You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Bài tập nhóm môn: Ngân hàng Thương mại 2


CHỦ ĐỀ 4:
NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM:
NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP XỬ LÝ
Lớp học phần: Ngân hàng Thương mại 2_(121)_07
Giảng viên hướng dẫn: TS. Khúc Thế Anh
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1
Tên thành viên trong nhóm: Đặng Giang Anh – 11190077
Nông Hoàng Anh – 11190460
Nguyễn Xuân Cường – 13160514
Mai Thúy Hằng – 11191681
Vũ Thúy Hường – 11192354
Nguyễn Hoàng Mạnh – 11193356
Phạm Hà Phương – 11194284
Nguyễn Phương Thúy - 11195040

Hà Nội, tháng 10/2021

1
MỤC LỤC
I. Tổng quan về nợ xấu của ngân hàng thương mại ....................................................... 3
1. Khái niệm về nợ xấu ................................................................................................. 3
2. Bản chất của nợ xấu .................................................................................................. 3
3. Phân loại nợ xấu ........................................................................................................ 4
II. Các nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu tại các NHTM ...................................... 7
1. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngoài ngân hàng ...................................... 7
1.1. Do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn……………………………. 7
1.2. Thị trường bất động sản…………………………………………………….. 11
1.3. Áp lực cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước……………………... 13
1.4. Gian dối từ phía khách hàng………………………………………………... 13
2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngân hàng .............................................. 14
2.1. Do năng lực quản trị tại mỗi ngân hàng còn nhiều yếu kém………………14
2.2. Do đạo đức nghề nghiệp, chất lượng cán bộ ngân hàng…………………... 15
2.3. Do tình trạng sở hữu chéo…………………………………………………... 17
2.4. Chính sách tín dụng…………………………………………………………. 17
3. Tác động của việc gia tăng nợ xấu đến các NHTM và nền kinh tế .................... 18
3.1. Đối với nền kinh tế…………………………………………………………... 18
3.2. Đối với bản thân hệ thống ngân hàng……………………………………….19
3.3. Đối với khách hàng………………………………………………………….. 20
III. Thực trạng tình hình nợ xấu của NHTM tại Việt Nam ........................................ 20
1. Tình hình nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam ................................................... 20
2. Tác động của nợ xấu đối với hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay .................... 23
IV. Thách thức, khó khăn và giải pháp giải quyết nợ xấu của NHTM hiện nay ...... 27
1. Giải pháp xử lý nợ xấu của các NHTM hiện nay ................................................ 27
2. Những khó khăn, thách thức trong vấn đề xử lý nợ xấu ..................................... 33
3. Các biện pháp quản lý nợ xấu để hạn chế nợ xấu trong tương lai .................... 37
4. Đánh giá tác động của Covid - 19 lên vấn đề nợ xấu và cách thức giải quyết trong
hiện nay ........................................................................................................................ 38
5. Giải pháp bán nợ cho VAMC để giải quyết nợ xấu ............................................. 40

2
I. Tổng quan về nợ xấu của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về nợ xấu
Ngày nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu đang được áp dụng trên thế giới.
Theo quan điểm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) (2001): “Nợ xấu là những
khoản cho vay không có khả năng thu hồi hoặc là những khoản cho vay có thể không thanh
toán đầy đủ cho ngân hàng”.
Theo Phòng thống kê - Liên hiệp quốc: “Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi đã quá
hạn trả lãi và gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã nhập
gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90
ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng được thanh toán đầy đủ”. Ở đây,
hai yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại được sử dụng để xác
định nợ xấu.
Ở Việt Nam, theo Thông tư số 11/2021/TT-NHNN của Thống đốc NHNN vừa ban hành
vào ngày 30/7/2021 thì nợ xấu được định nghĩa: “Nợ xấu (NPL) là nợ xấu nội bảng, gồm
nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5”. Nợ xấu theo định nghĩa Việt Nam cũng được xác định dựa
trên hai yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày và khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Qua những định nghĩa của các tổ chức trên ta có thể hiểu đơn giản nợ xấu, hay còn gọi
là nợ khó đòi, nợ quá hạn chính là các khoản nợ đã quá hạn trả nợ trên 90 ngày so với cam
kết trên hợp đồng tín dụng mà người vay vẫn không thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi dẫn
tới thiệt hại cho ngân hàng.

2. Bản chất của nợ xấu


Nợ xấu là vấn đề tồn đọng trong nhiều ngân hàng vì hoạt động tín dụng, hoạt động vay
tiền, cho vay tiền luôn tiềm ẩn những rủi ro đáng kể. Bản chất của các khoản nợ xấu là
những khoản tiền vay mà người chủ cho vay xác định là không thể thu hồi được, và các
khoản nợ ấy sẽ bị xóa sổ khỏi các khoản nợ phải thu của chủ nợ.
Còn đối với hệ thống NHTM, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay (thường
là các doanh nghiệp, tổ chức) nhưng khi đến hạn thì không thu hồi được do một số yếu tố
chủ quan đến từ khách hàng như tổ chức hay doanh nghiệp vay tín dụng đó làm ăn thua lỗ
hoặc phá sản,.... dẫn tới mất khả năng trả nợ khi đến kỳ hạn. Nhìn chung, một doanh nghiệp
luôn phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào
những số liệu ở kì trước. Ngoài ra, nợ xấu còn đại diện cho khoản tiền bị mất như một tổn
thất được viết bởi doanh nghiệp vì vậy nó được coi như một khoản chi phí.

3
3. Phân loại nợ xấu
Dựa trên Thông tư 11/2021/TT-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam mới được ban
hành vào ngày 30/7 năm nay về việc phân loại tài sản có, quy định mức trích lập, phương
pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ
dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).
Theo Điều 10 Thông tư 11, NHNN đề nghị các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài thực hiện phân loại các khoản nợ theo phương pháp định lượng như sau:
3.1. Nợ nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn:
(i) Các khoản nợ quá hạn từ 91 - 180 ngày (không tính những khoản nợ được quy định tại
khoản 3 Điều 10);
(ii) Nợ gia hạn nợ lần đầu còn trong hạn, ngoại trừ khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ
(được quy định tại điểm b khoản 2 Điều này) và khoản nợ được liệt kê vào nhóm nợ có rủi
ro cao hơn (trong trường hợp thuộc điểm b khoản 3 Điều 10);
(iii) Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng chi trả lãi đầy đủ theo
như thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng (trừ khoản nợ được quy định tại khoản 3 Điều 10);
(iv) Nợ thuộc một trong các trường hợp sau, chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30
ngày kể từ khi có quyết định thu hồi:
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1,3,4,5,6 Điều 126 Luật Các Tổ chức tín
dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
- Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng
mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín
dụng theo quy định của pháp luật (khoản 1);
- Nợ được cấp trên cơ sở bảo đảm của các đối tượng được quy định tại khoản
1 Điều 126 (khoán 3);
- Nợ của tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát
(khoản 4);
- Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con
của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức
tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản đảm bảo bằng
cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp (khoản 5,6).
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật Các tổ chức tín
dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
- Các khoản nợ không có bảo đảm, được cấp với điều kiện ưu đãi cho những
đối tượng cụ thể tại các điểm a, b, c, d, đ, e của khoản 1 Điều 127;

4
- Các khoản nợ có tổng mức dư nợ tín dụng đối với các đối tượng được quy
định tại các điểm a, b, c, d và đ có giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho khách hàng thuộc đối
tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Các khoản nợ cấp cho những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 127 không
được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng thông qua
và không được công khai trong tổ chức tín dụng;
- Các khoản nợ có tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một đối tượng được
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 127 vượt quá 10% vốn tự có của TCTD,
đối với tất cả các đối tượng được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 127 vượt
quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
● Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật Các tổ chức tín
dụng (đã chỉnh sửa, bổ sung), cụ thể gồm:
- Các khoản nợ có tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1 khách hàng vượt quá
15% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng
nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một
khách hàng và người có liên quan vượt quá 25% vốn tự có của NHTM, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô;
- Các khoản nợ có tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với 1 khách hàng vượt quá
25% vốn tự của của TCTD phi ngân hàng, tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối
với 1 khách hàng và người có liên quan vượt quá 50% vốn tự có của TCTD
phi ngân hàng.
- Nợ vi phạm các giới hạn và điều kiện cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ
phiếu của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do NHNN quy định.
(v) Nợ đang trong thời hạn thu hồi theo kết luận kiểm tra, thanh tra;
(vi) Các khoản nợ của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tiến hành thu hồi
trước hạn do khách hàng vi phạm thỏa thuận, chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30
ngày kể từ ngày có quyết định yêu cầu thu hồi;
(vii) Nợ phân vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này;
(viii) Nợ phân vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 4, Điều 8 Thông tư 11.
3.2. Nợ nhóm 4 - Nợ nghi ngờ:
(i) Nợ quá hạn từ 181 - 360 ngày, trừ những khoản nợ được quy định tại khoản 3 Điều 10;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn đến 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần đầu, trừ những khoản nợ được quy định tại khoản 3 Điều 10;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai còn trong hạn, trừ những khoản nợ được quy
định tại điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 10;

5
(iv) Khoản nợ được quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trong thời gian từ
30 - 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra, kiểm tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi tới 60
ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vi) Nợ phải thu hồi theo quyết định thu hồi trước hạn của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài do khách hàng vi phạm thỏa thuận với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
chưa thu hồi được trong thời gian từ 30-60 ngày kể từ khi có quyết định thu hồi;
(vii) Nợ được phân vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Điều này;
(viii) Nợ được phân vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 4 Điều 8 TT 11 này.
3.3. Nợ nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn:
(i) Nợ quá hạn trên 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 91 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại
lần thứ hai;
(iv) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, trừ khoản nợ được quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 10;
(v) Khoản nợ được quy định tại điểm c (vi) khoản 1 Điều này quá hạn trên 60 ngày kể từ
ngày có quyết định thu hồi
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận của thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày
mà vẫn chưa thu hồi được;
(vii) Nợ phải thu hồi theo quyết định thu hồi trước hạn của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài do khách hàng vi phạm thỏa thuận với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
chưa thu hồi được trên 60 ngày kể từ khi có quyết định thu hồi;
(viii) Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản;
(ix) Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này;
(x) Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 4 Điều 8 TT 11.
Ngoài ra, các khoản nợ còn được phân loại theo phương pháp định tính và nợ xấu thuộc
các nhóm 3, 4 và 5 được quy định cụ thể tại Điều 11 của Thông tư 11 này.
Việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 11 nhằm thay thế cho Thông tư 02 đã
dẫn đến thay đổi lớn trong việc điều chỉnh về thời điểm, trình tự phân loại nợ cũng như
việc trích lập dự phòng rủi ro. Trong đó, Thông tư 11 quy định trong vòng 7 ngày đầu tiên
trong tháng, các TCTD và chi nhánh NH nước ngoài phải dựa trên các quy định đã đề ra
trong thông tư để tự giác thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng tính đến ngày cuối
của tháng trước đó liền kề. Ngoài thời điểm bắt buộc trên, các NHTM có thể tự phân loại
nợ và các cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ. Như vậy, so với thông tư 02, thông tư

6
11 đã rút ngắn thời hạn tối thiểu các ngân hàng phải thực hiện phân loại nợ từ 3 tháng/lần
xuống còn 1 tháng/lần.
Tóm lại, theo quan điểm của NHNN Việt Nam thì nợ xấu được xác định dựa trên hai
đặc điểm chủ yếu, đó là: đã vượt quá thời hạn trả nợ trên 90 ngày hoặc khả năng trả nợ
của khách hàng có vấn đề. Cơ sở phân loại dựa trên Thông tư 11/2021/TT-NHNN mới
nhất, sẽ có hiệu lực tính từ tháng 10 năm nay và các thông tư trước đó như Thông tư 02,
09 sẽ hết hiệu lực ngay khi Thông tư 11 bắt đầu.

II. Các nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu tại các NHTM
1. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngoài ngân hàng
Việc phân tích các nguyên nhân phát sinh khoản nợ xấu là điều tất yếu và quan trọng
cần phải thực hiện đề có thể dựa vào đó đưa ra các chiến lược cũng như phương pháp quản
lý và xử lý khoản nợ xấu sao cho khả thi, phù hợp và đem lại hiệu quả.
Nhất là trong bối cảnh nợ xấu của những năm gần đây tăng nhanh dẫn đến sự tồn đọng
và phát triển của nợ xấu xuất phát do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nợ xấu gia tăng sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống NHTM nói riêng và toàn bộ hệ thống tài chính của Việt
Nam nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng là hoạt động của các tổ chức tài chính
trung gian nên sẽ tiềm ẩn rất nhiều các nguy cơ gây nên nợ xấu khác nhau có thể kể đến
như các yếu tố mang tính khách quan, vĩ mô hay các yếu tố mang tính chủ quan, vi mô. Và
sau đây là phân tích cụ thể về những nguyên nhân phổ biến làm phát sinh nợ xấu của các
NHTM.
1.1. Do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn
a, Môi trường thiên nhiên – Môi trường dịch bệnh:
Những nguyên nhân đến từ môi trường thiên nhiên có thể kể đến như thiên tai, lũ lụt,
bão, hỏa hoạn, mất mùa, và đặc biệt nhất là môi trường dịch bệnh đều là những nguyên
nhân khách quan do sự biến đổi của môi trường mà con người khó có thể kiểm soát được,
dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của khách hàng vay, nhất là các khoản cho vay nông
nghiệp. Từ đó dẫn đến nợ xấu phát sinh. Do đây là nguyên nhân khách quan, vượt quá tầm
kiểm soát và mong muốn của cả ngân hàng thương mại cũng như người đi vay nên yếu tố
do môi trường thiên nhiên gây ra rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì vậy, những mất mát,
tổn thất đến từ nguyên nhân này cần có sự vào cuộc và chia sẻ từ phía nhà nước và của cả
xã hội.
Một ví dụ điển hình của việc yếu tố môi trường dịch bệnh dẫn tới phát sinh nợ xấu
trong ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay chính là tình hình dịch bệnh Covid 19.
Tác động của dịch bệnh do virus corona hoành hành từ đầu năm 2020 kéo dài cho tới thời
điểm này đã khiến cho thu nhập của hàng triệu người lao động giảm sút nghiêm trọng,
thậm chí có nhiều doanh nghiệp còn cắt giảm lao động do dịch bệnh khiến hoạt động kinh

7
doanh của doanh nghiệp bị đình trệ, không có đủ quỹ lương để chi trả cho nhân viên khiến
tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Điều này đã ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động cho vay các
khách hàng mua ô tô trả góp của các ngân hàng thương mại. Không chỉ vậy, diễn biến
ngày một căng thẳng hơn của dịch bệnh cũng khiến nhiều doanh nghiệp rơi vào trạng thái
có thể phá sản hoặc không có khả năng chi trả cho các khoản nợ ngân hàng, trong đó, lĩnh
vực vận tải là một ví dụ điển hình hiện nay. Nếu trước đây, thời gian trước mục thanh lý
tài sản của các ngân hàng phần lớn là bất động sản và các loại thiết bị, máy móc lớn thì
tính đến tháng 7/2021, rất nhiều ngân hàng dồn dập mở các đợt thanh lý ô tô là tài sản đảm
bảo để xử lý các khoản nợ xấu. Theo đó, ngân hàng rao bán ô tô nhằm mục đích thu hồi và
giải quyết nợ với mức giá rẻ hơn so với thị trường dao động từ khoảng 120 triệu đồng/xe
đổ lại tùy vào chất lượng xe, độ cũ mới hay niên hạn sử dụng của xe.
Ví dụ như vào đầu tháng 7/2021, BIDV đã rao bán 1 chiếc ô tô Lexus với giá khởi điểm
2,47 tỷ đồng; hay Ngân hàng TMCP Quốc tế VIB cũng đang thông báo thanh lý hàng loạt
các dòng xe như Huyndai, Mazda 3-2020, Toyota Vios, Toyota Fortuner, Ford Ranger,...
với mức giá dao động từ 280 - 780 triệu đồng. Tương tự trong cuộc đua thanh lý tài sản
bảo đảm là ô tô để giải quyết và thu hồi nợ còn có sự xuất hiện của VPBank, trong tháng
6/2021 đã có tới ba đợt bán đấu giá là 3 lô ô tô, tháng 5 có tới bốn trên tổng số sáu đợt bán
đấu giá là 4 lô ô tô,...Điều đó chứng tỏ rằng, trong những năm gần đây, Nhà nước cũng như
Chính phủ ta luôn đề cao việc xử lý dứt điểm khoản nợ xấu tại các Ngân hàng, ngoài việc
nhằm mục đích tạo tính trong sạch, lành mạnh của hoạt động cấp tín dụng, bên cạnh đó
còn nhằm đẩy mạnh loại hình dịch vụ bán đấu giá – một trong những loại hình dịch mới
phát tiển gần đây trong hệ thống NHTM. Về nguyên tắc, trong mối quan hệ tín dụng giữa
khách hàng với ngân hàng, nếu đi vay có tài sản đảm bảo thì khách hàng cần phải ký hợp
đồng thế chấp tài sản. Tài sản đem ra thế chấp đó có thể là tài sản thuộc quyền sở hữu của
chính bản thân khách hàng đi vay hoặc là tài sản của bên thứ ba. Nếu khách hàng không
trả được nợ theo như hợp đồng tín dụng đã quy định thì ngân hàng có toàn quyền xử lý tài
sản đã thế chấp để thu hồi nợ.
Ngoài ra, tác động của đại dịch toàn cầu do virus Corona còn ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt
động sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Sự bùng phát của đại
dịch tính đến tháng 7/2021 cùng với việc nhà nước thi hành các biện pháp cách ly tập trung,
giãn cách xã hội đã ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động của chuỗi cung ứng hàng hóa, lưu
thông hàng hóa cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên cả
nước, nhất là tại nhiều tỉnh thành phố phía Nam như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai cùng với 16 tỉnh thành khác tại khu vực này. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
IIP tháng 7 vừa qua chỉ tăng 1,8% so với tháng 6 và chỉ tăng 2,2% so với cùng kỳ năm
trước. Đây là mức tăng thấp nhất trong 7 tháng qua, cụ thể là ngành khai khoáng giảm 8%,
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 15,8%, sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt

8
máy móc, thiết bị giảm 1,1%,... Đối với 19 tỉnh thành phố trực thuộc TW ở miền Nam hiện
đang phải thực hiện chỉ thị 16/CT-TTg để giãn cách phòng chống dịch Covid-19, có đến 7
thành phố có chỉ số IIP tháng 7/2021 giảm sút so với cùng kỳ năm ngoái, cụ thể là: Cà Mau
giảm 13,7%; TP. Hồ Chí Minh giảm 19,4%; Long An giảm 14,6%; Đồng Tháp, Trà Vinh
giảm lần lượt 5,7% và 5,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bến Tre với mức giảm thấp nhất là
1,9% và 0,2%. Từ chỉ số trên cũng cho thấy được, hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình
tài chính bị tác động mạnh bởi đại dịch Covid-19 đã kéo theo khả năng trả nợ của nhiều
doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng, khiến tỷ lệ nợ xấu nội bảng bị đẩy lên mức
1,78% vào cuối tháng 4 năm nay (tăng so với mức 1,69% tại thời điểm cuối năm 2020).
Theo ước tính của các số liệu trong báo cáo tài chính của 30 NHTM đến hết quý II năm
nay, chỉ trong vòng quý I và quý II đầu năm 2021 thì tổng nợ xấu nội bảng đã đạt mức tăng
đến 4,5%.
Vào hồi tháng 8 vừa qua, Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cảnh báo rằng Việt Nam cần
hết sức thận trọng trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp hơn làm gia tăng rủi ro trên
nhiều lĩnh vực, nhất là ở khu vực tài chính ngân hàng. Tính đến thời điểm hiện tại, NHNN
vẫn đang nỗ lực để cho phép các ngân hàng gia hạn nợ kết hợp với tái cơ cấu nợ nhằm hỗ
trợ hết mức cho nền kinh tế. Theo ông Đào Minh Tú - phó Thống đốc NHNN Việt Nam,
có khoảng gần 800 nghìn khách hàng đã được các NHTM xem xét để giữ nguyên khoản
nợ và cơ cấu lại thời hạn chi trả khoản nợ, ngoài ra NHTM còn tiếp tục thực hiện hoạt động
hạ lãi suất cho vay, thậm chí có những đối tượng còn được tạo điều kiện miễn chi trả lãi
suất, trong đó đã bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và lớn, các hộ gia đình với tổng dư nợ
lên tới gần 2 triệu tỷ đồng. Mặc dù các chính sách trên của NHNN vẫn đang phát huy hết
khả năng nhằm hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp có thêm thời gian cũng như nguồn lực
để tiếp tục thực hiện sản xuất kinh doanh, tuy nhiên Ngân hàng Thế giới cũng cảnh báo
rằng, ảnh hưởng của đại dịch nếu vẫn còn kéo dài thì rất có khả năng sẽ gây ra hiện tượng
phá sản ở nhiều doanh nghiệp tăng cao, hoặc nhiều doanh nghiệp sẽ tuyên bố ngưng hoạt
động và gây mất khả năng chi trả nợ. Do đó, nợ xấu chắc chắn sẽ tăng, rủi ro của nền kinh
tế thực sẽ chuyển sang các NHTM. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là các cơ quan
thực hiện và thi hành chính sách tiền tệ cần phải hết sức lưu ý đối với rủi ro nợ xấu đang
có xu hướng tăng, nhất là đối với các ngân hàng có mức vốn hóa chưa đủ vững chắc, ổn
định trước đại dịch.
Một ví dụ khác nhưng lại thể hiện một tín hiệu tích cực trong việc xử lý nợ xấu thời kỳ
dịch bệnh Covid-19 chính là Techcombank. Tính đến thời điểm cuối năm 2020, tỷ lệ nợ
xấu của Techcombank cơ bản được giữ ở mức 0,5%, thấp hơn nhiều so với mức 3% được
yêu cầu. Tỷ lệ nợ xấu giảm một cách tích cực như vậy phần lớn là do ngân hàng đã chủ
động xử lý nợ xấu để củng cố sức mạnh của bảng cân đối trước các tác động của đại dịch
Covid-19 lên nền kinh tế. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2020 là 171,0% so với

9
mức 148,0% tại 30/09/2020 và 94,8% tại 31/12/2019 - Theo Báo cáo thường niên Q4/2020.
Tính đến 31/12/2020, điểm sáng nổi bật của Techcombank là tổng nợ xấu giảm đến 58%
so với hồi đầu năm, còn khoảng 1.295 tỷ đồng. Với khoản nợ có khả năng mất vốn – nợ
nhóm 5 của Techcombank có xu hướng giảm mạnh, tới 87% và chỉ còn ở mức hơn 344 tỷ
đồng.

Kết quả khả quan đó đã giúp kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm hẳn từ mức 1,33%
xuống còn 0,5%.
Với quá trình xử lý nợ xấu tại Techcombank, bà Nguyễn Thu Lan, Giám đốc cao cấp
quản trị rủi ro, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cho biết ngân hàng
đã xử lý được một lượng lớn nợ xấu nội bảng và ngoại bảng; với khoảng trên 70% số lượng
khoản nợ xấu được giải quyết thông qua Nghị quyết 42. Việc áp dụng triệt để Nghị quyết
42 để xử lý tài sản nhằm thu hồi nợ không chỉ giúp ngân hàng thu hồi lại được các khoản
nợ xấu, mà còn tạo điều kiện cho ngân hàng có nguồn lực để cho vay khách hàng tốt, khách
hàng trả nợ đúng hạn với lãi suất tốt hơn và thủ tục thoáng hơn. Nhất là đặt trong bối cảnh
đại dịch COVID-19, việc xử lý nợ xấu sẽ hỗ trợ cho ngân hàng "khỏe" hơn để có thể giúp
các khách hàng trải qua khó khăn trước mắt do dịch bệnh.

b, Môi trường kinh tế

10
Các nghiên cứu khi xem xét tác động của một số yếu tố khách quan, vĩ mô tới nợ xấu
của NHTM đều khẳng định ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến chất lượng khoản vay.
Một nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng, phát triển tốt sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước được thuận lợi, từ đó nâng cao khả năng thanh
toán các khoản vay của khách hàng. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế kém phát triển hay
trình độ phát triển chưa cao, khả năng cạnh tranh còn nhiều yếu kém, kém bình đẳng thì sẽ
dẫn tới cả tốc độ lẫn trình độ phát triển sẽ chưa thật sự đạt mức như mong muốn. Một môi
trường kinh tế còn nhiều khuyết điểm như vậy nhiều khả năng sẽ không đáp ứng đủ tiềm
lực tài chính mạnh mẽ cho các các cá nhân, tổ chức cũng như các doanh nghiệp trong nước.
Không những thế, sự thay đổi nhanh chóng trong nhiều chính sách vĩ mô về lĩnh vực kinh
tế như như cơ chế lãi suất, tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu, cơ chế sử dụng đất đai và các
cơ chế tài chính khác,... cũng là nhân tố từ môi trường kinh tế có tác động mật thiết tới hoạt
động của các cá nhân, tổ chức, khiến họ này dễ rơi vào trạng thái bị động, trở tay không
kịp. Và điều này khiến cho nguy cơ phát sinh nợ xấu tiềm ẩn, tăng cao, đồng thời còn ảnh
hưởng tới chất lượng của các khoản nợ của nhóm đối tượng này tại ngân hàng thương mại
một cách gián tiếp.
c, Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, đầy đủ cũng là một trong số những nguyên nhân
quan trọng khiến tỷ lệ nợ xấu trong các ngân hàng thương mại tăng cao. Các chính sách,
luật lệ còn chưa chặt chẽ, vẫn tồn tại nhiều điểm bất cập, chồng chéo dẫn đến tình trạng
lúng túng, khó khăn trong việc xử lý các tranh chấp liên quan tới tài sản đảm bảo của các
cơ quan hữu quan. Đồng thời, các quy định về kế toán, kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực
hiện cũng góp phần khiến số liệu không đủ tính chính xác, độ vững chắc để tiến hành thẩm
định cho vay.

1.2. Thị trường bất động sản


Theo các báo cáo do Bộ Xây dựng và Tổng cục Thống kê vào năm 2020, ta có thể dễ
dàng thấy thị trường bất động sản đã trải qua sự sàng lọc không hề “dễ chịu”. Tín dụng bất
động sản không có xu hướng giảm mà còn đang tăng mạnh, trong đó dư nợ đối với hoạt
động đầu tư, kinh doanh bất động sản là 633.740 tỷ đồng, tăng 21% so với năm trước đó.
Năm 2020, số lượng công ty bất động sản được thành lập là 6.694 doanh nghiệp, giảm
15,5% so với năm liền trước. Trong đó, có 978 doanh nghiệp bất động sản hoàn tất thủ tục
giải thể, tăng 42,6% và tạm ngừng kinh doanh là 1.325 doanh nghiệp, tăng 121,6% so với
năm 2019. Chúng ta dễ thấy, ngành địa ốc vẫn đang thu hút nguồn vốn tín dụng và ít có sự
dịch chuyển các dòng vốn đầu tư khác.

11
Với tình hình dịch Covid-19 kéo dài và diễn biến phức tạp như hiện nay đã khiến cho
hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, dẫn tới lãi suất tiền gửi tiết kiệm giảm mạnh.
Do đó, kinh doanh bất động sản càng trở thành ngành thu hút vốn, dẫn tới nợ xấu tăng theo.
Tính đến 31/12/2020, theo Ngân hàng Nhà nước thống kê, tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,85%
tổng dự nợ thị trường bất động sản. Con số này tuy thấp hơn đáng kể so với năm 2017
(2,48%) và năm 2018 (1,95%), nhưng cao hơn so với năm 2019 (1,58%). Con số tỷ lệ nợ
xấu bất động sản 1,85% nếu đặt trong bối cảnh nền kinh tế nói chung, thị trường bất động
sản nói riêng tăng trưởng ổn định thì sẽ không quá đáng ngại. Nhưng dưới tác động của
dịch bệnh Covid-19 hiện nay thì thị trường chưa thể khởi sắc, trong khi nguồn vốn cho bất
động sản ngày một thu hẹp, nên việc nợ xấu tăng nhanh rõ ràng là một nguy cơ.
Các ngân hàng vừa qua đã liên tục bán tháo tài sản đảm bảo bằng bất động sản trị giá
từ vài tỷ đến vài trăm tỷ động, có những tài sản lên cả nghìn tỷ đồng để thanh toán các
khoản nợ xấu, nợ quá hạn. Ví dụ như, Sacombank mới đây đã thực hiện đấu giá hàng loạt
bất động sản tại TP.HCM, tổng giá trị lên tới hàng ngàn tỷ đồng, bao gồm các tài sản thuộc
quyền sở hữu của Công ty cổ phần Sản xuất thương mại Giấy Bảo Hưng với giá khởi điểm
640 tỷ đồng, khu đất 6.300 m2 tại quận Tân Phú thuộc quyền sử dụng của Công ty cổ phần
Đầu tư xây dựng và Kinh doanh bất động sản Tân Phong với giá khởi điểm từ 400 tỷ
đồng…
Để cải thiện tình trạng nợ xấu, Ông Nguyễn Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng (Ngân
hàng Nhà nước) nhấn mạnh rằng, năm 2021, lĩnh vực bất động sản cần được tăng cường
kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng bởi các NHTM. Thay vì đầu tư xây dựng những dự
án thuộc phân khúc cấp cao như các khu biệt thự, nghỉ dưỡng hay các dự án quy mô tầm
cỡ lớn thì nên tập trung nguồn vốn cho các dự án nhà ở xã hội, các dự án nhà ở thương mại
đáp ứng cho nhu cầu ở thực của người dân. Mặt khác, với hàng loạt quy định pháp lý mới
được ban hành, việc chào bán trái phiếu doanh nghiệp sẽ không còn dễ dàng như những
năm trước, từ đó ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp địa ốc.
Thế nhưng, thị trường bất động sản lại đang thiếu nguồn cung trầm trọng. Theo thống
kê của Savills Việt Nam, tại TP.HCM năm 2020, nguồn cung sơ cấp giảm mạnh 30% so
với năm 2019, là 25.300 căn. Còn tại Hà Nội, con số này là 23.100 căn, giảm 19% so với
cùng kỳ.
“Sẽ rất đáng lo ngại nếu doanh nghiệp tiếp tục phụ thuộc vào vốn tín dụng, bởi không
ít khoản vay có nguy cơ chuyển thành nợ xấu. Vì thế, ngân hàng cần đánh giá kỹ hơn mức
độ rủi ro của các khoản vay, chủ động theo dõi hoạt động của các tổ chức vay vốn để hạn
chế nợ xấu gia tăng”, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM
(HoREA) nêu quan điểm. Một số biện pháp khắc phục để khai thông thị trường bất động
sản có thể kể đến như: Chính phủ có thể chia những căn hộ có diện tích lớn thành nhỏ, thực
hiện nhà ở xã hội.

12
1.3. Áp lực cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước
Từ số liệu các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa hoặc chuyển đổi, các NHTM quốc
doanh bị ràng buộc tài chính “mềm” sẽ khiến năng lực tài chính của người vay không được
các ngân hàng đánh giá sát sao, từ đó dẫn tới nợ xấu. Hơn nữa, chính quyền trung ương tại
đây còn có khuynh hướng tạo sức ép và động viên các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá
mức an toàn được phép do chiến lược ưu tiên phát triển các ngành kinh tế trọng điểm. Điều
này dẫn tới khi ngân hàng được chỉ định cho vay thường không cẩn thận trong công tác
thẩm định khoản vay, do tư tưởng khoản vay được Chính phủ “bảo hộ”, mà không tính đến
các nguy cơ rủi ro tín dụng.
Hoạt động cho vay của ngân hàng có thể được Chính phủ nhúng tay vào trước hoặc sau
khi giao dịch hoàn thành. Những năm vừa qua, vì một vài lý do chính trị hoặc các chương
trình trình phát triển do chính phủ phát động, tại một số quốc gia có nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, các ngân hàng quốc doanh vẫn phải tiến hành các khoản vay cho chính sách.
Thực tế hiện nay, tại Việt Nam, NHNN phê duyệt hạn mức tăng trưởng tín dụng theo
quý. Một số ngân hàng đã được cấp hạn mức tín dụng quý I/2021 tăng 3-4% so với cuối
năm 2020. Thông qua việc thay đổi kỳ hạn từ năm sang quý, cũng đồng thời giảm bớt áp
lực với nhà băng.

1.4. Gian dối từ phía khách hàng


Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu
quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Tuy
nhiên, có một số khách hàng vay vốn ngân hàng dưới danh nghĩa tiêu dùng, nhưng khi
nhận vốn về lại sử dụng vào mục đích khác, nguy hiểm nhất là tham gia vào những hoạt
động kinh doanh mạo hiểm, chứa đựng rủi ro cao, kinh doanh những ngành nghề mà pháp
luật cấm, hay sử dụng vốn để trả nợ, cờ bạc, ăn chơi… Dẫn đến thất thoát vốn vay, đời
sống người đi vay không được cải thiện, cùng với đó khách hàng không thiện chí và khả
năng trả nợ, dẫn đến rủi ro cho phía ngân hàng. Dù trên thực tế đối tượng khách hàng này
là không nhiều, nhưng hậu quả lại hết sức nghiêm trọng, liên quan đến uy tín của các cán
bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác.
Để khắc phục tình trạng gian dối từ phía khách hàng, ngân hàng có thể thực hiện xếp
hạng và chấm điểm tín dụng đối với khách hàng. Hệ thống xếp hạng và chấm điểm tín dụng
phải được xây dựng phù hợp cho từng đối tượng khách hàng làm cơ sở cho việc xét duyệt
cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng. Việc xếp hạng và chấm điểm tín dụng đối với
khách hàng thực hiện theo các phương pháp: định tính, định lượng hoặc kết hợp. Trong các
phương pháp này, phương pháp định tính tỏ ra ưu việt hơn vì phản ánh chính xác hơn tình
trạng khách hàng và khoản nợ, đã được nhiều TCTD áp dụng. Hoặc ngân hàng có thể tiến

13
hành khởi kiện đối với các khách hàng hoặc bên bảo đảm không hợp tác trong việc trả nợ
hoặc không hợp tác trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.

2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu từ phía ngân hàng


2.1. Do năng lực quản trị tại mỗi ngân hàng còn nhiều yếu kém
Nguyên nhân thứ hai làm phát sinh tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại nói riêng
và các tổ chức tín dụng nói chung là do năng lực quản trị của ngân hàng, tổ chức còn nhiều
bất cập, yếu kém so với quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ rủi ro trong hoạt động. Hệ
thống một số các cơ chế chính sách về xử lý tài sản còn nhiều bất cập nên gây khó khăn
đến việc xử lý tài sản cũng như nợ của các ngân hàng thương mại nói riêng và các tổ chức
tín dụng nói chung. Việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng tại mỗi ngân hàng được
đánh giá là còn mang tính chủ quan, chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên
không thể tính toán một cách chính xác nhất các yếu tố dẫn đến quyết định cho vay và phân
loại nợ khó đảm bảo độ chính xác tuyệt đối.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể sẽ không có đủ thông tin chính xác để phân tích, đánh
giá khách hàng một cách tổng thể, khách quan, dẫn đến việc xác định chưa đúng hiệu quả
của phương án vay vốn hoặc xác định sai, không phù hợp về thời hạn cho vay và trả nợ đối
với phương án kinh doanh của khách hàng.
Vấn đề khiếm khuyết, yếu kém trong công tác tổ chức thanh tra, kiểm tra giám sát các
sai phạm trong hoạt động cấp tín dụng nhằm phòng ngừa rủi ro cũng góp phần dẫn tới việc
nhiều trường hợp lợi dụng hoạt động cấp tín dụng để trục lợi, thực hiện các hành vi phạm
pháp, làm khó khăn trong công tác phát hiện, xử lý các sai phạm khiến cho việc gia tăng
nợ xấu trong hệ thống NHTM là điều khó tránh khỏi.
Một ví dụ điển hình của trường hợp này là lỗ hổng và sự kiểm soát yếu kém, còn nhiều
bất cập tại Ngân hàng Xây dựng Việt Nam vào năm 2016. Qua trường hợp này của ngân
hàng VNCB, có thể thấy rõ được rằng dù cho đã có quy định kiểm soát của pháp luật và
sự kiểm tra/giám sát của nhiều cơ chế, tổ chức khác nhau nhưng vẫn xảy ra trường hợp
nhiều NHTM bộc lộ yếu kém trong công tác quản trị dẫn đến thất thoát. Vụ án gây chấn
động của VNCB năm ấy đã kết thúc sau 2 tháng đưa ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm xét xử
Phạm Công Danh (nguyên chủ tịch HĐQT VNCB) và đồng phạm cùng nhau cấu kết, gây
thất thoát hơn 9 nghìn tỷ tại VNCB. VNCB với tiền thân là Ngân hàng Đại Tín (Trust
Bank) có hơn 23 năm hoạt động và sau đó tiến hành tái cấu trúc, đổi tên thành Ngân hàng
Xây dựng Việt Nam VNCB. Sau khi thực hiện tái cấu trúc, ngân hàng này bị đặt dưới
quyền kiểm soát chặt chẽ của NHNN và toàn bộ các giao dịch có trị giá lớn (từ 5 tỷ đồng
trở lên) tại VNCB đều phải xin ý kiến và được Tổ giám sát của NHNN thông qua. Dù phải
chịu tình trạng kiểm soát đặc biệt như vậy, tuy nhiên trong suốt giai đoạn giữ cương vị Chủ
tịch HĐQT của ngân hàng VNCB, ông Phạm Công Danh đã lợi dụng quyền hành của mình

14
để yêu cầu cấp dưới và những bộ phận có liên quan trong ngân hàng này thực hiện lập các
hồ sơ khống để rút và vay tiền của VNCB nhằm chi trả cho các khoản chi tiêu riêng tư cá
nhân, chi trả cho các khoản nợ, khoản lãi khiến cho VNCB phải chịu mức thiệt hại lên tới
hơn 9 nghìn tỷ đồng.
Bàn về cách thức tái cơ cấu của VNCB, Tiến sĩ Vũ Đình Ánh - chuyên gia kinh tế cho
rằng, VNCB đã áp dụng cách thức khác hoàn toàn so với các Ngân hàng tái cơ cấu trước
đó. Thay vì chọn ra 1 ngân hàng lớn để đưa vào hoạt động tái cấu trúc như nhiều ngân hàng
khác thì VNCB lại lựa chọn cách thức đưa một người không liên quan, chưa từng hoạt
động ngân hàng bao giờ để thực hiện cơ cấu lại bộ máy tổ chức. Mặc dù cách thức này
không phải là chưa từng diễn ra tuy nhiên biện pháp ấy lại hàm chứa quá nhiều bất cập và
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro lớn. Vì khi người được lựa chọn chưa từng hoạt động trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng thì có lẽ thế mạnh duy nhất của họ chỉ có thể là tiềm lực tài chính,
trong khi hoạt động ngân hàng lại bao gồm rất nhiều nghiệp vụ đặc thù khác. Như vậy ở
đây, trách nhiệm liên quan đến việc đánh giá năng lực là có vấn đề, thuộc về trách nhiệm
của chính những cán bộ chủ chốt tại ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, các cơ quan giám sát,
quản lý - mà ở đây là tổ giám sát của NHNN đặt tại VNCB cũng phải có trách nhiệm do
chưa thực hiện tốt hoạt động mình, quy định luật lệ quản trị còn lỏng lẻo. Ngoài ra, các quy
định pháp lý trong công tác quản trị mà ngân hàng ban hành cũng có thể là nguyên nhân,
bởi những cách thức mà ông Danh rút tiền ra khỏi ngân hàng cũng có liên quan đến một số
quy định như cho vay, phân cấp cho vay,...

