You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


--------------

ĐINH NGỌC HOÀNG

VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC


CỦA IMMANUEL KANT VÀ Ý NGHĨA
THỜI ĐẠI

TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

Đà Nẵng - Năm 2019


Công trình được hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.LÂM BÁ HÒA

Phản biện 1: PGS.TS Đoàn Thế Hùng

Phản biện 2: TS. Trần Hồng Lƣu

Luận văn đã được bảo vệ trước hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học họp tại Trường Đại Học Kinh
Tế, Đại học Đà Nẵng vào ngày 24 tháng 08 năm 2019

Có thể tìm hiểu luận văn tại:


- Trung tâm thông tin – học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học I. Kant có một vị trí quan trọng trong lịch sử triết học
phương Tây. Tính chặt chẽ trong hệ thống triết học của I. Kant cùng
với việc nghiên cứu con người như một chủ thể nhận thức và một
chủ thể hành động đã đưa nền triết học cổ điển Đức nói riêng và triết
học phương Tây nói chung lên một tầm cao mới. Theo đánh giá của
Hegel thì triết học của I. Kant là nền tảng và là điểm xuất phát của
triết học Đức hiện đại.
Là người kế thừa có phê phán và phát triển phép biện chứng của
triết học phương Tây hết sức tiêu biểu cho thời đại của mình, I. Kant
đã xây dựng một hệ thống triết học đồ sộ chủ yếu thể hiện trong ba
tác phẩm: Phê phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực tiễn và
Phê phán năng lực phán đoán. Những quan điểm triết học của I.
Kant được ông thể hiện trên ba khía cạnh cơ bản của con người, đó
là: Con người trong mối quan hệ với tự nhiên; Con người trong mối
quan hệ với con người, xã hội; Con người trong mối quan hệ với
chính bản thân mình. Trong hệ thống triết học đồ sộ của I. Kant, ông
luôn suy tư nhằm trả lời cho câu hỏi: Tôi có thể nhận thức cái gì? Tôi
phải làm gì? Tôi có thể hy vọng vào cái gì? I. Kant cũng đã từng
khẳng định mạnh mẽ rằng, mục đích quan trọng của triết học là về
vận mệnh con người và nền triết học về vận mệnh con người chính là
vấn đề đạo đức. Triết học I. Kant nói chung, những quan điểm về đạo
đức của ông nói riêng có chỗ đứng quan trọng trong lịch sử tư tưởng
triết học phương Tây. Các nhà nghiên cứu đã ví I.Kant là “ông hoàng
của Phúc âm mới” khi đề cập đến vấn đề đạo đức trong triết học của
ông. Quan niệm về đạo đức của I. Kant hoàn toàn đối lập với quan
niệm ích kỹ, vụ lợi, thực dụng, hẹp hòi, và nó hướng đến những gia
trị chung toàn nhân loại. Những quan điểm về đạo đức trong triết học
2

I. Kant thể hiện khát vọng của con người hướng tới cái thiện, tới
hạnh phúc cho mọi người.
Nếu loại bỏ tất cả những gì là ảo tưởng, những gì là trừu tượng
và những gì là sai lầm duy tâm trong hệ thống triết học của I. Kant
chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều các giá trị, trong đó có những quan
điểm về đạo đức của ông đã để lại dấu ấn lâu dài và sâu đậm không
chỉ trong lịch sử triết học phương Tây mà còn có ý nghĩa đối với thời
đại ngày nay.
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được nhiều nhiều
thành tựu trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã
hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được nâng lên
đáng kể. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển là sự xuống cấp của
đạo đức xã hội trong một bộ phận không nhỏ người dân, đặt biệt
trong xã hội hiện nay đang tồn tại một loại hình “văn hóa không nhúc
nhích” cần được sớm xóa bỏ như phát biểu của người đứng đầu
Chính phủ tại lễ phát động phong trào “Cán bộ, công chức, viên chức
thi đua thực hiện văn hóa công sở” ngày 19/5/2019. Bởi vậy, việc
nghiên cứu hệ thống triết học của I. Kant nói chung, quan điểm về
đạo đức trong triết học của ông nói riêng để thấy được lý do vì sao
những quan niệm về đạo đức của I. Kant vẫn còn sức sống mãnh liệt
trong thời đại ngày nay là công việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Vì lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề đạo đức trong triết học
của I. Kant và ý nghĩa thời đại” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích các quan điểm cơ bản về vấn đề đạo đức
trong triết học của I. Kant để qua đó chỉ ra các giá trị mang ý nghĩa
thời đại mà I. Kant đã để lại cho nhân loại.
3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để thực đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát bối cảnh hình thành các quan niệm về đạo
đức trong triết học của I. Kant.
Thứ hai, trình bày các dung cơ bản về vấn đề đạo đức trong triết
học của I. Kant.
Thứ ba, đánh giá các giá trị của vấn đề đạo đức trong triết học I.
Kant và ảnh hưởng của nó đối với các nhà triết học sau này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu nội dung cơ bản
vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại của nó.
+ Phạm vi nghiên cứu: những quan niệm về đạo đức trong hệ
thống triết học của I. Kant, chủ yếu tập trung trong tác phẩm Phê
phán lý tính thực tiễn (1788), và một số tác phẩm khác như: Đặt nền
móng cho siêu hình học của đạo đức (1785), và Siêu hình học của
đạo đức (1797).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Để thực hiện đề tài, Luận văn dựa trên lý luận
nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương
pháp: phân tích và tổng hợp, lôgích và lịch sử, đối chiếu và so sánh,
hệ thống hóa, để làm rõ nội dung tư tưởng, những mặt khoa học và
hạn chế, cũng như các giá trị hiện thời trong triết học đạo đức của
I.Kant.
4

