You are on page 1of 19

ĐÔ 

THÀNH CỦA CHÚA
St. Augustine
(XEM XÉT, ĐÁNH GIÁ BÀI LÀM CỦA SINH VIÊN)
MỞ ĐẦU
Triết học trung cổ  Tây Âu hay còn gọi là triết học  kinh viện (?), 
triết học Kytô giáo ra đời sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã sụp đổ. 
Thời kỳ này, trên lãnh thổ  Tây Âu đã xuất hiện nhà nước phong kiến, cơ 
sở  của các quan hệ  phong kiến là quyền sở  hữu ruộng đất của các chúa 
phong kiến. Tây Âu bị xé nhỏ thành nhiều quốc gia phong kiến, hoàn toàn 
không lệ thuộc vào chính quyền nhà vua và hoàng đế tập quyền. Nhà thờ 
Ky Tô giáo có vị trí đặc biệt trong xã hội phong kiến. Giới tăng lữ là đẳng 
cấp đầu tiên của chế độ phong kiến, có một sức mạnh kinh tế và chính trị 
hết sức to lớn, nhà thờ  đóng vai trò thống soái trong hệ  tư  tưởng xã hội  
phong kiến. Khi nhận định tư  tưởng trung cổ, Ph.Ăngghen viết: “Trong 
tay bọn giáo sĩ, chính trị  và luật học, cũng như  tất cả  những khoa học  
khác, vẫn chỉ là những ngành của thần học, và những nguyên lý thống trị 
của thần học cũng được áp dụng cho chính trị và luật học. Những giáo lý 
của giáo hội đồng thời cũng là những định lý chính trị, và những đoạn kinh 
thánh  cũng  có  hiệu  lực  trước   mọi  tòa  án  như  là  luật  pháp”.  Giáo hội 
truyền bá các học thuyết thần quyền thể  hiện ý nguyện của họ  muốn  
thống trị thế giới. Các học thuyết đó là của các giáo phụ, tức là những nhà 
thần học trứ danh của Ky Tô giáo, tư tưởng của họ nhằm biện hộ cho sự 
chân thực của Thiên Chúa giáo. Giáo phụ  tiêu biểu nhất là Augustinue, 
người đã có ảnh hưởng lớn lao và bền bỉ trong thế  giới Ky Tô giáo ( viết 
sai cách phiên âm, viết thành Kitô giáo) và La Mã. Trong số các giáo phụ, 

1
Augustine là người vượt trội hơn hẳn, đọc các trước tác của ông là nhìn 
được toàn diện triết lý Ky Tô giáo. Từ  những tác phẩm phong phú của 
ông, một học thuyết có tính cách triết lý Ky Tô giáo đã bắt đầu được khai 
triển: vấn đề  chân lý, tri thức, vấn đề  cái thiện, luận lý, vấn đề  thần  
thánh, vũ trụ, lịch sử, thần học và con người. Một trong những tác phẩm  
nổi tiếng của Augustine là “De civitate Dei” (Đô thành Thiên Chúa) (413 –  
426) gồm 22 quyển, biện hộ  cho sự trường cửu của Ky Tô giáo mặc dù 
La Mã đã sa vào bàn tay tàn bạo của Alaric, đồng thời trình bày chung về 
tín ngưỡng Ky Tô giáo và thần học lịch sử, cũng gọi là Thế giới sử quan.  
Tác phẩm này thể hiện phần lớn tư tưởng triết học của Augustine.

CHƯƠNG 1
GIÁO PHỤ AUGUSTINE

1. Vài nét về Tây Âu thời trung cổ
Đặc trưng đời sống xã hội Tây Âu thời kỳ này là sự  tan rã của chế 
độ  chiếm hữu nô lệ  và ra đời chế  độ  phong kiến. Những cuộc nổi dậy  
của quần chúng nô lệ đã xóa bỏ hình thức bóc lột theo kiểu cũ – kiểu nô 
lệ, nhưng lại thay vào hình thức bóc lột kiểu mới – kiểu nông nô. Những  
biến đổi diễn ra trong sự phân hóa giai cấp cũng trở nên sâu sắc. Trong đế 
quốc La Mã bị suy tàn do cuộc đấu tranh giai cấp bên trong và sự tấn công 
của bọn dã man (chủ yếu bọn Giécmanh) từ bên ngoài và trong cả những 
quốc gia mới xuất hiện trên sự đổ vỡ của đế chế La Mã đã diễn ra những 