2.2. Do đạo đức nghề nghiệp, chất lượng cán bộ ngân hàng
Cán bộ tín dụng là những người trực tiếp giao dịch với khách hàng, là móc xích vô cùng
quan trọng kết nối giữa khách hàng với ngân hàng nên họ nắm bắt được rất rõ đặc điểm
cũng như chất lượng khách hàng và chất lượng của khoản vay. Để thực hiện những điều
trên một cách hiệu quả, yêu cầu đặt ra đối với các cán bộ tín dụng trong ngân hàng phải có
kiến thức, năng lực chuyên môn lẫn kinh nghiệm làm việc cũng như khả năng dự báo, phân
tích,... Nếu cán bộ tín dụng có trình độ còn yếu kém, kỹ năng làm việc thiếu chuyên nghiệp
hay kinh nghiệm chưa vững sẽ khó có thể đánh giá được hết các khả năng rủi ro liên quan
đến khoản vay. Từ đó dẫn đến việc dễ đưa ra các quyết định cho vay sai lầm, làm tăng
nguy cơ phát sinh nợ xấu.
Bên cạnh đó, một thực trạng khác cũng rất nguy hiểm đang xảy ra và là “cái gai” tiềm
ẩn trong nhiều ngân hàng thương mại đó chính là không ít các cán bộ tín dụng, danh tính
và năng lực thì có nhưng đạo đức nghề nghiệp lại suy đồi, sa sút. Một số cán bộ làm việc
trong hệ thống ngân hàng yếu kém về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp do đó đã lợi dụng
đặc điểm, tính chất công việc được giao để liên kết với con nợ, trục lợi từ ngân hàng, lợi

15
dụng lỗ hổng của pháp luật để làm giàu phi pháp, gây tổn thất lớn về cả tài sản và tiền vốn.
Đây chính là rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng.
Có thể thấy, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên tinh vi hơn, lòng tham
và sự yếu kém trong khâu quản lý cán bộ, buông lỏng việc kiểm tra, rà soát trước, trong và
sau khi cho vay đã dẫn đến những hệ lụy lớn rất khó lường trong lĩnh vực tài chính - tiền
tệ. Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ hạn chế việc quản trị ngân hàng, ảnh hưởng tới hiệu
quả kinh doanh mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức lớn, gây thất thoát tài sản của công dân lẫn
quốc gia. Tỷ lệ nợ xấu cao, những khoản tín dụng khó thu hồi được thường rơi vào những
ngân hàng có nhiều cán bộ tín dụng vô trách nhiệm, đạo đức kém.
Một trường hợp điển hình của nguyên nhân đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng
yếu kém dẫn tới phát sinh nợ xấu chính là vụ án tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong thi hành công vụ để lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây thất thoát gần 1.000 tỷ đồng tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - Chi nhánh 6 vào
năm 2015. Theo đó, những thủ phạm chính trong vụ án này gồm Hồ Đăng Trung - nguyên
giám đốc, Hồ Văn Long - nguyên trưởng phòng tín dụng tại Agribank chi nhánh 6 và ông
Dương Thanh Cường - nguyên Tổng Giám đốc công ty CP Tập đoàn Bình Phát. Theo nội
dung vụ án, từ năm 2007-2010, ông Dương Thanh Cường cùng các đồng phạm đã lợi dụng
việc thi công dự án di dời nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn TP về khu công nghiệp để thực
hiện nhiều hành vi lừa đảo gian dối nhằm trục lợi như ký hợp đồng chuyển nhượng khống,
cho vay trái quy định,...Sau đó, Dương Thanh Cường còn thành lập một số doanh nghiệp
khác như công ty Tấn Phát, Thanh Phát rồi thuê người làm giám đốc để đi vay vốn ngân
hàng. Trong khi đó, Hồ Văn Long - lúc bấy giờ giữ chức vụ Trưởng phòng Tín dụng của
Agribank chi nhánh 6 đã đề xuất Hồ Đăng Trung (giám đốc chi nhánh) cho công ty Tấn
Phát vay 170 tỷ đồng dù dự án chưa được phê duyệt, tự ý cho vay vượt quyền phán quyết,
ký hợp đồng thế chấp tài sản là tài sản không được phép thế chấp; không công chứng,
không đăng ký giao dịch bảo đảm; giải ngân không đúng theo hợp đồng cho vay; không sử
dụng biện pháp phòng ngừa rủi ro trong cho mượn tài sản thế chấp. Với cùng thủ đoạn đó,
Long đề xuất để Trung đồng ý cho công ty Thanh Phát vay 628 tỷ đồng, chỉ đạo cấp dưới
làm ngơ sai phạm trong quá trình lập hồ sơ vay vốn, tạo cơ hội cho Dương Thanh Cường
chiếm đoạt tài sản.
Với vụ án trên và các vụ án hình sự, dân sự và tranh chấp dân sự khác ở khu vực
Agribank trong TP. Hồ Chí Minh tính đến thời điểm cuối năm 2015 đã khiến cho tỷ lệ nợ
xấu của Agribank chiếm tới 10,7% tổng dư nợ, khiến cho Agribank tại thời điểm đó được
cho là ngân hàng có tổng nợ xấu cao nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng.

16
2.3. Do tình trạng sở hữu chéo
Sở hữu chéo là 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau. Sở hữu chéo là các khoản đầu tư
tài chính do các định chế tài chính hoặc các doanh nghiệp thực hiện để sở hữu chéo vốn
của nhau. Và tùy vào bối cảnh, sở hữu chéo rất đa dạng khi kết hợp mọi thành
phần tham gia kinh tế: ngân hàng - doanh nghiệp sản xuất - công ty bảo hiểm -
các quỹ đầu tư... Nhưng trong nhiều mối quan hệ chằng chịt đó, mối quan hệ
giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại là đặc biệt hơn cả.
Hậu quả của sở hữu chéo là có thể xuất hiện các giao dịch không hợp lý, phi thị trường,
không dựa trên quan hệ giá cả, bóp méo việc sử dụng nguồn lực hiệu quả. Tổn thất của các
chủ thể khác như chuyển giá và sụt giảm nguồn thu thuế tiếm năng của chính phủ có thể
phát sinh do các nguồn lực được chuyển giao nội bộ không mang tính chất thị trường. Các
doanh nghiệp có quan hệ sở hữu với ngân hàng sẽ tìm các nguồn tài trợ chéo không còn
khó khăn để đảo nợ, khiến việc đánh giá chất lượng tín dụng và nợ xấu của ngân hàng ngày
càng nan giải hơn.
Theo báo cáo cập nhật mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, đến thời điểm 30/6/2019, Việt
Nam đã cơ bản xóa xong ma trận sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại. Về
sở hữu cổ phần trực tiếp lẫn nhau giữa ngân hàng và doanh nghiệp, theo báo cáo trên, đến
tháng 6/2019 chỉ còn lại 01 ngân hàng thương mại cổ phần với 01 cặp sở hữu cổ phần lẫn
nhau nên phần này nhóm chúng em xin phép không phân tích sâu. Trong khi đó, tình trạng
này tại thời điểm tháng 6/2012 lên tới 56 cặp.

2.4. Chính sách tín dụng


Chính sách tín dụng là tổng thể các quy định của ngân hàng về hoạt động tín dụng nhằm
đưa ra định hướng và hướng dẫn hoạt động của cán bộ ngân hàng trong việc cấp tín dụng
cho khách hàng. Chính sách tín dụng bao gồm chính sách khách hàng, Quy mô và giới hạn
tín dụng, Lãi suất và phí suất tín dụng, Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, Các khoản đảm
bảo, Chính sách đối với TS có vấn đề. Việc cấp tín dụng không đúng phân khúc khách
hàng, khiến ngân hàng chứa các nguy cơ tiềm tàng bắt nguồn từ một chính sách không
hoàn thiện, không nhất quán. Bên cạnh đó, có nhiều NHTM đã cố ý bỏ sót một vài bước
trong quy trình tín dụng, tiêu chuẩn đánh giá khách hàng được hạ thấp mà không qua sự
cho phép của bất cứ cơ quan nào, đơn giản hóa cơ chế cho vay.
Một ví dụ tiêu biểu về đề ra và thực hiện tốt chính sách tín dụng của Vietinbank.
VietinBank thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng lành mạnh cùng với đảm bảo duy trì
lợi nhuận ổn định. Theo đó, VietinBank triển khai đồng bộ nhiều giải pháp:
1. Tăng trưởng gắn với chất lượng, VietinBank giữ vững thị phần khách hàng truyền
thống, tiếp tục khai thác khách hàng mới; giữ vững thế mạnh ngân hàng bán buôn,
phát huy vai trò chủ lực cho vay đầu tư các lĩnh vực, thành phần kinh tế trọng điểm;

17
đột phá thị phần và hiệu quả sinh lời ở phân khúc khách hàng vừa và nhỏ, khách
hàng doanh nghiệp FDI; phát triển khách hàng cá nhân và SPDV ngân hàng bán lẻ;
đa dạng hóa danh mục đầu tư, đa dạng các nhóm tài sản.
2. Đa dạng hóa cơ cấu thu nhập hoạt động, VietinBank tăng tỷ trọng thu nhập ngoài
lãi và thu nhập dịch vụ. Theo đó, cùng với việc duy trì thế mạnh ở sản phẩm truyền
thống, VietinBank đẩy mạnh triển khai, mở rộng SPDV hiện đại bắt kịp nhu cầu và
xu hướng của thị trường; phát triển và đa dạng hóa các kênh thanh toán.
3. Chuyển đổi mô hình - hướng tới chuẩn mực và thông lệ quốc tế theo tiêu chí hàng
đầu là “Hướng tới khách hàng”, VietinBank nghiên cứu ứng dụng các giải pháp
công nghệ hiện đại và xây dựng văn hóa VietinBank chuyên nghiệp, thân thiện, gắn
kết cùng sự phát triển bền vững của khách hàng.
4. VietinBank nắm bắt xu hướng thị trường để phát triển danh mục SPDV đa dạng,
linh hoạt, phù hợp với đặc thù từng địa bàn kinh doanh và phân khúc khách hàng để
nâng cao chất lượng SPDV. Từ đó, VietinBank triển khai thành công nhiều sản
phẩm huy động vốn và chương trình tín dụng ưu đãi dành cho các ngành nghề/phân
khúc khác nhau, trong đó có các chương trình tín dụng đặc thù theo định hướng chỉ
đạo của Chính phủ và NHNN.
5. Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng: VietinBank đảm bảo duy trì và kiểm soát
nợ xấu ở mức thấp, kiên quyết đẩy mạnh xử lý nợ xấu. VietinBank đã thực hiện
xử lý nợ xấu vượt kế hoạch NHNN giao. Đặc biệt, VietinBank xây dựng hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ tiên tiến theo chuẩn mực quốc tế để chủ động giám sát các
khoản nợ tiềm ẩn rủi ro; phân loại nợ nghiêm ngặt và thực hiện trích lập dự phòng
rủi ro đầy đủ đối với các khoản nợ không đủ tiêu chuẩn.
Với hoạt động kinh doanh, VietinBank duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực, an toàn, chi
phí được quản lý hiệu quả. Không chỉ đóng góp nguồn lực tài chính dồi dào cho đầu tư
Quốc gia và phát triển cộng đồng doanh nghiệp, VietinBank còn tham gia tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng, giữ vững vị thế ngân hàng chủ lực, trụ cột của Ngành, góp phần duy trì
nền tài chính lành mạnh, an toàn để phát triển hiệu quả, bền vững.

3. Tác động của việc gia tăng nợ xấu đến các NHTM và nền kinh tế
3.1. Đối với nền kinh tế
Việc tỷ lệ nợ xấu tăng cao không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân
hàng mà nó còn gián tiếp tác động đến nền kinh tế thông qua mối quan hệ đa chiều giữa
khách hàng - ngân hàng - nền kinh tế. Nợ xấu làm gia tăng tình trạng lạm phát, kìm hãm
hoạt động kinh doanh và sản xuất của doanh nghiệp, nguồn vốn bị tồn đọng không thể
luân chuyển làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và ngân hàng dẫn đến nền kinh tế bị

18
kìm hãm phát triển và tăng trưởng. Khi nợ xấu với dòng tín dụng lớn thì có thể làm
khủng hoảng hệ thống tài chính ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Nợ xấu với dòng tín dụng lớn có thể làm cho hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng
phá sản dẫn đến rất nhiều lao động bị thôi việc, các doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô
sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng đầu vào. Thất nghiệp tăng dẫn đến thu
nhập giảm ảnh hưởng đến lượng tiêu dùng của các hộ gia đình làm cho hàng hoá của
các doanh nghiệp không bán được hàng khiến cho nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy
cơ phá sản.
Nợ xấu làm rủi ro thanh khoản tăng cao, một tổ chức tài chính có thể mất đi khả năng
thanh khoản nếu uy tín của tổ chức này giảm và tổ chức này đối mặt với tình trạng lượng
tiền rút ra ồ ạt làm cho tổ chức có thể mất khả năng thanh toán. Nếu rủi ro thanh khoản
xảy ra thì phạm vi ảnh hưởng không chỉ ở một tổ chức tín dụng hay ngân hàng đơn lẻ
mà còn tác động đến ngân hàng khác và cả hệ thống tài chính.
3.2. Đối với bản thân hệ thống ngân hàng
Nợ xấu khiến các NHTM giảm lợi nhuận, giảm khả năng thanh toán, sử dụng vốn
kém hiệu quả và chịu rủi ro dòng tiền. Nếu tình trạng nợ xấu diễn ra liên tục và thường
xuyên không xử lý dứt điểm sẽ làm NHTM mất uy tín trên thị trường.
a, Ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM là trung gian tài chính, luân chuyển nguồn vốn nhàn rỗi trong thị trường để
đưa vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Nợ xấu làm đóng băng nguồn vốn của
ngân hàng dẫn đến ngăn cản lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Khi phát sinh nợ xấu
dẫn đến dòng luân chuyển tiền tệ bị ngắt quãng khiến nguồn vốn bị tồn đọng, làm ảnh
hưởng lớn đến tình hình hoạt động kinh doanh của NHTM. Nợ xấu kéo dài làm doanh
thu của ngân hàng dẫn đến thua lỗ, nợ xấu làm phát sinh chi phí bao gồm: chi phí trích
lập dự phòng rủi ro, chi phí quản lý…
Khi nợ xấu tăng cao khiến chi phí hoạt động của ngân hàng cũng tăng lên tương ứng
vì ngân hàng cần phải trích lập dự phòng nhiều hơn đối với các khoản nợ thuộc nhóm 3,
4, và 5. Kể cả ngân hàng có thu hồi được vốn nhưng lợi nhuận thu được có thể sẽ giảm
so với dự tính ban đầu khi ký hợp đồng tín dụng. Lợi nhuận giảm kéo theo các khoản
đóng góp vào quỹ, ngân sách cũng giảm theo, dẫn tới việc đầu tư vào công nghệ để hiện
đại hóa ngân hàng, việc đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công nhân viên
ngân hàng cũng giảm đi.
b, Ảnh hưởng tới danh tiếng của ngân hàng
Hiện nay khách hàng có thể tìm hiểu hoạt động kinh doanh của các NHTM một cách
dễ dàng thông qua các phương tiện truyền thông hay các báo cáo công khai của các
NHTM vì vậy khi khách hàng thấy rằng một ngân hàng có rất nhiều khoản nợ xấu dẫn
đến lòng tin của khách hàng bị suy giảm, dễ gây tâm lý hoang mang cho cả khách hàng

19
lẫn nhân viên làm việc tại ngân hàng, từ đó khiến uy tín của ngân hàng bị giảm sút trên
cả thị trường trong nước và nước ngoài. Nợ xấu làm giảm xếp hạng tín nhiệm của ngân
hàng làm ảnh hưởng tới thu hút đầu tư hợp tác với các đối tác nước ngoài.
c, Nguyên nhân gây phá sản ngân hàng
Nợ xấu cao trong thời gian dài sẽ dẫn đến nguồn vốn của ngân hàng bị tồn đọng, chi
phí xử lý nợ tăng cao làm lợi nhuận của ngân hàng suy giảm trong khi đó ngân hàng vẫn
phải thanh toán những khoản tiền gửi và các chi phí khác khiến cho ngân hàng có nguy
cơ mất khả năng thanh toán.
3.3. Đối với khách hàng
Nợ xấu làm gánh nặng trả nợ của ngân hàng tăng cao, chi phí hoạt động tăng, làm
ảnh hưởng tới quan hệ của khách hàng và ngân hàng. Mặc dù nguồn vốn không thiếu
nhưng ngân hàng không thực sự tin tưởng khách hàng và không dám tiếp tục cho khách
hàng vay, ngân hàng phải thận trọng trong phê duyệt các khoản vay để giảm thiểu nợ
xấu tiếp theo dẫn tới nền kinh tế khát vốn.
Khi khách hàng là đối tượng gây ra nợ xấu thì thông qua sự phân loại nợ xấu khách
hàng sẽ gặp giới hạn về khả năng vay và hạn chế một số dịch vụ ngân hàng. Những
khách hàng được phân loại vào nhóm 3,4,5 khi đó các ngân hàng sẽ không cho vay tiền
dưới bất kỳ hình thức nào, khách hàng sẽ không được sử dụng thẻ tín dụng và phải chờ
một khoảng thời gian dài để được xóa nợ xấu.
Khi khách hàng thấy rằng một ngân hàng có rất nhiều khoản nợ xấu dẫn đến lòng tin
của khách hàng bị suy giảm, dễ gây tâm lý hoang mang cho cả khách hàng lẫn nhân viên
làm việc tại ngân hàng, từ đó khiến cho người đang gửi tiền thì ồ ạt đi rút tiền còn người
có tiền nhàn rỗi thì không muốn gửi tiền làm rủi ro thanh khoản tăng cao.