5. Kết cấu đề tài


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương và 8 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu đề tài
Triết học và triết học đạo đức của I. Kant đã được các nhà
nghiên cứu, đề cập ở nhiều cấp độ, phạm vi và lập trường khác nhau.
Nó là đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học và là đề tài của các
hội thảo quốc tế. Mặc dù cùng nghiên cứu các quan điểm về triết học
đạo đức của I. Kant, nhưng do cách tiếp cận từ góc độ thế giới quan
và lập trường tư tưởng khác nhau, nên có nhiều đánh giá khác nhau,
thậm chí là đối lập nhau. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về triết học của I.Kant nói chung và triết học đạo đức của
ông nói riêng, cụ thể như:
Tác phẩm Triết học Kant của Trần Thái Đỉnh, Nxb Văn mới,
(1974). Sau hơn 40 năm, vẫn còn giữ nguyên giá trị như một số rất
hiếm hoi các công trình tiên phong và rất bổ ích về lĩnh vực này.
Triết học I.Kant là triết học nhân bản với ba câu hỏi lớn được ông đề
ra: Tôi có thể biết gì? Tôi phải làm gì? Và Tôi được phép hi vọng
gì? I.Kant đã trả lời thứ tự ba câu hỏi đó thông qua ba quyển “Phê
phán Lý tính thuần túy”, “Phê phán Lý tính thực hành” và “Phê
phán năng lực phán đoán”. Bằng việc trình bày một cách cô đọng
nhưng không kém phần cặn kẽ về ba quyển “Phê phán”, Triết học
Kant của Trần Thái Đỉnh đã cho ta một cái nhìn bao quát về triết học
I.Kant. Tất nhiên triết học I.Kant rất rộng, có nhiều nội dung ta chưa
thấu hết tư tưởng của ông, cùng với đó là giới hạn của lịch sử cho
nên công trình này phải tạm dừng ở mốc những năm 70 của thế kỷ
trước.
5

Tác phẩm Immanuin Cantơ của Nguyễn Văn Huyên, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, (1996). Tác phẩm đã khái quát những nét tổng
quát về triết học nhận thức và triết học thực tiễn của I.Kant. Tác giả
đã nêu lên những Antinomia của lý tính con người trong quá trình
nhận thức, phân tích cách giải quyết các Antinomia đó và tính biện
chứng còn được thể hiện ở mặt hình thức của các mối liên hệ các
phạm trù, các nhóm phạm trù và tác giả cũng đề cập qua một số quan
niệm về Vật tự nó của I.Kant.
Tác phẩm Triết học đạo đức của I. Kant và ảnh hưởng của nó
đối với triết học Đức thế kỷ XIX của Ngô Thị Mỹ Dung, Nxb Chính
trị quốc gia sự thật, Hà Nội, (2018). Tác giả đã trình bày và phân tích
một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong triết học đạo đức
của I.Kant như: Cơ sở xác định hành vi của đạo đức, mệnh lệnh tuyệt
đối, đạo đức học ứng dụng và ảnh hưởng của nó đến các khuynh
hướng triết học Đức trong thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tác giả chưa có
những đánh giá về những giá trị trong triết học đạo đức của I.Kant,
đặc biệt là những giá trị mang tầm thời đại.
Trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Triết học cổ điển Đức: Nhận
thức luận và đạo đức học” của Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản
năm 2004, có 45 tham luận, báo cáo trong nước và quốc tế nghiên
cứu, trong đó có 23 tham luận, báo cáo viết về triết học đạo đức của
I. Kant. Ngoài ra những nội dung nghiên cứu liên quan đến triết học
đạo đức của I. Kant còn được đăng trên các tạp chí chuyên ngành của
nhiều tác giả khác nhau. Vì là hội thảo nên hầu hết các tham luận đều
có khuynh hướng phân tích chuyên sâu các khía cạnh khác nhau khi
luận giải về triết học đạo đức của I.Kant, mà ít mang tính hệ thống.
Tóm lại, vấn đề triết học đạo đức của I. Kant trong lịch sử triết
học nói chung, triết học cổ điển Đức nói riêng vẫn là đề tài có sức
6

hấp dẫn lớn đối với các nhà nghiên cứu. Nhưng để đánh giá đúng
đắn, sâu sắc vấn đề vẫn cần có những chuyên đề đi sâu vào những
nội dung cụ thể. Dựa trên những nguồn tài liệu, những công trình
nghiên cứu của các tác giả đã được công bố, những kiến thức học
được trên giảng đường, tôi cố gắng tìm hiểu, đi sâu và trình bày một
cách có hệ thống triết học đạo đức của I. Kant từ đó rút ra những
quan điểm có tính thời đại trong hệ thống triết học đạo đức của ông.
7

CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG TRIẾT HỌC I. KANT

1.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA I. KANT


1.1.1. Tiền đề ra đời của triết học I. Kant
* Hoàn cảnh kinh tế chính trị- xã hội của nước Đức trong giai
đoạn thế kỷ XVII- XVIII.
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã được
thiết lập và phát triển mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu. Thành
quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra bước nhảy vọt thần
kỳ trong sự phát triển của nền sản xuất, tạo ra một khối lượng của cải
khổng lồ, qua đó khẳng định tính ưu việt của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa so với tất cả các nền sản xuất của các chế độ xã hội trước đó.
Các thành tựu về kinh tế, văn hóa, khoa học nở rộ ở các nước Ý,
Pháp, Anh…đã chứng minh cho năng lực vô tận của việc nhận thức
và cải tạo thực tiễn của con người. Trong khi đó nước Đức vẫn đang
nằm trong vòng tay kìm hãm của chế độ phong kiến.Tình hình thực
tế của vương quốc Đức lúc bấy giờ được Friedrich Engels đánh giá
là thời kỳ yếu hèn nhất của lịch sử dân tộc Đức:
* Sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên.
Cùng với tình hình kinh tế chính trị và xã hội ở nước Đức, sự
phát triển của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều
vấn đề cần phải xem xét lại về mặt học thuật phải đánh giá lại các di
sản tinh thần đã đạt được. Và phải có cái nhìn mới về thế giới cũng
như con người. Triết học I. Kant là một hiện tượng nằm trong bối
cảnh phát triển của khoa học tự nhiên giai đoạn cận đại, biểu thị
những đặc điểm của một chặng đường phát triển của quá trình nhận
8

thức về giới tự nhiên và ngay cả bản thân con người. Hệ thống triết
học của I. Kant có liên hệ chặt chẽ với toàn bộ thành tựu khoa học tự
nhiên thời cận đại với những phát minh tiêu biểu như thuyết nhật tâm
của nhà bác học Balan Nikolaus Copernicus, ba định luật về sự
chuyển động của các hành tinh của nhà thiên văn học Đức Johann
Kepler và định luật hấp dẫn vũ trụ của Isaac Newton, đã giúp I. Kant
nhận ra những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình vốn thống
trị trong nhiều thế kỷ qua.
* Các tiền đề tư tưởng, lý luận.
Xã hội Tây Âu vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, bên cạnh
sự dịch chuyển trong phương thức sản xuất, cùng với các thành tựu
của khoa học tự nhiên thì trong lĩnh vực tư tưởng cũng có nhiều biến
chuyển, đó là các quan điểm của chủ nghĩa duy lý với các đại biểu
như Descartes, Spinoza, Leiniz và chủ nghĩa duy nghiệm với đại biểu
như Locke, Berkeley, Hume về các vấn đề liên quan đến con người
và bản chất nhận thức của con người, cùng với đó là các quan điểm
mang tính nhân văn của các nhà triết học Khai sáng như Rousseau đã
ít nhiều tác động tới các quan điểm triết học của I. Kant.
1.1.2. Các thời kỳ phát triển của triết học I. Kant
* Thời kỳ “tiền phê phán”1746- 1770
Triết học của I. Kant ra đời trong bối cảnh mà các quan niệm duy
tâm, máy móc đang thống trị trong lý luận nhận thức, đặc biệt là các
quan niệm của Newton và Descartes. Trước 1770, các tác phẩm của
I. Kant chủ yếu bàn về các vấn đề trong khoa học tự nhiên.
* Thời kỳ “phê phán” 1770- 1804
Từ sau 1770, triết học của I. Kant chuyển sang một thời kỳ
phát triển mới- Thời kỳ phê phán hay còn gọi là Triết học phê
phán. Trong giai đoạn này thế giới quan triết học của I. Kant đã
9

có nhiều sự thay đổi do sự tác động của các biến cố xã hội Đức
cũng như các quan niệm triết học của Lebniz và đặc biệt là của
Hume.
1.2. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG HỆ
THỐNG TRIẾT HỌC CỦA I. KANT
Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học phương Tây, nó
có ảnh hưởng sâu rộng đối với toàn bộ hệ thống triết học hiện đại, nó
bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX ở Đức. Triết học cổ
điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức với
các đại biểu tiêu biểu như Herder, Lesing, Schiller, Goethe, Fichte,
Schelling, Hegel, Feurbach, đặc biệt là I. Kant được xem là điểm
xuất phát của triết học Đức hiện đại.
Hệ thống triết học của I. Kant bao gồm triết học lý luận và
triết học thực tiễn. Trong triết học thực tiễn, I. Kant xem triết học
đạo đức là nền tảng, “Tôi càng suy ngẫm nhiều thì có hai điều làm
cho tâm hồn tôi kinh ngạc và tôn kính hơn là: bầu trời ở trên đầu
tôi và quy tắc đạo đức ở trong tôi” [8, tr.352]. Nếu như trong triết
học luân lý I. Kant tập trung luận giải vấn đề: Làm thế nào để có
thể có một siêu hình học thực sự khoa học, thì trong triết học thực
tiễn, I. Kant muốn chứng minh có một siêu hình học thực sự khoa
học, đó là siêu hình học về đạo đức, tức là những nguyên tắc
mang tính phổ quát và tất yếu, “chỉ có đạo đức học là chứa đựng
những quy luật điều chỉnh hành vi có thể được rút ra từ các
nguyên tắc hoàn toàn tiên nghiệm.
10