2
mối quan hệ mới: người nông dân bị trói buộc vào ruộng đất địa chủ, lao  
động nô lệ thay bằng lao động của nông nô và thợ thủ công.
Trong xã hội, do nền kinh tế  tự nhiên, tự  túc tự  cấp thống trị, sản  
phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của công xã và thái ấp của bọn 
địa chủ. Thái  ấp là một thế  giới đóng kín. Người nông dân không chỉ  lệ 
thuộc về mặt ruộng đất vào địa chủ mà còn cả về mặt cá nhân, thân thể, 
không có quyền về chính trị.
Thời kỳ  trung cổ  Tây Âu là thời kỳ  thống trị  của tôn giáo và nhà 
thờ. Nhà thờ và tu viện đồng thời là đại địa chủ, chiếm hữu nhiều ruộng 
đất. Nhà thờ  còn nắm trong tay quyền lực chính trị, luật pháp…Thời kỳ 
này, giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng “tối tăm về  trí tuệ” và bị 
tước mọi quyền hành; sự  hình thành các tiểu vương quốc độc lập từ  sự 
tan rã của đế  chế  La Mã đòi hỏi sự  thống nhất trong hoạt động, và nhà 
thờ ­ tên đại phong kiến đã đóng vai trò cơ sở của sự thống nhất đó.
Nhà thờ  đạo Thiên chúa, là một tổ  chức tập quyền hùng mạnh, 
thống trị châu Âu về tinh thần và chính trị. Do đó, khoa học và triết học đã 
không tìm được cho mình một con đường độc lập. Việc nghiên cứu khoa  
học và thần học chủ  yếu tập trung trong các tu viện và trường học của 
nhà thờ. Còn các nhà bác học và thần học thì ít khi vượt khỏi sự bình luận 
và giải thích kinh thánh. Tín điều nhà thờ  là điểm xuất phát của mọi tư 
duy, và thế giới quan thời trung cổ chủ yếu là thế giới quan thần học bao 
trùm lên triết học, luật học và chính trị.
Xét về  mặt phát triển thì triết học, văn hóa của những thế  kỷ  đầu  
thời kỳ trung cổ là một bước lùi so với thời kỳ cổ đại. Nhưng sự thay thế 
chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ mới – chế độ phong kiến lại là một  

3
hiện tượng tiến bộ lịch sử. Đó là thời kỳ  tạo cơ  sở  cho lịch sử tương lai  
của châu Âu. Trong đó đã hình thành những lực lượng để  sau này trở 
thành nguồn gốc cho sự phục hưng mới về khoa học và văn hóa.
Về  mặt triết học, các lý thuyết triết học thời kỳ trung cổ chịu  ảnh 
hưởng của nền triết học Ky Tô giáo. Vì vậy, nghiên cứu triết học thời  
trung cổ  không thể  tách rời sự  nghiên cứu triết học Ky Tô giáo. Thời kỳ 
này   có   các   đại   biểu   Augustine,   Boèce,   Denys   L’Aréopagite,   Thomas 
D’Aquin…
Cuộc đời và triết học của Augustine
Aureslius Augustinus (354 – 430) còn gọi là Thánh Augustine. Ông 
sinh  ở  thành phố  Thagaste  ở Numidia, Bắc Phi (nay thuộc Anlgeria). Ông  
là một giáo chủ, nhà văn, nhà triết học nổi tiếng, có nhiều tác phẩm nhất 
trong thời kỳ này. Ông được giới thần học đương thời coi là trụ cột, là sự 
khẳng   định   chân   lý   của   Ky   Tô   giáo.   Vì   là   nhà   thần   học   Ky   Tô   giáo,  
Augustine ra sức bảo vệ tôn giáo, chống lại khoa học và triết học duy vật.  
Triết học của ông là cơ sở  lý luận cho cả Ky Tô giáo sau này. Những tác 
phẩm quan trọng nhất của ông là: Chống lại các nhà hàn lâm viện, Về sự 
bất tử của linh hồn, Về khoa học Ky Tô giáo, Sự thú tội, Đô thành Thiên 
Chúa, Về những tà đạo.
Thân mẫu của ông, Monica, một Ky Tô hữu mộ  đạo, người mà đã 
gắng công không mệt mỏi cho sự hoán cải của con trai mình, và là ng ười 
mà đã được Giáo Hội Công giáo phong thánh – Thánh nữ Monica. Khi còn 
là một cậu bé, ông được theo học văn hóa Latin và sau đó đến Carthage để 
nghiên cứu mỹ  từ  học, nơi mà ông đã trở  thành thầy giáo.  Ở  tuổi hai 
mươi, ông đã quay lưng lại với việc dưỡng dục Ky Tô giáo của mình. 