III. Thực trạng tình hình nợ xấu của NHTM tại Việt Nam
1. Tình hình nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam
Theo số liệu công bố của NHNN Việt Nam, tổng số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng
có sự gia tăng về quy mô qua giai đoạn 2015-2020. Con số về tổng nợ xấu cho thấy sức
khỏe của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung và các NHTM nói riêng. Nợ xấu
gia tăng điều đó chứng tỏ các ngân hàng đang gặp trở ngại trong việc thu hồi lãi và vốn
trên tín dụng cho vay của mình trong tình hình nền kinh tế nước ta đang mở rộng về quy
mô. Trong giai đoạn 2015-2020, tỉ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ có xu hướng giảm. Theo báo cáo
của NHNN, nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được xử lý, kiểm
soát và giữ ở mức dưới 3%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống NHTM Việt Nam qua các
năm 2016 là 2,46%; năm 2017 là 1,99%; năm 2018 là 1,89%; năm 2019 là 1,63%; năm
2020 là 1,69%. Tuy nhiên tổng lượng nợ xấu vẫn liên tục tăng qua các năm, tăng từ 118.725
tỷ VND (2015) lên tới 155.354 tỷ VND (năm 2020).

20
Bảng 1: Tình hình nợ xấu của các NHTM giai đoạn 2015-2020

Nợ xấu hiện nay lại có xu hướng vẫn tăng cao ở một số NHTM, làm ảnh hưởng đến tăng
trưởng tín dụng của nền kinh tế và làm giảm lãi suất cho vay. Theo số liệu được thống kê
của hai quý đầu năm 2021 của NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng đang tăng lên,
đạt tới 1,78% vào thời điểm cuối tháng 4 năm 2021 (cuối năm 2020 tỷ lệ này được giữ ở
mức 1,69%). Nhìn chung số NHTM có nợ xấu tăng vẫn chiếm tỷ trọng cao. Theo báo cáo
tài chính quý II/2021 của các ngân hàng so với cuối năm 2020 cho thấy số dư nợ quá hạn
của các NHTM đang tăng cao hơn. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) là ngân hàng duy nhất trong bốn ngân hàng lớn có số dư nợ xấu giảm nhẹ 1,1%.
Trong khi đó, nợ xấu ghi nhận tại VietinBank, Vietcombank có chiều hướng tăng mạnh,
lần lượt là 52% và 31,3%, ngay cả Agribank cũng được ghi nhận mức tăng nợ xấu đạt
13,5%. Điều chú ý là, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) có nợ xấu
tăng đột ngột bắt nguồn từ việc tăng gấp đôi của nợ nhóm 5 chỉ trong đầu năm 2021 (từ
hơn 6 nghìn tỷ đồng lên gần 12.300 tỷ đồng). Ngoài ra, một số ngân hàng khác như ACB,
SHB, MSB hay ABBank cũng ghi nhận mức tăng trưởng trong tỷ lệ nợ xấu đạt trên 10%.

Ở diễn biến khác, số dư nợ xấu của Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlongbank) đã
giảm tới 73% so với hồi cuối năm 2020, đặc biệt là nợ nhóm 5 đã giảm gấp 4 lần so với
thời điểm trước đó. Điều này được lý giải rằng bởi đầu năm 2021, Kienlongbank đã thu
hồi nợ gốc và lãi phải thu của các khoản vay có tài sản bảo đảm như cổ phiếu của Ngân
hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB)...

21
Nhất là khi tình hình nợ xấu của các ngân hàng được ghi nhận là đang có chiều hướng
ngày càng gia tăng, đặc biệt là các khoản nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tăng mạnh
để báo động cho thấy “sức khỏe” của nền kinh tế bị suy giảm khá nặng nề. Việc ảnh hưởng
từ dịch bệnh Covid-19 khiến các doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, đứt gãy dòng tiền,
thậm chí xấu hơn là phá sản, khiến việc thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng khó khăn
hơn.

Tuy vậy, thực trạng nợ xấu của toàn ngành vẫn chưa được bộc lộ đầy đủ và rõ nét. Vì
trên thực tế sau khi NHNN ban hành Thông tư 01 và Thông tư 03 (để sửa đổi, bổ sung
thêm cho thông tư 01) nhằm giúp đỡ các khách hàng cá nhân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng
nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19, thì các NHTM đều được phép thực hiện cơ cấu và giữ
nguyên nhóm nợ.

Trước hoàn cảnh như vậy, vấn đề xử lý nợ xấu cũng rất được chú ý. Nghị quyết 42 được
thực hiện đã giúp các TCTD xử lý nợ xấu đạt hiệu quả cao hơn, từ cuối năm 2017 đến năm
2020 tổng số nợ xấu được xử lý hàng tháng đạt trung bình khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng cao
hơn 3,63 nghìn tỷ đồng. Con số này đã tăng đáng kể (khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng) so với
kết quả xử lý nợ xấu trung bình tháng từ năm 2012 – 2017 của hệ thống các TCTD (khi
mà Nghị quyết 42 chưa có hiệu lực).

Bảng 2: Tình hình xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM từ 2015 đến 2020

Kết quả xử lý nợ xấu theo hình thức khách hàng trả nợ (Theo Nghị quyết 42) có xu
hướng tăng, tỷ trọng nợ xấu được xử lý theo hình thức này đạt khoảng 40,1% vào đầu năm
2020, cao hơn nhiều so với giai đoạn 2012-2017 (22,8%), điều này cho thấy khách hàng
đã chủ động hơn trong việc hoàn thành các khoản nợ của các TCTD.

22
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đã hạ xuống thế nhưng hầu hết các NHTM đều tiến hành tăng mạnh
trích lập dự phòng rủi ro kể từ nửa đầu năm nay. Nhất là đối với nhóm ngân hàng có quy
mô lớn càng dẫn đầu xu hướng gia tăng mạnh khoản trích lập DPRR này. Theo báo cáo tài
chính quý II/2021, nhiều ngân hàng đã nâng tỷ lệ trích lập dự phòng bao nợ xấu lên trên
trên 100%, thậm chí còn có những ngân hàng đạt mức trên 200% và trên 300%. Tình huống
này chưa từng xảy ra trong quá khứ, trước đây lực trích lập dự phòng mỏng mà lợi nhuận
thì chia đi nhiều…Với một loạt NHTM nâng tỷ lệ trích dự phòng bao nợ xấu lên rất cao
như vậy cho thấy họ đang chủ động hơn với vấn đề nợ xấu, với dự báo gia tăng nợ xấu.
Rõ ràng trong ngắn hạn, việc tăng mạnh khoản trích lập DPRR này sẽ gây tác động
không nhỏ tới lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên nếu giảm trích lập DPRR thì mặc dù
toàn cảnh “bức tranh lợi nhuận” trông có vẻ đẹp đẽ trước mắt, nhưng xét về dài hạn, rất có
thể lợi nhuận chỉ là ảo do ăn vào khoản trích lập DPRR. Mặc dù theo Thông tư 03 được
Ngân hàng nhà nước ban hành quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn/giảm lãi/phí
nhằm hỗ trợ khách hàng vay bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19, các NHTM hoàn
toàn có thể chỉ cần trích lập DPRR ở một mức tối thiểu là 30% trong năm 2021, phần còn
lại sẽ tiến hành trích lập trong 2 năm tiếp theo (2022, 2023). Nhưng phần lớn các ngân
hàng đều chọn cách trích lập một khoản lớn hoặc toàn bộ DPRR cho các khoản nợ đã quá
hạn chi trả thay vì áp dụng theo Thông tư 03, nguyên nhân chính là bởi mặc dù quyết định
này có thể gây ảnh hưởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn, nhưng xét về dài hạn điều này sẽ
giúp ngân hàng có lợi hơn, giảm bớt gánh nặng rủi ro nợ xấu trong tương lai trước bối cảnh
dịch bệnh vẫn đang hết sức phức tạp.

2. Tác động của nợ xấu đối với hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay
2.1. Nợ xấu tăng trong bối cảnh dịch Covid, trong khi hoạt động xử lý còn khó khăn
Dịch bệnh không ngừng gia tăng trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc các doanh nghiệp gặp khó khăn, rơi
vào khủng hoảng đã đẩy tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh.

Theo thống kê báo cáo tài chính quý III-2020 – chỉ trong vòng 9 tháng kể từ đầu năm
2020, nợ xấu đã tăng mạnh. Tổng hợp từ 16 ngân hàng (trừ 2 NHTM SeABank và NBC)
đã công bố báo cáo tài chính hợp nhất của quý này cho thấy, nợ xấu nội bảng cuối tháng 9
có mức tăng đạt tới 31%. Trong đó nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) ở nhiều ngân hàng
tăng rất nhanh, có ngân hàng còn tăng gấp 3 - 4 lần so với giai đoạn cuối 2019.

Trong khi nợ xấu tăng nhanh thì việc xử lý nợ xấu cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn. Do dịch bệnh Covid hoành hành nên NHTM không thể trực tiếp gặp gỡ khách
hàng mà chỉ có thể thông qua hình thức trao đổi email, gọi điện thoại,… tuy nhiên tất cả
những cách thức trên đều không mang lại kết quả gì. Không những thế, dịch bệnh khó khăn

23
nên các công tác phòng chống dịch đều được ưu tiên hàng đầu khiến các cơ quan chức
năng khó có thể nhanh chóng hỗ trợ xử lý đối với các hoạt động này của ngân hàng. Bên
cạnh tốc độ thu hồi nợ ngày càng chậm thì hoạt động bán đấu giá TSBĐ cũng phải đối mặt
với nhiều bất cập ngay cả khi đã bán thành công vì nhiều khách hàng xin kéo dài thời gian
chi trả, trong khi bình thường có thể trả ngay. Các doanh nghiệp do tình hình giãn cách nên
hoạt động kinh doanh bị đình trệ, bế tắc, chuỗi sản xuất bị gián đoạn, dòng tiền bị đứt gãy
khiến nguồn thu để trả nợ cũng mất nên nguy cơ nợ xấu gia tăng là không thể tránh khỏi.

Các chuyên gia đánh giá rằng tính đến cuối năm 2021, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM
có thể tăng tới 3%, và ước tính còn tăng hơn nữa (tới mức 4,5%) trong thời gian tới nếu
công tác phòng chống dịch bệnh còn nhiều khó khăn như hiện nay. Áp lực giải quyết nợ
xấu của các NHTM trong tương lai ngày càng gia lớn khi tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục đẩy lên
trong khi Nghị quyết 42 sẽ hết hiệu lực trong vòng 1 năm tới.

2.2 NHTM vẫn hoạt động tốt trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn

Theo các chuyên gia tài chính, ngân hàng, tăng trưởng tín dụng 5,47% của toàn hệ thống
là mức cao, khi dịch Covid-19 liên tục gây bất lợi cho các địa phương trong suốt hơn 3
tháng qua. Cùng với tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán của toàn ngành
Ngân hàng cũng tăng 3,48%. Trong lúc doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh các
ngân hàng vẫn tiếp tục cung cấp vốn vay và hình thức cấp tín dụng khác cho doanh nghiệp
nhưng xem xét thận trọng, chặt chẽ hơn trước khi quyết định cấp vốn vay, giải ngân hoặc
cấp tín dụng dưới hình thức khác.

Nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng nhìn chung thì hầu hết tỷ lệ nợ xấu
vẫn được kiểm soát ở mức hợp lý.

24
Về tổng thể, dữ liệu trên cho thấy nợ xấu tại các NHTM ở nước ta đang được kiểm soát
tốt, hầu hết tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay đều ở dưới mốc 3% (chỉ có VPBank đạt
mức tỷ lệ nợ xấu cao nhất - gần 3,5%) và đa số các NHTM đều duy trì mức dưới 2%. Tuy
nhiên, Thông tư 03/2021/TT-NHNN được ban hành và có hiệu lực từ ngày 17/5/2021 đã
quy định một số điều sửa đổi, bổ sung thêm so với Thông tư 01/2020, theo đó các tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, đồng thời thực chính
sách giảm lãi, phí hoặc miễn giảm phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ các khách hàng
chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 được đánh giá là sẽ góp phần giảm gánh nặng nợ
xấu cho cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Trong bối cảnh tác động tiêu cực và lâu dài của
đại dịch Covid-19 như hiện nay, tình hình nợ xấu như vậy là khá tích cực.

Nợ xấu ở mức thấp như vậy một phần là do hiệu quả của Nghị quyết 42 và Thông tư
01(và Thông tư 03 sửa đổi). Nghị quyết 42 là hành lang pháp lý hỗ trợ rất lớn cho công tác
xử lý nợ. Một phần lớn nợ xấu đang nằm ở VAMC và nợ cơ cấu lại mà không chuyển
nhóm theo Thông tư 01 (và Thông tư 03 sửa đổi) để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi
Covid-19. Ở góc nhìn này, theo dữ liệu Chính phủ vừa công bố, tính đến tháng 5/2021 quy
mô nợ xấu nhận diện tổng thể lại giảm 3,4% so với cuối 2020, vào khoảng 4,4%. Tuy
nhiên bức tranh nợ xấu nhìn nhận theo cách này sẽ phản ánh thiếu thực tế, bởi các khoản
nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu lại vẫn chưa thể hiện rõ ràng, hơn thế nữa tình hình
nợ xấu rất có thể sẽ tăng nhanh do tác động khó lường của đại dịch Covid-19 đợt này.

Nhưng dù sao thì trong cuộc khủng hoảng do dịch bệnh covid và so với cuộc khủng
hoảng trước đó (vào năm 2012 tỷ lệ nợ xấu đã tăng đến mức 17%), thì tỷ lệ nợ xấu ở mức
đó cũng đã là rất tích cực.

25
Song song với đó, tuy tỷ lệ nợ xấu vẫn đang ở trong “vùng an toàn” nhưng hầu hết các
NHTM vẫn đẩy mạnh việc gia tăng trích lập DPRR theo Thông tư 03/2021 (sửa đổi Thông
tư 01) mà NHNN ban hành. Lộ trình trích lập dự phòng được cho là sẽ kéo dài trong vòng
3 năm, riêng với các khoản nợ cơ cấu chịu tác động do dịch bệnh Covid-19 sẽ phải thực
hiện trích lập dự phòng lâu hơn, trong thời gian dài hơn. Việc trích lập cụ thể của từng ngân
hàng là nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào chất lượng dư nợ cho vay. Có thể thấy được, nợ xấu
càng tăng cao thì gánh nặng trích lập dự phòng của các ngân hàng cũng tăng cao tương
ứng.

Thực tế cho thấy nhiều ngân hàng vẫn chủ động trích lập, tăng bộ đệm rủi ro bằng cách
nâng mức tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt tới kỷ lục. Vì vậy khi gặp vấn đề phát sinh đột biến,
ngân hàng đã sẵn nguồn tiền trích lập dự phòng để xử lý, tránh việc nợ xấu tăng đột ngột.
Tại thời điểm cuối quý 1/2021, tỷ lệ bao phủ nợ xấu với 25 ngân hàng tăng từ mức 103%-
110%, tính đến cuối quý 2, tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở một số ngân hàng thậm chí còn tăng cao
hơn nữa như: Techcombank với 259%, MB Bank với 236% và Vietcombank với 351% -
cao nhất trong danh sách tỷ lệ bao phủ nợ xấu. Mặc dù hầu hết các NH đã nâng mức bao
phủ nợ xấu lên rất cao để đảm bảo an toàn, nhưng vẫn có vài NH chưa cho thấy được sự
an toàn của mình, đặc biệt là VPBank, mặc dù quy mô tài sản lớn, tỷ lệ nợ xấu cao nhưng
tỷ lệ bao phủ nợ xấu lại thuộc nhóm 5 ngân hàng có mức bao phủ nợ xấu thấp nhất, điều
này là khá nguy hiểm bởi khi rủi ro thật sự xảy ra thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Qua đó

26
cho thấy được, tỷ lệ bao phủ nợ xấu rất quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro, dùng để
đánh giá khả năng chống đỡ của ngân hàng trước những rủi ro liên quan đến nợ xấu.

