You are on page 1of 7

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2023 – 2024

(Phần dành cho sinh viên/ học viên)

Bài thi học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh Số báo danh: 45


Mã số đề thi: 33 Mã số SV/HV: 21D185153.
Ngày thi: 23/12/2023 Tổng số trang: ……… Lớp: 23105HCMI0111
Họ và tên: Nguyễn Minh Quang

Điểm kết luận:


GV chấm thi 1: …….………………………......

GV chấm thi 2: …….………………………......

Bài làm
SV/HV không
được viết vào Câu 1: Anh (chị) hãy làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước hợp
cột này) pháp, hợp hiến. Ý nghĩa của quan điểm đó trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Điểm từng câu,
diểm thưởng Khi chàng thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng vào năm
(nếu có) và điểm
1911, không chỉ mang theo tình yêu sâu đậm đối với quê hương và đất nước,
toàn bài
không chỉ vì lòng thương xót đối với đồng bào đang chịu đựng đau khổ và
cảnh đày đọa, mà còn do sự hấp dẫn của những lý tưởng mới mẻ như "tự do,
GV chấm 1:
bình đẳng, lòng nhân ái" trong tư duy và văn hóa Pháp. Năm 1917, từ Vương
Câu 1: ……… điểm quốc Anh, Nguyễn Tất Thành đã đến Pháp, một cơ hội quan trọng trong việc
Câu 2: ……… điểm thực hiện mục tiêu cứu nước, cứu dân. Tại nơi này, trên quê hương của những
…………………. lý tưởng về tự do, bình đẳng, lòng nhân ái, Người đã tiếp xúc và nghiên cứu
các tác phẩm của các nhà tư tưởng mở đường như F. Voltaire, Ch.S.
………………….
Montesquieu, J.J. Rousseau... qua đó giúp Người hiểu rõ hơn về nhiều vấn đề,
Cộng …… điểm trong đó có vấn đề về xây dựng nhà nước hợp pháp, hợp hiến - một nhà nước
dành cho dân, một nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật.
GV chấm 2:
Câu 1: ……… điểm
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà Nước Hợp Pháp, Hợp Hiến
Thứ nhất, phải có nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Câu 2: ……… điểm Trước hết, hợp pháp là phù hợp với pháp luật, tức là tuân thủ các quy định
…………………. của pháp luật. Hợp hiến là phù hợp với Hiến pháp, tức là tuân thủ các nguyên
…………………. tắc, quy định của Hiến pháp.
Cộng …… điểm
Như vậy, hợp pháp, hợp hiến là hai khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ
sung cho nhau. Một hành vi, một quyết định được coi là hợp pháp, hợp hiến
khi nó tuân thủ cả pháp luật và Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 1/7


