You are on page 1of 22

Học thuyết giá trị thặng dư

LỜI NÓI ĐẦU

Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của
C.Mác
Trong học thuyết này, C.Mác nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người
thông qua mối quan hệ giữa vật với vật. Cơ sở về kinh tế để xác lập quan hệ
giữa người với người thông qua quan hệ giữa vật với vật chính là lao động,
cái thực thể, yếu tố cấu thành giá trị của hàng hóa. Đó chính là trọng tâm
của học thuyết giá trị. Sản xuất hàng hóa và gắn liền với nó là các phạm trù:
giá trị, hàng hóa, tiền tệ đã từng có trước chủ nghĩa tư bản. Nó là những điều
kiện tiền đề để cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và phát
triển. Nhưng sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với sản xuất hàng hóa
giản đơn không chỉ về trình độ mà còn khác cả về chất nữa. Và khi xuất hiện
một loại hàng hóa mới đó là hàng hóa sức lao động. Khi sức lao động trở
thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là một
quan hệ sản xuất mới xuất hiện: quan hệ giữa nhà tư bản và lao động làm
thuê. Thực chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng
dư của công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành nên thu
nhập của các nhà tư bản và các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản.Từ
học thuyết giá trị và cơ sở thực tiễn mà C.Mác đã xây dựng nên học thuyết
giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là phát minh quan trọng thứ hai
sau phép biện chứng duy vật .Nội dung chính của học thuyết này phát biểu
rằng sản xuất và chiếm hữu giá trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ
nghĩa tư bản về sản xuất và chiếm hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình
thức cao nhất của sự tha hóa con người đối với hoạt động của mình, đối với
sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình, đối với người khác. Để hiểu
rõ về giá trị thặng dư chúng ta cùng đi sâu tìm hiểu về quá trình sản xuất và
phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư.

1
Học thuyết giá trị thặng dư

QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá
trình sản xuất ra giá trị thặng dư

a. Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng

Là quá trình sản xuất ra của cải vật chất trong đó có sự kết hợp tư
liệu sản xuất và sức lao động.

Đặc điểm của quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng:

_Tư liệu sản xuất và sức lao động tập trung vào trong tay nhà tư
bản
_Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
_Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
b. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà nước chiếm không.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà
là giá trị, hơn nữa, cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng
dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị
thặng dư.

Vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình
sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C. Mác
viết: "Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo
ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư
cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì
quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư
bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá".

Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất
sợi của một nhà tư bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa qúa trình sản

2
Học thuyết giá trị thặng dư

xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn lên của giá trị hay là qúa trình sản
xuất giá trị thặng dư.

Giả sử, để sản xuất 10kg sợi, cần 10kg bông và giá 10kg bông là 10$. Để
biến số bông thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn
máy móc là 2$; giá tri sức lao động trong một ngày là 3$ và ngày lao động là
12 giờ; trong một giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là
0,5$; cuối cùng giả định trong qúa trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời
gian lao động xã hội cần thiết.

Và như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6 giờ, thì nhà
tư bản phải ứng ra là 15$ và giá trị sản phẩm mới(10kg sợi) mà nhà tư bản
thu được cũng là 15$. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái
điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động
tất yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư
bản.

Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao
động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo
ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến
trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong
một ngày(12 giờ). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền
của nhà tư bản.

Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thỏa
thuận thì:

-Chi phí sản xuất


+Tiền mua bông(20 kg): 20$
+Tiền hao mòn máy móc: 4$
+Tiền mua sức lao động trong một ngày: 3$
Tổng cộng: 27$
-Giá trị sản phẩm mới(20kg sợi)
+Giá trị của bông được chuyển vào sợi: 20$
+Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi: 4$
+Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động: 6$
Tổng cộng: 30$

Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27$, còn giá trị
của sản phẩm mới (20kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao động

3
Học thuyết giá trị thặng dư

là 30$. Vậy 27$ ứng trước đã chuyển hóa thành 30$, đã đem lại một giá trị
thặng dư là 3$. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.

Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra những
kết luận sau đây:

Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20kg sợi), chúng ta
thấy có hai phần: giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công
nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ
(24$). Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình
sản xuất là giá trị mới (6$). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động,
nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai
phần: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị
ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và
lao động trong khoảng thời gian đó là lao động cần thiết. Phần còn lại của
ngày lao động gọi là thời gian lao động thặng dư, và lao động trong khoảng
thời gian đó gọi là lao động thặng dư.

Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta
nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết:
việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời
không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua
được một thứ hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó nhà tư
bản sử dụng hàng hóa đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu
thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư
bản mới chuyển thành tư bản.

Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá
trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài cái
điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một
vật ngang giá mới.

2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến
và tư bản khả biến

a. Bản chất của tư bản

4
Học thuyết giá trị thặng dư

Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rẳng mọi công cụ lao động,
mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất
không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất
cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành
tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê.
Khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản
nữa. Như vậy, tư bản không phải là một vật, mà là một quan hệ sản
xuất xã hội nhất định giữa người và người trong quá trình sản xuất,
nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.

Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định
nghĩa chính xác tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách
bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản
chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai
cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo
ra.

b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

_Khái niệm tư bản

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao
động làm thuê

Tư bản là quan hệ xã hội có tính lịch sử: tiền, tư liệu sản xuất… chỉ
là hình thức biểu hiện của tư bản

_Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Để sản xuất giá trị thặng dư nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua
tư liệu sản xuất và sức lao động. Tức là chuyển hóa tư bản tiền tệ
thành các yếu tố tư bản sản xuất. Mỗi bộ phận tư bản ấy có vai trò
khác nhau trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư.

Tư bản bất biến (C): bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu
sản xuất: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu,…quá trình
của nó được lao động cụ thể của công nhân chuyển vào sản phẩm
mới mà giá trị được bảo tồn (không tăng lên hay giảm đi).

5
Học thuyết giá trị thặng dư

Tư bản khả biến (V): bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động
trong quá trình sản xuất không tái hiện ra nhưng thông qua lao động
trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên. Tức là biến đổi về
lượng.

Mác – người đã đưa ra khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả

biến

Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được
để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết
định trong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã
giúp C.Mác tìm ra chiếc chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư
bản bất biến và tư bản khả biến. C.Mác là người đầu tiên chia tư bản
thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Căn cứ cho sự phân chia đó
là dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá
trình sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột
của chủ nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo
ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

*Ý nghĩa: việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến
+Nguồn gốc trực tiếp của quá trình thặng dư là tư bản khả biến
+Tư bản bất biến tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng là
điều kiện.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

a. Tỷ suất giá trị thặng dư

6
Học thuyết giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị
thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư
đó.

Nếu kí hiệu m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m’ được xác định
bằng công thức:

m’ =(m/v) x100%

Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao
động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản
chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong
một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người
công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với
thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Do đó, có thể biểu thị tỷ
suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:

m’ = t’(thời gian lao động thặng dư) /t(thời gian lao


động tất yếu) x100%

Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ của nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh
quy mô bóc lột, C.Mác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng
dư.

b. Khối lượng giá trị thặng dư

Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư
và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu kí hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác
định bằng công thức:
M = m’.V

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư
càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.

4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư
siêu ngạch

7
Học thuyết giá trị thặng dư

a. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời gian lao động
của người công nhân trong điều kiện thời gian lao động cần
thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là
không đổi).

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó
trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả định ngày lao
động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần
thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một
cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên,trình độ
bóc lột tăng lên 200%.

Với sự thèm khát giá trị thặng dư nhà tư bản phải tìm mọi cách
để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột naỳ đã đem
lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa
tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hóa, nhưng
nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy ngoài
thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí
nghiệp người công nhân đòi hỏi phải có thời gian để ăn uống
nghĩ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao
động là thứ hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất
người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu
cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó
tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi
hỏi tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do
kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tết yếu,
trong khi năng suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng
dư tương đối.

8
Học thuyết giá trị thặng dư

 Phương pháp giá trị thặng dư tương đối

Được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần
thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không
đổi.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ
bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả thiết rằng công nhân
chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị mới bằng với
giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động
thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời gian
lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6
giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%.

Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư
bản phải tìm mọi biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và
công nghệ vào quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao
động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường
sản phẩm. Đặc biệt là nâng cao năng suất lao động trong những
ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi
sống người công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao
động.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế thì đến giai đoạn tiếp sau khi
mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối
chiếm vị trí chủ yếu.

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra do
rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng
suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư
lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ.

Hai phương pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong
giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.

9
Học thuyết giá trị thặng dư

b. Giá trị thặng dư siêu ngạch


Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương
pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí
nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hóa thấp
hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng
dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được
do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.

*Biện pháp để thu được giá trị thặng dư siêu ngạch

_ Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời đối với
từng tư bản cá biệt, nhưng đối với toàn xã hội tư bản là một
hiện tượng phổ biến và thường xuyên.

_ Những điểm chung và khác biệt giữa giá trị thặng dư siêu
ngạch và giá trị thặng dư tương đối.

Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện
tượng tạm thời, bnhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh
chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng
dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá
trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động
lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lí
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng. C.Mác gọi giá trị thặng dư
siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối
đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là
dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào
tăng năng suất lao động xã hội).

Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng
dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do
toàn bộ giai cấp của nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể
hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với
toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu
ngạch chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu

10
Học thuyết giá trị thặng dư

được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa
tư bản và lao động làm thuê, mà nó trực tiếp biểu hiện mối quan
hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực
tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động
và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động giảm giá trị của
hàng hóa.

5. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất
đó. Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Thật vậy, giá trị thặng dư – phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không,
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản –
quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động
không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà
tư bản.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng
mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị
thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi
nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng
sản xuất ra hàng hóa với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ
vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.

Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn
mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc
lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài
ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư

11
Học thuyết giá trị thặng dư

bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách
tăng cường bóc lột công nhân làm thuê, dựa trên chủ yếu các phương
tiện kỹ thuật và quản lý để tăng năng suất lao động kéo dài ngày lao
động. Quy luật giá trị thặng dư không chỉ phản ánh mục đích của tư
liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mà còn chỉ rõ
phương tiện để đạt mục đích đó (tăng cường bóc lột lao động làm
thuê).

Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về
hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó
với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân
vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn
không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp
vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy
thống trị của giai cấp tư sản.

Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, mà một bộ phận không nhỏ
công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung
túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư
bản bóc lột giá trị tư bản thặng dư. Nhưng trong điều kiện hiện nay,
sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên
khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao
động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ
hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản
phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động
sống hơn.

Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay
có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại
nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động
giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó lao động trí tuệ, lao động có trình độ
kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá
trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ
suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.

Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế
ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và

12
Học thuyết giá trị thặng dư

hàng hóa, trao đổi không ngang giá…lợi nhuận siêu ngạch mà các
nước tư bản phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy
chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những
nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành
mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản phát triển
đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn
hóa của các nước lạc hậu, chậm phát triển.

*Vai trò

_Tạo động lực cho sự vận động của chủ nghĩa tư bảm và làm tăng
những mâu thuẫn quy định sự duyệt vong của chủ nghĩa tư bản.

_Ngày nay dưới sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ làm
cho bản thân quá trình sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm
mới.

+Do dựa trên sử dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến giá trị thặng dư
được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động.

+Cơ cấu lao động ở mỗi nước tư bản phát triển có sự thay đổi lớn,
lao động trí tuệ có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết
định trong việc sản xuất giá trị thặng dư.

+Sự bóc lột của các tư bản phát triển ngày càng mở rộng ra trên
phạm vi toàn thế giới dưới các hình thức ngoại thương, xuất khẩu tư
bản.

6. Liên hệ thực tế nước ta

Từ lý luận kinh tế của Mác có thể nói: Giá trị thặng dư là giá trị do lao
động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của
họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Nhà tư bản sử dụng tính chất đặc biệt của
hàng hóa sức lao động vào mục đích tạo ra cho mình giá trị thặng dư. Chiếm
đoạt toàn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là “bóc lột ”
giá trị thặng dư. Đó là nói chung, còn cụ thể, trong quá trình sản xuất, hành
vi “bóc lột” giá trị thặng dư được nhà tư bản thực hiện bằng các phương
pháp khác nhau: sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị
thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian của ngày lao động, rút
ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm và tăng tương

13
Học thuyết giá trị thặng dư

ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được một số
nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp
mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng
cách này được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.

Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị
thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm
đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống
lại sự chiếm đoạt đó. Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư về thực
chất là đấu tranh chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng
dư.

Như vậy, mục đích của cuộc đấu tranh này là nhằm giải quyết mâu thuẫn
trong bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích đấu tranh của
giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là đòi phải phân
chia các giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý, hợp tình; ngăn chặn nhà tư
bản chiếm đoạt toàn bộ các giá trị thặng dư.

Các khía cạnh liên quan đến sự sản sinh và sự chiếm đoạt giá trị thặng dư
như vừa đề cập ở trên phải được đặt gọn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa;
chúng được bảo hộ bằng nền chính trị (có khi cả quân sự nữa) của chủ nghĩa
tư bản. Quá trình sản sinh, chiếm đoạt giá trị thặng dư cũng là viên đá tảng
trong cấu trúc của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Sự chiếm đoạt giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản thường xuyên thực hiện
đối với những người sản sinh ra giá trị thặng dư được gọi là sự bóc lột. Đó
chính là sự bóc lột mà giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp công nhân
làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị
thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.

