộ tính sáng tạo để rèn cho các em có những phẩm chất
quý báu của con người sống trong thời đại mới. Căn cứ vào đặc trưng của môn học, nội
dung, yêu cầu và phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn ở Tiểu học, cần hiểu và
đánh giá tính sáng tạo của HS thông qua sản phẩm là đoạn văn, bài văn của các em như
sau :

Trang 317

Đối với đoạn văn của HS các lớp 2, 3 : Do yêu cầu cần đạt còn ở mức độ đơn giản (Biết
viết đoạn văn kể, tả đơn giản có độ dài khoảng 3 – 5 câu bằng - 1 trả lời câu hỏi đối với
lớp 2 ;Viết được đoạn văn kể, tả đơn giản (6 – 8) Lần theo gợi ý đối với lớp 3), tính sáng
tạo có thể được bộc lộ qua những dấu hiệu ban đầu, những nét rất "đơn sơ", như:

+ Không rập khuôn, bắt chước những gì đã có sẵn. VD : không diễn đạt nguyên văn cầu
- đoạn đã học trong SGK, không nói (viết) giống y hệt người khác đã làm,...

+ Bám sát yêu cầu của bài tập, câu hỏi gợi ý để mạnh dạn tìm tòi suy nghĩ, cố gắng dùng
từ, đặt câu, diễn đạt theo cách của mình nhằm bộc lộ ý nghĩ và cảm xúc một cách chân
thực, hồn nhiên, để lại ấn tượng tốt đẹp cho người đọc (nghe). VD: tìm được từ ngữ cùng

262
nghĩa, gần nghĩa hoặc thay đổi cấu trúc câu để diễn đạt theo cách nghĩ của mình ; liên
tưởng, so sánh để cảm nhận và diễn đạt ý cho cụ thể, sinh động,...

- Đối với đoạn văn, bài văn của HS các lớp 4, 5: Yêu cầu cần đạt ở mức cao hơn các lớp
2, 3, nhưng chỉ trong phạm vi Chuẩn kiến thức, kĩ năng cấp Tiểu học (HS viết được đoạn
văn, bài văn kể chuyện, miêu tả đã học ; bài viết có độ dài khoảng 150 - 200 chữ đối với
lớp 4, khoảng 200 chữ đối với lớp 5). Do vậy, bài văn, đoạn văn của HS được coi là có
tính sáng tạo khi có những biểu hiện dưới đây :

+ Nội dung có những điểm mới lạ, sinh động (do hiểu biết rộng, quan sát giỏi nên phát
hiện được), hoặc nội dung quen thuộc nhưng được diễn tả một cách hấp dẫn, không giống
với mọi người (do cách nghĩ, cách cảm chân thật, mang đậm dấu ấn cá nhân).

+ Sắp xếp hợp lí các câu trong đoạn văn theo mạch suy nghĩ riêng của cá nhân, gợi hứng
thú cho người đọc ; bố cục bài văn chặt chẽ, biết mở bài giảng tiếp gây chú ý cho người
đọc, kết bài mở rộng bộc lộ được suy nghĩ, cảm nhận riêng, thân bài có những nét độc
đáo, mới lạ.

+ Hình thức trình bày đoạn văn, bài văn không gò bó, khuôn sáo , có những từ ngữ dùng
"đắt giá", có những câu văn hấp dẫn (do biết chọn từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp
nghệ thuật đạt hiệu quả tốt,...).

Trang 318

Câu 188:
? Một học sinh kể lại câu chuyện cây khế theo lời của người anh (theo đề bài 3, tuần
22, SGK Tiếng Việt 5, tập hai, tr.45) đã kết thúc câu chuyện như sau :
Thấy chim phượng hoàng chao đảo, tôi nhảy ngay xuống biển, trút bỏ vàng bạc và
bơi vào bờ đất liền. Tôi được những người dân chài cứ sống nhưng cảm thấy xấu hổ
vì cách cư xử với người em nên không dám trở về làng, đành sống cô đơn trên đất
khách quê người.
Giáo viên cần đánh giá đoạn kết quả câu chuyện nói trên như thế nào ?
Câu chuyện cổ tích cây khế được kết thúc như sau:

263
Vàng nhiều, nặng quá, chim bay chậm. Đến giữa biển, đôi cánh chim mỏi rã rời. Trời đã
tối. Bất chợt gặp cơn gió mạnh, chim không gượng được, bay lảo đảo, lực mình một cái.
Tên tham của và cái túi vàng nặng trịch trời tắm xuống biển.
Đoạn kết của HS rõ ràng không đúng với nội dung câu chuyện. Nhưng để giúp HS biết kể
chuyện theo yêu cầu đề bài, khắc phục hạn chế, phát huy ưu điểm. GV cần phân tích rõ:
nếu kể theo đúng cốt chuyện thì cần tôn trọng nội dung văn bản; nếu kể lại câu chuyện
theo cách cảm nhận của cá nhân (được phết tưởng tượng thêm chi tiết nhưng không làm
sai lạc ý nghĩa của câu chuyện) thì kết thúc câu chuyện cây khế như trên là sáng tạo và có
tính nhân văn. Tính sáng tạo được thể hiện qua chi tiết người anh còn sống (sống để kể
lại sự hối hận và cái giá phải trả cho tính tham lam), nhưng sống với lương tâm bị giày
vò, cắn rứt, sống “cô đơn nơi đất khách quê người” thì cũng như đã chết (!). Tính nhân
văn bộc lộ qua kết cục mang ý nghĩa tích cực, đó là sự “thức tỉnh” lương tâm của người
anh ( kịp “trút bỏ vàng bạc” để rồi bỏ tính tham lam, cách cảm thấy xấu hổ “ không dám
trở về làng”). Cách suy nghĩ và cảm nhận như vậy vừa đảm bảo ý nghĩa của câu chuyện
(người tham lam phải gánh chịu hậu quả tai hại – “ Tham thì thâm”) vừa phù hợp với xu
thế sống hòa hợp, khoan dung và nhân ái trong thời đại ngày nay.
Trang 319
Kể truyện Sơn tinh thủy tinh, nhà văn Vũ Tú Nam đã tưởng tượng nhân vật Sơn tinh là
chàng trai cao lớn, tóc xanh, mắt sáng cưỡi con nai vàng chạy nhanh vùn vụt như làn gió,
… đội mũ lông trĩ, mặc áo giáp bằng giá tê tê, chân đi hài cỏ, dáng điệu như võ tướng mà
lại từ tốn khiêm nhường , thuỷ tinh là người bé nhỏ, mặt trắng, mặt xám, tóc bờm xờm
như mây mưa, mình mặc áo đồi mồi, tanh mùi cá. Kết thúc câu chuyện Ông Gióng, nhà
văn Tô Hoài có viết : phá xong giặc, Gióng phi ngựa lên núi Sóc Sơn, ghìm cương, quay
nhìn bốn phía quê hương đất nước, vái tạ mẹ già, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Tuy nội dung không đúng như chuyện thần thoại tưởng tương truyền nhưng đó là những
cách kết sáng tạo, giàu tính thẩm mĩ, góp phần tô đậm ý nghĩa của câu chuyện. Chính vì
vậy, việc đánh giá kết thúc câu chuyện Cây khế nói trên cần khéo léo, đúng mực, khuyến
khích được sự cảm nhận sáng tạo của HS tiểu học.

264
265

You might also like