IV. Thách thức, khó khăn và giải pháp giải quyết nợ xấu của NHTM hiện nay
1. Giải pháp xử lý nợ xấu của các NHTM hiện nay
1.1. Giải pháp xử lý nợ xấu của hệ thống Ngân hàng
Nợ xấu không chỉ còn là một vấn đề của một ngân hàng riêng lẻ nào, mà đã trở thành
mối bận tâm chung của toàn hệ thống ngân hàng. Nó có những tác động tiêu cực tới nền
kinh tế nói chung và hoạt động của hệ thống ngân hàng, khách hàng nói riêng. Chính vì
vậy, việc hạn chế và xử lý nợ xấu luôn là một trong những vấn đề hàng đầu mà các Ngân
hàng cần phải thực hiện. Vấn đề này cần được nhìn nhận và giải quyết bởi sự phối hợp chặt
chẽ giữa NHNN và các NHTM cũng như các doanh nghiệp.
1.1.1. Phân loại nợ xấu đúng cách
Các NHTM cần phân loại nợ xấu một cách hợp lý và khoa học. Nợ xấu trong ngân hàng
cần được xác định về cả quy mô cũng như tính chất. Nếu các khoản nợ xấu không được
phân loại một cách phù hợp và chính xác, các ngân hàng sẽ vô cùng khó khăn trong việc
giám sát thực trạng nợ của khách hàng, dẫn đến đưa ra các quyết định thiếu chính xác. Việc
này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các nguồn tiền và tác động tiêu cực tới lợi nhuận của ngân
hàng. Do vậy, việc phân loại nợ xấu đúng cách theo quy định của NHNN sẽ giúp các
NHTM có thể đánh giá được chính xác tình hình nợ của khách hàng cũng như đảm bảo
được khả năng thu hồi nợ cho chính ngân hàng mình và đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời
đối với từng khoản nợ cụ thể.
1.1.2. Biện pháp hỗ trợ khách hàng vay
Áp dụng các điều kiện chặt chẽ hơn để tiếp tục cho vay
Nếu khách hàng bị tác động bởi các yếu tố mang tính thời điểm trên thị trường như sự
thay đổi về giá thị trường nhưng vẫn được ngân hàng đánh giá là có tiềm năng khôi phục
lại khả năng sản xuất – kinh doanh cũng như khả năng trả nợ khi thị trường tốt lên thì ngân
hàng có thể ra quyết định tiếp tục tài trợ vốn lưu động. Khi đó, các doanh nghiệp vừa có
thể tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất – kinh doanh, đồng thời vẫn ổn định được nguồn
tiền thu về, không bị đánh mất nguồn khách hàng cũng như vẫn đảm bảo được sự vận hành
ổn định, xuyên suốt của hệ thống nhà máy, thiết bị.
Và để có thể thu hẹp dần các khoản nợ xấu đã phát sinh, các NHTM cần đề ra và thực
hiện các điều kiện cho vay nghiêm ngặt, cụ thể và chặt chẽ hơn. Ví dụ, ngân hàng VCB chi
nhánh Hải Dương đã áp dụng các điều kiện sau: (i) Doanh nghiệp đi vay cần phải trình bày
và được ngân hàng xét duyệt các báo cáo kế hoạch sản xuất – kinh doanh một cách cụ thể,
chi tiết cũng như đưa ra được các phương án vay vốn có hiệu quả, mang tính khả thi; (ii)
Thực hiện nguyên tắc số tiền thu nợ trên số tiền cho vay theo tỷ lệ 10:8 đối với các trường

27
hợp tiếp tục cho vay; (iii) Khách hàng phải tuân thủ đúng việc gửi cam kết chuyển doanh
thu cũng như báo cáo giám sát kinh doanh mỗi tháng cho VCB để thu hồi nợ.
Giảm, miễn lãi
Các ngân hàng nên cân nhắc đến việc miễn hoặc giảm toàn bộ số tiền lãi phạt hoặc
giảm một phần tiền lãi quá hạn cho khách hàng, trên tinh thần đó sẽ giúp khách hàng có
động lực duy trì sản xuất kinh doanh và động lực để thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Hoạt động hạ lãi, miễn giảm các loại phí, tiền phạt như vậy một mặt vừa thể hiện được
thiện chí của ngân hàng đối với khó khăn tài chính mà doanh nghiệp đang phải đối mặt,
mặt khác còn khuyến khích khách hàng ưu tiên thanh toán khoản nợ cho ngân hàng mình
trước các chủ nợ khác.
1.1.3. Sử dụng dự phòng rủi ro
Việc áp dụng quỹ DPRR của các NHTM sẽ đẩy các khoản nợ nhóm 5 – nợ có khả năng
mất vốn ra theo dõi ngoại bảng sau khoảng thời gian dài không thu hồi được nợ, nhờ vậy
làm giảm tỷ lệ nợ xấu nội bảng của ngân hàng, đồng thời cũng giúp NHTM xác định được
đúng tổng tài sản nội bảng hiện tại của ngân hàng mình. Mặc dù vậy, khoản dự phòng rủi
ro này sẽ được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh trong kỳ, vì thế nó sẽ tác động
tới lợi nhuận của ngân hàng. Ngoài ra mặc dù khoản nợ xấu đã được đẩy ra để theo dõi
ngoại bảng, thế nhưng thực tế là khoản nợ xấu này vẫn chưa thu hồi được. Vì vậy sau khi
đã sử dụng biện pháp dự phòng rủi ro, các ngân hàng vẫn phải tiếp tục áp dụng các biện
pháp khác để thu hồi lại khoản nợ xấu.
1.1.4. Chính sách giãn nợ của Nhà nước
Với chính sách giãn nợ và các cơ chế cụ thể của Nhà nước, các doanh nghiệp có thể
tháo gỡ được các vấn đề và giãn thời gian trả nợ cho NHTM. Các doanh nghiệp có uy tín
trong vấn đề thanh toán nợ với ngân hàng, hay các doanh nghiệp có công trình xây dựng
còn đang trong quá trình hoàn thiện cũng sẽ được áp dụng chính sách này. NHNN tạo điều
kiện tối đa cho các doanh nghiệp có thể chủ động thương lượng với các ngân hàng về thời
hạn trả nợ đối với các khoản vay trung và dài hạn. Chính sách giãn nợ sẽ giúp giảm áp lực
thanh toán nợ, từ đó cải thiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.5. Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu
Các khoản nợ khó đòi cần được nhà nước chứng khoán hóa theo 2 cách. Cách thứ nhất
là chuyển đổi lấy trái phiếu trung hạn từ một phần nợ gốc. Biện pháp này có thể áp dụng
đối với các doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt nhưng đang chưa thể đưa một
số dự án đầu tư vào hoạt động hoặc việc chi trả nợ gốc còn gặp nhiều khó khăn. Bằng cách
này các doanh nghiệp nhận có thể nhận được sự trợ giúp thanh khoản cần thiết, cũng như
hỗ trợ quá trình tồn tại và phát triển. Cách thứ hai là cổ phần hóa các khoản nợ xấu, nợ quá
hạn. Nếu sau quá trình tái cấu trúc, doanh nghiệp vẫn có đủ năng lực để tiếp tục tồn tại và
phát triển thì có thể đồng thời chuyển các NH thành các cổ đông lớn với đa số cổ phần từ

28
vị thế là chủ nợ. điều đó giúp ngân hàng có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó, chờ thời cơ thích hợp ngân hàng có thể chuyển nhượng cổ phần để thu
hồi vốn. Trên thế giới thì cách xử lý này khá phổ biến. Tại Việt Nam, cho tới nay cũng đã
có không ít trường hợp thành công trong cách xử lý này, giúp không chỉ đảm bảo được
nguồn vốn của ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tránh khỏi nguy cơ
phá sản và giải thể.
Để quá trình chứng khoán hóa được thành công từ những điều kiện cơ bản nhất, các
ngân hàng dưới vai trò là đồng chủ nợ cần nâng cao tinh thần, phối hợp hơn nữa với các
doanh nghiệp để giải quyết nợ xấu. Các công ty con cũng nên được các ngân hàng phối
hợp sử dụng dưới vai trò quản lý mua bán nợ, cùng với đó là phối hợp với công ty quản lý
quỹ hay công ty chứng khoán nhằm tham gia vào quá trình chứng khoán hóa một cách chủ
động.
1.1.6. Xử lý tài sản đảm bảo và khởi kiện
Ngân hàng sẽ đề nghị khách hàng vay bổ sung thêm các TSĐB ngay khi ngân hàng
nhận thấy được các dấu hiệu rủi ro từ phía khách hàng. Việc yêu cầu tăng thêm các TSĐB
sẽ giúp ngân hàng hạn chế được các nguy cơ tổn thất khi khoản nợ xấu xảy ra. Quá trình
xử lý TSĐB sẽ được tiến hành theo những cách khác nhau tùy thuộc vào đối tượng khách
hàng có khoản nợ xấu tại ngân hàng:
- Nếu bên đi vay và chủ tài sản thể hiện sự thiện chí, hợp tác trong quá trình xử lý
TSĐB: áp dụng hình thức bán đấu giá thông qua trung tâm hoặc bán trực tiếp, sau khi nhận
được số tiền thu về từ hoạt động bán đấu giá sẽ đem đi thanh toán khoản nợ cho ngân hàng
trước, phần còn lại nếu dư sẽ thuộc về chủ sở hữu TSĐB.
- Nếu bên đi vay và chủ tài sản không hợp tác trong quá trình xử lý TSĐB: NHTM
buộc phải tiến hành khởi kiện ra tòa để đề nghị khách hàng trả nợ. Toàn bộ hô sơ của khoản
vay đầu tiên sẽ được gửi tới trụ sở chính của phòng Pháp chế, phòng Công nợ để rà soát,
kiểm tra lại cũng như xem xét tính khả thi của biện pháp khởi kiện. Nếu hợp lý thì trụ sở
chính sẽ phê duyệt, ủy quyền cho chi nhánh thực hiện khởi kiện và tranh tụng tại tòa án
Sau khi bản án được thiết lập ra, chi nhánh xử lý sẽ đề nghị phong tỏa toàn bộ các nguồn
thu của bên đi vay, xử lý TSĐB để tận thu khoản nợ xấu.
1.1.7. Phát triển thị trường mua bán nợ, hoàn thiện cơ chế mua bán nợ hiệu quả
Hiện nay mới chỉ có Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
trực thuộc NHNN Việt Nam, Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) trực thuộc
Bộ Tài Chính và Công ty quản lý tài sản (AMC) thuộc các tổ chức tín dụng là các tổ chức
tham gia chủ yếu vào hoạt động mua bán nợ. Ngoài ra, còn một số ít các chủ thể khác nữa
nhưng không đáng kể. Điều đó cho thấy thị trường mua bán nợ chưa thực sự phát triển
mạnh.

29
Đây được coi là một trong những điểm nghẽn chính trong việc xử lý nợ xấu hiện nay.
Để hình thành thị trường cần có sự tham gia đông đảo của các bên mua – bán, do vậy cần
có các giải pháp phát triển cả cung và cầu về mua bán nợ: (i) Xây dựng hệ thống/xác định
giá mua bán nợ thống nhất, có thể xem xét việc thành lập các công ty định giá có chức năng
định giá độc lập các khoản nợ; (ii) Xây dựng các chính sách khuyến khích và tạo động lực
cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia để tạo các nguồn vốn mới cũng như học
hỏi kinh nghiệm; (iii) Gấp rút xây dựng cơ chế pháp lý cần thiết cho sự vận hành của một
thị trường mua bán nợ; (iv) Phá băng thị trường bất động sản để khơi thông nguồn vốn; (v)
Chú trọng phát triển thị trường thứ cấp với sự đa dạng về công cụ và phương thức mua bán
nợ phù hợp với thông lệ quốc tế như: thỏa thuận, đấu thấu, đấu giá để tăng số lượng giao
dịch mua bán trên thị trường nợ. Nếu các điều kiện này được đảm bảo, việc mua bán nợ
theo cơ chế thị trường sẽ tự khắc hình thành. Khi đó, VAMC không cần tăng vốn cũng sẽ
hoàn thành “sứ mệnh” của mình.
1.1.8. Trao thêm quyền năng đặc biệt cho VAMC
Vào ngày 12-4-2016, NHNN đã ban hành Quyết định 618/QĐ-NHNN về việc xây dựng
phương án mua và xử lý nợ xấu theo giá thị trường của VAMC. Đó là việc VAMC được
hợp vốn với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để mua các khoản nợ xấu. Việc tăng
tính tự chủ cho VAMC trong quyết định này được coi là một bước tiến lớn trong nỗ lực xử
lý nợ xấu của NHNN, song đó cũng mới chỉ là những biện pháp tháo gỡ tạm thời. Để có
thể xử lý được nợ xấu một cách nhanh chóng hơn thì cần phải có sự tham gia tích cực của
các tổ chức, đơn vị liên quan, từ khâu hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, quy trình thủ tục đến
khâu thực thi pháp luật liên quan tín dụng ngân hàng, đặc biệt là liên quan đến xử lý tài sản
bảo đảm, tài sản thế chấp. Song song với đó, cũng cần phải trao cho VAMC cơ chế đặc
biệt trong một giai đoạn nhất định để giải quyết nợ xấu, sau đó sẽ giải tán và kết thúc các
quyền đặc biệt này, chẳng hạn quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khách hàng vay nợ, quyền
cưỡng chế như thi hành án, quyền đề nghị khởi tố nếu khách hàng vay nợ không trả, quyền
đấu giá phát mại tài sản bảo đảm không cần sự đồng ý của khách hàng… Đồng thời, tăng
cường phối hợp giữa VAMC với DATC cũng như với các tổ chức mua bán nợ chuyên
nghiệp có chức năng tái cấu trúc doanh nghiệp khác cùng với việc nhanh chóng phát triển
thị trường mua bán nợ với sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài phù
hợp với thông lệ và xu hướng phát triển thị trường tài chính quốc tế.
1.1.9. Đảo nợ có phải là một biện pháp để giải quyết nợ xấu hay không?
Đảo nợ (còn gọi là đảo sổ) là việc mà ngân hàng tìm cách chuyển một khoản vay cũ tại
ngân hàng, đã đến hạn trả nợ nhưng chưa có tiền trả của một khách hàng cá nhân/doanh
nghiệp thành một khoản vay mới. Khoản vay mới này sẽ được thực hiện tại một ngân hàng
khác hay tại chính ngân hàng ban đầu đó. Cụm từ “Đảo nợ” có khái niệm tương đối rõ
ràng, được quy định trên cơ sở pháp lý tại Khoản 8 Điều 3, Nghị định 94/2018/NĐ-CP về

30
nghiệp vụ quản lý nợ công như sau: “Đảo nợ là việc thực hiện huy động vốn vay mới để
trả trước một phần hoặc toàn bộ khoản nợ cũ.” Bản chất của việc đảo nợ chính là thực hiện
một hợp đồng vay vốn mới, trên cơ sở dùng khoản tiền vay mới đó để tiếp tục chi trả cho
hợp đồng vay cũ, thực chất chính là đang tiếp tục khoản nợ cũ đó. Và khoản nợ mới vay
trên sẽ được tính bao gồm cả tiền gốc lẫn lãi mà khách hàng chưa trả được.
Để cụ thể hơn, sau đây là một ví dụ về hình thức cho vay đảo nợ: Ngân hàng A cho
doanh nghiệp B vay 1 tỷ đồng, đến kỳ hạn trả nợ, doanh nghiệp vẫn không thể trả được 1
tỷ tiền gốc + 100 triệu tiền lãi cho ngân hàng A được. Nên thay vì đòi nợ, ngân hàng A sẽ
tiếp tục cho doanh nghiệp B vay thêm và lập hợp đồng tín dụng mới có giá trị là 1 tỷ 100
triệu. Thông qua biện pháp này, cả ngân hàng lẫn khách hàng doanh nghiệp đều tránh được
nợ xấu. Tuy nhiên thông thường, khách hàng cần phải đảm bảo khoản vay mới này mới
được ngân hàng chấp thuận, vì nếu tình hình doanh nghiệp ngày càng xấu đi, rất có thể
ngân hàng thay vì có thêm tiền lãi thì lại có nguy cơ mất trắng 1 tỷ 100 triệu chưa kể lãi
của khoản vay mới này.
Cho tới nay, có các hình thức cho vay đảo nợ từng được diễn ra như:
● Đảo nợ trong cùng 1 ngân hàng
● Đảo nợ thông qua chuyển khoản vay từ ngân hàng này sang ngân hàng khác có lãi
suất thấp hơn.
● Đảo nợ bằng việc đi vay dịch vụ ngoài với lãi suất cao để thanh toán nợ ngân hàng
rồi tiếp tục vay lại để trả nợ cho dịch vụ vay ngoài đó.
Ưu điểm của “đảo nợ” đó chính là tạo điều kiện để ngân hàng tránh việc tỷ lệ nợ xấu
tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng khôi phục lại hoạt động sản xuất -
kinh doanh của mình, làm đẹp sổ sách cho cả 2 bên. Về bản chất, việc cho vay đảo nợ chính
là 1 hình thức tránh nợ xấu của ngân hàng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, vì vậy nên thay vì
chuyển toàn bộ những khoản nợ quá hạn đáng lý phải đưa xuống nhóm nợ xấu thì cho vay
đảo nợ sẽ khiến cho các món nợ đó trở nên bình thường hơn, tạo chất lượng giả tạo. Điều
này cũng sẽ giúp cho bảng cân đối tài sản của ngân hàng “đẹp” hơn, sạch hơn. Các ngân
hàng không cần trích lập quỹ dự phòng rủi ro, không gây ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận của
ngân hàng. Còn đối với doanh nghiệp, hoạt động cho vay đảo nợ sẽ khiến cho điểm tín
dụng của doanh nghiệp đó không bị suy giảm, không gây hệ lụy tới các khoản vay tiếp theo
trong tương lai. Do vậy, việc hợp tác giữa doanh nghiệp và ngân hàng sẽ đem lại lợi ích
cho cả đôi bên.
Tuy nhiên, đảo nợ chỉ thực sự có hiệu ứng tích cực đối với những doanh nghiệp, khách
hàng gặp tình trạng khó khăn tạm thời, có khả năng phục hồi lại thì khoản vay mới ấy mới
tạo điều kiện để giúp khách hàng vượt qua khủng hoảng được. Còn nhược điểm của đảo
nợ chính là tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó nguy cơ mất vốn là rất lớn. Một số rủi ro cụ
thể khác có thể kể đến như:

31
● Hợp đồng vay mới không được chấp nhận bởi ngân hàng: Có một số khách hàng
sẽ chọn hình thức đảo nợ từ các TCTD bên ngoài, trong đó cả các TCTD đen nhằm
mục đích vay vốn nhanh hơn, sau đó thanh toán cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng để tiếp
tục đăng ký khoản vay mới và thanh toán lại cho TCTD đen. Tuy nhiên, rủi ro có
thể xảy ra là nếu hồ sơ vay mới của khách hàng tại ngân hàng không được ngân
hàng đồng ý, thì khách hàng sẽ không có tiền để thanh toán khoản vay cho TCTD
đen kia, trong khi lãi suất vay bên ngoài, nhất là vay tại các TCTD đen thường rất
cao và khiến khách hàng rơi vào tình trạng có nguy cơ phá sản.
● Rủi ro nợ xấu: Một khi doanh nghiệp không có khả năng khôi phục hoạt động sản
xuất, kinh doanh, vẫn tiếp tục làm ăn thất bát, thua lỗ, không có tiền để trả nợ ngân
hàng thì việc đảo nợ sẽ tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho ngân hàng khi trở thành nợ xấu.
● Rủi ro từ việc làm hồ sơ giả: Khá nhiều trường hợp các khách hàng doanh nghiệp
lấy lý do khác để lập hồ sơ vay, tuy nhiên thực tế lại dùng chính khoản tiền đó để
thanh toán nợ ngân hàng với hành vi đảo nợ. Vì vậy, một khi mọi chuyện vỡ lở thì
doanh nghiệp đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh làm giả giấy tờ, hồ sơ
vay vốn.
● Chịu trách nhiệm dân sự, hình sự trước pháp luật: Nếu hành vi đảo nợ của ngân
hàng, TCTD hay khách hàng bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện thì họ
sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự/hình sự trước pháp luật bởi đây là hành vi vi phạm
pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm được quy định rất rõ tại Thông tư 39/2016/TT-
NHNN.
Qua những thông tin trên, có thể thấy được rằng đảo nợ là hành vi vi phạm pháp luật,
được quy định cụ thể tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN. Dựa trên thuật ngữ “đảo nợ” được
giải thích ở Nghị định 94/2018/NĐ-CP, có thể hiểu được rằng tại Điều 8 Thông tư 39 mặc
dù không trực tiếp sử dụng cụm từ đảo nợ, nhưng bản chất đó chính là hành vi đảo nợ và
bị pháp luật nghiêm cấm. Tại khoản 5, 6 Điều 8 của TT 39 đã quy định chi tiết về các
trường hợp không được đảo nợ như sau:
“5. Trả nợ khoản cấp tín dụng tại chính TCTD cho vay.
6. Trả nợ khoản cấp tín dụng tại TCTD khác và trả nợ khoản vay nước ngoài.”
Theo đó, các ngân hàng, TCTD không được cho vay đảo nợ để chi trả khoản nợ vay tại
chính ngân hàng đó, TCTD đó hoặc ngân hàng, TCTD khác trừ 2 trường hợp:
- Khách hàng được vay đảo nợ tại các TCTD khi sử dụng số tiền của khoản vay mới
để chi trả cho các khoản lãi suất phát sinh trong quá trình thi công, xây dựng công
trình mà chi phí lãi suất tiền vay đã được tính trong dự toán xây dựng công trình,
được cấp phép hoặc được phê duyệt bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định
pháp luật.