Vậy rõ ràng, bóc lột giá trị thặng dư là sản phẩm của chế độ tư bản chủ
nghĩa.  Ở đó sản xuất giá trị thặng dư  đồng nghĩa với bóc lột giá trị thặng
dư. Điều này cần đặc biệt nhấn mạnh. Ngộ nhận về điều này sẽ dẫn đến rối
loạn khi chúng ta phải luận giải để trả lời các câu hỏi: Vậy thì trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sản xuất giá trị thặng dư
không? Cái được gọi là “giá trị thặng dư” trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc về ai? Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa này sở hữu “giá trị thặng dư” có phải là
hành động bóc lột hay không? Hay nói cách khác sản xuất giá trị thặng dư

14
Học thuyết giá trị thặng dư

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có đồng nghĩa với
bóc lột không?

Sản xuất  và phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ
nghĩa xã hội hoàn toàn không giống nhau. Bởi vì “ bất kỳ một sự phân phối
nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay
những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại
là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất. Ví dụ, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của
sản xuất lại nằm  ở trong tay những kẻ không lao động, dưới hình thức sở
hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu những
điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu những yếu tố của sản
xuất được phân phối như thế thì thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu
dùng tự nó cũng do đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là
sở hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một sự
phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay.”

Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế mhiều thành phần ở nước ta, việc phân
phối trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân hay doanh nghiệp tư bản nhà
nước khác với việc phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp hiệp tác. Và  còn có bóc lột hay không  thể hiện trong chính sự phân
phối ấy, bao gồm cả phân phối điều kiện sản xuất và phân phối kết quả sản
xuất.

Trong các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp hiệp tác dựa trên chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thì kết quả sản xuất thuộc về nhà
nước và tập thể lao động của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân phối gia trị
thặng dư vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa tăng thu nhập của người
lao động, lại vừa tăng các quỹ của doanh nghiệp. Kết hợp hài hòa ba lợi ích:
Nhà nước, tập  thể và người lao động thì không còn quan hệ bóc lột nữa và
càng nhiều lợi nhuận thì cả ba lợi ích càng được tăng cao. Vì vậy trong sản
xuất hàng hóa xã hội cũng phải phấn đấu thu được nhiều giá trị thặng dư,
nhưng đối với chủ nghĩa xã hội sản xuất giá trị thặng dư không phải là quy
luật tuyệt đối.

Ở doanh nghiệp tư bản tư nhân chủ yếu dựa trên sở hữu tư bản tư nhân về
tư liệu sản xuất, công nhân chỉ sở hữu sức lao động; bởi vậy nhà tư bản chỉ
trả cho công nhân theo giá cả sức lao động, toàn bộ kết quả sản xuất thộc
quyền chi phối  của nhà tư bản. Sau khi nộp thuế nhà tư bản chiếm hữu phần
giá trị thặng dư còn lại, đó là động cơ, mục đích kinh doanh của nhà tư bản.

15
Học thuyết giá trị thặng dư

Ở đây còn tồn tại quan hệ bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng một khi chưa xây
dựng xong hoàn toàn chủ nghĩa xã hội, khi mà lực lượng sản xuất còn kém
phát triển, thì nhà nước ta vẫn phải thừa nhận sự bóc lột này là hợp pháp. Vì
vậy, một mặt nhà nước ta đòi hỏi các nhà tư bản nghiêm chỉnh tuân theo
pháp luật, tôn trọng lợi ích chính đáng của công nhân, mặt khác để khuyến
khích sự phát  triển kinh tế tư bản tư nhân, Nhà nước phải bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp của các nhà tư bản và thực thi những chính sách, nhất là chính
sách thuế, sao cho họ có thể thu được lợi nhuận thích đáng thì họ mới mạnh
dạn đầu tư để phát triển sản xuất, kinh doanh.

Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, các doanh
nghiệp tư nhân không hoàn toàn giống kinh tế tư bản tư nhân dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa và cũng không hoàn toàn chịu sự chi phối của quy luật giá trị
thặng dư. Do đó, việc thừa nhận sự tiến bộ, hợp pháp của kinh tế tư nhân và
khuyến khích nó phát triển là khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều giá trị
mới cho xã hội (làm giàu), khuyến khích sự phát triển của xã hội, chứ không
phải là khuyến khích sự bóc lột. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự khẳng định này đã góp phần
xóa bỏ mặc cảm, tháo gỡ rào cản cho kinh tế tư nhân phát triển, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Công nghiệp hoá hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
lao động với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất xã
hội cao. Thực chất công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình tạo ra những
vấn đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ phương tiện, phương
pháp, những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội.