4
Ông đã khước từ  bởi những giới luật về  thái độ   ứng xử  của nó. Nhưng 
không bao giờ ông đoạn tuyệt nó.
Tại Carthage, Augustine đã trở  nên đam mê triết học sau khi đọc 
Hortensius của Cicero. Ông đã cân nhắc việc trở  thành một Ky Tô hữu,  
nhưng đã thử nghiệm một số hệ thống triết học cuối cùng trước khi bước  
vào giáo hội. Được chín năm, từ  năm 373 đến năm 382, ông đã tôn sùng 
triệt để hệ  thống học thuyết tôn giáo Manichaean, một thứ triết lý lưỡng  
diện Ba Tư  sau đó có xu hướng lộng hành trong Đế  quốc La Mã Tây  
phương. Với nguyên lý căn bản về  sự  xung đột giữa thiện và ác của nó 
cùng sự khẳng định về sự giải thích Kinh Thánh hữu lý, học thuyết hệ tôn 
giáo Manichaean thoạt đầu dường như phù hợp với Augustine với sự từng  
trải của ông và trang bị  giả  thuyết có vẻ  như  tin cậy nhất để  xây dựng 
một hệ  thống triết học và đạo đức. Sau đó Augustine đã ghi lại trong 
“Confessions”  của mình:  “Cho  tôi sự  tinh khiết và tiết chế  dục vọng, 
nhưng bây giờ thì không”. Đã tỉnh ngộ vì không có khả năng xảy ra về sự 
hài hòa những giáo điều Manichaeist, Augustine đã từ  bỏ  triết lý này và  
quay sang chủ nghĩa hoài nghi.
Khoảng năm 383 Augustine dời Carthage tới Rome, nhưng một năm 
sau ông đi Milan với tư  cách là một giáo viên mỹ  từ  học.  Ở  đó, ông đã 
chịu  ảnh hưởng của trường phái triết học Tân Plato và đồng thời gặp 
được giám mục của Milan – Thánh Ambrose, lúc đó danh tiếng nhất ở Ý. 
Augustine lập tức bị  lôi cuốn trở  lại Ky Tô giáo và dâng hiến quãng đời 
còn lại  của mình hoạt  động cho Ky Tô giáo. Ông đã  được  giám mục 
Ambrose làm phép rửa tội vào Đêm trước Lễ Phục Sinh năm 387. Ông đã 
được thụ  phong linh mục năm 391, và trở  thành giám mục của Hippo  

5
Regius năm 395. Ở đó, Augustine đã để lại 35 năm là vị lãnh đạo uyên bác  
của Thiên Chúa giáo Phi Châu cho đến lúc ông qua đời vào ngày 28 tháng 
Tám, năm 430.
Triết lý của Augustine được đúc kết từ những kinh nghiệm cá nhân 
của chính bản thân ông. Với ông, Ky Tô giáo là một triết lý đích thực,  
Chân Lý là thứ nhất, và Thiên Chúa là Chân Lý. Sự sở hữu của Chân Lý là  
hạnh phúc, và điều đại phúc là được hưởng Chân Lý, nên nghi vấn Chân 
Lý là nghi vấn về  sự  khôn ngoan. Đối với Augustine, để  trở  nên khôn 
ngoan người ta phải khát khao sự  khôn ngoan mà người ta trống vắng.  
Nhưng sự khao khát hàm ý tri thức của điều khát khao. Vậy khát vọng của  
sự  khôn ngoan ngụ ý thiếu thốn sự khôn ngoan và sở  hữu sự  khôn ngoan 
trong cùng lúc. Augustine đã trả lời bằng hai cách; Câu trả lời thứ nhất là,  
“Nếu tôi không thỏa mãn, tức tôi còn khao khát”,   cách trả  lời thứ  hai:  
“Trừ phi bạn tin, bạn sẽ không hiểu”. 
Một số  yếu tố  căn bản của học thuyết Plato có thể  được tìm thấy  
trong De Trinitate (Chúa Ba Ngôi) của ông. Thế giới quan của ông là Plato,  
có thế  giới bên trong và thế  giới bên ngoài, bậc thấp và bậc cao, trong 
sáng và dễ  hiểu, và thuộc thể  xác và tinh thần. Để  trở  thành khôn ngoan 
đòi hỏi một sự  chuyển động của tâm hồn hướng nội và hướng thượng 
trước Thiên Chúa, và sự cởi mở tâm hồn đối với chân lý mà ở đó cung cấp 
ảo tưởng tinh thần được thanh tẩy bởi niềm tin. 
Sự thành công của Augustine trong sự hiệp nhất Ky Tô giáo đã cho  
phép nó trở  thành tín ngưỡng của châu Âu thời trung cổ, và sáng tạo một 
triết lý mà vẫn không thay đổi căn bản Ky Tô giáo Tây Phương, cả  hai 
Thiên Chúa giáo La Mã và Tin Lành.