32
- Khách hàng được vay đảo nợ khi dùng số tiền của khoản vay mới để thanh toán cho
khoản nợ thuộc 3 trường hợp sau: vay phục vụ hoạt động kinh doanh; thời hạn cho
vay không vượt quá thời hạn khoản vay cũ; khoản vay chưa thực hiện cơ cấu lại
thời hạn trả nợ.
Mặc dù vậy, trong tình hình dịch bệnh Covid 19 như hiện nay để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, người dân chịu tác động dưới sức ép của đại dịch cũng như giúp đỡ các NHTM có
khả năng chủ động hỗ trợ khách hàng hơn, thì NHNN đã ban hành thêm Thông tư
01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN (nhằm sửa đổi, bổ sung cho thông tư
01). Theo đó, thông tư này đã đưa ra giải pháp hỗ trợ bằng cách cho phép các khách hàng
của TCTD, NHTM gặp khó khăn có thể áp dụng hình thức “đảo nợ” nhưng ở đây là hoạt
động vay vốn để trả nợ gốc (đối với những khoản nợ đáp ứng các điều kiện được quy định
cụ thể trong TT 01). Trên cơ sở giải pháp ấy, các khách hàng vừa có thể được nhận sự hỗ
trợ, tạo điều kiện trong việc trả nợ, đồng thời ngân hàng cũng được lợi vì lúc này khoản nợ
xấu của ngân hàng đã được kiểm soát, giảm bớt gánh nợ nợ xấu tăng lên quá cao trong hệ
thông các ngân hàng thương mại do chịu ảnh hưởng nặng nề do đại dịch Covid hoành hành,
2. Những khó khăn, thách thức trong vấn đề xử lý nợ xấu
2.1. Khó khăn
a, Khó khăn trong việc phân loại nợ chính xác và xác định được tỷ lệ nợ xấu thực sự
Nợ xấu có thể coi là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng của 1
NH. Hiện nay các NHTM đang rất chú tâm về việc quản lý các khoản nợ xấu bơi tín dụng
chiếm tới 80% thu nhập của các NH, hơn hẳn các dịch vụ như thanh toán, thẻ,.... Tuy vậy
việc gì càng lợi nhiều thì sẽ khó khăn hơn, việc thiếu minh bạch, lộn xộn nhiễu loạn thông
tin đang là những khó khăn vô cùng lớn đối với việc xác định nợ xấu, xác định chính xác
hay gần chính xác nợ xấu thực tế tại NHTM là bao nhiêu.
Theo báo cáo của các TCTD về NHNN, tính đến cuối 2020 tỷ lệ nợ xấu nội bảng của
toàn hệ thống khoảng 3% (2019 là 1,89%) và nợ xấu gộp khoảng 5% cuối năm 2020 (cuối
năm 2019 ở mức 4,65%). Do dịch bệnh covid mà dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao hơn. Và các
ngân hàng cũng không biết nên phân loại nợ xấu như thế nào vì với mỗi cá nhân hay doanh
nghiệp thì lại có loại nợ xấu khác nhau nhưng lại muốn ẩn vào dịch bệnh.
b, Khó khăn trong nguồn tiền để xử lý nợ xấu

Các nguồn tiền cơ bản để xử lý nợ xấu bao gồm nguồn tiền:

(1) Thu từ con nợ trong đó có tài sản đảm bảo,

(2) Nguồn tiền đã trích lập từ quỹ dự phòng rủi ro của mỗi ngân hàng,

33
(3) Nguồn tiền chủ sở hữu của ngân hàng tăng vốn trong đó ngân hàng có chủ sở hữu nhà
nước thì nhà nước phải chi.

Theo kế hoạch mà Chính phủ đưa ra về vấn đề “Tái cấu trúc hệ thống NHTM” trong
năm 2019, nợ xấu chiếm vị trí trọng tâm, vì vậy việc làm sạch bảng cân đối tài sản của các
ngân hàng thông qua hoạt động xử lý nợ xấu là rất cần thiết. Nhưng muốn làm được điều
này, các ngân hàng thương mại cần phải có một lượng tiền lớn để xử lý nợ xấu. Và khoản
tiền này cần phải được Ngân sách Nhà nước chi ra, trong khi trước đó NHNN đã phải chi
rất nhiều tiền để tái cấp vốn cho những ngân hàng muốn thực hiện việc cơ cấu lại. Không
những thế, hiện nay số lượng NHTM ngày càng tăng và số tiền để tái cơ cấu cũng lớn hơn
rất nhiều. Vì vậy, nếu dùng tiền ngân sách sẽ chắc chắn không khả thi vì ngân sách đã thâm
thủng quá lớn, còn nếu dùng tiền cung ứng cũng không ổn do áp lực lạm phát đang rất cao.
Vì vậy mà cho tới nay, những tranh cãi xoay quanh vấn đề lấy tiền ở đâu, sử dụng nguồn
tiền nào để giải quyết khoản nợ xấu ngân hàng vẫn còn tiếp diễn.

c, Khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo

Các NHTM gặp khó khăn trong việc thu giữ tài sản. Có những tài sản khách hàng không
chịu hợp tác trong khi thu hồi, đôi khi còn xảy ra xô xát. Mà trong khi đó, các đơn vị cơ
quan chức năng như UBND, Công An, các ban ngành liên quan còn chưa hay thậm chí là
không hợp tác cùng với NH tham gia vào quá trình thu giữ tài sản. Theo Nghị Quyết 42,
quy định về trách nhiệm của cơ quan công an, chính quyền các địa phương liên quan,
chính quyền các cấp trong quá trình thu giữ tài sản rất chung chung, chưa rõ ràng, và
còn nhiều vướng mắc đã gây nên rất nhiều khó khăn trong việc hợp tác xử lý nợ.

Ví dụ như Nghị quyết 42 việc thu tài sản đảm bảo đối với tài sản là bất động sản có quy
định về công an nơi tiến hành thu giữ nhưng lại không chỉ rõ ra rằng là cơ quan cấp nào
(phường, xã; quận, huyện hay cấp tỉnh, thành phố) chính vì vậy các TCTD trong nội bộ
cũng rất khó liên hệ với cơ quan công an và các cơ quan có thẩm quyền để cùng phối hợp
tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm. Mà trong thực tế thì việc các cơ quan công an, chính
quyền các cấp né tránh là chuyện bình thường (có thể do có quan hệ với đối tượng bị thu
giữ hoặc muốn né tránh công việc, trách nghiệm).

Bên cạnh đó, chưa có sự đồng thuận chung trong còn việc thẩm định giá để bán các
khoản nợ, việc thẩm định giá tài sản thế chấp là một việc khá là đau đầu phức tạp và mang
tính tương đối do vậy hiện nay việc đó chưa có một chuẩn mực thống nhất, Cũng như các
tiêu chí đánh giá còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Chung quy lại dẫn đến chủ nợ sẽ lâu và
thậm chí còn không thống nhất được mức giá của tài sản đảm bảo, từ chủ quan đến khách
quan. Người mua cũng khó khăn do gặp nhiều trở ngại trong việc chọn lựa và tham khảo

34
giá thị trường, chưa kể cách giấy tờ hành chính liên quan đến sang tên, đổi chủ.. Không
những vậy, pháp luật và quy định về hoạt động thẩm định giá còn chưa chặt chẽ, vẫn tồn
tại một số bất cập khó khăn. Hơn nữa vẫn còn diễn ra tình trạng người mua tài sản, tổ chức
đấu giá và cơ quan thẩm định giá câu kết với nhau để tác động làm cho tài sản bị định giá
quá thấp với mục đích trục lợi, hòng mua được tài sản với giá thấp để tẩu tán tài sản nhanh
chóng gây tổn thất cho các TCTD (hay đôi khi là định giá tài sản quá cao làm cản trở quá
trình xử lý TSBĐ, kéo dài thời gian xử lý nợ, khiến cho các khoản nợ xấu bị ứ đọng, không
được giải quyết thỏa đáng).

d, Mua bán nợ xấu ngân hàng của DATC ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế
Để hỗ trợ các NHTM nâng cao năng lực tài chính, NHNN đã có công văn hướng dẫn
việc bán nợ tồn đọng của các NH cho Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp (hay còn gọi là Công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam - DATC). Đây là một bước
tiến lớn trong việc xây dựng thị trường mua bán nợ, là hướng đi quan trọng để xử lý nợ
xấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM. Tuy nhiên, quá trình thực hiện biện
pháp này cũng gặp không ít khó khăn.

Bên cạnh đó, DATC cũng phải đối mặt với nhiều thách thức hơn khi đề cập đến những
khoản nợ xấu chung “khổng lồ” tính đến thời điểm này. Nguồn lực tài chính của DATC
chưa thể nào đáp ứng đủ để xử lý khoản nợ xấu hiện nay, ngay cả khi những khoản nợ xấu
thuộc nhóm 5 đó của các doanh nghiệp chỉ chiếm từ 10-20% trong tổng giá trị nợ xấu của
NHTM. Với lượng vốn ít như hiện nay của DATC thì công tác xử lý nợ xấu của các NHTM
vẫn còn rất phức tạp và nhiều bất cập, đặt lên bàn cân so sánh với khối lượng nợ xấu ước
tính lên tới hơn 200 nghìn tỷ đồng thì hiện này DATC có lẽ chỉ giải quyết được khoảng
3,6% trong số đó mà thôi. Không những vậy còn phải cân nhắc đến các hoạt động khác
như xem xét các điều kiện của TSBĐ hay đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp,…

Một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với DATC ở nước ta hiện nay đó là bên cạnh hỗ trợ các
doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động tái cơ cấu lại và xử lý nốt các khoản nợ còn ứ đọng
thì DATC cần phải đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả, hướng tới việc bảo toàn và phát triển
nguồn vốn như một doanh nghiệp kinh doanh thông thường. Chính vì điều này mà DATC
phải xem xét thật kỹ để tránh việc lựa chọn phải những khoản nợ có rủi ro mất vốn cao,
cân nhắc xử lý những khoản nợ ít rủi ro mất vốn. Vì thế nên quá trình xử lý các khoản nợ
bị chậm hơn và số lượng các khoản nợ có thể xử lý được cũng thấp. Vấn đề đặt ra ở đây
chính là hầu hết các NHTM đều không muốn bán nợ cho DATC, mà nếu bán thì thay vì
chiết khấu nợ, ngân hàng sẽ bán với cái giá không hề rẻ nên DATC muốn thực hiện hoạt
động mua bán nợ hiệu quả cần phải đề nghị để có các chính sách buộc các NHTM phải
đứng ra xử lý nợ xấu.

35
2.2. Thách thức
Trong những năm vừa qua, nợ xấu của các NHTM đã và đang được xử lý tích cực. Tuy
nhiên, kể từ khi đại dịch Covid - 19 xảy ra và có những diễn biến khó lường, hoạt động của
hầu hết các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Do đó, nỗ lực giảm nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng cũng đối mặt với nhiều thách thức hơn.
Theo thống kê của Công ty Chứng khoán BOS, nợ xấu của các ngân hàng đầu năm 2021
có xu hướng tăng nhẹ so với cuối năm 2020. Tổng giá trị nợ xấu của các ngân hàng đang
niêm yết đạt tới 91.244 tỷ đồng tính đến cuối tháng 3 năm 2021, tăng gần 4 nghìn tỷ đồng
so với cuối năm 2020. Dự báo trước diễn biến còn nhiều phức tạp, khó dự đoán như hiện
nay của đại dịch COVID-19, tính đến thời điểm cuối năm nay (tức năm 2021), rất có thể
tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ chưa qua xử lý bán cho VAMC và nợ tiềm ẩn nguy cơ biến thành
nợ xấu của cả hệ thống NHTM ở nước ta sẽ cao hơn so với mức đã báo cáo lên Thủ tướng
Chính phủ tại Tờ trình số 08/TTr-NHNN ngày vào tháng 2 năm 2021. Theo đó, tính trên
toàn bộ hệ thống ngân hàng, mức nợ xấu nội bảng có tỷ lệ ước tính rơi vào khoảng 3%.
Mức nợ xấu nội bảng cũng như tỷ lệ nợ chưa qua xử lý bán cho VAMC, nợ có nguy cơ trở
thành nợ xấu tính trên toàn bộ hệ thống NHTM được dự báo rơi vào khoảng 4%-4,5%. Với
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 01/2021/NQ-CP là dưới 3%, tỷ lệ nợ xấu có thể gia tăng
nhưng vẫn trong tầm kiểm soát của các NHTM. Tuy nhiên, không có nghĩa tỷ lệ này vẫn
sẽ được duy trì ổn định dưới mức 3% trong tương lai. Bởi trong tình hình dịch bệnh ngày
một căng thẳng, không biết khi nào mới hết dịch thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
vẫn đang rơi vào tình trạng gián đoạn khiến cho dòng tiền bị đứt gãy. Thậm chí ngay cả
khi các hoạt động quay trở lại bình thường, liền mạch thì các doanh nghiệp cũng phải mất
ít nhất 3-6 tháng mới có thể phục hồi được. Bên cạnh đó, áp lực trả nợ luôn đè nặng lên
các doanh nghiệp. Các khoản nợ có thể chuyển nhóm thành nợ xấu bất cứ lúc nào khiến
cho tỷ lệ nợ xấu tăng lên cao. Đây được coi là một thách thức không hề nhỏ đối với hệ
thống ngân hàng.
Mô hình tăng trưởng của Việt Nam là dạng mô hình phụ thuộc vào quy mô đầu tư, trong
đó chủ yếu là dựa vào tín dụng từ ngân hàng. Nếu việc xử lý nợ xấu gặp phải các khó khăn,
vướng mắc trong khuôn khổ pháp lý thì sẽ không thể khơi thông được nguồn vốn của hệ
thống ngân hàng. Qua đó, sẽ ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân
hàng và mức tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước cũng đang triển khai soạn thảo Thông tư quy định về việc tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay,
giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid - 19.
Động thái này của cơ quan điều hành tiền tệ sẽ có lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Khi gặp trở ngại trong kinh doanh làm giảm khả năng trả nợ cho các ngân hàng, các doanh
nghiệp có thể đề xuất được giãn nợ, cơ cấu lại nợ và có thể được giảm lãi suất vay. Về phía

36
ngân hàng, việc giữ nguyên nhóm nợ có thể giúp các ngân hàng không phải tăng mức trích
lập dự phòng do nợ xấu gia tăng. Tuy nhiên, chính sách này cũng cần phải kiểm soát một
cách chặt chẽ. Bởi nó có thể gây ra tình trạng lợi dụng nhằm cơ cấu lại nợ hoặc giảm lãi
suất với những khoản vay không đủ điều kiện được hưởng ưu đãi.

3. Các biện pháp quản lý nợ xấu để hạn chế nợ xấu trong tương lai
a, Nhóm giải pháp từ phía nhà nước, NHNN
Cần phải có sự can thiệp của Chính phủ, thể hiện ở việc cho phép sự mua lại những
ngân hàng yếu kém trong nước bởi các ngân hàng quốc tế có quản trị doanh nghiệp tốt và
nguồn lực tài chính mạnh. Cùng với đó là khuyến khích sáp nhập các ngân hàng nhỏ, yếu
kém, có tỷ lệ nợ xấu cao, khả năng quản trị kinh doanh hạn chế vào các ngân hàng lớn, uy
tín hơn.
Để hỗ trợ các NHTM trong quá trình thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ theo các chỉ
tiêu quốc tế, thì chính phủ cần phải nhanh chóng hoàn thiện được bộ khung pháp lý. Phòng
tránh sự bất ổn cũng như rủi ro hệ thống tích trữ trong hệ thống ngân hàng bằng cách giám
sát chặt chẽ dòng tiền luân chuyển nội bộ và nhanh chóng giải quyết được các bất ổn riêng
trong ngân hàng. Các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận vốn hơn khi các NHTM có điều
kiện xử lý nợ xấu bằng việc giám sát các dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn.
Tăng cường kiểm tra, giám sát thanh tra nợ xấu: Xử lý tận gốc nợ xấu, cần minh bạch
hóa thông tin nợ xấu của từng ngân hàng, TCTD.

b, Nhóm giải pháp từ NHTM

Đầu tiên có lẽ là các NHTM phải đo lường được nợ xấu sao cho chính xác nhất có thể
rồi sau đó mới có thể phân tích đánh giá. Rồi phân loại các nhóm nợ xấu sao cho phù hợp.

Các NHTM cần phải xây dựng chiến lược quản trị rủi ro sao cho phù hợp với chiến lược
kinh doanh của chính NH đó trong từng thời kỳ nhất định. Hoàn thiện về chiến lược và mô
hình quản trị rủi ro tín dụng, xây dựng biện pháp thu nợ xấu của từng đơn vị, chi nhánh,
từng phòng từng tổ, từng cán bộ tín dụng theo các khoảng thời gian cụ thể.