định tầm quan trọng của hợp pháp, hợp hiến trong xây dựng và quản lý nhà nước: Hợp
pháp, hợp hiến là cơ sở pháp lý cho hoạt động của nhà nước. Nhà nước là tổ chức quyền
lực chính trị cao nhất của một quốc gia, có nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật. Do
đó, mọi hoạt động của nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp lý, tức là phải hợp pháp, hợp
hiến. Nhà nước hợp pháp, hợp hiến là yêu cầu của dân chủ, dân chủ là mục tiêu của cách
mạng, là bản chất của nhà nước pháp quyền. Do đó, mọi hoạt động của nhà nước phải
thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, tức là phải hợp pháp, hợp hiến. Cuối cùng, Nhà nước
hợp pháp, hợp hiến là bảo đảm cho quyền con người, quyền công dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, quyền con người, quyền công dân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, do
đó, mọi hoạt động của nhà nước phải bảo đảm cho quyền con người, quyền công dân, tức
là phải hợp pháp, hợp hiến.
Hồ Chí Minh thường xuyên tập trung vào việc thiết lập nền tảng pháp lý cho Nhà nước
Việt Nam mới. Người nhanh chóng nhận thức được sự quan trọng của Hiến pháp và hệ
thống pháp luật trong các khía cạnh chính trị và xã hội. Điều này được phản ánh trong
bản Yêu sách của nhân dân An Nam, được một nhóm người Việt yêu nước tại Pháp viết
và gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) vào năm 1919, thay mặt cho nhóm này. Bản Yêu
sách đó đặt ra những yêu cầu cụ thể nhằm cải cách hệ thống pháp luật ở Đông Dương,
bao gồm việc đảm bảo người dân bản xứ có quyền hưởng các đặc quyền pháp luật như
người ở châu Âu; loại bỏ hoàn toàn hệ thống các tòa án đặc biệt được sử dụng như công
cụ để đàn áp và áp đặt sức ép lên những người trung thực nhất trong cộng đồng dân An
Nam; cũng như thay thế chế độ ban hành sắc lệnh bằng chế độ ban hành luật pháp.
Sau này, khi trở thành người đứng đầu của Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh tăng
cường sự quan tâm đến việc đảm bảo rằng tổ chức và hoạt động của Nhà nước tuân thủ
pháp luật. Người cũng sử dụng pháp luật như cơ sở để quản lý xã hội, đặt sự thấm sâu
của tinh thần pháp quyền và việc điều chỉnh mọi mối quan hệ và hoạt động trong cả Nhà
nước và xã hội lên hàng đầu. Do đó, chỉ trong ngày tiếp theo sau khi đọc Tuyên ngôn
Độc lập, trong buổi họp đầu tiên của Chính phủ tạm thời vào ngày 3 tháng 9 năm 1945,
Hồ Chí Minh đã đề xuất một khía cạnh quan trọng: " “Chúng ta phải có một hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ
với chế độ phổ thông đầu phiếu" để thiết lập Quốc hội, từ đó thiết lập Chính phủ và các
tổ chức, cơ quan, hệ thống hợp pháp, thể hiện quyền lực cao nhất của người dân. Chỉ khi
có điều này, nước ta mới có một nền pháp luật vững chắc để tương tác với quân Đồng
Minh, mối quan hệ quốc tế cân bằng và để xây dựng một hệ thống quyền lực hợp pháp,
tuân thủ theo tiêu chuẩn của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.

Thứ hai, xây dựng Nhà nước thượng tôn pháp luật
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước quản lí bộ máy bằng nhiều biện pháp khác nhau
nhưng quan trọng nhất vẫn là sử dụng Hiến pháp và pháp luật. Điều này đặt ra sự cần
thiết của việc thực hiện công tác lập pháp. Hồ Chí Minh đã luôn tập trung vào việc xây
dựng hệ thống luật pháp dân chủ và hiện đại. Với vai trò Chủ tịch nước, Người đã tham
gia vào việc soạn thảo Hiến pháp hai lần (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959)
và ký lệnh công bố 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, trong đó có 243 sắc lệnh về tổ chức Nhà
nước và pháp luật. Trong bối cảnh khó khăn của việc kháng chiến và kiến quốc, việc
thành lập hệ thống luật như vậy thể hiện rõ sự nỗ lực của Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt
Nam trong công tác lập pháp.