6
Trong tác phẩm “Sự  thú tội”, Augustine chứng minh toàn bộ  thế 
giới giàu có, phong phú xung quanh con người là do Thượng đế  sáng tạo  
ra và được  nhận thức bởi  Thượng  đế. Ý chí của con người là tự  do, 
nhưng chỉ trong giới hạn tiền định của Thượng đế. Mỗi con người đều có 
thể tự hành động tùy thuộc vào mình, nhưng cái gì con người làm thì Chúa 
cũng làm. Còn về  những hành vi tội lỗi, điều ác mà con người gây ra 
nguồn gốc không phải  ở Thượng đế  ­ sự  tồn tại cao, cũng không phải  ở 
chủ  tâm con người – tồn tại thấp, mà là sự  xa rời của tồn tại thấp khỏi  
tồn tại cao. Kẻ gây ra sự xa rời ấy là quỷ sứ ­ một trong những thiên thần 
bị sa ngã.
Lý luận nhận thức trong triết học của Augustine mang tính chất tôn 
giáo rõ rệt, lý luận gắn liền với thần học. Quá trình nhận  thức của con  
người là quá trình nhận thức Thượng đế. Và nhận thức Thượng đế  chỉ 
đạt được bằng lòng tin tôn giáo. Ông nói, cần phải tin để mà hiểu, và cần 
phải hiểu để  mà tin. Trong nhận thức Thượng đế  có ba mức độ: một là  
thông qua cảm giác bên ngoài – những cảm giác này không lừa dối, hai là 
nhận thức thông qua cảm giác bên trong bàn bạc lại những cảm giác bên 
ngoài; ba là nhận thức lý trí, đánh giá những phán đoán của cảm giác bên  
trong.
Augustine cũng đứng trên lập trường thần học để  giải quyết vấn 
đề  chân lý. Ông nói, mức độ  của chân lý là sự  tự  ý thức của con người.  
Dù cho nghi ngờ thế nào thì chúng ta cũng phải tin rằng chúng ta đang tồn 
tại, đang vận động, đang suy nghĩ, đang mong muốn, đang hình dung, đang  
nghi ngờ. Như  vậy, kể cả những người nghi ngờ cũng có chân lý mà họ 
không thể nghi ngờ. Theo Augustine, để  đi tìm chân lý, con người cần đi 

7
ra khỏi tâm hồn mình, trong tâm hồn con người đã chỉ ra chân lý tối cao, từ 
chân lý tối cao mà nảy sinh mọi chân lý. Thượng đế  là chân lý tối cao. 
Những quan niệm về xã hội học được Augustine trình bày chủ  yếu trong 
tác phẩm “Đô thành Thiên Chúa”. Ông chia xã hội loài người thành hai 
thành đô, hai  vương  quốc: vương  quốc  điều  ác là nhà nước  trần thế, 
vương quốc của Thượng đế trên trái đất là nhà thờ. Augustine đã tích cực 
bảo vệ sự  bất bình đẳng xã hội. Cuộc sống trần thế  chỉ là tạm thời, con 
người chỉ là khách bộ hành chốc lát trên trái đất, hạnh phúc ở thế giới bên 
kia mới là vĩnh viễn.

CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM “DE CIVITATE DEI” – ĐÔ THÀNH 
THIÊN CHÚA (hay Đô thành của Chúa)

2.1. Sơ lược những tư tưởng chính trị chủ yếu trong tác phẩm
Sự  sụp đổ  của Đế  quốc La Mã là cơ  hội khai sinh ra ý tưởng về 
lịch sử  thế  giới trong đầu óc Augustine. Biến cố  khủng khiếp đã xảy ra 
vào ngày 23 tháng 8 năm 410, khi đạo quân du mục của Alaric xâm nhập 
và tàn phá kinh thành.
Tai họa bất ngờ đã gây hoang mang trong giới tín đồ Ky Tô giáo. Họ 
đâm ra thất vọng, mất tin tưởng và bắt đầu ca thán, phiền trách, đôi khi  
nghi ngờ chính thiên hựu của Thiên Chúa. Thêm vào đó, người ngoại đạo 

8
cũng nhân cơ hội này đổ lỗi cho người Ky Tô giáo. Theo họ, nguyên nhân  
của tai họa khủng khiếp này chính là vì người Ky Tô giáo đã không thờ 
kính các vị  thần xưa. Họ  cho rằng từ xưa nay khi nào thần Jupiter được  
thờ  kính thì kinh thành La Mã luôn oai hùng, nhưng ngày nay một khi các  
vua chúa không thờ kính Ông nữa, thì Ông hết bang hộ cho người La Mã.
De Civitate Dei (Đô thành Thiên Chúa) là tác phẩm trứ  danh của  
Augustine, được viết ra với mục đích trấn an tín hữu Ky Tô giáo và trả lời  
cho sự  vu khống của những người ngoại đạo. Nhưng tác phẩm này đã 
nhiều lần bị gián đoạn và chỉ hoàn tất sau 15 năm trời (412 – 427). Do đó 
những mục đích chính yếu trên đã được khai triển thêm thành một sơ  đồ 
lịch sử Ky Tô giáo hoàn thiện có dĩ vãng, hiện tại và tương lai. 
Lịch sử  thế  giới  ở đây hoàn toàn bị  đồng hóa với lịch sử  theo quan  
điểm Ky Tô giáo. Trước hết là sự sáng tạo ra thế giới như những chương  
đầu của Kinh thánh còn ghi chép, tiếp đó là sự  sáng tạo ra loài người mà 
đại diện là hai ông bà tổ tông Adam và Eve. Thoạt tiên họ rất được Thiên 
Chúa ưu đãi cho sinh sống an nhàn và vô tội, trong một cảnh thần tiên Địa 
đàng. Nhưng vì không tuân lệnh cấm ăn “trái cấm”, họ  đã phản bội lại 
Thiên Chúa bằng tội lỗi. Sự sa đọa của Tổ phụ Adam, Eve gây tai hại cho 
tất cả  loài người. Đó là sức mạnh di truyền của tội tổ  tông, dẫn loài 
người vào tình trạng nhu nhược và hoàn toàn bất lực, không thể  tự  mình 
giải thoát được. Sau phép lạ sáng tạo, cần thiết phải có phép lạ mới, phép  
lạ  Thiên Chúa siêu việt phải nhập thể  thành phàm nhân để  cứu thế  cho  
loài người.
Bấy giờ  là giai đoạn sau công trình cứu thế, loài người đang sống 
trong sự chờ đợi ngày thế mạt, kết thúc số mệnh của mọi sinh linh và của 