Lựa chọn đối tượng khách hàng vay vốn hợp lý. Các NH đặc biệt là đội ngũ tín dụng
cần phải làm tốt khâu đánh giá chất lượng đối tượng vay để tránh tình trạng nợ xấu, với
những đối tượng nguy cơ tiềm tàng cần có mức vay và cách thức vay, tài sản thế chấp sao
cho an toàn đối với NH.

Thiết lập Bộ chuẩn mực gồm 6 chuẩn mực đạo đức, 2 nhóm quy tắc ứng xử để giảm
thiểu rủi ro đạo đức của các cán bộ ngân hàng.

37
● 6 chuẩn mực đạo đức bao gồm: Tính tuân thủ; sự cẩn trọng; sự liêm chính; sự tận
tâm và chuyên cần; tính chủ động, sáng tạo, thích ứng; và ý thức bảo mật thông tin.
● 2 nhóm quy tắc ứng xử là:
● Ứng xử trong nội bộ: Gồm ứng xử giữa các cấp với nhau và đồng cấp.
● Ứng xử với bên ngoài: Với khách hàng và đối tác bên ngoài. Thái độ, phong
cách, tác phong làm việc và giao tiếp trong quan hệ nội bộ và với bên ngoài
thể hiện tính lịch sự và chuyên nghiệp của người cán bộ ngân hàng.

Việc áp dụng bộ chuẩn mực này sẽ định hình một môi trường làm việc trong ngành
ngân hàng nghiêm túc, lành mạnh. Qua đó giúp cho bộ máy hệ thống NHTM được vận
hành thông suốt, trôi chảy hơn, khuyến khích ngân hàng phát triển theo đúng lộ trình chiến
lược đã đề ra, đáp ứng đúng kỳ vọng của các cán bộ, công nhân viên trong ngân hàng cũng
như giúp ích cho khách hàng và xã hội.

c, Nhóm giải pháp từ phía khách hàng

NH cùng các cá nhân đơn vị vay vốn cùng đưa ra thỏa thuận tốt nhất để tránh tình trạng
nợ xấu, hoặc có thể trong trường hợp không mong muốn nhất thì cả hai phải cùng nhau xử
lý nợ xấu thông qua việc tăng thanh khoản cho tài sản đảm bảo.

Vấn đề đầu tiên cần phải giải quyết hiện nay đó là hàng tồn kho. Các doanh nghiệp ngoài
việc thu hồi vốn về quay vòng bằng cách chấp nhận chịu lỗ (hạ giá bán) thì cũng có thể
liên kết với các doanh nghiệp khác để tận dụng sản phẩm của nhau.Việc tăng tính minh
bạch trong thông tin tài chính và nâng cao chất lượng quản trị cũng là một yếu tố vô cùng
quan trọng trong việc tạo niềm tin tín dụng với ngân hàng. Ông Matthew Lourey - một
chuyên gia kinh tế cũng đã đưa ra gợi ý về việc tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm giải quyết
nợ xấu như sau: “Việc ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện tái cấu trúc, đưa lại kết
quả là công ty có được hoạt động bền vững và không bị rơi vào tình trạng phá sản”.

4. Đánh giá tác động của Covid - 19 lên vấn đề nợ xấu và cách thức giải quyết trong
hiện nay
a, Tác động
Đại dịch Covid-19 đã tác động đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, trong đó ngành
nghề chịu ảnh hưởng nặng nề nhất có thể kể đến ngành dịch vụ vận tải, ngành may mặc,
da giày, du lịch, nhà hàng, khách sạn… Hầu hết các doanh nghiệp đều phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn. Thị trường bị thu hẹp, hàng tồn kho tăng, sức tiêu thụ hàng hoá giảm,
doanh thu giảm mạnh, cả đầu vào và đầu ra đều không thuận lợi. Nhiều doanh nghiệp bị
giãn đoạn chuỗi sản xuất, đứt gãy dòng tiền, do đó không có nguồn thu để trả nợ khiến cho
các NHTM phải đối mặt với nguy cơ tỷ lệ nợ xấu tăng cao.

38
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, cả nước ta có gần 101.700 doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ
tục giải thể, tăng 13,9% so với năm trước. Trong đó, số lượng doanh nghiệp tạm ngừng
kinh doanh có thời hạn là 46.600, tăng 62,2% so với năm trước. Có gần 37.700 doanh
nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và gần 17.500 doanh nghiệp hoàn tất thủ
tục giải thể. Trung bình mỗi tháng, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đạt gần 8.500
doanh nghiệp.

b, Cách thức xử lý
Đứng trước khó khăn của nền kinh tế, NHNN đã 3 lần hạ lãi suất điều hành và ban hành
Thông tư số 01/2020/TT-NHNN làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời
hạn trả nợ; miễn, giảm lãi, phí; giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh
hưởng do dịch Covid-19.
Nợ được phép cơ cấu lại như trên cần phải thỏa mãn 3 yếu tố sau:
- Thứ nhất, nợ có nguồn gốc từ hoạt động cho vay và cho thuê tài chính.
- Thứ hai, nợ phải trả nợ gốc hoặc/và lãi, tính từ ngày 23 tháng 1 năm 2020 đến ngày liền
kề sau 03 tháng từ ngày đại dịch Covid-19 được chính thức công bố kết thúc bởi Thủ tướng
Chính Phủ.
- Thứ ba, những khoản nợ cảu khách hàng không có có khả năng trả nợ đúng hạn (gồm nợ
gốc và/hoặc lãi) do không tạo ra thu nhập (doanh thu) theo hợp đồng tín dụng đã ký. (thời
hạn của số dư nợ được quy định cụ thể xem trong Thông tư)
Việc miễn, giảm lãi, phí sẽ được áp dụng đối với số dư nợ phát sinh từ hoạt động cấp
tín dụng mà khoản nợ đã đến hạn thanh toán cả gốc và/hoặc lãi trong khoảng thời gian
tương tự như trên đến ngày liền kề sau ba tháng tính từ thời điểm hết dịch Covid-19 theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Trong giải pháp giữ nguyên nhóm nợ, đối với số dư nợ, các TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài phải thực hiện phân loại nợ và trích lập DPRR theo thời hạn đã được cơ cấu lại
theo quy định của pháp luật nhưng không cần phải áp dụng nguyên tắc điều chỉnh vào
nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn.
Tính đến cuối tháng 12/2020, có khoảng 270 nghìn khách hàng đã được các tổ chức tín
dụng cơ cấu thời hạn trả nợ với dư nợ gần 355 nghìn tỷ đồng; và có khoảng 590 nghìn
khách hàng được miễn, giảm, hạ lãi suất với dư nợ trên 1 triệu tỷ đồng. Ước tính tổng số
tiền phí dịch vụ thanh toán mà các ngân hàng miễn, giảm cho khách hàng đến hết năm
2020 sau 2 đợt giảm phí là khoảng 1.004 tỷ đồng.
Một giải pháp cần thiết để hạn chế nợ xấu gia tăng cũng được đánh giá phù hợp trong
giai đoạn hiện nay đó là việc các NHTM cần nỗ lực đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trong

39
ngắn hạn và điều chỉnh danh mục cho vay. Thậm chí, hướng tới điều chỉnh danh mục tài
sản tiến tới giảm tỷ trọng tài sản tín dụng và tăng tài sản phi tín dụng trong dài hạn.
Rủi ro nợ xấu của các ngân hàng vẫn luôn hiện hữu, có thể bộc lộ rõ hơn trong năm
2021 và ngành Ngân hàng vẫn nặng gánh nợ xấu trích lập dự phòng rủi ro được Fitch
Ratings nhận định sẽ tiếp tục tăng do ảnh hưởng, tác động của đại dịch Covid-19 kéo dài.
Chính vì vậy, tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 07/01/2021 về tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2021, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các tổ
chức tín dụng, tích cực triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu, kiểm soát và hạn chế nợ xấu
mới phát sinh, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc
biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, đảm bảo an toàn, tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật.

5. Giải pháp bán nợ cho VAMC để giải quyết nợ xấu


5.1. Tổng quan về VAMC
VAMC là tên viết tắt của “Vietnam Asset Management Company” - là công ty TNHH
Một thành viên Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam, địa chỉ đặt tại 22 Hàng Vôi -
Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đây là một doanh nghiệp đặc thù được Nhà nước sở hữu 100% vốn
điều lệ, là công ty TNHH một thành viên trực thuộc ngân hàng nhà nước và được thành lập
vào ngày 27/6/2013. Trải qua 9 năm ra đời, VAMC đã và đang tích cực mua lại hàng chục
nghìn tỷ đồng nợ xấu mỗi năm và thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt để giải quyết vấn đề
nợ xấu trong các NHTM. Có thể nói, VAMC là loại công cụ đắc lực của nhà nước trong
công tác giải quyết nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách hợp lý, đồng thời góp
phần giúp đỡ giảm thiểu rủi ro của các khoản nợ xấu một cách tốt nhất cho các NHTM và
các TCTD. Về nguyên tắc hoạt động của VAMC, trước hết công ty này hoạt động không
vì mục tiêu kiếm lời, chủ yếu dựa trên nguyên tắc lấy thu bù chi, công khai – minh bạch.
Kể từ đầu tháng 10 năm 2013, hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu của các NHTM và
TCTD do VAMC thực hiện đã chính thức được bắt đầu, dựa trên nền tảng là kế hoạch đã
được NHNN thông qua mỗi năm. Sau quá trình thu mua nợ xấu của các TCTD thì VAMC
tiến hành thực hiện các biện pháp thu hồi nợ như đôn đốc thu hồi nợ, cơ cấu lại thời hạn
trả nợ, bên cạnh đó còn có thể khởi kiện, bán nợ hay phát mại tài sản bảo đảm hoặc ủy
quyền cho các tổ chức tín dụng thu hồi nợ.

40
Cơ cấu tổ chức của VAMC (Nguồn: https://sbvamc.vn/)
5.2. Chức năng, hình thức và nguyên tắc mua bán nợ xấu của VAMC
a, Chức năng:
Công ty Quản lý tài sản lúc bắt đầu đi vào hoạt động với chức năng là một phần của
Ngân hàng Nhà nước, là công cụ giúp Nhà nước xử lý nợ xấu nhanh hơn, tài chính hoạt
động lành mạnh, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được giảm thiểu rủi ro, cùng với đó
đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng hợp lý. VAMC thực hiện những chức năng cụ thể như:
• Thực hiện hoạt động mua lại nợ xấu của NHTM và các TCTD;
• Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm và các tài sản có liên
quan;
• Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có liên
quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ
xấu và bảo đảm tiền vay;
• Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản;
• Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp,
vốn cổ phần của khách hàng vay;
• Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã
được Công ty Quản lý tài sản thu nợ;
• Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần;
• Tổ chức bán đấu giá tài sản; Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
vay vốn của tổ chức tín dụng;
41
• Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VAMC sau khi được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
b, Hình thức:
Về hình thức, theo thông tư 19, VAMC có thể mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt hoặc
theo giá thị trường.
Với hình thức VAMC ban hành trái phiếu đặc biệt, giúp giảm thiểu tình trạng sử dụng
ngân sách bơm tiền vào nền kinh tế để giải quyết tình trạng nợ xấu, VAMC sẽ mua lại nợ
xấu theo giá trị trường và chi trả bằng trái phiếu cho doanh nghiệp, công ty tín dụng. Khi
hết hạn mà VAMC vẫn chưa giải quyết được nợ xấu thì tổ chức tín dụng phải dùng trái
phiếu này mua lại nợ xấu từ VAMC. Loại trái phiếu đặc biệt này có ưu điểm là các tổ chức
tín dụng có thể dùng nó để chiết khấu việc mượn tiền từ ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên
ngân hàng nhà nước vẫn quyết định tỷ lệ tái cấp vốn nên sức mạnh của loại trái phiếu này
vẫn chưa được đảm bảo.
Theo quy định của Thông tư 19, nếu VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường thì phải
định giá hoặc thuê tổ chức độc lập về chức năng định giá để xác định khoản nợ xấu trị giá
bao nhiêu. Các phương án chỉ được thực hiện khi có sự cho phép của NHNN và đảm bảo
theo quy định hiện hành của NHNN về mua bán nợ xấu áp dụng với các TCTD.
c, Nguyên tắc:
Mua bán nợ xấu của VAMC được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây (được trích từ
thông tư 19):
- Công khai, minh bạch;
- Tuân thủ đúng quy định được ghi trong hợp đồng mua, bán nợ và quy định của pháp luật;
- Ngăn ngừa rủi ro, giảm thiểu chi phí trong hoạt động mua bán nợ xấu;
- Mua, bán nợ xấu sẽ được tiến hành với từng khoản nợ xấu. Hoặc xảy ra các trường hợp
khác sẽ được áp dụng:
• Theo từng khách hàng vay nếu họ có nhiều khoản nợ xấu tại một tổ chức tín dụng
• Theo từng nhóm khách hàng vay nếu họ dùng một TSBĐ cho các khoản nợ xấu của
nhiều khách hàng tại một TCTD
• Theo hình thức khác sẽ do các bên thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật
Ngoài ra, theo quy định trong Thông tư 19, đối với hoạt động mua bán nợ xấu giữa
VAMC và NHTM hay các TCTD thì “toàn bộ các quyền và lợi ích gắn liền với khoản nợ
xấu, tài sản bảo đảm và biện pháp bảo đảm khác cho khoản nợ xấu được bên bán nợ giữ
nguyên hiện trạng và chuyển giao cho bên mua nợ theo hợp đồng mua bán nợ”.

5.3. Việc bán nợ cho VAMC của ngân hàng thương mại và các TCTD khác
a, Ưu điểm:
• Đối với NHTM hoặc TCTD có nợ xấu bán cho VAMC:

42
Về bản chất, sau khi bán nợ cho VAMC, ngân hàng sẽ nhận được một lượng trái phiếu
nhất định do VAMC phát hành ra dựa trên các giá trị thu mua khoản nợ (=100% giá trị sổ
sách). Và hàng năm, các ngân hàng thực hiện bán nợ cho VAMC phải trích dự phòng 20%
cho lượng trái phiếu này, với lãi suất 0%/năm. Lượng trái phiếu mà VAMC phát hành cho
ngân hàng này sẽ có thời hạn 5 năm và khi đáo hạn, giá trị trái phiếu mặc định coi là 0
đồng. Điều này có nghĩa là NHTM đã tất toán xong khoản nợ, trích lập dự phòng hết nợ,
và tỷ lệ nợ xấu vẫn được ghi nhận ở mức tốt.
Chính vì vậy, việc ngân hàng bán các khoản nợ xấu cho VAMC sẽ đem lại một mặt tích
cực, có lợi cho ngân hàng. Thay vì việc ngân hàng vừa phải trích lập dự phòng rủi ro, mà
nợ xấu vẫn nằm trong bảng cân đối tài sản thì khi NHTM bán nợ xấu cho VAMC, nợ xấu
sẽ được chuyển ra khỏi bảng cân đối đó. Từ đó giúp làm sạch hóa bảng CĐKT của ngân
hàng, đồng thời việc bán khoản nợ xấu nhận về được trái phiếu đặc biệt nên sẽ được hạch
toán sang khoản mục đầu tư, điều này vừa giúp TCTD và NHTM làm đẹp bảng CĐKT,
vừa kéo dài thời gian xử lý nợ để đảm bảo cân đối nguồn lực cho các hoạt động kinh doanh.
Lợi ích thứ hai nữa là đối với những khoản nợ xấu thực tế phải chuyển đến nhóm 5,
NHTM phải trích lập đủ 100% dự phòng để xử lý rủi ro thì với việc bán nợ cho VAMC,
NHTM có thể kéo dài thời gian trích lập lên đến 5 năm. Đây là lợi ích lớn nhất mà NHTM
và TCTD có được từ việc bán nợ xấu cho VAMC, vì với quy mô nợ xấu và thực lực của
nhiều NHTM, TCTD hiện nay, việc trích lập dự phòng đôi khi là quá sức đối với họ nếu
không được kéo dài thời gian trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Lợi ích thứ ba là các trái phiếu đặc biệt mà NHTM nhận được từ VAMC khi bán nợ xấu
có thể được sử dụng để tiến hành vay tái cấp vốn tại NHNN, tạo nguồn kinh doanh cho
chính ngân hàng. Hơn thế nữa, NHTM và các TCTD còn nhận được sự hỗ trợ tích cực về
mặt pháp lý và nguồn lực trong quá trình xử lý TSBĐ bằng tiền vay để thu nợ (được quy
định rõ ràng trong Thông tư 19, về trách nhiệm của VAMC và các đơn vị có liên quan
thuộc NHNN trong việc xử lý và hỗ trợ xử lý thu hồi nợ xấu).
• Đối với khách hàng có nợ xấu được NHTM và TCTD bán cho VAMC:
Lợi ích đầu tiên mà khách hàng nhận được chính là khả năng được xem xét cấp tín
dụng mới. Sau khi bán được khoản nợ xấu của mình cho VAMC, nếu khách hàng có những
phương án đầu tư, kinh doanh có hiệu quả thì vẫn được NHTM, TCTD và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài xem xét, cấp tín dụng trên cơ sở thỏa thuận và tuân theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, với những khoản vay đã quá hạn thanh toán, VAMC có thể sẽ xem xét để hạ
lãi hoặc có thể miễn hoàn toàn các khoản lãi phạt, lãi vay hay các khoản phí mà khách hàng
chưa trả được của khoản nợ xấu đã mua trong trường hợp khoản nợ xấu và khách hàng vay
tuân thủ đúng theo như quy định được ghi tại điểm 1, Điều 29 TT 19. VAMC có thể cùng
thỏa thuận với NHTM bán nợ để cân nhắc miễn giảm phí hay các khoản lãi phạt, lãi vay