CHƢƠNG 2
NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC I. KANT

2.1. ĐẠO ĐỨC VÀ LÝ TÍNH


2.1.1. Lý tính và quan niệm của I. Kant về lý tính

Lý tính là một khả năng suy luận, nó có thể đánh giá toàn bộ
những gì mà mình đã từng kinh nghiệm, đã từng hiểu. Tức là nó cao
cấp hơn giác tính, chỉ là một sự hiểu biết thông thường hằng ngày.
Lý tính là một khả năng, mà trong ý nghĩa triết học của I. Kant, nó
chỉ có ở con người.
Sự thống nhất giữa lý luận nhận thức và đạo đức trong triết học
của I. Kant được thể hiện rõ nhất thông qua câu hỏi được đặt ra cho
lý tính: Tôi có thể biết được cái gì? Sang câu hỏi được ông đặt ra cho
lý tính thực tiễn : Tôi nên làm gì? Chuyển từ phân tích chủ thể nhận
thức sang phân tích chủ thể đạo đức. Khác với chủ thể nhận thức,
chủ thể đạo đức được I. Kant xem xét như một cái gì đó bên trong và
nội tại. Ở đây, con người điều khiển lý tính không còn về phương
diện lý luận, mà về phương diện thực tiễn với tư cách là lý tính thuần
túy.
2.1.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và lý tính
Đạo đức với tư cách là mục đích tối thượng là cơ sở nền tảng của
triết học thực tiễn, nên theo quan niệm của I. Kant cần phải xác lập
cơ sở cho hành vi của nó. Để làm được công việc đó I. Kant đã
nghiên cứu lịch sử tư tưởng nhân loại từ thời cổ đại đến cận đại trên
tinh thần phê phán. Công việc phê phán này được I. Kant thể hiện
thông qua cuốn: Những nền tảng khoa siêu hình học về luân thường
và cuốn: Phê bình lý tính thực hành. Mục đích của I. Kant là làm
11

sáng tỏ lập trường đạo đức thuần túy của ông, một nền đạo đức được
xây dựng hoàn toàn trên lý trí.
Cũng theo I. Kant, chỉ mình lý trí thuần túy thực hành, tức lý
trí đạo đức, mới là nền tảng đích thực của quy luật đạo đức, hay
nói cách khác, chỉ ý chí thuần túy mới thật sự dẫn dắt ta đi tới
những hành động đạo đức ngay thẳng và chuẩn mực.
Theo quan niệm của I. Kant, cở sở quyết định của ý chí chủ
quan hay khách quan, cảm tính hay lý tính đều là các nguyên tắc
thực tiễn vật chất. Các nguyên tắc này hoặc tồn tại dựa trên sự
ngoại trị hoặc là xuất phát từ trong các năng lực mong muốn hạ
đẳng, cho nên mọi lập luận lấy nó làm nền tảng để xác định tiêu chí
cho hành vi đạo đức đều không có cơ sở. Các luận giải về cơ sở để
xác định ý chí đạo đức thường dựa trên các nguyên tắc thực tiễn vật
chất, nhưng xét đến cùng thì nó chỉ xoay quanh nguyên tắc hạnh
phúc cá nhân mà thôi, trong khi đó nó chỉ là những kinh nghiệm
cảm tính không có được tính phổ quát và tất yếu.
2.2. ĐẠO ĐỨC VỚI TƢ CÁCH LÀ HÀNH VI CỦA LÝ TÍNH
2.2.1. Hành vi đạo đức và các nguyên tắc xác định hành vi đạo
đức
Đạo đức chỉ được kiểm chứng khi nó tác động đến người thứ hai.
Tức là chỉ xác định khi nó đã được biểu hiện thành một hành động.
Ở đây, hành động không hẳn là những động tác của tứ chi, mà khi
chúng ta không hành động tứ chi nhưng với ý nghĩ rằng tôi không
muốn hại ai, lúc đối tượng chịu tác động đang nằm trong tầm nhận
thức của ta. Và những hành động như vậy mới gọi là hành
vi đạo đức. I. Kant định nghĩa hành vi ấy như sau: “Các nguyên tắc
thực hành là các mệnh đề bao hàm một sự quy định phổ biến với ý
chí; và sự quy định này chứa đựng dưới nó nhiều quy tắc thực hành.
12

Các quy tắc này là có tính chủ quan hay là các châm ngôn khi điều
kiện được xem xét bởi chủ thể như là chỉ có giá trị đối với ý chí riêng
của chủ thể; nhưng, chúng lại có tính khách quan hay là các quy luật
thực hành nếu điều kiện được nhận thức như là có tính khách quan,
nghĩa là, có giá trị đối với ý chí của bất kì hữu thể nào có lý tính”
[18, tr. 39].
2.2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối- Quy luật cơ bản của lý tính thuần tuý
thực hành
Vấn đề đạo đức trong triết học I. Kant luôn lấy việc giải quyết
những vấn đề nẩy sinh trong cuộc sống và hoạt động thực tiễn của
con người làm mục đích cuối cùng. Vì vậy, nó rất quan tâm tới việc
xây dựng những tiêu chuẩn giá trị đạo đức, để trên cơ sở đó, đánh giá
hành vi ứng xử của con người. Hay nói cách khác, khi bàn về đạo
đức, I. Kant đã đi tìm cho được câu trả lời: Tôi cần phải làm gì để
hành vi của tôi được đánh giá là hành vi đạo đức? Và khi trả lời câu
hỏi này đã được I. Kant đưa ra - đó là: Tôi cần phải tuân thủ “Mệnh
lệnh tuyệt đối” - nguyên tắc đạo đức tối cao, bắt buộc đối với tất cả
mọi người. Như vậy, “mệnh lệnh tuyệt đối” đã được I. Kant coi là
chuẩn mực duy nhất và cao nhất để đánh giá hành vi đạo đức của con
người. Trong hệ thống đạo đức học của I. Kant, không có những
chuẩn mực khác để đánh giá các hành vi con người ngoài nguyên tắc
“mệnh lệnh tuyệt đối”.
Mệnh lệnh tuyệt đối hay còn được xem là quy luật đạo đức là
nội dung cơ bản nhất trong hệ thống quan điểm về đạo đức của I.
Kant, cho nên ông gọi những mệnh lệnh đạo đức là “những mệnh
đề tổng hợp tiên thiên của lý trí thực hành”. Theo quan niệm của I.
Kant, mệnh lệnh tuyệt đối và mệnh lệnh giả thiết có nhiều sự khác
biệt. Mệnh lệnh giả thiết là mệnh lệnh có điều kiện với ý muốn đã
13