9
toàn thế giới. Sau đó chỉ còn Thiên đàng muôn đời cho người được Thiên 
Chúa tiền định làm thần thánh, và Hỏa ngục muôn đời cho những người bị 
Thiên Chúa tiền định làm ác quỷ.
Ở  đây Augustine xác lập những luận điểm nền tảng về  “cái cần 
có” theo tinh thần Kytô giáo, thay thế cho cái đang tồn tại. Thành  phố của  
Chúa không phải là một nơi nào đó trên thiên đàng hay một thành phố  cụ 
thể ở cõi trần, bởi lẽ mỗi con người khi vừa được sinh ra không biết mình 
gia nhập vào thế giới nào. Chính hoạt động sống của họ  quy định cái mà 
họ  sẽ  gia nhập. Vậy Thành phố  của Chúa thể  hiện khát vọng về  một 
không gian xã hội lý tưởng mà con người cần kiến tạo ngay trên thế gian 
này. 22 cuốn sách vừa là lời cảnh báo, vừa mang đến thông điệp về  một 
thế  giới tốt lành mà con người đạt được bằng nỗ  lực vượt qua cái ác, 
hướng đến cái thiện.
Trong  Quyển 1  Augustine chỉ  trích những kẻ  dị  giáo và những kẻ 
man rợ  mang tai  ương đến cho con người, cưỡng bức phụ  nữ, cướp bóc 
thành Roma, đồng thời khẳng định vai trò của Kytô giáo trong việc ngăn  
chặn thờ tượng các thần và ngẫu thần, thông qua các lời chúc lành và chúc 
dữ. Quyển 2 tiếp tục mổ  xẻ  sự  bất lực và vô trách nhiệm của các thần  
(trước Chúa Jesus). Sự  đánh mất nhân cách và sự  sa đoạ  là cái mà con 
người đón nhận từ các vị  thần ấy.  Trong Quyển 3, những tai hoạ từ thế 
giới đa thần giáo được tiếp tục làm rõ.   Quyển 4  mở  đầu cho sự  biện 
minh rằng chỉ  có Kytô giáo, thờ  một Thiên Chúa duy nhất, mới làm cho 
vương quốc trần thế được xác lập. Các Quyển 5, 6, 7, 8 tiếp tục chỉ ra sự 
đối lập Kytô giáo và tinh thần dị  giáo, văn hoá mới và văn hóa Hy Lạp,  
phân tích quan hệ giữa thuyết định mệnh (tiền định của Chúa) và ý chí tự 