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 2/7


Bên cạnh công việc lập pháp, Hồ Chí Minh cũng chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
thực tế, đảm bảo thi hành pháp luật và thiết lập cơ chế giám sát. Người nhấn mạnh sự
quan trọng của việc nâng cao hiểu biết và khả năng sử dụng pháp luật của người dân,
giáo dục ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Người cho rằng pháp luật là công cụ
quyền lực của người dân, vì vậy việc giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ, đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền, bảo
đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân trong cuộc sống. Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào việc
nâng cao dân trí, kích thích tính chính trị tích cực của người dân, giúp họ có ý thức chính
trị trong việc tham gia công việc của chính quyền. Người luôn đề cao tính nghiêm minh
của pháp luật, đồng thời khuyến khích sự phê bình và giám sát công việc của Nhà nước,
đảm bảo tính minh bạch và trung thực trong việc thi hành pháp luật. Đối với Hồ Chí
Minh, pháp luật phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức và giá trị xã hội. Nó không chỉ là
công cụ hình phạt, mà còn là công cụ giáo dục, cảm hóa và thức tỉnh ý thức con người.
Người cũng nhấn mạnh về việc xây dựng và thi hành pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức
của xã hội và các giá trị đạo đức, nhằm bảo vệ con người. Điều này thể hiện rõ ràng
trong pháp quyền nhân nghĩa, khi luật pháp được thiết kế không chỉ vì lợi ích của người
dân mà còn vì sự nhân văn, khuyến khích hành vi đúng đắn và công bằng, và đối xử công
bằng với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh cũng đã luôn khích lệ người dân tham gia vào
việc giám sát quá trình thi hành pháp luật của Nhà nước và không ngừng nhấn mạnh về
vai trò của cán bộ thuộc các ngành hành pháp và tư pháp trong việc làm gương mẫu về
tuân thủ pháp luật. Người còn là một tấm gương mẫu mực trong việc tự giác và tuân thủ
pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tạo nên một lối sống tự nhiên và
tư duy ứng xử đúng mực.

Thứ ba, xây dựng Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa
"Pháp quyền nhân nghĩa" theo Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến việc tôn trọng và thực
hiện các quyền con người mà còn bao gồm việc quan tâm đến lợi ích chung của mọi
người. Người đã nắm bắt và áp dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền con người,
bao gồm cả quyền sống, và nhấn mạnh đến quyền lợi dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội của mọi người. Điều này bao gồm việc tập trung vào quyền của công dân nói
chung cũng như quyền của nhóm người cụ thể như phụ nữ, trẻ em và người dân tộc thiểu
số. Sứ mệnh cách mạng thực sự của Hồ Chí Minh là đấu tranh cho quyền con người.
Mục tiêu của Người không chỉ đơn thuần là giải phóng con người mà còn tạo điều kiện
để mọi người sống hạnh phúc, tự do và được tôn trọng với phẩm giá con người, bảo vệ
và thực hiện đầy đủ các quyền con người. Đây là mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam từ khi thành lập và luôn duy trì quan
điểm quyết liệt trong việc đấu tranh cho quyền con người. Hiến pháp của quốc gia đã
chứng nhận một cách toàn diện về quyền con người tại Việt Nam. Điều này tạo nền tảng
pháp lý để bảo vệ và thực hiện các quyền con người một cách toàn diện.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, luật pháp không chỉ làm việc vì lợi ích cộng đồng mà còn
mang tính nhân văn, khuyến khích hành vi đúng đắn.Tính nhân văn của hệ thống luật
pháp được thể hiện qua việc bảo vệ đầy đủ quyền con người và tôn trọng nhân quyền,
cũng như tuyệt đối chống lại việc đối xử dã man với con người. Ngay cả đối với những
người phản bội Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ
hay trừng trị họ theo luật pháp tuỳ theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 3/7


không có ai bị tàn sát." Đặc biệt, hệ thống luật pháp cũng mang tính giáo dục, tạo điều
kiện cho mọi người nắm bắt đúng sai và hướng tới hành vi tốt đẹp.