tồn tại ngay từ ban đầu, “mệnh lệnh giả thiết diễn tả sự tất yếu thực
tiễn của một hành vi như là phương tiện nhằm đạt một điều gì khác
được mong muốn” [23, tr.228].
2.3. ĐẠO ĐỨC VÀ THỰC TIỄN
2.3.1. Quan niệm của I. Kant về đời sống thực tiễn
Hệ thống triết học thực tiễn của I. Kant có nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn có giá trị, trong lĩnh vực này I. Kant đã có những đổi
mới với bản thân về cách đặt ra và giải quyết các vấn đề triết học các
như: pháp quyền, lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật, đời sống công dân
hàng ngày. Sự khẳng định mang tính nguyên tắc giữa lý luận và thực
tiễn đã cho phép I. Kant tập trung vào sự đặc thù của thực tiễn, đưa
ra các quan niệm khá cụ thể về các lĩnh vực của đời sống xã hội khác
nhau, qua đó, I. Kant nghiên cứu toàn diện hơn về đạo đức. Theo
quan điểm của I. Kant, pháp quyền, lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật… là
các bước chuyển tiếp những nguyên lý của đạo đức vào trong đời
sống thực tiễn của con người. Trong hệ thống triết học của ông, các
nguyên tắc đạo đức được xem là cơ sở, nền tảng để xây dựng các
quan điểm về pháp quyền, tôn giáo, lịch sử. Ngược lại các quan điểm
về pháp quyền, tôn giáo, lịch sử là sự biện minh cho các nguyên tắc
đạo đức.
Trong hệ thống triết học thực tiễn nói chung và vấn đề đạo đức
nói riêng của I. Kant, phạm trù tự do được coi là vấn đề cơ bản. Nếu
tự do trong quan điểm về đạo đức được I. Kant luận giải bằng việc
trả lời câu hỏi, tự do là gì, con người có tự do hay không, thì trong
triết học pháp quyền ông lại đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tự do có
được từ đâu, làm thế nào để đảm bảo quyền tự do đó, và bằng cách
nào con người có thể tiến đến vương quốc của tự do. Theo quan niệm
của I. Kant, con người thuộc về hai thế giới đó là thế giới hiện tượng
14

và thế giới vật tự nó vì vậy nó chịu sự chi phối của những quy luật tự
nhiên và chủ thể ban hành luật. Tự do với tư cách là năng lực lý tính
thuần túy của lý tính tiên nghiệm nó có tính độc lập và tính tự quyết
của ý chí.
2.3.2. Đạo đức và mối quan hệ với các lĩnh vực trong đời sống
thực tiễn
Khi đề cập tới pháp luật, I. Kant quan niệm pháp luật là những
học thuyết mang tính hệ thống và là năng lực đạo đức, chính việc
phân tích vấn đề này chúng ta mới thấy thái độ phê phán gay gắt
của ông với xã hội đương thời. Với tư cách là học thuyết mang tính
hệ thống thì nó bao gồm luật tự nhiên và luật thành văn, luật tự
nhiên tồn tại dựa trên các nguyên tắc mang tính tiên nghiệm, còn
luật thành văn là hệ thống luật lệ được hình thành dựa vào ý chí của
các chủ thể ban hành và phù hợp với luật tự nhiên. Pháp luật với tư
cách là năng lực đạo đức được thể hiện trong quyền bẩm sinh và
quyền có được do luật quy định, quyền bẩm sinh là quyền tự nhiên
của mỗi người, đó là quyền tự do, “tự do là sự độc lập đối với sự
độc đoán cưỡng bức của một người khác.
Khi bàn về lịch sử hầu hết các quan điểm của I. Kant được
trình bày trong hai tác phẩm: Về sự xác định khái niệm chủng tộc
người; Giả thiết ban đầu của lịch sử loài người. Trên nền tảng
nghiên cứu sự vận động và phát triển của giới tự nhiên, I. Kant đi
đến quan niệm lịch sử nhân loại là sự tiếp tục quá trình phát triển
của lịch sử tự nhiên theo khuynh hướng từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp và ngày càng hoàn thiện hơn.
Đề cập đến đạo đức vào tôn giáo, cũng như mối quan hệ giữa
chúng, I. Kant chỉ quan tâm đến việc lý giải tôn giáo như là niềm tin
hợp lý trong sự khác biệt với niềm tin giáo hội. Không phải đạo đức
15