10
do của con người. Đồng ý với cách phân chia của Varro về  ba hình thức  
thần học – thần học tự  nhiên, thần học thần bí và thần học bình dân,  
Augustine cho rằng cả thần học thần bí và thần học bình dân đều không 
có vai trò tích cực trong cuộc sống mai sau. Đặc biệt, trong quyển 8, khi  
bàn đến thần học tự nhiên, Augustine bày tỏ thiện cảm của mình đối với 
Platon, người anh cả đáng mến của các học thuyết triết học , vì đã đề cập 
đến cuộc sống sau khi chấm dứt hiện hữu trần thế,  phù hợp với giáo lý 
Kytô.  Quyển 9 và quyển 10  được xem như  tuyên ngôn về  tính duy nhất 
của Chúa, trong đó Chúa Jesus là sự  giáng thế. Chỉ  có Chúa Jesus, theo 
Augustine, mới có quyền ban cho con người hồng phúc vĩnh cửu. Tóm lại, 
10 quyển đầu trả  lời những chống đối của người ngoại giáo đối với Ky 
Tô giáo.
 Sự phân biệt hai vương quốc tập trung từ  Quyển 11 trở đi. Quyển 
11,12,13,14 bàn về  sự  khai sinh ra hai vương quốc: Một là vương quốc 
của   Đức   chúa   Trời,   hai   là   vương   quốc   của   trần   thế   này.  Quyển  
15,16,17,18 trình bày về tiến trình phát triển của hai vương quốc  ấy. Bốn  
quyển sau cùng nói về sự kết thúc của hai vương quốc ấy. Augustine đem  
đối lập thế  giới của Chúa và thế  giới cõi trần với những nét đặc trưng  
cho hai thế  giới. Thế  giới của Chúa là thế  giới sống theo ý chí Thiên 
Chúa, bao gồm những người mộ đạo, nhân từ, đề cao tình yêu lý trí và sức 
mạnh tinh thần, phụng sự  Chúa quên thân mình, sống hôm nay kỳ  vọng 
vào ngày mai, có sự  đồng cảm giữa người cầm quyền và quần chúng. 
Thế  giới cõi trần là thế  giới sống theo chuẩn mực con người, gồm toàn 
những kẻ ích kỷ, đề  cao tiện nghi và lạc thú vật chất, yêu bản thân quên  
cả  Chúa, sống hôm nay chỉ  biết hôm nay, luôn tranh giành quyền lực với  

11
nhau. Trong Quyển 15  St. Augustine nhắc lại một lần nữa nguyên tội tổ 
tông, xem đó là nguyên nhân của đời sống phóng túng, bê tha sau này. 
Khoái cảm nhục dục và mặc cảm tội lỗi diễn ra triền miên như  cái kiếp 
con người phải hứng chịu từ trừng phạt của Thiên Chúa. Nếu không phải  
như vậy, có lẽ con người truyền nối nòi giống không nhất thiết thông qua 
con đường hoạt động tính giao! Trong Quyển 21 sự  trừng phạt của Chúa 
đối với những kẻ  bị  nguyền rủa trong vương quốc của tội ác, sự  sa ngã 
được Augustine trình bày một cách chi tiết, kèm theo những đánh giá và 
những lời răn của ông. Trong Quyển 22  Augustine nói về  điểm kết thúc 
của cuộc hành trình vươn đến sự thiện và hạnh phúc vĩnh hằng, về sự bất 
tử  của những người được lựa chọn, gia nhập Vương quốc, hay Nước  
Chúa thiêng liêng.
22 quyển sách đó trình bày về  hai vương quốc, nhưng nhan đề  cho  
cả  tác phẩm đã được mượn  ở  vương quốc nào hoàn hảo nhất trong hai 
vương quốc, cho nên sáng tác mới được đề là Vương quốc của Đức chúa  
trời.
Xét từ  góc độ  chính trị  – xã hội “Thành phố  của Chúa” có ý nghĩa  
phản kháng nhất định. St. Augustine sống trong thời đại suy tàn của chế 
độ nô lệ, nhìn thấy tận mắy nỗi đau, sự bất ổn, sự khủng hoảng lòng tin 
của con người do chiến tranh gây ra. Biểu tượng của thế  giới cõi trần  
trong con mắt St. Augustine là Babylon quá khứ  và đế  quốc La Mã hiện 
tại. Biểu tượng thế  giới của Chúa là Jerusalem và những nơi linh thiêng 
khác. Theo St. Augustine thế  giới cõi trần cần được thay thế  bằng một  
trật tự  xã hội mới, hợp ý Chúa – “Vương quốc nước Chúa” – nhà nước  
của sự hợp quần toàn nhân loại. Vào thời Trung cổ xung đột giữa hai thực  

12
thể nêu trên mang ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa nhà thờ Ky Tô – Thiên 
Chúa giáo La Mã với chính quyền thế  tục, giữa Giáo hoàng với nhà vua  
trong từng quốc gia riêng biệt. Người chiến thắng trong những cuộc xung  
đột này thường là Giáo hoàng, mà sự  thể chế hóa nhà thờ phổ  biến khắp  
Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Ba Lan…
2.2. Sự tương tác giữa hai đô thành
Augustine coi tình yêu Thiên chúa là nguyên lý trọng tâm của đạo 
đức. Ông cũng cắt nghĩa nguồn gốc của cái ác là do tình yêu mất trật tự.  
Từ  đó ông kết luận rằng loài người có thể  được chia thành một bên là  
những người yêu mến Thiên Chúa và một bên là những người yêu mến 
bản thân và trần thế. Hai nhóm này tạo thành những xã hội theo kiểu riêng  
của mỗi nhóm, vì họ  là “tập thể các hiện hữu có lý trí được kết hợp với 
nhau bằng sự nhất trí những điều họ yêu thích”. Vì có hai loại tình yêu cơ 
bản khác nhau, nên cũng có hai xã hội đối nghịch nhau. Những người yêu  
Thiên Chúa Augustine gọi là Đô thành thiên chúa và những người yêu bản  
thân và trần thế ông gọi là Đô thành trần thế.
Augustine không coi hai đô thành này đồng nhất với nhà thờ và nhà 
nước. Sau khi nhấn mạnh rằng yếu tố quyết định trong sự hình thành một 
xã hội là những thứ tình yêu chủ yếu của các phần tử của xã hội ấy, ông  
vạch ra rằng những người yêu trần thế có cả trong nhà nước và nhà thờ.  
Vì vậy không thể kết luận rằng nhà thờ chỉ gồm toàn thể xã hội được gọi  
là đô thành của chúa. Tương tự trong nhà nước cũng có những người yêu 
mến thiên chúa. Vì vậy hai đô thành này đan chằng với nhau giữa nhà thờ 
và nhà nước và có sự  độc lập với nhau một cách vô hình. Tóm lại, ở đâu  