2. Ý nghĩa trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã trải qua quá trình xây dựng và
hoàn thiện qua nhiều giai đoạn với đặc điểm riêng, phản ánh tính cách mạng và nhân văn
của dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, việc phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong thời gian gần đây. Điều này được thể
hiện qua những lời khẳng định của Đảng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, nhấn mạnh vào việc cải thiện tổ chức bộ máy nhà nước, thúc đẩy hoạt động lập
pháp, hành pháp, và tư pháp. Hệ thống luật lệ được hoàn thiện một cách cơ bản, giúp đáp
ứng yêu cầu quản lý, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới kéo dài hơn 37 năm, Quốc hội đã thông qua
một lượng lớn luật và pháp lệnh, tăng cường cải cách và thúc đẩy chất lượng hoạt động
của bộ máy nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức đã được xây dựng theo hướng chuyên
nghiệp và tinh gọn, với sự tập trung vào phẩm chất đạo đức và hiệu suất công việc.
Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể, nhưng Đảng cũng thừa nhận rằng việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn chưa hoàn thiện tốt đủ để đáp ứng các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong bối cảnh mới. Một số
điểm cần được cải thiện bao gồm hệ thống pháp luật vẫn chưa thống nhất, không phù
hợp với thực tế cuộc sống. Ý thức chấp hành pháp luật của một số cán bộ, đảng viên và
người dân vẫn còn hạn chế, và việc xử lý vi phạm pháp luật chưa được thực hiện kịp thời
và hiệu quả. Cải cách hành chính và tư pháp vẫn còn nhiều điểm hạn chế, không đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của sự phát triển đất nước. Hơn nữa, cơ chế kiểm soát quyền lực và vai
trò giám sát của nhân dân vẫn còn những khó khăn và hạn chế.
Kết luận lại, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn cần sự cải thiện và hoàn thiện để thích ứng với tình
hình mới, đáp ứng được mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Câu 2: Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hóa quan hệ như thế nào với các lĩnh
vực khác? Anh (chị) hãy liên hệ vấn đề này với thực tiến Việt Nam hiện nay.

1. Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ của văn hóa với các lĩnh vực khác
Văn hóa là một khái niệm rất rộng lớn và đa nghĩa, khó có định nghĩa nào có thể bao
hàm, đầy đủ cho văn hóa, nên phải được nhìn nhận, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Văn hoá theo gốc tiếng La tinh (cultura) có nghĩa là canh tác, nuôi dưỡng, giáo
dục, phát triển, tôn trọng. William Isaac Thomas, nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa
là: “các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản
ứng cư xử,...)”. Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa: 1) Tiếp cận theo
nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; 2) Tiếp cận theo nghĩa
hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng; 3) Tiếp cận theo nghĩa
hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn mù chữ, biết đọc biết viết
(thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi); 4) Tiếp cận theo “phương
thức sử dụng công cụ sinh hoạt”. Năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 4/7