sinh ra từ tôn giáo mà là ngược lại. Chúa là định đề của lý tính đạo
đức, không thể có một phán đoán siêu hình học nào về Chúa, sự tồn
tại của Chúa được thừa nhận để tư duy có thể gắn liền hành vi hợp
mục đích đạo đức với hậu quả hiện thực của nó. Chúa trong đạo đức
học của I. Kant hợp nhất đạo đức với hạnh phúc là những cái bị chia
cắt trên thực tế, và dương như biểu thị một tương lai xác định của
con người tích cực.
2.4. ĐẠO ĐỨC VỚI ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN
2.4.1. Cá nhân và mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong
triết học đạo đức của I. Kant
Với tư cách là nền tảng của tòa nhà đạo đức- Tự do cá nhân
được xem là điễm xuất phát của toàn bộ học thuyết triết học đạo đức
của I. Kant. Đây được xem là một đóng góp có ý nghĩa cực kỳ to lớn
của I. Kant trong lĩnh vực đạo đức học và qua đó khẳng định giá trị
nhân văn trong triết học đạo đức của I. Kant. Không chỉ đề cập và
luận giải mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng mà tiến xa hơn, I.
Kant còn luận bàn về các vấn đề mang tầm nhân loại. Đây là một
đóng góp có giá trị lý luận trong lĩnh vực nghiên cứu đạo đức học,
một bước tiến mang tính vượt thời đại của I. Kant.
Sẽ rất sai lầm khi cho rằng học thuyết của I. Kant chỉ nhằm đi giả
thích mà không hướng đến thực hành. Nhìn vào bản chất cao siêu
của các nguyên tắc đạo đức, của mệnh lệnh tuyệt đối rất dễ lầm
tưởng I. Kant là người thiếu đầu óc thực tế. I. Kant quan niệm, con
người là một thực thể cảm tính, tự do, nhưng tự do của con người
không phải là một quan niệm suông, mà nó là một thực tại, nhưng
mà là thực tại hành động thông qua những quyết định của ý chí
chúng ta. “Bởi vậy quy luật đạo đức sẽ không là gì hết, nếu nó không
16

được tiếp theo bằng những hành động cụ thể; và tự do cũng sẽ là


không, nếu nó không kèm theo những hậu quả khả giác” [12, tr.270].
2.4.2. Đạo đức và vấn đề sinh hoạt đạo đức
I. Kant nhận định, con người ai cũng khao khát một cái tuyệt đối,
và bao lâu nay ta chưa đạt được thì ta vẫn hằng ao ước. Chính niềm ao
ước này nó làm cho chúng ta nhanh chóng cảm thấy chán những gì mà
lúc đầu ta coi là hay, là đẹp, là tốt. Con người không bao giờ có thể
thỏa mãn tối đa những cái hữu hạn, mà triết học gọi là sự vật bị điều
kiện chi phối. Trong lĩnh vực đạo đức sự thiện tối cao là sự thiện đã
vươn tới mức cao hết sức.
17

CHƢƠNG 3
Ý NGHĨA THỜI ĐẠI VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC QUAN
ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC I. KANT ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC

3.1. Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA TRIẾT HỌC ĐẠO ĐỨC I. KANT
3.1.1.Triết học của I. Kant là triết học vì con ngƣời và cho
con ngƣời
Theo I. Kant, con người là tồn tại cao nhất trong mọi tồn tại
hiện có trong vũ trụ - là chủ thể lý tính. Như Lê Công Sự đã nhận
định: “Chỉ có con người mới trở thành lý tưởng của cái đẹp, trong
tất cả mọi tồn tại của thế giới chỉ có con người trong diện mạo của
nó với tư cách là một tồn tại biết suy nghĩ mới có thể là lý tưởng
của sự hoàn thiện” [38, tr.280]. Mọi hành động của loài người phải
xuất phát từ mục đích của con người, mà mục đích cao nhất của con
người chính là tự do, tự chủ; con người là chủ thể nhân cách, đồng
thời là chủ thể hành động, nó cũng là mục đích tối cao của tự nhiên,
cho nên con người có mục đích tự thân, nghĩa là không để một ai có
thể sử dụng nó như một phương tiện, nếu không vì mục đích chính
con người. Với quan điểm này, I. Kant dự báo trong tương lai vấn
đề nhân quyền sẽ trở thành một trong vấn đề cốt yếu của nhân loại.
3.1.2. Quan niệm về việc xây dựng một nền hòa bình vĩnh cửu
cho nhân loại
Khi đánh giá giá trị học thuyết đạo đức của I. Kant sẽ không
hoàn vẹn nếu như không đánh giá về ý tưởng xây dựng một nền
hòa bình vĩnh cửu cho toàn thể nhân loại, một nền hòa bình được
xây dựng trên cơ sở liên minh của các dân tộc. Các nguyên tắc
đạo đức của I. Kant ít đề cập đến khía cạnh giai cấp, dân tộc và
18