Là một nước tiến lên xã hội chủ nghĩa chưa và không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của
giai cấp tư sản. Vì vậy chúng ta không được kế thừa tất cả tiền đề nảy sinh
một cách tự phát như những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng cũng
chỉ là nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học
thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa vượt
quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy quỹ sản
xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là vẫn là cơ sở
cho mọi sự tiến bộ xã hội về chính trị và tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và
động cơ kích thích sự tiến bộ xã hội hơn nữa…”.

16
Học thuyết giá trị thặng dư

Chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là
nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa
mặc dù có sản xuất hàng hóa. Cái thiếu của đất nước ta theo cách nói của
C.Mác không phải là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chưa trải qua sự
ngự trị của các tổ chức kinh tế xã hội theo kiểu tư bản chủ nghĩa.

Đất nước đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn
tuyệt đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế
hàng hóa sẽ tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư dù là chúng biểu hiện
những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt được mục tiêu kinh
tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn những quá trình tất yếu
mà chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh
tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua
nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa hình thành và giá trị thặng dư cũng được sản xuất ra với khối lượng
lớn lao trong sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công nghệ phát
triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi vào sản xuất với quy mô chưa từng có.
Các giai đoạn phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư của chủ
nghĩa tư bản đã diễn ra một cách tự phát và tuần tụ. Nhưng đó cũng là những
giai đoạn của một quá trình lịch sử tự nhiên mà chúng ta có thể rút ngắn chứ
không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết giá trị
thặng dư của C.Mác.

Trong hoàn cảnh đất nước hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận
dụng những tư tưởng và các nguyên lí của học thuyết giá trị thặng dư một
cách hiệu quả để đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kết quả khả quan của Việt Nam cho thấy trong những năm vừa qua nước ta
đã xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của mình, chúng ta đã đi đúng
hướng trong phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước là hoàn toàn phù hợp nhưng cũng phải khẳng định rằng Việt Nam cần
phải cố gắng hơn nữa thì mới có thể đạt được mục tiêu tới năm 2020 nước ta
căn bản trở thành nước công nghiệp.

17
Học thuyết giá trị thặng dư

KẾT LUẬN
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử
dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị
thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích động cơ thúc đẩy sự hoạt
động của mỗi nhả tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư sản. Sản xuất ra giá trị
thặng dư quả thực là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. C.Mác viết “ mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu,
là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra
giá trị thặng dư”.

Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cường bóc lột
công nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt) mà
bằng cưỡng bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất,
phát triển kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tăng cường bóc lột lao động
và kéo dài ngày lao động.

Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản. C.Mác viết “ việc tạo ra giá trị thặng dư đó là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu của quy luật này là để thu được
giá trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm
thuê và tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ.

Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn
thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm
giảm giá trị hàng hóa. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lí mà
chức năng của họ suy cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả
các nhân tố của sản xuất mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị
thặng dư.

Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho
chúng ta thấy rằng: Mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa là tạo ra tiềm lực
to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc của toàn
dân và thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, bảo vệ
vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là quá trình phấn đấu lâu dài, gian
khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận

18
Học thuyết giá trị thặng dư

những khó khăn thử thách và hy sinh cần thiết đễ vĩnh viễn đưa dân tộc ta
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Đó là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam
mong đợi và đang cố gắng. với vị trí là người làm chủ tương lai của đất nước
tôi thấy rằng chúng ta cần cố gắng hết khả năng của mình để xây dựng đất
nước ngày càng giàu đẹp hơn, có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm
châu”.

Bài tiểu luận này hi vọng đã có thể cung cấp những kiến thức cơ bản về
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản và vận dụng nó
vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Tất nhiên
trong bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những sai sót. Em hi vọng nhận
được sự góp ý của quý thầy cô để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.

19
Học thuyết giá trị thặng dư

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

20
Học thuyết giá trị thặng dư

MỤC LỤC

Lời mở đầu......................................................................................................1
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong xã hội tư bản............................2
1.Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư ................................................................................2
a. Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng..............................................2
b. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư ............................................4
...........................................................................................................................
2. Bản chất của tư bản. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản
khả biến........................................................................................................4
a. Bản chất của tư bản........................................................................4
b.Tư bản bất biến và tư bản khả biến.................................................5
3.Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư………………….6
a. Tỷ suất giá trị thặng dư..................................................................6
b. Khối lượng giá trị thặng dư............................................................7
4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch............................................................................................................8
a. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư....................................8
b. Giá trị thặng dư siêu ngạch..........................................................10
5. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư
bản.............................................................................................................11
6. Liên hệ thực tế nước ta...........................................................................13
Kết luận........................................................................................................18
Nhận xét của giáo viên..................................................................................20
Mục lục..........................................................................................................21

21
Học thuyết giá trị thặng dư

22

You might also like