niệm văn hóa vừa khái quát, vừa cụ thể hết sức dễ hiểu, tinh tế: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hoá, văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh được hình
thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, cả về thời gian và không gian, khi mà tổ chức
UNESCO chưa được thành lập và đất nước Việt Nam đang tập trung vào mục tiêu chính
là giải phóng dân tộc. Đây có thể xem là một quan niệm về văn hóa duy nhất được hiểu
theo khía cạnh rộng lớn. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề
văn hóa, nhưng trong một khía cạnh hẹp hơn, với việc hiểu văn hóa như là một phần của
cấu trúc thượng tầng, tức là tất cả những khía cạnh về đời sống tinh thần của xã hội.
Quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội đã được Hồ Chí Minh
xác định như là một tương tác quan trọng và đồng thời trong cuộc sống. Hồ Chí Minh
nêu rõ bốn lĩnh vực chính, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, có sự tác động
và ảnh hưởng lẫn nhau. Tại Việt Nam thuộc địa, ưu tiên hàng đầu là thực hiện cách mạng
giải phóng dân tộc, thiết lập một nhà nước độc lập, dân chủ, vì nhân dân và do nhân dân.
Qua đó, việc giải phóng chính trị mở ra cánh cửa cho sự phát triển văn hóa. Điều này
không chỉ đánh dấu sự chuyển biến của văn hóa mà còn làm cho mọi hoạt động của tổ
chức và các cơ quan chính trị phải có yếu tố văn hóa.
Trong mối liên kết giữa văn hóa và kinh tế, Hồ Chí Minh xem văn hóa như là một yếu tố
thượng tầng trong xã hội. Người nhấn mạnh rằng, khi có cơ sở hạ tầng xã hội thích hợp,
văn hóa mới có điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không chỉ đứng bên ngoài mà
cần phải hòa nhập vào kinh tế, đồng nghĩa với việc văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc
vào kinh tế mà còn có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế. Sự phát triển của chính trị,
kinh tế và xã hội không chỉ thúc đẩy sự phát triển văn hóa mà còn ngược lại, mỗi bước
tiến của văn hóa cũng góp phần làm phong phú thêm cho các lĩnh vực kia.
Quan hệ giữa văn hóa và xã hội được diễn giải qua việc giải phóng chính trị cũng đồng
nghĩa với việc giải phóng xã hội, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển văn hóa. Tính chất
của xã hội ảnh hưởng đến văn hóa và ngược lại. Trong chế độ áp bức, văn hóa cũng bị
hạn chế và không thể phát triển. Để giải phóng văn hóa, việc giành chính quyền, giải
phóng chính trị và xã hội là không thể thiếu.
Về việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại, bản sắc văn hóa
dân tộc là những giá trị văn hóa cốt lõi của cộng đồng dân tộc Việt Nam, phản ánh sự
thành công của lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của người Việt Nam. Điều này
được hiểu qua nội dung và hình thức của văn hóa dân tộc. Quan điểm này đồng thời chứa
đựng giá trị lớn và mang ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh cũng nêu rõ tầm quan trọng của việc tiếp thu văn hóa nhân loại, nhấn mạnh
rằng việc tiếp thu này không chỉ để làm giàu cho văn hóa Việt Nam mà còn để xây dựng
văn hóa phù hợp với tinh thần dân chủ. Điều này không chỉ tập trung vào việc lựa chọn
mà còn vào việc nhận diện và tôn trọng giá trị văn hóa của các dân tộc khác, nhằm phát
huy những điểm mạnh để góp phần vào sự phát triển toàn diện của văn hóa Việt Nam.