tính lịch sử của các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, I. Kant lại
nhấn mạnh đến giá trị chung, mang tính phổ quát toàn nhân loại,
thích dụng cho mọi thời đại. Những giá trị này không chỉ áp dụng
cho một nhóm người, trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, mà nó có
xu hướng tiệm cận đối với mọi dân tộc. Vì vậy, I. Kant cổ vũ cho
một mô hình hình “liên bang giữa các dân tộc” hay “một nền thế
giới cộng hòa”.
3.1.3. Quan niệm về sự tác động mang tính hai mặt của khoa
học đối với đạo đức
Sống trong thời đại khoa học đang phát triển, I. Kant đã có
những cảm nhận và dự báo rằng, khoa học là con dao hai lưỡi; nó
có thể mang lại cho nhân loại nhiều giá trị cả về vật chất lẫn tinh
thần, nhưng nếu chúng ta tuyệt đối hóa khoa học, thì nó sẽ mang lại
nhiều hậu quả khôn lường về nhiều mặt như nó thể thể làm băng
hoại các giá trị đạo đức, tàn phá môi trường sống tự nhiên. Điều dự
báo của I. Kant đã trở thành hiện thực ở phương Tây sau này.
3.1.4. Sự phân hóa giàu nghèo với vấn đề tha hóa về mặt đạo đức
I. Kant nhận thấy rằng, sự phân hóa giàu nghèo, đặc biệt là
tình trạng bần cùng hóa trong đời sống xã hội có nguy cơ dẫn đến
suy thoái đạo đức, dẫn đến tình trạng con người tha hóa, đánh mất
bản tính tự nhiên vốn có ban đầu của mình. Với tư cách là một
loại hình thái của ý thức xã hội - đạo đức chịu sự tác động, chi
phối của tồn tại xã hội, trong đó có điều kiện kinh tế. Sự phát triển
mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa trên
những tiến bộ của công cụ lao động đã tạo ra một nguồn của cải
khổng lồ gấp nhiều lần so với những thời kỳ trước cộng lại, những
thành tựu mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang lại
chúng ta không thể phụ nhận. Trong nền sản xuất đó nó có thể cho
19

ta mọi thứ, nhưng nó cũng lấy đi từ ta tất cả, trong đó có cả giá trị
làm người và I. Kant đã nhận ra điều này từ rất sớm, nên trong
hầu hết học thuyết của ông đặc biệt là học thuyết về đạo đức ông
luôn đề cập đến giá trị người hay tính nhân loại nói chung.
3.2. ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG TRIẾT HỌC I. KANT ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC
3.2.1. Sự ảnh hƣởng của triết học đạo đức I. Kant đối với triết học
G.W.Hegel
Với tư cách là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức, các
quan điểm triết học của I. Kant đã tạo ra tiền đề cho các nhà triết học
sau này tiếp tục nghiên cứu trong đó có G.W.Hegel. Triết học của
Hegel chịu nhiều ảnh hưởng từ triết học của I. Kant, những vấn đề cơ
bản trong triết học Hegel đều lấy triết học I. Kant làm điểm xuất phát
tất nhiên trên lập trường có sự phê phán.
Tư tưởng triết học của Hegel được trình bày trong nhiều tác
phẩm khác nhau với nhiều lĩnh vực, từ mối liên hệ giữa Thiên
chúa và nhà thờ, đến các vấn đề về triết học, lôgích học, triết học
tự nhiên, triết học pháp quyền, triết học lịch sử. Nhưng vấn đề cơ
bản trong triết học Hegel lấy triết học của I. Kant làm điểm xuất
phát và có ảnh hưởng lớn nhất là vấn đề tự do ý chí.
3.2.2. Sự ảnh hƣởng của triết học đạo đức I. Kant đối với triết
học Karx Marx
Đối với triết học duy vật biện chứng do Karl Marx và Friedrich
Engels sáng lập, thì sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Immnuel
Kant là không đáng kể, thậm chí khi luận giải về một số vấn đề đạo
đức như tự do, thực tiễn… quan điểm triết học của Karl Marx hoàn
toàn đối lập với quan điểm của I. Kant, nhưng việc I. Kant nghiên
20

cứu vấn đề con người như một chủ thể hoạt động tích cực nhằm mục
đích hướng con người sống và hành động xứng đáng với phẩm giá
con người đã có những ảnh hưởng nhất định tới tư tưởng triết học
của Karl Marx và Friedrich Engels.
Do sự đối lập hoàn toàn về thế giới quan cũng như phương pháp
luận, nên khó để tìm thấy được dấu ấn của triết học của I. Kant, đặc
biệt là triết học đạo đức trong hệ thống triết học Mác. Tuy nhiên, khi
bàn về bản chất của con người, việc I. Kant xem con người vừa là
chủ thể lý tính, nhưng đồng thời là chủ thể hoạt động tích cực nhằm
hướng đến các giá trị nhân văn cao cả mang tính nhân loại thì được
xem ít nhiều ảnh hưởng tới khuynh hướng nghiên cứu của K. Marx
và F. Engels sau này.

3.2.3. Ảnh hƣởng của triết học đạo đức I. Kant đối với triết học
Hermann Cohen
Hermann Cohen là người sáng lập chủ nghĩa Kant mới, ông đã kế
thừa một cách trung thành với những tư tưởng của I. Kant, đồng thời
đem lại cho nó một diện mạo mới, một sức sống mới cho phù hợp
với thực tiễn của nước Đức giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Hermann Cohen không chỉ luận giải các luận điểm trong triết
học của I. Kant, mà ông còn xây dựng một hệ thống triết học riêng,
trên cơ sở kế thừa có đổi mới. Với khẩu hiệu: “Hãy can đảm sử dụng
trí tuệ của chính mình”, Cohen đã làm sống lại tư tưởng triết học I.
Kant, đặc biệt là tư tưởng triết học đạo đức của I. Kant thông qua tác
phẩm: Lập luận của Kant về đạo đức học; Đạo đức học của ý chí
thuần túy.
Hermann Cohen đã làm sống lại triết học I. Kant, đặc biệt là
trong lĩnh vực triết học đạo đức, tuy nhiên có nhiều quan điểm của
21