43
đã quá hạn thanh toán cho khách hàng trong trường hợp xảy ra sau khi hai bên thực hiện
ký hợp đồng mua bán nợ xấu được mua bởi 1 loại TPĐB.
Thứ ba, khách hàng cũng sẽ được VAMC cân nhắc để điều chỉnh thời hạn trả nợ thông
qua các hình thức như: gia hạn, cơ cấu lại kỳ hạn nợ của các khoản nợ xấu đã mua khi
khách hàng đáp ứng được 2 điều kiện sau:
• Phương án trả nợ khả thi, có hiệu quả;
• Chứng minh được là có năng lực tài chính để chi trả cho các khoản nợ ở các kỳ tiếp
theo sau khi đã thực hiện gia hạn hoặc điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ.
Thứ tư, VAMC có thể xem xét để cấp cho khách hàng một vài cách thức hỗ trợ tài
chính nhằm giúp khách hàng có thể tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo ra nguồn
tiền để trả nợ dưới hình thức như: bảo lãnh cho khách hàng để khách hàng có thể dễ dàng
thực hiện hoạt động vay vốn; đầu tư, cung cấp tài chính thông qua hoạt động cho vay, mua
TPDN; các hình thức hỗ trợ khác được sự đồng ý từ phíaThống đốc Ngân hàng Nhà nước
sau đó.
Thứ năm, VAMC có thể xem xét để góp vốn điều lệ, vốn cổ phần vào các khách hàng
doanh nghiệp có khả năng tái cơ cấu. Đây được nhận định là một giải pháp khá mở để tái
cấu sản xuất của Nhà nước thông qua VAMC và thực tế cho thấy, có khá nhiều NHTM,
TCTD cũng đã thực hiện chuyển nợ xấu thành vốn góp để cấu trúc lại sản xuất cho khách
hàng, tạo nguồn thu hợp lí và bước đầu đã thu được những thành quả tích cực.
Thứ sáu, nếu xảy ra tình trạng điều kiện bảo đảm của khoản nợ xấu bị điều chỉnh, khách
hàng sẽ được bảo vệ. Bởi trong việc mua bán nợ giữa các NHTM, TCTD với VAMC thì
bên bán nợ cần phải chuyển giao theo “Hợp đồng mua bán nợ” tất cả mọi quyền cũng như
lợi ích hợp pháp gắn liền với khoản nợ xấu, TSĐB và biện pháp bảo đảm khác cho khoản
nợ xấu một cách nguyên vẹn sang cho bên mua. Nếu trong quá trình đó có bất cứ thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung điều kiện bảo đảm cho khoản nợ xấu nào giữa VAMC và NHTM
hoặc TCTD thì phải được sự đồng ý thông qua của khách hàng vay và bên bảo đảm bằng
văn bản.

b, Nhược điểm:
Việc mua lại nợ xấu của VAMC sẽ giúp các ngân hàng tránh rơi vào tình thế bị động
trong quá trình giải quyết nợ xấu. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi nợ xấu nội bảng của ngân
hàng cũng phải ở mức thấp và có phần lợi nhuận đủ dồi dào để trích lập dự phòng rủi ro
của các khoản nợ nhận về. Về bản chất khoản nợ xấu được VAMC mua lại chỉ giúp cho
NHTM giải quyết trước mắt về mặt hạch toán sổ sách cũng như kéo dài thời gian trích lập
dự phòng, chứ thực tế khoán nợ xấu đó vẫn chưa được xử lý một cách triệt để. Hiểu theo
nghĩa khác thì hoạt động bán nợ xấu cho VAMC của các NHTM chỉ giúp làm đẹp sổ sách

44
của ngân hàng nhờ giảm được tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức quy định của Nhà nước thôi
chứ khoản nợ xấu vẫn còn đó và vẫn đang chờ để thu hồi.
Quá trình mua bán nợ xấu của VAMC và TCTD cũng không phải là hình thức mua đứt,
bán đoạn, mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn thuộc về ngân hàng, TCTD. Việc theo dõi, đôn
đốc thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm sẽ được ủy quyền cho ngân hàng. Khi một khoản
nợ được xử lý thì ngân hàng sẽ được hưởng 85% số tiền thu từ giải quyết nợ xấu, 15% còn
lại thuộc về VAMC. Mỗi năm, ngân hàng vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho trái
phiếu VAMC. Việc này đồng nghĩa lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị sụt giảm rất mạnh, thậm
chí ăn mòn cả vốn điều lệ. Chính vì vậy, nhiều ngân hàng sẽ không muốn bán nợ cho
VAMC, mà muốn ôm nợ, giấu nợ để giảm áp lực thua lỗ với cổ đông.
Bên cạnh nhiều nhà băng đã dùng lợi nhuận để mua lại hết các khoản nợ đã bán cho
VAMC như Vietcombank, MBBank, VIB, Techcombank, hoặc các ngân hàng có khoản
nợ bán cho VAMC thấp như HDBank, ACB... việc làm này giúp các nhà băng "kê cao
gối", khi nợ xấu ở mức an toàn; thì vẫn còn không ít các ngân hàng đứng ngồi không yên
khi các khoản nợ đã bán cho VAMC, sau thời gian "gửi" VAMC để đổi lấy trái phiếu đặc
biệt giai đoạn 2014 -2015 thì đến nay lại quay vòng trở về ngân hàng bởi thời hạn của số
trái phiếu này chỉ là 5 năm.
Đi theo đúng lộ trình thì các ngân hàng phải nhanh chóng thực hiện tất toán khoản nợ
xấu đã bán cho VAMC đến cuối năm 2019 và 2020. Mặc dù đó là điều cần thiết và chắc
chắn phải làm, nhưng không phải ngân hàng nào cũng có thể dễ dàng thuận lợi trong quá
trình tất toán cho VAMC, đặc biệt là đối với những NHTM vẫn còn khối lượng nợ xấu
tương đối lớn thì điều này càng trở nên khó khăn hơn gấp bội. Kể cả những ngân hàng lớn
trong ngành như NHTM Cổ phần Công thương Việt Nam hay BIDV cũng cần thời gian để
từ từ giải quyết các khoản nợ xấu đó.
Còn đối với các ngân hàng còn lại mà chưa thể hoàn thiện việc tất toán trái phiếu VAMC
thì buộc phải trích lập DPRR theo đúng quy định pháp luật với 20% cho trái phiếu của
VAMC. Hoạt động trích lập dự phòng cho trái phiếu đó chắn chắn sẽ kéo theo lợi nhuận
của các ngân hàng này bị giảm sút, và các cổ đông của những NHTM chưa tất toán hết trái
phiếu cho VAMC nhiều khả năng là sẽ không được chia cổ tức bằng tiền mặt cho tới khi
hoàn tất thanh toán các khoản TPĐB cho VAMC. Theo đó, với quy mô tài chính ở mức
khiêm tốn, việc VAMC mua nợ theo giá thị trường sẽ chỉ khả thi với những khoản nợ quy
mô nhỏ. Đồng thời, việc định giá khoản nợ thỏa mãn được mong muốn các bên sẽ gặp phải
nhiều khó khăn. Cùng với đó, mua bán nợ theo giá thị trường chỉ thành công nếu tồn tại
một thị trường mua bán nợ thực sự với sự tham gia tích cực của các tổ chức cá nhân. Ngoài
ra, quy định pháp lý về mua bán, sở hữu tài sản nợ xấu hiện nay nhìn chung vẫn chưa hoàn
thiện, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

5.4. Hoạt động giải quyết nợ xấu của VAMC


45
Sau khi quá trình mua nợ được hoàn thiện, VAMC sẽ tiến phân loại, đánh giá để từ đó
xây dựng danh mục các khoản nợ xấu tùy thuộc vào tính chất, tiềm năng có thể thu hồi
được nợ hay không và đưa ra các cách thu hồi khoản nợ sao cho hợp lý.

• Nếu khách hàng có tiềm năng trả được khoản nợ trong tương lai, VAMC sẽ đưa
ra các biện pháp để giúp đỡ khách hàng vượt qua khó khăn bằng cách cơ cấu lại
khoản nợ xấu như sau:

(1). Xem xét tình hình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp khách hàng để đưa ra giải
pháp cơ cấu lại thời hạn chi trả khoản nợ cho hợp lý;

(2). Xem xét tình hình thị trường hiện tại, đồng thời cân nhắc khả năng trả nợ của khách
hàng để tiến hành thay đổi, điều chỉnh lãi suất cho vay của khoản nợ một cách phù hợp;

(3). Nếu nhận thấy khách hàng chưa có khả năng thanh toán ngay, thực hiện biện pháp
giảm lãi, phí, lãi phạt, lãi vay hoặc miễn toán bộ các khoản lãi, phí;

(4). Trong trường hợp VAMC đánh giá thấy tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng
khả quan, có chiều hướng tích cực, có khả năng đem lại lợi nhuận để trả nợ trong tương lai
thì có thể cân nhắc giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn tài chính trong ngắn hạn để
phục hồi hoạt động kinh doanh của mình bằng cách đầu tư hoặc cho khách hàng tiếp cận
với các khoản vay ưu đãi hoặc thực hiện bảo lãnh vay vốn cho khách hàng.

• Nếu khách hàng không có khả năng chi trả cho khoản nợ, VAMC sẽ áp dụng
các biện pháp thu hồi nợ thông qua hoạt động phát mại TSBĐ, xử lý nợ xấu:

(1). Bán các khoản nợ xấu đã mua (trong trường hợp VAMC bán khoản nợ xấu mua của
NHTM, TCTD thông qua các trái phiếu đặc biệt, VAMC cần phải thỏa thuận trước với
NHTM, TCTD về các điều khoản của hoạt động bán khoản nợ xấu đó);

(2). Góp vốn điều lệ, vốn cổ phần của khách hàng vay là doanh nghiệp;

(3). Xử lý và bán TSBĐ của các khoản nợ xấu đã mua. Trong hợp đồng vay vốn giữa các
bên đã nêu rõ các thỏa thuận xử lý TSĐB; còn trong trường hợp hợp đồng không nêu rõ
các thỏa thuận giữa các bên thì VAMC có quyền bán đấu giá TSBĐ đó theo 2 phương thức:
trực tiếp đứng ra bán đấu giá hoặc tiến hành đấu giá thông qua các tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp (trên nguyên tắc công khai, minh bạch).

5.5. Thực trạng hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC trong những năm gần
đây (2017-2021)

46
Giai đoạn 2017-2021, VAMC hoạt động dựa trên nền tảng cơ sở là Nghị quyết 42 năm
2017. Ngay sau khi Nghị quyết này ra đời, cả Ngân hàng Nhà nước lẫn Bộ Tài chính đều
tích cực giúp đỡ hết mức đối với các hoạt động xử lý nợ cũng như thu hồi các khoản nợ
xấu mà VAMC đang tiến hành. Tính đến thời điểm hiện tại, có 21 NHTM và các TCTD đã
tất toán xong dư nợ cho VAMC.
Kể từ năm 2017, VAMC đã tích cực thực hiện các hoạt động xử lý và phân loại các
khoản nợ mua từ các NHTM và các TCTD thông qua việc phát hành một loại TPĐB. Bên
cạnh đó còn đẩy mạnh hoạt động mua, bán nợ theo giá trị thị trường. Ngoài ra cũng trong
giai đoạn này, VAMC cũng thực hiện các hoạt động đánh giá và phân loại nợ, từ đó tiến
đến sàng lọc nhóm khách hàng sao cho thể đưa ra được các biệt pháp giải quyết các khoản
nợ một cách cụ thể, kỹ lưỡng với mỗi nhóm khách hàng khác nhau. Qua đó, các NHTM bắ
tay cùng VAMC nhằm triển khai một số giải pháp xử lý nợ với những đối tượng khác hàng
cụ thể. Bên cạnh đó, NHTM còn phối hợp với VAMC trực tiếp làm việc với các khách
hàng có dư nợ lớn nhằm đẩy mạnh việc thu hồi nợ, đề nghị khách hàng trả nợ và có biện
pháp cụ thể để xử lý từng nhóm khách hàng khác nhau. Đối với trường hợp những khoản
nợ xấu mà khách hàng không thể đưa ra phương án trả nợ sẽ được NHTM thu hồi nợ thông
qua việc giải quyết tài sản bảo đảm. Căn cứ trên đề nghị của các TCTD, VAMC sẽ tiến
hành nắm quyền sở hữu TSBĐ (nói cách khác là thu giữ TSBĐ) để tiến hành phát mại số
tài sản đó nhằm thu hồi nợ; thực hiện công tác khởi kiện các đối tượng cố ý không trả nợ;
mở các phiên bán đấu giá; kiến nghị, đề xuất nhằm giải quyết các khúc mắc còn tồn đọng
trong quy trình thu hồi nợ xấu bằng cách xử lý tài sản bảo đảm trên lên các cơ quan chức
năng có thẩm quyền. Nhờ vậy, kết quả là VAMC đã thu hồi được gần 31 nghìn tỷ đồng nơ
xấu tính đến cuối 2017, vượt quá chỉ tiêu được NHNN đề ra trong kế hoạch đầu năm. Nhờ
việc nắm vững mục tiêu và thực hiện tốt công tác tổ chức, quản lý mà số nợ xấu được
VAMC thu hồi chỉ trong vòng 2 năm (2016-2017) đã chiếm tới 72% tổng nợ xấu được xử
lý và thu hồi trong suốt năm năm kể từ 2013.

47
Kết quả thu hồi nợ xấu qua các năm (Đơn vị: tỷ đồng)
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động của VAMC các năm từ 2013 đến 2017)

Ngày 05/01/2018, NHNN ban hành Quyết định số 28/QĐ-NHNN về việc Phê duyệt Đề
án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020 và hướng tới 2022, trong đó đã có việc thành lập Ban đấu
giá tài sản của VAMC. Do đó VAMC đã chính thức thực hiện đấu giá tài sản. Nếu như
trước đây, VAMC phải thuê các Tổ chức đấu giá chuyên nghiệp để thực hiện việc bán đấu
giá các khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu do VAMC mua của các TCTD,
thì từ năm 2018 đến nay VAMC đã tự tổ chức bán đấu giá các tài sản của mình. Hoạt động
này đã tạo sự chủ động, hiệu quả trong việc rút ngắn thời gian xử lý nợ xấu, tiết kiệm chi
phí, đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan.

Ông Đoàn Văn Thắng – Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC cho biết, kể từ năm 2018 cho tới nay, VAMC đã thực
hiện đấu giá thành công và bán được gần 3000 tỷ đồng các khoản nợ và tài sản bảo đảm
thông qua hình thức này.

Tuy nhiên cho đến năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 nên việc thực hiện
công tác đấu giá cũng bị ảnh hưởng do không thể thực hiện việc niêm yết, tổ chức đấu giá
trong thời gian giãn cách xã hội, cách ly hạn chế đi lại. Bên cạnh đó cũng phải kể đến
những khó khăn khi VAMC thực hiện bán đấu giá tài sản như: Một số tài sản là máy móc

48
thiết bị đã ngừng hoạt động, nhà máy ở khu vực tỉnh xa xôi nên khách hàng mua bị hạn
chế, một số tài sản là dự án dở dang, vướng mắc trong quá trình chuyển nhượng, có những
tài sản khi đưa ra bán đấu giá, các TCTD xác định giá khởi điểm để bán đấu giá rất cao,
qua nhiều phiên giảm giá nhưng vẫn không có khách hàng mua, gây khó khăn và lãng phí
thời gian và nhân lực trong việc xử lý nợ. Mặc dù vậy,VAMC đã tổ chức được 34 lần đấu
giá để bán 10 tài sản; trong đó 8 khoản nợ xấu và 2 tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu với
tổng giá khởi điểm lần gần nhất là 1.696 tỷ đồng. Tỷ lệ đấu giá thành công đạt 60% với 6
tài sản được đấu giá thành công trên tổng số 10. Tổng giá trúng đấu giá vượt so với giá
khởi điểm là 350 triệu đồng. Trong các tài sản được đưa ra đấu giá có tài sản có giá trị lớn
(trên 700 tỷ đồng) và cũng có tài sản bán thành công ngay từ lần đấu giá đầu tiên.

Còn đối với kết quả hoạt động của VAMC từ đầu năm 2021 tính đến cuối tháng 6 năm
2021, VAMC đã mua thành công 30 khoản nợ bằng TPĐB của 19 khách hàng với tổng dư
nợ gốc đạt gần 18.000 tỷ đồng (đạt khoảng 88,53% theo kế hoạch đề ra trong năm 2021).
Còn với hoạt động mua nợ theo giá thị trường, VAMC đã mua 9 khoản nợ của 4 khách
hàng với tổng số dư nợ gốc đạt 1.579 tỷ và giá mua nợ đạt tới 1.922 tỷ đồng, tương ứng
với 38,44% so với kế hoạch đề ra trong năm 2021. Không chỉ vậy, VAMC còn phối hợp
với các NHTM, TCTD để thực hiện hỗ trợ khách hàng có tiềm năng, có triển vọng có thể
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, nhanh chóng vượt qua khó khăn và trả nợ ngân
hàng. Theo đó, từ đầu năm nay cho tới thời điểm 30/6/2021, VAMC đã cơ cấu nợ cho
khách hàng theo giá thị trường với số tiền miễn giảm phí, lãi lên tới 86 tỷ đồng; thực hiện
điều chỉnh lãi suất cho các khoản dư nợ gốc và cơ cấu lại thời hạn trả nợ cùng đạt tới hơn
150 tỷ đồng; việc thu hồi từ hoạt động xử lý TSBĐ cũng đạt tới 951 tỷ và giá bán khoản
nợ lên tới gần 7.500 tỷ đồng. Với kết quả từ hoạt động thu hồi nợ, VAMC kết hợp cùng
các NHTM, TCTD xử lý và đã thu hồi nợ được 9881 tỷ đồng; với các khoản nợ mua theo
giá thị trường cũng được VAMC xử lý thu hồi 910 tỷ đồng.

Tuy nhiên, do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 dần có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn
tới nền kinh tế, hoạt động nghiệp vụ của VAMC cũng bị gián đoạn, ảnh hưởng lớn tới việc
thực hiện theo các mục tiêu đã đề ra trong khi những khó khăn cũ vẫn còn tồn đọng, chưa
được xử lý triệt để.

49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Ngân hàng Thương mại, NXB Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
2. Luận án tiến sĩ Quản lý nợ xấu tại NHTM VN Nguyễn Thị Hoài Phương
3. Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam
4. Báo cáo tài chính của Techcombank
5. ThS. Nguyễn Hồng Thu – Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới: “Thực trạng xử lý
nợ xấu và một số khuyến nghị cho Việt Nam”
6. Phan Nhật Thành - Luận văn “Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam - Chi nhánh Hải Dương”

7. https://sonoivu.hanoi.gov.vn/thong-bao/-/view_content/3894809-ngan-hang-nha-
nuoc-viet-nam-hop-bao-thong-tin-ve-ket-qua-hoat-dong-ngan-hang-9-thang-dau-
nam-2020-160566.html
8.https://nganhang.thanhhoa.gov.vn/portal/Pages/2021-8-12/Toan-canh-no-xau-
ngan-hangho6roa.aspx
9. https://laodong.vn/kinh-te/ngan-hang-tang-ty-le-bao-phu-no-xau-912075.ldo

10.https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tien-te-Ngan-hang/Thong-tu-39-2016-TT-
NHNN-hoat-dong-cho-vay-cua-to-chuc-tin-dung-chi-nhanh-ngan-hang-nuoc-
ngoai-338877.aspx
11.https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Nghi-dinh-94-2018-
ND-CP-nghiep-vu-quan-ly-no-cong-369627.aspx
12.https://thuvienphapluat.vn/tintuc/tag?keyword=Th%C3%B4ng%20t%C6%B0%
2001/2020/TT-NHNN
13.http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id
=1&_page=1&mode=detail&document_id=203811

50

You might also like