13
có những người yêu mến Thiên Chúa,  ở  đó có đô thành thiên chúa, ở  đâu  
có người yêu mến trần thế, ở đó có đô thành trần thế.
2.3.  Quan niệm về “Triết học lịch sử” trong tác phẩm
Augustine coi sự  mâu thuẩn giữa hai đô thành là chìa khóa để  biết  
triết học lịch sử. Theo ông, có triết học lịch sử là vì lịch sử có một ý nghĩa.  
Các sử gia Hy Lạp không thấy những biến cố của nhân loại điều đó khác  
hơn là sự  kiện các vương quốc liên tiếp xuất hiện rồi sụp đổ, và chu kỳ 
này cứ lập đi lập lại mãi. Nhưng Augustine nghĩ rằng vở kịch vĩ đại nhất  
là lịch sử loài người. Hơn nữa tác giả của vở kịch này Thiên Chúa, lịch sử 
bắt đầu bằng sự sáng thế, được đánh dấu bằng những biến cố quyết định 
như  sự  Sa ngã của con người và sự  hiện thân của Thiên Chúa vào Đấng 
Kitô. 
Thời điểm lịch sử  cụ  thể nằm trong mối căng thẳng giữa đô thành 
thiên chúa và đô thành trần thế. Không có biến cố  nào xảy ra nằm ngoài 
sự an bài của Thiên Chúa. Hơn nữa những biến cố điều là kết quả hành vi 
của con người, đặc biệt các tội lỗi và tật xấu. Trong tác phẩm này ông lý 
luận rằng thành Rôma sụp đổ  không phải do những người Kitô giáo có 
các hoạt động lật đổ  chính quyền, mà ngược lại những tật xấu tràn lan  
trong khắp Đế  quốc, mà lẽ  ra đức tin và tình yêu thiên chúa có thể  ngăn  
ngừa được. Theo Augustine, sự  sụp đổ  của Rôma còn là một ví dụ  khác 
nữa là việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử, để  thiết lập đô thành Thiên  
Chúa và để chế ngự đô thành trần thế. Trong tấn kịch này Augustine thấy 
một ý nghĩa và giá trị hoàn vũ, vì toàn thể nhân loại phải biết số phận của  
chính họ cũng như những quốc gia tất yếu gắn liền với hai đô thành và sự 
an bài của Thiên Chúa. Có một số phận bao trùm toàn thể nhân loại và vũ 

14
trụ và số phận này sẽ được diễn ra vào giờ Thiên Chúa muốn và khi tình 
yêu Thiên Chúa ngự  trị, với những quan điểm này, Augustine đã tạo ra  
một ý nghĩa toàn diện, một “triết học lịch sử” cho những con người và sự 
kiện mà người ta tưởng chỉ là ngẫu nhiên.

2.4. Những hạn chế và bài học kinh nghiệm
Trong quan điểm triết học của Augustine bộc lộ những mâu thuẫn 
không thể  giải quyết được. Một mặt, ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo 
ra tất cả; nhưng mặt khác ông lại cho rằng "không có Thượng đế  trong  
các sự vật cảm biết".  Thí dụ, khi quan sát giới tự nhiên thấy vẻ đẹp của 
thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sự  dịu dàng của âm điệu, mùi thơm của 
hoa lá v.v. ông cho rằng nó không được đánh giá bởi Thượng đế. 
Augustine cũng gặp phải mâu thuẫn không giải quyết được từ  lập 
trường tôn giáo về vấn đề tự do ý chí của con người. Nếu thừa nhận con  
người không có tự do ý chí thì có nghĩa là con người vô tội và trong sạch. 
Vì vậy, ông đi đến khẳng định: ý chí của con người là tự  do, nhưng chỉ 
trong giới hạn tiền định của Thượng đế.
Về  lý luận nhận thức, Augustine gắn liền với thần học. Ông cho 
rằng quá trình nhận thức của con người là quá trình nhận thức Thượng 
đế. Và nhận thức Thượng đế  chỉ  đạt được bởi lòng tin tôn giáo. Cho nên 
cần phải tin để  mà hiểu và cần phải hiểu để  mà tin. Khi giải quyết vấn  
đề  chân lý, ông cho rằng con người không cần đi khỏi tâm hồn mình; 
trong tâm hồn con người đã chỉ ra chân lý tối cao và từ chân lý tối cao mà 
nảy sinh ra mọi chân lý. Thượng đế là chân lý tối cao.