2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 5/7


Kinh nghiệm qua hơn 35 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay
bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà
động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa. Hiện nay, sự
tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào trí tuệ, thông tin, ý tưởng sáng tạo và đổi
mới không ngừng, mà còn nhấn mạnh vào tiềm năng sáng tạo có trong văn hóa, tri thức
và bản lĩnh tự đổi mới của từng cá nhân và cộng đồng. Văn hóa đóng vai trò quan trọng
trong việc hướng dẫn lối sống hài hòa với sức tải của hành tinh. Nó thúc đẩy ứng xử thân
thiện giữa con người và thiên nhiên, hướng tới sự phát triển bền vững cho cả hiện tại và
tương lai. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển, nhấn mạnh vào việc xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Mối quan hệ giữa văn hóa và
phát triển kinh tế - xã hội đang trở thành vấn đề quan trọng, đặc biệt là trong các nước
đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa. Để văn hóa thực sự trở thành động lực và
mục tiêu của sự phát triển, cần phải có sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội. Nó thể hiện rõ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong
hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị này không chỉ là những niềm tin thiêng liêng, mà còn là
cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và vững chắc của chế độ. Văn hóa và bản sắc dân
tộc không chỉ là những giá trị cổ truyền mà còn phản ánh sự tiến bộ và phát triển của xã
hội. Chúng không ngừng được cải tiến, thích nghi theo sự phát triển kinh tế - xã hội, hội
nhập quốc tế và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh từ các quốc gia khác. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến và bản sắc dân tộc không chỉ đòi hỏi việc bảo tồn giá trị truyền
thống mà còn mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc duy trì bản sắc
dân tộc phải kết hợp chặt chẽ với việc phản kháng những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, đồng
thời cảm nhận và tích hợp những giá trị tiến bộ trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc
tế. Tại Việt Nam, 54 dân tộc anh em sống cùng nhau, mang những giá trị và bản sắc
riêng biệt. Sự phong phú và đa dạng của họ bổ sung cho nhau, tạo nên một nền văn hóa
thống nhất, củng cố sự đoàn kết dân tộc. Xây dựng và phát triển văn hóa không chỉ là
nâng cao nhận thức văn hóa mà còn là việc giữ gìn, thúc đẩy, và phát triển những giá trị
cốt lõi của dân tộc, mang lại sự thịnh vượng và đoàn kết cho cả xã hội. Hướng các hoạt
động văn hóa, giáo dục và khoa học vào việc xây dựng con người với tư duy khoa học,
hướng tới chân - thiện - mỹ, đồng thời thúc đẩy lối sống "Một người vì mọi người, mọi
người vì một người," là một cách để hình thành ý thức tự trọng, tự chủ và tuân thủ quy
định của Hiến pháp và pháp luật, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển xã hội. Bên
cạnh đó, việc tăng cường giáo dục về nghệ thuật, nâng cao khả năng cảm nhận thẩm mỹ
cho toàn bộ cộng đồng, đặc biệt là cho thanh thiếu niên, cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc thức tỉnh sự sáng tạo, cảm nhận sâu sắc về giá trị và vẻ đẹp của nghệ thuật.
Điều này góp phần làm giàu nền văn hóa và làm nổi bật đặc trưng văn hóa đặc thù của
Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam hiện nay vẫn còn một số hạn chế, bất cập, thể hiện ở việc nhận thức của một
bộ phận nhân dân về tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc còn chưa đầy đủ, sâu sắc. Vấn đề lớn là sự giáo dục nhân cách đang bị xem nhẹ trong
xã hội, thậm chí hệ thống giáo dục cũng có những hạn chế rõ rệt, điển hình là vụ việc
đáng tiếc giữa một cô giáo và các em học sinh ở Tuyên Quang. Bên cạnh đó, chính sách
và cách thức triển khai của hệ thống quản lý Nhà nước chưa phù hợp với thực tế cuộc

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 6/7


sống và bản chất của văn hóa. Báo cáo tại Đại hội XII xác định rằng những hạn chế chủ
yếu đến từ sự nhận thức không đúng mức độ quan trọng và thiếu sự quan tâm đầy đủ từ
các cấp ủy, chính quyền. Công tác quản lý văn hóa chưa được đổi mới, có những nơi
thậm chí coi nhẹ và buông lỏng.
Tựu chung lại, theo quan điểm Hồ Chí Minh, trong thời đại ngày nay, việc duy trì và
phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam đòi hỏi một cách tiếp cận linh hoạt và phù hợp. Sự đa
dạng văn hóa và sự thay đổi không ngừng của văn hóa đòi hỏi chúng ta phải xây dựng
chính sách linh hoạt, tôn trọng sự đa dạng của từng vùng miền cụ thể. Tuy nhiên, việc
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đang đối mặt với nhiều thách thức. Cần phải giải
quyết những hạn chế trong việc triển khai chính sách văn hóa, từ cấp quản lý tới hệ thống
giáo dục. Điều này bao gồm việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
có đủ năng lực để phát huy bản sắc dân tộc và cùng nhau xây dựng nền văn hóa phong
phú, đa dạng cho đất nước.Việc gắn kết văn hóa với xã hội, tạo điều kiện cho sự sáng tạo
và phát triển tự nhiên của văn hóa dân tộc, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện mục tiêu xây dựng một Việt Nam văn minh, tiến bộ. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc đảm bảo con người Việt Nam ngày càng phát triển toàn diện, góp phần làm giàu và
bảo tồn bản sắc văn hóa quý báu của dân tộc.

---Hết---

Họ tên SV/HV: Nguyễn Minh Quang Mã LHP: 23105HCMI0111 Trang 7/7

You might also like