Professional Documents
Culture Documents
Bài Tập Lớn Môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Bài Tập Lớn Môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
ĐỀ TÀI: Phân tích và chứng minh Hồ Chí Minh xây dựng nhà nước của dân, do
dân, và vì dân trong Hiến pháp 1946 như thế nào? Vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, là đạo luật gốc của mỗi quốc gia,
thể hiện bản chất tiến bộ, dân chủ của chế độ đó. Trong lịch sử nước ta, đã có 04 bản
Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong các bản hiến pháp nói trên, Hiến
pháp năm 1946 - bản hiến pháp đầu tiên của đất nước ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh là
Trưởng Ban soạn thảo đã đặt nền tảng quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện một
nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Điều này thật có ý nghĩa trong quá trình việc
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 hiện nay.
1. Hiến pháp năm 1946 - Nền tảng xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Trong muôn vàn khó khăn của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đó là xây dựng một bản
Hiến pháp dân chủ. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945,
với việc xác định “Chúng ta phải có bản Hiến pháp dân chủ”, những công việc chuẩn bị
dự thảo Hiến pháp đã được tích cực tiến hành. 10 tháng sau khi Quốc hội khóa I ra đời,
tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta. Vì hoàn cảnh chiến tranh, bản Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố
nhưng Hiến pháp năm 1946 được đánh giá là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém
một bản Hiến pháp nào trên thế giới với những giá trị có ý nghĩa muôn đời.
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
thông qua ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I với 240/242 đại biểu tán
thành. Vậy là, sau gần 3 thập kỷ kể từ Bản yêu sách của dân An Nam (năm 1919) gửi hội
nghị Versailles đến năm l946, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được thực hiện.
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm cùng một lúc đe doạ nền độc lập dân tộc mới giành được, Hiến pháp 1946 thực sự là
công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ
chính quyền cách mạng và thực hiện quyền lực nhân dân.
Khẩn trương thực hiện chủ trương nói trên, ngày 20/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời
đã ra Sắc lệnh thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
thông qua bản Hiến pháp. Tại phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Sau khi nước
nhà mới được tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch
sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi
Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm lên theo một hoàn
cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp
đó đã tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó
đã tuyên bố với thế giới: Phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để
hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần
đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của
các giai cấp”.
Để đảm bảo thực thi các quyền dân chủ, nhân quyền trong thực tiễn cuộc sống, Hiến pháp
năm 1946 đã khẳng định mạnh mẽ yêu cầu “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân” thông qua việc xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Có
thể nói, nếu như vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề
cơ bản của một chính quyền là ở chỗ chính quyền đó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi
của ai. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi nước ta giành
được độc lập, Người khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra…Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đó là điểm khác nhau về bản
chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại
trong lịch sử.
2. Hiến pháp năm 1946 và các đặc trưng cơ bản của Nhà nước của dân, do dân, vì
dân.