15
Tuy nhiên trong học thuyết của ông cũng có một số  điểm mang ý 
nghĩa tích cực của cuộc sống, chẳng hạn như trong quyển 1  Augustine chỉ 
trích những kẻ  dị  giáo và những kẻ  man rợ  mang tai  ương đến cho con  
người, cưỡng bức phụ nữ, cướp bóc thành Roma. 
Ông cũng lên án thế  giới cõi trần là thế  giới sống theo chuẩn mực  
con người, gồm toàn những ích kỷ, đề  cao tiện nghi và lạc thú vật chất, 
yêu bản thân hơn cả  chúa, sống hôm nay chỉ  biết hôm nay, luôn tranh 
giành quyền lực với nhau. 
Tuy nhiên ông ta có những hạn chế  khi đánh đồng tất cả  những  
người nơi “trần thể” nhưng cũng từ  luận điểm này của ông cho chúng ta 
thấy cuộc sống không chỉ  có vật chất và tranh giành quyền lực với nhau, 
hãy hướng về một thế giới tốt đẹp hơn nhưng đó không phải là đô thành 
thiên quốc ảo tưởng mà là một đô thành ở trần gian, một đô thành mà mọi 
người sống với nhau một cách hòa bình và không có cảnh người bóc lột 
người.
Với Augustine, Ky Tô giáo đã đem sử  quan của riêng mình ra chi 
phối toàn bộ  lịch sử nhân loại. Nhưng Jaspers nhận xét: “Sử  quan  ấy chỉ 
có giá trị  cho những tín hữu Ky Tô mà thôi. Vì ngay  ở  phương Tây khi  
quan niệm lịch sử  theo những phương pháp khách quan người ta cũng 
không đếm xỉa gì đến sử quan ấy. Vì thế họ mới phân ra một bên là thánh 
sử, một bên là tục sử với ý nghĩa riêng biệt của mỗi bên”.

16
KẾT LUẬN

Ảnh hưởng của Augustine vẫn tiếp tục kéo dài cho đến ngày nay 
như là một nhân vật trung tâm trong Ky Tô giáo và trong lịch sử tư tưởng  
phương Tây. Nhiều triết sử gia phương Tây đã quan niệm và trình bày lý 
thuyết của Augustine. Tuy nhiên triết học của ông mang nặng màu sắc 
thần học, đề cao vai trò, uy thế của nhà thờ. “Phụng sự chúa quên mình” – 
quan điểm ấy của Augustine được xem là kinh điển đối với tín đồ Ky Tô 
giáo. Tư tưởng về một thành phố  yên bình hạnh phúc ngay trên trần gian 
trong tác phẩm “Đô thành Thiên Chúa” cũng giống với niềm khát khao của  
nhân loại, thể hiện một khát vọng về một không gian xã hội lý tưởng mà 
con người cần kiến tạo trên thế  gian này. Augustine vừa cảnh báo, vừa  
mạng đến thông điệp về  một thế  giới tốt lành mà con người đạt được  
bằng nỗ lực vượt qua cái ác, hướng đến cái thiện.
Đánh giá: Không thể  hiện bài p/t theo đúng yêu cầu; phần lớn sao  
chép, không có tính độc lập trong việc tìm hiểu tư tưởng đạo đức – chính  
trị từ nguyên bản một cách chi tiết. Điểm: 7.0

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS, TS  Đinh Ngọc Thạch:  Đề  cương bài giảng Lịch sử  tư  tưởng  
chính trị (từ cổ đại đến nửa đầu thế kỷ XIX).
Lê Tôn Nghiêm: Lịch sử triết học Tây Phương, Nxb. Thành phố Hồ Chí 
Minh, HCM, 2001.
Nguyễn Hữu Vui: Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2007.
Philip Schaff:  St.Augustin’s  City  of  God  and Christian   Doctrine, Nxb. 
Grand Rapids, New York, 1890.

18
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................2
Chương 1. Giáo phụ Augustine......................................................................2
Vài nét về Tây Âu thời Trung Cổ..............................................................2
Cuộc đời và triết học Augustine................................................................3
Chương 2.  Phân tích tác phẩm “De civitate Dei” – Đô thành Thiên Chúa...6
Sơ lược những tư tưởng chính trị chủ yếu trong tác phẩm.....................6
Sự Tương tác giữa hai đô thành...............................................................10
Quan điểm “Triết học lịch sử” trong tác phẩm.......................................10
Hạn chế và bài học kinh nghiệm.............................................................11
KẾT LUẬN...................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

19

You might also like