Hermann Cohen lại trở nên thái quá, cực đoan, xa rời thực tế cuộc
sống. Cho dù cách lập luận của Cohen như thế nào đi chăng nữa, thì
việc cho rằng sự tồn tại của Thượng đế là sự cần thiết đối với hành vi
đạo đức là quan điểm duy tâm, tách rời đời sống hiện thực của con
người. Khi nói rằng con người là “mục đích của chính mình”, chứ
không bao giờ chỉ là phương tiện, I. Kant đã không đề cập đến.
22

KẾT LUẬN
Thời gian càng lùi xa thì những gì I. Kant để lại cho hậu thế vẫn
còn nguyên tính thời sự, vẫn còn đủ sức hấp dẫn đối với những người
có lương trị. Người ta vẫn tiếp tục viết về I. Kant, bởi lẽ di sản mà I.
Kant để lại hết sức phong phú và cho đến bây giờ người ta vẫn chưa
thực sự thấu đạt những gì mà I. Kant trình bày trong hệ thống triết
học của mình. Triết học của I. Kant có thể được tiếp cận và khai thác
ở dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, các lập trường tư tưởng
khác nhau, có thể được tán thành ngợi ca hoặc bị phê phán ở nhiều
khía cạnh. Nhưng dù nghiêm khắc đến đâu, mọi người và lịch sử
cũng đều thừa nhận rằng tư tưởng triết học của I. Kant , đặc biệt là tư
tưởng triết học về đạo đức mang đậm tính nhân văn, ảnh hưởng sâu
sắc đến nền triết học phương Tây từ đó về sau.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên, nhất là thiên văn
học cùng các vấn đề về lý luận nhận thức mà khoa học thế kỷ
XVII- XVIII đặt ra, cũng như những biến đổi của đời sống kinh tế
- xã hội của nước Đức và Tây Âu lúc bấy giờ đã mang lại cho I.
Kant một cái nhìn tổng thể về thế giới và sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp tư duy khi mà phương pháp tư duy truyền thống đã
lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu nhận thức mà thực tiễn đặt
ra. Theo đó, thế giới được I. Kant xem xét như một chỉnh thể
thống nhất, nó tồn tại trong các mối liên hệ, vận động và biến đổi
không ngừng. Không chỉ thế, nó còn là hệ thống của những mục
đích, trong đó con người là mục đích cuối cùng của mọi mục đích.
Con người là gì? Con người cần phải làm gì để xứng đáng với vị
trí của mình trong thế giới? Xứng đáng với phẩm giá làm người? là
những câu hỏi mà I. Kant xem là vấn đề cơ bản của triết học. Và để
làm sáng tỏ các vấn đề đó, I. Kant đã lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu của triết học và nghiên cứu con người như một chủ thể
hoạt động tích cực. Khi nghiên cứu về hoạt động của con người, I.
23

Kant đưa ra nhận định, con người có thể nhận thức một cách chân
thực giới tự nhiên như nó vốn tồn tại bằng năng lực nhận thức tiên
nghiệm của mình. Tuy nhiên, năng lực đó là có giới hạn, cho nên I.
Kant chủ trương xây dựng một siêu hình học mới với tư cách là một
khoa học có giá trị cho tất cả mọi người, đó là siêu hình học của đạo
đức hay còn gọi là triết học đạo đức.
Áp dụng phương pháp tư duy trong việc nghiên cứu hoạt động
nhận thức của con người vào triết học đạo đức, I. Kant đã đề xuất
mệnh lệnh tuyệt đối, tức là các quy luật đạo đức, nó mang tính phổ
quát, tất yếu. Mệnh lệnh tuyệt đối tự bản thân nó là một quy luật thực
tiễn, vô điều kiện và là khuôn mẫu cho mọi hành vi. Nguyên tắc cơ
bản của nó là: Không bao giờ đối xử với con người chỉ như là
phương tiện mà mọi lúc đồng thời là mục đích. Chính vì vậy, trong
các lĩnh vực như tôn giáo, pháp quyền, lịch sử hầu hết các quan niệm
triết học của I. Kant đều lấy con người làm trung tâm cho mọi hành
động, điều đáng lưu ý là dù trong lĩnh vực nào cũng vậy, vấn đề cơ
bản nhất mà I. Kant đề cao là vấn đề tự do, quyền và nhân phẩm của
con người.
Nhìn chung, các vấn đề triết học đạo đức mà I. Kant nêu ra chưa
được giải quyết một cách triệt để, bởi thế giới quan duy tâm, sự quy
định mang tính lịch sử của thời đại, cùng với đó là sự giáo điều trong
việc tuyệt đối hóa tính hình thức của quy luật đạo đức. Nhưng những
vấn đề mà I. Kant đặt ra đã và đang sẽ là mục đích mà nhân loại hôm
nay cần phải có nhiều thời gian cũng như các điều kiện mang tính tiên
quyết để hiện thực hóa nó.
Việc tôn trọng phẩm giá con người trong triết học đạo đức của I.
Kant, không chỉ khẳng định giá trị của con người mà thông qua đó giúp
chúng ta nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của cuộc sống, loại bỏ các quan
niệm tách rời sự phát triển của khoa học với sự tiến bộ của xã hội.

You might also like